Chánh hạnh niệm Phật vãng sanh

pdf 113 trang ngocly 2310
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chánh hạnh niệm Phật vãng sanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfchanh_hanh_niem_phat_vang_sanh.pdf

Nội dung text: Chánh hạnh niệm Phật vãng sanh

  1. PHÁP NHIÊN THƯỢNG NHÂN (Thích Nguyên Chơn soạn dịch & chú thích) * * * CHÁNH HẠNH NIỆM PHẬT VÃNG SANH (TUYỂN TRẠCH BỔN NGUYỆN NIỆM PHẬT) 1
  2. Mục Lục 01. Mục Lục. 02. Tựa. 03. Pháp Nhiên Thượng Nhân. 04. Tuyển Trạch Bản Nguyện. Niệm Phật Tập-Tựa. 05. Thiền sư Đạo Xước lập Thánh đạo môn và Tịnh độ môn, nhưng bỏ Thánh đạo mà trở về Tịnh độ. 06. Hòa-thượng Thiện Đạo lập Chánh hạnh và Tạp hạnh, bỏ Tạp để tu Chánh. 07. Đức A DI ĐÀ không lấy các hạnh khác làm bản nguyện vãng sanh, chỉ lấy Niệm Phật làm bản nguyện vãng sanh. 08. Ba hạng người niệm Phật vãng sanh. 09. Niệm Phật được lợi ích. 10. Sau một vạn năm thời Mạt pháp các hạnh đều không còn, chỉ giữ lại môn Niệm Phật. 11. Ánh sáng của Đức Phật A DI ĐÀ không chiếu đến các hành giả khác, chỉ nhiếp thọ hành giả niệm Phật. 12. Người niệm Phật nhất định phải đầy đủ ba tâm. 13. Người niệm Phật có thể thực hành pháp tứ tu. 14. Phật A DI ĐÀ và các Hóa Phật đến đón, không khen ngợi công đức thiện nghe kinh mà chỉ khen ngợi hạnh Niệm Phật. 15. Đối với tạp thiện mà khen ngợi hạnh Niệm Phật. 16. Đức Thích Tôn không phó chúc các hạnh Định thiện Tán thiện mà chỉ phó chúc hạnh Niệm Phật cho A Nan. 17. Niệm Phật nhiều căn lành, Tạp thiện ít căn lành. 18. Vô lượng các Đức Phật trong mười phương đều không chứng thực cho tạp hạnh, chỉ chứng thực cho hạnh Niệm Phật. 19. Các Đức Phật trong sáu phương đều hộ niệm hành giả Niệm Phật. 20. Đức Phật Thích Ca thiết tha phó chúc danh hiệu A DI ĐÀ cho Xá Lợi Phất. 21. Lời tựa khắc in. 2
  3. 22. Yếu nghĩa kinh Vô Lượng Thọ 23. Yếu nghĩa kinh Quán Vô Lượng Thọ. 24. Yếu nghĩa kinh A DI ĐÀ . 25. Yếu nghĩa Vãng Sanh Yếu Tập. 26. Sách tham khảo. 3
  4. Tựa Các tổ sư Tịnh Độ Trung Hoa, khởi đầu là ngài Đàm Loan đều xác định môn xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà cầu vãng sanh là pháp dễ tu (Dị hành đạo). Một chữ dễ ở đây là dễ hành trì, hợp với tất cả căn cơ trình độ, thích ứng mọi thời gian và không gian, mau chóng đạt được giai vị không lui sụt, thoát li sanh tử. Nhưng trong những người tin Phật, có bao nhiêu người tin môn Tịnh độ; trong những người tin Tịnh độ có bao nhiêu người tin được sức bản nguyện của Đức A-di-đà; trong những người tin sức bản nguyện, có bao nhiêu người chịu hành trì; trong số người hành trì có bao nhiêu người chuyên tâm, nhất niệm mà được vãng sanh? Như thế cũng tự đoán biết số người vãng sanh là rất ít vậy. Sở dĩ ít là bởi thân hành mà lòng tin không sâu, còn nhiều nghi ngờ, hoặc chấp trước. Trong đó, hoặc nghe nói quá dễ mà sanh nghi, hoặc vì tà kiến mà sanh nghi, hoặc vì không biết không hiểu mà sanh nghi, hoặc hiểu chưa sâu, chưa thấu mà chấp trước. Dù bất cứ lí do gì, hễ còn nghi, còn chấp thì còn chướng ngại. Còn chướng ngại thì khó vãng sanh. Cho nên từ xưa đến nay có rất nhiều sách được soạn ra nhằm mục đích quảng diễn để giải nghi, phá chấp cho hành giả Tịnh độ, như : Luận Vãng Sanh của ngài Thiên Thân, luận Tịnh Độ của ngài Ca Tài, luận Thập Nghi của đại sư Thiên Thai Trí Khải, Tây Phương Yếu Quyết của ngài Khuy Cơ, An Lạc Tập của ngài Đạo Xước, Tịnh Độ Hoặc Vấn của Thiên Như Duy Tắc, Quán Niệm Pháp Môn của đại sư Thiện Đạo; Vãng Sanh Yếu Tập của Nguyên Tín, Niệm Phật Bách Vấn của Ngộ Khai Nhiều sách như thế có thể đã giải tỏa những mối nghi, nhưng vẫn còn những chấp trước. Giống như Không tông nói: “Các pháp đều không”, người học liền cho là tất cả đều không, không nhân cũng không quả, rơi vào ác kiến đoạn diệt. Thiền tông nói: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”, “Tức tâm tức Phật” thì người học lại khởi tà kiến, phỉ báng kinh điển, không tu tập luật nghi. Cũng vậy, 4
  5. đối với tông Tịnh Độ, kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Nếu có chúng sanh một đời tạo ác, đến lúc sắp chết, xưng danh hiệu ta mười niệm liên tục, nếu không được sanh, ta không giữ ngôi Chánh giác”;Tịnh Độ Hoặc Vấn ghi: “Một đời tạo ác, đến lúc lâm chung niệm danh hiệu Phật A-di-đà sẽ không rơi vào địa ngục”. Có người nghe nói như thế, không những chẳng tin mà còn cho là vô lý, khởi ác kiến, chê trách phỉ báng khế kinh. Hoặc có người nghe nói như thế liền cho rằng: “Ta cứ tạo ác, đến lúc gần chết rồi niệm cũng được!”. Người này chẳng cần phải đợi sau khi chết, mà sẽ chịu khổ ngay lúc còn sống. Họ có biết đâu, Đức Phật quyết định như thế chính là thể hiện lòng từ bi vô lượng của Ngài, bao trùm hết muôn loài, không kể oán thân, không phân thiện ác. Nếu có một chúng sanh niệm danh hiệu Phật mà không được vãng sanh thì lòng từ đâu cùng khắp, bi nguyện đâu tròn! Đồng thời cũng cho chúng sanh biết năng lực diệt tội của danh hiệu Phật thật vô cùng, một danh hiệu được thành tựu từ vô lượng kiếp tu tập phước trí, tội nặng còn diệt huống gì tội nhẹ. Người một đời làm ác, nếu lúc gần chết mà may mắn gặp được bạn lành khuyên bảo, một lòng niệm Phật, nhất định được vãng sanh. Nhưng trộm nghĩ, một đời làm thiện, gặp nhiều duyên lành, bạn lành, nhưng không huân tập vào tâm danh hiệu Phật, đến lúc gần chết tự mình không thể khởi niệm, lại cũng khó gặp được người trợ niệm. Huống gì người này suốt đời tạo ác, xa lìa các duyên lành, bạn lành; chẳng hề nghe một tiếng danh hiệu Phật, đến lúc gần chết, bốn đại bức ép khiến thân thể đớn đau không chịu nổi; nghiệp ác trong một đời đã tạo, tranh nhau kéo đến khiến cho tâm thức hoảng loạn, thần trí mờ mịt, cửa ba đường mở toang trước mắt. Bấy giờ thân thì đau đớn, tâm thì hoảng loạn mịt mờ, dẫu thiện tri thức có đến thiết tha khuyên bảo đi nữa cũng không biết, không nghe; tán tâm niệm Phật còn không được, huống gì nhất tâm; một niệm còn không thể, nói gì mười niệm liên tục! Hoặc nghe nói căn bản của pháp môn cầu vãng sanh Tịnh độ Tây phương là chánh định nghiệp niệm Phật, Đức Phật chỉ phó chúc lưu truyền chánh nghiệp, không khuyên tu trợ nghiệp, rồi chấp chặt vào đó, không chịu tu các trợ nghiệp, mà chánh nghiệp cũng không 5
  6. tròn. Đúng vậy, nếu hành giả Tịnh độ tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, nhất tâm niệm Phật, buông bỏ tất cả các duyên, không màng các việc, đi đứng nằm ngồi, mọi nơi mọi lúc chỉ nhớ nghĩ đến Phật A- di-đà, thì không cần phải tu các trợ nghiệp. Bởi nhất tâm là Định, buông bỏ các duyên, không màng các việc chính là Giới, chỉ nhớ nghĩ đến Đức Phật A-di-đà chính là Quán huệ. Đầy đủ ba học như thế, thiết tha như thế, chuyên tâm nhất niệm như thế, Đức A-di-đà và các thánh không đến đón về phẩm Thượng thượng sao? Còn đối với những người tuy có đủ lòng tin nhưng không sâu, có nguyện nhưng không tha thiết, có hành nhưng không chuyên, lại chưa chịu buông bỏ các duyên, còn phải chạy đông rảo tây, bôn ba lo liệu, thì phải tu trợ nghiệp, thực hiện các việc thiện thế gian, kết nhiều duyên lành, hồi hướng công đức cầu nguyện vãng sanh. Như thế may ra lúc sắp chết sẽ có thiện hữu đến khuyến tấn, bạn đạo đến trợ niệm, khiến tâm an định mà duyên theo tiếng niệm Phật, rồi hoặc trong một niệm, hoặc mười niệm được nhất tâm không loạn. Bấy giờ Đức A-di-đà và các Thánh sẽ đến đón rước về Tây phương. Nên biết, nói dễ hành trì là dễ cho người có đầy đủ ba tâm: tâm tin sâu, tâm chí thành và tâm hồi hướng phát nguyện, chứ không phải dễ cho những người không chịu tu tập, hoặc không đủ ba tâm ấy. Chánh nghiệp là dành cho những người vạn duyên buông bỏ, nhất niệm chuyên tu chứ không dành cho những hàng đa tâm tạp tưởng. Ngài Pháp Nhiên khai sáng và hoằng dương pháp môn Tịnh Độ tại Nhật Bản. Ngài là một bậc được vua quan kính ngưỡng, đạo tục tôn sùng, nên có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội thời bấy giờ. Trong một đời giáo hóa, Ngài để lại hai tác phẩm là Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập và Hắc Cốc Thượng Nhân Ngữ Đăng Lục. Nhận thấy những lời dạy của Ngài rất cần thiết cho hành giả Tịnh độ, nên người dịch chuyển ngữ toàn bộ Bản Nguyện Niệm Phật Tập và lược dịch phần huyền nghĩa các sớ giải kinh - tập trong Ngữ Đăng Lục để xếp thành tập sách này và lấy tên là CHÁNH HẠNH NIỆM PHẬT VÃNG SANH. Để người đọc dễ dàng nắm được nội dung cơ bản tập sách trước khi xem trọn, người dịch tổng quát đại ý từng 6
  7. chương của mười sáu chương trong Bản Nguyện Niệm Phật Tập như sau: 1. Khuyên mọi người bỏ Thánh đạo môn mà quay về Tịnh độ môn: Thánh đạo cách Phật quá lâu và lý Đại thừa sâu xa khó hiểu. Như Vãng Sanh Luận Chú của sư Đàm Loan có ghi: “Luận Thập Trụ Tì-bà-sa của Bồ-tát Long Thọ nói rằng: Bồ-tát cầu A-tì-bạt-trí cần phải có Nan hành đạo (khó thực hành) và Dị hành đạo (dễ thực hành). Nan hành là do trong đời năm ác trược không có Phật xuất thế, khó cầu được A-tì-bạt-trí. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến khó đạt, ở đây lược nói năm ý mà thôi: 1. Ngoại đạo tu pháp tương tợ thiện làm rối loạn thật pháp của Bồ-tát; 2. Hàng Thanh văn tự lợi, chướng ngại lòng đại từ bi; 3. Kẻ ác không biết hổ thẹn, không kể tự tha, khinh chê bậc hiền thiện, phá hoại thắng đức; 4. Quả thiện trời người phá hoại Phạm hạnh; 5. Chỉ có tự lực, không có tha lực nhiếp hộ. Những việc như thế nơi nào cũng có. Nan hành đạo cũng giống như đi đường bộ thì khó khăn, gian hiểm. Dị hành là bởi chỉ cần với nhân duyên tin Phật, nguyện sanh Tịnh Độ, nương vào nguyện lực của Phật liền được vãng sanh cõi nước thanh tịnh. Nhờ oai lực của Phật nhiếp trì liền vào Đại thừa Chánh định tụ. Chánh định tức A-bệ-bạt-trí. Dị hành cũng giống như đi thuyền thì an vui, nhanh đến. Nan hành tức là Thánh đạo môn, Dị hành tức là Tịnh độ môn. 2. Chọn lấy Chánh hạnh mà bỏ Tạp hạnh: Chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chẳng kể đi đứng nằm ngồi, chẳng luận thời gian lâu mau, niệm niệm miên mật không buông bỏ, không gián đoạn. Đó gọi là Chánh định nghiệp vì thuận với bản nguyện của Phật A-di- đà. Nếu niệm niệm liên tục, lấy chết làm kỳ hạn, thì mười người tu mười người vãng sanh, trăm người tu trăm người vãng sanh. Vì sao? Vì không có tạp duyên nên được chánh niệm, tương ứng với bản nguyện của Đức Phật, không trái giáo Tịnh độ, thuận theo lời Phật. Nếu bỏ Chuyên tu mà theo Tạp tu thì trăm người không được một, ngàn người chẳng được năm, ba. Vì sao? Vì tạp duyên loạn động 7
  8. làm mất chánh niệm, không tương ứng với bản nguyên của Phật, trái với giáo Tịnh độ, không thuận theo lời Phật; lại do niệm không liên tục, tâm có gián đoạn, hồi hướng phát nguyện không khẩn thiết và chân thật, các phiền não tham sân đến làm gián đoạn, không có tâm hổ thẹn để sám hối, không luôn luôn nghĩ đến việc báo Đáp ân Phật. Lại còn khởi tâm khinh mạn, tuy tu tập mà luôn chạy theo danh lợi, tâm nhân ngã che mờ, khiến không thể gần gũi bạn lành đồng hạnh đồng tu; thích gần gũi tạp duyên, làm chướng ngại chính mình và chướng ngại người khác. 3. Đức A-di-đà không lấy các hạnh khác làm bản nguyện vãng sanh, chỉ lấy Niệm Phật làm bản nguyện vãng sanh: Niệm Phật dễ tu, nên dành chung cho tất cả căn cơ, còn các hạnh khác khó hành, nên không bao trùm các loại. Vậy Đại Thánh muốn khiến chúng sanh bình đẳng vãng sanh, nên bỏ khó chọn dễ làm bản nguyện. Nếu lấy việc tạo tượng, xây tháp làm bản nguyện, thì những người nghèo hèn, khốn khổ ắt hết hy vọng vãng sanh, nhưng người giàu sang thì ít, kẻ nghèo hèn thì nhiều. Nếu dùng tài cao, trí tuệ làm bản nguyện, thì kẻ ngu độn, trí kém tuyệt đường vãng sanh, nhưng kẻ ngu độn thì nhiều, người có trí tuệ lại ít. Nếu lấy nghiệp học rộng hiểu nhiều làm bản nguyện, thì kẻ ít học ít biết hết hy vọng vãng sanh, nhưng người học rộng thì ít, kẻ ít học thì nhiều. Nếu lấy trì giới, trì luật làm bản nguyện thì kẻ phá giới, không giới nhất định hết hy vọng vãng sanh, mà người trì giới thì ít, kẻ phá giới, không giới thì nhiều. Tất cả các hạnh khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được. Nếu dùng các hạnh khác làm bản nguyện thì rất ít người được vãng sanh. Tì-kheo Pháp Tạng khi xưa phát khởi lòng từ bi, vì nhiếp thủ tất cả, nên không dùng các hạnh xây tháp, tạo tượng làm bản nguyện, chỉ lấy niệm Phật làm bản nguyện. 4. Ba hạng người niệm Phật vãng sanh: Bậc thượng, gồm những người xuất gia làm Sa-môn, phát tâm bồ-đề, một lòng chuyên niệm danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ, tu tập các công đức, nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. Bậc trung, gồm những trời người trong 8
