Bài giảng Sinh sản gia súc - Phan Vũ Hải

pdf 178 trang ngocly 2040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Sinh sản gia súc - Phan Vũ Hải", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_sinh_san_gia_suc_phan_vu_hai.pdf

Nội dung text: Bài giảng Sinh sản gia súc - Phan Vũ Hải

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ Bài giảng (Dùng cho sinh viên ngành chăn nuôi – thú y) Giảng viên: ThS. PHAN VŨ HẢI Bộ môn Thú y học Lâm sàng, Khoa Chăn nuôi thú y E-mail: vu.phan@graduates.jcu.edu.au HUẾ - 2006
  2. HỌC PHẦN I SINH LÝ SINH SẢN GIA SÚC - - - - - - - - - - - - - - - - Yêu cầu chung: Nắm vững những quá trình sinh lý sinh sản cơ bản, làm nền tảng cho kiến thức và ứng dụng trong điều khiển sinh sản ở vật nuôi. CHƯƠNG I. SINH LÝ SINH DỤC ĐỰC VÀ CÁI Mục đích: Giới thiệu cấu tạo giải phẫu và chức năng của bộ máy sinh dục đực và cái, quá trình hình thành và phát triển của trứng, quá trình thụ tinh, làm tổ của hợp tử và mang thai ở gia súc. Thời lượng giảng dạy: 9 tiết I. SINH LÝ SINH SẢN GIA SÚC ĐỰC 1. Cấu tạo và chức năng bộ máy sinh dục đực Chú thích: a. Bầu tinh bu. Tuyến Cowper cap. Đầu phụ dịch hoàn caud. Đuôi phụ dịch hoàn dd. Ống dẫn tinh es. Qui đầu pg. Tuyến tiền liệt r. Trực tràng s; bìu t. Tinh hoàn up. Ống niệu vg. Tuyến tinh nang Hình 2. Cấu tạo cơ quan sinh dục đực [3] ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  3. 1.1. Dịch hoàn còn gọi tinh hoàn Cấu tạo: Bên ngoài là lớp giác mạc riêng gồm một lớp sợi vững chắc do phúc mạc kéo đến hình thành. Bên trong là màng trắng (tổ chức liên kết mỏng), từ màng trắng có các vách đi sâu vào trong chia dịch hoàn thành nhiều múi, mỗi múi chứa nhiều ống sinh tinh uốn khúc bên trong có tinh trùng được hình thành. Trong ống sinh tinh của gia súc trưởng thành luôn luôn có các dạng của tinh trùng đang phân chia và phát triển từ tinh nguyên bào đến tinh bào, rối đến tiền tinh trùng. Ngoài ra, ở đáy ống sinh tinh còn có tế bào đáy (còn gọi là tế bào đỡ, tế bào Sertoli) là nơi biến thái của tinh trùng từ tiền tinh trùng thành tinh trùng non. Chính tế bào Sertoli cung cấp dinh dưỡng cho tinh trùng phát dục. Quanh ống sinh tinh có tế bào kẽ Leidig (tiết hormone sinh dục đực), các nhu mô và các mạch máu nhỏ. Các ống sinh tinh cong trong mỗi tiểu thùy hướng về phía trung tâm, chuyển thành ống thẳng, chúng liên hệ nhau tạo thành lưới tinh. Hình dáng kích thước của dịch hoàn là một tiêu chuẩn để đánh giá phẩm chất của giống. * Dịch hoàn có 2 chức năng: - Ngoại tiết (quan trọng nhất) là sản sinh ra tế bào sinh dục đực. - Nội tiết: sản xuất ra kích tố sinh dục đực (androgen) 1.2. Phụ dịch hoàn Hình 3. Cấu tạo dịch hoàn [2] Còn gọi là dịch hoàn phụ hay mào tinh. Cơ quan này được gắn ở bờ trên và bờ sau của dịch hoàn. Tinh trùng được sản sinh ở ống sinh tinh của tinh hoàn rồi được đưa về phụ dịch hoàn. Ở dịch hoàn phụ, tinh trùng phải di chuyển một quãng đường dài (dê, bò 60 m, ngựa 70 m, lợn 100 m). *Chức năng: - Là kho để chứa tinh trùng và giúp tinh trùng sống lâu trong cơ thể. Trong phụ dịch hoàn thường có khoảng 200 tỉ tinh trùng và 70% nằm ở phần đuôi phụ hoàn. Ở đây do độ pH hơi toan (6.2 – 6.8) và nhiệt độ ở đây cũng thấp ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  4. hơn làm cho tinh trùng ít hoạt động và sống lâu. Ngoài ra ở các vách của dịch hoàn phụ có nhiều mạch quản và lâm ba quản là nguồn cung cấp năng lượng cho tinh trùng. Nếu đến một giai đoạn nào đó mà con đực không sử dụng thì tế bào được lưu giữ tại đây, già cỗi, và nếu không được sử dụng thì sẽ bị hấp phụ và làm tiêu biến đi sau 40 – 60 ngày. - Là nơi mà tinh trùng thành thục trước khi xuất tinh, đặc biệt là trong quá trình vận chuyển trong phụ dịch hoàn tinh trùng hoàn thiện màng bán thấm lipoproteid. 1.3. Ống dẫn tinh Phần kéo dài của đuôi phụ dịch hoàn, qua ống bẹn vào xoang bụng tới bầu tinh (là nơi phình to nằm cuối cùng của ống dẫn tinh, nằm trên bàng quang). Ống dẫn tinh có chức năng pha loãng các chất tiết của đường sinh dục với tinh trùng trước khi được phóng ra ngoài từ bầu tinh. 1.4. Dương vật Dương vật loài có vú chủ yếu gồm thể hang, các thỏi xốp có cấu tạo từ mô liên kết vững chắc, có lẫn các sợi đàn hồi và các tế bào cơ trơn. Tác dụng của dương vật là bài tiết nước tiểu, phương tiện giao phối và phóng tinh dịch ra ngoài. 1.5. Các tuyến sinh dục phụ Các tuyến sinh dục phụ bao gồm: tuyến tiền liệt, tuyến cầu niệu đạo và tinh nang. Chất tiết của chúng gọi là tinh thanh với chức năng chính là (i) Kích thích và gây hưng phấn sinh dục và (ii) Các dịch tiết của tuyến sinh dục rửa đường niệu đạo sinh dục và nuôi sống các tế bào sinh dục đực khi ra ngoài cơ thể. ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  5. a. Tuyến cầu niệu đạo (tuyến Cowper): Còn gọi là tuyến củ hành (bulbourethral), nằm cuối niệu đạo, trong xoang chậu, trên vòng cung ngồi. Ở chó không phát triển. Chức năng: với độ pH trung tính, có tác dụng sát trùng, làm trơn niệu đạo sinh dục và có mùi đặc biệt gây hưng phấn sinh dục . b. Tuyến tiền liệt (prostate): nằm ở cuối ống dẫn tinh và phần đầu của niệu đạo, phát triển ở chó, ngựa nhưng ít phát triển ít phát triển ở trâu, bò và lợn. Sự phát triển của nó liên quan mật thiết đến hoạt tính sinh dục: lúc chưa thành thục thì rất nhỏ và khi thành thục thì tuyến này phát triển nhanh chóng. Chức năng: tiết ra dịch có tính chất hơi kiềm nhằm trung hòa độ axit trong lòng niệu đạo và axit Cacbonic được sản sinh do hoạt động của tinh trùng. Trong dịch tiết này còn có Prostaglandin F2α có tác dụng làm co bóp cơ trơn để thực hiện phản xạ phóng tinh. c. Tuyến tinh nang (seminal vesicles): Còn gọi là túi tinh, gồm một đôi nằm ở phần cuối ống dẫn tinh. Tuyến này phát triển ở lợn, ngựa; kém phát triển ở trâu, bò và cừu. Chức năng: Dịch tiết của tuyến tinh nang có dạng keo phèn màu trắng, hơi vàng, khi gặp chất tiết của tuyến tiền liệt thì ngưng kết lại thành một cục để nút cổ tử cung không cho tinh dịch chảy ngược ra ngoài. Chất tiết này còn có γ globulin có tác dụng chống vi khuẩn xâm nhập và còn có các thành phần khác như frutoza, lipit cung cấp năng lượng cho tinh trùng hoạt động. * Trình tự phân tiết của các tuyến khi gia súc phóng tinh Trước khi gia súc phóng tinh, dịch của tuyến Cowper tiết trước, dịch này nhiều ít khác nhau tùy từng loài gia súc. Tiếp đến là tinh trùng và dịch tiết của tuyến tiền liệt, giai đoạn này chất tiết có màu và màu đó do nồng độ tinh trùng quyết định. Cuối cùng là dịch tiết của nang tuyến, dịch này có keo dính. 2. Sinh lý sinh dục của con đực Dịch hoàn có chức năng sinh lý ngoại tiết là sinh ra tinh trùng và chức năng sinh lý nội tiết là sinh ra hormone sinh dục đực (testosteron). 2.1. Chức năng sản sinh ra tinh trùng Gia súc đực từ khi sinh ra cho đến lúc có khả năng nhảy cái và xuất tinh lần đầu tiên thì tinh dịch thường chưa được 50 triệu tinh trùng với hoạt lực tiến thẳng khoảng 10%: con đực đã thành thục về tính. Thời gian sinh ra cho đến lúc đó gọi là tuổi thành thục về tính. Tuổi thành thục về tính phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: giống, cá thể, thời tiết khí hậu và chế độ chăm sóc nuôi dưỡng. Nhìn chung tuổi thành thục về tính sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc (xem bảng sau). ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  6. Loài gia súc Tuổi thành thục sinh dục Tuổi thành thục thể vóc Trâu 1,5 – 2 năm 3 – 3.5 năm Bò 12 - 18 tháng 2 – 2.5 năm Lợn 5 - 8 tháng 6 - 10 tháng Dê, Cừu 6 - 8 tháng 12 – 18 tháng Bảng 1. Tuổi thành thục về tính và thể vóc của gia súc cái [4] Hoạt động sinh dục con đực là quanh năm hoặc theo mùa vụ. Tinh trùng được sản sinh ra từ các ống sinh tinh của dịch hoạt trong suốt đời sống sinh dục của con đực dưới tác dụng của các hormone hướng vào sinh dục của tuyến yên và tuyến sinh dục. Mỗi ngày tinh hoàn có khả năng sản sinh ra khoảng 300 triệu tinh trùng. 2.1.1. Sự tạo thành tinh trùng a. Thời kỳ tinh hoàn So với trứng, tinh trùng nhỏ hơn nhiều. Nhà khoa học Kelliker (1817-1905) đã chứng minh tinh trùng cũng là một tế bào. Thành ống sinh tinh có chứa một số tế bào biểu mô mầm được gọi là các tinh nguyên bào (tế bào sinh dục nguyên thuỷ). Khi động vật bước vào tuổi thành thục về tính thì các tinh nguyên bào tiến hành giảm phân để tạo thành tinh trùng (trải qua hai lần phân bào liên tiếp) (Hình 5). Trước khi xảy ra quá trình giảm phân thì tinh nguyên bào (2n) đã trải qua thời kì sinh trưởng để tạo thành tinh bào cấp I (2n). Tinh bào cấp I tiến hành phân chia giảm nhiễm lần thứ nhất để tạo ra hai tế bào con như nhau được gọi là tinh bào cấp II (n). Tinh bào cấp II tiếp tục phân chia lần thứ hai để tạo ra bốn tinh tử đơn bội. Các tế bào này không còn phân chia nữa và biến thành những tinh trùng hoạt động, trong đó có 2 tinh trùng mang NST giới tính X và 2 tinh trùng mang NST giới tính Y. Điều đó nói lên rằng số lượng hai loại tinh trùng là bằng nhau. Tất cả các giai đoạn hình thành tinh nguyên bào, tiền tinh trùng và tinh trùng đều xảy ra tại tế bào sertoli (Hình vẽ). Tế bào này trực tiếp nuôi dưỡng, bảo vệ và kiểm soát quá trình sinh sản của tinh trùng [1]. ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  7. Hình 6. Sơ đồ A và hình vẽ B về quá trình sinh tinh [1] A. Gián phân giảm số B. Gián phân nguyên số 1. Tinh nguyên bào (2n NST) 2. Tinh bào I (2n NST) 3. Tinh bào II (n NST) 4. Tiền tinh trùng (n NST hoặc với X hoặc với Y) (A) Trong thời kì tinh hoàn, tinh trùng có các đặc điểm sau: (i) Không có khả năng thụ thai; (ii) Không có vận động được hoặc có vận động nhưng yếu ớt. Tuy nhiên tinh trùng có dao động đặc biệt khi tiếp xúc với không khí; (iii) Phản ứng gram âm, chỉ có một số rất nhỏ phản ứng gram dương, pH của môi trường trung tính nghiêng về kiềm. b. Thời kì mào tinh Trong thời kì này tinh trùng ở trạng thái ức chế bởi vì trao đổi chất của nó (B) bị giảm và chúng không có đủ chất dinh dưỡng (fructoza). Trong cơ thể sống chúng nằm bất động và chồng sít lên nhau trong những đoạn nhất định của ống mào tinh. Thời gian lưu lại ở phụ dịch hoàn, tinh trùng tiếp tục phát dục và hoàn thiện (được xem như là quá trình thành thục sinh dục). Chất tiết của phụ dịch hoàn ít chất điện giải nên tinh trùng sống lâu hơn, màng bán thấm được hình thành, đuôi cũng được hoàn thiện. Tinh trùng ở mào tinh nằm chờ đợi và được xuất ra ngoài nhờ có phản xạ phóng tinh của con đực, nếu không được xuất ra thì tinh trùng đó bị già cỗi và tiêu biến. Người ta tính được thời gian hình thành tinh trùng khoảng 53-69 ngày [5]. ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  8. 2.1.2. Sự điều hoà quá trình sinh lý sinh sản của con đực a. Các hormone chính Hình 7. Cơ chế TK-TD điều khiển sinh sản ở con đực [1] - Hypothalamus tiết ra hormone giải phóng kích dục tố GnRH (Gonadotropin Releasing Hormone) - Tuyến yên : (i) FSH (Follicle Stimulating Hormone) còn được gọi là kích tố tạo tinh có tác dụng kích thích tế bào sinh tinh trong các ống cong nhỏ của dịch hoàn sản sinh ra tinh trùng; (ii) LH (Luteinizing Hormone) có tác dụng kích thích tế bào kẽ Leidig ở dịch hoàn tiết ra hormone sinh dục đực Androgen. - Tuyến sinh dục: Các tế bào kẽ (tế bào Leydig) của tinh hoàn có chức năng sản sinh ra các hormone sinh dục của con đực thường được gọi chung là androgen bao gồm các hormone như: testosteron, dihydrotestosteron và androstenedion, nhưng quan trọng nhất là testosteron. Ngoài ra tinh hoàn còn tiết ra một số hormone khác như: inhibin. ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  9. Testosteron là một hợp chất steroid có 19 C và được tổng hợp từ cholesteron hoặc axetyl CoA. Testosteron được bài tiết ra dưới tác dụng của HCG (hormone nhau thai) trong thời kỳ bào thai và LH của tuyến yên trong thời kỳ trưởng thành. Tác dụng chính của testosteron như sau: + Trong thời kỳ bào thai: Kích thích sự phát triển của cơ quan sinh dục ngoài của thai như: dương vật, tuyến tiền liệt, túi tinh Kích thích để đưa tinh hoàn từ xoang bụng xuống bìu ở ngoài. + Làm xuất hiện và bảo tồn các đặc tính sinh dục đực thứ phát kể từ tuổi thành thục như: phát triển dương vật, tuyến tiền liệt, mọc lông ở cơ quan sinh dục + Kích thích sự sản sinh ra tinh trùng: Testosteron kích thích sự hình thành tinh nguyên bào và sự phân chia giảm nhiễm lần hai từ tinh bào II thành tinh trùng. Testosteron kích thích sự tổng hợp protein và bài tiết dịch từ tế bào Sertoli. Hai tác dụng trên có liên quan đến việc sản sinh ra tinh trùng. Nếu lượng testosteron bị giảm xuống thấp có thể dẫn đến vô sinh. + Ngoài ra testosterone còn có tác dụng lên sự chuyển hoá protein và cấu tạo cơ. b. Cơ chế của quá trình sinh sản ở con đực Sự điều khiển chức năng của tinh hoàn theo cơ chế nội tiết được minh hoạ ở hình bên. Nhìn chung, dưới tác động của các yếu tố ngoại cảnh như: ánh sáng, nhiệt độ, thời tiết, thức ăn, mùi vùng với các yếu tố nội tại tác động thần kinh trung ương (vỏ đại não). Các kích thích này được truyền đến vùng dưới đồi (hypothalamus) tiết ra yếu tố giải phóng GnRH (Gonadotropin-releasing hormone). GnRH kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết ra FSH và LH (còn gọi là ICSH – Intertitial cell stimulating hormone). LH kích thích tế bào kẽ Leydig sản xuất ra Androgen (chủ yếu là testosterone). Androgen đi vào máu và cả bạch huyết, giúp cho sự phát triển của các đặc tính sinh dục thứ cấp của con đực và phát triển đường sinh dục con đực. Androgen cũng gây nên sự kìm hãm sản sinh ra GnRH và LH dưới tác động ngược âm tính của nó lên tuyến yên và vùng dưới đồi. Testosterone cũng được tiết vào trong ống sinh tinh giúp cho quá trình hình thành tinh trùng. FSH tương tác với các thụ quan (receptor) ở tế bào Sertoli để tạo ra ABP (androgen binding protein). ABP liên kết với testosterone kích thích quá trình sinh tinh ở ống sinh tinh. Từ tế bào Sertoli, inhibin được tiết ra đi vào máu và bạch huyết, và gây nên tác động ngược âm tính lên vùng dưới đồi và tuyến yên làm giảm lượng FSH. II. SINH LÝ SINH DỤC CÁI 1. Cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục gia súc cái ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  10. Qúa trình sinh lý của các cơ quan sinh dục rất quan trọng và cơ bản đối với chức năng sinh sản của gia súc. Gia súc có cấu tạo cơ quan sinh dục đều có tính chung nhất giữa các loài. Hình 8. Cấu tạo cơ quan sinh dục 1.1. Bộ phận bên trong a. Buồng trứng (Ovary): Buồng trứng gồm một đôi hầu như đối xứng với nhau, gắn liền với dây chằng rộng của tử cung và thường nằm trong xoang chậu ở độ cao cùng với độ cao của xương chậu. - Chức năng: + Sản xuất ra tế bào trứng (Là tế bào lớn nhất trong cơ thể: 0,15-0,25mm). + Sản xuất ra một số kích dục tố tham gia vào điều hòa chức năng sinh sản của gia súc). b. Ống dẫn trứng (Oviduct): Hay còn gọi là vòi Fallop, có đường kính rất nhỏ, nó chỉ to lên về kích thước vào thời kỳ con cái động dục và đón nhận trứng. Phần đầu của nó loe ra như cái phễu nên gọi là loa kèn có chức năng hứng trứng khi trứng rụng và hướng trứng vào trong ống dẫn trứng. Ống dẫn trứng tiết ra dịch tiết và nhu động của lông mao thành ống dẫn trứng giúp tinh trùng và trứng tiến gần nhau và nó giúp hoạt hóa 2 tế bào ở đó. Ống dẫn trứng là nơi thụ tinh (1/3 phần trên ống dẫn trứng). Khả năng nhu động của cơ thành ống dẫn trứng giúp trứng đã thụ tinh di chuyển đến tử cung và làm tổ ở đó. ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  11. Đường kính ống dẫn trứng: 0,2 - 0,4 mm. c. Tử cung (Uterus): Tử cung có cấu tạo rất phù hợp với chức năng phát triển và dinh dưỡng bào thai. Trứng được thụ tinh ở ống dẫn trứng rồi trở về tử cung làm tổ, ở đây hợp tử phát triển là nhờ chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ thông qua lớp niêm mạc tử cung cung cấp cho. Tử cung còn có nhiệm vụ đẩy thai ra ngoài trong quá trình sinh đẻ nhờ vào lớp cơ trơn (Myometrium) của tử cung. Lớp cơ trơn này có cấu tạo khá phức tạp và là lớp cơ khỏe nhất trong cơ thể. Tử cung của tất cả các loài động vật có vú được chia ra những loại sau: - Tử cung hai sừng : Tử cung có hai sừng cùng một thân và cổ tử cung. Ví dụ: Bò, ngựa, lợn, chó. - Tử cung phân nhánh: Tử cung phân ra làm hai nhánh, có cùng một cổ tử cung thông với âm đạo. Ví dụ: loài gặm nhấm. - Tử cung kép: Tử cung có hai sừng trái và phải, mỗi bên có một cổ tử cung, hai cổ tử cung thông với âm đạo. Ví dụ: Voi. - Tử cung đơn: Tử cung không phân biệt ra sừng tử cung, thân tử cung. Ví dụ: Linh trưởng, người. ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  12. Hình 9. Cấu tạo cơ quan sinh dục của con cái ở một số loài gia súc [6] Tử cung bao gồm các phần: Cổ tử cung, thân tử cung, sừng tử cung. Cổ tử cung ở bò có 3-5 vòng nhăn, lợn 3 vòng nhăn. Là nơi ngăn cách giữa môi trường bên ngoài với bên trong. Bình thường cổ tử cung đóng kín tránh sự xâm nhập của vi trùng cũng như các tác nhân bên ngoài để bảo vệ bào thai. Cổ tử cung chỉ mở khi gia súc động dục và đẻ. Bào thai làm tổ và cư trú ở sừng (lợn, trâu, bò, chó), ở thân (ngựa). Bảng 2. Kích thước tử cung của một số loài [4] Gia súc Sừng tử cung Thân tử cung Cổ tử cung Ngựa 20 - 25 cm 30-35 cm 5-7 cm Trâu, bò 15-20 cml 2-4 cm 6-8 cm Lợn 50cm -1m 6-10 cm 10-18 cm d. Âm đạo (Vagina) ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  13. Âm đạo có nhiệm vụ tiếp nhận dương vật khi giao phối và lối ra của thai nhi khi sinh sản. Cũng là nơi bài tiết của nước tiểu. Kích thước âm đạo: Ngựa: 15-20 cm; Bò: 22-25 cm; Lợn: 10-12 cm; Dê, cừu: 8-10 cm. 1.2. Bộ phận bên ngoài Là cơ quan sinh dục mà người ta có thể nhìn thấy, sờ thấy, và quan sát được. Bao gồm: Âm môn, âm vật, tiền đình. a. Âm môn (Vulva): Là cơ quan đầu tiên của bộ phận sinh dục cái, làm nhiệm vụ tiếp nhận sự thay đổi của môi trường, đặc biệt là xuất hiện phản xạ tình dục. Khi cái động dục, niêm mạc của âm môn thay đổi màu sắc và dựa vào sự thay đổi đó mà ta biết được cái động dục vào thời kỳ nào mà có quá trình phối thích hợp. b. Âm vật (Clitoris): Giống dương vật của con đực thu nhỏ lại, nó dài khoảng 4-5 cm. Trên âm vật có nếp da tạo thành mũ âm vật, phía dưới bẻ quặp xuống là nơi tập trung nhiều đầu mút dây thần kinh. c. Tiền đình (Vestibule): Là biên giới giữa âm môn và âm đạo, ở đây có màng trinh (Hymen) qua màng trinh có lỗ niệu đạo. 2. Sinh lý sinh dục cái 2.1. Các giai đoạn của chu kỳ động dục * Thành thục về tính: Gia súc sinh ra sau một thời gian sinh trưởng và phát triển nhất định (tuỳ loài) thì có khả năng sinh sản. Tuổi con vật bắt đầu có khả năng sinh sản gọi là tuổi thành thục về tính. Tuổi này được ghi nhận bởi lần động dục có rụng trứng đầu tiên của con cái. * Chu kỳ sinh dục: Chu kỳ sinh dục được bắt đầu khi gia súc đã thành thục về tính, nó tiếp tục xuất hiện và chấm dứt hoàn toàn khi cơ thể đã già yếu. Chu kỳ sinh dục là một quá trình sinh lý phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể đã phát triển hoàn hảo, cơ quan sinh dục không có bào thai và không có hiện tượng bệnh lý thì ở bên trong buồng trứng có quá trình noãn bao thành thục, trứng chín và thải trứng. Sau khi thành thục về tính gia súc cái bắt đầu có hoạt động sinh sản. Dưới sự điều hoà của hormon tiền yên nang trứng tăng trưởng, thành thục, chín và rụng. Mỗi lần xuất hiện trạng thái rụng trứng thì toàn bộ cơ thể nói chung, đặc biệt là cơ quan sinh dục phát sinh hàng loạt các biến đổi về hình thái cấu tạo, chức năng sinh lý. Các biến đổi trên lặp đi lặp lại theo chu kỳ được gọi là chu kỳ động dục (chu kỳ tính). Thời gian của một chu kỳ tính ngắn và được tính từ lần thải trứng trước đến lần thải trứng sau. ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  14. Chu kỳ sinh dục cảu gia súc là một hiện tượng sinh vật học có quy luật, nó tạo ra hàng loạt điều kiện cần thiết để tiến hành giao phối, thụ tinh và phát triển bào thai. Ở những cá thể có thai thì không có chu kỳ tính và nó lại được tiếp tục sau khi sinh sản xong một thời gian, tùy thuộc vào từng loài gia súc, giống và những điều kiện ngoại cảnh. Cần phát hiện kịp thời hiện tượng động dục nhằm tránh được việc bỏ qua chu kỳ, nâng cao tỉ lệ thụ thai, góp phần phát triển đàn gia súc. Từ đó có thể điều khiển và chủ động kế hoạch sinh sản, kế hoạch thức ăn, nuôi dưỡng và khai thác sản phẩm của toàn đàn gia súc. Ngoài ra góp phần phòng tránh hiện tượng vô sinh Chu kỳ động dục tuỳ loài mà có thời gian khác nhau: Bò 21-22 ngày; trâu: 27-28; lợn: 19-21; ngựa: 19-25; cừu: 16-17; dê: 21; chó:180 ngày [4] -> Phụ thuộc loài, giống, ngoại cảnh: dinh dưỡng, thời tiết khí hậu Thời gian động dục cũng khác nhau tùy theo lòai: Ví dụ: Trâu, bò: 2 ngày; Lợn: 3-5 ngày; Ngựa: 7-10 ngày; Dê, cừu: 1,5-2 ngày Chó mèo: 11-15 ngày. (chó chịu đực 2 lần, ngày 9 và 11, giao phối kiểu giăng dây). Biết rõ thời gian động dục để có thời điểm phối giống thích hợp. Triệu chứng của chu kỳ động dục khác nhau giữa loài này với loài khác nhưng vẫn có thể chia làm 4 giai đoạn. 2.2.2. Cơ chế thần kinh-thể dịch điều khiển sinh sản ở gia súc cái Bình thường gia súc khi sinh trưởng và phát dục đến một giai đoạn nhất định thì bắt đầu thành thục về tính và có khả năng sinh sản. Hoạt động sinh dục của con cái khác với con đực là mang tính chất chu kỳ. Quá trình động dục của gia súc có tính chất chu kỳ là có sự tác động của nhân tố nội tại và ngoại cảnh và thông qua sự điều khiển của hệ thống thần kinh và các tuyến nội tiết. Nhân tố nội tại: Chủ yếu là ở buồng trứng sản sinh ra một lượng Oestrogen. Oestrogen tác động lên trung khu vỏ đại não và ảnh hưởng tới hypothalamus tạo điều kiện cho sự xuất hiện và lan truyền các xung động thần kinh gây tiết GnRH chu kỳ. Cũng thời gian đó Oestrogen ảnh hưởng trực tiếp đến tới tuyến yên, làm tăng tốc độ mẫn cảm các tế bào hướng sinh dục của tuyến yên đối với GnRG. Yếu tố ngoại cảnh: ánh sáng, nhiệt độ, thức ăn, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng và đặc biệt là Steroid tự nhiên từ thức ăn vào cơ thể qua đường tiêu hoá hoặc qua da nhờ ánh sáng gây nên những kích thích hoá học tác động lên vỏ đaị não. Ngoài ra, ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  15. con cái còn chịu tác động của con đực thông qua thính giác, khứu giác và xúc giác gây nên những kích thích mãnh liệt tác động lên vỏ đại não. Vỏ đại não sau khi tiếp thu các kích thích của ngoại cảnh truyền đến hạ khâu não (Hypothalamus) gây tiết các yếu tố giải phóng GnRH - GnRH gồm 2 thành phần là FRH (Follicle releasing hormone) và LRH (Luteinizing releasing hormone), ngoài ra còn có PRH (Prolactin releasing hormone) ở một số loài động vật, tác động đến tuyến yên (Hypophysis) kích thích thùy trước tuyến yên tiết ra FSH và LH. FSH (còn gọi Prolan A) tuần hoàn theo máu, kích thích buồng trứng làm cho noãn nang phát triển và lượng Oestrogen tiết ra nhiều. Lượng dịch bài tiết nhiều sẽ làm cho thể tích của bao noãn tăng lên và nổi lên mặt ngoài buồng trứng, đó là các bao noãn chín. Oestrogen vào máu tuần hoàn khắp cơ thể, tác động lên trung khu đại não làm hưng phẩn sinh dục (thể hiện các triệu chứng động dục bên ngoài) và tác động đến các cơ quan sinh dục làm biến đổi bộ máy sinh dục (vú nở to, âm hộ sưng, xung huyết, tử cung dày lên ) . Oestrogen với nồng độ cao sẽ tác động ngược dương tính lên Hypothalamus và thuỳ trước tuyến yên làm giải thoát GnRH, LH và FSH. LH (còn gọi Prolan B) tác động vào buồng trứng làm trứng chín muồi do nó có tác dụng hoạt hoá các enzim để phân giải protein làm phân giải vách bao noãn, kết hợp với FSH (với tỉ lệ LH/FSH khoảng 3/1) làm noãn bao vỡ ra, trứng chín sẽ được rơi ra khỏi mặt của buồng trứng gọi là sự rụng trứng. Ngoài tác dụng của hormone ra, sự rụng trứng còn chịu ảnh hưởng của các tác động giao phối (vd: chó, mèo chỉ rụng trứng sau khi giao phối). Trứng rụng hình thành thành thể vàng. Thể vàng phân tiết Progesteron. Ở một số loài (gặm nhấm ) thì PRH kích thích tuyến yên phân tiết ra LTH (Luteinotrofic hormone). LTH tác động vào buồng trứng giúp cho duy trì sự tồn tại của thể vàng, kích thích thể vàng phân tiết Progesteron. Progesteron tác động lên Hypothalamus và thuỳ trước tuyến yên (gọi là tác động ngược âm tính), ức chế tuyến yên phân tiết FSH, LH làm cho quá trình động dục chấm dứt. Progesteron lại tác động vào tử cung, làm tử cung dày lên tạo điều kiện tốt cho sự làm tổ của hợp tử được dễ dàng lúc đầu. Nếu con vật có chửa thì thể vàng tồn tại suốt thời gian mang thai cho đến trước khi đẻ khoảng 18-20 ngày, nó là nhân tố bảo vệ an toàn cho thai phát triển. Nếu không có chửa, thể vàng tồn tại khoảng 10-16 ngày (tùy từng giống) sau đó teo dần đi. Hàm lượng Progesteron cũng từ đó mà giảm, giảm đến mức độ nhất định nó lại cùng với các nhân tố khác kích thích vỏ đại não, Hypothalamus tuyến yên tăng cường phân tiết FSH, chu kỳ mới lại tiếp tục hình thành. Hình 10. Sơ đồ cơ chế thần kinh thể dịch điều hoà chu kì sinh sản ở gia súc ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  16. Bảng 3. Triệu chứng các giai đoạn của chu kỳ động dục [7] (Chủ yếu ở Bò) Các giai Trước đông dục Động dục Sau động dục Yên lặng sinh đoạn dục (Proestrus) (Estrus) (Postestrus) (Unestrus) Dấu hiệu Biểu hiện Băn khoăn, ngơ ngác, Tìm đực hoặc Còn chịu cho Bình thường bên ngoài, không yên, đi lại - Đái đến gần con nhảy và phối dáng vẻ rắt - Kêu (hoặc không). khác. Chịu giống (một Nhảy lên con khác, cho nhảy, mê thời gian không cho con khác ỳ ngắn) nhảy. Bỏ đi rông Ăn uống Kém ăn - gặm cỏ lơ là Ăn ít hoặc Ăn ít Ăn uống bình không ăn thường Âm hộ Xung huyết, hơi phù, Bớt sưng, se Hết sưng Bình thường bóng ướt. Mép âm hộ ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  17. hé mở. dính cỏ rác Biến đổi Có nang trứng phát Nang trứng Trứng rụng ở Có thể vàng bên trong triển nhô căng. bò 10 - 12 nhô lên buồng Trứng rụng giờ sau chịu trứng đực Tử cung Màng nhầy tử cung dày Màng nhầy tử Trương lực Bình thường lên, tụ huyết cung dày. bớt căng Trương lực tối đa Cổ tử Hé mở, đỏ hồng, bóng Mở rộng, Hẹp dần. Khép kín cung ướt. Niêm dịch lỏng, niêm dịch Niêm dịch bình thường. nhiều, trong suốt, dễ đặc dính, có đặc, giảm độ đứt màu nửa keo dính, trong, nửa màu đục bã đục, kéo dài đậu 5-7 cm. Bớt đỏ Âm đạo Đỏ hồng, bóng ướt Bớt đỏ Dần dần trở Bình thường về bình thường Nội tiết ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  18. Hình 11. Xác định cái động dục với sự có mặt của lợn đực 2.3. Các pha của chu kì tính Nhiều tác giả chia chu kỳ sinh dục ra làm 2 pha: a. Pha nang trứng (Folliculin): Bao gồm giai đoạn trước động dục và động dục Sự phát triển, phát sinh của nang trứng (còn gọi noãn bao, noãn nang, nang noãn) và trứng (noãn bào) dưới tác động của FSH của thuỳ trước tuyến yên, các noãn bao nguyên thuỷ qua một số giai đoạn phân chia thành noãn bao sơ cấp - noãn bao thứ cấp- nang De graff (thành thục và chín). Nang trứng dưới tác dụng của LH thúc cho noãn bao chín, lồi lên mặt buồng trứng -> vỡ rồi phóng noãn ra ngoài. Hoạt động được coi là quan trong nhất trong pha nang trứng đó là việc tiết ra hormone Oestrogen. Sự tăng cao của Oestrogen này đã làm tăng sự nhảy cảm của tuyến yên đối với GnRH, kích thích tiết chế mạnh mẽ LH, tạo nên đỉnh cao LH vào trước ngày trứng rụng. Oestrogen đi vào máu tới cơ quan sinh dục làm tăng thể tích các mao mạch nhỏ nhất trong niêm mạc đường sinh dục, điều đó đã làm tăng thêm nguồn máu, kích thích quá trình phân chia tế bào ở đây vì vậy trong giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục niêm mạc đường sinh dục (Tử cung, âm đạo, âm hộ) có màu đỏ, tăng sinh (phù), vách tử cung dày lên và co cơ tự phát từng phần. ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  19. Sau đó Oestrogen kích thích tế bào niêm mạc cổ tử cung tiết ra một chất nhầy loãng. Ở một số loài như bò chất nhầy nhiều và chảy ra từ âm hộ cùng với niêm mạc âm đạo. Oestrogen được hấp thu vào máu còn tác động đến toàn bộ cơ thể, đặc biệt là hệ thần kinh trung ương làm thay đổi các hoạt động của gia súc cái biểu hiện các triệu chứng động dục như thích gần con đực, kém ăn, ngơ ngác, kêu rống, đôi khi nhảy lên lưng con khác và có tư thế chịu đực. b. Pha thể vàng (Lutein): Bao gồm sau động dục và yên lặng sinh dục Sau khi tế bào trứng rụng, những biểu hiện của động đực do Oestrogen biến mất, niêm mạc cổ tử cung và âm đạo ngừng tiết niêm dịch do đó chất nhầy chảy ra giảm. Cơ cổ tử cung hồi phục sức căng và dần dần đóng kín lại như cũ. Các triệu chứng động dục dần dần biến mất. Thể vàng tiết Progesteron với tác dụng an thai. III. SINH LÝ QUÁ TRÌNH THỤ TINH 1. Sinh lý quá trình rụng trứng Năm 1827, Cac Macmovits Ber (1782-1872), nhà sinh học xuất sắc người Nga (được xem là người khai sinh ra môn phôi thai học) đã nghiên cứu một con chó cái vừa giao cấu xong. Khi xem buồng trứng, trong các nang Graff vốn chỉ chứa nước, ông thấy có một nang đặc biệt lớn. Ông phá vỡ nang đó ra, khéo léo tách được một hạt tròn màu vàng và đặt vào đĩa thủy tinh chứa nước. Ông tả lại: "Hồi hộp xem nó dưới kính hiển vi, tôi bàng hoàng cả người vì sung sướng. Sợ đó là ảo giác nên tôi phải ngồi định thần một lúc mới xem tiếp. Té ra vẫn là nó - những quả trứng giống như lòng đỏ trứng chim nhưng kích thước thì bé hơn nhiều" [8]. Trứng là một tế bào to nhất của cơ thể. Nó có màng, nguyên sinh chất, nhân. Khi chín, trứng có kích thước 0,2-0,3 mm (linh trưởng), hình cầu, màu vàng nhạt. Các tổ chức ban đầu trong noãn bào (buồng trứng) là noãn nguyên bào, cho ra các noãn bào cấp 1. Trong lần phân chia thứ nhất của giảm phân, nó được tạo thành hai tế bào có nhân đơn bội và kích thước khác nhau, một là noãn bào cấp 2, chứa khối lượng lớn tế bào chất; hai là thế cực thứ nhất, chứa rất ít tế bào chất. Trong lần phân chia thứ hai của giảm phân, noãn bào cấp 2 lại được phân thành hai tế bào không bằng nhau, tạo thành tế bào trứng đơn bội và thế cực thứ hai bé. Kết quả là noãn bào cấp 1 cho ra một tế bào trứng hoàn chỉnh với tất cả phần tế bào chất dự trữ cần thiết, còn ba thế cực phụ teo đi. a. Cơ chế điều hoà quá trình rụng trứng ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  20. Rụng trứng là quá trình sinh lý phức tạp. Quan niệm rụng trứng và động dục gắn liền với nhau hiện nay bị bác bỏ vì có khi có động dục mà không có rụng trứng (động dục giả), có khi có rụng trứng mà lại không có biểu hiện động dục (động dục ngầm). Quá trình rụng trứng được giải thích như sau:- FSH (tuyến yên) làm tế bào trứng chín, nang trứng phát triển nhanh nổi lên trên bề mặt buồng trứng (nang De Graff). - LH (tuyến yên) kích thích làm tăng tiết dịch nang trứng, tăng áp lực trong nang trứng. - Prostaglanding F2α do tế bào tử cung tiết ra có tác dụng kích thích việc hình thành tổ chức chế tiết enzim phân huỷ vách nang trứng. - Relaxin (Hormone tử cung) có tác dụng tương tự LH và Prostaglanding F2α. Khi LH cao nhất sẽ làm cho áp lực dịch nang trứng có trị số lớn nhất, vách nang trứng tại một thời điểm nào đó không thắng nổi áp lực đó dẫn đến nang trứng vỡ, giải phóng tế bào trứng. b. Số trứng rụng và thời gian rụng trứng * Ở động vật đơn thai: Bình thường mỗi chu kì rụng 1-2 trứng. Tuy nhiên hiện nay trong công nghệ sinh sản người ta có thể tác động bằng các loại hormone gây siêu bài noãn thì một chu kì động dục có thể rụng nhiều trứng. * Ở động vật đa thai: Số trứng rụng thay đổi theo giống, tuổi, dinh dưỡng, khí hậu Ở nái tơ thường ít hơn nái cơ bản (ví dụ ở lợn nái tơ trung bình là 13.5, trong khi đó nái cơ bản là 21.4). Sự có mặt của đực giống có thể ảnh hưởng đến số trứng rụng. Bò thường rụng vào khoảng 10-14 giờ sau khi có chấm dứt các triệu chứng động dục bên ngoài, lợn thải trứng không cùng một lúc và thường vào ngày thứ 2 khi có biểu hiện động đực. Biết được thời gian rụng trứng của gia súc để có biện pháp cho gia súc đực nhảy hoặc dùng phương pháp TTNT đạt kết quả thụ thai cao. 2. Sự di chuyển của tế bào sinh dục * Sự di chuyển của tinh trùng do: ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  21. - Khả năng tự vận động Hình 11. Sơ đồ chu kỳ động dục trên bò - Đặc tính lội ngược dòng nước - Dòng chảy của dịch tiết - Nhu động của đường sinh dục - Nhung mao của đường sinh dục Tinh trùng có thể có mặt ở nơi thụ tinh rất nhanh sau khi thụ tinh (khoảng 1 giờ sau thụ tinh, được gọi là pha chuyển động nhanh), thông thường thì khoảng 4-6 giờ ở bò và dê, 3 giờ ở lợn * Sự di chuyển của tế bào trứng do: - Sự co bóp của đường sinh dục - Dòng chảy xuôi của niêm dịch - Nhung mao của đường sinh dục ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  22. - Di chuyển trong và ngoài đường sinh dục 3. Khả năng sống và thụ thai của tế bào sinh dục - Trứng: thời gian ngắn hơn. Ở bò: 20 giờ; lợn : 12-15 giờ; ngựa: 10 giờ; thỏ: 6 giờ. - Tinh trùng: thời gian dài hơn có thể gấp đôi thời gian sống và thụ thai của trứng (tuỳ loài) do đó khi thụ tinh cần đưa tinh trùng vào sớm hơn. Thời gian sống của tinh trùng trong đường sinh dục cái chịu ảnh hưởng của một số nhân tố như: tinh trùng được đưa vào đường sinh dục ở bộ phận nào? (âm đạo hay tử cung), trạng thái sinh lý, bệnh lý của đường sinh dục con cái và biểu hiện của cơ thể trong giao phối, chất lượng của tinh trùng Chỉ có một số lượng rất ít (khoảng 1/20-1/30 số lượng tinh trùng được phóng vào âm đạo của bò, dê, cừu, thỏ) vào được tử cung để đến ống dẫn trứng còn lại là bị chết do quá trình chọn lọc (thực bào, chảy ngược ra ngoài và không vượt qua được chướng ngại vật ở cổ tử cung ) [9]. 4. Sinh lý qúa trình thụ tinh + Khái niệm: Là quá trình sinh lý phức tạp giữa tế bào trứng và tinh trùng đã thành thục, phát sinh đồng dị hoá để tạo 1 tế bào mới gọi là hợp tử mang 2n NST, hợp tử phát triển thành cơ thể mới mang đặc điểm di truyền bố mẹ cùng với giống loài. + Điều kiện: - Có trứng rụng - Tinh trùng khoẻ, đủ số lượng và có mặt ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng vào thời điểm trứng rụng + Quá trình thụ tinh xảy ra gồm có 3 giai đoạn: - Phá vỡ vành phóng xạ - Xâm nhập vào tế bào trứng - Đồng hoá giữa tế bào trứng và tinh trùng tạo thành hợp tử có thể tóm tắt như sau: Từ âm đạo, chỉ cần vài phút là tinh trùng đi vào đến dạ con, sau 2-3giờ đã đi hết ống dẫn trứng. Sau đó, chúng còn sống vài ngày nữa để đợi trứng rụng. Trong số tinh trùng đang dùng hết sức mình "lao tới" tới gặp trứng, có những tinh trùng "dại dột" cứ luẩn quẩn trong âm đạo và bị dịch toan ở đây giết chết. Rất nhiều tinh trùng lạc lối vào các nếp nhăn của niêm mạc dạ con, không tìm được đúng đường lên ống có trứng. Một nửa số còn lại đáng lẽ phải vào bên ống dẫn trứng rụng thì lại ngờ nghệch sang ống bên kia một cách cầu may. Cuối cùng thì chỉ còn vài chục đấu thủ chạy đúng đường, với 1 đấu thủ duy nhất được phép chui vào trứng. Thực ra, một mình nó chẳng vượt qua được khó khăn này nếu không có sự hỗ trợ của hàng vạn, hàngtriệu tinh trùng khác. Chú tinh trùng may mắn tiết ra men hyaluronidada để công phá màng trứng (men này hiện đã phân lập được, thường dùng để chữa vô sinhở đàn ông do thiếu tinh trùng, giúp cho tinh trùng đầu tiên dễ dàng lọt vào trứng). Có người tính rằng ít nhất phải có 8 triệu tinh trùng mới tiết đủ số men cần thiết để làm việc đó. Bởi vậy, nếu có thể thực hiện sự thụ tinh thì ban đầu ít ra phải có 80 triệu tinh trùng, trong đó 60% phải chuyển động khỏe. ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  23. Thực ra, có thể có vài ba tinh trùng lọt vào trứng nhưng việc thụ tinh đã dành cho con đầu tiên; những con khác tự tiêu hủy và trở thành chất dinh dưỡng cho trứng. Nhân của tinh trùng dịch lại gần nhân của trứng; cả hai đều dốc toàn bộ "của cải quý giá" của mình (AND) ra góp vốn chung. Dưới kính hiển vi, người ta thấy nhân của chúng như tan ra, quyện vào nhau làm một; các NST khẩn trương sắp xếp thành từng cặp. Khoảng sau nửa giờ, tế bào trứng thụ tinh xong và đã đủ tư cách là một cơ thể mới. Lúc này, giới tính của thai đã được khẳng định, chưa có cách nào thay đổi được. * Chú ý: Tinh trùng sau khi được xuất ra khỏi cơ thể thì không có khả năng thụ tinh ngay mà cần phải trải qua một thời gian (có thể in vivo hoặc in vitro) để trải qua một số quá trình biến đổi về lý, hoá học để trở thành đủ điều kiện thụ tinh (capacitation) [10]. Hình 12. Biến đổi của tinh trùng trong đường sinh dục con cái 5. Quá trình hình thành thể vàng Sau khi noãn nang vỡ, dịch nang chảy ra thì nang Graff xẹp xuống, những nếp nhăn trên vách nang ăn sâu vào trong làm thu hẹp khoang nang trứng, khoang này chứa đầy dịch và máu chảy từ vách nang (Thể huyết, thể hồng). Các tế bào hạt trong khoang phân chia thành một khối tế bào lớn có chứa lipoit và sắc tố vàng lấp kín xoang hình thành nên thể vàng. Thể vàng tiết ra hormone Progestreron có tác dụng ức chế tuyến yên, kích thích niêm mạc tử cung tăng cường chất dinh dưỡng, ức chế cơ trơn co bóp, thúc đẩy tuyến vú phát triển. * Các loại thể vàng - Thể vàng sinh lý ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  24. Đối với trâu bò mỗi chu kỳ hình thành 1-2 thể vàng, đối với lợn hình thành nhiều hơn khoảng 15-30 cái. - Thể vàng chửa: Tồn tại trong qúa trình chửa và tiêu biến trước đẻ khoảng 18-20 ngày - Thể vàng thoái hoá: Sau khi hoàn thành chức năng của mình thì thoái hoá - Thể vàng tồn tại: Tồn tại khi gia súc không mang thai. Thường gặp ở những gia súc rối loạn nội tiết hoặc kế phát từ các bệnh sản khoa - Thể vàng giả: Thai chết nhưng thể vàng vẫn tồn tại - Bạch thể: Sau khi hoàn thành chức năng sinh lý, thể vàng teo lại thành một vết sẹo gọi là bạch thể. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mai, N.Q., Sinh lý học Động vật và Người. 2004, Hà Nội: NXB Khoa học và Kỹ thuật. 2. Martin, H.J. and J.E. Barry, Essential Reproduction. Fifth ed. 2000: Blackwell Science. 1-274. 3. Hafez, E.S.E., Reproduction in Farm Animal. 6th ed. 1993, Philadelphia: Lea&Febiger. 525. 4. Dũng, T.T., D.Đ. Long, and N.V. Thanh, Sinh sản Gia súc. 2002, Hà Nội: NXB Nông nghiệp. 5. Xưxoep, A.A., Sinh lý sinh sản gia súc. 1985, Hà Nội: NXB Nông nghiệp. 429. 6. Joe, B. and W.F. John, Applied Animal Reproduction. 1996 7. Giao, H.K., et al., Công nghệ Cấy truyền phôi Bò. 1997, Hà Nội: NXB Nông nghiệp. 8. Dân, T.T., Công nghệ sinh học trong chăn nuôi gia súc. 2005: NXB Nông nghiệp. 127. 9. Knobil, E. and J.D. Neill, The Physiology of Reproduction. Second ed. 1994, New York: Raven Press. 10. Hải, P.V., The distribution, capacitation status and motility characteristics of ram spermatozoa in the reproductive tract of ewes within three hours after mating, in Australia Institute of Tropical Veterinary and Animal Science. 2004, James Cook University. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Vẽ hình cấu tạo cơ quan sinh dục ở bò đực và trình bày chức năng bộ máy sinh dục đực (trừ các tuyến sinh dục phụ)? 2. Chức năng các tuyến sinh dục phụ (vẽ hình)? 3. Cơ chế thần kinh-thể dịch điều khiển sinh sản ở con đực (Vẽ hình)? ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  25. 4. Trình bày các tên, tuyến tiết và chức năng sinh lý chính của các hormone tham gia quá trình sinh lý sinh sản của con đực? 5. Vẽ hình cấu tạo cơ quan sinh dục ở bò cái và trình bày chức năng các bộ phận bên trong? 6. Cơ chế thần kinh-thể dịch điều khiển sinh sản ở gia súc cái (Vẽ hình)? 7. Các pha của chu kì tính (vẽ hình)? 8. Sinh lý quá trình rụng trứng? 9. Các hormone chính tham gia điều khiển quá trình sinh sản ở gia súc cái (tên, tuyến tiết, tác dụng sinh lý chính)? 10. Quá trình hình thành thể vàng và các loại thể vàng? ThS. Phan Vũ Hải, Bài giảng Sinh sản Gia súc 8
