Bài giảng Kinh tế tài nguyên nước 2 - Nguyễn Bá Uân
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kinh tế tài nguyên nước 2 - Nguyễn Bá Uân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_kinh_te_tai_nguyen_nuoc_2_nguyen_ba_uan.pdf
Nội dung text: Bài giảng Kinh tế tài nguyên nước 2 - Nguyễn Bá Uân
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI Bộ môn: Quả n lý xây dựng TẬP BÀI GIẢN G CAO HỌC KINH TẾ TÀI N GUYÊN NƯỚC 2 BIÊN SOẠN: PGS.TS. NGUYỄN BÁ UÂN Hµ néi - 2012 0
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Lời nói đầu Kinh tế Tài nguyên nước 2 là môn học được giảng dạy bắt buộc và tự chọn cho chương trình đào tạo thạc sĩ các chuyên ngành Kinh tế Thủy lợi, Kinh tế tài nguyên và môi trường, Quản lý tài nguyên môi trường, Kỹ thuật tài nguyên nước của Trường Đại học Thủy lợi. Trong khuôn khổ Dự án tăng cường năng lực đào tạo Trường Đại học Thủy lợi do Chính phủ Đan Mạch tài trợ (DANIDA), môn học được xây dựng dựa trên quan điểm hiện đại về quản lý tổng hợp tài nguyên nước phục vụ quá trình phát triển bền vững đất nước. Tập bài giảng Kinh tế Tài nguyên nước 2 được biên soạn với mục đích cung cấp cho người học những kiến thức quan trọng về vai trò của tài nguyên nước đối với đời sống và sản xuất của con người. Vấn đề kinh tế, hiệu quả kinh tế cần được nghiên cứu của việc cấp nước tưới đối với các quốc gia khu vục canh tác cây lúa nước. Những vấn đề nghiên cứu hiệu quả kinh tế các dự án phòng chống lũ và bảo vệ bờ, một loại hình công trình phòng chống thiên tai phổ biến ở nước ta cũng được chỉ dẫn và làm rõ trong cuốn bài giảng này. Đặc biệt, tập bài giảng đã đề cập một cách cụ thể đến vấn đề quản lý tài nguyên nước liên quan đến Chiến lược phát triển quốc gia. Nội dung của tập bài giảng gồm có 4 chương sau: • Chương 1: Mở đầu • Chương 2: Kinh tế cấp nước tưới • Chương 3: Kinh tế công trình phòng chống lũ và bảo vệ bờ • Chương 4: Những vấn đề liên quan đến chiến lược phát triển Quốc gia Tập bài giảng được biên soạn với sự giúp đỡ của Ông chuyên gia tư vấn quốc tế Tue Kell Nielsen, chuyên gia về quản lý tài nguyên nước, Đan Mạch, và sự hỗ trợ của chuyên gia tư vấn trong nước PGS. TS. Nguyễn Quang Đoàn, Đại học Bách khoa Đà Nẵng và được sự đảm bảo chất lượng của tư vấn trong nước,. Tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Quản lý dự án DANIDA, Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Kinh tế và Quản lý cùng các phòng ban của Trường Đại học Thủy lợi đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành tập bài giảng này. Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn các nhà khoa học và các đồng nghiệp các cộng sự thuộc Khoa Kinh tế và Quản lý đã có những nhận xét sâu sắc về nội dung khoa học của tập bài giảng. Tác giả mong nhận được sự góp ý của độc giả để lần tái bản sau được tốt hơn. Tác giả 1
- CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU 1.1. Tầm quan trọng của tài nguyên nước đối với kinh tế, xã hội, môi trường Nước là một trong những yếu tố quan trọng quyết đinh mọi sự sống trên trái đất. Thực tiễn cuộc sống và quá trình lịch sử cho thấy nguồn nước có tác động mạnh mẽ đến các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường của mỗi quốc gia. Ngày nay con người đã nhận thức được rằng nguồn nước sạch không phải là vô tận mà đang là vấn đề mang tích toàn cầu, tạo áp lực và đang thách thức quá trình phát triển của nhân loại. Theo số liệu điều tra của Ngân hàng Thế giới và một số ngân hàng khác đối với các hệ thống tưới lớn trên thế giới, lượng nước uống trung bình của một người là 4 lít mỗi ngày, trong khi để sản xuất lượng thức ăn một người trong năm thì cần đến 5.000 lít nước. Sản xuất lương thực và bông vải phục vụ cho con người đòi hỏi nhiều nước nhất, chiếm khoảng 70% lượng nước khai thác trên toàn cầu. Ở các nước đang phát triển, lượng nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 80-90 % tổng lượng nước cung cấp cho toàn bộ các ngành kinh tế. Nguồn nước tự nhiên phân bố không đều trên địa cầu theo cả không gian và thời gian, thêm vào đó, nhu cầu dùng nước và biện pháp khai thác một cách có hiệu quả nguồn nước ở các quốc gia đang còn có những khoảng cách khá lớn càng làm cho các vấn đề liên quan đến tài nguyên nước trên thế giới trở nên cấp bách. 1.1.1. Tài nguyên nước trên trái đất 1.1.1.1. Trữ lượng và phân bố Theo tính toán của các chuyên gia, Trái đất đã có khoảng 4,5 ÷ 4,6 tỷ năm tuổi. Tổng diện tích bề mặt trái đất vào khoảng 510 triệu km2. Diện tích các đại dương chiếm trên 70% diện tích bề mặt của trái đất. Ước tính tổng lượng nước trên trái đất là 1.403 triệu km3 , trong đó khoảng 1.370 triệu km3 (97,6% ) là nước mặn được trữ ở các đại dương. Nước ngọt trên bề mặt trái đất tương đối khan hiếm, chỉ chiếm khoảng hơn 2% tổng lượng nước trên trái đất. Trong tổng lượng nước ngọt trên trái đất thì 68,7% là băng và sông băng, 30,1% là nước ngầm, 0,3% là nước mặt và 0,9% là các loại khác. Trong 0,3% nước mặt thì các hồ nước ngọt chiếm 87%, các đầm nước ngọt chiếm 11% còn các sông chỉ chiếm 2%. Nói cách khác, các hồ - đầm nước ngọt chiếm 0,29% và các sông chỉ chiếm khoảng 0,006% tổng lượng nước ngọt trên trái đất, hoặc bằng 1/700 của 1% tổng lượng nước trên trái đất. 2
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Bảng 1.1. Tài nguyên nước trên trái đất Trữ lượng Thứ Dạng tồn tại Tỷ lệ (%) tự 3 (1.000 Km ) 1 Đại dương 1,370,000.0 97.61000 2 Dạng băng ở 2 cực và các sông 29,000.0 2.08000 3 Nước ngầm 4,000.0 0.29000 4 Hồ nước ngọt 125.0 0.00900 5 Hồ nước mặn 104.0 0.00800 6 Nước trong đất 67.0 0.00500 7 Các sông 1.2 0.00009 8 Nước dạng hơi trong không khí 14.0 0.00090 1.1.1.2. Các vấn đề trong sử dụng tổng hợp nguồn nước Áp lực về sử dụng nước đang gia tăng; Nguồn nước sạch trên thế giới đang đứng trước những áp lực đang ngày càng gia tăng: Dân số thế giới bùng nổ, hoạt động kinh tế tăng trưởng, sự nâng cao mức sống đã gây ảnh hưởng và là các nguyên nhân dẫn tới suy kiệt nguồn nước sạch vốn rất có hạn. Sự không công bằng trong xã hội, phát triển kinh tế không đều, không có các chương trình hỗ trợ xoá đói giảm nghèo, đã đẩy những người nghèo đến việc khai thác quá mức đất canh tác và nguồn tài nguyên rừng và điều đó dẫn tới những tác động tiêu cực cho nguồn nước. Quản lý ô nhiễm không tốt cũng là nguyên nhân làm giảm nguồn tài nguyên nước sạch. Gia tăng dân số gây căng thẳng về nước; Trong thế kỷ 20 dân số thế giới tăng lên khoảng 3 lần, trong khi đó nhu cầu về nước tăng lên 7 lần. Theo ước tính, khoảng 1 phần 3 dân số thế giới sống ở các nước có áp lực về nước từ trung bình đến cao. Tỷ số này sẽ tăng lên tới 2 phần 3 vào năm 2025. Ảnh hưởng bởi ô nhiễm; Ô nhiễm vốn có liên quan đến những hoạt động của con người. Thêm vào đó, những quá trình của đời sống sinh học, quá trình công nghiệp hoá, nguồn nước trở thành nơi thu trữ chất thải ô nhiễm của sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp. Chất lượng nguồn nước suy giảm do ô nhiễm nước ở hạ lưu đe doạ sức khoẻ con người, là nguyên nhân ảnh hưởng gây suy giảm hệ sinh thái, làm gia tăng sự cạnh tranh về nước sạch. 3
- Khủng hoẳng thiếu về nước; Những vấn đề nêu trên càng trở nên trầm trọng trong tình trạng quản lý nước yếu kém. Nâng cao trình độ quản lý nguồn nước đang ngày càng trở nên quan trọng và phổ biến. Cách này dẫn đến mấu chốt của sự hợp tác trong phát triển và quản lý tài nguyên nước. Hơn thế nước quản lý nguồn nước luôn có xu hướng tách khỏi tính thống nhất, tính hợp pháp, yêu cầu hiệu lực tăng lên. Tóm tại có 2 nguyên nhân gây khủng hoảng về nước đó là sự quản lý kém hiệu quả và sự cạnh tranh về nguồn nước vốn là có hạn. 1.1.1.3. Nhiệm vụ đặt ra Bảo vệ nguồn nước cho con người; Mặc dù phần lớn các nước giành sự ưu tiên đầu tiên cho những nhu cầu cơ bản của con người là nước, nhưng 1 phần 5 dân số thế giới thiếu nước uống và một nửa dân số thế giới không được đảm bảo điều kiện vệ sinh. Sự thiếu hụt trong cấp nước sinh hoạt đã ảnh hưởng đến người nghèo ở các nước phát triển. Tại những nước này việc cấp nước và xử lý nước cho các đô thị và vùng nông thôn sẽ là mục tiêu quan trọng trong những năm tới. Bảo vệ nước cho sản xuất; Các nghiên cứu chỉ ra rằng trong vòng 25 năm tới phải cần một lượng thực phẩm cho từ 2-3 tỷ người. Nước được coi là chìa khoá cho sản xuất lương thực thực phẩm trong điều kiện diện tích đất có hạn. Trong 25 năm tới lượng nước cần cho nông nghiệp sẽ tăng lên từ 15-20%, như vậy sẽ xảy ra ảnh hưởng nghiêm trọng giữa yêu cầu nước tưới cho nông nghiệp và nước dùng cho hệ sinh thái. Khó khăn sẽ tăng thêm cho các quốc gia thiếu nước trong việc tự sản xuất lương thực hơn là nhập khẩu lương thực; Nhập khẩu lương thực đối với các quốc gia thiếu nước để canh tác chính là nhập khẩu nước (Đó là khái niệm về "nước ảo"). Những vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế và quản lý tài nguyên nước Hoạt động của con người cần nước và tạo ra nước thải, nhưng một số trong số họ cần nhiều nước hơn hoặc thải ra nhiều nước thải hơn những người khác. Cần phải tính đến vấn đề này trong chiến lược phát triển kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý tài nguyên nước. Bảo vệ sự sống còn của hệ sinh thái; Hệ sinh thái trên bề mặt khu vực thượng lưu đóng vai trò quan trọng trong điều tiết dòng chảy mặt, dòng chảy ngầm và chế độ dòng chảy trong sông suối thiên nhiên. Hệ sinh thái này còn sản xuất ra nhiều hiệu ích kinh tế khác như gỗ, chất đốt, cây làm 4
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân thuốc và chúng cũng còn là nơi ở và sinh sản của một số loài thuỷ sinh. Hệ sinh thái này phụ thuộc vào dòng chảy, sự dao động của mực nước, và chất lượng nước. Quản lý đất và nước phải đảm bảo sự tồn tại của hệ sinh thái, giảm thiểu những tác động có hại đối với nguồn tài nguyên. Do đó, cần có tầm nhìn tổng quát trước khi đưa ra những quyết định phát triển và quản lý những vấn đề có liên quan đến hệ sinh thái ở lưu vực sông suối. Xử lý vấn đề phân bổ nước không đều theo không gian và thời gian; Ở nước ta, hầu như toàn bộ lượng nước sạch sử dụng cho nhu cầu của con người đều từ nước mưa, mà lượng mưa lại thay đổi rất lớn theo không gian và thời gian. Hầu hết khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới có lượng mưa hàng năm rất lớn, và thường có sự thay đổi trong khoảng thời gian ngắn. Trong trường hợp này cần phải tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, quản lý và phân phối nước. Mục tiêu ở đây là kêu gọi giúp đỡ các nước nghèo nhất về tài chính và nguồn lực để đương đầu với những vấn đề này. Ảnh hưởng của sự thay đổi khí hậu toàn cầu cũng cần phải có sự kêu gọi trách nhiệm chung. Quản lý rủi ro; Sự thay đổi dòng chảy, sự bổ sung dòng chảy ngầm, vấn đề thời tiết, khí hậu, thiếu sự quản lý cần thiết về quản lý rừng và thảm phủ đã làm gia tăng sự khốc liệt về lũ lụt và hạn hán, những hiện tượng này thường gây ra những tổn thất nghiêm trọng về người, của cải vật chất, xã hội và môi trường. . Ô nhiễm gia tăng tạo thêm một khả năng rủi ro khác, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, phát triển kinh tế và môi trường sinh thái. Rủi ro kinh tế cũng quan trọng trong quản lý và phát triển nguồn nước, rủi ro này phụ thuộc vào quy mô và kỳ hạn của vốn đầu tư. Sự không ổn định về chính trị cũng là một loại rủi ro khác cho quản lý tổng hợp nguồn nước. Đã đến lúc phải có hệ thống xác định chi phí giảm thiểu rủi ro và hiệu ích của các khu vực sử dụng nước. Nâng cao nhận thức và sự hiểu biết; Nhận thức của quần chúng là cần thiết cho việc tư vấn quản lý nước và làm thay đổi những ứng xử và thái độ đối với hoạt động này. Thêm vào đó nhận thức của quần chúng sẽ thúc đẩy chính phủ vào cuộc. Lịch sử phát triển của hoạt động môi trường “xanh” là một ví dụ về dư luận và áp lực công chúng tác động đến quyết định và hành động của chính phủ. Cơ hội đã chín muồi cho cuộc vận động xanh. Vai trò của chính trị trong quản lý tài nguyên nước Trong thế giới khan hiếm tài nguyên, sự quan tâm , xem xét về chính trị là sự sống, đảm bảo cho những quyết định và sự đầu tư cần thiết trong phát triển và quản lý nguồn nước. Đưa các vấn đề về nước thành những nhiệm vụ chính trị hàng đầu là cơ 5
- sở đảm bảo cho sự thành công lâu dài trong quản lý bảo vệ nguồn nước. Hợp tác giữa các vùng và lưu vực sông; Phương pháp và cách tiếp cận truyền thống trong quản lý tài nguyên nước thường được phân chia theo địa giới hành chính. Mục tiêu của mỗi quốc gia thường được đặt ra mà không cân nhắc một cách thoả đáng tới mối quan hệ của những người dùng nước và cũng không tham khảo ý kiến của các khu vực khác cũng như các cơ quan quản lý lưu vực. Đây chính là nguyên nhân không tận dụng được điều kiện tài chính và nguồn tài nguyên (trong đó có nước) đem lại nguồn lợi xã hội tối đa. Cần có sự phối hợp giữa việc hoạch định chính sách, quy hoạch và thực hiện giữa các nước trong quản lý tổng hợp các dòng sông liên quốc gia. Vấn đề chia sẻ nguồn nước trên thế giới đang là nguyên nhân gây mâu thuẫn giữa các nước ven sông. Trên thế giới có 215 lưu vực sông chiếm 47% tổng diện tích toàn thế giới (Gleick, 1993). Tại Châu Phi, Nam Mỹ và Châu á tỷ lệ này cao hơn (>60%). Tại một vài vùng thuộc các nước đang phát triển, nước chính là một trong những nguyên nhân chính, thậm chí là cội rễ của các cuộc xung đột. Đặc biệt khi nước là một nguồn tài nguyên hữu hạn và rất cần thiết cho sự phát triển thì mâu thuẫn lại càng nảy sinh. Trong tương lai, do ảnh hưởng của sự gia tăng dân số và sự phát triển kinh tế, mâu thuẫn có thể trở nên sâu sắc hơn, thậm chí mang tính bạo lực hơn nếu như không có hành động kịp thời. Các đạo luật quốc tế về vấn đề sử dụng nước của các con sông trên thế giới đã có từ lâu đời: đạo luật Helsinki (ILA, 1966); Các dự thảo điều luật của đạo luật về sử dụng nguồn nước, do Hội đồng luật quốc tế trực thuộc Liên hợp quốc soạn thảo (1991, 1994); và Hiệp định về sử dụng nguồn nước (UN, 1997). Tại Maseru, hội nghị SADC/EU được tổ chức năm 1997 về vấn đề quản lý lưu vực sông (Savenije & Van der Zagg, 1998, 2000a), tại hội nghị này, vấn đề quản lý các con sông thế giới được đưa ra phân tích dựa trên ba nhân tố cơ bản của vấn đề chia sẻ nguồn nước thế giới, đó là: chính trị, kỹ thuật và thể chế. Thêm một vấn đề nữa được thảo luận trong hội nghị đó là yếu tố kỹ thuật đóng vai trò trung tâm để hình thành nên sự liên kết quản lý tài nguyên nước thế giới, do yếu tố này có khả năng giữ được sự cân bằng tổng thể trong suốt thời gian khủng hoảng chính trị và bổ trợ cho cả hệ thống khi nền tảng thể chế đang tiến hành cải cách. Kết quả của hội nghị này Savenije & Van der Zagg đã đưa ra được các kết luận về vấn đề chia sẻ tài nguyên nước thế giới như sau: - Quản lý tổng hợp tài nguyên nước giữa các quốc gia có cả thuận lợi và khó khăn. Những khó khăn có thể kể đến như lũ lụt, các vấn đề ô nhiễm hoặc nạn khan hiếm nước nghiêm trọng. Ở tại các lưu vực sông nơi không có các nhược điểm kể trên thì việc thiết lập hình thức liên kết quản lý là hết sức khó khăn. Thêm vào đó, các biến động về chính trị hoặc sự kết thúc của các mối căng 6
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân thẳng quốc tế tạo cơ hội hết sức thuận lợi để phá vỡ những bế tắc và thiết lập liên kết quản lý. - Một hệ thống thông tin liên lạc và hợp tác kỹ thuật là thực sự quan trọng để hỗ trợ quản lý tài nguyên nước. Đặc biệt khi môi trường chính trị không thuận lợi, sự hợp tác về kỹ thuật là công cụ tối quan trọng để duy trì mức liên lạc tối thiểu và tránh sự leo thang của các mâu thuẫn. Thông qua sự hợp tác về kỹ thuật thì sự tin cậy lẫn nhau ngày càng được tăng cường. - Tạo lập một sân chơi công bằng, có nghĩa là mọi quốc gia đều bình đẳng trong việc phân tích và phát triển vị thế đàm phán. Đại biểu của các quốc gia ven sông cần có một tầm hiểu biết tương đương và "có cùng tiếng nói về kỹ thuật". Cần nỗ lực xây dựng khả năng liên kết để tăng cường mối liên lạc và sự hợp tác. - Tiếp cận miễn phí với các thông tin thiết yếu về thuỷ văn (và các thông tin về việc sử dụng nước) là hết sức cần thiết để duy trì sự tin cậy lẫn nhau và sự hợp tác về kỹ thuật. Tại Nam Phi, các tổ chức quốc tế (như UNESCO và WMO) đã và đang đóng một vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực này. - Bên cạnh tác động tích cực của sự hợp tác kinh tế đối với môi trường chính trị, một hệ thống hợp tác kinh tế mở và phương thức tiếp cận miễn phí với thị trường là hết sức cần thiết tạo thuận lợi cho sự thông thương "nước ảo". Sự trao đổi "nước ảo" là công cụ đắc lực nhất để gia tăng sản lượng đầu ra cho nền kinh tế tính trên một đơn vị nước tại các vùng khô hạn. Hầu hết những mối căng thẳng quốc tế về việc chia sẻ nguồn nước đều được giải quyết khi nước được sử dụng tại những nơi mà các điều kiện của vùng lưu vực sông là hoàn toàn lý tưởng cho việc sản xuất một loại hàng hoá nào đó. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển từ việc tự cung cấp lương thực trong nội bộ quốc gia sang vấn đề an ninh lương thực. - Để đạt được thoả thuận về việc chia sẻ nguồn nước, sân chơi cần phải mở rộng hơn nữa. Ngoại giao đa biên liên quan đến nhiều ngành khác hơn là liên quan trực tiếp đến ngành nước (ví dụ như vận tải) có thể mở ra một viễn cảnh tốt đẹp. - Thông thường các nước ở khu vực hạ lưu nên đi đầu trong tiến trình này. Việc mở rộng quy mô tới các nước vùng ven biển sẽ tạo nên nhiều cơ hội thương thuyết, như đã được chứng minh trong trường hợp sông Rhine. Tại Diễn đàn quốc tế thứ hai về nước, nhóm các giáo sư về nước đến từ Israel, Jordan và Palestine đã cùng ngồi lại và bàn thảo, trình bày về nguồn nước tại đất nước mình. Các cuộc họp tương tự đã diễn ra với sự tham gia của các bộ trưởng từ các nước thuộc lưu vực sông Nile và từ Nam Phi. Một điều rõ ràng là xây dựng niềm tin thông qua quá trình trao đổi thông tin về mặt kỹ thuật và các phương thức phát triển thay thế đã góp phần làm giảm căng thẳng. Cần phải nhất trí rằng nước có thể và nên là nguồn gốc của sự hợp tác, chứ không phải làm nảy sinh mâu thuẫn. 7
- 1.1.1.4. Các hoạt động trong quản lý Công tác quản lý sự phát triển của tài nguyên nước là một hoạt động rất phức tạp. Nó bao gồm một chuỗi các hoạt động, từ việc phân tích nhu cầu thông qua công tác quy hoạch, thiết kế và xây dựng đến vận hành và giám sát. Tóm lại, các hoạt động này mang tính hệ quả: trước tiên là công tác phân tích, sau đó là lập quy hoạch rồi đến thiết kế, nhưng quan trọng hơn trong quá trình thực hiện, có rất nhiều nơi xuất hiện những phản hồi tiêu cực, những động thái mới buộc phải có một tầm nhìn và đưa ra các quyết định mới. Công tác quản lý tài nguyên nước là một quá trình động, bao gồm một chuỗi các hoạt động trong các lĩnh vực đánh giá, quy hoạch và vận hành. Một vài hoạt động đó là: Đánh giá: (1) Đánh giá tài nguyên (2) Đánh giá môi trường Quy hoạch: 1 Phân tích vấn đề 2 Phân tích hoạt động 3 Phân tích nhu cầu 4 Hình thành các mục tiêu và đưa ra các hạn chế 5 Dự báo nhu cầu 6 Thiết kế những lựa chọn về hệ thống thuỷ lợi 7 Phân tích hệ thống 8 Mô phỏng hệ thống và các yếu tố liên quan 9 Phân tích những biến động 10 Phân tích sự thoả hiệp giữa các mục tiêu và phân tích các ràng buộc 11 Lựa chọn và đưa ra quyết định 12 Sự tham gia của các bên liên quan 13 Công tác thông tin, đàm phán, và giải quyết mâu thuẫn. Vận hành: 2 Phân bổ nguồn tài nguyên 3 Quản lý nhu cầu 4 Công tác quản lý và áp dụng thể chế quản lý tài nguyên nước 5 Vận hành và bảo dưỡng 6 Giám sát và đánh giá 7 Quản lý tài chính và kiểm soát quá trình hoạt động. 8
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Các hoạt động này có tính nguyên tắc rất cao, liên quan đến các ngành thuỷ lợi, xây dựng, cấp nước, vệ sinh, thuỷ điện và các ngành khác không thuộc lĩnh vực kỹ thuật như: môi trường, xã hội, nông nghiệp, chính trị, các nhóm liên quan và những người sử dụng nước. Công tác lập quy hoạch và quản lý tài nguyên nước là một quá trình động và liên tục. Trong định nghĩa của chúng tôi, công tác quản lý tài nguyên nước bao gồm cả việc lập quy hoạch sử dụng nguồn nước. Quan điểm đó là: việc lập quy hoạch sử dụng tài nguyên nước và quản lý tài nguyên nước là tương đồng. Tuy nhiên, cũng có thể xem việc lập quy hoạch sử dụng tài nguyên nước là một hoạt động riêng rẽ trong công tác quản lý tài nguyên nước. Việc quy hoạch sử dụng tài nguyên nước là một hoạt động thường xuyên, không chỉ trong quy mô quốc gia và vùng mà trong bất kỳ một hệ thống thuỷ lợi phức tạp nào. Hệ thống này đang được thực hiện theo từng giai đoạn, mỗi giai đoạn đôi khi kéo dài một vài năm, và sự thay đổi kỹ thuật , nhu cầu, các điều kiện chính trị và kinh tế - xã hội đòi hỏi sự điều chỉnh lại hệ thống hiện tại và sự điều chỉnh quy hoạch phát triển. Trước kia, người ta rất lạc quan về vấn đề quản lý tài nguyên nước. Sự tin tưởng này mạnh đến mức đối với một số người, phát triển tài nguyên nước được coi là biểu tượng của sự lạc quan (lên chương trình theo trình tự, đặt chương trình cơ động, v.v ). Ngày nay, người ta nhận thức được rằng hai nhân tố chủ yếu tạo nên tính phức tạp của phát triển tài nguyên nước, đó là: 2 Sự biến đổi của các điều kiện 3 Mâu thuẫn về lợi ích 4 Tình hình chính trị Nếu như không có bất kỳ biến đổi hay mối mâu thuẫn nào về vấn đề lợi ích, việc lập quy hoạch cho công tác quản lý tài nguyên nước trở nên hết sức lạc quan. Hơn nữa, tình hình chính trị hiện nay không phải lúc nào cũng cho phép thực hiện các giải pháp "tối ưu". Thường thì quyết định cuối cùng là kết quả của sự cân bằng lợi ích. Sự lạc quan chỉ có thể là nhân tố có ích của phát triển tài nguyên nước khi các điều kiện biên là cố định. 1.1.2. Tài nguyên nước sông ngòi Việt Nam 1.1.2.1 Trữ lượng, phân bố và nhu cầu Nước là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên cơ bản và quý giá nhất. Thậm chí một số người còn dự báo rằng nước trong thế kỷ 21 có thể quý như dầu mỏ trong thế kỷ 20. Song nguồn tài nguyên thiên nhiên này ở Việt Nam hiện đang bị sử dụng quá mức và ô nhiễm nghiêm trọng. Tình trạng này xảy ra phổ biến do nhiều 9
- nguyên nhân: sự bùng nổ dân số, các hoạt động kinh tế gia tăng và công tác quản lý chưa đầy đủ. Tài nguyên nước mặt (dòng chảy sông ngòi) của một vùng lãnh thổ hay một quốc gia là tổng của lượng dòng chảy sông ngòi từ ngoài vùng chảy vào và lượng dòng chảy được sinh ra trong vùng (dòng chảy nội địa). Tài nguyên nước mặt của Việt Nam chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới, trong khi diện tích đất liền chỉ chiếm khoảng 1,35% của thế giới. Đặc điểm quan trọng của tài nguyên nước mặt Việt Nam là biến đổi theo thời gian (dao động giữa các năm và phân phối không đều trong năm) và phân bố không đều giữa các hệ thống sông và các vùng địa lý. Tổng lượng nước chảy qua nước ta rất dồi dào, khoảng 847 tỷ m3 một năm: Trong đó: + Nước đến trên lãnh thổ: 502 tỷ m3 + Nước trên các đảo, quần đảo: 5 tỷ m3 + Nước ngoại địa: 340 tỷ m3 + Nước ngầm: 48 tỷ m3, lượng khai thác hàng năm 6-7 tỷ m3 (chiếm 15%) Bảng 1.2. Phân bố tổng lượng dòng chảy năm trên một số hệ thống sông Việt Nam1 Tỷ lệ % trong tổng Tổng lượng dòng lượng dòng chảy năm Tên sông chảy /năm của các sông trong cả nước Sông Mê Kông 500 km3 59% Sông Hồng 126,5 km3 14,9% sông Đồng Nai 36,3 km3 4,3%), Các sông Mã, sông Cả, sông Thu Trên dưới 20 km3 2,3 - 2,6%), Bồn Các hệ thống sông Kỳ Cùng, 9 km3 1%), sông Thái Bình và sông Ba Các sông còn lại 94,5 km3 11,1%). 1441441010144 1 Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005) 10
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Phần lớn tài nguyên nước sông của Việt Nam (khoảng 60%) được hình thành trên phần lưu vực nằm ở nước ngoài, trong đó hệ thống sông Mê Kông chiếm nhiều nhất (447 km3). Nếu chỉ xét thành phần lượng nước sông được hình thành trong lãnh thổ nước ta, thì hệ thống sông Hồng có tổng lượng dòng chảy lớn nhất, sau đó đến hệ thống sông Mê Kông và hệ thống sông Đồng Nai Mức đảm bảo nước: Theo Hội Nước Quốc tế (IWRA), nước nào có mức bảo đảm nước cho một người trong một năm dưới 4000 m3/người thì nước đó thuộc loại thiếu nước và nếu nhỏ hơn 2000 m3/người thì thuộc loại hiếm nước. Nếu tính theo dân số thì mức đảm bảo nước trung bình cho 1 người trong một năm qua các giai đoạn như sau: Bảng 1.3. Mức đảm bảo nước trung bình cho 1 người trong một năm qua các giai đoạn Mức bảo đảm nước trung bình cho Năm một người / năm 1990 12.800 m3/người 2000 10.900 m3/người 2020 ( dự báo ) 8500 m3/người Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005) Bảng 1.4. Mức đảm bảo nước trung bình tính theo hệ thống sông Mức bảo đảm nước trung bình cho một STT Hệ thống sông người / năm 1 Hệ thống sông Hồng, Thái Bình, 5000 m3/ng Mã 2 Hệ thống sông Đồng Nai 2980 m3/ng Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005) Mức bảo đảm nước của Việt Nam hiện lớn hơn 2,7 lần so với Châu á (3970 m3/người) và 1,4 lần so với thế giới (7650 m3/người), nhưng nguồn nước lại phân bố không đều giữa các vùng. Nếu xét chung cho cả nước thì Việt Nam không thuộc loại thiếu nước, nhưng hiện đã có một số vùng và lưu vực sông thuộc loại thiếu và hiếm nước như vùng ven biển Ninh Thuận, Bình Thuận và hạ lưu sông Đồng Nai. 11
- Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội và sự gia tăng dân số, nhu cầu dùng nước cho sinh hoạt, sản xuất công, nông nghiệp của Việt Nam được dự báo sẽ tăng lên đáng kể trong tương lai. Bảng 1.5. Dự báo mức đảm bảo nước trung bình tính theo hệ thống sông Tỷ lệ % tổng lượng nước cần dùng Năm / Tổng lượng dòng chảy năm 1999 8,8% 2000 12,5% 2010 (Dự báo) 16,5% Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005) 1.1.2.2. Những vấn đề trong sử dụng tổng hợp nguồn nước2 Tốc độ tăng dân số; Với tốc độ tăng dân số là 1,7%, mỗi năm Việt Nam có thêm khoảng một triệu người. Hiện nay, với khoảng 80 triệu người, Việt Nam trở thành nước đông dân thứ hai ở Đông Nam Á. Với tốc độ gia tăng dân số như hiện nay thì vào năm 2040, Việt Nam sẽ có khoảng 155 triệu người. áp lực đối với tài nguyên thiên nhiên cũng như nhu cầu bổ sung về lương thực, nước và năng lượng đã tăng lên rất nhiều. Ô nhiễm và suy kiệt; Tình trạng ô nhiễm và suy giảm các nguồn nước mặt và nước ngầm gia tăng làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn. Tình trạng nước thải gây ô nhiễm các con sông đã gây ra vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ của người dân. Theo báo cáo, hiện nay 80% các trường hợp bệnh tật ở Việt Nam là do nguồn nước bị ô nhiễm gây ra, chủ yếu ở các địa phương nghèo. Nhiều người, chủ yếu là trẻ em bị tử vong do sử dụng nước bẩn và ô nhiễm. Ở nhiều nơi, mực nước ngầm đang giảm xuống do bị khai thác quá mức. Nguồn nước ngầm cũng đang bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng do việc sử dụng các hoá chất trong nông nghiệp và công nghiệp. Sông Sài Gòn và sông Đồng Nai, hai con sông cung cấp nước cho rất nhiều người dân, đã bị ô nhiễm nghiêm trọng vì nước thải không được xử lý từ các nhà máy đổ vào các kênh rạch rồi chảy vào các con sông này. Lượng nước bị lãng phí lớn; 1441441212144 2 Henrik Larsen (ed).: Integrated Water Resources Management. GWP-TAC-4, March 2000 12
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Lượng nước bị thất thoát trong toàn quốc vào khoảng 37%, và con số này có thể lên tới 50% ở một số địa phương. Việt Nam đã đạt được một số kết quả trong việc cải thiện tình hình. Tỷ lệ tiếp cận với nước sạch nói chung ở Việt Nam đã tăng thêm 13% trong giai đoạn 1998 - 2000, một trong những nước có tốc độ tăng nhanh nhất về tỷ lệ này trên thế giới. Song kết quả đạt được dường như không đồng đều giữa các tỉnh và các vùng. Một số tỉnh có tỷ lệ tiếp cận với nước sạch là 66% còn một số tỉnh khác thì chỉ có 4%. Vẫn còn nhiều việc phải làm để đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về nước mà Việt Nam đã cam kết. Cụ thể mục tiêu này nêu rõ: "giảm một nửa tỷ lệ người dân không có khả năng tiếp cận hay chi trả cho nước sạch vào năm 2015" và "dừng việc khai thác tài nguyên nước một cách không bền vững". Ảnh hưởng của các loại thuỷ tai đối với tình trạng nghèo đói và phát triển không công bằng Có lẽ, không quốc gia nào trên thế giới hiểu rõ hơn Việt Nam về giá trị mang ý nghĩa sống còn và giá trị tinh thần của nước. Từ "đất nước" trong tiếng Việt để chỉ quốc gia có nghĩa là sự kết hợp của hai từ "đất và nước" vì một quốc gia được xây dựng trên đất và cần có nước để tồn tại. Tuy nhiên, mối quan hệ hài hoà đó đang có nguy cơ trở thành quan hệ đối kháng. Lũ lụt, một hiện tượng tự nhiên mang tính chu kỳ ở lưu vực sông Mê Kông, gây thiệt hại ngày càng nghiêm trọng hơn trong những năm gần đây. Những đợt hạn hán kéo dài ở Việt Nam đã làm cho các vùng đất ướt và các vùng nước nằm sâu trong nội địa bị thu hẹp lại, dẫn đến thiên tai gây thiệt hại về người, mùa màng và thuỷ sản vốn là cơ sở cho cuộc sống của người dân. Tác động tiêu cực của thiên tai gây cản trở nghiêm trọng cho việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Để giải quyết vấn đề này, UNDP đã giúp Việt Nam xây dựng Chiến lược Quốc gia Phòng chống giảm nhẹ thiên tai lần thứ hai (giai đoạn 2001 - 2010). Chiến lược này lần đầu tiên đề cập tới thiên tai, đặc biệt là các loại thuỷ tai, trong bối cảnh phát triển rộng. Chiến lược có tính đến mối liên quan giữa thiên tai và xoá đói giảm nghèo, quản lý môi trường và phát triển công bằng, bền vững. Chiến lược tạo cơ sở cho việc thiết lập các hệ thống quản lý rủi ro và giảm nhẹ hậu quả thiên tai cũng như xây dựng các hệ thống quan trắc và cảnh báo sớm và các biện pháp chuẩn bị ứng phó khẩn cấp ở những vùng hay bị thiên tai nhất. 1.1.2.3. Chiến lược Chính phủ Việt Nam đã coi cuộc đấu tranh chống khát hay thiếu nước là ưu tiên hàng đầu sau cuộc đấu tranh chống đói. Theo Chiến lược Quốc gia về Nước và Môi trường nông thôn, Việt Nam đề ra chỉ tiêu cung cấp nước sạch cho 80% cư dân nông 13
- thôn với mức tiêu thụ 60 lít/đầu người mỗi ngày vào năm 2010 và nâng tỷ lệ này lên 100% vào năm 2020. Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam nêu rõ cách thức đạt được phát triển bền vững trên cơ sở lồng ghép tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường. Có thể tìm thấy những kinh nghiệm thành công ở các cộng đồng dân cư nhỏ. Ví dụ, một bản của người dân tộc Ka-tu ở tỉnh Quảng Nam đã xây dựng một hệ thống vận chuyển nước sạch tự hành. Nhờ có nước sạch, số trường hợp mắc các bệnh do nước gây ra ở đây đã giảm hẳn. Tỷ lệ trẻ em đi học, đặc biệt là trẻ em gái trong cộng đồng, đã tăng lên vì các em không còn phải đi lấy nước ở nơi xa về như trước đây nữa. Đồng thời, mức thu nhập hộ gia đình được nâng cao vì người dân, đặc biệt là phụ nữ, có thể dành nhiều thời gian lao động kiếm tiền hơn thay vì phải nặng nhọc chuyên chở nước từ giếng về. Hiện đang có các dự án phát triển và quản lý tài nguyên nước bền vững. Nhiều tổ chức phi chính phủ đã thành công trong việc tăng cường nhận thức của cộng đồng và năng lực của địa phương còn các nhà tài trợ đang hỗ trợ kỹ thuật cho công tác đánh giá tài nguyên nước, cấp nước và vệ sinh môi trường. Hiện nay có xu hướng khuyến khích giao cho các hội sử dụng nước vận hành và bảo dưỡng các hệ thống cấp nước. Để thực hiện Chương trình Nghị sự 21 đòi hỏi phải đưa vấn đề môi trường lên vị trí hàng đầu trong quá trình ra quyết định. Ví dụ như việc xây dựng các đập và hồ chứa nước phục vụ cho nhiều mục đích như thuỷ điện, khống chế lũ lụt, thuỷ lợi, nước sinh hoạt, vui chơi giải trí và giao thông đường thuỷ. Việc xây dựng các đập và hồ chứa nước có liên quan tới các chi phí về môi trường và xã hội cần được xem xét ngay từ đầu. Nước ngày càng được coi là nhân tố chính trong sản xuất lương thực. Hiện nay, khoảng 80% trữ lượng nước ở Việt Nam được sử dụng cho nông nghiệp, trong khi 20% còn lại được sử dụng cho sinh hoạt và công nghiệp. Trong thời gian qua, Việt Nam trông đợi nhiều vào thuỷ điện để tạo ra điện nhằm đáp ứng nhu cầu về năng lượng đang tăng lên nhanh chóng. Giờ đây trước tình hình khan hiếm nước, Việt Nam cần phải tìm kiếm các nguồn năng lượng bền vững khác. Chính phủ đã chi khoảng 1,3 tỷ USD cho việc tăng gấp đôi mạng lưới cấp nước trong thập kỷ qua. Phần lớn số kinh phí này (1 tỷ USD) là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, mà trong đó chủ yếu là các khoản hỗ trợ phát triển chính thức. Rõ ràng cần phải tăng các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài thì mới thực hiện được phương thức quản lý tài nguyên nước tổng hợp cũng như đảm bảo nước sạch cho toàn dân và vệ sinh môi trường tốt trong tương lai. Hợp tác quốc tế 14
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Song việc quản lý nước một cách khôn khéo không còn đơn giản là vấn đề quốc gia nữa. Trong thế giới hội nhập, các tập quán và hoạt động toàn cầu cũng như các tập quán và hoạt động quốc gia thường có mức độ ảnh hưởng như nhau tới cuộc sống của con người. Diễn đàn Thế giới về Nước lần thứ ba hiện đang diễn ra tại Nhật Bản cam kết ngăn chặn tình trạng khủng hoảng nước đã cướp đi sự sống của hàng triệu người trên thế giới và đe doạ tính mạng của hàng triệu người khác. Mỗi năm trên thế giới có hơn 2,2 triệu người chết vì các loại bệnh tật do nguồn nước bị ô nhiễm và vệ sinh môi trường kém gây ra. Diễn đàn này là một hoạt động trong Năm Quốc tế về Nước (2003) của LHQ. Một trong những mục tiêu của Năm Quốc tế này là khẳng định lại Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của LHQ về nước. Hôm nay, tại Diễn đàn này, Ông Mark Malloch Brown, Tổng Giám đốc UNDP, đã công bố một sáng kiến mới nhằm hỗ trợ các phương thức mang tính sáng tạo trong việc cấp nước, vệ sinh môi trường và quản lý rừng đầu nguồn ở cấp cộng đồng, mang lại lợi ích cho 10 - 15 quốc gia. Ông nói: "Để giảm một nửa tỷ lệ người dân không được tiếp cận với nước sạch đòi hỏi phải huy động các nguồn tài chính trong nước và quốc tế, chuyển giao công nghệ và năng lực nhằm đảm bảo rằng các dịch vụ về cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu của người nghèo". Do 60% nguồn nước của Việt Nam chảy từ các nước khác tới nên rõ ràng Việt Nam cần phải có sự hợp tác quốc tế. Trong nhiều năm qua, UNDP đã thực hiện vai trò quan trọng trong việc tạo thuận lợi cho quá trình chia sẻ tài nguyên nước và những lợi ích của nước ở cấp khu vực, quốc gia và địa phương. Ví dụ, UNDP đã và đang hỗ trợ cho Uỷ hội Sông Mê Kông liên chính phủ của Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam được thành lập năm1995. Đây là dự án quản lý sông lớn nhất ở Châu á đối với sông Mê Kông. Cuộc đối thoại giữa các quốc gia này đã tạo dựng niềm tin làm cơ sở để tăng cường hợp tác và đàm phán cũng như thúc đẩy công tác nâng cao năng lực và ra quyết định tập thể. Mục tiêu đặt ra là đạt được phát triển bền vững trong khu vực và bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên ở lưu vực sông Mê Kông với dân số hiện nay là 60 triệu và sẽ tăng tới con số 100 triệu vào năm 2025. Rõ ràng, chiến lược quản lý tài nguyên nước có thể giúp Việt Nam đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Song đối với phương thức tiếp cận mang tính chiến lược như vậy thì điều căn bản là ý thức được rằng các nhân tố đầu vào như sáng kiến công nghệ, nguồn nhân lực được tăng cường và thậm chí các khoản tài trợ mới sẽ không thu được nhiều kết quả nếu chúng không được khai thác và điều phối bởi một hệ thống quản trị tài nguyên nước tốt. Để quản trị tốt tài nguyên nước cần phải có sự phối hợp nỗ lực của các cấp địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế, trong khu vực công cộng và khu vực tư nhân cũng như trong toàn thể xã hội dân sự. Đó là thách thức mà Việt Nam có thể vượt qua. 15
- 1.2. Nguyên lý Dublin3 1.2.1. Xuất xứ Sự khan hiếm và lạm dụng nước ngọt đang gây nên mối đe dọa nghiêm trọng ngày càng tăng đối với sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Sức khỏe và lợi ích con người, an toàn lương thực, sự phát triển công nghiệp và các hệ sinh thái - yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của loài người - tất cả đều đang bị đe dọa nếu đất đai và các nguồn nước không được quản lý một cách có hiệu quả hơn trong thập kỷ này mà vẫn giữ nguyên tình trạng như trước đây. Năm trăm đại biểu, bao gồm các chuyên gia được chính phủ của một trăm nước cử đến và đại diện của 80 tổ chức quốc tế, tổ chức liên chính phủ và tổ chức phi chính phủ đã tham dự Hội nghi Quốc tế về Nước và Môi trường (ICWE) tại Dublin (Ai-rơ-len) từ ngày 26 đến 31 tháng 1-1992 và đã xem xét toàn cảnh về nguồn nước toàn cầu đang hiện rõ một cách gay gắt. Tại phiên họp bế mạc, Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Dublin và Báo cáo của Hội nghị. Những vấn đề nổi bật không còn là điều suy đoán cũng như không phải chỉ tác động đến hành tinh của chúng ta trong tương lai xa xôi mà chúng đang hiển hiện ngay đây và đang tác động đến loài người. Sự sống còn của hàng triệu con người trong tương lai đòi hỏi những hành động hiệu quả ngay lập tức. Những người tham dự Hội nghị kêu gọi có ngay những biện pháp cơ bản mới để đánh giá, phát triển và quản lý các nguồn nước ngọt, điều chỉ có thể đạt được thông qua cam kết chính trị và sự tham gia của tất cả các cấp, từ cấp cao nhất ở trung ương đến cấp nhỏ nhất ở cộng đồng. Các cam kết cần được hậu thuẫn bằng những khoản đầu tư ngay lập tức và bền vững, các chiến dịch nâng cao nhận thức của người dân, những thay đổi về luật pháp và thể chế, phát triển về kỹ thuậtvà các chương trình xây dựng năng lực. Để làm cơ sở cho tất cả những điều này cần phải có sự thừa nhận rõ ràng hơn nữa về mức độ phụ thuộc lẫn nhau cũng như vị trí của mọi người trong thế giới tự nhiên. Bằng việc gửi Tuyên bố Dublin tới các nhà lãnh đạo thế giới có mặt tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (UNCED) ở Ri-ô đờ Ja-nê-rô vào tháng 6-1992, những người tham dự Hội nghị này khẩn thiết yêu cầu tất cả các chính phủ hãy chú ý nghiên cứu các hoạt động cụ thể và các phương tiện thực hiện được giới thiệu trong Báo cáo của Hội nghị, và biến những kiến nghị này thành các chương trình hành động khẩn cấp đối với Nước và sự phát triển bền vững, các nguyên tắc hướng dẫn Cần có các hành động phối hợp để ngăn chặn xu hướng tiêu dùng quá mức, sự ô nhiễm và mối đe dọa ngày càng tăng do hạn hán và lũ lụt gây ra. Báo cáo của Hội nghị đưa ra những kiến nghị cho hành động tại các cấp địa phương, quốc gia và quốc tế, dựa trên bốn nguyên tắc: 1441441616144 3 Miguel Solanes and Fernando Gonzalez Villarreal: The Dublin Principles. GWP-TAC-3, June 1999 16