  9. các thế giới ở mười phương, một lòng nguyện sanh, dù không thực hành hạnh sa-môn, tu tập các công đức, nhưng phát tâm Vô thượng bồ-đề, chí tâm niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, hồi hướng tất cả những công đức có được (từ việc thực hành các điều thiện như giữ gìn trai giới, xây dựng chùa tháp, tạo lập tôn tượng, cúng dường sa- môn, treo phan đốt đèn, thắp hương rải hoa) nguyện sanh về cõi ấy. Bậc hạ, gồm những trời người trong các thế giới ở mười phương, chí tâm muốn sanh vào nước ấy. Giả sử họ không thể tạo các công đức, nhưng phát tâm Vô thượng bồ-đề, một lòng niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, dù chỉ mười niệm hay chỉ một niệm, với tâm chí thành nguyện sanh về nước ấy, nghe pháp sâu xa vui vẻ tin thích, không nghi ngờ. 5. Khen ngợi công đức Niệm Phật: Công đức niệm Phật là vô thượng, thì một niệm là một vô thượng, mười niệm là mười vô thượng, trăm niệm là trăm vô thượng, ngàn niệm là ngàn vô thượng. Cho đến lần lượt tăng tiến từ ít đến nhiều, đến hằng sa niệm Phật, vô thượng công đức cũng hằng sa. Vậy những người nguyện cầu vãng sanh, sao lại bỏ niệm Phật có lợi ích lớn vô thượng mà lại cưỡng tu các hạnh có lợi ích hữu thượng? 6. Sau một vạn năm thời Mạt pháp các hạnh đều không còn, chỉ giữ lại môn Niệm Phật: Trong kinh chỉ nói giữ lại kinh này một trăm năm, chứ đâu nói giữ môn Niệm Phật một trăm năm. Vì sao ở đây lại nói là giữ môn Niệm Phật? Đáp: Toàn bộ nội dung kinh này đều nói đến niệm Phật, nên kinh này trụ thế, tức là môn Niệm Phật trụ thế vậy. Vì sao? Vì kinh này tuy nói đến phát tâm Bồ-đề, nhưng chưa nói hành tướng của tâm ấy; tuy nói đến trì giới, nhưng chưa nói hành tướng của trì giới. Về hành tướng của tâm Bồ-đề, thì trong kinh Bồ-đề Tâm trình bày rất đầy đủ. Kinh ấy, trước nói diệt các hành của tâm Bồ-đề, vậy nhờ vào đâu để tu? Còn về hành tướng của trì giới thì được nói rõ trong giới luật Đại Tiểu thừa. Giới luật ấy, trước diệt các hành trì giới, vậy nhờ 9
  10. vào đâu để tu? Các hạnh khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được. Theo hòa-thượng Thiện Đạo thì kinh này nói về bản nguyện niệm Phật vãng sanh của Đức Phật A-di-đà, cho nên Đức Thích-ca từ bi vì giữ môn Niệm Phật mà đặc biệt giữ lại kinh này. Các kinh khác chưa nói đến bản nguyện niệm Phật vãng sanh của A-di-đà Như lai, cho nên Đức Thích-ca từ bi không giữ lại. 7. Ánh sáng của Đức Phật A-di-đà không chiếu đến các hành giả khác, chỉ nhiếp thủ hành giả niệm Phật: Chúng sanh khởi hạnh tu tập, miệng thường tụng danh hiệu Phật, Phật liền nghe; thân thường lễ Phật, Phật liền thấy; tâm thường niệm Phật, Phật liền biết. Chúng sanh nhớ nghĩ đến Phật, Phật cũng nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của chúng sanh và Phật không lìa nhau, cho nên ánh sáng của Đức A-di-đà nhiếp thủ. Đồng thời người niệm Phật chính là hợp với bản nguyện Phật, cho nên ánh sáng Đức Phật nhiếp thủ. 8. Người niệm Phật nhất định phải đầy đủ ba tâm: Người quyết định muốn sanh về nước kia, cần phải đầy đủ ba tâm: Một, tâm chí thành, tức tất cả những hạnh tu tập như: thân lễ bái, miệng khen ngợi, ý chuyên niệm và quán tưởng Đức Phật A-di-đà đều phải chân thật. Hai, thâm tâm tức là tâm chân thật tin sâu, tin biết tự thân là phàm phu đầy dẫy phiền não, căn lành cạn mỏng, mãi lưu chuyển trong ba cõi, không có ngày thoát ra. Nay tin biết bản thệ nguyện của Đức Phật A-di-đà và xưng danh hiệu Ngài mười tiếng hay một tiếng, nhất định được vãng sanh, cho nên gọi là tâm chân thật tin sâu. Ba, tâm hồi hướng phát nguyện, tức hồi hướng tất cả căn lành có được cầu nguyện vãng sanh. Đầy đủ ba tâm này, nhất định vãng sanh, thiếu một cũng không được sanh, như Quán Kinh đã nói. Ba tâm vừa nêu trên là điều kiện chí yếu của người tu Tịnh độ. 9. Người niệm Phật có thể thực hành pháp tứ tu: 10
  11. - Cung kính tu: tức cung kính lễ bái Đức Phật A-di-đà và tất cả các bậc Thánh. Lấy cái chết làm kỳ hạn, thệ không bỏ nửa chừng chính là trường thời tu. - Vô dư tu: tức chuyên xưng, chuyên niệm, chuyên nghĩ tưởng, chuyên lễ bái, chuyên khen ngợi Đức Phật A-di-đà và các bậc Thánh, không xen các hành nghiệp khác. Lấy cái chết làm kỳ hạn, thệ không bỏ nửa chừng chính là trường thời tu. - Vô gián tu: tức liên tục cung kính, lễ bái, xưng danh, khen ngợi, nhớ nghĩ, quán sát, hồi hướng phát nguyện, tâm tâm nối tiếp, không cho các việc khác xen vào; không để các niệm tham sân phiền não đến làm gián đoạn, hễ phạm liền sám hối, không để cách niệm, cách giờ, cách ngày, thường luôn thanh tịnh. Lấy cái chết làm kỳ hạn, thệ không bỏ nửa chừng chính là trường thời tu. 10. Phật A-di-đà và các Hóa Phật đến đón, không khen ngợi công đức thiện nghe kinh mà chỉ khen ngợi hạnh Niệm Phật: Công đức thiện nghe kinh chẳng phải là Chánh nghiệp mà thuộc về Trợ nghiệp, cho nên Hóa Phật và Hóa Bồ-tát không khen ngợi. Hạnh Niệm Phật là thuộc Chánh nghiệp, nên Hóa Phật khen ngợi. 11. Khen ngợi hạnh Niệm Phật: Người niệm Phật như hoa Phân-đà-lợi, người niệm Phật là người tốt nhất trong đời, là người diệu tuyệt trong đời, là người tối thượng trong đời, là người hiếm có trong đời, người tối thắng trong đời. 12. Đức Thích Tôn không phó chúc các hạnh Định thiện-Tán thiện, mà chỉ phó chúc hạnh Niệm Phật cho A-nan: Chủ ý trong bản nguyện của Đức Phật là nhằm khuyên chúng sanh một bề chuyên ròng xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà để được vãng sanh, mà hai thiện Định và Tán không phải là bản nguyện, cho nên không phó chúc. Quán Phật Tam-muội tuy rất thù thắng, nhưng cũng chẳng phải là bản nguyện, cho nên cũng không phó chúc. Niệm Phật Tam- muội là bản nguyện Phật, nên được phó chúc. Nói bản nguyện, tức là 11
  12. nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện, kinh Vô Lượng Thọ. 13. Niệm Phật nhiều căn lành, Tạp thiện ít căn lành: Không thể với nhân duyên một ít phước đức căn lành mà được sanh về nước kia. Tức những người tu tạp hạnh khó sanh về. Không chỉ có nghĩa nhiều ít mà còn có nghĩa lớn nhỏ, nghĩa hơn và kém. Tức tu Tạp thiện thì căn lành nhỏ, tu niệm Phật thì căn lành lớn; tu Tạp thiện thì căn lành kém, tu niệm Phật thì căn lành thù thắng. 14. Vô lượng các Đức Phật trong mười phương đều không chứng thực cho tạp hạnh, chỉ chứng thực cho hạnh Niệm Phật: Các Đức Phật trong mười phương sợ chúng sanh không tin lời của Đức Phật Thích-ca, nên liền đồng tâm, đồng thời, mỗi mỗi hiện tướng lưỡi che phủ cả ba ngàn đại thiên thế giới nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi nên tin lời Phật Thích-ca nói, khen ngợi và chứng thực”. Tất cả phàm phu, không luận là kẻ gây tội, người tạo phước hoặc nhiều hoặc ít, thời gian tu tập lâu hay mau, chỉ cần lâu thì trọn đời, mau thì từ một ngày, bảy ngày nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nhất định sẽ được vãng sanh. 15. Các Đức Phật trong sáu phương đều hộ niệm hành giả Niệm Phật: Nếu có chúng sanh trong bảy ngày bảy đêm cho đến trọn đời, một lòng chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nguyện vãng sanh, người này luôn được vô lượng Đức Phật trong sáu phương đến hộ niệm. Lại hộ niệm không để cho ác quỉ thần thừa dịp làm hại, cũng không để vô cớ sanh bệnh, chết oan, gặp nguy hiểm, tất cả tai họa tự nhiên tiêu trừ, không bao giờ đến với thân tâm. 16. Đức Phật Thích-ca thiết tha phó chúc danh hiệu A-di-đà cho Xá-lợi-phất. Kính xin những người thấy nghe hãy chọn ý hay, bỏ lời dở, tin theo Phật, Tổ, chuyên tu hai nghiệp Chánh-Trợ để mai sau đạt được phẩm vị cao nơi Tây phương Tịnh độ. 12
  13. Tháng 6 năm Đinh Mùi – PL 2551 (2007) Thích Nguyên Chơn kính ghi 13
  14. Pháp Nhiên Thượng Nhân (1133-1212) Sư là khai tổ tông Tịnh Độ Nhật Bản, người ở Nam Điều, Cửu Mễ thuộc Mĩ Tác (huyện Cương Sơn ngày nay), họ Tất Gian, sanh vào ngày mồng 7 tháng 4 năm Trường Thừa thứ 2 (1133). Tăng tục thời bấy giờ tôn xưng Sư là Pháp Nhiên thượng nhân, Cát Thủy đại sư, Cát Thủy thánh nhân, Hắc Cốc thượng nhân. Lúc nhỏ, Sư tên là Thế Chí Hoàn, tổ tiên nhiều đời đều là hào phú. Vào niên hiệu Bảo Diên thứ 7 (1141), cha Sư gặp họa bị thảm sát. Lúc sắp qua đời, có di ngôn bảo Sư lìa tục xuất gia. Đến năm 15 tuổi (có thuyết cho là 13 tuổi), Sư lên Tỉ Duệ sơn lễ ngài Nguyên Quang cầu xuất gia. Sau đó, Sư vào làm môn hạ ngài Hoàng Viên, nỗ lực nghiên cứu giáo nghĩa Thiên Thai. Đến năm Cửu An thứ 7 (1151), vì quyết chí ẩn tu, nên Sư vào làm môn hạ ngài Duệ Không Từ Nhãn Phòng thuộc Hắc Cốc ở Tây Tháp học Viên đốn giới và tông nghĩa bí mật. Duệ Không là môn đồ của Lương Nhẫn1 , lại rất thông đạt giáo nghĩa Viên giới2 và Chân ngôn. Ngài Duệ Không ban cho Sư pháp danh là Nguyên Không, hiệu là Pháp Nhiên. Nơi đây, Sư chuyên học tập kinh luận, đồng thời đến vùng Nam Đô tham cứu yếu chỉ các tông. Các danh tăng kiệt xuất thời bấy giờ như Tạng Tuấn ở chùa Hưng Phước thuộc tông Chân Ngôn, Khoan Nhã chùa Đề Hồ thuộc tông Tam Luận, Thật Phạm chùa Trung Xuyên thuộc tông Chân Ngôn Giới Luật, Khánh Nhã chùa Nhân Hoà thuộc tông Hoa Nghiêm đều cho Sư có căn khí bất phàm, nên truyền trao toàn bộ sở học của mình. Người đương thời gọi Sư là “Trí Tuệ Đệ Nhất Pháp Nhiên Phòng”. Từ nơi ngài Duệ Không, Sư đã được truyền thọ Vãng Sanh Yếu Tập của Tăng đô3 Nguyên Tín4 và Phật Lập tam-muội5. Nhưng khi 1 Lương Nhẫn (1072-1132) : Khai tổ tông Dung Thông Niệm Phât, gổ trung hưng dòng Thanh Minh Thiên Thai. Sư người Tri Đa, Vĩ Trương, Nhật Bản, hiệu là Quang Tinh Phòng. Sáng lập viện Lai Nghinh và viện Tịnh Liên Hoa để hoằng dương Phật pháp. 2 Viên giới: giới pháp Đại thừa viên đốn của tông Thiên Thai. 3 Tăng đô: chức Tăng quan quản lý Tăng ni được lập vào thời nhà Bắc Ngụy, địa vị dưới Tăng chánh và Tăng thống. 14
  15. đọc đến đoạn “nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà” trong phần Tán Thiện Nghĩa, Quán Kinh Sớ của đại sư Thiện Đạo, Sư mới có chỗ tỉnh ngộ. Năm Nguyên An thứ nhất (1175), lúc 43 tuổi, Sư buông bỏ tất cả mọi việc, dốc tâm lực thành lập “Nhất Hướng Chuyên Tu tông”. Năm Văn Trị thứ 2 (1186), Tọa chủ6 Tỉ Duệ sơn là Hiền Chân muốn mời Sư luận biện về đạo lý “Xuất ly cõi uế”. Đến mùa Thu năm ấy, danh tăng thạc đức các tông phái nhóm họp tại viện Thắng Lâm vùng Đại Nguyên để cùng với Sư luận tranh pháp nghĩa. Người thời bấy giờ gọi cuộc luận nghĩa này là “Đại Nguyên đàm nghĩa” hay “Đại Nguyên vấn Đáp”. Sau đó, Hiền Chân đã lập đạo tràng Nhất Hướng Xưng Danh tại viện, hành trì pháp môn Niệm Phật, không gián đoạn. Cao tăng các tông phái khác như Tĩnh Nghiêm, Chứng Chân, Từ Viên, Lương Khoái, Minh Thiền, Công Dận, Minh Biến, Tĩnh Biến, Trinh Khánh lần lượt qui hướng tông này, tăng tục cá nước cũng cùng theo về tu tập. Từ đó, giáo nghĩa Tha lực vãng sanh được truyền khắp, từ thành thị cho đến thôn quê. Đằng Nguyên Kiêm Bạch rất kính trọng đức độ của Sư, nên nỗ lực hộ trì. Ba vị Thiên hoàng là Bạch Xuyên, Cao Thương, Hậu Điểu Vũ và các vị Thiên hậu là Thượng Tây, Nghi Thu, Tu Minh đều cầu Sư truyền giới. Năm Kiến Cửu thứ 9 (1198), nhận lời thỉnh của Đằng Nguyên Kiêm Thật, Sư soạn Tuyển Trạch Tập, An Khang ghi chép (sau thay Cảm Tây), Chứng Không hiệu đính. Phương thức bố giáo của Sư khác với truyền thống Nhật Bản, tức không phân biệt giàu nghèo, sang hèn tất cả đều cho phép tham dự pháp hội Niệm Phật do Sư đề xướng. Do đó phong trào niệm danh hiệu Phật rất hưng thạnh. Nhưng cũng từ đây mà dẫn đến sự tị hiềm của tăng sĩ ỡ hai vùng Nam 4 Nguyên Tín (942-1017): khai tổ dòng Huệ Tâm, tông Thiên Thai, người Đại Hòa. Sư có soạn Vãng Sanh Yếu Tập, nội dung để xướng pháp Quán niệm niệm Phật của tông Thiên Thai và pháp Xưng danh hiệu Phật của ngài Thiện Đạo. 5 Phật Lập Tam-muội: tức Bát-chu Tam-muội. Khi tu tập thành tựu môn tam-muội này, hành giả sẽ thấy các Đức Phật trong mười phương hiện đến đứng trước mặt. 6 Tọa chủ: vị trụ trì một chùa viện; vị tăng từ phương xa đến tham vấn; vị chủ quán một ngôi chùa lớn tại Nhật Bản, phần nhiều do triều đình bổ nhiệm. 15
  16. Bắc. Về sau có người tâu về triều đình, cho rằng tông này chủ trương giáo nghĩa “Phàm phu được vãng sanh” mà xem thường giới luật, bài xích các tông khác. Yêu cầu cấm tông Niệm Phật lưu hành. Bấy giờ Sư soạn Khởi Thỉnh Văn gồm bảy điều, rồi cùng với hơn tám mươi đệ tử đồng ký tên gởi lên Duệ sơn. Cũng trong thời gian này, các vị An Lạc, Trụ Liên sáng lập hội Biệt Thời Niệm Phật tại Lộc Cốc. Trong số các cung nữ của Thượng hoàng Hậu Điều Vũ, có người không kềm nổi ý muốn xuất ly trần tục, nên tự ý đến hội Niệm Phật cạo tóc xuất gia. Nhân việc này, có người sàm tấu Thượng hoàng rằng đệ tử Pháp Nhiên tự ý độ cung nữ xuất gia. Thượng hoàng vô cùng phẫn nộ, nên vào tháng hai, năm Thừa Nguyên thứ nhất (1207), triều đình xứ Trụ Liên và An Lạc tội chết, đổi tên của Sư thành Đằng Tĩnh Nguyên Ngạn và đày đến Thổ Tá (huyện Cao Tri ngày nay), bấy giờ Sư đã 75 tuổi. Nhưng Sư lại cho đây là cơ hội tốt để truyền bá giáo pháp nơi biên địa. Sư trụ tại Tán kì (huyện Hương Xuyên) hơn mười tháng, đến tháng 12 cùng năm thì được ân xá, nhưng không cho về kinh. Vì thế Sư trụ tại chùa Thắng Vĩ, Nhiếp Tân (nay là vùng Binh Khố và Đại Phản). Hơn bốn năm sau, vào năm Kiến Lịch thứ nhất (1211), Sư vào kinh, trụ tại Đại Cốc. Vào ngày 25 5háng Giêng năm sau (1212), Sư nằm, đầu quay về Bắc, mặt hướng về Tây, niệm danh hiệu Phật A-di- đà, âm thanh thật trong và rõ ràng mà thị tịch, thọ tám mươi tuổi. Các đời Thiên hoàng về sau đều có ban cho Sư các thụy hiệu7: Viên Quang đại sư, Đông Tiệm đại sư, Huệ Thành đại sư, Hoằng Giác đại sư, Từ Giáo đại sư. Những trước tác của Sư gồm có: Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập, Vô Lượng Thọ Kinh Thích, A-di-đà Kinh Thích, Hắc Cốc Thượng Nhân Tập. 7 Thụy hiệu: tên của một người được vua ban tặng sau khi mất. Tên này được đặt căn cứ theo công nghiệp và đức hạnh lúc còn sống. 16