  26. CHƯƠNG II. QUÁ TRÌNH MANG THAI Ở GIA SÚC Mục đích: Trình bày những biến đổi khi mang thai của gia súc mẹ (cùng với bào thai) và các phương pháp chẩn đoán gia súc có thai, từ đó có biện pháp chăm sóc, quản lý hợp lý. Thời lượng giảng dạy: 7 tiết I. THỜI GIAN MANG THAI VÀ SỐ LƯỢNG THAI 1. Thời gian mang thai Thời gian mang thai được tính từ lúc con vật thụ thai (thường tính từ khi phối giống) đến khi đẻ. Bò: 9 tháng 10 ngày; Trâu: 11 tháng; Ngựa: 11 tháng; Dê, cừu: 5 tháng; Lợn: 3 tháng 3 tuần 3 ngày; Chó, mèo: 2 tháng; Hươu: 7 – 7.5 tháng, thỏ: 1 tháng [3] Số liệu trên chỉ là tương đối trong thực tế còn phụ thuộc nhiều yếu tố: tuổi (già >non, lứa 1>lứa 2), giống, thời tiết khí hậu, dinh dưỡng, số thai (1 thai>2 thai), thai đực>cái 2. Số lượng thai + Đơn thai: 1-2 con như ở trâu bò, ngựa + Đa thai: - Tuỳ theo giống và loài và thậm chí từng cá thể: Lợn nội trung bình 12-16 con, lợn ngoại từ 8-12 con, dê cừu: 3-5 con, thỏ 2-4 con, chó 2-5 con, mèo: 2-4 con - Do tuổi khác nhau, ở gia súc đa thai lứa đầu thường ít hơn lứa sau. - Do điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc mùa vụ. - Do kỹ thuật thụ tinh nhân tạo (thời điểm, phẩm chất tinh, kỹ thuật dẫn tinh). 23
  27. II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THAI 1. Sự làm tổ của hợp tử Hình 15. Quá trình làm tổ của phôi [4] Sau khi thành hợp tử, hợp tử sống ở ống dẫn trứng và tiếp tục phát triển nhờ dinh dưỡng của noãn hoàng và dịch tiết ống dẫn trứng. Ít ngày sau (tuỳ từng loài gia súc, khoảng 3-4 ngày) hợp tử di chuyển về làm tổ tại nơi cư trú ở tử cung. Sự di chuyển được của hợp tử nhờ chất dịch của vòi trứng, hoạt động của lông nhung ở vòi trứng và tác dụng co giãn của vòi trứng dưới tác động của hormone Progesteron. Trong quá trình di chuyển thì hợp tử đã thực hiện nhiều giai đoạn của quá trình phân chia, khi đến tử cung hợp tử có dạng phôi dâu (32-64 tế bào). Khi đến nơi cư trú hợp tử tiết ra một loại men ăn mòn niêm mạc tử cung và cư trú tại đó và phát triển thành bào thai. Thời gian làm tổ của hợp tử cũng tuỳ từng loài gia súc, ví dụ như ở bò là 1- 3,4 tháng, ngựa 7-14 tuần, cừu 30-80 ngày, lợn 12-24 ngày Ngay trong những giai đoạn phát triển đầu lá phôi nằm sát và dính với niêm mạc tử cung, lúc đầu liên kết còn yếu sau đó dần dần bền chặt hơn. Vì vậy trong giai đoạn đầu của gia súc có chửa chúng ta cần chú ý trong chăm sóc, nuôi dưỡng và sử dụng gia súc hợp lý để tránh sẩy thai. 2. Màng thai Sau khi làm tổ ở thành tử cung, phôi tiếp tục được phát triển và nhau thai được hình thành. Trong một số tuần đầu các tế bào trên bề mặt túi phôi đã bài tiết ra enzim để 24
  28. phân huỷ tế bào của thành tử cung ở vùng xung quanh phôi để cung cấp chất dinh dưỡng cho phôi tiếp tục sinh trưởng và phát triển. Trong nhau thai cũng đã bắt đầu cung cấp một ít chất dinh dưỡng và oxy ngay từ những tuần lễ đầu, sau đó thì nhau thai hoàn toàn đảm nhiệm được chức năng dinh dưỡng cho phôi. Máu của con mẹ và máu của thai không được trộn lẫn với nhau mà chỉ trao đổi chất dinh dưỡng, khi đi qua màng ngăn cách thông qua cuống rốn cho đến khi sinh đẻ. 2.1. Màng ối: Là màng trong cùng, gần thai nhất, có hình bầu dục, ở lỗ rốn của thai màng ối và da của thai dính lại. Màng ối thường trong suốt, qua màng có thể nhìn thấy thai nhi. Giữa màng ối và màng niệu có mạng lưới huyết quản phân bố đều do từ dây rốn lại. Túi trong của màng ối có nước ối. Nước ối lúc đầu có màu trong sau đó vàng nhạt. Nước ối giảm vào thời kì cuối có thai như ở bò: 5-7 lít, ngựa 3-4 lít, ở lợn thì ít hơn. Thành phần hoá học chủ yếu của nước ối chủ yếu là các chất: Protein, Ure, kích tố nhau thai, sinh tố, muối, đường. Trong nước ối còn chứa chất giống kích tố hậu yên (oxytoxin) có tác dụng làm con bóp tử cung -> khi đẻ thường lấy nước ối cho uống để kích thích bong nhau. Tác dụng chính của nước ối: - Giữ cho thai nhi ở vị trí cân bằng tránh sự chèn ép của cơ quan phủ tạng con mẹ. - Giúp cho thai nhi tránh được tác nhân cơ học bên ngoài - Làm cho các tổ chức xung quanh không dính vào thai nhi.- Khi đẻ túi màng ối chưa vỡ đè lên và kích thích cổ tử cung và khung xương chậu mở, nước ối vỡ ra có tác dụng bôi trơn âm đạo. 25
  29. Hình 16. Mối liên hệ mẹ và thai qua hệ thống nhau 2.2. Màng niệu Nằm giữa màng đệm và màng ối. Màng niệu có thể coi như là bóng đái ngoài cơ thể. Trong màng niệu có nước niệu có thành phần hoá học chủ yếu là Ure và một số muối. Thời kỳ đầu nước ối lớn hơn nước niệu, thời kì sau thì ngược lại. * Lưu ý: Sự khác nhau giữa màng niệu ngựa và các loài gia súc khác. - Ở ngựa: lớp màng niệu phủ lên toàn bộ bề mặt của màng ối cho nên khi đỡ đẻ cần chú ý vì khi đẻ màng niệu đệm đã rách, túi màng niệu ối bao mặt ngoài của thai nhi cùng với thai nhi lọt vào chỗ rách của màng niệu đệm để sổ ra ngoài, ngựa khi đẻ thường nằm nên thai ra nhẹ, màng niệu ối dầy không rách được do vậy dễ làm cho thai nhi bị ngạt. Gặp trường hợp trên phải lập tức xé màng niệu ối ngay để cứu thai nhi. - Màng niệu của các gia súc khác không bao toàn bộ bề mặt ngoài của màng ối mà chỉ che phủ mặt dưới và hai bên, vì vậy khi gia súc đẻ trước tiên là màng ối ló ra âm môn nên bị vỡ trước. 2.3. Màng nhung (còn gọi là màng đệm) Là màng ngoài cùng, trên màng nhung có lông nhung (núm nhau). Cấu tạo núm nhau của trâu bò theo hình đít bát khác với một số loài gia súc khác nên dễ bị sát nhau. Lông nhung tiếp xúc với nhau mẹ ở niêm mạc của tử cung và ở đây xảy ra trao đổi chất giữa cơ thể con mẹ và con con. 26
  30. Hình 17. Sơ đồ màng thai gia súc [5] 27
  31. 3. Sự biến đổi của gia súc cái khi có thai 3.1. Sự biến đổi toàn thân Khi gia súc có thai, các kích tố nhau thai và kích tố của thể vàng làm ảnh hưởng đến cơ năng các tuyến khác. Do đó ở thời kỳ đầu quá trình trao đổi chất tăng lên, dẫn đến con vật ăn khoẻ, tiêu hoá manh, khả năng tích luỹ lớn dần dẫ đến con vật nhanh béo. Ở thời kỳ cuối của thai do yêu cầu phát triển mạnh của bào thai nó phải hấp thụ chất dinh dưỡng từ con mẹ, nên con mẹ thường gầy đi. Vì vậy, trong thực tế chăn nuôi giai đoạn chửa cuối chúng ta cần phải chú ý chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo nhất là về chế độ dinh dưỡng. Trong thời gian có chửa Glycogen tích luỹ ở gan, mỡ trung tính và Colesteron trong máu tăng lên. Lượng Hemoglobin trong máu bình thường, máu nhanh đông hơn. Lượng Ca, P trong máu giảm xuống vào thời kỳ có chửa sau (có thể dẫn đến bại liệt), nhưng lượng K lại tăng lên. Hoạt động của tim, phổi trở nên khó khăn do áp lực của bào thai đè lên xoang bụng và xoang ngực. Qúa trình lưu thông máu, sự hô hấp và bài tiết đều bị ảnh hưởng. Do vậy, ở kỳ cuối có chửa con vật thường bị phù nề, khó thở, hay đi tiểu tiện, có thể mệt mỏi, toát mồ hôi. Sự chèn ép của thai có thể làm thay đổi tuần hoàn xoang chậu, phù thũng hai chân sau. 3.2. Sự biến đổi của bộ máy sinh dục - Buồng trứng: thể tích buồng trứng to lên, khi khám qua trực tràng ta thấy thể vàng, ở trâu bò thường là một thể vàng còn ở lợn thì số thể vàng thường nhiều hơn thai nhi do trứng rụng mà không được thụ thai hoặc bị sẩy thai. 28
  32. - Tử cung: thể tích và trọng lượng tử cung tăng lên, dây chằng tử cung căng do đó buồng trứng kéo về phía trước và hơi xuống thấp. Máu được lưu thông đến tử cung rất nhiều tạo điều kiện tăng chất dinh dưỡng để nuối bào thai. - Cổ tử cung: bình thường cổ tử cung đóng kín tách biệt tử cung với âm đạo. Nhưng khi có chửa thì tử cung đóng chặt hơn, niêm mạc dày lên, trên niêm mạc có tế bào thượng bì tiết ra niêm dịch keo dính gây hiện tượng đóng nút cổ tử cung. Niêm dịch này lúc đầu có màu trăng sau đó chuyển sang màu vàng, đến nâu tuỳ theo tuổi của thai. Trước khi đẻ khoảng 1 tuần dịch này long ra và chảy ra ngoài. 4. Chẩn đoán có thai ở gia súc Gia súc cần chẩn đoán có thai sớm, chính xác. Nếu không có thì có thể do cơ quan sinh dục, hiện tượng động dục, rụng trứng, thời gian, phương pháp phối, phẩm chất tinh Nếu có thai thì có kế hoạch nuôi dưỡng chăm sóc, sử dụng, khai thác 4.1. Chẩn đoán theo phương pháp lâm sàng 4.1.1. Dùng đực thí tình Người ta cho đực thí tình vào chuồng gia súc cái đã được thụ tinh qua một chu kỳ, nếu con cái chịu đực là chưa có thai. Thường dùng cho trâu bò và rất thuận lợi cho các cơ sở chăn nuôi tập thể, chăn nuôi công nghiệp. 4.1.2. Quan sát bên ngoài Kết hợp quan sát với sờ, nắn, gõ, nghe. Khi con vật có thai thì: - Không động dục ở các chu kỳ tiếp theo - Thời gian đầu con vật ăn tốt, hay uống nước -> béo sau đó gầy đi - Ép tay vào thành bụng, nghe tim thai thấy máy động của bào thai - Con vật yên tĩnh, đi lại chậm chạp, thận trọng, chóng mệt Hình 18. Khám thai qua trực tràng 29
  33. - Phù tứ chi, phía dưới thành bụng, tuyến vú - Thay đổi trạng thái cân bằng, đối xứng hai bên thành bụng, độ lớn của bụng Phương pháp này thường chỉ phát hiện được ở những tháng chửa cuối. 4.1.3. Phương pháp khám qua âm đạo Dùng mỏ vịt đưa vào cơ quan sinh dục con cái, mở nó ra và thông qua hệ thống đèn soi hay ánh sáng tự nhiên để phát hiện có thai qua sự thay đổi thể tích, màu sắc, dịch tiết Phương pháp này khó, không phát hiện được tuổi của thai và dễ dàng làm sẩy thai, gây viêm đường sinh dục nên rất ít làm. 4.1.4. Phương pháp khám qua trực tràng Dùng tay đưa vào trực tràng thông qua đó kiểm tra các bộ phận của cơ quan sinh dục cái và bào thai. Được áp dụng cho trâu bò, lợn ngoại, ngựa. Đây là phương pháp tiên tiến, dễ tiến hành đối với các cơ sở sản xuất không có trang thiết bị chẩn đoán. a. Mục đích - Chẩn đoán được con vật có thai hay không - Đoán được thai tháng thứ mấy - Xác định và phát hiện những gia súc mang bệnh sản khoa b. Các căn cứ để khám thai - Sự thay đổi của rãnh tử cung - Sự thay đổi thể tích của sừng tử cung - Hoạt động của động mạch tử cung - Kích thước của thai và thể tích núm nhau - Vị trí của bào thai - Thể tích và sự thay đổi bề mặt buồng trứng c. Phương pháp khám thai đối với bò Giới thiệu 30
  34. Chẩn đoán có thai cung cấp một công cụ hữu ích trong quản lý các hệ thống chăn nuôi bò thịt. Trong chương này, những lợi ích của kỹ thuật này đối với các nhà chăn nuôi bò vùng Bắc Australia cũng như việc đưa ra sự đánh giá các giai đoạn khác nhau của quá trình có chửa ở bò thịt sẽ được thảo luận ngắn gọn. Không bao giờ được đánh giá thấp tầm quan trọng của việc xác định tuổi thai. Tỷ lệ có chửa của lần phối giống đầu tiên, liên quan với tuổi của con giống và lượng mưa, hình thành nên một cơ sở cần thiết để giải thích các kết quả. Lập các chương trình một cách hợp lý để tác động đến tỷ lệ sinh sản chỉ có thể thực hiện được với những ghi chép đầy đủ. Những lợi ích có thể đạt được từ việc chẩn đoán có chửa hiệu quả bao gồm: 1. Lựa chọn những bò giống không có chửa để loại thải, thay vì loại thải vì tuổi. 2. Phát hiện và đánh giá những những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của đàn. 3. Đưa ra các biện pháp nhằm giảm nhẹ ảnh hưởng của hạn hán đối với bò giống. 4. Hình thành các nhóm bò theo giai đoạn mang thai, hoặc là theo mục đích bán, hay chỉ đơn giản là để quản lý. 5. Lựa chọn một cách có hiệu quả để điều trị khi có bệnh chậm sinh. 6. Tránh phối giống những con bò có biểu hiện động dục trong lúc có chửa. 7. Mua bán hợp lý, ví dụ, bán những con giống bị loại thải, và bán lại những con bò không có chửa ngay lập tức. 8. Lựa chọn những con cái cho mục đích thí nghiệm khi mà tình trạng, và/hay giai đoạn có chửa có thể ảnh hưởng đến kết quả. 9. Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến sinh sản. Kiểm tra bò bằng sờ khám qua trực tràng được chấp nhận rộng rãi vì là phương pháp thực tế đáng tin tưởng nhất để phát hiện có chửa, và ước lượng tuổi của thai khi không có số liệu phối giống. Điều này là do sự chính xác và tốc độ nhanh của sờ khám qua trực tràng đối với tuổi. Mức độ dễ mà theo đó chẩn đoán có thể thực hiện được ở mỗi cá thể gia súc đầu tiên phụ thuộc vào các yếu tố: 1. Giai đoạn có chửa. 2. Sự kháng cự của gia súc (nhu động). 3. Sự kháng cự của gia súc phụ thuộc vào tính khí và phương pháp cố định gia súc. 4. Số lứa đẻ của gia súc. Mỗi một yếu tố, đặc biệt là sự kháng cự của gia súc, ảnh hưởng đến tốc độ kiểm tra số lượng lớn bò. Những yếu tố bổ xung quan trọng hơn bao gồm: 1. Thiết kế và xây dựng gióng giá và sân kiểm tra. 2. Nhân công sẵn có để lùa gia súc và để làm những công việc tại chỗ kiểm tra bò. 31
