Dân tộc Êđê

pdf 9 trang ngocly 2030
Bạn đang xem tài liệu "Dân tộc Êđê", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdan_toc_ede.pdf

Nội dung text: Dân tộc Êđê

  1. Dân tộc Êđê Dân tộc Êđê Bởi: Wiki Pedia Người Ê Đê tộc danh tự gọi là Đêgar hay Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê, êgar, Ðê. Trong bia ký Champa tại Tháp Pô Yang Ana Gar đã ghi chép sự xuất hiện của tộc danh Orang Đêy tại vùng Êa Trang (Nha Trang)từ rất sớm khoảng thế kỉ 8, Orang Đêy biến âm sau này thành Rađê, Rađêy hay Êđê. cuối Trước năm 1975, tại miền nam Việt Nam người Ê Đê được gọi là Rađê. Đối với người Êđê họ tự gọi họ là ĐÊGAR hay ĐÊGA trong cụm từ Anak Đêgar (Người Con của Núi Rừng ). Ước tính hiện nay có khoảng 330.348 người Ê Đê cư trú tập trung ở tỉnh Đắk Lắk, phía nam của tỉnh Gia Lai và miền tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên của Việt Nam. Tại một số quốc gia khác, như Campuchia, Hoa Kỳ, Canada và các nước Bắc Âu cũng có một ít người Ê Đê sinh sống, song chưa có số liệu chính thức. Dân số Dân tộc Ê Đê bao gồm khoảng 330.348 người, là dân tộc có nguồn gốc từ nhóm tộc người Mã Lai (Malays) từ các hải đảo Thái Bình Dương đã có mặt lâu đời ở Đông Dương; truyền thống dân tộc vẫn mang đậm nét mẫu hệ thể hiện đậm nét dấu vết hải đảo của nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai (Malays). Các nhóm địa phương bao gồm: Adham, Bih, Blô, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Mđhur, Ktul, Kpă, Krung, Dliê, Hruê, Kah, Kdrao, Ktlê, ÊBan Nhưng không có sự khác biết lớn giữa các nhóm địa phương. 1/9
  2. Dân tộc Êđê Yang Prong hay Yang Êa H'leo trong bia kí Champa là Ya Hliêv. Ngôi tháp được xây dựng dưới Triều Đại Jaya Simhavarman III tức Chế Mân (R'čăm Mâl hay Êčăm mâl) Trong thời kì Champa và Tây Nguyên tiến hành kháng chiến Mông- Nguyên cuối thế kỉ 13 đầu thế kỉ 14. Đánh dấu sự có mặt tộc người Oràng Đêy ( Êđê và Jrai) trên cao nguyên.Được gọi là Degar Pura tức xứ sở của Núi rừng Đặc điểm kinh tế Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ, dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt còn chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải. Trên nương rẫy, ngoài cây chính là lúa còn có ngô, khoai, bầu, thuốc lá, bí, hành, ớt, bông. Đặc điểm làm rẫy của người Ê Đê là chế độ luân khoảnh, tức là bên cạnh những khu đất đang canh tác còn có những khu đất để hoang để phục hồi sự mầu mỡ. Ngày nay người Êđê gắn mình với sản xuất nông sản cây công nghiệp: cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao Nghề trồng trọt ở đây có nuôi trâu, bò, voi. Người dân ở đây còn tự làm ra đựơc đồ đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức, đồ gốm. 2/9
  3. Dân tộc Êđê Hôn nhân gia đình Trong gia đình người Ê Đê, chủ nhà là phụ nữ, theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế. Đàn ông cư trú trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái mình. Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ.Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già. Văn hóa Người Ê Đê có kho tàng văn học truyền miệng phong phú: thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các Khan (trường ca, sử thi) nổi tiếng với Khan Đam San, Khan Đam Kteh M'lan Người Ê Đê yêu ca hát, thích tấu nhạc và thường rất có năng khiếu về lĩnh vực này. Nhạc cụ có cồng chiêng, trống, sáo, khèn, Gôc, Kni, đàn, Đinh Năm, Đinh Tuốc là các loại nhạc cụ phổ biến của người Êđê và được nhiều người yêu thích. Nhà cửa Nhà sàn của người Ê Đê 3/9
  4. Dân tộc Êđê Commons có thêm hình ảnh và tư liệu khác về Nhà người Ê Đê. Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn thấp, thường dài từ 15 đến hơn 100 m tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nhà Ê Đê có những đặc trưng riêng không giống nhà của các cư dân khác ở Tây Nguyên. Là nhà của gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ. Bộ khung kết cấu đơn giản. Cái được coi là đặt trưng của nhà Ê Đê là: hình thức của cầu thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặc biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan) (tới 20 m), chiếng ché nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng, khang trang. 4/9