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân 1.2.2. Bốn nguyên tắc Nguyên tắc 1 Nước ngọt là một nguồn có hạn và dễ bị xâm hại nhưng hết sức cần thiết để duy trì cuộc sống, sự phát triển và môi trường. Vì nước duy trì cuộc sống, nên để quản lý có hiệu quả các nguồn nước đòi hỏi một cách tiếp cận tổng thể, gắn liền sự phát triển kinh tế xã hội với việc bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên. Để việc quản lý có hiệu quả, nên kết hợp việc sử dụng nước và đất đai như một khối thống nhất. Nguyên tắc 2 Phát triển và quản lý nước cần phải dựa trên cách tiếp cận có sự tham gia, với sự phối hợp giữa người sử dụng, các nhà lập kế hoạch và những người đề ra chính sách ở mọi cấp. Cách tiếp cận này chú trọng việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của nước trong những người đề ra chính sách cũng như cộng đồng nói chung và có nghĩa là các quyết định được đưa ra ở cấp phù hợp thấp nhất, với sự tư vấn đầy đủ của Nhà nước và sự tham gia tích cực của người sử dụng trong việc lập kế hoạch và thực hiện các dự án cấp nước. Nguyên tắc 3 Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc dự trữ, quản lý và giữ gìn nguồn nước. Vai trò then chốt của phụ nữ như những người cung cấp và sử dụng nước cũng như bảo vệ môi trường sống cho đến nay hầu như chưa được thể hiện trong những sắp xếp về thể chế đối với sự phát triển và quản lý các nguồn nước. Việc chấp nhận và thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi những chính sách tích cực nhằm vào những nhu cầu đặc biệt của phụ nữ, để trang bị và tạo khả năng cho phụ nữ tham gia vào các chương trình về nguồn nước ở tất cả các cấp, bao gồm cả việc ra quyết định và thực hiện theo cách thức do phụ nữ xác định. Nguyên tắc 4 Nước có giá trị kinh tế trong mọi sự sử dụng cạnh tranh và cần phải được công nhận như một thứ hàng hóa kinh tế4. Trong phạm vi nguyên tắc này, điều quan trọng sống còn trước hết là công nhận quyền cơ bản của con người được cấp nước sạch và vệ sinh với mức giá chấp nhận được. Sự thất bại trong việc công nhận giá trị kinh tế của nước trước đây đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí các nguồn nước và gây thiệt hại về môi trường. Quản lý nước như một thứ hàng hóa kinh tế là một cách quan trọng 1441441717144 4 John Briscoe (Sept 96): Water as an economic good. 17
- nhằm sử dụng hợp lý và có hiệu quả, đồng thời khuyến khích việc giữ gìn và bảo vệ các nguồn nước. 1.2.3. Chương trình hành động Căn cứ vào bốn nguyên tắc hướng dẫn trên, những người tham dự Hội nghị đã phát triển các kiến nghị để các nước có thể giải quyết những vấn đề về nguồn nước của mình trên mọi phương diện. Những lợi ích to lớn do việc thực hiện các kiến nghị Dublin là : Giảm nghèo nàn và bệnh tật; Vào đầu những năm 1990, hơn một phần tư dân số thế giới vẫn còn chưa được hưởng những nhu cầu tối thiểu của con người như có đủ lương thực để ăn, được cấp nước sạch và có nhà tiêu hợp vệ sinh. Hội nghị kiến nghị cần phải ưu tiên cho việc quản lý và phát triển các nguồn nước nhằm góp phần cung cấp ngày càng nhiều lương thực, nước và vệ sinh cho hàng trăm triệu người này. Phòng chống thiên tai; Việc thiếu chủ động phòng chống thiên tai ngày càng thêm trầm trọng do thiếu thông tin dự báo như: hạn hán và lũ lụt đã gây ra những thiệt hại to lớn về người và của. Thiệt hại về kinh tế do thiên tai, trong đó có hạn hán và lũ lụt, đã tăng gấp ba lần từ những năm 1960 đến những năm 1980. Một số nước đang phát triển đã bị tụt lùi trong nhiều năm do không đầu tư vào việc thu thập số liệu cơ bản và sẵn sàng phòng chống thiên tai. Biến đổi về khí hậu được dự báo và mức nước biển đang dâng cao sẽ làm tăng thêm nguy cơ đối với một số nước, đồng thời đe dọa sự an toàn của các nguồn nước hiện nay. Những tổn thất về người và vật chất do hạn hán và lũ lụt gây ra có thể được giảm bớt đáng kể bằng cách chủ động phòng chống thiên tai được khuyến nghị trong Báo cáo của Hội nghị Dublin. Bảo toàn sử dụng nước; Các loại hình sử dụng nước hiện nay là quá lãng phí; phải đặt ra mục tiêu lớn là tiết kiệm nước trong rất nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp và cấp nước sinh hoạt. Nền nông nghiệp tưới tiêu chiếm khoảng 80% lượng nước sử dụng trên thế giới. Nhiều công trình thủy lợi bị thất thoát tới 60% lượng nước trên đường đi từ nguồn nước tới đồng ruộng. Các phương pháp tưới tiêu hiệu quả hơn sẽ tiết kiệm nguồn nước ngọt một cách bền vững. Việc sử dụng quay vòng có thể giảm mức tiêu dùng của nhiều cơ sở công nghiệp tới 50% hay hơn nữa, đồng thời còn có lợi là làm giảm sự ô nhiễm. Việc áp dụng nguyên tắc Người làm ô nhiễm phải trả tiền và hệ thống giá nước hiện thực sẽ 18
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân khuyến khích việc bảo toàn và tái sử dụng. Tính trung bình, 36% lượng nước do các cơ sở cấp nước đô thị tại các nước đang phát triển sản xuất ra bị thất thoát do đó việc quản lý tốt hơn có thể làm giảm những tổn thất to lớn này. Kết hợp tiết kiệm trong nông nghiệp, công nghiệp và cấp nước sinh hoạt có thể làm chậm lại đáng kể nhu cầu đầu tư để phát triển các nguồn nước mới khá tốn kém và có tác động to lớn đến tính bền vững của việc cấp nước trong tương lai. Sử dụng nước quay vòng sẽ có thể tiết kiệm nhiều hơn. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn thoát nước có hiệu quả dựa trên cơ sở mới của các mục tiêu bảo vệ nguồn nước sẽ làm cho những người tiêu dùng kế tiếp phía hạ lưu có thể tái sử dụng nước hiện bị ô nhiễm quá mức sau lần sử dụng đầu tiên. Phát triển đô thị bền vững ; Tính bền vững của tăng trưởng đô thị bị đe doạ bởi sự giảm bớt việc cấp nước với khối lượng lớn và theo giá rẻ, hậu quả của sự suy kiệt và thoái hóa do sự hoang phí trước đây gây ra. Sau một vài thế hệ sử dụng nước quá mức và coi nhẹ việc thoát nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt đô thị, tình hình ở hầu hết các thành phố lớn trên thế giới khá nghiêm trọng và ngày càng trở nên xấu đi. Do sự khan hiếm và ô nhiễm nước buộc phải phát triển các nguồn ở xa hơn, nên tổng chi phí để đáp ứng nhu cầu về nước đang tăng lên nhanh chóng. Việc cấp nước được đảm bảo trong tương lai phải dựa trên cơ sở sự kiểm soát về thoát nước và giá nước thích hợp. Từ nay, sự ô nhiễm của đất và nước có thể không còn được coi là hợp lý để đổi lấy công ăn việc làm và thịnh vượng do tăng trưởng công nghiệp đưa lại. Sản xuất nông nghiệp và cấp nước nông thôn; Đạt được an ninh lương thực là một trong những ưu tiên hàng đầu của nhiều nước và nông nghiệp không phải chỉ cung cấp lương thực cho số dân cư đang ngày càng tăng mà còn tiết kiệm nước cho các nhu cầu sử dụng khác. Muốn vậy cần phải phát triển và áp dụng các phương pháp quản lý và công nghệ tiết kiệm nước, cũng như thông qua việc xây dựng năng lực nhằm làm cho các cộng đồng có thể đưa ra những thể chế và khuyến khích đối với dân cư nông thôn để chấp nhận cách tiếp cận mới, cả với nông nghiệp tưới tiêu và nước mưa, đồng thời dân cư nông thôn phải có điều kiện được cấp nước uống cũng như dịch vụ vệ sinh tốt hơn. Đó là một nhiệm vụ rộng lớn, nhưng không phải là không thể thực hiện nếu có được các chính sách và chương trình thích hợp được tất cả các cấp (địa phương, quốc gia, quốc tế) chấp nhận . Bảo vệ hệ sinh thái nước; Nước là một phần không thể thiếu của môi trường và là ngôi nhà của nhiều loài sinh vật mà hạnh phúc của con người cuối cùng cũng phụ thuộc vào ngôi nhà chung đó. Việc phá vỡ các luồng nước đã làm giảm sức sản xuất của nhiều hệ sinh thái này, 19
- phá hoại nghề cá, nông nghiệp và chăn nuôi gia súc, tác động xấu đến các cộng đồng nông thôn sống dựa vào các hệ sinh thái này. Rất nhiều loại ô nhiễm, kể cả ô nhiễm chung của nhiều quốc gia, làm trầm trọng thêm các vấn đề này, giảm sút việc cấp nước, đòi hỏi việc xử lý nước tốn kém hơn, phá hủy hệ động vật nước cũng như các cơ hội tái tạo. Việc quản lý phối hợp các lưu vực sông mang lại cơ hội để bảo vệ các hệ sinh thái nước và làm lợi cho xã hội trên một cơ sở bền vững. Giải quyết những tranh chấp về nước; Đơn vị địa lý thích hợp nhất cho việc quy hoạch và quản lý các nguồn nước là lưu vực sông, bao gồm cả nước ngầm và nước mặt. Lý tưởng nhất là quy hoạch và phát triển các lưu vực sông hồ chung cho nhiều quốc gia có những yêu cầu về thể chế tương tự như đối với một lưu vực hoàn toàn thuộc phạm vi của một quốc gia. Chức năng quan trọng của các tổ chức lưu vực quốc tế hiện nay là điều hòa và cân đối lợi ích của các nước ven sông, theo dõi chất lượng và lưu lượng nước, sự phát triển của các chương trình hành động phối hợp, trao đổi thông tin và đảm bảo cho các thỏa thuận được thực thi. Trong các thập kỷ tới, việc quản lý các lưu vực sông quốc tế sẽ ngày càng trở nên quan trọng. Vì vậy cần phải ưu tiên nhiều cho việc soạn thảo và thực hiện các kế hoạch quản lý phối hợp, được chính phủ của tất cả các nước liên quan chấp thuận, được hậu thuẫn của các thoả thuận quốc tế. Xây dựng môi trường xã hội đủ năng lực; Việc thực hiện các chương trình hành động về nước và phát triển bền vững sẽ đòi hỏi vốn đầu tư đáng kể, không chỉ trong các dự án xây dựng cơ bản có liên quan mà cốt yếu là nhằm xây dựng năng lực của người dân và các tổ chức để lập kế hoạch và thực hiện các dự án này. Cơ sở kiến thức; Đo lường các thành phần của chu kỳ nước về chất lượng cũng như số lượng và các đặc tính khác của môi trường tác động đến nước là một cơ sở quan trọng để quản lý nước có hiệu quả. Kỹ thuật phân tích và nghiên cứu, được áp dụng trên cơ sở liên ngành, cho phép hiểu biết những số liệu này và ứng dụng của chúng đối với nhiều mục đích sử dụng. Với mối đe dọa của việc toàn cầu đang nóng lên do hiệu ứng nhà kính tăng lên, nhu cầu phải đo lường và trao đổi số liệu về chu kỳ thủy văn trên quy mô toàn cầu là hiển nhiên, nhằm mục đích hiểu kỹ hơn về hệ thống khí hậu thế giới cũng như những tác động tiềm tàng đối với các nguồn nước do thay đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao. Tất cả các nước phải tham gia và nếu cần thiết được giúp đỡ để tham gia vào việc theo dõi toàn cầu, nghiên cứu những ảnh hưởng và phát triển các chiến lược đáp ứng thích hợp. 20
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Nâng cao năng lực cán bộ ; Mọi hành động xác định trong Báo cáo của Hội nghị Dublin đòi hỏi nhiều cán bộ có chuyên môn và được đào tạo tốt. Các nước cần phải xác định, như một phần của các kế hoạch phát triển quốc gia, những nhu cầu đào tạo về đánh giá và quản lý các nguồn nước, có các biện pháp trong nước và nếu cần thiết cùng với các cơ quan hỗ trợ kỹ thuật để đào tạo theo yêu cầu và cung cấp các điều kiện làm việc giúp giữ lại những cán bộ đã được đào tạo. Các chính phủ cũng phải đánh giá khả năng của mình để trang bị cho các chuyên gia ngành nước cũng như các ngành khác thực hiện các hoạt động trên quy mô lớn nhằm phối hợpquản lý các nguồn nước. Điều này đòi hỏi phải cung cấp một môi trường tạo điều kiện về thể chế và pháp lý, bao gồm cả việc quản lý có hiệu quả nhu cầu về nước. Nâng cao nhận thức là một phần hết sức quan trọng của cách tiếp cận tham gia đối với việc quản lý các nguồn nước. Các chương trình hỗ trợ thông tin, giáo dục và truyền thông phải là một phần không thể thiếu của quá trình phát triển. Các bước tiếp theo; Kinh nghiệm đã cho thấy tiến triển trong việc thực hiện các hành động và đạt mục đích của các chương trình nước đòi hỏi các cơ chế tiếp theo đối với những đánh giá định kỳ ở cấp quốc gia cũng như quốc tế. Trong khuôn khổ của các quy trình tiếp theo được UNCED phát triển đối với Chương trình Nghị sự 21, tất cả các chính phủ cần phải bắt đầu những đánh giá định kỳ về tiến triển ở cấp quốc tế, các tổ chức của Liên Hợp Quốc liên quan đến nước cần phải được tăng cường để tiến hành đánh giá và thực hiện quá trình tiếp theo. Ngoài ra, để thu hút các tổ chức tư nhân, các tổ chức khu vực và phi chính phủ cùng với các chính phủ có liên quan tham gia đánh giá và tiếp tục thực hiện, Hội nghị đề nghị UNCED xem xét tổ chức một diễn đàn quốc tế hay một hội đồng về nước mà tất cả các nhóm này có thể tham gia. Hội nghị đề xuất cần phải tiến hành đánh giá toàn diện lần đầu đối với việc thực hiện Chương trình được đề nghị vào năm 2000. UNCED cần xem xét những yêu cầu về tài chính đối với các chương trình liên quan đến nước, phù hợp với các nguyên tắc trên, trong việc đáp ứng kinh phí để thực hiện Chương trình Nghị sự 21. Những xem xét đó phải bao gồm những mục tiêu hiện thực đối với khuôn khổ thời gian để thực hiện các chương trình, những nguồn lực bên trong và bên ngoài cần thiết cũng như các phương cách huy động các nguồn lực. Hội nghị Quốc tế về Nước và Môi trường đã bắt đầu với một Nghi Lễ Nước, trong đó thiếu nhi từ tất cả các khu vực trên thế giới đã bày tỏ nguyện vọng tha thiết rằng tất cả các chuyên gia có mặt tại Hội nghị sẽ góp phần gìn giữ các nguồn nước quý báu cho những thế hệ mai sau. Với việc chuyển bản Tuyên bố Dublin này đến tất cả mọi người trên thế giới, những người tham dự Hội nghị kêu gọi những ai liên quan đến 21