  35. 3. Tỷ lệ có chửa của đàn. 4. Sự có mặt, và tỷ lệ đàn hồi phục tử cung sau khi đẻ hay sẩy thai, và 5. Sự thống nhất của người kiểm tra có kinh nghiệm khi kiểm tra một số lượng lớn gia súc. Các bước được tiến hành, và những dấu hiệu đặc biệt của sự có chửa để phát hiện việc có chửa, và việc xác định tuổi của thai, rất dao động giữa các cá thể. Vì hầu hết những dao động này phụ thuộc vào giai đoạn có chửa, nên xác định có chửa ở giai đoạn đầu thuận lợi hơn so với việc xác định có chửa ở giai đoạn giữa và giai đoạn cuối của quá trình có chửa. Những đặc điểm không có chửa Bốn đặc điểm chính phân biệt tử cung bình thường không có chửa: 1. Không có dịch trong sừng tử cung. 2. Cả hai sừng tử cung đều có thành dày. 3. Cả hai sừng tử cung đều thuôn nhỏ về phía cuối. 4. Cả hai sừng tử cung đều cong nhẹ. Kích thước, sự ổn định và vị trí của tử cung bình thường không có chửa là do sự thành thục giới tính, lứa đẻ, giống, giai đoạn của chu kỳ động dục. Kích thước của sừng tử cung từ trước khi thành thục giới tính đến khi bắt đầu có chửa có đường kính khoảng 12,7mm và dài khoảng 203mm. Tăng kích thước tử cung xuất hiện khi bắt đầu có chửa đến khi sừng tử cung đạt tới đường kính 38mm, độ dài 356mm. Có những sự khác biệt nhỏ xuất hiện ở kích thước sừng tử cung tương ứng.Trương lực cơ tử cung rất nhỏ trong thời kỳ không động dục và trước khi gia súc thành thục giới tính. Trương lực cơ tử cung dao động ở những gia súc có chu kỳ. Trương lực cơ tăng là một đặc tính phổ biến của gia súc trong lúc động dục, trong khi đó trương lực cơ trung bình ở giữa chu kỳ động dục. Tử cung không có chửa thường nằm trong xương chậu. Khoảng 5% gia súc đẻ nhiều lứa có tử cung vẫn nằm lại trong xoang bụng sau khi kết thúc hồi phục sinh lý. Phát hiện này có khuynh hướng xuất hiện phổ biến hơn ở bò Brahman và các giống lai. Phát hiện có chửa sớm Những thay đổi sớm nhất có thể sờ khám được ở tử cung có chửa là: 1. Thành tử cung mỏng hơn. 2. Có dịch trong tử cung, và 3. Không sờ thấy sừng tử cung thon về phía cuối. Những thay đổi này xuất hiện đầu tiên ở buồng trứng phía cuối sừng tử cung có thai. Khi dịch màng ối tích lũy những thay đổi tương tự cũng xuất hiện ở sừng tử cung không có thai trong vòng hai tuần. Có ba dấu hiệu của có chửa ở giai đoạn đầu có thể phát hiện được ở bò đã đẻ nhiều lứa có thể trạng tốt vào tuần mang thai thứ sáu. Do đường kính của tử cung nhỏ hơn và thành tử cung mỏng hơn ở bò hậu bị so với bò cái đã đẻ nhiều lứa có thể trạng kém nên những thay đổi này có thể được phát hiện sớm hơn một tuần. 32
  36. Khi cả 2 sừng tử cung được lấp đầy bởi dịch màng ối vào lúc 8 tuần tuổi, thì sừng tử cung cong lên phía trên các mạch máu màng ối. Sức căng của tử cung đã tác động đến thành tử cung và làm mất độ cong của sừng có thai và không làm mất độ cong của sừng không có thai. Sự hiện diện của các núm nhau và sự có mặt của thai là những yếu tố cơ bản để khẳng định sự có chửa. Núm nhau xuất hiện khi thai 5 tuần tuổi. Tuy nhiên, thường là vào lúc 13 tuần có chửa thì kích thước núm nhau mới đủ to để xác định được bằng sờ khám qua trực tràng. Nhu động của thai vào lúc 10 tuần tuổi là một căn cứ để xác định có chửa khi khám thai. Trước giai đoạn này, kích thước của thai và các mạch máu màng ối bao quanh làm cho việc xác định thai khó khăn, thậm chí không thể xác định được. Nhịp đập động mạch giữa tử cung, phía sừng có thai có thể xác định được vào lúc 13 tuần tuổi ở hầu hết bò hậu bị. ấn ngón tay lên thành động mạch có thể xác định được nhịp đập động mạch. Động mạch tử cung là một trong những căn cứ có giá trị để xác định có chửa. Kiểm tra Finscher: sự trượt của màng thai có thể xác định ở tuần thứ 5, mặc dầu sức căng của thành tử cung đã làm cho khó xác định bằng phương pháp này khi thai ở 8 tuần tuổi. Trong khi phương pháp kiểm tra này rất phổ biến ở Mỹ, nhiều người cho rằng phương pháp này không cần thiết, bởi vì phương pháp này dễ làm bong sự kết dính núm nhau ở giai đoạn đầu có chửa, phương pháp kiểm tra này nên hạn chế để chẩn đoán phân biệt khi nghi ngờ có chửa. Có thể sờ khám màng ối khi có chửa 5 tuần và một số người đã dùng để phát hiện có chửa và để xác định tuổi thai. Vì tim thai có thể dễ xác định hơn, không phải chỉ căn cứ vào mạch máu, màng ối có thể bị bong ra, vì vậy phương pháp kiểm tra mạch máu màng ối không được khuyên dùng. Xác định tuổi thai trong giai đoạn mới có chửa Tuổi thai có thể đoán chính xác vào tuần thứ 6 đến tuần 13 của thời kỳ có chửa. Đặc điểm phát triển của tử cung được sử dụng để đoán tuổi thai được mô tả ở Bảng 4 . Mức độ dịch trong sừng tử cung là căn cứ để xác định tuổi thai đến 8 tuần tuổi. Giữa tuần thứ 8 và 13 thì kích thước tuyệt đối và tương ứng của sừng tử cung được dùng cho xác định tuổi thai. Ở một số cá thể, có ít hoặc không có màng nhau phát triển ở sừng không có chửa. Trong những trường hợp này, kích thước tuyệt đối của sừng mang thai tăng lên nhanh hơn bình thường. Sừng tử cung cong lên phía trên và căng cứng xuất hiện bên sừng có thai, trong khi đó thành sừng không có thai vẫn dầy và không có dịch, sự khác nhau này là sự phát triển bình thường. Khám thai sau khi có chửa 3 tháng Trọng lượng nước ối sau 3 tháng kéo tử cung xuống xoang bụng. Cổ tử cung bị kéo sát xuống xoang chậu, trong khi đó trọng lượng kéo nó xuống đáy xoang chậu. Ảnh hưởng của trọng lượng là biểu hiện bằng chứng hiển nhiên ở giữa hoặc cuối giai đoạn có 33
  37. chửa. Sự chửa phải được khẳng định bằng sờ khám được thai, núm nhau hoặc động mạch tử cung. Khám thai phụ thuộc vào kích thước và vị trí nhưng có thể xác định được tất cả các giai đoạn. Tuy không phải là phổ biến, khó chạm đến thai nhất là vào tháng thứ 5 và thứ 7, đặc biệt là từ giữa tháng có chửa thứ 5 đến giữa tháng thứ 6. Xác định núm nhau không khó. Sờ vào phía trên khối thai sẽ xác định được núm nhau. Động mạch tử cung- ở một số ít trường hợp, khi mà cả thai và núm nhau đều không sờ thấy hoặc không chắc chắn, thì xác định động mạch tử cung là điều cần thiết ở cả 1 hoặc cả 2 động mạch ở giữa tử cung. Ở tháng có chửa thứ 3, động mạch phía sừng tử cung chứa thai có đường kính 3,2mm và rất mờ nhạt. Đường kính động mạch tử cung gấp đôi và xác định rõ khi thai 4 tháng. Động mạch tử cung tiếp tục phát triển và đường kính đạt 12.7mm vào lúc thai 8 tháng, lúc này động mạch tử cung đập mạnh, dễ xác định. Ở sừng tử cung không chứa thai, mạch đập động mạch tử cung vẫn mờ nhạt khi thai 7 tháng tuổi và có thể xác định rõ khi thai 8 tháng tuổi . Xác định tuổi thai giai đoạn sau tháng chửa thứ 3 Kích thước thai có thể dùng để đoán tuổi đến khi 4 tháng. Khi đó có thể xác định được sự cong xuống thấp của tử cung. Xác định tuổi vào giai đoạn giữa và cuối có chửa chủ yếu dựa vào kích thước núm nhau. Kích thước núm nhau trên chiều dài của tử cung rất khác nhau vì vậy cần thiết phải lựa chọn vị trí tiêu chuẩn để đánh giá. Vì vậy người ta quy định chung là khám các núm nhau ngay phía sát cổ tử cung vì có kết quả thống nhất và thuận tiện trong việc khám thai. Vị trí của thai, mặc dầu đã được nhiều người dùng để xác định tuổi thai, nhiều khi bị nhầm lẫn do sự biến động rất lớn. Đặc biệt chú ý khi khám cho bò bị đói ăn, thiếu nước uống trong một thời gian. Trong những trường hợp này thì vị trí thai sẽ rất khác so với bò được ăn uống đầy đủ. Kích thước thai cũng cần được bổ xung thêm để xác định tuổi thai. Ở một mức độ hạn chế, quan sát bên ngoài cũng là một công cụ để xác định có chửa ở giai đoạn đầu. Sự phát triển của bầu vú và sưng mọng của âm hộ là những căn cứ tốt trước khi bò đẻ. Khi có các biểu hiện như vậy ít nhất thì thai cũng trên 8 tháng. Các căn cứ để xác định tuổi thai được tổng kết ở Bảng 5. Chẩn đoán phân biệt Bóng đái • Bóng đái không có rãnh chia đôi • Cổ bóng đái ở phía dưới hay song song với cổ tử cung, gắn đối ngược với thân tử cung. • Không có núm nhau. • Không có sự va động khi khám phải bóng đái. 34
  38. • Tiếp tục kiểm tra sẽ xác định được tử cung. Tử cung ở giai đoạn đầu hồi phục • Không có núm nhau và không xác định động mạch đập. • Không có sự va động của thai. • Thành tử cung dày. • Cổ tử cung to toàn bộ. • Dịch tử cung và chất thải dễ thấy ở âm hộ. • Thể trạng cơ thể và sự phát triển bầu vú là các căn cứ để xác định bò mới đẻ hay sẩy thai. Tử cung ở giai đoạn cuốí hồi phục • Thành tử cung dày. • Có dịch nhưng thành tử cung không căng. • Ít khi có thể vàng trên buồng trứng. • Đôi khi quan sát thấy dịch ở âm hộ • Kiểm tra Finscher- âm tính. Tích mủ , tích nước và viêm tử cung • Thành tử cung dày. • Dịch âm hộ biểu hiện viêm tử cung. • Tử cung phía trên không căng lên. • Kiểm tra Finscher- âm tính. Viêm nội mạc tử cung • Thành sừng tử cung dày mềm về phía cuối sừng và cong nhẹ. • Không có dịch • Kiểm tra Finscherếs-âm tính Viêm cơ tử cung • Phân biệt với giai đoạn giữa của kỳ chửa • Tử cung có thành dày • Không có núm nhau và • Không thể phát hiện khối thai • Phân biệt với giai đoạn chửa sớm • Tử cung có sừng dày • Sừng tử cung không cong lên phía trên • Kiểm tra Finscher-âm tính Thai gỗ • Không có dịch màng ối, núm nhau và mạch đập tử cung. 35
  39. • Khối thai hoặc là “chắc và nhão” hay “Cứng như đá”. Buồng trứng • Phân biệt với núm nhau • Có hình dáng đẹp, nếu có mặt của thể vàng • Cứng đồng đều hơn so với núm nhau • Có vị trí ở phía bên so với thân tử cung Các thiết bị gióng giá Thiết kế và xây dựng gióng giá rất khác nhau và ảnh hưởng lớn đến sự thuận tiện, tốc độ và độ an toàn khi kiểm tra. Cổng bên đối với người kiểm tra là tốt nhất. Cổng xoay một mình hay kết hợp với cổng trượt rất được ưa thích. Nên dùng cổng bên để ngăn cách những bò đang đợi, cổng phải xoay chắc chắn, vừa với một người kiểm tra. Việc cố định gia súc trong lúc kiểm tra nên hạn chế tối thiểu. Giữ bò ở phía đầu thường mất nhiều thời gian, và làm khuấy động cả đàn. Nếu một gia súc phải được cô lập để kiểm tra thì cần phải có dây thừng, dây xích hay thanh gỗ chắn ngang phía sau để tránh bị đá. Ở những nơi mà hai hay ba con bò có thể được giữ ở trong gióng giá phía trước của lối vào phía bên, thì dây thừng hay thanh gỗ để đề phòng bò đá là không cần thiết và khó thực hiện. Với sự bố trí này, một bò đã được kiểm tra được giữ lại trong róng giá để giữ những con bò tiếp theo trong lúc kiểm tra. Khám ở phía sau gióng giá với những bò bình tĩnh có thể cần thiết với với những gióng giá ngắn mà không có lối vào ở bên. 36
  40. Phương pháp này loại bỏ việc cần thiết phải vào chuồng gia súc giữa các lần khám vì sự an toàn của người khám và tốc độ khám. Khi phương pháp này là cần thiết, những Bảng 4. Đặc điểm phát triển bình thường của tử cung bò giai đoạn 35-90 ngày tuổi [1] bò đã được kiểm tra nên giữ lại đến khi đầy chuồng, và sau đó thả từng con giữa các lần khám. Dây cố định bò thường được buộc từ phía bên qua phía sau của gióng giá ở những nơi không có cổng trượt. Phương pháp này được áp dụng ở những nơi mà lối vào trượt về phía trước của gióng giá. Dây buộc cố định thường nằm ở một tấm bảng phía sau lối trượt cũng có thể rất hữu ích. Nó đảm bảo rằng một con bò sẵn sàng di chuyển về phía trước ngay lập tức để kiểm tra. Hơn nữa, dây cố định gia súc sẽ là một chướng ngại đối với con bò đang đợi 37
  41. thứ hai muốn lao về phía trước. Xác định tuổi thai bằng cách quan sát bằng mắt Xác định tuổi thai bằng cách quan sát bằng mắt thường được xác định bằng kích thước của thai, bằng độ dài của chóp mông, và cũng bằng sự nhận biết về sự phát triển giải phẫu. Kích thước và hình dáng của các mạch máu màng ối cũng là những chỉ dẫn hữu ích trong những giai đoạn có chửa sớm. Cho điểm thể trạng khi chẩn đoán có chửa ở bò tơ và bò cái: nên cho điểm thể trạng bò vì điểm thể trạng giúp giải thích hiện tượng chửa và giúp đưa ra các quyết định quản lý. Bảng 5. Đặc điểm phát triển bình thường của tử cung bò từ 3-9 tháng tuổi [1] 38