  17. Đệ tử của Sư rất nhiều, trong đó có các vị nổi tiếng như: Hạnh Tây, Biện Trưởng, Long Khoan, Chứng Không, Trường Tây, Thân Loan8. (Trích dịch từ Trung Quốc Phật Giáo Bách Khoa Toàn Thư ) 8 Thân Loan (1173-1262): khai tổ Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản, họ Đằng Nguyên, người ở Kyoto. Sự tự là Ngu Ngốc Thân Loan, thụy là Kiến Chân đại sư. Sư có các tác phẩm: Giáo Hành Tín Chứng, Ngu Ngốc Sao, Nhất Niệm Đa Niệm Văn Ý lưu hành ở đời. 17
  18. TUYỂN TRẠCH BẢN NGUYỆN NIỆM PHẬT TẬP Tựa Tạng nhân đầu Tùng tam vị Hành tả đại biện kiêm Binh bộ khanh Bình Triều, thần Cơ Thân soạn. Giáo môn chuyên xưng niệm Nam-mô là con đường chính, đưa thẳng đến cõi Tây. Đó không chỉ là lời của Đức Bổn sư Thích-ca mà cũng là bản nguyện của Đức Từ phụ A-di-đà. Lời, một ngày, hai ngày chấp trì danh hiệu, các Đức Phật đồng hiện tướng lưỡi rộng dài xác chứng; nghĩa, mười tiếng, một tiếng nhất định được vãng sanh, chúng sanh khắc ghi trong tâm tủy. Đại sư của ta, hòa-thượng Nguyên Không có một tác phẩm tên là Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập, thật là phương tiện để vượt qua biển khổ, cũng là ánh linh quang chiếu sáng đêm dài tăm tối. Người không tu ba học9 mà cắt đứt bốn dòng10 , thì mật ý hoằng nguyện ở đây đã rõ. Phật dùng một hạnh mà cứu giúp vạn loài, thì bản hoài đại bi mới hiển. Hạnh tùy phạm tùy sám (hễ phạm liền sám hối), há chẳng phải là tự lực, pháp dễ tu dễ đến, thật phải nương vào tha lực sao? Chẳng vào môn này, đâu thể đến được bờ kia! Chúng ta hôm nay thật may mắn làm sao! Gặp được linh điển này, vạn kiếp mới được nghe thì đâu tiếc gì thân mạng! Tuy nhiên, pháp định huệ ngưng lắng siêu việt của hành giả tu bí mật đàn là pháp quán tức thân11 , thật khó thành; môn trì giới, đa văn cần tinh tấn của học giả Đại-Tiểu-thừa, là pháp tùy tâm cũng thật khó đạt. Chỉ có pháp Niệm Phật cầu vãng sanh, tất cả đạo 9 Ba học: ba môn mà người tu tập Phật đạo cần phải học: giữ giới, tu tập thiền định, trí huệ thấu suốt tướng chân thật của các pháp. 10 Bốn dòng: bốn dòng thác mạnh, dụ cho bốn món phiền não cuốn trôi, nhận chìm chúng sanh trong cõi sanh tử. Đó là: Dục lưu, tức là năm dục sắc, thanh, hương, vị, xúc; Hữu lưu, tức là các phiền não tham, mạn, nghi trong cõi Sắc và Vô Sắc; Kiến lưu, các kiến giải sai lầm; Vô minh lưu, tức những phiền não tương ứng với si. 11 Pháp quán Tức thân: quán thành Phật ngay nơi thân này, là chủ trương của tông Chân Ngôn. 18
  19. tục đều qui hướng . Thật vui thay! Được trời thần ủng hộ, nên mạng mạch của giáo pháp đời trược ác sớm lưu thông. Thật hợp thời thay! Vua quan cảm kích, nên vận tốt của giáo môn Tịnh Độ phát triển mạnh. Do đó, tuy biết lời văn “chôn kỹ nơi chân tường”12 , nhưng vẫn vui vẻ cho khắc bản lưu thông. Ô hô! Năm ngàn lời của Huyền Nguyên Thánh tổ13 , Lịnh Doãn sớm biên thành hai thiên Thượng-Hạ14 ; mười sáu chương Tuyển Trạch Bản Nguyện, môn đồ hưởng được lợi ích biên tập. Lòng nhớ ân đức người xưa và người nay đâu khác! Tháng 11 (tháng Kiến Tí) năm Tân Mùi, kính ghi để truyền mãi đời sau. 12 Xem lời bạc cuối sách. 13 Huyền Nguyên Thánh tổ: tôn hiệu của Lão Tử. 14 Hai thiên Thượng-Hạ: chỉ cho bộ Đạo đức kinh của Lão Tử gồm năm ngàn lời, được phân làm hai thiên thượng và hạ. 19
  20. TUYỂN TRẠCH BẢN NGUYỆN NIỆM PHẬT TẬP Nguyên Không Pháp Nhiên Thượng Nhân soạn Thích Nguyên Chơn dịch Nam-mô A-di-đà Phật Niệm Phật là phương pháp tối thắng cầu vãng sinh cõi Tịnh. I. Thiền sư Đạo xước15 lập Thánh đạo môn và Tịnh độ môn, nhưng bỏ Thánh đạo mà trở về Tịnh độ. TRÍCH DẪN An Lạc Tập16 , quyển thượng ghi: “Hỏi: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, lẽ ra từ bao kiếp lâu xa đến nay đã gặp nhiều Phật, vì sao đến hôm nay vẫn còn luân hồi trong sanh tử, chưa thoát khỏi nhà lửa 17? Đáp: Theo Thánh giáo Đại thừa, do chúng sanh không có được hai pháp tôn quí; Thánh đạo và Tịnh độ để dứt trừ sanh tử, nên không thể ra khỏi nhà lửa. Đời nay, nếu thực hành theo Thánh đạo môn rất khó chứng ngộ, bởi cách Phật quá lâu và nghĩa lý sâu xa, khó hiểu. Cho nên kinh Đại Tập Nguyệt Tạng18 ghi: “Trong thời mạt pháp của ta, vạn vạn chúng sanh khởi hạnh tu tập, nhưng không ai chứng ngộ”. 15 Đạo Xước: tổ thứ hai tông Tịnh Độ Trung Quốc, sống vào thời nhà Đường, người ở Văn Thủy, Tinh Châu, sinh năm 562, thị tịch năm 645, là người kế thừa tư tưởng Tịnh độ của Đàm Loan. 16 An Lạc Tập: một tác phẩm quan trọng của tông Tịnh Độ do ngài Đạo Xước soạn, gồm 2 quyển. Nội dung nói về những yếu nghĩa của giáo vãng sanh Tịnh độ. 17 Nhà lửa: dụ cho ba cõi sanh tử. Trong đó lửa dụ cho năm trược đốt cháy chúng sanh; nhà dụ cho ba cõi. 18 kinh Đại Tập Nguyệt Tạng: gồm 10 quyển, do ngài Na-liên-đề-da-xá dịch vào đời Tùy, Trung Quốc, được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập 13. Nội dung kể về những việc Đức Phật ở tại núi Khư-la-đề thuyết pháp độ Tỳ-kheo, Bồ-tát, trời rồng, a-tu-la, Ma vương Ba-tuần 20
  21. Nay đúng vào đời năm trược ác19 thời mạt pháp, chỉ có môn Tịnh độ mới là con đường giúp tất cả chúng sanh vào đạo. Cho nên Đại kinh20 ghi: “Nếu có người một đời tạo ác, lúc lâm chung niệm danh hiệu ta liên tục mười niệm mà không được vãng sanh, ta sẽ không thành Chánh giác”. Hơn nữa, chúng sanh không tự suy xét, đối với Đại thừa thì chưa từng chuyên tâm nơi Đệ nhất nghĩa không, chân như thật tướng; đối với Tiểu thừa thì chưa từng tu tập đoạn năm kiết dưới21, trừ năm kiết trên22 để vào Kiến đế tu đạo23 cho đến chứng A-na-hàm24 , A-la- hán25 , còn đối với phước báo trời người thì hiếm có người giữ được năm giới cấm, mười điều thiện. Nhưng nói về làm ác, tạo tội thì khác nào gió táp mưa sa! Do đó, các Đức Phật khởi lòng đại bi, khuyên chúng sanh trở về cõi Tịnh. Dẫu có một đời tạo ác, nhưng luôn chuyên tinh niệm Phật, ắt các chướng26 tự trừ, nhất định được vãng sanh. Như thế, sao không suy nghĩ kỹ mà hướng tâm về. LUẬN RẰNG27 Trộm nghĩ, tùy theo chủ trương của mỗi tông mà lập giáo nhiều hay ít để phán định giáo pháp trong một đời của Đức Phật. Như tông 19 Năm trược ác : năm trạng thái sanh tồn thấp kém xảy ra vào thời mạt pháp, hoặc chỉ cho năm loại vẩn đục khởi lên vào kiếp giảm theo quan niệm của Phật giáo. Đó là: kiếp trược, vào kiếp giảm tuổi thọ chúng sanh ngắn dần, nhiều tai họa nổi lên; Kiến trược, chánh pháp suy tồn, tà pháp, tà kiến tăng mạnh; Phiền não trược, chúng sanh đầy dẫy ái dục, tham lam đấu tranh, dối trá dua nịnh Chúng sanh trược, tức chúng sanh xấu ác, không tạo công đức, không hiếu kính cha mẹ, không sợ nghiệp báo ác Mạng trược, tức thọ mạng của chúng sanh ngắn ngủi, không quá trăm năm. 20 Đại kinh: tức kinh Vô Lượng Thọ. 21 Năm kiết dưới: năm món phiền não trói buộc chúng sanh trong cõi Dục: tham dục, sân khuể, hữu thân kiến, giới cấm thủ kiến và nghi. 22 Năm kiết trên: năm món phiền não trói buộc chúng sanh trong cõi Sắc và Vô sắc: sắc ái, vô sắc ái, trạo cử, mạn và vô minh. 23 Kiến đế tu đạo: chứng đắc chân lý, đạt quả từ Dự lưu đến A-na-hàm hướng. 24 A-na-hàm: quả vị thứ ba trong bốn quả Thanh văn. 25 A-la hán: quả vị cuối cùng trong bốn quả Thanh văn. 26 Chướng: ngăn che, tên gọi khác của phiền não, tức phiền não ngăn che Thánh đạo. 27 Luận rằng: lời giải thích của ngài Pháp Nhiên. 21
  22. Hữu tướng thì lập ba thời là Hữu giáo28, Không giáo29 và Trung đạo giáo30 . Tông Vô tướng thì lập hai tạng là Bồ-tát tạng và Thanh văn tạng. Tông Hoa Nghiêm31 thì lập năm thời là Tiểu thừa giáo, Thỉ giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo, gồm thâu tất cả các giáo. Tông Pháp Hoa thì lập bốn giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên và năm vị là sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ để gồm thâu tất cả giáo. Tông Chân Ngôn32 thì lập hai giáo là Hiển và Mật. Còn tông Tịnh Độ, thiền sư Đạo Xước lập hai môn là Thánh đạo môn và Tịnh Độ môn để phán định giáo pháp trong một đời của Đức Phật. Hỏi: Về tên gọi các tông, chỉ có tám tông hoặc chín tông như Hoa Nghiêm, Thiên Thai chứ chưa nghe nói có tên tông Tịnh Độ. Nay nói tông Tịnh Độ là căn cứ vào đâu? Đáp: Về căn cứ để lập tên tông Tịnh Độ thì rất nhiều. Như trong bộ Du Tâm An Lạc Đạo của sư Nguyên Hiểu ghi: “Bản ý của tông Tịnh Độ gồm cả phàm phu và thánh nhân”; Tây Phương Yếu Quyết33 của đại sư Từ Ân34 ghi: “Y cứ vào Tông này ”; Luận Tịnh Độ của ngài Ca Tài35 ghi: “Một Tông này chính là con đường thiết yếu ”. Văn minh chứng như thế, các ông không nên nghi ngờ! 28 Hữu giáo: các giáp chủ trương các pháp thật có, như tông Câu-xá, tông Duy Thức 29 Không giáo : các giáo chủ trương các pháp đều không, như các bộ Bát-nhã 30 Trung đạo giáo: các giáo chủ trương trung đạo, chẳng nghiêng về hữu cũng chẳng nghiêng về không. 31 Tông Hoa Nghiêm: tông phái Phật giáo Đại thừa Trung Quốc, do thiền sư Đỗ Thuận (557-640) sáng lập, ngài Pháp Tạng Hiền Thủ (643-712) hoàn thành việc lập tông. Tông này đặt nền tảng trên kinh Hoa Nghiêm., chủ trương Pháp giới duyên khởi, Sự sự vô ngại pháp giới. 32 Tông Chân Ngôn: tức Mật giáo, một tông phái Phật giáo tại Nhật Bản và Trung Quốc lấy kinh Tì-lô-giá-na Thành Phật và kinh Kim Cương Đảnh làm nền tảng lập tông, chủ trương Tức thân thành Phật, Tam mật (thân mật, khẩu mật và ý mật) tương ưng. 33 Tây Phương Yếu Quyết: có một quyển,do đại sư Khuy Cơ (632-682) soạn, nội dung dùng thể vấn đáp để trình bày về yếu quyết vãng sanh Tây phương Cực lạc. 34 Từ Ân: tức đại sư Khuy Cơ, đệ tử Tam tạng Huyền Trang, vì sư trụ tại chùa Từ Ân, nên có hiệu như vậy. 35 Ca Tài: cao tăng tông Tịnh Độ sống vào đời Đường, trụ tại chùa Trường An, chùa Hoằng Pháp. Ngài là tác giả bộ Luận Tịnh Độ. 22
  23. nhưng ý chánh của tập sách này, không phải bàn đến phán giáo của các tông mà chỉ nói đến hai môn của Tịnh độ mà thôi. 1. Thánh đạo môn: Môn này bao gồm Đại thừa và Tiểu thừa. Trong Đại thừa tuy có cả Hiển giáo, Mật giáo, Quyền giáo, Thật giáo, nhưng ý của tập sách này chỉ giữ lại Hiển đại thừa và Quyền đại thừa. Cho nên căn cứ theo công hạnh tu hành trải qua nhiều kiếp, thì nên giữ Mật thừa và Thật đại thừa, đó chính là các tông Chân Ngôn, Phật Tâm36 , Thiên Thai37 , Hoa Nghiêm, Tam Luận38 , Pháp Tướng39 , Địa Luận40 , Nhiếp Luận41 ngày nay. Nên biết, bản ý của tám tông chính là chỗ này. Tiểu thừa chính là giáo pháp bàn về hàng Thanh văn42 , Duyên giác43 đoạn hoặc chứng lý, nhập thánh đắc quả ghi trong kinh luật luận. Căn cứ theo đó, Tiểu thừa gồm các tông Câu- xá44 , Thành Thật 45và Luật tông46 mà thôi. 36 Tông Phật Tâm: tức Thiền tông. 37 Tông Thiên Thai: tông phái Phật giáo Trung Quốc do ngài Huệ Văn khai sáng, đại sư Trí Khải hoàn thành việc lập tông. Tông này lấy kinh Pháp Hoa làm nền tảng, chủ trương Nhất tâm tam quán, Nhật niệm tam thiên. 38 Tông Tam Luận: tông phái Phật giáo Trung Quốc, do đại sư Gia Tường Cát Tạng khai sáng. Tông này y cứ vào ba bộ luận: Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận làm nền tảng, chủ trương xiển dương Không, Vô tướng , Bát bất trung đạo. 39 Tông Pháp Tướng: tức tông Duy Thức, tông phái Phật giáo Trung Quốc, ngài Huyền Trang là Sơ tổ, đệ tử là Khuy Cơ hoàn thành việc lập tông. Tông này lấy kinh Giải Thâm Mật, Luận Du-già, Luận Duy Thức, Luận Nhiếp Đại Thừa làm nền tảng, chủ trương Tam giới duy tâm, Vạn pháp duy thức, đồng thời lập năm vị một trăm pháp để phân biệt các pháp hữu vi, vô vi. 40 Tông Địa Luận: tông phái Phật giáo Trung Quốc, dùng Thập Địa Kinh Luận làm nền tảng, chủ trương Như Lai tạng duyên khởi. 41 Tông Nhiếp Luận: tông phái Phật giáo Trung Quốc, ngài Chân Đế (499-569) là khai tổ. Tông này dùng Luận Nhiếp Đại Thừa làm nền tảng, chủ trương nghĩa Duy thức vô trần, lập chín thức, đề xướng việc đối trị thức A-lại-da, chứng nhập thức A-ma-la vô cấu. 42 Thanh văn: những người nghe thanh giáo của Đức Phật, chứng ngộ lý tứ đế, đoạn trừ kiến hoặc và tư hoặc mà vào Niết-bàn. 43 Duyên giác: những bậc quán mười hai nhân duyên mà ngộ lý vô thường, đoạn phiền não chứng chân lý. 44 Tông Câu-xá: tiểu thừa Hữu tông lấy Luận Câu-xá làm nền tảng lập tông. Tông này chia các pháp thành năm vị, bảy mươi lăm pháp, chủ trương hiện tại hữu thế, quá khứ và vị lai vô thể. 45 Tông Thành Thật: tiểu thừa không tông lấy bộ Luận Thành Thật của Ha-lê-bạt-ma (Phạn: Harivarman) làm thánh điển y cứ, chia các pháp thành năm vị, tám mươi bốn pháp, chủ trương các pháp đều không. 23