- việc phát triển và quản lý các nguồn nước trên trái đất hãy để cho thông điệp của thế hệ mầm non này chỉ đường cho các hành động trong tương lai của họ. 1.3. Nước và việc làm5 1.3.1. Khái quát 'Quản lý tổng hợp’ tạo ra sự liên kết mạnh mẽ giữa - Một mặt là quản lý nước, những nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường - Mặt khác tạo ra sự phát triển của xã hội và giảm thiểu đói nghèo. Cả sự tiêu dùng nguồn lực và sự nghèo đói đều chịu sự chi phối bởi những quy tắc, sự can thiệp của cộng đồng, mỗi sự cố gắng đều làm tăng thêm những giá trị nhất định. Điều quan trọng nhất là phát triển nghề nghiệp ở nông thôn. Ví dụ, Việc sử dụng tài nguyên thận trọng và hiệu quả (như việc bảo vệ rừng với quá trình công nghiệp) sẽ tạo nên những cơ hội việc làm mới và hấp dẫn. Ngược lại, tình trạng đói nghèo sẽ thường xuyên song hành với sự khai thác nguồn tài nguyên quá mức Sự đói nghèo trên thế giới Năm 1999, 2,8 tỷ người có mức thu nhập ít hơn 2USD/ngày, 1,2 tỷ người có mức thu nhập ít hơn 1USD/ngày. 5% những người giàu nhất có thu nhập gấp 114 lần 5% những người nghèo nhất. Trong số 73 nước có số liệu nghiên cứu (với 80% dân số thế giới), có 48 nước được xem là phát triển từ những năm 1950; 16 nước không phát triển và có 9 nước (với 4% dân số thế giới) có đời sống thụt lùi. Vẫn còn sự mất công bằng trong một số điều luật kinh tế. Vì vậy không có những cơ sở pháp lý có sức thuyết phục trong việc buôn bán. Kinh nghiệm cho thấy tiêu chí để quản lý tốt - Đó là phát triển kinh tế phải tác động mạnh mẽ tới việc xoá đói giảm nghèo6 1.3.2. Mục tiêu của xoá đói giảm nghèo Xoá đói giảm nghèo là một mục tiêu phát triển quan trọng. Cùng với quá trình xoá đói giảm nghèo còn cần phải có một số quyết định quan trọng khác như: 1441442222144 5 T. K. Nielsen (March 2003): Poverty alleviation and rural livelihood development 6 For example from Malaysia, Republic of Korea, Singapore and Viet Nam 22
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Tăng nhanh nhịp độ phát triển kinh tế chung (tăng khối lượng sản phẩm quốc nội và sức mua của đồng tiền); Cải thiện môi trường đầu tư (nhờ có môi trường xã hội ổn định); Phát triển nguồn nhân lực (nâng cao năng lực quốc gia trong sản xuất và quản lý); Quản lý quá trình di cư từ nông thôn ra thành thị; Không nên quá coi trọng hiệu ích là như thế nào mà điều quan trọng là phải chú ý tới những điều như: mức độ tiến bộ chậm, ít thành quả, ít được ủng hộ về mặt chính trị. 1.3.3. Ví dụ về nạn phá rừng để canh tác Xói mòn đất trồng trọt là tình trạng phổ biến trên lưu vực sông Nam Khan của Lào, nơi có 4000 ha được canh tác kiểu này – Bình quân mỗi gia đình 1ha. Những người dân miền núi cực kỳ nghèo túng. Cây trồng đặc trưng ở đây là ý dĩ, lúa nếp, chuối, và vừng. Hiện nay, ngay cả những sườn rất dốc cũng được canh tác và vòng luân canh cũng không được quá 4 năm. Như vậy một phần nguyên nhân do sự đói nghèo là: làm thoái hoá môi trường sống, thoái hoá đất trồng, xói mòn đất và nghiêm trọng hơn sẽ dẫn tới lở đường giao thông, bồi lắng hồ chứa, ảnh hưởng đến hình thái sông ngòi, và tạo ra hiểm hoạ của sạt lở đất. Để giảm nhẹ tình trạng nói trên cần phải có sự quy hoạch và quản lý việc sử đất; cấp đất; xây dựng; cách thức tăng thêm giá trị sinh lời trên mỗi ha đất; phát triển các nghề phụ. Như vậy phải cần đến: (i) Giáo dục; (ii) nước; (iii) Dịch vụ điên thoại; (iv) tín dụng ngân hàng; (v) tiếp thị; (vi) cơ quan nghiên cứu phát triển; (vii) nghiên cứu và phát triển công nghệ mới. Trong vấn đề này, cần phải có sự chia sẻ sự hiểu biết về các vấn đề tương tự trong phạm vi cả nước Lào 23
- Hình1.1. Luân canh đất trồng ở lưu vực sông Nam Khan-Lào Nguyên nhân Không có luật lệ Thiếu nước và đất áp lực dân số hoặc không tuân theo luật (Sinh sản và di cư) Khai thác gôc quá mức Chu kỳ canh tác đất trồng Sản xuất nhiều than củi ngắn Phá rừng Suy thoái môi trường sống, Phá hoại thảm phủ Xói mòn Phá huỷ hệ sinh thái Tác động: Chế độ thuỷ lực, Hệ sinh Làm mất dần những nghề Tăng đỉnh lũ, giảm dòng Thay đổi hình thái thái, Xã hội, Hình 1tr.uy2ề nNguyên thống nhân và chtácảy c độơ bản cgủ ac sủônga phá rừng kinh tế Làm mất dần những nghề Lũ lut, khô hạn Phá huỷ cơ sở hạ tầng phụ khác 1.3.4. Chiến lược Để giảm nghèo cần phải thực hiện: (i) Tăng thêm các nghề và tăng thu nhập; (ii) Mở rộng dịch vụ xã hội ở tất cả các lĩnh vực; 24
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân (iii) Đặc biệt cần phát triển giáo dục; (iv) Giảm thiểu các tai hoạ và rủi ro của xã hội (Những vấn đề liên quan như: thực phẩm, nhà ở, sức khoẻ, những nghề có thu nhập thấp); (v) Quyền làm chủ của người dân; Trong quá trình thực hiện các yếu tố trên có tính độc lập nhưng chúng vấn có những tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều khác biệt có thể có giữa chiến lược dài hạn và ngắn hạn. Trong trường hợp này các yếu tố chiến lược có thể được thực hiện một cách độc lập trong sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau Thông thường yếu tố chiến lược được thực hiện theo cách: - Chu cấp nguồn thu nhập (bằng nhiều cách); - Ban hành chế độ chính sách, điều luật và những hướng dẫn; - Thành lập các tổ chức hỗ trợ phát triển; - Tổ chức quản lý tiền gửi và bảo vệ quyền ưu tiên; - Có quan điểm và thái độ xây dựng giữa các bên tham gia trong các quyết định thuộc lĩnh vực kinh tế công cộng và kinh tế tư nhân; - Kiến thức chuyên sâu (ở trình độ cao) (về những nguyên nhân liên quan đến đói nghèo - ảnh hưởng liên quan, lựa chọn, kiềm chế, hiệp lực) Tiếp cận chung: so sánh một vài trường hợp cùng thực hiện để thấy rõ được sự tiến triển, ví dụ việc áp dụng kỹ thuật nông nghiệp mới có thể được hỗ trợ bởi quỹ tín dụng, giáo dục, tiếp thị. Bằng nhiều cách khác nhau cũng có thể tính toán được giá trị tăng thêm mà mỗi sự hỗ trợ đem lại. Sự ủng hộ mạnh mẽ về chính trị là điều kiện quan trọng tiên quyết cho sự thành công. Hiệu quả của các chiến lược và kế hoạch hành động là phù hợp với bối cảnh riêng. Thời điểm bắt đầu thực hiện của chúng được diễn ra trong một trường hợp cụ thể, nhu cầu thực sự, khả năng phát triển cụ thể và biện pháp có hiệu lực – Mà không cần thiết phải chấp nhận theo kiểu mệnh lệnh cấp thiết. Người nghèo ở những thành phố lớn có nhu cầu và khả năng khác người nghèo ở nông thôn và những người nghèo 25
- vì những nguyên nhân khác. Một sự ngoại lệ cho trường hợp này là giáo dục là phương sách có tác động mạnh nhất đến xoá đói giảm nghèo. Sự cân nhắc thận trọng là yêu cầu khi đề cập đến những can thiệp quan trọng, như đổi mới kỹ thuật, hệ thống tư nhân hoá, bãi bỏ quy định, tán thành tự do thương mại, hoặc những sửa đổi về kinh tế và hành chính. Điều này có thể là nguyên nhân của những hiệu ứng rủi ro tiêu cực. Tốt nhất là từng bước suy xét bổ sung theo hoàn cảnh thực tế. Ví dụ về sự xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam 7 Mức sống tối thiểu ở Việt Nam là 128 USD/người/năm (1998). Việt Nam đã giảm được tỷ lệ đói nghèo từ 70% dân số năm 1990 xuống còn 32% năm 2002. Những động lực chính tạo ra sự phát triển ấn tượng này gồm: 1. Tốc độ phát triển kinh tế quốc dân cao 2. Chính trị ổn định; 3. Quản lý công cộng đã được mở ra trong một số lĩnh vực như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, và đưa điện lưới về nông thôn. 4. Tỷ lệ biết chữ cao; 5. Mức độ tăng ô nhiễm vừa phải. Sự giảm thiểu đói nghèo được mở rộng đến tận vùng sâu, vùng xa và cho cả đồng bào dân tộc thiểu số (ứng với 13% dân số) Tham nhũng được coi như một điều nguy hiểm đối với tiến trình phát triển. 1.3.5. Tăng thêm việc làm ở nông thôn Các yếu tố sau đây được hỗ trợ phát triển việc làm ở nông thôn Cấp độ quốc tế 6. Tháo bỏ rào cản thương mại, nhất là hạn ngạch nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp được quy định bởi các nước giàu (như EU, Mỹ và Nhật Bản) 7. Dần dần xoá bỏ rào chắn thương mại giữa các nước (ví dụ trong khối ASEAN), với sự xem xét kỹ lưỡng, tránh những rủi ro đáng tiếc. 1441442626144 7 Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2002 của Worl Bank 26
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Cấp độ Quốc gia 8. Chính trị ổn định và “quản lý tốt” thu hút nguồn lực trong nước và đầu tư nước ngoài 9. Khuyến khích các công trình xây dựng tư nhân, cấp quyền sở hữu cho những trang trại có quy mô nhỏ 10. Ủng hộ các tổ chức lao động và thị trường lao động bằng các quy định quyền , luật lệ và thể chế 11. Có những quy định trong việc hỗ trợ giá đầu vào và đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp để duy trì một nguồn thu nhập ròng thoả đáng. 12. Có những điều chỉnh với những trường hợp kinh doanh thất bại (nếu xảy ra) 13. Mục đích cùa các cơ quan phát triển trong việc tư vấn cho những khu vực chính yếu: xây dựng thể chế cho việc không tập trung kỹ thuật, hội những người nông dân, mạng lưới đàm thoại, chứng nhận chất lượng sản phẩm, nhãn mác, chiến lược tiếp thị. 14. Tạo ra sự khuyến khích (Như sự giảm nhẹ thuế thuê lao động thời vụ) đối với các nhà đầu tư để tăng thêm việc làm ở những thành phố lớn (giống như vùng kinh tế phát triển ở Thái Lan) 15. Quản lý tốt và làm giảm nhẹ thiên tai như: Lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, không những chỉ bằng sự chuẩn bị về kỹ thuật mà còn cả về mặt kinh tế xã hội. 16. Quan tâm đặc biệt đến những nhóm dân cư sống dưới mức bình thường (người dân vùng cao, dân tộc thiểu số, ) gồm các quyền và mục tiêu hỗ trợ. 17. Giảm thiểu tệ nạn ma tuý, tệ nạn xã hội 18. Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về kinh tế và việc làm ở nông thôn Cấp độ địa phương · Tiếp cận giáo dục tốt cho tiểu học, trung học và dạy nghề ; · Giúp đỡ phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn: Đường xá, luồng lạch giao thông thuỷ, năng lượng, thông tin liên lạc, tưới tiêu, giải pháp phòng chốngs lũ lụt bằng công trình và phi công trình; · Tăng cường các cơ sở y tế và hệ thống chăm sóc sức khoẻ; · Giúp đỡ quy hoạch và quản lý sử dụng đất ; · Nâng cấp các hệ thống tưới tiêu, thành lập hội những người dùng nước, phục hồi khai thác và giảm thiểu chi phí ; · Hỗ trợ những trang trại nhỏ; khuyến khích sự đa dạng hoá cây trồng; sự gia tăng giá trị của 1m3 nước và m2 đất; · Tăng thêm việc làm ngoài lĩnh vực nông nghiệp; · Khuyến khích quá trình chế biến sản phẩm thô, kể cả cơ sở sản xuất nhỏ và hộ gia đình; · Phát triển những cơ sở làm nghề nuôi trồng thuỷ sản kể cả việc đánh bắt; · Tái trồng rừng, phát triển rừng có khả năng thương mại, rừng có sản phẩm không phải cây lấy gỗ; · Nâng cao sự hiểu biết về những cơ hội thuận lợi và những hiểm hoạ có liên 27
- quan đến nguồn tài nguyên (Bao gồm hệ thực vật, bảo vệ hệ sinh thái rừng, khu vực sinh sản của cá, đường di cư của cá; · Tăng cường sự giúp đỡ có hiệu lực đối với những người khai thác quy mô nhỏ, gồm nông dân, những người trồng rừng rừng không lấy gỗ, ngững ngư dân, những người nuôi trồng thuỷ sản và những nghề khác. Sự giúp đỡ có thể còn bao gồm cả việc tư vấn cho việc phân phối và tiếp thị; · Nâng cao hiệu quả của những khoản tín dụng nhỏ; · Phát triển du lịch và vui chơi giải trí ; · Đấu tranh chống tham nhũng, chiếm đoạt, mọi vi phạm và những sự lạm dụng quyền lực khác. Tài liệu tham khảo chương 1 · Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2002 của Worl Bank · Henrik Larsen (ed).: Integrated Water Resources Management. GWP-TAC-4, March 2000 · Miguel Solanes and Fernando Gonzalez Villarreal: The Dublin Principles. GWP-TAC-3, June 1999 · John Briscoe (Sept 96): Water as an economic good. The idea and what it means in practice. Cairo · T. K. Nielsen (March 2003): Poverty alleviation and rural livelihood development 28