  42. Bảng 5. Đặc điểm bào thai bò qua các tháng tuổi [1] 39
  43. Hình 19. Khám thai bò qua trực tràng [2] d. Phương pháp khám thai trâu (tương tự khám thai bò song xê dịch chút ít vì trâu chửa 11 tháng) e. Phương pháp khám thai ngựa Ở ngựa người ta thương dùng phương pháp khám thai qua âm đạo, kết hợp vởi khám thai qua trực tràng. Vì ở ngựa sau khi có chửa niêm mạc âm đạo nhợt nhạt, có 40
  44. một lớp nhầy trắng đục và keo phủ ngoài. Cổ tử cung co và bé lại, nút niêm dịch trắng đục bít hết lỗ ngoài tử cung. 75% ngựa cái phối giống được 1 tháng nếu có chửa đều có triệu chứng trên. * Chú ý khi khám thai qua trực tràng cần phân biệt có chửa với không có chửa, có chửa với viêm tử cung và các bệnh phụ khoa khác: viêm tích mủ, viêm tích nước, thai thối. 4.2. Chẩn đoán có thai bằng phương pháp phòng thí nghiệm 4.2.1. Phương pháp của giáo sư Nguyễn Tấn Ghi Trong (ĐH Y Hà nội) Dùng axit H2SO4, HNO3, HCl kết hợp với các ProlanB có trong nước tiểu sẽ tạo ra các phức chất có màu đặc trưng. 4.2.2. Phương pháp sinh học phản ứng Galli Mainini Lấy nước tiểu của con cái nghi có chửa tiêm từ 3-5 ml vào túi bạch huyết ở lưng ếch đực. Dưới tác dụng của Gonadotropin hoặc Estrogen (nếu có) thì sau 4 giờ sẽ thấy tinh trùng trong nước tiểu của ếch lấy từ bóng đái. 4.2.3. Phương pháp miễn dịch học Trong nước tiểu lợn chửa có chứa Prolan (hormone kích sinh dục) có tính kháng nguyên rất mạnh. Theo nguyên lý miễn dịch học ta có thể gây phản ứng ngưng kết (hoặc ngăn cản trở phản ứng ngưng kết) để phát hiện kháng nguyên Prolan có sẵn trong nước tiểu để phát hiện kháng thể trong máu gia súc cái có thai. Nói chung là các phương pháp phóng thí nghiệm là khá tốn kém, độ chính xác chưa cao nên ít dùng. 4.3. Dùng máy khám thai Hiện nay việc sử dụng máy siêu âm để khám thai rất phổ biến ở các trang trại lớn mang lại kết quả chẩn đoán cao nhất là có thể chẩn đoán được thai ở các giai đoạn đầu. 41
  45. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Joe, B. and W.F. John, Applied Animal Reproduction. 1996 2. Petes, A.R. and P.J.H. Ball, Reproduction in Cattle. Second ed. 1998: Blackwell Science. 227. 3. Dũng, T.T., D.Đ. Long, and N.V. Thanh, Sinh sản Gia súc. 2002, Hà Nội: NXB Nông nghiệp. 4. Giao, H.K., Công nghệ Cấy truyền phôi ở Gia súc. 2003, Hà Nội: NXB Khoa học và Kỹ thuật. 5. Knobil, E. and J.D. Neill, The Physiology of Reproduction. Second ed. 1994, New York: Raven Press. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Thời gian mang thai và số lượng thai của một số loài gia súc đã học? 2. Các loại màng thai (vẽ hình)? 3. Sự biến đổi của gia súc cái khi có thai? 4. Chẩn đoán gia súc có thai theo phương pháp lâm sàng? 42
  46. CHƯƠNG III. QUÁ TRÌNH SINH ĐẺ Ở GIA SÚC Mục đích: Trình bày những biến đổi khi mang thai của gia súc mẹ (cùng với bào thai) và các phương pháp chẩn đoán gia súc có thai, từ đó có biện pháp chăm sóc, quản lý hợp lý. Thời lượng giảng dạy: 4 tiết I. NHỮNG YẾU TỐ THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH SINH ĐẺ Khái niệm: Gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định (tuỳ theo từng giống loài), khi bào thai đã phát triển đầy đủ, gia súc mẹ đẩy thai ra ngoài cùng với màng nhau, dịch thai. Quá trình đó gọi là đẻ. 1. Học thuyết áp lực Khi thai của tử cung mẹ phát triển đầy đủ ở thời kỳ cuối, bào thai áp sát vào tử cung và cổ tử cung làm cho áp lực của đường sinh dục cái thay đổi. Đồng thời bào thai là một dị vật với sự máy động của thai nhi gây kích thích mạnh làm cho đường sinh dục của con mẹ tăng cường quá trình hưng phấn. Khi áp lực và kích thích cơ giới của bào thai đạt đến một mức độ nhất định gây cho gia súc xuất hiện co bóp ở tử cung làm cho cổ tử cung mở ra xuất hiện quá trình sinh đẻ. 2. Học thuyết kích tố 2.1. Kích tố từ con mẹ Vào thời kỳ trước khi đẻ có sự thay đổi về hàm lượng 2 kích tố trong máu và nước tiểu, đó là sự tăng lên rất cao của Oestrogen và ngược lại hàm lượng Progesteron lại giảm thấp. Sự thay đổi này làm cho tăng sự hưng phấn của cơ mạc và làm cho cơ mạc trở nên nhạy cảm với kích thích bên ngoài, đặc biệt là sự có mặt của Oestrogen làm tăng co bóp của tử cung. Một loại hormone khác là Oxytoxin do thuỳ sau tuyến yên tiết ra vào thời kỳ cuối có chửa làm tăng cường co cơ tử cung. Sự hạ thấp nồng độ Progesteron trong máu cho phép sự kích thích của Oxytoxin lên cơ mạc. Có ý kiến cho răng men Oxytoxinaza làm mất hoạt tính của Oxytoxin để bảo vệ cơ mạc tử cung. Sự hạ thấp nồng độ Oxytoxinaza về giai đoạn có chửa về sau đã làm cho tử cung co bóp gây nên hiện tượng đẻ [1]. 42
  47. 2.2. Kích tố từ con (thai) Các xung động thần kinh từ Hypothalamus của bào thai đã kích thích tuyến yên bào thai giải phóng ACTH (Adromo-corticotrophic Hormone). Điều đó đã tác động thúc đẩy sự sản xuất ra Corticosteroid từ tuyến thượng thận của bào thai. Corticosteroid tác động lên nhau thai và tử cung, kích thích sự sản xuất Prostaglandin làm cho sự phân giải thể vàng xảy ra nhanh chóng, dẫn đến hàm lượng Progesteron không còn. Sự co rút của cơ tử cung không bị kìm hãm, các cơ nội mạc tử cung co rút theo nhịp điệu dẫn đến hiện tượng đẻ [2]. Nói chung, nguyên nhân gây ra hiện tượng đẻ còn có nhiều điều chưa được giải thích đầy đủ và chính xác và có thể có sự khác nhau giữa các loài nên còn đang được nghiên cứu. II. VỊ TRÍ, CHIỀU HƯỚNG VÀ TƯ THẾ THAI 1. Vị trí Động vật nhai lại thường nằm ở sừng tử cung bên phải (trường hợp song thai thì ở mỗi bên sừng tử cung). Thai của ngựa nằm ở thân và gốc sừng tử cung. Thai của lợn nằm rải rác và cách đều nhau trên 2 sừng tử cung, thường số lượng thai ở mỗi sừng không bằng nhau. 2. Chiều của thai Chỉ mối quan hệ của xương sống mẹ và xương sống của thai 2.1. Thai dọc: Xương sống thai song song với xương sống con mẹ (đây là trường hợp đẻ dễ) + Thai dọc đầu: khi đẻ đầu ra trước (đẻ xuôi) + Thai dọc đuôi: khi đẻ đuôi ra trước (đẻ ngược). Thường thấy ở bò, dê, cừu 2.2. Thai ngang: Xương sống mẹ và thai ngang nhau Tuỳ thao hướng của hông, bụng và lưng thai ra ngoài mà ta có thai ngang hông, thai ngang bụng và thai ngang lưng. Nếu xương sống con mẹ và thai làm thành góc 43
  48. vuông thì ta có thai thẳng góc thợ. Do đó ta cũng sẽ có thai thẳng góc thợ hông, thẳng góc thợ bụng và thẳng góc thợ lưng. Đây là các trường hợp đẻ khó, cần phải can thiệp 3. Hướng của thai: Chỉ mối quan hệ lưng của thai và lưng của mẹ + Thai sấp: nếu lưng con mẹ và lưng của thai cùng phía + Thai ngửa: nếu bụng của thai quay lên trên + Thai nghiêng: nêu lưng của thai quay sang một bên lưng của mẹ 4. Tư thế của thai: Chỉ mối quan hệ các bộ phận: đầu, đuôi, chân và thân của thai. Nếu tư thế của thai không bình thường thì gây nên hiện tượng đẻ khó. Trước khi đẻ, chiều hướng và tư thế của thai phải đạt yêu cầu sau: - Chiều thai: dọc đầu hay dọc đuôi - Hướng thai: sấp - Tư thế: + Thai dọc đầu, sấp thì đầu và cổ thai phải gác lên 2 chân trước, duỗi thằng và bằng nhau + Thai dọc đuôi, sấp thì đuôi thai phải nằm giữa 2 chân sau đang duỗi thẳng và bằng nhau Hình 20. Thai bình thường 44
  49. Qua vị trí của móng ta có thể phân biệt được là chân trước hay chân sau, sấp hay ngửa , để từ đó phán đoán ra tư thế của thai. Nếu tư thế thai không ở 2 tư thế trên thì thai đẻ khó. Hình 21. Một số trường hợp thai đẻ khó III. QUÁ TRÌNH ĐẺ 1. Những biểu hiện của gia súc trước khi sinh đẻ a. Biểu hiện toàn thân: Trước khi đẻ (đối với trâu bò khoảng 1 tuần, đối với lợn khoảng vài ngày) con vật thường tỏ ra băn khoăn, có thể ăn uống thất thường. Ở lợn có hiện tượng tha rác làm tổ. Ở trâu bò có hiện tượng sụt mông. Con vật thường đi đái dắt, đại tiện nhiều và phân không có khuôn (đặc biệt ở trâu bò). Nhiệt độ, tuần hoàn và hô hấp của cơ thể hơi tăng một chút. b. Biểu hiện cục bộ đường sinh dục: Trước khi đẻ khoảng 1 tuần đến 2 ngày (tuỳ từng loài) nút niêm dịch cổ tử cung loãng ra và có dịch chảy ra ngoài. Khi sắp đẻ, cơ quan sinh dục có sự thay đổi, rõ nhất là âm môn, âm hộ trở nên phù và mềm, bầu vú căng to, xệ xuống, tĩnh mạch vú nổi rõ. 45
  50. 2. Quá trình sinh đẻ a. Giai đoạn trước khi đẻ (Thời kỳ mở cổ tử cung) Là thời kỳ đầu tiên của quá trìnhg sinh đẻ được tính từ cơn co bóp đầu tiên đến lúc cổ tử cung mở ra hoàn toàn. Mỗi lần tử cung co bóp khoảng 1-2 giây và khoảng cách giữa mỗi lần co bóp khoảng 20-30 giây. Đối với trâu bò (động vật đơn thai) thì sự co bóp tử cung bắt đầu từ đầu mút sừng tử cung. Đối động vật đa thai như lợn thì sự co bóp bắt đầu từ bọc thai gần cổ tử cung nhất, còn những bọc thai khác ở xa vẫn ở trong trạng thái yên tĩnh. Thai và bọc thai đi dần vào cổ tử cung thì một phân của nhau tách ra. Màng niêu và màng ối căng phồng đè lên và kích thich cổ tử cung và khung xương chậu mở ra tạo điều kiện cho thai ra ngoài. Kết thúc giai đoạn này, cổ tử cung và khung xương chậu đã mở hoàn toàn tạo thành một đường thông suốt. Nước ối chảy ra từ bọc ối bị vỡ. Giai đoạn mở tử cung của trâu bò và ngựa khoảng 6 giờ (1-12 giờ), ở lợn khoảng 3-6 giờ. Con vật thường rất đau, kêu la vật vã. b. Giai đoạn đẩy thai Giai đoạn tiếp theo từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn cho đến khi thai được ra ngoài. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình sinh đẻ. Giai đoạn này co bóp của tử cung đặc biệt mạnh. Ở gia súc đơn thai thời gian co bóp khoảng 2-5 giây và khoảng cách co bóp là 2-5 phút. Nếu như tư thế, chiều hướng của thai bình thường, cơ quan sinh dục không có hiện tượng bệnh lý, hệ thống nội tiết hoạt động bình thường thì thai dần dần lọt ra ngoài, ngược lại chuyển sang hiện tượng đẻ khó. Đối với trâu bò và ngựa thì thời gian đẩy thai khoảng 15-30 phút, nếu chậm quá 30 phút thì cần can thiếp không thai chết ngạt. Đối với lợn, thời gian này có thể kéo dài 1-4 giờ, bình thường con nọ xổ cách con kia 5-10 phút, nếu quá 4 giờ mà thai không xổ, hoặc xổ không hết thì phải can thiệp. Con vật rặn đẻ để đẩy thai ra ngoài với các hiện tượng như đứng ngồi không yên, 2 chân cào đất, kêu la, trang thái đau đớn cong lưng rặn, con đuôi, nghiến răng, nín thở c. Giai đoạn bong nhau Con vật trở lại trạng thái yên tĩnh nhưng tử cung vẫn co bóp, những cơn rặn chấm dứt hoặc yếu. Khi bong nhau, sự co bóp tử cung bắt đầu từ đầu mút sừng tử cung do vậy nhau thường lộn ngược. 46
  51. Thời gian bong nhau ở trâu, bò khoảng 4-6 giờ sau khi đẻ, ở ngựa là 20-60 phút, lợn là 10-60 phút, dê cừu là 1-2 giờ. Đối với trâu bò nếu nhau không bong hết sau 12 giờ thì cần phải can thiệp ngay vì sau thời gian đó cổ tử cung đóng lại sẽ khó can thiệp, mặt khác nhau bị hoại tử sẽ khó lấy ra. Đối với lợn, nếu nhau không được đẩy ra hết, bất kì nhiều hay ít còn tồn lại sẽ gây ra viêm tử cung, một vài trường hợp dẫn đến viêm vú. d. Giai đoạn hồi phục tử cung Đối với trâu bò sau khi đẻ 2 ngày nước thai còn màu đỏ sẫm trong có chất lợn cợn. Nếu sau 10 ngày còn sản dịch là viêm tử cung. Đối với lợn thì sản dịch ít hơn, lúc đầu hơi đỏ, 2-3 ngày thì ngừng chảy. Thời gian hồi phục tử cung sau khi đẻ phụ thuộc lớn vào 3 giai đoạn trên của quá trinh đẻ. IV. PHƯƠNG PHÁP ĐỠ ĐẺ CHO GIA SÚC 1. Đỡ đẻ bình thường 1.1. Đỡ đẻ cho lợn Gần đến ngày đẻ của lợn ta phải cử người trực cả ngày lẫn đêm vì 60-70% lơn bắt đầu đẻ vào ban đêm. Chuồng trại đảm bảo vệ sinh, yên tĩnh. a. Chuẩn bị dụng cụ - Bông băng, chỉ buộc rốn, giẻ lau, thúng nhốt lợn con - Panh, keo, kìm (hoặc bấm móng tay) - Cồn sát trùng, một số loại thuốc (Oxytoxin, vitamin K, B1, C ) b. Phương pháp đỡ Khi lợn mẹ đẻ ra khỏi đường sinh dục, ta đỡ lấy lợn con, bóc màng bọc trên thai, móc chất nhớt trong miệng, lấy 2 ngón tay kẹp dây rốn vuốt ngược về phía bụng lợn con, cắt dây rốn khoảng 2-3 cm, buộc dây rốn, sát trùng vết cắt bằng cồn Iod 5%. Sau đó lau sạch nhớt trên mình (lau ngược lông), bấm răng nanh. Nhốt lợn con vào cái thúng ngoài chuồng rồi đỡ tiếp tục cho đến khi hết. 47
  52. Chú ý: Trong khi đẻ lợn mẹ có thể ăn lợn con, ăn nhau và đè chết con nên phải có người trực Khi lợn đẻ xong khoảng 1 giờ ta cho những con dự định để nuôi vào để cho bú sữa đầu. Cần cố đinh vú cho lợn, và con yếu thì nên cho bú gần ngực. Để tránh hiện tượng sót nhau, ta gom nhau lại sau khi lợn đẻ ra hết, số lợn và nhau là bằng nhau, nếu không là sót nhau [3] [4]. 1.2. Phương pháp đỡ đẻ cho trâu bò a. Chuẩn bị dụng cụ và chuồng trại - Bông băng, chỉ buộc rốn, giẻ lau - Cồn sát trùng, một số loại thuốc (Oxytoxin, vitamin K, B1, C ) - Chuẩn bị dụng cụ sản khoa (nếu cần thiết) - Chuồng trại vệ sinh, yên tĩnh b. Phương pháp đỡ - Dùng nước muối 5% hoặc thuốc tím 1l rửa sạch âm hộ, bầu vú và phần thân sau - Nếu trâu bò gầy yếu có thể tiêm thuốc trợ tim, trợ sức trước khi đẻ - 30 phút - một giờ sau khi vỡ ối thai không ra ta phải can thiệp - Khi bê nghé vừa đẻ ra dùng 2 ngón tay kẹp dây rốn, vuốt ngược về phía bụng của thai và cắt dây rốn khoảng 10-12 cm, dùng chỉ cột dây rốn sau đó sát trùng bằng cồn Iod 5%, dùng tay móc nhớt trong miệng, dùng rơm rạ, bao tải sạch lau nhớt trên người, lau ngược lông để tạo điều kiện cho tuần hoàn, hô hâp lưu thông (nếu là bò sữa thì tách con ngay, con trâu bò gia đình thì để cho mẹ liếm con). - Nếu bê nghé bị ngạt thì ta có thể hô hấp nhân tạo - Nửa giờ sau khi đẻ cho trâu bò uống nước ối pha thêm ít muối - Dùng nước muối rửa bộ phận sinh dục, bầu vú, thân sau - Sau 1 giờ cho bê nghé bú sữa mẹ, nhất thiết phải cho bê, nghé bú sữa đầu. 2. Đỡ đẻ khó 48