  24. Đại ý của Thánh đạo môn, không luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, tất cả đều ở nơi thế giới Ta-bà này tu pháp tứ thừa là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật thừa mà đạt được quả tứ thừa. 2. Vãng sanh Tịnh độ môn: gồm hai phần: a. Kinh luận chính nói về vãng sanh Tịnh độ. b. Kinh luận phụ thuộc nói về vãng sanh Tịnh độ. a. Kinh luận chính: gồm kinh Vô Lượng Thọ47 , kinh Quán Vô Lượng Thọ48 , kinh A-di-đà49 và Luận Vãng Sanh50 của ngài Thiên Thân51 . Ba bộ kinh này gọi là Tịnh Độ tam bộ kinh (ba bộ kinh chính của tông Tịnh Độ). 46 Luật tông: những tông phái lấy các bộ luật làm nền tảng, như Nam Sơn Luật của ngài Đạo Tuyên (596-667) đời Đường. Trung Quốc y cứ vào bộ luật Tứ Phần để lập tông. Về sau, đến đệ tử đời thứ ba của ngài Đạo Tuyên là sư Giám Chân (687-763) truyền luật Tứ Phần sang Nhật Bản, trở thành khai tổ Luật tông tại nơi này. 47 Kinh Vô Lượng Thọ: gồm hai quyển, do ngài Khương Tăng Khải dịch vào đời nhà Ngụy, thời Tam Quốc, Trung Hoa. Nội dung nói về nhân địa tu hành, quả địa thành Phật, cõi nước trang nghiêm, nhiếp thọ chúng sanh niệm Phật của Đức Phật Vô Lượng Thọ. Đây là một trong ba bộ kinh quan yếu của tông Tịnh Độ. 48 Kinh Quán Vô Lượng Thọ: một quyển, do ngài Cương-lương-da-xá dịch vào thời Lưu Tống, Trung Quốc. Nội dung ghi về việc Đức Phật thuận lời khẩn thỉnh của hoàng hậu Vi- đề-hi, vào hoàng cung giảng thuyết 16 pháp quán y báo chánh báo cõi Cực lạc. Đây là một trong ba bộ kinh quan trọng của tông Tịnh Độ. 49 Kinh A-di-đà: một quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào thời Dao Tần, Trung Quốc. Nội dung kinh nói về cõi Cực Lạc phương Tây trang nghiêm thù thắng, đồng thời khuyên người niệm danh hiệu Phật A-di-đà cầu vãng sanh. Đây là một trong ba bộ kinh quan trọng của giáo nghĩa Tịnh độ. 50 Luận Vãng Sanh : còn gọi là Luận Vãng Sanh Tịnh Độ, Vãng Sanh Kệ , có một quyển, do bồ-tát Thiên Thân tạo, ngài Bồ-đề-lưu-chi dịch vào thời Bắc Ngụy, Trung Quốc. Luận được tạo thành do y cứ vào kinh Vô Lượng Thọ, toàn văn gồm 96 câu kệ và phần văn trường hàng giải thích kệ, nội dung khen ngợi Tịnh độ Tây phương trang nghiêm thù thắng, nói năm niệm môn, khuyên người vãng sanh về cõi ấy. Đây là bộ luận cốt yếu của giáo nghĩa Tịnh Độ. 51 Thiên Thân: Phạn: Vasubandhu, Tây Tạng: Dbyig-gnen. Còn gọi là Thế Thân. Đại luận sư Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ IV, V sau Tây lịch, người ở thành Phú-lâu-na-phú-la, em của ngài Vô Trước. Lúc đầu ngài tin theo Tiểu thừa soạn Luận Câu-xá phản bác Đại thừa, sau nhờ sự khuyến hóa của ngài Vô Trước mà qui tín Đại thừa, lại soạn rất nhiều luận xiển dương Đại thừa, trong đó có các bộ nổi tiểng như: Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, Thập Địa Kinh Luận, Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn, Duy Thức Tam Thập Luận Tụng 24
  25. Hỏi : Về từ ngữ “Tam bộ kinh” có gì để minh chứng chăng? Đáp: Minh chứng về Tam bộ kinh rất nhiều, như Pháp Hoa tam bộ là kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Hiền Quán; Đại Nhật tam bộ là kinh Đại Nhật, kinh Kim Cang Đảnh, kinh Tô-tất-địa; Trấn hộ quốc gia tam bộ là kinh Pháp Hoa, kinh Nhân Vương, kinh Kim Quang Minh; Di Lặc tam bộ là kinh Thượng Sanh Đâu-suất, kinh Hạ Sanh, kinh Thành Phật. Ở đây chỉ riêng cho ba bộ kinh về Đức Phật A-di-đà, nên gọi là Tịnh Độ tam kinh. Ba bộ kinh này nói về y báo và chánh báo52 cõi Tịnh. b. Kinh luận phụ thuộc: gồm các bộ kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Huỳnh Tùy Cầu, Tôn Thắng và các bộ Luận Đại Thừa Khởi Tín, Bảo Tánh, Thập Trụ Tì-bà-sa, Nhiếp Đại Thừa nói về hành nghiệp vãng sanh Tịnh Độ. Tập sách này nêu hai môn Thánh đạo và Tịnh độ, mục đích là muốn khuyên mọi người bỏ Thánh đạo mà quay về Tịnh độ, với không ngoài hai lý do vừa nêu trên là, Thánh đạo cách Phật quá lâu và lý đại thừa sâu xa khó hiểu. Tông Tịnh Độ lập hai môn này, không chỉ là ý của các ngài Đạo Xước, Đàm Loan53 , Thiên Thai Trí Khải54, Ca Tài, Từ Ân mà Bồ-tát Long Thọ55 cũng đồng như thế. Như 52 Y báo, chánh báo: Y báo tức tất cả những điều kiện, hoàn cảnh, sự vật tương ứng với Chánh báo được Chánh báo thọ dụng, như cõi nước, thức ăn uống Chánh báo tức thân tâm của loài hữu tình, là quả báo chánh thể do chiêu cảm nghiệp nhân thiện ác ở quá khứ. 53 Đàm Loan: (476-542): cao tăng tông Tịnh Độ sống vào thời Nam Bắc triều, người ở Nhạn Môn, Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc. Sư lần lượt trụ tại các chùa: Đại Nham ở Tinh Châu., Huyền Trung ở Phần Châu, về sau thị tịch tại chùa Bình Dao. Nhật Bản tôn Sư là Sơ tổ trong năm tổ của tông Tịnh Độ và là tổ thứ ba trong bảy tổ của Tịnh Độ Chân Tông. Sư có soạn bộ Vãng Sanh Luận Chú hai quyển, lưu hành ở đời. 54 Trí Khải: (538-597): khai tổ tông Thiên Thai (có thuyết nói là tổ thứ ba), người ở Hoa Dung, Kinh Châu, Trung Quốc, họ Trần, tự Đức An, tăng tục tôn xưng là Trí Giả đại Sư, Thiên Thai đại Sư. 55 Long Thọ: Phạn: Nagarjuna, Tây Tạng: Klu-sgrub. Luận sư vĩ đại của Phật giáo Đại thừa, cũng là người đặt nền tảng cho học phái Trung Quán sau này. Ngài thuộc dòng Bà-la- môn, Nam Ấn Độ, sống vào khoảng năm 150-250 sau Công Nguyên. Ngài trước tác rất nhiều luận, nên người đời tôn xưng là Thiên Bộ Luận Chủ. Trong các trước tác có các bộ nổi 25
  26. Vãng Sanh Luận Chú của Đàm Loan có ghi: “Luận Thập Trụ Tì-bà- sa56 của bồ-tát Long Thọ nói rằng: Bồ-tát cầu A-tì-bạt-trí57 cần phải có Nan hành đạo (Khó thực hành) và Dị hành đạo (dễ thực hành). Nan hành là do trong đời năm ác trược không có Phật xuất thế, khó cầu được A-tì-bạt-trí . Có nhiều nguyên nhân dẫn đến khó đạt, ở đây lược nói năm ý mà thôi: 1. Ngoại đạo tu pháp tương tợ thiện làm rối loạn thật pháp của Bồ-tát; 2. Hàng Thanh văn tự lợi, chướng ngại lòng đại từ bi; 3. Kẻ ác không biết hỗ thẹn, không kể tự tha, khinh chê bậc hiền thiện, phá hoại thắng đức; 4. Quả thiện trời người phá hoại hạnh thanh tịnh; 5. Chỉ có tự lực, không có tha lực nhiếp hộ. Những việc như thế nơi nào cũng có. Nan hành đạo cũng giống như đi đường bộ thì khó khăn, nguy hiểm. Dị hành là bởi chỉ cần với nhân duyên tin Phật, nguyện sanh Tịnh Độ, nương vào nguyện lực của Phật liền được vãng sanh cõi nước thanh tịnh. Nhờ oai lực của Phật nhiếp trì liền vào Chánh định tụ của Đại thừa. Chánh định tức A-bệ-bạt-trí. Dị hành cũng giống như đi thuyền thì an vui, nhanh đến”. Trong đoạn này, nói Nan hành tức là Thánh đạo môn, Dị hành tức là Tịnh độ môn. Nan hành Dị hành, Thánh đạo Tịnh độ, tên gọi tuy khác nhưng chỉ một mà thôi. Các đại sư Thiên Thai Trí Khải, Ca Tài cũng đồng với chủ trương này. Trong lời tựa bộ Tây Phương Yếu Quyết có ghi: “Kính nghĩ: Đức Thích-ca mở vận hội lớn làm lợi ích cho những chúng sanh có duyên, xiển dương giáo pháp, tùy theo quốc độ mà ban pháp như thấm nhuần tất cả. Người đích thân gặp được tiếng: Trung Luận, Luận Thập Nhị Môn, Luận Hồi Tránh, Luận Đại Thừa Phá Hữu, Luận Đại Trí Độ, Luận Thập Trụ Tì-bà-sa 56 Luận Thập Trụ Tì-bà-sa: gồm 17 quyển, do Bồ-tát Long Thọ soạn, ngài Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Dao Tần, Trung Quốc. Đây là tác phẩm chú thích phẩm Thập Địa, kinh Hoa Nghiêm. 57 A-tì-bạt-trí: Phạn: avinivartaniya, avaivartika, avi-vartika. Tây Tạng: phir mi ldog-pa. Hán dịch: bất thoái chuyển. Tức không lui sụt việc tiến tu, hoặc không lui sụt công đức, thành quả đã đạt được trong quá trình tu tập. 26
  27. Như Lai giáo hóa thì tỏ ngộ ba thừa58, còn với kẻ phuớc bạc nhân sơ thì khuyên quay về Tịnh độ. Tu tập pháp môn ấy là chuyên niệm A- di-đà, đồng thời đem tất cả căn lành có được hồi hướng nguyện sanh. Bản nguyện của Đức A-di-đà là độ Ta-bà59, nên hoặc niệm cả một đời, hoặc mười niệm lúc lâm chung, chắc chắn đều được vãng sanh”. Trong lời bạt bộ Tây Phương Yếu Quyết cũng ghi: “Đã sanh vào thời Tượng pháp60, cách Phật quá xa, tu tập ba thừa thì không có cách gì khế ngộ. Hai cõi trời người xao động bất an, chỉ bậc trí cao, tâm rộng mới có thể ở lâu; còn kẻ trí thô, hạnh thiển e chìm đắm nơi tăm tối. Như thế cần phải vượt khỏi Ta-bà, gởi tâm nơi cõi Tịnh”. Trong hai đoạn văn trên, nói Ba thừa chính là Thánh đạo môn, Tịnh độ chính là Tịnh độ môn. Tuy hai tên khác nhau, nhưng đồng một ý, các học giả tông Tịnh Độ cần phải biết ý chỉ này. Dẫu trước đã tu học Thánh đạo môn, nhưng nếu có tâm với Tịnh độ môn thì nên bỏ Thánh đạo môn mà quay về Tịnh độ. Như pháp sư Đàm Loan bỏ giảng thuyết Tứ luận61, một lòng quay về Tịnh độ. Thiền sư Đạo Xước xa lìa hạnh nghiệp Niết-bàn rộng lớn mà chỉ hoằng truyền hạnh Tây phương. Các bậc hiền triết xưa còn như thế, thì hàng ngu si thời mạt pháp lại không tuân theo sao? Hỏi: Các tông thuộc Thánh đạo môn đều có thầy trò nối tiếp truyền trao, như tông Thiên Thai bắt đầu từ Nam Nhạc Huệ Tu, lần lượt truyền cho Thiên Thai Trí Khải đến Chương An Quán Đảnh, Trí Oai, Huệ Oai, Huyền Lãng, Trạm Nhiên. Tông Chân Ngôn thì từ Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cang Tát-đỏa đến Long Thọ, Long Trí, Kim Trí, Bất Không. Các tông phái khác cũng đều có huyết mạch 58 Ba thừa: ba phương tiện chuyên chở, dụ cho ba phương pháp đưa chúng sanh đến bờ giác ngộ. Đó là Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát. 59 Ta-bà: Phạn: saha, sabha; Tây Tạng: mi-mjed. Tức thế giới hiện tại, thế giới mà Đức Thích-ca giáo hóa. 60 Tượng pháp: thời kỳ thứ hai trong ba thời kỳ của giáo pháp Đức Phật. Tức thời kỳ 1000 năm sau thời chánh pháp 500 năm. Vào thời kỳ này giáo pháp tương tựa với thời chánh pháp, có giáo pháp, có người tu, nhưng thiếu người chứng ngộ, nên gọi là Tượng. 61 Tứ luận: bốn bộ luận: Trung Quán, Bách Luận, Thập Nhị Môn và Đại Trí Độ. 27
  28. tương thừa62, còn tông Tịnh Độ thì thế nào? Đáp: Cũng như các tông thuộc Thánh đạo môn, tông Tịnh Độ cũng có huyết mạch tương thừa, nhưng về tông Tịnh Độ, có nhiều thuyết khác nhau . Có thuyết lập huyết mạch phả63 là: Lô Sơn Huệ Viễn, Từ Mẫn Tam Tạng, Đạo Xước, Thiện Đạo Ở đây căn cứ theo ngài Đạo Xước và Thiện Đạo để bàn về huyết mạch phả của tông Tịnh Độ. Trong đây cũng có hai thuyết: - Theo thuyết ghi trong An Lạc Tập, thì bắt đầu Tam tạng Bồ- đề-lưu-chi truyền đến pháp sư Huệ Sủng, pháp sư Đạo Tràng, pháp sư Đàm Loan, pháp sư Đại Hải, pháp sư Pháp Thượng. - Theo thuyết trong Tăng truyện đời Đường Tống, thì bắt đầu từ Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi truyền đến Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo, Hoài Cảm, Thiếu Khương. II. Hòa-thượng Thiện Đạo lập Chánh hạnh và Tạp hạnh, bỏ Tạp để tu Chánh TRÍCH DẪN: Quán Kinh Sớ64 quyển 4 ghi: “Căn cứ theo hạnh mà lập tín, nhưng hạnh lại có Chánh hạnh và Tạp hạnh”. Chánh hạnh là hạnh chỉ căn cứ theo các kinh nói về vãng sanh Tịnh độ mà tu tập. Đó là chỉ nhất tâm đọc tụng kinh A-di-đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ; chỉ nhất tâm quán tưởng, nhớ nghĩ cảnh y chánh báo và y báo trang nghiêm cõi Tịnh; chỉ nhất tâm kính lễ Đức Phật A-di- đà, chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chỉ nhất tâm khen ngợi, 62 Huyết mạch tương thừa: sự truyền thừa, nối tiếp pháp môn liên tục không gián đoạn, giống như mạch máu trong cơ thể con người. 63 Huyết mạch phả: biểu đồ về phả hệ truyền thừa của thầy và trò. 64 Quán Kinh Sớ: tức Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, gồm bốn quyển, do ngài Thiện Đạo soạn. Đây là tác phẩm giải thích kinh Quán Vô Lượng Thọ, có ảnh hưởng rất lớn đối với giáo nghĩa Tịnh độ sau này. 28
  29. cung kính cúng dường Phật A-di-đà. Tuy nhiên, trong Chánh hạnh lại có hai môn: - Chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chẳng kể đi đứng nằm ngồi, chẳng luận thời gian lâu mau, niệm niệm miên mật không buông bỏ, không gián đoạn. Đó gọi là Chánh định nghiệp, vì thuận với bản nguyện của Phật A-di-đà. - Nếu lễ bái, đọc tụng, khen ngợi, cúng dường thì gọi là Trợ nghiệp. Ngoài hai hạnh Chánh và Trợ này, tất cả các nghiệp thiện khác đều là Tạp hạnh. Nếu tu tập hai hạnh Chánh và Trợ thì tâm luôn luôn gần gũi, nhớ nghĩ đến Phật, cho nên không gián đoạn. Nếu tu tập Tạp hạnh thì tâm thường bị gián đoạn, dù có thể hồi hướng được vãng sanh, nhưng đều là hạnh xen tạp. LUẬN RẰNG: Đoạn văn trên có hai ý: Một là nói về hành tướng vãng sanh, hai là phân biệt về sự hơn kém của hai hạnh. 1. Hành tướng vãng sanh: Theo hòa-thượng Thiện Đạo, tuy có nhiều hạnh vãng sanh, nhưng đại để được chia làm hai là Chánh và Tạp. Chánh hạnh lại có phân khai và tổng hợp. Phân khai thì có năm hạnh, tổng hợp thì thành hai hạnh. Năm hạnh: Đọc tụng - Quán sát - Lễ bái - Xưng danh - Khen ngợi cúng dường. Đọc tụng tức là chỉ nhất tâm tụng đọc kinh Quán Vô Lượng Thọ Quán sát tức chỉ nhất tâm quán tưởng y báo, chánh báo cõi Cực Lạc. Lễ bái tức là chỉ nhất tâm lễ Đức Phật A-di-đà. Xưng danh tức là chỉ nhất tâm xướng niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà. Khen ngợi cúng dường tức là chỉ nhất tâm khen ngợi cúng dường Đức Phật A-di-đà, Nếu chia khen ngợi và cúng dường làm hai thì thành sáu chánh hạnh. Tổng hợp thì thành hai 29