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân CHƯƠNG 2: KINH TẾ CẤP NƯỚC TƯỚI 2.1. Khái quát chung 2.1.1. Mục tiêu phát triển thủy lợi ở Việt Nam Việt Nam có nguồn tài nguyên nước dồi dào, chính nguồn tài nguyên quý giá này đã góp phần quan trọng đối với mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Lịch sử hình thành và phát triển của xã hội Việt Nam gắn liền với sự hình thành của hệ thống đê điều chống lũ trong hàng ngàn năm ở miền Bắc và hệ thống kênh rạch chằng chịt ở miền Nam để mở mang các vùng đất mới, phát huy mặt lợi của nước, đồng thời hạn chế mặt hại của nước để đất nước tồn tại, ổn định và ngày càng phát triển. Cũng chính nhờ lợi thế về tài nguyên nước , một nền văn minh lúa nước đã hình thành từ hàng nghìn năm ở đồng bằng sông Hồng và di chuyển vào đồng bằng sông Cửu Long trong khoảng 300 năm trước đây. Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, thuỷ lợi mới thực sự trở thành một ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, được ưu tiên đầu tư, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước và nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam có 2360 con sông, trong đó có 9 hệ thống sông lớn với lưu vực từ 10.000km2 trở lên như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Cửu Long, sông Đồng Nai, Phù sa của sông Hồng và sông Cửu Long đã bồi đắp nên 2 đồng bằng đất đai mầu mỡ, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, 2 vựa lúa lớn của Việt Nam. Tổng lượng nước mặt chảy qua lãnh thổ Việt Nam trung bình nhiều năm là 835 tỷ m3, trong đó chỉ có 313 tỷ m3 phát sinh trong lãnh thổ, 522 tỷ m3 từ lãnh thổ các nước khác đổ vào. Riêng sông Mê Kông có 505 tỷ m3, sông Hồng và sông Thái Bình có 137 tỷ m3. Hai lưu vực sông này có tổng lượng dòng chảy chiếm 77% tổng lượng dòng chảy trong cả nước. Lượng nước ngầm khá dồi dào, gần 50 tỷ m3 hàng năm và có thể khai thác 20-30% trữ lượng. Tiềm năng thuỷ điện khoảng 230-300 tỷ KWh/năm trong đó có thể khai thác 90- 100 tỷ KWh/năm, trong đó hệ thống sông Hồng có tiềm năng thuỷ điện lớn nhất. Nước còn tạo môi trường thuận lợi cho vận tải thuỷ và du lịch. Tuy nhiên nguồn nước lại phân bố không đều theo thời gian và không gian, mật độ phân bố bình quân cả nước là 2,51m3/m2, đồng bằng sông Cửu Long khoảng 13m3/m2, đồng bằng sông Hồng là 10,5 m3/m2 nhưng vùng cực Nam Trung Bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận) chỉ có 0,4-0,5 m3/m2. Mùa khô kéo dài 7-8 tháng nhưng lượng mưa chỉ chiếm 20-30% lượng mưa năm, mùa mưa với 4-5 tháng nhưng lượng nước chiếm tới 70-80% tổng lượng mưa năm. Sự phân bố không đều đó thường xuyên gây 29
- khô hạn khắc nghiệt trong mùa khô và trong mùa mưa thì lũ lụ và ngập úng lại thường xảy ra nghiêm trọng. Khi cách mạng Tháng Tám mới thành công, công trình thuỷ lợi tưới, tiêu trong cả nước chỉ có 13 hệ thống, trong đó có nhiều hệ thống làm dở dang nên không đạt năng lực thiết kế, tổng năng lực tưới 30 vạn ha, tiêu 8 vạn ha. Đồng bằng Nam Bộ chỉ có một số kênh rạch để giao lưu, còn việc canh tác phải dựa vào nước trời, chưa có công trình ngăn mặn, tiêu úng, xổ phèn, giữ ngọt. Trung Bộ, Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc hàng năm đều chịu hạn hán. Ở đồng bằng sông Hồng, nhiều vùng rộng lớn phải bỏ hóa vụ mùa vì bị úng ngập. Theo thống kê, đê Bắc Bộ và đê Thanh Nghệ Tĩnh bình quân 2-3 năm vỡ một lần. Do nhận thức được vị trí quan trọng của công tác thuỷ lợi trong việc bảo vệ và phát triển đất nước nên Đảng và Chính phủ đã có những quyết định đúng đắn về chủ trương, kế hoạch, chính sách đầu tư thuỷ lợi, và khai thác nguồn tài nguyên nước. Trong lĩnh vực tưới tiêu, cung cấp nước: Đã xúc tiến xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển tài nguyên nước trên các lưu vực sông lớn, bao gồm đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của 2 đồng bằng này. (Dự án quy hoạch tổng thể đồng bằng sông Hồng VIE/89/034-677/TTg 23/8/97, Định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thuỷ lợi giao thông vận tải và xây dựng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, 99/TTg 9/2/1996). Trên các vùng lãnh thổ cũng đã xúc tiến quy hoạch hoặc định hướng quy hoạch làm cơ sở cho đầu tư. Trọng tâm của việc xây dựng thuỷ lợi trong giai đoạn này là phát triển hệ thống tưới tiêu, đảm bảo sản xuất lương thực và củng cố hệ thống đê điều phòng chống lũ ngăn mặn để mở rộng sản xuất. Tính đến năm 1995 ngành thuỷ lợi Việt Nam đã có hệ thống các công trình thuỷ lợi với năng lực thiết kế tưới cho 3 triệu ha, tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 700 ngàn ha. Hình thành 75 hệ thống thuỷ nông lớn và vừa, 750 hồ chứa nước lớn và vừa, trên 10.000 hồ chứa nhỏ, 2000 trạm bơm điện lớn và vừa có tổng công suất 450MW, 30 vạn máy bơm dầu. Đã tưới 5,6 triệu ha gieo trồng lúa (tăng so với năm 1985 là 1 triệu ha), tiêu úng 86,5 ngàn ha, tưới cho hoa màu và cây công nghiệp 560 ngàn ha, tiêu úng xổ phèn cho 1,6 triệu ha, cải tạo 70 vạn ha đất mặn ven biển, tạo nguồn nước cung cấp cho hàng chục triệu dân ở nông thôn, thành thị, cung cấp nước ăn cho đồng bào vùng cao, cho các khu công nghiệp, các khu định canh định cư, vùng chuyên canh cây ăn quả và cây công nghiệp. Riêng diện tích trồng lúa được tưới chiếm 80% tổng diện tích lúa trong cả nước. Đây là một tỷ lệ cao về đất nông nghiệp được tưới so với các nước trên thế giới. 30
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Trong lĩnh vực đê điều: Hệ thống đê điều đã hình thành 7700km, trong đó đê sông 5700km, đê biển 2000km và gần 3000km đê bao ngăn lũ ở đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống đê điều, đặc biệt hệ thống đê sông Hồng và sông Thái Bình, có vị trí sống còn trong việc bảo vệ dân sinh và sản xuất. Ngày nay, sau khi có hồ Hoà Bình với dung tích phòng lũ 4,9 tỷ m3 thì hệ thống đê sông Hồng có thể chống lũ với mức nước (13,3m) tại Hà Nội (riêng đê Hà Nội có thể chống được mực nước 13,6m và trên sông Thái Bình đê chịu được mức nước lũ 7,21m tại Phả Lại). Hệ thống đê biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (từ Quảng Ninh đến Quảng Nam Đà Nẵng) đã được nâng cấp, chống đỡ bão cấp 9 ứng với mức triều trung bình. Tính đến năm 2000 sẽ hình thành 800km đê biển của các dự án trên, chống được thuỷ triều (3,5m). Hệ thống đê bao, bờ ngăn lũ ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu bảo vệ lúa hè thu, chống lũ đầu mùa tháng 8, được kiểm nghiệm qua nhiều năm đã bảo đảm cho vùng ngập Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, Tây Sông Hậu từ một vụ lúa nổi trở thành sản xuất 2 vụ đông - xuân, hè - thu. Từ sau cơn bão số 5 (1997) Chính phủ bắt đầu cho nghiên cứu quy hoạch đê biển ở miền Nam từ Gò Công (Tiền Giang) đến Kiên Giang. Trong 10 năm đổi mới chúng ta đã nâng tầm công tác thuỷ lợi nhằm đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá trước hết đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn. Từ quy hoạch tổng thể, tiến đến quy hoạch vùng và tiểu vùng. Từ mục tiêu sản xuất lúa đến mục tiêu tổng hợp. Mục tiêu và nhiệm vụ của thuỷ lợi đến năm 2010: Ø Cơ bản khai thác hết đất nông nghiệp ở những vùng đất giàu tiềm năng, đưa sản lượng lương thực đạt 38-40 triệu tấn. Ø Giải quyết cơ bản nước ăn cho trên 1 triệu đồng bào vùng cao còn thiếu nước, cấp nguồn nước cho các yêu cầu phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị, khu dân cư. Ø Phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai, nâng mức an toàn kỹ thuật của đê sông Hồng, sông Thái Bình và đê vùng Bắc khu 4 cũ chống đỡ an toàn với lũ lịch sử đã xảy ra, cụ thể là: trồng rừng và bảo vệ rừng đầu nguồn, xây dựng các hồ chứa nước thượng nguồn, củng cố hệ thống đê điều, giải phóng lòng sông, cửa sông để thoát nước nhanh ra biển, xây dựng công trình phân lũ và tổ chức hộ đê phòng lũ. Ø Nâng cao mức bền vững của đê biển, đê ngăn mặn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đảm bảo được mức chống bão cấp 10 khi có triều cường. Ø Tiến hành kiểm soát nguồn nước thải ở khu công nghiệp và đô thị. Ø Tăng cường công tác quản lý tài nguyên nước, điều tra cơ bản, quy hoạch dài hạn. Đổi mới từng bước trang thiết bị vận hành công trình đã quá lạc hậu. Ứng 31
- dụng các vật liệu mới, chất lượng cao trong xây dựng các công trình thuỷ lợi. ứng dụng tin học phục vụ quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Ø Tăng cường đào tạo nhân lực, thể chế trong lĩnh vực quản lý, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên nước. Ø Cụ thể hoá phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm trong điều kiện cơ chế mới và hoàn cảnh mới của nông nghiệp, nông thôn và nông dân hiện nay đối với việc phát triển thuỷ lợi. 2.1.2. Kinh tế canh tác lúa nước8 2.1.2.1. Giới thiệu Không phải ngẫu nhiên mà trồng lúa nước trở thành một nghề truyền thống ở Đông Nam Á. Trên nhiều phương diện thì lúa là một cây lương thực vô cùng quý giá (xem Bảng 4.1) Việt Nam là nước có sản lượng gạo đứng thứ 5 trên thế giới (sau Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Bang La Đét), là nước có tỷ lệ gạo trên số dân đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan), là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới (sau Thái Lan). Trong đó, sản lượng gạo của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 50 % sản lượng gạo của cả nước và chiếm 90% sản lượng gạo xuất khẩu. Những giống lúa truyền thống của người Đông Nam Á là: Ø Lúa nương, cây lúa được trồng ở những vùng đất thiếu nước Ø Lúa nước (vùng đất ẩm ướt), phần lớn thời gian trồng trọt thì cây lúa được trồng ở các cánh đồng ngập nước. Cây lúa ở những vùng này có thể được gieo cấy trực tiếp Ø Lúa ngập, tức là cây lúa được trồng ở vùng nước ngập sâu từ 0,5-4,5 mét Bảng 2.1. Những đặc tính đáng quý của cây lúa - Gạo là một lương thực truyền thống ở Đông Nam Á, và có thể đảm bảo được vấn đề an ninh lương thực (ở cấp hộ gia đình cũng như trên quy mô của cả quốc gia) - Nghề nông, chủ yếu là nghề trồng lúa nước và các ngành nghề khác liên quan đã tạo ra việc làm cho 75% số dân sống ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long - Cây lúa có thể phát triển trên những loại đất không phù hợp với các loại cây trồng khác 1441443232144 8 E. B. Rice (Apr 97): Paddy irrigation and water management in Southeast Asia 32
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân - Cây lúa có thể mọc ở những vùng bị ngập úng - Gạo có thể bảo quản trong nhiều năm - Nhu cầu thương mại về gạo là tương đối ổn định - Cây lúa có sức chịu đựng sâu bọ tốt, những cây lúa vùng đồng bằng có khả chống chọi rất tốt với cỏ dại - Một vụ lúa kéo dài từ 3-4 tháng, rất thích ứng với giai đoạn mưa nhiều ở Đông Nam Á Bảng 2.2. Giống lúa trồng bằng phương pháp gieo cấy Cây lúa có thể trồng bằng phương pháp gieo cấy hoặc gieo giống trực tiếp Lúa được gieo cấy cho sản lượng cao hơn và trong một chừng mực nào đó thì nó còn có thể chủ động hơn trong quá trình chăm bón (liên quan đến tổng lượng mưa), bởi vì nếu cần thiết thì có thể lùi công tác gieo cấy trong vài tuần. Kết quả là, giai đoạn trưởng thành của cây lúa được gieo cấy dài hơn so với cây lúa được gieo giống từ 5 đến 7 ngày. Công tác gieo cấy lại đòi hỏi nhiều công sức (xấp xỉ hoặc hơn 10 ngày công đối với 1 hécta) Xét trên khía cạnh cung cấp nước tưới, thì ở nước ta phần lớn là các loại cây trồng sống nhờ nước tưới từ hệ thống thuỷ lợi và nhờ mưa, và hầu hết là các cây trồng không dựa hoàn toàn vào nước mưa. Đối với quá trình trồng trọt hiện đại thì việc tưới bổ sung đóng vai trò quan trọng, qua đó có thể đem lại phần giá trị gia tăng cao đối với mỗi m3 được sử dụng. Công tác tưới có thể bao gồm nhiều công đoạn khác nhau, có thể thực hiện đơn lẻ hay thực hiện kết hợp: Ø Trữ nước lại trong hồ chứa; Ø Bơm nước (trên quy mô nhỏ hoặc lớn) (từ sông, kênh hoặc hồ chứa); Ø Đổi hướng dòng chảy của một dòng sông bằng những công trình điều tiết nước (đập), rồi đưa nước vào trong các hệ thống kênh; Ø Giữ lại lượng nước mặt bằng các công trình đập, kênh, cửa cống; Ø Giữ lại lượng nước từ các dòng chảy tái sinh của những ruộng lúa vùng thượng lưu bằng các kênh, cửa cống, Ø Trong công việc trồng lúa, việc sử dụng nước ngầm để tưới là không khả thi về mặt kinh tế vì chi phí sản xuất cao và giá trị của sản phẩm lại thấp. 33
- Dưới đây là biểu đồ thể hiện quá trình sản xuất ra gạo thông thường. Sau một đợt gieo giống, những thất thoát sau thu hoạch (bao gồm cả việc sấy khô) và xay sát, 1kg thóc cho 0,5-0,6 kg gạo (Vì thế việc phân biệt giữa thóc và gạo là rất quan trọng). Bảng 2.3. Quá trình chế biến thóc Công tác thu hoạch Hạt, tổn thất sau thu hoạch Cây lúa Quá trình tuốt lúa và Trấu (20-30 %) sát vỏ Thóc Quá trình sát gạo hoặc thóc Cám (khoảng 10 %) Gạo (hoặc bột gạo) Bảng 2.4. Cân bằng nước trong trồng lúa Nhu cầu về nước tưới: Tổng lượng mưa Nước cung cấp cho tưới được lấy từ sông hoặc hồ chứa Lượng nước tổn thất trong kênh (hoặc tổn thất dọc đường, bốc hơi ) . Lượng nước được đưa ra ruộng Lượng nước tổn thất mặt ruộng Dòng chảy tái sinh ở ruộng (có thể được sử dụng ở vùng hạ lưu) Nhu cầu nước của cây trồng: Lượng nước cần để cây trồng phát triển Như miêu tả trong bảng 2.4, do có tổn thất nên nhu cầu về nước tưới cao hơn nhiều so với nhu cầu nước của cây trồng. Tuy nhiên, có thể thấy rằng phần lớn lượng nước tổn thất lại trở về dòng chảy tái sinh, hoặc có thể được sử dụng cho các mục đích khác ở khu vực hạ lưu. 34