  53. 2.1. Các trường hợp đẻ khó - Vị trí, tư thế, chiều hướng thai không bình thường Hình 22. Dùng thừng kéo hàm dưới ở tư thế đầu và cổ bị nghẹo sang một bên - Rặn đẻ yếu - Đẻ khô - Xương chậu hẹp - Cổ tử cung hẹp và một số trường hợp khác 2.2. Nguyên nhân 2.2.1. Nguyên nhân do mẹ - Do con vật quá gầy yếu dẫn đến rặn đẻ yếu - Do các phần mêm cổ tử cung, âm đạo, âm hộ dãn nở không tốt - Do khung xương chậu hẹp hoặc méo, khớp bán động háng không bình thường Hình 23. Tay nắm chặt đầu móng, kéo thăng ra trước - Do tử cung bị xoắn, vặn [5] 2.2.2. Nguyên nhân do thai 49
  54. - Kích thước thai quá tro - Vị trí, tư thế, chiều hướng thai không bình thường - Do quái thai 2.2.3. Can thiệp * Chú ý: Kiểm tra thai sống hay chết. Nếu thai chết thì phải can thiệp ngay, nếu thai sống thì có thể chờ một thời gian nữa để cho cở tử cung mở hoàn toàn hoặc là kiểm tra sửa lại tư thế, chiều hướng của thai. - Dùng thuốc để can thiệp: Tiêm kích tố hậu yên Oxytoxin với liều lượng 5- 10 UI/100kg P để tăng cường co bóp của tử cung. Nếu thai đã có một phần qua cổ tử cung thì không được tiêm tránh vỡ tử cung hoặc chết thai. a. Phương pháp đỡ đẻ qua âm đạo * Phương pháp đỡ đẻ cho lợn Hình 24. Dùng cần đẩy biến thế xương ngồi ra + Chuẩn bị dụng cụ như đỡ đẻ trước thành khuỷu chân sau ra trước thường + Vô trùng bộ phận sinh dục của lợn và phần sau. Vô trùng tay người can thiệp bằng cồn Iod 5% hoặc cồn 70%. Xoa Vazơlin hoặc paraphin dầu vào tay định đưa vào tử cung + Cách đỡ: Đưa tay trực tiếp qua âm đạo, có thể vào tận cổ tử cung, thân tử cung vào tận các sừng tử cung đỡ từng con một (chú ý vị trí cần để kéo). Khi thai kéo ra khỏi đường sinh dục thì tiếp tục đỡ như đỡ đẻ bình thường. + Nếu đường sinh dục khô có thể đưa vào một lượng Paraphin, Vazơlin hoặc dầu thực vật để bôi trơn. Hình 25. Tư thế khuỷu chân sau ra trước, dùng cần đẩy sản khoa để kéo thẳng chân sau 50
  55. + Sau khi đỡ xong thụ vào tử cung Peniciline 500.000 UI, Streptomicin 1g và 20 ml nước * Phương pháp đỡ đẻ cho trâu bò Như cho lợn nhưng chú ý là khi đỡ đẻ thì dùng tay kiểm tra, sửa lại chiều hướng và tư thế thai (có thể bằng dụng cụ sản khoa) cho bình thường rồi kéo thai ra theo nhịp rặn của mẹ. Khi kéo thì vừa kéo vừa nâng nếu không mắc kẹt xương háng không ra được. b. Phương pháp mổ bụng lấy thai Hình 26. Mổ bụng lấy thai a. Phương pháp mổ hông bên phải b. Phương pháp mổ bụng lấy thai PHỤ LỤC KỸ THUẬT MỔ BỤNG LẤY THAI Nếu gia súc đẻ khó, thai quá to và thai còn sống mà không thể lấy ra được thì biện pháp tốt nhất là mổ bụng lấy thai kịp thời, cứu cả mẹ và con [6]. • Các trường hợp sau được chỉ định mổ bụng lấy thai 51
  56. - Cổ tử cung hẹp, một phần màng thai đã vào âm đạo nhưng cổ tử cung không mở to và thai không ra được. - Tử cung bị xoắn không sờ vào thai được - Rặn đẻ yếu, tiêm thuốc kích thích không có hiệu quả - Thai quá to hoặc tư thế, hướng, vị tri thai không bình thường mà không thể xoay lấy thai ra được - Thai bị thủy thũng nặng - Nước thai quá nhiều, nguy hiểm đến tính mạng của bò cái mà không thể lấy thai ra được • Không mổ bụng lấy thai trong trường hợp: - Thai đã chết lâu, thối. Nếu mổ bụng mẹ lấy thai sẽ gây viêm phúc mạc, nhiễm trùng huyết làm chết bò mẹ. - Bò mẹ đẻ kéo dài đã quá kiệt sức. 1. Yêu cầu cơ bản khi mổ bụng lấy thai - Phải tiến hành càng sớm càng tốt - Chuẩn bị dụng cụ, thuốc men đầy đủ - Thao tác nhanh, chính xác và hết sức tránh để ruột bò mẹ lòi ra ngoài. - Không được để nước chảy vào xoang bụng, vì như vậy sẽ gây viêm phúc mạc - Vết khâu tử cung phải thật kín. - Điều trị chống nhiễm trùng toàn thân sau mổ 2. Phương pháp mổ Có 2 phương pháp: Mổ dưới bụng và mổ bên hông. Vị trí mổ: Có thể chọn 1 trong 4 vị trí mổ sau đây: - Phía trái, cách tĩnh mạch vú trái từ 5-8 cm. - Giữa tĩnh mạch vú trái và đường trắng ở giữa bụng. 52
  57. - Đường trắng ở giữa bụng. - Cách tĩnh mạch vú phải từ 5-8 cm. Mổ vị trí phái phải đường trắng có ưu điểm là dạ cỏ không trở ngại cho việc lôi tử cung ra, nhưng vì vị trí vết mổ ở thành bụng nên dễ làm cho ruột lòi ra. Chuẩn bị: Đặt con vật về bên trái trên một đệm cỏ khô, dày, sạch, bên trên phủ một tấm vải sạch, trói hai chân trước với nhau, hai chân sau với nhau. Đè chặt đầu bò xuống. Nếu có bàn mổ thỉ đặt bò lên bàn. Sát trùng: Cạo sạch lông chỗ mổ, rửa sạch bằng xà phòng, lau khô rồi bôi cồn Iod. Xung quanh chỗ mổ đặt vải đã vô trùng. Toàn bộ nơi mổ, dụng cụ mổ và tay người mổ đều được vô trùng cẩn thận theo phương pháp ngoại khoa. Gây tê: Gây tê theo dọc vết mổ bằng dung dịch Novocain 2%, tiêm dưới da. Trước khi con vật nằm cũng cần tiêm gây tê ngoài màng cứng tủy sống. 3. Tiến hành mổ: Xem tài liệu về Giáo trình ngoại khoa thú y. 4. Hộ lý - Tiêm kháng sinh và trự sức cho bò hằng ngày. - Vết thương khô, sạch và liền mép thì sau 10 ngày sẽ cắt chỉ - Nuôi dưỡng tốt và giữ vệ sinh chuồng trại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Xưxoep, A.A., Sinh lý sinh sản gia súc. 1985, Hà Nội: NXB Nông nghiệp. 429. 2. Martin, H.J. and J.E. Barry, Essential Reproduction. Fifth ed. 2000: Blackwell Science. 1-274. 3. Dân, T.T., Sinh sản heo nái và sinh lý heo con. 2004, Hà Nội: NXB Nông nghiệp. 80-90. 4. Hughes, P.E. and M.A. Varley, Reproduction in the Pig. 1986? 5. Petes, A.R. and P.J.H. Ball, Reproduction in Cattle. Second ed. 1998: Blackwell Science. 227. 6. Lăng, P.S. and B.Đ. Phong, Bệnh Sinh sản và Kỹ thuật thực hành ngoại khoa ở bò sữa. 2002, Hà Nội: NXB Nông nghiệp. CÂU HỎI ÔN TẬP 53
  58. 1. Yếu tố thúc đẩy quá trình sinh đẻ ở gia súc theo thuyết áp lực và thuyết kích tố từ mẹ? 2. Yếu tố thúc đẩy quá trình sinh đẻ theo thuyết kích tố từ con? 3. Vị trí, chiều hướng và tư thế của thai? 4. Những biểu hiện của gia súc khi chuẩn bị sinh đẻ và các giai đoạn của quá trình sinh đẻ? 5. Phương pháp đỡ đẻ thường cho lợn? 6. Phương pháp đỡ đẻ thường cho trâu bò? 7. Các trường hợp và nguyên nhân đẻ khó? 8. Can thiệp đẻ khó? 54
  59. HỌC PHẦN II CÔNG NGHỆ SINH SẢN - - - - - - - - - - - - - Yêu cầu chung: Nắm được những kỹ thuật tiên tiến nhằm chủ động điều khiển quá trình sinh sản theo ý muốn của con người GIỚI THIỆU Kỹ thuật sinh sản là một trong những biện pháp then chốt để duy trì phẩm giống, phát triển đàn, tạo ra nhiều sản phẩm thịt, sữa, trứng phục vụ nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng về cả số lượng và chất lượng. Năng suất sinh sản trong chăn nuôi nước ta hiện nay còn thấp. Theo tổng kết của Hội Chăn nuôi VN (2000) lợn nái lứa đẻ ít (1,5 – 1,6 lứa đẻ/nái/năm), số lợn con sinh ra và nuôi được thấp do đó khả năng sản xuất thịt bình quân của một l nái chỉ đạt 550-600 kg thịt/nái/năm bằng 1/3 chỉ tiêu này ở các nước trong khu vực. Khoảng cách giữa các lứa đẻ của đàn trâu bò cái sinh sản bình quân 20-24 tháng (tỉ lệ đẻ 50-60%), ở các nước chăn nuôi tiên tiến chỉ tiêu này là 14-15 tháng/bê/cái sinh sản (tỉ lệ đẻ 80-85%) Năng suất sinh sản thấp là một trong những nguyên nhân hàng đầu làm cho hiệu quả chăn nuôi thấp thậm chí còn bị thua lỗ. Những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến năng suất sinh sản của gia súc có nhiều nhưng chú ý nhất có những nguyên nhân sau: a. Chế độ nuôi dưỡng không hợp lý Dinh dưỡng đầy đủ (không thiếu, không thừa), khẩu phần thức ăn hợp lý, đáp ứng được các nhu cầu của con mẹ trong các giai đoạn sinh trưởng phát dục, mang thai, trước và sau khi đẻ, nuôi con làm một trong những biện pháp hữu hiệu đẻ nâng cao năng suất sinh sản của gia súc. b. Trình độ quản lý và tay nghề thấp Trong chăn nuôi hộ gia đình (nhất là đối với trâu, bò, dê) do không thực hiện phân đàn, phân lô đúng cách, chuồng trại chật chội sẽ dẫn đến các vấn đề như cản trở việc phát hiện sớm những gia súc cái động dục, gia súc có chửa sẽ dễ bị sẩy thai, thậm chí bê nghé sơ sinh bị dẫm chết Mặt khác hàng năm không tiến hành loại thải những gia súc còi cọc hoặc có bệnh đường sinh dục đã được can thiệp nhiều lần không khỏi đều làm cho năng suất sinh sản của đàn cái thấp. 54
  60. c. Thời tiết khí hậu Điều kiện khí hậu của môi trường không thuận lợi có ảnh hưởng đến hoạt động sinh dục của gia súc ở các mức độ khác nhau. Trâu cái, dê cừu cái rất nhạy cảm với sự thay đổi nhiệt độ- ẩm độ không khí. Mùa hè oi bức hoặc mùa đông giá lạnh trâu cái, dê cái hầu như ngừng động dục, đến lúc thời tiết trời mát mẻ (từ tháng 9-11 và từ tháng 2-5) mới trở lại động dục (mùa động dục). Ở bò cái tuy hoạt động sinh sản quanh năm nhưng cũng thường tập trung vào mùa hè và hè thu. Vì vậy, trong mùa động dục (đối với trâu và dê cừu cái) nêu ta không tập trung mọi cố gắng đẻ phát hiện kịp thời và phối giống đúng lúc cho các gia súc cái se làm cho năng suất sính sản của chúng giảm sút. d. Bệnh lý Một số bệnh có thể làm giảm hoặc mất khả năng sinh sản của gia súc - Các bệnh sản khoa đặc biệt là bệnh liên quan đến đường sinh dục. Ví dụ: nhiễm bệnh ở bộ máy sinh dục sau khi đẻ như nhiễm trùng cục bộ hay toàn bộ, sát nhau, lộn tử cung, âm đạo ; những hiện tượng mất khả năng sinh sản (liệt dục, ngừng hoặc mất hoạt động tính dục, động dục ngầm, chù kì không rụng trứng ). - Mất cân bằng nội tiết. Ví dụ như do tồn lưu thể vàng làm cho gia súc cái không động dục; tỉ lệ FSH/LH không thích hợp làm cho gia súc động dục mà không rụng trứng; sự mất cân đối giữa Progesteron và Oestrogen như là quá ít Progesteron làm không bảo đảm điều kiện tốt của nội mạc tử cung để phôi làm tổ hoặc là quá nhiều Oestrogen gây nên động dục quá mức và liên tục - Rối loạn di truyền. Đột biến di truyền, tương tác và kết hợp các gen không bình thường ở con đực và con cái hoặc do tác động của điều kiện sống bên ngoài (ánh sáng, nhiệt độ, hoá chất ) đã làm biến đổi hệ thống gen (chuyển đoạn, hoà tâm ) đưa đến mất hoàn toàn hoặc giảm khả năng sinh sản của vật nuôi. Khắc phục những nguyên nhân nêu trên bằng những biện pháp tương ứng và có hiệu quả (chế độ dinh dưỡng hợp lý, cải tiến và nâng cao trình độ quản lý kinh tế-kỹ thuật chăn nuôi thú y, thực hiện tốt quy trình công nghệ TTNT, cấy truyền phôi, điều hoà sinh sản bằng hormone ) chắc chắn sẽ nâng cao năng suất sinh sản của đàn gia súc. 55
  61. CHƯƠNG IV. KỸ THUẬT THỤ TINH NHÂN TẠO GIA SÚC Mục đích: Trình bày kỹ thuật huấn luyện đực giống, kỹ thuật khai thác tinh dịch, kỹ thuật kiểm tra đánh giá chất lượng tinh dịch, đặc tính của tinh trùng, pha chế, bảo quản tinh dịch và kỹ thuật dẫn tinh. Thời lượng giảng dạy: 20 tiết (15 tiết lý thuyết và 5 tiết thực hành) * Khái niệm Thụ tinh nhân tạo là một biện pháp khoa học trong chăn nuôi, thông qua một số biện pháp kỹ thuật, con người lấy tinh từ đực giống để thụ tinh nhân tạo cho con cái nhằm phát huy khả năng sản xuất của những gia súc tốt. I. LỊCH SỬ CỦA KHOA HỌC THỤ TINH NHÂN TẠO 1. Lịch sử trên thế giới Lich sử phát triển kỹ thuật thụ tinh nhân tạo (TTNT) gia súc trên thế giới trải qua nhiều giai đoạn. Thời kỳ sơ khai phải kể đến I.I. Ivanov (Nga), L. Spallanzani (Italia) và sau đó là Bibbiena là những người đầu tiên làm thí nghiệm trên tằm để thụ tinh nhân tạo. Truyền thuyết kể rằng thụ tinh nhân tạo bắt nguồn từ thế kỷ XIV nói rằng: Một tù trưởng của một bộ lạc nọ vì muốn có được dòng ngựa tốt của một bộ lạc thù địch, trong đêm tối đã sai người hứng tinh dịch của một con ngựa đực của đối thủ vào một nắm bông và nhét vào âm hộ ngựa cái của mình. Ít lâu sau ngựa của ông ta có chửa và sinh ra con ngựa như ông mong muốn. Năm 1898 Heape (Anh) phát hiện ra chu kỳ sinh dục gia súc làm nền tảng khoa học cho kỹ thuật thụ tinh nhân tạo. Ở Mỹ, Pearson và Harrison phát hiện ra phương pháp dẫn tinh ngựa và bò. Sự bùng nổ của kỹ thuật thụ tinh nhân tạo đạt được sau khi Joseppe Amantea, người Italia phát minh ra âm đạo giả năm 1914. Phát minh này đã giải quyết một loạt khó khăn trong việc lấy tinh các loại gia súc nhất là ngựa và loài dạ cỏ. 56