  30. là Chánh nghiệp và Trợ nghiệp. Trong năm chánh hạnh ở trên, hạnh thứ tư là Chánh định nghiệp. Như trong đoạn văn trên ghi: “Chỉ nhất tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, chẳng kể đi đứng nằm ngồi, chẳng luận thời gian lâu mau, niệm niệm miên mật không buông bỏ, không gián đoạn. Đó gọi là Chánh định nghiệp, vì thuận với bản nguyện của Phật A-di-đà”. Trợ nghiệp tức bốn hạnh còn lại. Như trong đoạn văn trên ghi: “Nếu lễ bái, đọc tụng, khen ngợi, cúng dường thì gọi là Trợ nghiệp”. Hỏi: Vì sao chỉ có niệm danh hiệu Phật A-di-đà là Chánh định nghiệp? Đáp: Trong Quán Kinh Sớ nói: “Vì thuận theo bản nguyện của Đức Phật kia”, nghĩa là xưng danh niệm Phật chính là nguyện xưa của Phật A-di-đà. Cho nên người tu hành nương vào nguyện lực Phật nhất định được vãng sanh. Ý nghĩa của bản nguyện sẽ giải thích sau. Về Tạp hạnh, Quán Kinh Sớ ghi: “Ngoài hai hạnh Chánh và Trợ này, tất cả các nghiệp thiện khác đều là Tạp hạnh”. Ý nói có vô lượng Tạp hạnh, không thể kể hết, ở đây chỉ vì muốn đối lại với năm Chánh hạnh mà nêu ra năm Tạp hạnh. Đó là: - Tạp hạnh đọc tụng: Đọc tụng, thọ trì tất cả kinh điển Đại- Tiểu-Hiển-Mật, trừ ba bộ kinh nói về vãng sanh Tịnh độ đã nêu trên. - Tạp hạnh quán sát: Suy nghĩ, quán sát tất cả những sự lý của các giáo Đại-Tiểu-Hiển-Mật, trừ y báo chánh báo cõi Cực Lạc. - Tạp hạnh lễ bái: Cung kính lễ bái tất cả các Đức Phật, Bồ Tát, chư thiên, hiền thánh, thế gian, trừ Đức Phật A-di-đà. Ngoài ra còn có rất nhiều hạnh khác như: bố thí, trì giới đều thuộc Tạp hạnh. 2. Phân biệt về sự hơn kém của hai hạnh: Quán Kinh Sớ ghi: 30
  31. “Nếu tu hai hạnh Chánh và Trợ, thì tâm luôn gần gũi, nhớ nghĩ đến Phật, không gián đoạn, đó gọi là vô gián. Nếu tu Tạp hạnh, thì tâm thường gián đoạn, dù có thể hồi hướng được vãng sanh, nhưng cũng đều thuộc tạp hạnh”. Căn cứ theo văn thì trong Tạp hạnh có năm đôi đối đãi: Thân-sơ, gần-xa, không gián đoạn-gián đoạn, không hồi hướng-hồi hướng, thuần-tạp. - Thân-Sơ: Thân, nếu tu hai hạnh chánh trợ, sẽ rất thân thiết với Đức Phật A-di-đà. Cho nên Quán Kinh Sớ ghi: “Chúng sanh khởi hạnh, miệng luôn niệm Phật thì Phật nghe, thân luôn lễ Phật thì Phật thấy, tâm luôn nhớ đến Phật thì Phật biết. Chúng sanh nhớ nghĩ đến Phật, Phật cũng nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của Phật và chúng sanh không bao giờ lìa nhau, cho nên nói là thân thiết”. Sơ, nếu tu Tạp hạnh, miệng không xưng danh hiệu Phật thì Phật không nghe, thân không lễ Phật thì Phật không thấy, tâm không nhớ nghĩ đến Phật thì Phật không biết. Chúng sanh không nhớ đến Phật, Phật cũng không nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của Phật và chúng sanh thường lìa nhau, cho nên gọi là xa cách. - Gần-Xa: Gần, nếu tu hai hạnh Chánh-Trợ, thì rất gần gũi với Đức Phật A-di-đà. Cho nên Quán Kinh Sớ lại ghi: “Chúng sanh nguyện được thấy Phật, Phật tức thời tùy ý niệm hiện đến trước mặt, cho nên gọi là gần gũi". Xa, nếu tu Tạp hạnh thì không nguyện thấy Phật, Phật không tùy ý niệm hiện đến trước mặt, cho nên gọi là cách xa. Thân và cận tuy nghĩa giống nhau, nhưng trong Quán Kinh Sớ, ngài Thiện Đạo chia làm hai, cho nên xin trích dẫn ra đây. - Không gián đoạn-Gián đoạn: Không gián đoạn, nếu tu hai hạnh Chánh-Trợ, nhất định sẽ luôn luôn nhớ nghĩ đến Đức Phật A-di- đà, không bao giờ gián đoạn. Gián đoạn, nếu tu Tạp hạnh, tâm không luôn nhớ nghĩ đến Đức Phật A-di-đà, mà thường gián đoạn. - Không hồi hướng-hồi hướng: Nếu tu hai hạnh Chánh-Trợ, dẫu 31
  32. không hồi hướng cũng tự nhiên thành tựu sự nghiệp vãng sanh. Cho nên Sớ ghi: "Trong Quán Kinh nói: Mười tiếng niệm danh hiệu Phật, đã phát đầy đủ mười nguyện, tu mười hạnh. Vì sao? Vì Nam-mô tức là quy mạng65, cũng có nghĩa phát nguyện hồi hướng; A-di-đà Phật tức là hạnh. Vì nghĩa này, cho nên nhất định được vãng sanh". Hồi hướng, nếu tu Tạp hạnh thì cần phải hồi hướng mới thành tựu nhân vãng sanh. Cho nên Quán Kinh Sớ ghi: "Dù có thể hồi hướng được vãng sanh " - Thuần-Tạp: Nếu tu hai hạnh Chánh-Trợ, thì hoàn toàn là hành nghiệp Cực Lạc, còn tu các hạnh khác thì không phải thuần nhất hành nghiệp Cực Lạc. Vì chung cho cả hành nghiệp trời người và cả Tam thừa, cũng như chung cho khắp các cõi Tịnh trong mười phương, cho nên gọi là tạp. Người tu hành nghiệp Tây phương, cần phải bỏ Tạp hạnh mà tu Chánh hạnh. Hỏi: Hai nghĩa thuần và tạp này có được xác chứng trong kinh luận không? Đáp: Trong kinh luật luận Đại-Tiểu thừa có rất nhiều chứng cứ về việc thành lập hai môn thuần tạp. Như Đại thừa lập tám tạng66, một là Tạp tạng, bảy là Thuần tạng; trong bốn bộ A-hàm67 của Tiểu thừa có một Tạp A-hàm, ba là Thuần A-hàm; trong Luật lập hai mươi kiền-độ68 để nói về giới hạnh, trong đó mười chín kiền-độ trước là Thuần, một kiền-độ cuối cùng là Tạp; Luận cũng lập tám kiền-độ để nói về tánh tướng các pháp, bảy kiền-độ trước là Thuần, một kiền-độ sau là Tạp. Về tập truyện Hiền thánh, các bộ Đường Cao Tăng 65 Quy mạng: Hán dịch của chữ Namo (nam-mô), Gồm ba nghĩa: thân mạng hướng về nương tựa Phật; qui thuận lời dạy của Phật; mạng căn quay về nhất tâm bản tánh. 66 Tám tạng: tám tạng giáo pháp của Đức Phật được ghi trong phẩm Xuất Kinh Bồ-tát Xử Thai. Đó là: Thai hóa tạng, Trung ấm tạng, Ma-ha diễn Phương đằng tạng, Giới luật tạng, Thập trụ Bồ-tát tạng, Tạp tạng, Kim cương tạng và Phật tạng. 67 Bốn bộ A-hàm: bốn bộ loại kinh trong tạng TIểu thừa bản Hán: Trường A-hàm, Trung A- hàm, Tăng Nhất A-hàm và Tạp A-hàm. 68 Kiền-độ: từ chuyên dụng trong bộ luật Phật giáo, tức là thiên, chương. 32
  33. truyện và Tống Cao Tăng truyện có lập mười khoa69 để nói về đức hạnh của các cao tăng, trong đó chín khoa trước là Thuần, một khoa sau cùng là Tạp; cho đến trong Đại Thừa Nghĩa Chương70 cũng lập năm tụ; bốn tụ trước là Thuần, một tụ sau là Tạp. Không chỉ Hiển giáo, Mật giáo cũng có Thuần-Tạp. Như trong Sơn Gia Huyết Mạch Phả ghi: "1, Thai tạng giới mạn-đồ-la huyết mạch phả, một thiên; 2, Kim cang giới mạn-đồ-la huyết mạch phả, một thiên; 3, Tạp mạn-đổ- la huyết mạch phả, một thiên". Hai thiên trước là Thuần, một thiên sau là Tạp. Minh chứng về thuần-tạp rất nhiều, ở đây chỉ nêu ra một số như thế thôi. Nên biết rằng, nghĩa thuần-tạp cũng tùy theo pháp mà thay đổi, không nhất định. Do đó, ở đây chỉ căn cứ theo ý của ngài Thiện Đạo mà luận về thuần tạp của hạnh Tịnh độ. Thuần-tạp này không hạn cuộc nơi nội điển71, mà trong ngoại điển cũng có rất nhiều, vì sợ dài dòng nên không ghi nơi đây. Nhưng trong hạnh vãng sanh, không chỉ ngài Thiện Đạo mới phân làm hai hạnh thuần-tạp, mà thiền sư Đạo Xước cũng cho rằng tuy có nhiều hạnh vãng sanh, nhưng gom lại thành hai, đó là Niệm Phật vãng sanh và Vạn hạnh vãng sanh. Còn thiền sư Hoài Cảm72 thì nói: "Tuy có rất nhiều hạnh vãng sanh, nhưng gom lại thành hai là: Niệm Phật vãng sanh và Chư hạnh vãng sanh". Sư Huệ Tâm cũng đồng với ý này. Như thế ba vị cùng lập hai hạnh để gồm thâu hết các hạnh vãng sanh, thật rất hợp với yếu chỉ Tịnh độ. TRÍCH DẪN: 69 Mười khoa: mười thiên. 70 Đại Thừa Nghĩa Chương: gồm 20 quyển, do Tịnh Ánh Huệ Viễn soạn vào đời Tùy, Trung Quốc. Toàn sách chia làm năm tụ: Giáo pháp tụ, nghĩa pháp tụ, nhiễm pháp tụ, tịnh pháp tụ và tạp tụ. Nội dung tập hợp và giải thích những mục quan trọng trong kinh sách Phật để làm rõ nghĩa Đại thừa. 71 Nội điển: chỉ cho kinh điển của tôn giáo mà mình tin thờ. Ngược lại những kinh điển ngoài tôn goáo của mình thì gọi là ngoại điển. 72 Hoài Cảm: cao tăng tông Tịnh Độ, sống vào đời Đường, Trung Quốc. 33
  34. Vãng Sanh Lễ Tán73 ghi: "Nếu niệm niệm liên tục, lấy chết làm kỳ hạn, thì mười người tu mười người vãng sanh, trăm người tu trăm người vãng sanh". Vì sao? Vì không có tạp duyên nên được chánh niệm, tương ứng với bản nguyện của Đức Phật, không trái giáo Tịnh độ, thuận theo lời Phật. Nếu bỏ chuyên tu mà theo tạp tu thì trăm người không được một, ngàn người chẳng được năm, ba. Vì sao? Vì tạp duyên loạn động làm mất chánh niệm, không tương ứng với bản nguyện của Phật, trái với giáo Tịnh độ, không thuận theo lời Phật, niệm không liên tục, tâm có gián đoạn, hồi hướng phát nguyện không khẩn thiết và chân thật, các phiền não tham sân đến làm gián đoạn, không có tâm hổ thẹn để sám hối, không luôn luôn nghĩ đến việc báo đáp ân Phật. Khởi tâm khinh mạn, tuy tu tập mà luôn chạy theo danh lợi, tâm nhân-ngã che mờ, khiến không thể gần gũi bạn lành đồng hạnh đồng tu. Thích gần gũi tạp duyên, làm chướng ngại chính mình và chướng ngại người khác. Vì sao: Gần đây tôi thường nghe thấy tăng tục khắp nơi giải hạnh không đồng, dẫn đến tu chuyên, tu tạp khác nhau. Nhưng tu chuyên thì mười người, vãng sanh cả mười; còn tu tạp, vì không chí tâm, nên ngàn người tu không được một người về cõi Tịnh. Việc hơn kém của hai hạnh như trên đã trình bày, kính mong tất cả những người tu hành nghiệp Vãng sanh hãy sưy nghĩ kỹ. Những người đời nay đã nguyện sanh về cõi Cực Lạc, thì nên trong tất cả mọi thời gian, khi đi đứng, lúc nằm ngồi hãy gắng lòng, khắc kỷ, ngày đêm niệm niệm liên tục chớ phế bỏ, lấy cái chết làm kỳ hạn. Như thế, đối với thân hầu như có một ít khổ, nhưng niệm trước mạng chung, niệm sau liền sanh về cõi Tịnh, vĩnh viễn huởng thụ pháp lạc vô vi, cho đến cuối cùng thành Phật mà không trải qua sinh tử. Như thế, không sưng sướng lắm sao?". LUẬN RẰNG: 73 Vãng Sanh Lễ Tán: tức là bộ Vãng Sanh Lễ Tán Kệ, 1 quyển, do hoà-thượng Thiện Đạo soạn vào đời Đường, Trung Quốc. Nội dung nói về việc thực hành lễ tán sáu thời trong một ngày. 34
  35. Đọc đoạn văn này lại càng phải nên bỏ Tạp tu trở về Chuyên tu. Lẽ nào lại bỏ Chánh hạnh chuyên tu trăm người trăm được, mà chấp chặt Tạp hạnh tạp tu ngàn người hành mà không ai chứng được sao? Người tu tập cần phải sưy nghĩ kỹ! III. Đức A-di-đà không lấy các hạnh khác làm bản nguyện vãng sanh, chỉ lấy Niệm Phật làm bản nguyện vãng sanh. TRÍCH DẨN: Kinh Vô Lượng Thọ ghi: "Như ta thành Phật mà các chúng sanh trong mười phương một lòng tin thích, muốn sanh về cõi nuớc của ta, dù chỉ niệm mười niệm liền được vãng sanh. Nếu không, ta không giữ ngôi Chánh giác". Quán Niệm Pháp Môn74 ghi: "Nếu ta thành Phật, các chúng sanh trong mười phương nguyện sanh về cõi nuớc ta, dù chỉ xưng niệm danh hiệu ta mười tiếng, liền nương nguyện lực của ta mà vãng sanh, nếu không ta không giữ ngôi Chánh giác". Vãng Sanh Lễ Tán cũng dẫn đoạn văn phát nguyện trên và bàn thêm rằng: "Đức Phật ấy thành Phật trong đời hiện tại. Nên biết thệ nguyện xưa rất sâu nặng, không hư dối. Nếu chúng sanh xưng niệm nhất định được vãng sanh". LUẬN RẰNG: Mỗi Đức Phật đều có hai nguyện là nguyện chung và nguyện riêng. Nguyện chung chính là bốn thệ nguyện rộng lớn75. Nguyện riêng, như Đức Thích-ca có năm trăm nguyện lớn, Đức Duợc Sư có mười hai nguyện Như bốn mươi tám nguyện ở đây, tức là nguyện 74 Quán Niệm Pháp Môn: có một quyển, do ngài Thiện Đạo soạn. Nội dung nói về pháp Quán Phật tam-muội và Niệm Phật tam-muội. 75 Bốn thệ nguyện rộng lớn : nguyện độ vô biên chúng sanh; nguyện độ vô tận phiền não; nguyện tu vô lượng pháp môn; nguyện thành vô thượng Phật đạo. 35
  36. riêng của Đức A-di-đà. Hỏi: Đức A-di-đà Như Lai phát những lời nguyện này từ bao giờ và trước Đức Phật nào? Đáp: Kinh Vô Lượng Thọ ghi: "Phật dạy A-nan: Vào thời quá khứ lâu xa, cách nay vô lượng chẳng thể tính bàn vô ương số kiếp76, Đức Phật Định Quang xuất hiện ở thế gian, giáo hóa vô lượng chúng sanh, khiến tất cả đều được vào đạo rồi Ngài vào Niết-bàn. Kế đó lại có Đức Phật Quang Viễn, Phật Xử Thế cho đến Đức Phật thứ năm mươi ba xuất thế rồi vào Niết-bàn. Bấy giờ có Đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương trụ ở đời. Có một vị vua nghe Phật thuyết pháp, trong lòng vui sướng liền phát tâm Vô thượng chánh chân đạo77, từ bỏ ngôi vua, xuất gia làm sa-môn78, hiệu là Pháp Tạng, tài cao, trí sáng, siêu việt thế gian. Một hôm Sa-môn này đến trụ xứ của Phật Thế Tự Tại Vương. Đức Phật nói rộng về trời người thiện ác, cõi nuớc đẹp xấu trong hai trăm mười ức Phật độ. Tất cả đều tương ứng với tâm nguyện của Sa-môn mà hiện ra. Vị Sa-môn nghe Đức Phật nói về cõi nuớc trang nghiêm thanh tịnh thì cũng liền thấy được tất cả. Do đó, Ngài phát thệ nguyện vô thượng thù thắng, trong tâm vắng lặng, ý không dính mắc, tất cả người thế gian không ai bằng. Trải qua năm kiếp, vị Sa-môn tư duy, giữ lấy hạnh thanh tịnh trong cõi Phật trang nghiêm. A-nan lại hỏi: Tuổi thọ của Đức Phật ấy bao nhiêu? Đức Phật đáp: Tuổi thọ của Đức Phật ấy là bốn mươi hai kiếp. 76 Vô ương số kiếp: Phạn: asamkhyeya-kalpa. Số kiếp vô tận, chỉ cho khoảng thời gian dài vô cùng tận. 77 Vô thượng chánh chân đạo: Phạn: Anuttarasamyaksambodhi, tức Vô thượng chánh đẳng chánh giác. 78 Sa-môn : Phạn: sramana, Pali: samana, Tây Tạng: dge-sbyen. Từ ngữ chỉ chung cho những ngưới xuất gia tu đạo, tức là những người cạo bỏ râu tóc, bỏ ác hành thiện, điều phục thân tâm để mong đạt được cảnh giới giải thoát. 36