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Cả nhu cầu sử dụng nước của cây trồng và tổng lượng mưa đều phụ thuộc vào vị trí địa lý. Nhu cầu sử dụng nước của cây trồng biến đổi trong suốt mùa vụ và lượng mưa thì biến đổi theo chu kỳ từng năm. Vì vậy, việc tính toán cân bằng nước cho toàn bộ giai đoạn chăm sóc cây trồng trên cơ sở từng tháng hoặc từng ngày. Và đơn vị cơ bản thích hợp cho việc tính toán là mm/ngày. Nhu cầu nước cho cây trồng có thể được xác định bằng các thí nghiệm ở các trạm nông nghiệp, hoặc có thể tính toán theo các phương pháp truyền thống (dựa trên kinh nghiệm) hoặc theo phương pháp tính cân bằng nước qua lượng bốc thoát hơi thực vật của cây trồng như được tổ chức FAO khuyến khích áp dụng. Bảng 2.5. Lượng nước sử dụng theo phương pháp trồng lúa truyền thống Chuẩn bị đất 150 - 250 mm/vụ Khôi phục độ ẩm, cày và trộn đất 500 - 1200 mm/vụ Thoát hơi Nhu cầu nước của cây trồng 4 - 10 mm/ngày 200 -700 mm/vụ Thấm Giữ nước 2 - 6 mm/ngày Thoát nước giữa mùa 50 - 100 mm/vụ Cấp lại nước sau khi thoát nước Tổng 900 - 2250 mm/vụ Tổng lượng nước sử dụng Thời gian trung bình Tổng lượng mưa + lượng nước tưới, của một vụ là trên 20 7.5 - 20 mm/ngày trừ dòng chảy tái sinh ngày Nguồn: FAO (2004) Người ta cho rằng cứ với 1m3 nước cây trồng cần dùng vào mùa khô thì phải cung cấp khoảng 3,3 m3 nước tưới. Bảng 2.6. Tỉ lệ nhu cầu nước tưới và nhu cầu nước của cây trồng Nhu cầu nước tưới 100 % Lượng nước dành cho cây trồng 30 % Lượng nước cho dòng chảy tái sinh 30 % Các tổn thất khác 40 % Cần lưu ý, khái niệm tổn thất nước ở đây là được nhìn nhận dưới góc độ của người làm nông nghiệp hoặc từ khía cạnh của các công trình tưới, chứ không nhất thiết là từ góc độ của lưu vực sông. Lượng nước tổn thất trong một công trình tưới ở thượng lưu có thể được sử dụng lại ở một công trình khác ở khu vực hạ lưu, hoặc có thể tập trung vào dòng nước ngầm. Chỉ có lượng nước tổn thất do bốc hơi hay chảy ra biển thì mới có thể coi là tổn thất thật sự. Theo kinh nghiệm sản xuất, người ta cho rằng để sản xuất được 1kg gạo thì cần 5 m3 nước. 35
- Đối với một loại lúa cụ thể trong một khoảng thời gian và khu vực nhất định thì sản lượng của cây trồng đó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, bao gồm cả việc cung cấp nước tưới liên tục, đa dạng hoá cây trồng, xử lý cỏ dại, và việc sử dụng phân bón. Trong chừng mực nào đó, việc sử dụng mỗi kg phân bón nitơ có thể cho 10-15 kg thóc. Giả sử một loại lúa cụ thể cần 4 m3 nước để cho 1kg thóc, và như vậy thì 1kg phân bón có thể thay thế được cho 40-60 m3 nước. Ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long thì nhu cầu tưới là 1 l/s/ha hoặc 8,6 mm/ngày. Sản lượng gạo (mùa khô) là 5 tấn/ha. Giả sử một vụ là 120 ngày, thì người ta cho rằng loại lúa này cần 2,1 m3 nước cho mỗi kg thóc. Giả sử tổn thất sau thu hoạch là 10 % và tỷ lệ xay xát đạt 65 % thì như vậy người ta sẽ cần 3,5 m3 cho mỗi kg gạo. 2.2. Các thành phần chi phí của dự án tưới9 2.2.1. Chi phí cho việc trồng lúa Có thể chia thành các thành phần chi phí sau (bảng 2.7): Bảng 2.7. Chi phí cho việc trồng lúa Loại chi phí Chi phí tài chính Chi phí kinh tế Chi phí cơ hội (nếu đất được sử dụng Chi phí liên Phí thuê hoặc chi phí cho mục đích khác đem lại giá trị cao quan đến đất khấu hao hơn) Tổng chi phí cung cấp nước: Giá nước Chi phí sử dụng đất 2. Chi phí bơm nước Chi phí vốn Chi phí liên (nhiên liệu, khấu hao Chi phí vận hành và khai thác quan đến nước máy, ) Chi phí cơ hội (nếu đất hoặc nước được sử dụng cho mục đích khác đem lại giá trị cao hơn) 1. Chi phí thuê lao động Chi phí cơ hội (nếu lao động được sử Chi phí lao 2. Công sức của bản dụng trong công việc khác đem lại giá động thân trị cao hơn) Các chi phí Chi phí đầu vào: giống, Chi phí đầu vào: giống, phân bón, 1441443636144 9 E. B. Rice (Apr 97): Paddy irrigation and water management in Southeast Asia 36
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân khác phân bón, thuốc trừ sâu thuốc trừ sâu (tính theo giá trên thị (giá thị trường tại thời trường tự do) điểm hiện tại) Chi phí nghiên cứu, đào tạo và các chi phí dịch vụ gia tăng liên quan tới việc trồng lúa Thuế Các loại thuế (nếu có) Chi phí sản xuất lúa sẽ bao gồm chi phí tăng thêm và chi phí lưu thông, chế biến, kho chứa và tiêu thụ. Bảng 2.8. Chi phí dành cho hệ thống tưới Loại chi phí Chi phí tài chính Chi phí kinh tế Những chi phí liên Chi phí cho thuê (hoặc Chi phí cơ hội (nếu đất được quan đến đất nguồn thu tiềm năng từ sử dụng tốt hơn cho các mục cho thuê) đích khác) Chi phí vốn Chi phí tính theo thời Khấu hao điểm hiện tại Chi phí vận hành khai Chi phí tính theo thời Chi phí kinh tế với giả thiết thác, ảnh hưởng của điểm hiện tại là hoạt động dài hạn điện/xăng dầu Chi phí lao động Chi phí tính theo thời Tính theo chi phí kinh tế điểm hiện tại Chi phí ngoại lai (sảnKhôn g tính Cần tính toán nếu có thể lượng điện từ thuỷ lượng hoá được về giá trị điện, phòng chống lũ, (quy ra tiền), nếu không thì ảnh hưởng tới vùng có thể nêu thành những hạ lưu và những tác khoản không lượng hoá động tiêu cực khác) được. 2.2.2. Xác định và định lượng các chi phí Chi phí tài chính của dự án tưới tiêu bao gồm ba khoản mục chi phí cơ bản như sau: Ø Chi phí xây dựng công trình (vốn đầu tư) Ø Chi phí vận hành bảo dưỡng hàng năm Ø Chi phí sửa chữa lớn, thay thế trong vòng đời của dự án Cụ thể như sau: 2.2.2.1 Chi phí xây dựng công trình (vốn đầu tư) 37
- Chi phí xây dựng công trình thuộc các dự án đầu tư là toàn bộ chi phí cần để xây dựng mới hoặc cải tạo, mở rộng hay trang bị lại kỹ thuật công trình. Theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và xây dựng, chi phí xây dựng công trình được biểu thị qua chỉ tiêu tổng mức đầu tư ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư, tổng dự toán công trình, dự toán hạng mục công trình, giá thanh toán công trình ở giai đoạn thực hiện đầu tư và vốn đầu tư được quyết toán khi kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác sử dụng . 1. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư Giai đoạn chuẩn bị đầu tư được phân tích, tính toán và xác định trong giai đoạn lập báo cáo khả thi (báo cáo đầu tư) gồm các loại chi phí như sau: - Chi phí cho việc chuẩn bị đầu tư (điều tra khảo sát, lập và thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án) - Chi phí chuẩn bị thực hiện đầu tư (đền bù hoa mầu, di chuyển dân cư, các công trình trên mặt bằng xây dựng và tái định cư, chuyển quyền sử dụng đất, khảo sát, thiết kế, lập và thẩm định thiết kế, tổng dự toán, chi phí thực hiện công tác đấu thầu, hoàn tất các thủ tục đầu tư, xây dựng đường, điện, nước thi công, khu phù trợ, nhà ở tạm cho công nhân) - Chi phí thực hiện đầu tư và xây dựng (xây lắp, mua sắm thiết bị và các chi phí có liên quan) - Chi phí chuẩn bị sản xuất để đưa dự án vào khai thác sử dụng (chi phí đào tạo, chạy thử, thuê chuyên gia vận hành trong thời gian chạy thử) - Lãi vay ngân hàng của chủ đầu tư - Chi phí bảo hiểm - Chi phí dự phòng - Chi phí khác (chi phí lập báo cáo tiền khả thi, chi phí tuyên truyền quảng cáo, chi phí nghiên cứu khoa học và công nghệ có liên quan tới dự án đối với các dự án nhóm A và có yêu cầu đặc biệt từ Thủ tướng Chính phủ cho phép, chi phí và lệ phí thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án). 2. Giai đoạn thực hiện đầu tư Giai đoạn thực hiện đầu tư được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế kỹ thuật thi công. Các chi phí được tính bao gồm: - Chi phí xây lắp (chi phí tháo dỡ các vật kiến trúc cũ, chi phí san lấp mặt bằng xây dựng, chi phí xây dựng các công trình tạm phục vụ thi công , chi phí xây dựng các hạng mục công trình, chi phí lắp đặt thiết bị, chi phí di chuyển lớn thiết bị thi công và lực lượng xây dựng) - Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ và các trang thiết bị khác phục vụ cho sản xuất, làm việc, sinh hoạt. Các chi phí vận chuyển từ cảng tới công tình, chi 38
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân phí lưu kho, bãi, chi phí bảo quản, bảo dưỡng tại kho, thuế và phí bảo hiểm thiết bị công trình cũng được bao gồm trong khoản chi phí này - Chi phí dự phòng gồm cả dự phòng cho các yếu tố trượt giá do khối lượng phát sinh - Chi phí khác gồm : + Chi phí khởi công công trình + Chi phí đền bù và tổ chức thực hiện trong quá trình đền bù đất đai hoa mầu, di chuyển dân cư, chi phí phục vụ cho tái định cư + Tiền thuê đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất + Chi phí khảo sát, xây dựng thiết kế, chi phí lập hồ sơ mời thầu, chi phí cho việc phân tích, đánh gia kết quả đầu thầu, mua sắm thiết bị, chi phí giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị và các chi phí tư vấn khác, + Chi phí cho Ban quản lý dự án + Chi phí bảo vệ an toàn, bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng công trình + Chi phí kiểm định vật liệu đưa vào công trình + Chi phí lập thẩm tra đơn gia dự toán, chi phí quản lý chi phí xây dựng công trình + Chi phí bảo hiểm công trình + Chi phí và lệ phí thẩm định thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế kỹ thuật thi công, tổng dự toán công trình 3. Giai đoạn kết thúc xây dựng đưa dự án vào khai thác sử dụng - Chi phí thực hiện quy đổi vốn - Chi phí thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư công trình - Chi phí tháo dỡ công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ cho thi công - Chi phí thu dọn vệ sinh công trình, tổ chứ nghiệm thu, khánh thành và bàn giao công trình - Chi phí đào tạo cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật - Chi phí thuê chuyên gia vận hành trong thời gian chạy thử - Chi phí nguyên nhiên vật liệu cho quá trình chạy thử 39
- Các khoản chi phí này được xác định theo Quyết định Phê duyệt Luận chứng Kinh tế Kỹ thuật và Tổng dự toán đối với từng dự án cụ thể. Trong trường hợp nếu chưa có quyết định trên làm cơ sở, các khoản mục chi phí nêu trên sẽ được áp tính theo các văn bản quy định hướng dẫn hiện hành của Nhà nước. Đơn giá xây dựng cơ bản cũng phải áp dụng phù hợp với quy định về quản lý xây dựng hiện hành. 2.2.2.2. Chi phí quản lý vận hành hàng năm đối với các công trình tưới tiêu Chi phí quản lý vận hành hàng năm đối với các công trình tưới tiêu được tính toán phù hợp theo Thông tư liên tịch số 90/1997/TTLT/TC-NN (19/7/1997), bao gồm - Chi phí tiền lương và phụ cấp - Các khoản phải nộp tính theo lương (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn) - Khấu hao cơ bản tài sản cố định của những tài sản phải tính khấu hao - Chi phí nguyên nhiên vật liệu và năng lượng để vận hành, bảo dưỡng công trình máy móc thiết bị - Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định - Chi phí sửa chữa thường xuyên tài sản cố định - Chi phí quản lý doanh nghiệp - Chi phí thuê các loại phương tiện máy móc thiết bị - Chi phí trả lãi suất vốn vay, nộp thuế và các khoản đóng góp nghĩa vụ - Chi phí bảo hiểm các loại - Các chi phí khác cho việc đào tạo, quản lý, xây dựng thể chế Uớc tính các chi phí vận hành và bảo dưỡng dự án thường được tiến hành nhờ vào các nhà kinh tế, kỹ sư hoặc các nhà phân tích tài chính. Trong thực hành, có thể có rất nhiều cách ước tính chi phí vận hành và bảo dưỡng: dựa theo tỷ lệ phần trăm chi phí đầu tư như một số dự án thường làm hoặc là tính theo số liệu chi phí thực tế thu thập được. Theo kinh nghiệm tính toán của các chuyên gia phân tích kinh tế thì nên kết hợp cả hai phương pháp này trong trường hợp có thể để đạt được kết quả khả thi nhất. Một tiếp cận đơn giản nhất là lấy bằng tỷ lệ phần trăm của chi phí đầu tư (lấy từ 3-5% của vốn đầu tư thiết bị). Cách tiếp cận thứ hai dựa vào phương thức hoạt động trong quá khứ để ước tính chi phí vận hành bảo dưỡng hàng năm. Đối với các dự án đã có, nay cần nâng cấp sửa chữa, các khoản chi phí này hoàn toàn có thể được ước tính dựa vào các khoản chi phí trong quá khứ. Muốn vậy, chi phí vận hành và bảo dưỡng công trình từ đầu mối đến kênh cấp 1, chi phí sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn có thể được thu thập từ Công ty quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Dựa trên cơ sở đó, một số điều chỉnh có thể được thực hiện sao cho phù hợp với điều kiện thực tế. Cách tiếp cận thứ ba, tính toán từng quan hệ của khoản chi phí ứng với mỗi mức đầu ra, sau đó tính tổng các khoản chi phí lại. Theo hướng dẫn này, nên tính toán các chi phí trên thông qua việc áp dụng các quy định hiện hành hoặc định mức về lao động, định mức hao phí điện năng, định mức chi phí sửa chữa thường xuyên tại từng hệ thống. 40