  62. I.I. Ivanov (1917) cùng với V.K. Milovanov (1934) là những người đầu tiên đưa ra cơ sở khoa học và thực nghiệm về pha loãng và bảo tồn tinh dịch với dung dịch điện giải (NaCl, KCl), Phillips (1940), Salisbury (1943) cải tiến môi trường pha loãng và bảo tồn với lòng đỏ trứng gà, Na-Citrate, kháng sinh đã thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực thụ tinh nhân tạo gia súc ngày càng được hoàn thiện theo thời gian và có được sự phát triển cả về mặt quy mô lẫn chiều sâu như ngày nay [2-4]. 2. Lịch sử ở Việt nam Ở Việt nam, kỹ thuật TTNT được bắt đầu từ năm 1957 tại Học viện Nông - Lâm, nay là trường Đại học nông nghiệp I thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội. Năm 1958, TTNT đã được tiến hành cho lợn ở An Khánh - Hà Tây. Đầu năm 1960, TTNT cho bò, 1961 TTNT cho trâu, 1964 cho ngựa. Vào những năm 70, cơ sở đông lạnh tinh dịch bò dạng viên do Cuba viện trợ đã tiến hành ở Moncada thuộc Ba Vì - Hà Tây. Năm 1986, Viện Chăn nuôi đã ứng dụng thành công TTNT cho gà, năm 1990 cho ngỗng, 1991 TTNT lai xa giữa ngan và vịt, 1995 TTNT cho dê, 1997 TTNT cho chó nghiệp vụ. Cho đến nay, TTNT cho lợn, bò là phát triển hơn cả. Cả nước có 79 trạm (năm 1999) và 36 phân trạm với trên 2.000 cán bộ kỹ thuật và hàng vạn dẫn tinh viên, số lượng lợn, bò đực giống được sử dụng vào TTNT trên 1.500 con [5, 6]. II. LỢI ÍCH VÀ BẤT LỢI CỦA TTNT GIA SÚC 1. Lợi ích - Nâng cao được khả năng truyền giống của con đực. Bằng cách TTNT một con lợn đực có thể phụ trách 250 - 350 lợn cái (đực nội) và 1000 - 2000 lợn cái (đực ngoại). Đối với bò, một con đực có thể phụ trách hàng vạn bò cái (vì mỗi lần xuất tinh của bò đực cho 200 liều tinh và lợn đực cho 30 - 40 liều tinh). - Nâng cao phẩm chất chung của đàn gia súc. Vì chỉ dùng một số ít con đực giống được chọn lọc kỹ càng, với chất lượng tinh dịch rất tốt đem dẫn cho gia súc cái thì các đặc điểm tốt sẽ được truyền cho đời sau. - Có thể mang tinh dịch đi xa. Vì tinh dịch đó đã được dùng các chất thích hợp để pha chế và dùng nhiệt độ thích hợp để bảo tồn. Ví dụ :Tinh dịch lợn ở nhiệt độ 16-18 oC có thể giữ được 3-4 ngày (lợn ngoại), lợn nội có thể giữ được 1-2 ngày. Đặc biệt tinh dịch bò, bằng phương pháp ướp lạnh có thể giữ được 8-10 năm. 57
  63. - Tránh được sự lây lan một số bệnh qua con đường tiếp xúc. - Khắc phục được khó khăn do sự chênh lệch quá lớn về tầm vóc trong giao phối trực tiếp. Ví dụ lợn đực ngoại nặng chừng 300-400 kg nhưng lợn cái nội chỉ nặng trung bình 50-60kg hay bò đực ngoại nặng 1 tấn - 1,5 tấn trong khi bò cái nội chỉ khoảng 180- 250 kg nên rất khó giao phối trực tiếp. - Trong công tác lai tạo và chăn nuôi công nghiệp với số lượng gia súc cái động dục đồng loạt với các công thức lai tạo giống khác nhau thì chỉ có biện pháp TTNT mới giải quyết được vấn đề trên. - Kéo dài thời gian sử dụng đực giống. Ví dụ bằng nhảy trực tiếp lợn đực ngoại chỉ sử dụng trong khoảng 1,5-2 năm trong khi bằng TTNT nó có thể dùng được 4-5 năm. - Có hiệu quả kinh tế lớn hơn hẳn gia súc đực nhảy trực tiếp. Ví dụ: Giá trị tiền thu được từ TTNT bao giờ cũng gấp từ 5-6 lần so với nhảy trực tiếp đối với lợn và hàng trăm lần đối với bò. 2. Bất lợi - Kỹ thuật TTNT đòi hỏi người làm kỹ thuật nắm được về sinh lý sinh sản và thú y, là người trung thành, yêu nghề, được đào tạo. - Cần vốn ban đầu cao. - Đòi hỏi về thời gian lâu hơn, các công đoạn qúa trình thụ tinh diễn ra nhịp nhàng ăn khớp với nhau. - TTNT nếu không có kiểm tra tốt nó sẽ làm lây lan bệnh tật thông qua sinh sản. III. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ SINH LÝ SINH SẢN CỦA GIA SÚC ĐỰC (Đã nghiên cứu trong Học phần 1) IV. KỸ THUẬT KHAI THÁC TINH DỊCH CỦA GIA SÚC 58
  64. 1. Phản xạ tính dục của con đực Phản xạ tính dục là chuỗi phản xạ, là biểu hiện các hành vi động tác muôn hình muôn vẻ, để kích thích con cái cùng loài, thông qua đó con đực thực hiện được chức năng sinh sản. 1.1. Phản xạ săn đuổi (trò sơ bộ) Phản xạ săn đuổi là phản ứng toàn thân của con đực để kích thích con cái cùng loài dẫn đến khả năng giao phối với nhau. Đực giống bình thường đến giai đoạn thành thục về sinh dục đều có phản xạ này, nếu không có thì đực giống đó không bình thường về khả năng sinh sản. Thường con đực phát hiện con cái bằng các cơ quan cảm thụ như thính giác, thị giác, khứu giác. Khi tiếp xúc với con cái nó thường ngửi phân, ngửi nước tiểu, ngửi bộ phận sinh dục của con cái hoặc dùng mõm hích vào lưng, vào bụng để kích thích. Ở gia cầm khi con đực tiếp xúc với con cái thường đạp chân, xả cánh và đuổi theo con cái. Nhìn chung ở các loài gia súc khác nhau thì cách thể hiện phản xạ này khác nhau. Đây là phản xạ ban đầu và là cơ sở để thực hiện các phản xạ khác do vậy ta cần tạo điều kiện để gia súc thực hiện phản xạ này một cách đầy đủ. Gia súc cái cũng có phản xạ này nhưng nó chỉ biểu hiện ở thời kỳ động dục, con vật thường bỏ ăn, phá chuồng, kêu la và đi tìm con đực, biểu hiện rõ nhất là ở bò. 1.2. Phản xạ cương mô giao cấu Phản xạ này bắt nguồn từ phản xạ săn đuổi làm trương phồng cơ quan giao cấu. Ở gia súc đực do máu của động mạch phân nhánh nhiều đến dương vật và kết thúc ở cơ quan cương tạo thành xoắn ốc, dẫn đến hiện tượng trương phồng và cương cứng dương vật. Đây là phản xạ tạo điều kiện cho phản xạ giao cấu và phản xạ phóng tinh tốt hơn và ngược lại. Chính vì vậy mà ta cần tạo điều kiện để cho gia súc thực hiện phản xạ này thật tốt. Ở con cái cũng có phản xạ này khi hưng phấn sinh dục đến đỉnh cao máu dồn lên tiền đình âm đạo làm cho tiền đình âm đạo trương phồng. * Chú ý: nhiều con đực hăng quá : khi ta đưa vào giá vội vã nhảy lên ngay, những con đó thường nhảy không thành công. 1.3. Phản xạ giao cấu Phản xạ này xảy ra ở cả con đực và con cái, hai cơ quan sinh dục tiếp xúc với nhau, toàn cơ thể đực, cái hưng phấn ở mức độ cao (mất phản xạ này thường mất luôn cả phản xạ phóng tinh). 59
  65. + Ngựa có kiểu giao cấu có cưa, khi đạt tới trạng thái hưng phấn cao nhất dương vật đưa sâu vào tử cung để thực hiện phản xạ phóng tinh. + Bò có phản xạ tìm ngắn hơn, biểu hiện cử động nhịp xương chậu kết hợp với cử động của dương vật và đưa dương vật tiếp xúc với môi to âm đạo. Lúc này do kích thích của tiểu thể xúc giác (nằm dưới niêm mạc dương vật) bò bắt đầu thực hiện phản xạ phóng tinh. + Lợn động tác tìm lâu hơn, dương vật xoay nhiều lần, đưa vào rút ra cuối cùng dương vật đưa qua cổ tử cung để thực hiện phản xạ phóng tinh. 1.4. Phản xạ phóng tinh Phản xạ phóng tinh là phản xạ cuối cùng của chuỗi phản xạ sinh dục. Nó liên quan đến nhiều phản xạ như nâng dịch hoàn lên để co bóp phóng tinh ra ngoài. Đây là phản xạ quan trọng nhất, nó trực tiếp ảnh hưởng đến phẩm chất tinh dịch vì vậy ta phải đặc biệt chú ý tạo mọi điều kiện để gia súc xuất tinh tốt, đặc biệt là các yếu tố kỹ thuật như nhiệt độ, áp suất, độ nhớt của âm đạo giả và các yếu tố kỹ thuật khác. Phản xạ này ở những động vật khác nhau thì biểu hiện khác nhau: + Ngựa khi phóng tinh nó cử động nhịp đuôi, có lúc rên khẽ, nó phóng tinh từng phần. Giai đoạn đầu dịch loãng hầu như không có tinh trùng, giai đoạn thứ hai dịch có màu trắng sữa, nồng độ tinh trùng ở mức độ cao, giai đoạn thứ ba dịch nhầy keo, ít tinh trùng. + Bò và trâu phóng tinh khi thực hiện phản xạ thúc. Thời gian phóng tinh ở trâu, bò chỉ ngắn trong vòng 3-4 giây (cần lưu ý: khi trâu, bò chưa thực hiện phản xạ thúc thì chưa phóng tinh). + Lợn suốt trong thời gian phóng tinh nằm im trên giá, dương vật ít cử động. Lợn do lượng tinh dịch nhiều nên tinh dịch chảy trực tiếp vào tử cung. Theo Burger 1952 mổ khám tử cung sau 15 phút thực hiện phản xạ phóng tinh thì tử cung đầy tinh dịch. Lợn cũng phóng tinh từng phần giống như ngựa nhưng thời gian phóng tinh của lợn lâu hơn, có thể kéo dài từ 10 - 15 phút, có con kéo dài tới 30 phút. * Một số đặc điểm cần lưu ý: - Hưng phấn sinh dục giảm ngay sau khi con đực hoàn thành "bài thể dục" nghĩa là thực hiện xong toàn bộ quá trình giao phối. - Ngừng giao phối hoặc nghỉ khai thác tinh dịch một thời gian con đực tăng hưng phấn sinh dục nhưng phẩm chất tinh dịch lại giảm vì có nhiều tinh trùng già. Nếu hiện tượng này kéo dài sẽ gây nên hiện tượng tự dâm. Thí dụ ở lợn cạ dương vật vào tường hoặc nền chuồng để phóng tinh, ở bò và trâu qùy hai chân trước thúc dương vật vào yếm để phóng tinh. 60
  66. 2. Điều kiện để huấn luyện tốt đực giống 2.1. Tuổi huấn luyện Đực giống khi đưa vào huấn luyện tuổi phải hơi non (tuổi dậy thì) bởi vì ở tuổi này dễ cảm hóa con vật nhưng đồng thời cũng là tuổi con vật có tinh hăng về sinh dục, còn nếu tuổi trưởng thành thi khó huấn luyện hơn vì tính bảo thủ của nó cao. + Lợn nội 5-6 tháng tuổi, lợn ngoại 7-8 tháng tuổi. + Trâu, bò 18-24 tháng tuổi, nếu trên hai năm thường khó huấn luyện. 2.2. Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng Trước khi đưa đực giống vào huấn luyện khoảng 20 ngày cần cho gia súc ăn theo chế độ của đực giống làm việc, khẩu phần ăn phải đảm bảo và cân đối giữa các chất, đặc biệt là protein, canxi, phốt pho và các loại Vitamin A, D, E Cùng thời gian ấy người huấn luyện phải tiếp xúc với con đực để làm quen bằng cách cho gia súc vận động, tắm chải, xoa bóp dịch hoàn. 2.3. Lịch huấn luyện Phải đảm bảo một tuần không quá hai lần và đúng giờ qui định (tốt nhất là khoảng từ 5-7 giờ sáng). 2.4. Người huấn luyện Người huấn luyện phải kiên trì tránh nôn nóng, tránh các hành vi thô bạo như : đánh đập gia súc và phải luôn cố định người huấn luyện bởi vì có cố định người huấn luyện thì mới theo dõi được cá tính của từng con để chiều theo ý thích của chúng. 2.5. Phòng và giá huấn luyện Phòng huấn luyện phải rộng đủ cho gia súc đi lại thực hiện các phản xạ. Giá huấn luyện phải phù hợp với từng loại gia súc. 3. Phương pháp huấn luyện * Nguyên tắc huấn luyện Thành lập cho gia súc đực một phản xạ có điều kiện về nhảy giá và thường xuyên củng cố phản xạ này. Các loài gia súc khác nhau thì có phương pháp huấn luyện khác nhau. 61
  67. 3.1. Đối với trâu, bò: lúc đầu cho nhảy cái động dục, tiếp đó cho nhảy cái thường, cuối cùng cho nhảy giá hoặc nhảy với đực khác. 3.2. Đối với lợn: lúc đầu cho nó nhảy với cái động dục, tiếp đó cho nhảy với con mồi, cuối cùng cho nhảy với giá. * Chú ý: - Mỗi giai đoạn nhảy ta cho củng cố 5 đến 6 lần, khi gia súc thành thạo thì ta sẽ chuyển sang giai đoạn khác. - Một số con ta chỉ cần cho nó tham quan sau đó tự nó có thể tự nhảy giá được hoặc có những con khi cho nó vào giá nó nhảy giá ngay thì cho chúng nhảy trực tiếp giá không cần áp dụng một cách máy móc quy trình trên để rút ngắn thời gian huấn luyện. 4. Kỹ thuật khai thác tinh dịch 4.1. Các yêu cầu cơ bản Trong Kỹ thuật TTNT thì đối tác số 1 chính là con đực. Trong kỹ thuật khai thác tinh dịch có những yêu cầu cơ bản sau: a. Dùng phương pháp nào, kỹ thuật nào thì làm sao cũng phải khai thác toàn bộ tinh dịch của con đực trong 1 lần khai thác. Nếu việc đó không xảy ra thì nó sẽ gây ra 2 hiện tượng: + Lãng phí tinh dịch + Phản xạ tính dục của con đực bị ảnh hưởng, làm mất khoái cảm sinh dục, dẫn đến làm mất phản xạ có điều kiện đã được tạo nên. b. Đảm bảo phẩm chất của tinh dịch. - Để đạt được về số lượng và chất lượng thì phải đảm bảo các điều kiện sống, sinh lý, chế độ khai thác con đực. Sau khi khai thác xong thì phải đảm bảo điều kiện sống cho tinh trùng khi ra ngoài cơ thể đặc biệt là không được có các tạp khuẩn, các chất sinh học gây ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng. Phải tránh lây lan các bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng thông qua khai thác tinh dịch. Có những chú ý sau về khâu vệ sinh trong quá trình khai thác tinh dịch: + Dụng cụ khai thác tuyệt đối vô trùng + Không được khai thác tinh dịch của gia súc ốm, bị bệnh 62
  68. + Phải tắm rửa con đực trước mỗi lần khai thác tinh dịch + Vệ sinh sạch sẽ giá nhảy, phòng lấy tinh + Nhân viên lấy tinh dịch phải cố định và không mắc các bệnh truyền nhiễm c. Không được gây ảnh hưởng thô bạo đến cơ quan sinh đực d. Dụng cụ an toàn cho cơ quan sinh dục gia súc, dễ thao tác, dễ kiếm và giá thành hạ. 4.2. Khái quát các phương pháp khai thác a. Dùng hải miên Đây là một phương pháp cổ xuất hiện cách đây gần một ngàn năm trước. Người ta dùng hải miên sau khi đã sát trùng nhét vào âm đạo của con cái khi con cái chịu đực, sau đó thực hiện giao phối, tinh dịch ngấm vào hải miên khi đực phóng tinh, xong ông lấy hải miên ra ngoài, vắt lấy tinh và dùng cho thụ tinh nhân tạo. Kết quả chất lượng tinh dịch giảm, dễ nhiễm bẩn, dễ gây xây xát cho con cái. Chỉ sử dụng trong nghiên cứu như ở trên các động vật: cáo, chồn, khỉ (Câu chuyện về bộ lạc ở Ả rập) b. Phương pháp âm đạo Người ta nút cổ tử cung trước khi giao phối sau đó cho gia súc nhảy trực tiếp, tinh dịch được phóng trực tiếp vào âm đạo rồi dùng cái cán dài hoặc ống hút lấy tinh ra sử dụng. Còn gọi là phương pháp cho giao phối trực tiếp. Dĩ nhiên phương pháp này chất lượng tinh dịch không đảm bảo và mất vệ sinh. Hiện nay cũng chỉ sử dụng trong nghiên cứu, vd: trên hổ. c. Phương pháp dùng túi 63