  37. Bấy giờ Tì-kheo79 Pháp Tạng giữ lấy hạnh thanh tịnh trong hai trăm mười ức cõi Phật vi diệu". Kinh Đại A-di-đà ghi: "Đức Phật ấy tuyển chọn trời người thiện ác, cõi nuớc đẹp xấu trong hai trăm mười ức cõi Phật, chọn lấy những nguyện mà tâm ưa thích. Đức Phật Lâu-di-hỗ-la (Phật Thế Tự Tại Vương ) lại thuyết kinh, Tất-Đàm-ma-ca (Pháp Tạng) liền chuyên nhất tâm mình mà chứng đắc Thiên nhãn, thấy sưốt trời người thiện ác, cõi nuớc đẹp xấu trong hai trăm mười ức cõi Phật, chọn những ước nguyện trong tâm đúc kết thành kinh Nhị Thập Tứ Nguyện" (Kinh Bình Đẳng Giác cũng giống như thế). Tuyển chọn nghĩa là lấy bỏ. Tức là trong hai trăm mười ức cõi Phật, bỏ trời người ác, chọn lấy trời người thiện; bỏ cõi nuớc xấu, chọn lấy cõi nuớc tốt đẹp. Nghĩa tuyển chọn trong kinh Đại A-di-đà như thế. Trong kinh Sơng Quyển80 cũng có ý nghĩa tuyển chọn, như kinh ấy ghi: "Tì-kheo Pháp Tạng giữ lấy hạnh thanh tịnh trong hai trăm mười ức cõi Phật vi diệu". Tuyển chọn và giữ lấy cũng đồng một nghĩa. Thế thì xả bỏ hạnh không thanh tịnh mà chọn lấy hạnh thanh tịnh. Ý nghĩa trời người thiện ác, cõi nuớc đẹp xấu, theo đó cũng biết được. Nay căn cứ theo bốn mươi tám nguyện, đơn phối hợp (nhất vãng), mỗi mỗi luận về nghĩa tuyển chọn, nhiếp thủ: 1. Nguyện không có ba đường ác81, tức là trong hai trăm mười ức cõi Phật mà Tì-kheo Pháp Tạng nhìn thấy, có cõi nuớc có ba đường ác, có cõi nuớc không có ba đường ác. Như vậy chọn bỏ cõi nuớc thô xấu có ba đường ác, chọn lấy cõi nuớc thiện diệu không có ba đường ác. Cho nên gọi là tuyển chọn. 79 Tỳ-kheo: Phạn: bhiksu, bhiksuka; Pali: bhikkhu; Tây Tạng:dge-slon. Chỉ cho người xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo, từ hai mươi tuổi trở lên, đã thọ giới Cụ túc. 80 Kinh Song Quyển: tức kinh Vô Lượng Thọ, vì kinh này có hai quyển, nên gọi như thế. 81 Ba đường ác : ba cõi cực xấu ác, thấp kém nhất mà chúng sanh tạo nghiệp ác sẽ sanh về. Đó là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. 37
  38. 2. Nguyện không trải qua ba đường ác, tức trong cõi nuớc của các Đức Phật, tuy có cõi nuớc không có ba đường ác, nhưng nhân dân cõi ấy sau khi chết lại phải trải qua cõi nuớc có ba đường ác, hoặc có cõi nuớc không trải qua ba đường ác. Nay chọn bỏ cõi nuớc thô xấu chúng sinh sau khi chết, phải trải qua ba đường ác, mà chọn lấy cõi nuớc thiện diệu không trải qua ba đường ác. Cho nên gọi là tuyển chọn. 3. Nguyện thân đều có màu vàng ròng, tức trong các cõi nuớc của Đức Phật, hoặc cõi nuớc có hai loại trời người thân màu vàng và trắng, hoặc có cõi thuần chúng sanh thân màu vàng ròng. Nay chọn bỏ cõi nuớc thô xấu, có hai loại thân vàng và trắng, chọn lấy cõi nuớc thiện diệu có thuần chúng sanh thân màu vàng. Cho nên gọi là tuyển chọn. 4. Nguyện không có thân đẹp xấu, tức trong các cõi nuớc của Phật, có cõi nuớc mà trời người trong đó có hình sắc đẹp xấu khác nhau, hoặc có cõi nuớc mà chúng trời người trong đó chỉ một loại hình sắc, không có đẹp xấu khác nhau. Nay chọn bỏ cõi thô xấu có thân đẹp xấu khác nhau, chọn lấy cõi nuớc thiện diệu có thân chúng sanh đồng nhất, không đẹp xấu. Nên gọi là tuyển chọn. Cho đến thứ 18, nguyện niệm Phật vãng sanh, tức trong cõi nuớc của Đức Phật kia, hoặc có cõi dùng bố thí làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng trì giới làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng nhẫn nhục làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng tinh tấn làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng thiền định làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng trí huệ (tin Đệ nhất nghĩa ) làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng tâm Bồ-đề làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng việc trì kinh làm hạnh vãng sanh, hoặc có cõi dùng việc trì chú làm hạnh vãng sanh; hoặc có cõi dùng các hạnh xây dựng chùa tháp, tạo tôn tượng, cúng dường thức ăn cho sa-môn cho đến hiếu duỡng cha mẹ, phụng sự thầy tổ làm hạnh vãng sanh; hoặc có cõi dùng hạnh chuyên xưng niệm danh hiệu Đức Phật cõi ấy làm hạnh vãng sanh. Như thế dùng 38
  39. một hạnh phối hợp với một cõi Phật, cho nên gọi là đơn phối hợp (nhất vãng). Nếu luận theo phức phối hợp (tái vãng) thì ý nghĩa không nhất định, hoặc trong một cõi Phật dùng nhiều hạnh làm hạnh vãng sanh, hoặc có nhiều cõi Phật lại dùng một hạnh làm hạnh vãng sanh chung. Có rất nhiều hạnh vãng sanh như thế không thể kể hết. Nay không chọn những hạnh bố thí, trì giới cho đến hiếu dưỡng cha mẹ , mà chọn lấy hạnh chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, nên gọi là tuyển chọn. Trên đây chỉ căn cứ theo năm nguyện, sơ lược luận bàn về nghĩa tuyển chọn như thế, thì tất cả các nguyện khác chuẩn theo đó cũng có thể biết được. Hỏi: Căn cứ các nguyện, thì lý chọn bỏ cõi thô xấu, chọn lấy cõi thiện diệu thật đúng như vậy. Nhưng vì sao nguyện thứ mười tám không chọn tất cả các hạnh, chỉ chọn lấy một hạnh Niệm Phật làm hạnh vãng sanh? Đáp: Ý Phật thật khó lường, không thể tự ý giải thích. Tuy nhiên, nay thử dùng nghĩa hơn kém và nghĩa dễ khó để luận bàn xem. - Hơn kém: Niệm Phật là hơn, các hạnh khác thì kém. Vì sao? Vì danh hiệu Phật là nơi trở về của muôn đức. Thế thì Đức Phật A- di-đà có đủ tất cả các công đức nội chứng (tự chứng) như bốn trí82, ba thân83, mười lực84, bốn vô sở úy85 và tất cả công đức ngoại dụng (hóa 82 Bốn trí: bốn trí của Phật quả: Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quan sát trí và Thành sở tác trí. 83 Ba thân: ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân và ứng thân. 84 Mười lực: mười lực dụng của Như Lai. Đó là: Xứ phi xứ trí lực, nghiệp dị thục trí lực, tĩnh tự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực, căn thượng hạ trí lực, chủng chủng thắng giải trí lực, chủng chủng giới trí lực, biến thú hành trí lực, túc trụ tùy niệm trí lực, tử sanh trí lực, lậu tận trí lực. 39
  40. tha) như tướng hảo86, ánh sáng, thuyết pháp, lợi sanh Tất cả các công đức nội, ngoại ấy đều thâu vào trong danh hiệu A-di-đà, cho nên công đức của danh hiệu là tối thắng. Các hạnh khác thì không được như thế, mỗi hạnh chỉ có một phần công đức, vì thế bảo là kém vậy. Ví như nói ngôi nhà, thì từ trong ngôi nhà ấy đã thâu hết tất cả các loại như : kèo, cột, rui, mè, đòn dông nhưng kèo, cột, rui, mè thì không thể gồm thâu tất cả những loại khác được. Thế thì công đức của danh hiệu Phật hơn tất cả các công đức khác. Cho nên bỏ kém, chọn hơn làm bản nguyện. - Dễ khó: Niệm Phật thì dễ tu, các hạnh khác rất khó tu. Cho nên trong Vãng Sanh Lễ Tán ghi: “Hỏi: Vì sao không cho tu quán, mà chỉ khuyên chuyên niệm danh hiệu? Đáp: Đó là do chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng, cảnh quán thì vi tế, tâm tâm thì thô phù, thức lại mênh mang, thần thì bay bổng. Nếu tu quán thật khó thành. Vì thế, bậc Đức Phật xót thương, chỉ khuyên niệm danh hiệu Phật. Hơn nữa, chỉ cần niệm liên tục thì được vãng sanh”. Vãng Sanh Yếu Tập87 ghi: “Hỏi: Tất cả các nghiệp thiện đều có lợi ích, mỗi mỗi đều có thể hồi hướng vãng sanh, vì sao chỉ khuyên niệm Phật? Đáp: Khuyên niệm Phật, chẳng phải là không cho thực hành các hạnh lành khác, chỉ vì không kể nam nữ, sang hèn, không phân nằm ngồi đi đứng, không luận thời tiết nóng lạnh, chẳng quán nơi chốn gần xa , hễ tu thì dễ thành. Cho đến lúc lâm chung nguyện cầu vãng sanh, không pháp nào hiệu quả hơn niệm Phật”. Thế biết, niệm Phật dễ tu, nên dành chung cho tất cả các hạng chúng sanh, còn các hạnh khác khó hành, nên không bao trùm các loại. Vậy Đại Thánh muốn khiến chúng sanh bình đẳng vãng sanh, 85 Bốn vô sở úy : bốn sức tự tin, không sợ sệt của Phật khi thuyết pháp trước số đông. Đó là: Chư pháp hiện đẳng giác vô úy, Nhất thiết lậu tận trí vô úy, Chướng pháp bất hư quyết định thọ ký vô úy, Vị chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tánh vô úy. 86 Tướng hảo: tức ba mươi hai tướng quí và tám mươi vẻ đẹp tùy hình của Phật. 87 Vãng Sanh Yếu Tập : gồm ba quyển, do Tăng đô Huệ Tâm (Nguyên Tín) người Nhật soạn. Nội dung sách gom tập những yếu nghĩa vãng sanh trong hơn một trăm sáu mươi bộ kinh, luận, chú sớ để trình bày tư tưởng Tịnh độ. 40
  41. bỏ khó lấy dễ làm bản nguyện. Nếu lấy việc tạo tượng, xây tháp làm bản nguyện, thì những người nghèo hèn, khốn khổ ắt hết hy vọng vãng sanh, mà trong đời người giàu sang thì ít, kẻ nghèo hèn thì nhiều. Nếu dùng tài cao, trí tuệ làm bản nguyện thì kẻ ngu độn, trí kém tuyệt đường vãng sanh, mà trong đời kẻ ngu độn thì nhiều, người có trí tuệ lại ít. Nếu lấy nghiệp học rộng hiểu nhiều làm bản nguyện thì kẻ ít học ít biết hết hy vọng vãng sanh, mà trong đời người học rộng thì ít, kẻ ít học thì nhiều. Nếu lấy trì giới, trì luật làm bản nguyện thì kẻ phá giới, không giới nhất định hết hy vọng vãng sanh, mà trong đời người trì giới thì ít, kẻ phá giới, không giới thì nhiều. Tất cả các hạnh khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được. Hơn nữa, nếu dùng các hạnh trên làm bản nguyện thì rất ít người được vãng sanh. Thế thì Tì-kheo Pháp Tạng A-di-đà Như Lai khi xưa phát khởi lòng từ bi, vì nhiếp thủ tất cả, nên không dùng các hạnh xây tháp, tạo tượng làm bản nguyện, chỉ lấy niệm Phật làm bản nguyện. Cho nên, trong bộ Ngũ Hội Pháp Sự Tán88, thiền sư Pháp Chiếu có viết: “Đức Phật A-di-đà, trong lúc tu nhân đã lập thệ nguyện: “Người nào nghe danh hiệu ta, niệm danh hiệu ta thì ta đều đến đón, không kể nghèo hèn hay giàu sang, trí thấp hay tài cao, nghe nhiều học rộng, giữ tịnh giới hay phá giới, gốc tội sâu dày. Chỉ cần hồi tâm thường niệm Phật, thì có thể khiến cho ngói vỡ biến thành vàng ròng”. Hỏi: Tất cả Bồ-tát dù đã lập thệ nguyện, nhưng có vị đã thành tựu, có vị chưa thành tựu, không biết bốn mươi tám nguyện của bồ-tát Pháp Tạng nay đã thành chưa? Đáp: Tất cả nguyện của bồ-tát Pháp Tạng đã thành tựu. Vì sao? Vì trong cõi Cực Lạc không có ba đường ác, tức đã thành tựu nguyện “Không có ba đường ác”. Làm sao biết được? Vì kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ khi nói về nguyện thành tựu có ghi: “Cũng 88 Ngũ Hội Pháp Sự Tán: có một quyển, do sư Pháp Chiếu soạn vào đời Đường, Trung Quốc. Nội dung sách nói về cách thức thực hành Ngũ hội niệm Phật. 41
  42. không cõi nước có các nạn địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh”. Lại nói trời người cõi kia sau khi mạng chung không trải qua các đường ác, đó chính là thành tựu nguyện “Không trải qua ba đường ác”. Làm sao biết: Vì văn kinh ghi: “Các Bồ-tát kia cho đến lúc thành Phật cũng không trải qua ba đường ác”. Lại nói tất cả trời người trong cõi Cực Lạc đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, đó là thành tựu nguyện “Đầy đủ ba mươi hai tướng”. Làm sao biết? Vì văn kinh ghi: “Người sanh vào nước ấy đều đầy đủ ba mươi hai tướng”. Như vậy, từ nguyện thứ nhất “Không có ba đường ác”, cho đến nguyện cuối cùng “Đạt được ba pháp nhẫn” đều đã thành tựu. Há riêng nguyện thứ mười tám “Niệm Phật vãng sanh” không thành tựu sao? Thế thì người niệm Phật nhất định vãng sanh. Làm sao biết? Vì văn kinh khi nói về nguyện thành tựu, có ghi: “Nếu chúng sanh nghe danh hiệu của Đức Phật A-di-đà, khởi lòng tin thích, vui vẻ, dù chỉ niệm một niệm, rồi chí tâm hồi hướng nguyện sanh về cõi nước của Ngài, nhất định được sanh, chứng Bất thoái chuyển”. Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm cõi Tịnh, thì tất cả ao sen, lầu gác báu đều là do nguyện lực mà thành, vì sao lại chỉ nghi ngờ nguyện Niệm Phật vãng sanh? Lại thêm, cuối mỗi mỗi nguyện còn nói: “Nếu chẳng như thế, ta chẳng giữ ngôi Chánh giác” mà Phật A-di-đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Nguyện thành Phật đã thành tựu, thì biết tất cả nguyện khác chẳng phải lập suông. Cho nên ngài Thiện Đạo nói: “Đức Phật ấy hiện tại đã thành Phật, nên biết bản thệ nguyện sâu nặng thật không hư dối. Chúng sanh xưng niệm nhất định được vãng sanh”. Hỏi: Kinh nói là mười niệm, giải thích là mười tiếng. Vậy nghĩa niệm và tiếng như thế nào? Đáp: Niệm và tiếng chỉ là một. Vì sao? Vì trong phần Hạ phẩm hạ sanh, kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Tiếng không gián đoạn, đầy đủ mười niệm xưng Nam-mô A-di-đà-Phật. Vì niệm danh hiệu Phật, cho nên trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Nay căn cứ theo đoạn văn này thì đã rõ, tiếng tức là niệm, niệm tức là 42