  5. Dân tộc Êđê Trang phục Thiếu nhi người Ê Đê Có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Y phục cổ truyền của người Êđê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc áo, quấn váy (Ieng). Đàn ông đóng khố (Kpin), mặc áo. Người Ê Đê ưa dùng các đồ trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục cà răng qui định mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không cà răng nữa. Trang phục nam Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu. Y phục truyền thống gồm áo và khố. Áo có hai loại cơ bản: 5/9
  6. Dân tộc Êđê • Loại áo dài trùm mông: Đây là loại áo khá tiêu biểu cho người Ê Đê qua trang phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài trùm mông, có xẻ tả và khoét cổ chui đầu. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe. • Loại áo dài quá gối: Đây là loại áo dài quá ngối, có khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo dài trùm mông nói trên, Khố: Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay. Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn "đại bàng dang cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm. Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ. Trang phục nữ Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục thường nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón duôn bai. Họ mang đồ trang sức bằng bạc hoặc đồng. Vòng tay thường đeo thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân. • Áo: Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông khi mặc cho ra ngoài váy. Trên nền áo màu chàm thẫm các bộ phận được trang trí là: cổ áo lan sang hai bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các đường viền kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác của trang phục áo nữ Ê Đê khác Gia rai về phong cách trang trí là không có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (áo yếm). • Váy: Đi cùng với áo của phụ nữ Ê đê là chiếc váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia công trang trí các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dưới và giữa thân bằng chỉ các màu tương tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và dưới thân váy. Có thể đây cũng là phong cách hơi khác với váy của dân tộc Gia Rai. Váy có nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia công nhiều hay ít. Váy loại tốt là myêng đếch, rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại bình thường mặc đi làm rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín. 6/9
  7. Dân tộc Êđê Tôn giáo Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành và đạo Thiên chúa . Một số ít theo Phật giáo tại các vùng đô thị. Họ thường đọc kinh cầu nguyện tại các nhà riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa nhiều. Những người theo Công giáo Rôma thì thường đến các nhà nhờ tại địa phương vào ngày chủ nhật. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng của cổ truyền, thờ cúng các thần hộ thân cho mình. Ngôn ngữ Tiếng nói Tiếng nói của người Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia (ngữ hệ Nam Ðảo). Tiếng Êđê là một ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với Tiếng Gia rai, Chăm, Malaysia, Indonêsia, Philippin. Tiếng Êđê ngày nay phát triển một âm tiết đơn lập; Đây là kết quả của sự ảnh hưởng của tiếng Mon-Khmer. Chữ viết Kinh Thánh Tân Ước Song Ngữ Êđê - Việt So với các dân tộc ít người khác tại Việt Nam, người Ê Đê là sắc dân có chữ viết theo bảng chữ cái La tinh khá sớm, người Ê Đê có chữ viết từ thập niên 1920. Các nhà truyền giáo Tin Lành đã phối hợp với các chuyên viên ngôn ngữ học tại Viện Ngôn ngữ Summer đặt chữ viết cho người Ê Đê để dịch Kinh Thánh cho dân tộc này. Năm 1971, các chuyên viên này phối hợp với Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa phát hành sách dạy tiếng Ê Đê. Năm 1979, sách dạy ngữ vựng Ê Đê được xuất bản tại Hoa Kỳ. Kinh Thánh Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt phát hành năm 2001. Năm 2006, Nhà xuất bản Tôn giáo của chính phủ Việt Nam, với sự hỗ trợ của United Bible Societies, đã phát hành 20 ngàn 7/9
