Bài giảng môn Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương VI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân

pdf 27 trang ngocly 2260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương VI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_mon_tu_tuong_ho_chi_minh_chuong_vi_tu_tuong_ho_chi.pdf

Nội dung text: Bài giảng môn Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương VI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân

  1. A- Mục tiêu Trình bày được những vấn đề sau: 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân. 2. Quan điểm về sự thống nhất bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước theo Tư tưởng Hồ Chí Minh. 3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, 4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh và hoạt động có hiệu quả
  2. Quan điểm nhất quán xuyên suốt của HCM về xây dựng một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống Xã hội
  3. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
  4. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế Dân chủ trong chính trị Nhà nước là của nhân dân – nhân dân cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống chính trị Phương thức tổ chức và hoạt động xã hội ở nước ta phải có cấu tạo quyền lực mà ở đó người dân cả trực tiếp và gián tiếp qua dân chủ đại diện
  5. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế Dân chủ trong chính trị Dân chủ trong văn hóa – xã hội Chế độ ta là một chế độ dân chủ, Nhà nước là nhà nước dân chủ, trong một nước dân chủ thì ai ai cũng có quyền tự do thảo luận, tranh luận để cùng nhau tìm tòi chân lý. Khi chân lý đã tìm thấy rồi thì quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do phục tùng chân lý
  6. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ Khái niệm Dân chủ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. THẾ LÀ DÂN CHỦ.” Biểu hiện của Dân chủ : Chế độ dân chủ ở nước ta là “ bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Phương thức tổ chức dân chủ: Phương thức tổ chức dân chủ của Nhà nước thể hiện: cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân đại dịên, hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”. Nguồn gốc, lực lượng: Nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành đó là nhân dân Giá trị của Dân chủ: Dân chủ không chỉ là một giá trị chung, là sản phẩm của văn minh nhân loại, là lý tưởng phấn đấu của các dân tộc, dân chủ còn như là thiết chế Xh của mỗi quốc gia, nó biểu thị mối quan hệ quốc tế , hoà bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ bình đẳng
  7. 1. Nhà nước của dân Hồ Chí Minh: Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng Điều 1 – Hiến pháp 1946: “Nước Việt Nam là Điều 32 – Hiến pháp 1946: một nước dân chủ cộng hòa. “Những việc quan hệ đến Tất cả quyền bính trong nước là của vận mệnh quốc gia sẽ đưa toàn thể nhân dân Việt Nam, ra nhân dân phúc quyết ” không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”
  8. Tất cả quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân Nhân dân bầu ra Nhà nước và chính quyền các cấp thông qua hình thức dân chủ trực tiếp, phổ thông đầu phiếu
  9. Nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước và bãi đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân nếu họ tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân” Nhân dân được hưởng mọi quyền tự do dân chủ
  10. 2. Nhà nước do dân
  11. Nhà nước do nhân dân ủng hộ , giúp đỡ, đóng góp thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động nhà nước đó do nhân dân phê bình, xây dựng “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ” Hồ Chí Minh
  12. 3. Nhà nước vì dân Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thật sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính
  13. Mục đích hoạt động của nhà nước là cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân “1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành” Hồ Chí Minh Nhà nước phải biết kết hợp các loại lợi ích, bảo đảm sự thống nhất, hài hòa, công bằng Nhà nước phải thật sự trong sạch, liêm khiết, chống tham ô, hối lộ, quan liêu, đặc quyền đặc lợi Đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân
  14. II. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc 1. Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo Thể hiện: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành luật pháp, chính sách, kế hoạch Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của mình trong bộ máy cơ quan Nhà nước Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra
  15. II. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc 1. Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo Thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Nhà nước là tập trung dân chủ “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân, đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”
  16. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất 2. với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước 9/1945, Chính phủ lâm thời 8/1945, sau ra mắt quốc 15 năm đấu dân 3/2/1930, tranh gian khổ, CMT8 Đảng ra đời đã thành công Đầu thế kỷ XX, PT đấu tranh liên tiếp thất bại
  17. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất 2. với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước
  18. III Xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ 1. Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến Sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945), tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước VNDCCH (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ thứ 3 là: Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, ngày 20/9/1945, Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước VNDCCH do Hồ Chí Minh làm trưởng ban được thành lập Theo Hồ Chí Minh một Nhà nước có hợp hiến mới có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ Ngày 6/1/1946, tổng tuyển cử trong cả nước thành công trong cả nước thành công, bầu ra Quốc hội Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước Tháng 11/1946, Quốc hội họp phiên thứ hai thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
  19. 2. Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa ra pháp luật vào cuộc sống Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau Cần xây dựng một nền pháp chế XHCN đảm bảo thực hiện quyền lực của nhân dân. Có nghĩa là xây dựng pháp luật trở thành công cụ quản lý đắc lực của Nhà nước và buộc người dân phải tuân theo
  20. Pháp luật là cơ sở thực hiện quyền tự do dân chủ Ngay từ năm 1919, bản “Yêu sách” đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật Việt nam yêu cầu ca: bảy xin hiến pháp ban hành – trăm điều phải có thần linh pháp quyền Trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp, ở cương vị Chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp (1946, 1959), đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đến vấn đề đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế cho pháp luật được thi hành Để đưa pháp luật vào cuộc sống, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân tham gia giám sát công việc của chính phủ “Từ ngày thành lập chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người làm quan cách mang, chợ đỏ, chợ đen, mưu vinh thân, phì gia xin đồng bào hãy phê bình, giúp đỡ giám sát công việc của chính phủ” Hồ Chí Minh rất coi trọn việc nâng cao dân trí để nhân dân hiểu vàchấp hành luật pháp “ làm cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”
  21. IV. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả 1.Xây dựng đội ngũ cán bộ,công chức đủ đức và tài Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau về đội ngũ cán bộ, công chức: Một là, tuyệt đối trung thành với cách mạng Hai là, hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn nghiệp vụ Ba là, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân Bốn là, dám nghĩ, dám làm “thắng không kiêu, bại không nản” Năm là, phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước
  22. IV. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả 2 .Đề phòng khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của bộ máy Nhà nước Sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước một mặt dựa vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, sự trong sạch của đạo đức người cầm quyền Ngay sau khi nước VNDCCH ra đời, Hồ Chí Minh đã nêu rõ 6 căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo Người nhắc nhở: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì ta phải ra sức sửa chữa Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chũa; Nếu không tự sửa chữa thì chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công, bình, chính trực” vào lòng”
  23. Hồ Chí Minh thường đề cập những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục Thứ nhất, đặc quyền đặc lợi Thứ hai, tham ô, lãng phí, quan liêu – giặc nội xâm "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu dù là cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám“ "lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức“ Thứ ba, “tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo” "Tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi Cứ chỉ lúc nào cũng vác mặt làm quan cách mạng"
  24. 3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng Pháp luật và đạo đức có thể kết hợp, bổ sung cho nhau, không bao giờ được tuyệt đối hóa sự độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào “Đức trị” là trị nước bằng tình, bằng thuyết phục, bằng đạo lý; “pháp trị” là trị nước bằng các đạo luật “không dùng xử phạt là không đúng”, song “chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không nên”, “thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi,kiến quốc mới thành công” Trong suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu Nhà nước, HCM là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn chú trọng giáo dục đạo đức cũng như không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật HCM hết sức đề cao đạo đức Cần – Kiệm – Liêm – Chính – Chí công vô tư
  25. KẾT LUẬN a. Nhà nước đảm bảo quyền làm chủ thật sự của nhân dân +Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa +Chú ý thực thực hiện những quy tắc dân chủ trong các cộng đồng dân cư b. Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước +Đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch +Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu +Đề cao trách nhiệm của cá nhân trong việc giải quyết các khiếu kiện của công dân +Tiêu chuẩn hóa,sắp xếp lại đội ngũ công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đủ đức, đủ tài c. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: +Lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng +Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước +Thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị +Bản chất, tính chất của Nhà nước ta gắn liền với vai trò của Đảng cầm quyền