  43. tiếng. Thêm nữa, kinh Đại Tập Nguyệt Tạng89 ghi: “Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏ”. Sư Hoài Cảm giải thích rằng: “Niệm lớn tức lớn tiếng niệm Phật, niệm nhỏ tức nhỏ tiếng niệm Phật”. Cho nên biết niệm tức là xướng niệm vậy. Hỏi: Kinh ghi: “Nãi chí”, các bản giải thích là “hạ chí”, vậy có nghĩa gì? Đáp: “Nãi chí” và “hạ chí” giống nhau. Kinh nói “nãi chí”, tức là từ nhiều xuống ít; nhiều là niệm trọn một đời, ít là xuống còn (dù chỉ) mười tiếng hoặc một tiếng. Còn giải thích “nãi chí” là “hạ chí”, thì hạ là đối với thượng. Hạ tức là dưới xuống còn (dù chỉ) mười niệm hay một niệm. Thượng tức là trên thì trọn một đời. Văn kinh luận đề cập đến thượng và hạ rất nhiều. Như trong nguyện “Túc mệnh thông” ghi: “Ví như ta thành Phật mà trời người trong cõi nước của ta không biết được túc mệnh90, dù chỉ không biết các việc trong trăm nghìn na-do-tha91 kiếp, ta cũng không giữ ngôi Chánh giác”. Trong văn kinh các nguyện về năm thần thông, ánh sáng, thọ mệnh đều có chữ “hạ chí”, đó là ý nghĩa từ nhiều đến ít, dùng hạ đối với thượng vậy. Chữ “nãi chí” trong nguyện này tức là “hạ chí”, ý nghĩa cũng không trái. Nhưng ý các Sư và ngài Thiện Đạo khác nhau. Các Sư giải thích hạn cuộc thành nguyện Thập niệm vãng sanh, ngài Thiện Đạo tổng gom, thành nguyện Niệm Phật vãng sanh. Các Sư phân biệt như thế, ý nghĩa không trọn vẹn. Vì sao? Vì trên thì không nói một đời, dưới thì không nói một niệm. Ngài Thiện Đạo lập nguyện Niệm Phật vãng sanh thì ý nghĩa trọn vẹn, vì trên thì nói đến một đời, dưới cũng giữ lấy một niệm. IV. Ba hạng người niệm Phật vãng sanh 89 Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng: gồm 10 quyển, do ngài Na-liên-đề-da-xá dịch vào đời Tùy, Trung Quốc. Nội dung nói về sự tích lúc Đức Phật trụ tại núi Khư-la-đế, đầu tiên độ các Bồ- tát tỳ-kheo, sau đó độ các Ma vương, Ba-tuần, a-tu-la, trời, rồng, quỉ thần qui hướng Phật đạo. 90 Túc mệnh: sinh mệnh đời trước. 91 Na-do-tha: một đơn vị đo số lượng của Ấn Độ thời xưa, tương đương với một ngàn ức. 43
  44. TRÍCH DẦN: Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Phật dạy A-nan: Các trời và người trong thế giới ở mười phương chí tâm tin thích, nguyện sanh về nước Cực Lạc, gồm có ba hạng: - Bậc thượng, là những người xuất gia làm Sa-môn, phát tâm bồ-đề, một lòng chuyên niệm danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ, tu tập các công đức, nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. Những người này lúc sắp chết, Đức Phật Vô Lượng Thọ và các Thánh hiện đến trước mặt, họ liền theo Phật sanh về nước của Ngài, tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu, trụ nơi giai vị Bất thoái chuyển, được trí tuệ sáng tỏ, sức thần thông tự tại. Vì thế, này A-nan! Nếu có chúng sanh muốn ngay trong đời này thấy được Đức Phật Vô Lượng Thọ thì nên phát tâm Vô thượng bồ-đề, tu các công đức, nguyện sanh về nước Cực Lạc. - Đức Phật lại bảo A-nan: Bậc trung, là những trời người trong các thế giới ở mười phương, một lòng nguyện sanh về nước kia, dù không thực hành hạnh sa-môn, tu tập các công đức, nhưng phát tâm Vô thượng bồ-đề, chí tâm niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, hồi hướng tất cả những công đức có được từ việc thực hành các điều thiện như giữ gìn trai giới, xây dựng chùa tháp, tạo lập tôn tượng, cúng dường sa-môn, treo phan đốt đèn, thắp hương rải hoa nguyện sanh về cõi ấy. Người này lúc sắp chết, Đức Phật Vô Lượng Thọ hiện hóa thân có đầy đủ ánh sáng, tướng hảo như Phật thật cùng với đại chúng hiện đến trước mặt. Người này liền theo Hóa Phật92 sanh về nước ấy, trụ giai vị Bất thoái chuyển, công đức và trí tuệ chỉ sau bậc thượng. - Đức Phật lại bảo A-nan: Bậc hạ, là những trời người trong các thế giới ở mười phương chí tâm muốn sanh vào nước kia, giả sử họ không thể tạo các công đức, nhưng phát tâm Vô thượng bồ-đề, một 92 Hóa Phật: thân Phật do Phật, Bồ-tát chân thật tùy cơ nghi biến hóa ra. 44
  45. lòng niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ dù chỉ mười niệm hay chỉ một niệm, với tâm chí thành nguyện sanh về nước ấy, nghe pháp sâu xa vui vẻ tin thích, không nghi ngờ. Người này lúc sắp chết, mộng thấy Đức Phật kia, cũng được vãng sanh, công đức trí huệ kém hơn bậc hạ. LUẬN RẰNG: Hỏi: Bậc thượng ngoài việc niệm Phật, còn có các hạnh xuất gia, lìa dục. Bậc trung còn có các hạnh xây dựng chùa tháp, tạo lập tôn tượng Bậc hạ cũng có các hạnh như phát tâm bồ-đề Vì sao chỉ nói Niệm Phật vãng sanh? Đáp: Trong bộ Quán Niệm Pháp Môn của Ngài Thiện Đạo ghi: “Phần đầu trong quyển hạ của kinh này ghi: Phật dạy căn tánh của chúng sanh không đồng, có thể chia làm ba bậc thượng, trung, hạ. Mỗi mỗi căn tánh, Đức Phật đều khuyên chuyên niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ. Những người này lúc sắp chết, Đức Phật và các Thánh đến rước, liền được vãng sanh”. Căn cứ theo lời giải thích này, thì ba bậc đều có nói Niệm Phật vãng sanh. Hỏi: Lời giải thích này chưa đáp ứng được câu gạn hỏi trên. Hỏi rằng vì sao không nói đến các hạnh khác mà chỉ nói đến Niệm Phật? Đáp: Việc này có ba ý: Một là bỏ các hạnh, trở về hạnh Niệm Phật, nên mới nói đến các hạnh. Hai là trợ giúp để thành tựu hạnh Niệm Phật, nên mới nói đến các hạnh. Ba là căn cứ hạnh Niệm Phật và các hạnh, mỗi mỗi lập ba phẩm, nên phải nói đến các hạnh. - Vì muốn bỏ các hạnh, trở về hạnh Niệm Phật: Căn cứ theo Quán Kinh Sớ của Thiện Đạo, từ trước đến đây tuy nói về lợi ích của hai môn Định-Tán, nhưng căn cứ theo ý bản nguyện Phật, khuyên chúng sanh một bề chuyên niệm Phật A-di-đà để giải thích, thì bậc thượng tuy nói đến các hạnh phát tâm Bồ-đề , nhưng căn cứ theo ý 45
  46. bản nguyện, chúng sanh chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, thì trong bản nguyện không có các hạnh khác. Ba bậc đều căn cứ theo bản nguyện, cho nên nói: “Nhất hướng (một bề) chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ”. Nói Nhất hướng là đối lại với nhị hướng, tam hướng Ví như ở Ấn Độ xưa có ba loại chùa: Nhất hướng Đại thừa tự, chỉ tu tập theo Đại thừa; Nhất hướng Tiểu thừa tự, chỉ tu tập theo Tiểu thừa; Đại Tiểu kiêm hành tự, tu học cả Đại và Tiểu. Trong hai loại chùa Đại và Tiểu đều có chữ Nhất hướng, còn trong Kiêm hành thì không. Nhất hướng trong đây cũng như vậy, tức là một bề chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Nếu ngoài niệm Phật, còn tu thêm hạnh nào khác thì không gọi là nhất hướng. Căn cứ theo đó, nếu đã nói nhất hướng thì không gồm tu các hạnh khác vậy. Trước nói các hạnh, sau nói một bề chuyên niệm, thì biết rõ là phế các hạnh, chỉ chọn niệm Phật mà thôi. Nếu không như thế thì lời nhất hướng thật khó thông. - Trợ giúp để thành tựu hạnh Niệm Phật: Có hai ý, Một, dùng căn lành đồng loại trợ giúp; hai, dùng căn lành khác loại để trợ giúp. + Dùng căn lành đồng loại: Trong Quán Kinh Sớ của Thiện Đạo có nêu ra năm hạnh để trợ giúp thành tựu một hạnh Niệm Phật, như đã nói trong phần Chánh hạnh - Tạp hạnh. + Dùng căn lành khác loại: Trước căn cứ theo bậc thượng để nói về trợ hạnh. Một bề chuyên niệm danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ là chánh hạnh, cũng là hạnh được trợ giúp. Bỏ gia đình, lìa dục làm sa-môn, phát tâm Bồ-đề là trợ hạnh, cũng là năng lực trợ giúp. Sự nghiệp vãng sanh lấy niệm Phật làm gốc, cho nên phải chuyên tâm niệm Phật. Chuyên tâm niệm Phật thì thực hành mãi mãi, không lui sụt, không bỏ phế; còn xuất gia, phát tâm bồ-đề chỉ một lần đầu mà thôi, cho nên không ngăn ngại niệm Phật. Trong bậc trung có các trợ hạnh xây tháp, tạo tượng, treo tràng phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương. Tức nơi chốn, pháp khí và các phẩm vật cúng dường đều trợ cho việc niệm Phật. Về ý nghĩa của các trợ hạnh này được ghi đầy đủ trong Vãng Sanh Yếu Tập. Bậc hạ cũng có phát tâm, cũng có niệm 46
  47. Phật. Ý nghĩa chánh trợ niệm Phật, căn cứ theo đoạn trước cũng có thể biết được. + Căn cứ theo hai môn: Niệm Phật và các hạnh, mỗi mỗi lập ba phẩm: Trước theo Niệm Phật, vì trong ba bậc đều nói: Một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ. Nên phải căn cứ theo môn niệm Phật mà lập ba phẩm. Phần Niệm Phật chứng cứ môn trong Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Kinh Song Quyển nói hành nghiệp của ba bậc tuy sâu cạn khác nhau, nhưng đều có ghi: Một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ” (sư Hoài Cảm cũng nói đồng với ý này). Kế đến theo các hạnh, vì trong ba bậc này đều có các hạnh phát tâm bồ- đề cho nên phải căn cứ theo các hạnh mà lập ba bậc. Phần Chư hạnh vãng sanh môn trong Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Kinh Song Quyển nói ba bậc cũng không ra ngoài các hạnh này”. Ba nghĩa trên tuy khác nhau, nhưng đều vì môn Nhất hướng niệm Phật. Thứ nhất là nghĩa lấy và bỏ; thứ hai là nghĩa chánh và trợ, tức là vì hỗ trợ cho chánh nghiệp là Niệm Phật mà nói đến trợ nghiệp là các hạnh; thứ ba là nghĩa chánh và phụ, tuy nói cả hai, nhưng lấy niệm Phật làm chánh, các hạnh làm phụ. Nhưng ba nghĩa này cũng rất khó hiểu, xin người học tùy tâm, chọn lựa lấy bỏ. Nhưng theo ý của ngài Thiện Đạo thì nghĩa thứ nhất là cốt yếu. Hỏi: Hạnh nghiệp vãng sanh của ba bậc đều nói niệm Phật, đó là lẽ đương nhiên, nhưng chín phẩm trong Quán Kinh và ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ vốn là khai hợp93 khác nhau. Nếu thế, vì sao ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ đều nói niệm Phật, còn trong chín phẩm của Quán Kinh thì hai phẩm thượng và trung không nói niệm Phật, đến phẩm hạ mới nói niệm Phật? Đáp: Câu này có hai ý: Một, lời hỏi có nêu: chín phẩm trong Quán Kinh và ba bậc trong kinh Vô Lượng Thọ là khai hợp khác 93 Khai hợp: Trong Quán Kinh nói chín phẩm là chia (khai) từ ba hậc: thượng, trung, hạ. Kinh Vô Lượng Thọ nói ba bậc là gom lại (hợp) từ chín phẩm. 47
  48. nhau. Như thế thì biết trong chín phẩm đều có niệm Phật. Vì sao biết? Vì trong ba bậc đều có niệm Phật, lẽ nào trong chín phẩm không có niệm Phật sao? Cho nên Vãng Sanh Yếu Tập ghi: “Trong chín phẩm, hạnh Niệm Phật thuộc về phẩm nào? Đáp: “Nếu như thuyết mà hành, lẽ ra thuộc về Thượng thượng, nhưng tùy hơn kém (có thể do căn cơ, cũng có thể do hành trì) mà phân làm chín phẩm. Nhưng hành nghiệp chín phẩm mà kinh nói, chỉ mới nêu một lẽ, thật ra là vô lượng”. Cho nên biết chín phẩm cũng có hạnh Niệm Phật. Hai, ý của Quán Kinh, đầu tiên nói rộng về hạnh Định-Tán, để thích hợp với tất cả khả năng trình độ, sau phế bỏ Định thiện-Tán thiện để trờ về niệm Phật. Đó chính là ý trong câu kinh: “Ông hãy thọ trì thật kỹ lời này ”94 trong Quán Kinh. Ý nghĩa đoạn văn này sẽ trình bày ở phần sau. Vì thế nên biết, hành nghiệp chín phẩm vãng sanh cốt ở niệm Phật. V. Niệm Phật được lợi ích TRÍCH DẪN: Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ ghi; “Đức Phật bảo Di-Lặc95: Nếu người nào nghe danh hiệu của Đức Phật kia mà khởi tâm vui mừng, dù chỉ một niệm xưng danh, nên biết người ấy được lợi ích lớn, đầy đủ công đức vô lượng. Vãng Sanh Lễ Tán của Thiện Đạo ghi: “Nếu người được nghe danh hiệu của Đức Phật A-di-đà, khởi tâm hoan hỉ, dù chỉ một niệm xưng danh, người ấy sẽ được vãng sanh”. LUẬN RẰNG: 94 Nguyên văn đầy đủ câu này: (Đức Phật bảo A-nan: Ông hãy thọ trì thật kỹ lời này. Thọ trì lời này, tức là thọ trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ) 95 Di-lặc: vị Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ, hiện trụ tại Nội viện cõi trời Đâu-suất, mai sau sẽ sanh xuống nhân gian thành Phật. 48
  49. Hỏi: Trong đoạn văn nói về ba bậc vãng sanh, ngoài công đức niệm Phật, còn có các công đức khác như phát tâm Bồ-đề Vì sao không khen ngợi các công đức ấy, chỉ khen ngợi công đức niệm Phật? Đáp: Ý của Đức Phật khó lường, nhất định Ngài có chủ ý sâu xa. Nhưng nay hãy căn cứ theo ý của đại sư Thiện Đạo mà trình bày. Ý của Đức Phật tuy chỉ muốn nói thẳng về hạnh Niệm Phật, nhưng nhất thời tùy căn cơ mà thuyết thêm các hạnh, chia ra ba bậc sâu cạn khác nhau. Nay đại sư cũng đã bỏ mà không khen ngợi, gác qua mà không luận đến, chỉ chọn một hạnh Niệm Phật để khen, thì suy nghĩ cũng có thể phân biệt được tại sao. Nếu căn cứ theo hạnh Niệm Phật để phân biệt ba bậc thì có hai ý: Một, tùy theo quán và niệm sâu cạn mà phân thành ba bậc. Hai, theo niệm Phật nhiều ít mà phân ba bậc. Theo quán niệm sâu cạn thì như trên đã dẫn, chính là nói: “nếu như thuyết mà hành trì, đúng ra thuộc phẩm Thượng thượng”. Về niệm Phật nhiều ít, trong văn kinh nói bậc hạ có nêu số lượng: từ mười niệm xuống chỉ còn một niệm Hai bậc thượng và trung, căn cứ theo đây mà số niệm tăng dần. Quán Niệm Pháp Môn ghi: “Một ngày niệm một vạn biến danh hiệu Phật, nhưng cũng phải cần theo thời khóa lễ lạy, khen ngợi các việc trang nghiêm của cõi Tịnh. Lại cần phải tăng tiến niệm ba vạn, sáu vạn, mười vạn, nhất định Thượng phẩm thượng sanh”. Nên biết niệm ba vạn biến trở lên là hạnh nghiệp Thượng phẩm thượng sanh; dưới ba vạn biến là hành nghiệp Thượng phẩm trung sanh trở xuống. Như thế đã rõ tùy theo số niệm nhiều hay ít mà phân biệt phẩm vị. Một niệm ở đây chính là một niệm nói trong phần “Niệm Phật nguyện thành tựu”, cũng là một niệm nói trong bậc hạ ở trên. Trong văn “Nguyện thành tựu” tuy ghi: “Chưa nói công đức lợi ích lớn của một niệm”; văn trong phần bậc hạ tuy nói: “Cũng không nói công đức lợi ích lớn của một niệm”, nhưng đến đây lại nói một niệm được lợi ích lớn và khen là vô thượng. Cho nên biết đó là chỉ cho một niệm ở trên. Lợi ích lớn là đối với lợi ích nhỏ, cho các hạnh như phát tâm Bồ-đề là lợi ích nhỏ, “dù chỉ một niệm” là lợi ích lớn. Còn công đức vô thượng là đối với công đức hữu thượng vậy. Cho công đức niệm Phật là vô thượng, thì một niệm là một vô thượng, mười niệm là mười vô thượng, trăm niệm là trăm vô thượng, 49