  8. Dân tộc Êđê cuốn Kinh Thánh Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt tại Việt Nam. Đây là cuốn sách có số lượng phát hành nhiều nhất trong tiếng Ê Đê từ trước đến nay. Người nổi tiếng Y Bhăm Ênuôl (1923-1975) Lãnh tụ của dân tộc Đê-Ga thành lập BAJARAKA tiền thân của Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức (FULRO). Chủ trương chấm dứt phân biệt đối xử các dân tộc thiểu số và đòi độc lập cho Đê-Ga. BAJARAKA là chữ viết tắt tên bốn dân tộc chủ yếu tại Tây Nguyên: Bahnar (người Ba Na), Djarai (người Gia Rai), Rhadé (người Ê Đê) và Kaho (người Cờ Ho); Bham Enuol sinh năm 1923, dân tộc Ê-đê, sinh trưởng tại Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk. Năm 1958, Y Bham Enuol cùng một số trí thức người Thượng, thành lập tổ chức BAJARAKA . Tháng 5 năm 1958, Y Bham Ênuôl cùng 16 đại diện sắc tộc khác ký vào 2 kháng thư gởi đến tòa Đại sứ Pháp, tòa Đại sứ Hoa Kỳ, các tòa đại sứ khác tại Sài Gòn và Liên Hiệp Quốc tố cáo những hành vi phân biệt đối xử của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với các sắc tộc thiểu số; kể lại những đóng góp của các dân tộc miền núi trong việc chống lại quân phiệt Nhật, Việt Minh và Việt Cộng; yêu cầu các cường quốc can thiệp để người Thượng có một "lãnh thổ biệt lập" ("un territoire à part", nguyên văn . Tháng 9 năm 1958, sau khi BAJARAKA tổ chức nhiều cuộc biểu tình tại Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Y Bham Enuol bị bắt cùng với những lãnh tụ của phong trào BAJARAKA. Năm 1963, sau cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Y Bham Enuol được thả và được bổ nhiệm vào chức vụ phó tỉnh trưởng tỉnh Đắc Lắc. Tháng 3 năm 1964, Y Bham Enuol tham gia sáng lập và trở thành chủ tịch Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên . Năm 1964, Y Bham Enuol tham gia sáng lập và giữ chức Chủ tịch Ủy ban Chấp hành Trung ương tổ chức FULRO . Do chủ trương ôn hòa, giải quyết các vấn đề mâu thuẫn Kinh-Thượng theo phương thức hòa bình, ngày 30 tháng 12 năm 1968, Les Kosem bắt Y Bham Enuol đưa về Phnom Penh giam lỏng. Năm 1975, khi Khmer đỏ tiến chiếm Phnom Penh, Y Bham Ênuôl cùng gia đình chạy vào tòa đại sứ Pháp tị nạn. Bất chấp quy chế ngoại giao, quân Khmer đỏ tràn vào tòa đại sứ bắt tất cả những ai không phải là người Pháp, toàn thể gia đình ông Y Bham Enuol bị quân Khmer đỏ hành quyết trong sân tòa đại sứ. Y Blok Eban (1921-), Thiếu tướng, nguyên Chủ tịch UBND đầu tiên của tỉnh Đăk Lăk; Y Bih Aleo, nguyên phó chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam; Y Ngông Niê Kdăm (1922-2001), nguyên chủ tịch Hội đồng dân tộc Quốc hội Việt Nam; Y Ly Niê Kdăm (sinh 1944), Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XI, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Đăk Lăk; 8/9
  9. Dân tộc Êđê Y Jut Hwing (1888-1934), là một nhân sỹ người Êđê. Lúc nhỏ, là học sinh Trường Tiểu học Pháp – Êđê Buôn Ma Thuột, sau đó ra Huế học. Là một học sinh xuất sắc, tốt nghiệp trở về quê hương dạy cho đồng bào. Ông giỏi tiếng Pháp, kết hợp với bạn bè như Y Ut, Y BLul tìm hiểu mẫu tự La tinh và vần Êđê đặt ra bộ chữ viết Êđê ngày nay. Sau đó bộ chữ này được đốc học Angtoamaki và Sabatier tu chỉnh lại vào năm 1920. Bộ chữ sớm đã được phổ cập rộng rãi trong cộng đồng người Êđê. Đây là mẫu tự có tính khoa học rất cao, có những kí tự mà Ông sáng tạo ra không có trong hệ thống bảng chữ cái Tiếng Việt. Ngày nay các dân tộc Tây Nguyên đều sử dụng kí tự mà Thầy Y Jút đã sáng tạo ra trong việc ghi Họ Tên, gia phả dòng họ và trong Kinh sách Tôn giáo. Y Wang Mlô Aduôn Du, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Chính phủ Việt Nam. Bà H'Ngăm Niê Kdăm, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Y Moan Ênuôl (1957-2010) Moan tên đầy đủ là Y Moan Ênuôl, tên thật là Y Bliêo Ênuôl, sinh ngày 6 tháng 9 năm 1957 tại buôn M’Ðrắk (nay là huyện M’Đrắk, Đắk Lắk) trong một gia đình dân tộc Ê Đê nghèo có 7 anh em, sau chuyển về sinh sống tại buôn Dhă, xã Lạc Giao, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.Ông thành công với các nhạc sỹ sáng tác phong cách Tây Nguyên như: Trần Tiến, Nguyễn Cường, Y Phôn Ksơr, Mạnh Trí, Linh Nga, Đức Hùng, Quang Dũng, Vũ Lân, Sĩ Hùng Những ca khúc của Nguyễn Cường được Y Moan biểu diễn rất thành công như "Ơi M’Ðrắk", "Ly cà phê Ban Mê", "Anh muốn sống bên em trọn đời", Y Moan đã từng biểu diễn ở nhiều nước như Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc, Thái Lan, Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Pháp, v.v Năm 1997, Y Moan được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú; Ngày 4 tháng 8 năm 2010, Chủ tịch nước đã ký quyết định phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân vì những đóng góp cho sự nghiệp âm nhạc.Ông qua đời lúc 15 giờ 25 ngày 1 tháng 10 năm 2010 tại Buôn Ma Thuột sau một chống chọi với căn bệnh ung thư dạ dày, hưởng dương 54 tuổi. 9/9