  50. ngàn niệm là ngàn vô thượng. Cho đến lần lượt tăng tiến từ ít đến nhiều, đến hằng sa niệm Phật, vô thượng công đức cũng hằng sa. Vậy những người nguyện cầu vãng sanh, sao lại bỏ niệm Phật có lợi ích lớn vô thượng mà lại cưỡng tu các hạnh có lợi ích hữu thượng? VI. Sau một vạn năm thời Mạt pháp các hạnh đều không còn, chỉ giữ lại môn Niệm Phật TRÍCH DẪN: Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ ghi: “Trong đời tương lai kinh đạo diệt hết, ta rủ lòng từ bi thương xót chúng sanh, chỉ giữ lại kinh này trụ tại thế gian thêm một trăm năm. Bấy giờ, nếu có chúng sanh nào gặp được kinh này, tùy ý nguyện vãng sanh thì đều được độ”. LUẬN RẰNG: Hỏi: Trong kinh chỉ nói giữ lại kinh này một trăm năm, chứ đâu nói giữ môn Niệm Phật một trăm năm. Vì sao ở đây lại nói là giữ môn Nĩệm Phật? Đáp: Toàn bộ nội dung kinh này đều nói đến niệm Phật, như đã trình bày ở trên, ở đây không cần phải nêu ra. Các ngài Thiện Đạo, Hoài Cảm, Huệ Tâm đều nói đồng với ý này. Thế thì kinh này trụ thế, tức là môn Niệm Phật trụ thế vậy. Vì sao? Vì kinh này tuy nói đến phát tâm Bồ-đề, nhưng chưa nói hành tướng của tâm ấy; tuy nói đến trì giới, nhưng chưa nói hành tướng của trì giới. Về hành tướng của tâm Bồ-đề, thì trong kinh Bồ-đề Tâm trình bày rất đầy đủ. Kinh ấy, trước nói diệt các hạnh của tâm Bồ-đề, vậy nhờ vào đâu để tu? Còn về hành tướng của trì giới thì được nói rõ trong giới luật Đại Tiểu thừa. Giới luật ấy, trước diệt các hạnh trì giới, vậy nhờ vào đâu để tu? Các hạnh khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được. Cho nên trong bộ Vãng Sanh Lễ Tán, ngài Thiện Đạo giải thích đoạn văn này như sau: 50
  51. “Sau một vạn năm, Tam bảo diệt Chỉ còn kinh này trụ trăm năm Bấy giới người nghe, xưng một niệm Ắt được sanh về cõi nước kia”. Lại nêu ra bốn ý để giải thích đoạn văn này: Một, thời gian trụ và diệt trước sau của Thánh đạo môn và Tịnh độ môn. Hai, thời gian trụ và diệt trước sau của giáo Thập phương tịnh độ và giáo Tây phương tịnh độ. Ba, thời gian trụ và diệt trước sau của Đâu-suất96 và Tây phương. Bốn, thời gian trụ và diệt trước sau của môn Niêm Phật và các hạnh. + Thời gian trụ và diệt của Thánh đạo và Tịnh độ: Các kinh của Thánh đạo môn diệt trước, cho nên nói: “kinh đạo diệt hết. Chỉ lưu giữ kinh này của Tịnh độ môn, cho nên nói: “trụ một trăm năm”. Nên biết cơ duyên của chúng sanh đối với Thánh đạo môn rất cạn cợt, cơ duyên của chúng sanh đối với Tịnh độ môn rất sâu dày. + Thời gian trụ và diệt của giáo Thập phương tịnh độ và Tây phương tịnh độ: Giáo pháp dạy sanh về các cõi Tịnh trong mười phương diệt trước, cho nên nói: “kinh đạo diệt hết”. Chỉ giữ lại kinh này là giáo pháp vãng sanh Tây phương tịnh độ, cho nên nói: “trụ một trăm năm”. Nên biết, cơ duyên của chúng sanh đối với giáo vãng sanh Tịnh độ mười phương rất cạn cợt, cơ duyên chúng sanh đối với giáo vãng sanh Tịnh độ tây phương rất sâu dày. + Thời gian trụ và diệt của giáo vãng sanh Đâu-suất và giáo vãng sanh Tịnh độ: Các giáo dạy sanh về cõi Đâu-suất diệt trước, cho nên nói: “kinh đạo diệt hết”. Chỉ lưu lại kinh dạy vãng sanh Tây phương tịnh độ, cho nên nói: “trụ một trăm năm”. Nên biết, cõi Đâu- suất tuy gần, nhưng duyên cạn mỏng, cảnh Tịnh tuy xa nhưng duyên sâu dày. 96 Đâu-suất: một tầng trời thuộc cõi Dục, ở khoảng giữa trời Dạ-ma và trời Lạc Biến Hóa. Cõi trời này chia làm hai phần: phần Nội viện là Tịnh độ của bồ-tát Di-lặc, Ngoại viện là nơi vui chơi của các thiên chúng. 51
  52. + Thời gian trụ và diệt của hạnh tu các giáo và Niệm Phật: Các giáo dạy tu các hạnh vãng sanh diệt trước, nên nói: “kinh đạo diệt hết”. Chỉ giữ kinh dạy về niệm Phật, cho nên nói: “trụ một trăm năm”. Nên biết cơ duyên của chúng sanh đối với giáo dạy tu các hạnh vãng sanh rất cạn cợt, còn đối với giáo dạy niệm Phật rất sâu dày. Hơn nữa, giáo dạy tu các hạnh vãng sanh ít có duyên với chúng sanh, còn giáo niệm Phật thì có duyên rất lớn đối với đời. Giáo dạy các hạnh vãng sanh chỉ hạn cuộc trong một vạn năm thời mạt pháp, còn giáo dạy niệm Phật vãng sanh nhuần thấm đến một trăm năm sau khi giáo pháp diệt tận. Hỏi: Đã nói: “Ta vì lòng từ bi thương xót chúng sanh, nên chỉ lưu giữ kinh này trụ ở đời thêm một trăm năm”. Nếu thế, Đức Thế Tôn vì lòng từ bi mà giữ lại kinh giáo, thì sao không giữ các kinh giáo khác lại chỉ giữ kinh này? Đáp: Dẫu có lưu giữ riêng bất cứ kinh nào, thì cũng không ngại, nhưng nay Đức Phật chỉ giữ lại kinh này là có thâm ý. Theo hòa-thượng Thiện Đạo thì kinh này nói về bản nguyện niệm Phật vãng sanh của Đức A-di-đà, cho nên Đức Thích-ca từ bi, vì giữ môn Niệm Phật mà phải đặc biệt giữ lại kinh này. Các kinh khác chưa nói đến bản nguyện niệm Phật vãng sanh của A-di-đà Như lai. Cho nên Đức Thích-ca từ bi không giữ lại. Tuy tất cả bốn mươi tám nguyện đều là bản nguyện, nhưng đặc biệt dùng niệm Phật làm phép tắc vãng sanh. Cho nên ngài Thiện Đạo giải thích rằng: Hoằng thệ tuy nhiều, bốn tám môn, Nhưng chỉ niệm Phật là tối tôn. Ai luôn niệm Ngài, Ngài nhớ nghĩ, Chuyên tâm tưởng Phật, Phật biết lòng. Cho nên biết, trong bốn mươi tám nguyện, đã lấy nguyện Niệm 52
  53. Phật vãng sanh làm vua trong các bản nguyện, vì thế Đức Thích-ca từ bi, đặc biệt lưu kinh này trụ thế một trăm năm. Như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ không phó chúc các hạnh Định-Tán, mà chỉ phó chúc hạnh Niệm Phật. Đó là vì thuận với nguyện của Đức Phật kia vậy. Hỏi: Lưu lại kinh này trong khoảng môt trăm năm , lẽ đương nhiên, vì hạnh Niệm Phật thích hợp thời gian và trình độ của chúng sanh thời ấy. Nhưng không biết có thích hợp trình độ chúng sanh thời chánh, tượng, mạt97 hay không? Đáp: Bao gồm cả các căn cơ ba thời ấy. Đó là nên lợi ích mai sau để khuyên dạy người hiện đời, người học cần phải biết. VII. Ánh sáng của Đức Phật A-di-đà không chiếu đến các hành giả khác, chỉ nhiếp thọ hành giả niệm Phật. TRÍCH DẪN: Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng, mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn vẻ đẹp, mỗi một vẻ đẹp có tám vạn bốn ngàn tia sáng, mỗi một tia sáng chiếu khắp các thế giới ở mười phương, nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật, không bao giờ lìa bỏ”. Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ ghi: “Từ câu ‘Đức Phật Vô Lượng Thọ’ đến câu ‘không bao giờ lìa bỏ’ chính là nói về pháp quán ánh sáng của thân để làm lợi ích cho những người có duyên. Đoạn này gồm năm phần: Một, số lượng tướng. Hai, số lượng của vẻ đẹp. Ba, số lượng tia sáng. Bốn, khoảng cách ánh sáng chiếu soi. Năm, nơi ánh sáng chiếu đến, tất cả đều được nhiếp thọ. Hỏi: Tu tập đủ các hạnh, hồi hướng thì đều được vãng sanh. Vì 97 Chánh, tượng, mạt: thời Chánh pháp năm trăm năm, thời Tượng pháp một ngàn năm, thời Mạt pháp một vạn năm (theo thuyết của Huệ Tư và Cát Tạng). 53
  54. sao ánh sáng của Phật chiếu soi khắp mà chỉ nhiếp thọ những người niệm Phật? Đáp: Câu này có ba ý: Một, duyên thân thiết. Tức chúng sanh khởi hạnh tu tập, miệng thường tụng danh hiệu Phật, Phật liền nghe; thân thường lễ Phật, Phật liền thấy; tâm thường niệm Phật, Phật liền biết. Chúng sanh nhớ nghĩ đến Phật, Phật cũng nhớ nghĩ đến chúng sanh. Ba nghiệp của chúng sanh và Phật không lìa nhau, cho nên gọi là duyên thân thiết. Hai, duyên gần gũi, chúng sanh nguyện thấy Phật, Phật liền hiện đến trước mặt, cho nên gọi là duyên gần gũi. Ba, duyên tăng thượng, chúng sanh niệm danh hiệu Phật thì diệt trừ được tội trong nhiều kiếp. Lúc sắp chết, Đức Phật và các vị Thánh cùng đến đón tiếp, các tà nghiệp trói buộc không thể ngăn trở, cho nên gọi là duyên tăng thượng. Các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng hoàn toàn không thể so sánh với niệm Phật. Cho nên trong các kinh, nhiều chỗ khen ngợi công năng của niệm Phật. Như bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói chuyên niệm danh hiệu Phật A-di- đà thì được vãng sanh. Kinh A-di-đà ghi: “Từ một ngày cho đến bảy ngày, chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì được vãng sanh”. Lại có rất nhiều Đức Phật trong mười phương xác chứng cho sự chân thật, không dối ấy. Còn trong phần Định-tán của kinh này thì chỉ nêu chuyên niệm danh hiệu sẽ được vãng sanh. Những minh chứng như thế rất nhiều. Quán Niêm Pháp Môn ghi: “Các tia sáng nơi thân của Phật chiếu cùng khắp các thế giới trong mười phương”. Nhưng chỉ có những chúng sanh niệm Phật A-di-đà thì mới được ánh sáng từ tâm Phật chiếu soi và nhiếp hộ, không xa lìa. Phật hoàn toàn không chiếu và nhiếp theo những hành già tu tập hạnh khác. LUẬN RẰNG: Hỏi: Nói ánh sáng của Phật chỉ chiếu đến người niệm Phật, không chiếu đến những người tu các hạnh khác, là có ý gì? 54
  55. Đáp: Câu này gồm hai ý: Một, tức ba nghĩa của duyên thân thiết như đã trình bày ở đoạn trên. Hai, nghĩa bản nguyện, tức các hạnh khác không phải là bản nguyện, cho nên không chiếu soi, nhiếp thọ, còn hạnh Niệm Phật là bản nguyện nên chiếu soi nhiếp thọ. Trong Lục Thời Lễ Tán của ngài Thiện Đạo có ghi: Thân Di-đà như kim sơn vương Ánh sáng tướng hảo chiếu mười phương Chỉ người niệm Phật hay nhiếp thọ Phải hay bản nguyện, sức không lường Lại dẫn văn: “Các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng hoàn toàn không thể sánh với niệm Phật”. Đó là so sánh với các hạnh trong môn Tịnh độ mà thôi. Tức hạnh Niệm Phật là diệu hạnh được chọn lấy từ hai trăm mười ức cõi nước, các hạnh là những hạnh thô đã loại bỏ từ hai trăm mười ức cõi nước. Cho nên nói hoàn toàn không thể so sánh. Hơn nữa Niệm Phật là bản nguyện, các hạnh khác không phải bản nguyện, cho nên hoàn toàn không thể so sánh. VIII. Người niệm Phật nhất định phải đầy đủ ba tâm. TRÍCH DẪN : Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Nếu chúng sanh nguyện sanh về nước kia thì nên phát khởi ba tâm là tâm Chí thành, tâm Tín sâu, tâm Hồi hướng phát nguyện. Hễ đầy đủ ba tâm này thì nhất định được sanh về nước kia”. Tâm chí thành: Quán Vô Lượng Kinh Sớ ghi: “Tâm Chí thành, trong đó, chí là chân, thành là thật. Ý muốn nói giải hạnh98 của ba nghiệp thân, miệng, ý nhất định phải được xuất phát từ tâm chân thật. Không được bên ngoài hiện tướng hiền thiện, tinh tấn, bên trong giả dối không thật, đầy dẫy tham sân, tà vạy, gian trá, tánh ác khó trừ, 98 Giải hạnh: hiểu biết và thực hành, tức thấu suốt nghĩa lý và thuận theo nghĩa lý ấy mà thực hành. 55
  56. giống như loài rắn rết. Tuy khởi tu ba nghiệp, nhưng đều gọi là tạp độc, cũng gọi là hạnh hư giả, không gọi là chân thật. Nếu tạo tác như thế mà tâm khởi hạnh tu tập, dẫu cho thân tâm siêng năng lao khổ, ngày đêm cấp thiết hành trì như cứu lửa cháy đầu, thì cũng đều gọi là thiện xen lẫn độc. Nếu muốn hồi hướng hạnh tạp độc này cầu sanh về cõi Tịnh của Đức Phật kia, thật không thể được. Vì sao? Chính là do Đức Phật A-di-đà khi còn là Bồ-tát, dù chỉ trong một niệm, một sát-na99, ba nghiệp tu tập đều từ tâm chân thật. Tất cả những hành vi, những mong cầu cũng đều chân thật. Chân thật có hai loại là chân thật tự lợi và chân thật lợi tha. Chân thật tự lợi lại có hai: Một, trong tâm chân thật ngăn chặn, xa lìa cõi uế và các pháp ác; đi, đứng, ngồi, nằm đều quán tưởng ta đồng với các Bồ-tát để ngăn chặn và xa lìa các pháp ác. Hai, từ tâm chân thật siêng năng tu tập các pháp thiện của phàm thánh, của mình và người. Từ tâm chân thật, miệng khen ngợi Đức Phật A-di-đà và y báo chánh báo cõi kia. Từ tâm chân thật, miệng chê bai các việc khổ đau, xấu ác của y báo, chánh báo trong ba cõi, sáu đường, đồng thời khen ngợi những việc thiện mà ba nghiệp của chúng sanh đã tạo. Nếu nghiệp bất thiện thì cẩn thận mà xa lánh, không nên vui thuận theo. Lại từ tâm chân thật, thân hành thiện, chắp tay lễ kính, dâng cúng tứ sự100 lên Đức Phật A- di-đà và y báo chánh báo cõi kia. Từ tâm chân thật, thân nghiệp khinh chê, nhàm lìa y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sanh tử này. Từ tâm chân thật, ý nghiệp suy nghĩ, quán tưởng, nhớ nghĩ Đức Phật A-di-đà và y báo chánh báo cõi kia như hiện trước mặt. Từ tâm chân thật, ý nghiệp khinh chê, nhàm lìa y báo, chánh báo của mình và người trong ba cõi sanh tử này. Ba nghiệp bất thiện, nên xa lìa từ tâm chân thật; ba nghiệp thiện cũng phải tạo từ tâm chân thật. Không phân biệt trong tâm hay ngoài thân, tạo thiện hay lìa bất 99 Sát-na: Phạn: ksana, Pali: khana, Tây Tạng: skad-cig. Hán dịch là nhất niệm, tức khoảng thời gian rất ngắn. Có rất nhiều thuyết, nhưng ở đây theo thuyết trong Luận Câu-xá mà tính thì một sát-na tương đương với 1/75 giây. 100 Tứ sự: bốn việc: ăn, mặc, ở, bệnh. Hoặc chỉ cho bốn nhu cầu cần thiết trong sinh hoạt hằng ngày của chúng tăng tương ứng với bốn việc trên: thức ăn uống, áo quần, thuốc men, vật dụng để ngồi nằm. 56