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Cụ thể, chi phí nhân công được ước tính dựa trên cở sở ước tính số người cần thiết đối với từng loại hình công trình sau đó nhân với hệ số lương bình quân và nhân với mức lương bình quân tại thơì điểm tính toán (ví dụ, hiện nay là 350.000 đồng/tháng). Để ước tính số nhân công cần thiết cần thiết với từng loại công trình dựa vào bảng 4.9 Bảng 2.9. Ước tính số công nhân cần thiết đối với các dạng loại công trình với quy mô khác nhau10 Loại công Diện tích phục Số người ước trình vụ (ha) tính Đấu mối hồ 1 £ 2.000 3 chứa 2 2000 – 5000 5 3 5000 – 10000 7 4 10000 – 20000 9 5 > 20000 11 Trạm bơm 1 £ 2.000 4 2 2000 – 5000 7 3 5000 – 10000 9 4 10000 – 20000 11 5 > 20000 13 Kênh tưới 15 – 20/1000 ha Kênh tiêu 12 – 15/1000 ha Chi phí nguyên nhiên vật liệu, năng lượng để vận hành công trình được tính trực tiếp hoặc áp dụng tính theo định mức. Ví dụ, chi phí điện năng được áp tính theo định mức tính tiêu thụ điện năng của hệ thống có thể (nếu có) trong trường hợp đã xây dựng được định mức này hoặc lấy theo định mức của hệ thống tương tự trong vùng hoặc căn cứ vào số liệu chi phí điện năng trước đây của hệ thống, hoặc tính dựa theo công thức. Trong trường hợp không thể có các số liệu trên, tính toán chi phí điện năng có thể dựa vào Tiêu chuẩn ngành 14 TCN 112-1997. Chi phí sửa chữa lớn nhằm phục hồi khả năng làm việc của hệ thống tưới sau một số năm hoạt động nhất định (thường là khoảng 5 năm phải tiến hành sửa chữa lớn một lần), cũng bao gồm: chi phí tiền công; chi phí nguyên nhiên vật liệu và năng lượng; chi phí thuê các loại phương tiện máy móc thiết bị; và các chi phí khác. Chi phí này thường được tính dựa vào tuổi thọ của trang thiết bị và tài sản. Chi phí sửa chữa lớn hoặc thay thế tài sản thường được giả thiết xảy ra trong một khoảng thời gian cố định (từ 10 đến 20 năm một lần) phụ thuộc vào tuổi thọ của tài sản. Chi phí sửa chữa lớn 1441444141144 10 ViÖn Khoa Häc Thuû lîi 41
- thường được lấy theo tỷ lệ phần trăm vốn đầu tư ban đầu của công trình. Tỷ lệ này phụ thuộc vào tuổi thọ của dự án, chủng loại máy móc thiết bị, khả năng tài chính. Nếu trong vòng đời dự án, các trang thiết bị được thay thế, sửa chữa lớn theo các khoảng thời gian cố định thì cần phải tính giá trị đào thải của dự án vào thời điểm cuối cùng trong vòng đời của dự án trong phân tích kinh tế. Giá trị đào thải của dự án là giá trị còn lại của dự án tại thời điểm cuối cùng vòng đời dự án. 2.3. Tỷ số nội hoàn Tỷ lệ hoàn vốn nội tại (tỷ số nội hoàn) viết tắt là IRR là tỷ lệ lãi ước tính từ việc đầu tư. Nếu IRR cao hơn mức lãi suất trên thị trường thì đầu tư là có hiệu quả Tỷ lệ hoàn vốn nội tại IRR có thể được tính toán theo công thức dưới đây sau khi ta đã xác định được dòng tiền thu và dòng tiền chi. é B1 B2 Bt ù é C1 C2 Ct ù êB0 + + 2 + + t ú - êC0 + + 2 + + t ú = 0 (2.1a) ë (1+ i) (1+ i) (1+ i) û ë (1+ i) (1+ i) (1+ i) û Trong đó: B0, B1, B2, Bt là lợi ích trong năm thứ 0,1,2, t C0, C1, C2, Ct là chi phí trong năm thứ 0,1,2, t i là tỷ lệ lãi suất Khi so sánh với giá trị hoàn vốn nội tại, thì cả hai chỉ tiêu NPV và IRR sẽ cho cùng kết quả là nên đầu tư hay không đầu tư. Nếu NPV > 0 thì cũng sẽ tương ứng với IRR thoả mãn điều kiện và ngược lại. Còn khi xem xét lựa chọn hai phương án thay thế nhau (mà hai phương án này đều có thể chấp nhận được), thì hai phương pháp tính sẽ cho kết quả khác nhau. Chỉ số IRR sẽ thiên về việc chọn phương án với số vốn đầu tư nhỏ hơn với tuổi thọ của dự án ít hơn, còn chỉ số NPV thiên về việc chọn phương án có số vốn đầu tư lớn hơn với tuổi thọ của dự nhiều hơn. Với những công trình đầu tư ở khu vực công cộng thì người ta cho rằng việc sử dụng chỉ tiêu NPV là phù hợp hơn trong việc đánh giá tính khả thi của dự án. Những hạn chế cũng như những khó khăn trong việc sử dụng chỉ tiêu NPV: 1. Việc tái phân phối thu nhập cho những người hưởng lợi từ dự án là không được tính đến. 42
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân 2. Lợi ích và chi phí trong tương lai là thường khó xác định. 3. Lợi ích và chi phí ngoại lai (như lợi ích và chi phí xã hội, môi trường) là thường khó đánh giá. 4. Phương pháp này không thích hợp trong việc so sánh những dự án đầu tư với nhiều mục tiêu khác nhau – như việc đầu tư xây dựng một sân bay hay một trường đại học. Lợi ích, thu nhập của người nông dân, thu nhập quốc dân, thuế 11 Tầm quan trọng của việc trồng lúa được thể hiện theo nhiều khía cạnh khác nhau: từ góc độ của vấn đề an ninh lương thực quốc gia, tới góc độ các vấn đề xã hội và góc độ của nền kinh tế. Do vậy, khía cạnh kinh tế chỉ là một mặt của đánh giá hiệu quả. Khía cạnh kinh tế của việc trồng lúa có thể được xem xét theo 2 cách khác nhau: Ø Việc phân tích tài chính có thể chỉ ra chi phí và lợi ích tác động tới người nông dân. Ø Việc phân tích kinh tế có thể chỉ ra chi phí và lợi ích trên quy mô một quốc gia. Ø Những cách phân tích này được xây dựng trên những cơ sở khác nhau và các đối tượng của dòng thu chi là cũng khác nhau. 2.3.1. Xác định và định lượng các lợi ích của dự án tưới tiêu trong phân tích tài chính a. Xác định các lợi ích của dự án tưới tiêu Để phân tích tài chính dự án tưới tiêu, vấn đề quan trọng nhất là phải xác định và định lượng các lợi ích do dự án mang lại. Thông thường, lợi ích tài chính của dự án tưới tiêu bao gồm: - Lợi ích từ tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp - Lợi ích từ công tác tiêu úng Tuy nhiên, hầu hết các dự án thuỷ lợi khi được đầu tư thường không chỉ phục vụ một mục tiêu duy nhất là tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp mà còn phục vụ một số mục tiêu khác (nhất là các hồ chứa lớn đa mục tiêu). Vì vậy, ngoài lợi ích trong sản xuất nông nghiệp, còn phải tính tới một số lợi ích khác (có thể lượng hoá được hoặc khó lượng hoá được), tuỳ thuộc vào từng dự án cụ thể. Chẳng hạn như: - Lợi ích từ chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản 1441444343144 11 H. J. Nesbitt (Mar 05): Water used for agriculture in the Lower Mekong Basin 43
- - Lợi ích thu được từ việc cấp nước phục vụ công nghiệp, sinh hoạt dân sinh - Lợi ích nhận được từ thuỷ điện - Và một số lợi ích tài chính khác như du lịch, b. Định lượng các lợi ích trong dự án tưới tiêu Ø Lợi ích từ tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp Đối với các dự án tưới, lợi ích nhận được từ dự án do gia tăng giá trị sản lượng nông nghiệp. Lợi ích tăng thêm hàng năm của ngành trồng trọt (lúa, mầu, cây ăn quả, cây công nghiệp) do tăng năng suất, tăng hệ số sử dụng ruộng đất và tăng diện tích gieo trồng hàng năm khi có dự án dưới tác động của việc cung cấp tưới ổn định. Đây là lợi ích trực tiếp có thể lượng hoá được của dự án. Để ước tính lợi ích nhận được do giá trị sản lượng nông nghiệp tăng thêm, nhất thiết phải tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập các số liệu cần thiết tại vùng dự án. Giá tính toán các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp như phân đạm, lân, thuốc cỏ, thuốc trừ sâu, giá nông sản hàng hoá và vật tư sản xuất của dự án là giá thị trường được điều chỉnh về năm quy đổi (theo giá dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB). Đơn giá và giá thành được tính theo giá cố định năm quy đổi làm mặt bằng với tỷ lệ hối đoái tương đương. Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng thêm dưới tác động của dự án do tăng diện tích trồng trọt (hoặc tăng diện tích được tưới), tăng năng suất cây trồng, tăng hệ số sử dụng đất đai được tính toán bằng cách xác định hiệu số giữa giá trị sản lượng nông nghiệp khi có dự án và không có dự án. Sau khi đã xác định được thu nhập và chi phí sản xuất nông nghiệp trong trường hợp có và không có dự án, lợi nhuận thuần tuý (lãi ròng) nhận được từ sản xuất nông nghiệp được xác định trên cơ sở tính toán phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí. Lợi nhuận thuần tuý từ sản xuất nông nghiệp được tính cho trường hợp có và không có dự án. Ø Lợi ích tiêu úng Đối với các dự án tiêu úng, lợi ích tài chính tăng thêm được đánh giá bằng giá trị thiệt hại trung bình hàng năm do úng ngập gây ra ở vùng dự án đối với sản xuất nông nghiệp. Cách tính toán lợi ích tương tự như tính toán áp dụng cho các dự án tưới. Lợi ích nhận được do có dự án chính là giá trị sản lượng nông nghiệp gia tăng trên diện tích trồng trọt được tiêu nhờ có dự án tiêu úng. Bên cạnh các lợi ích chủ yếu nhận được do tác động của tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, các lợi ích gián tiếp khác ngoài lợi ích về nguyên tắc tính toán cùng hoàn toàn tương tự như trên đã trình bày. 44
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Ø Lợi ích từ chăn nuôi Đối với lợi ích thu được do tăng giá trị sản lượng ngành chăn nuôi hàng năm nhờ mở rộng quy mô hoặc tăng năng suất. Trong quá trình phỏng vấn các hộ dân, các số liệu về chi phí (giống, lao động, thức ăn, thuốc phòng bệnh ), năng suất chăn nuôi, giá cả có thể nhận được một cách ước tính trung bình từ các hộ nông dân. Trên cơ sở đó xác định được giá trị sản lượng ngành chăn nuôi hàng năm tăng thêm khi có dự án so với khi chưa có dự án. Ø Lợi ích thu được từ thuỷ sản Lợi ích này được xác định thông qua giá trị sản lượng ngành thuỷ sản tăng thêm hàng năm, nhờ tăng diện tích mặt nước hoặc tăng độ sâu hoặc duy trì mực nước ổn định, .v.v. Đây là loại lợi ích trực tiếp có thể đo được. Việc tính toán tương tự như tính toán giá trị sản lượng tăng thêm từ chăn nuôi. Ø Lợi ích từ cấp nước Đối với lợi ích cấp nước sinh hoạt hoặc phát điện, việc tính toán lợi ích tài chính dường như đơn giản hơn việc ước tính lợi ích trong sản xuất nông nghiệp. Đối với dự án cấp nước sinh hoạt, cơ sở của việc tính toán lợi ích nhận được từ cung nước sinh hoạt sẽ dựa vào khối lượng nước (m3 nước được cung cấp) và giá cung cấp nước. Trong một số trường hợp, nếu không biết chính xác khối nước được cung cấp thì có thể ước tính khối lượng này thông qua mức sử dụng nước trung bình trên đầu người tại vùng dự án. Đối với dự án phát điện, lợi ích nhận được tính bằng tổng lượng điện (KWh) được sản xuất nhân với giá bán điện. 2.3.2. Xác định lợi ích kinh tế Lợi ích kinh tế từ dự án tưới tiêu bằng lợi ích trực tiếp từ nông nghiệp cộng với các lợi ích gián tiếp khác. Ø Lợi ích trực tiếp từ tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp Xác định lợi ích từ nông nghiệp thông qua việc xây dựng đường cầu bằng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên. Đường cầu này phản ánh mong muốn thanh toán lề của người sử dụng (MWTP). Đối với các dự án xây dựng mới công trình tưới tiêu, để xây dựng được đường cầu này cần tiến hành thu thập số liệu đầu vào cho hai trường hợp: - Số liệu thống kê cho trường hợp chưa có dự án - Số liệu dự báo tương lai cho trường hợp có dự án. 45
- Lợi ích từ nông nghiệp do dự án tưới mang lại là giá trị tăng thêm từ sản xuất nông nghiệp được xác định thông qua giá trị sản phẩm tăng thêm của các loại cây trồng được tưới trong trường hợp có và không có dự án. Vì vậy để xác định giá trị này cần xác định: Diện tích được tưới của các loại cây trồng: lúa, ngô, khoai, rau, đậu và các loại cây khác cho hai trường hợp có và không có dự án . Năng suất tương ứng của các loại cây trồng này cho hai trường hợp có và không có dự án . Công thức xác định lợi ích tưới tăng thêm (tính cho năm thứ i) k m W w w w wo wo wo wo Bi = å(Fn xYn xPn -Cn ) - å(Fn xYn xPn -Cn ) (2.1b) n=1 n=1 Trong đó: Bi: Lợi ích tưới hay giá trị tăng thêm từ sản xuất nông nghiệp (đ/năm) Fn: Diện tích cây trồng n (ha) Yn: Năng suất cây trồng n (t/ha) Cn: Chi phí sản xuất cho cây trồng n (đ/năm) Pi: Giá kinh tế của sản phẩm của cây trồng n (đ/T) W, Wo: Trường hợp có và không có dự án m: Số lượng loại cây trồng khi không có dự án k: Số lượng loại cây trồng khi có dự án, thường k ≥ m Giá trị của các sản phẩm đầu ra và các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp phải được xác định trên cơ sở giá kinh tế. Đầu ra của sản xuất nông nghiệp (như lúa, hoa mầu, các loại rau, cây ăn quả, cây công nghiệp, ) và các đầu vào (như phân bón, thuốc trừ sâu, ) có thể được coi là hàng hoá thương mại (tradeable goods) trong khi đó đầu vào (như đất đai, lao động) được coi là hàng hóa phi thương mại (nontradeble goods). Ø Lợi ích từ tiêu úng 46
- PGS.TS. Nguyễn Bá Uân Đối với công trình tiêu hoặc tưới tiêu kết hợp thì ngoài lợi ích từ tưới kể trên, lợi ích tiêu được xác định thông qua việc xác định giá trị thiệt hại tránh được nhờ có công trình tiêu. Đối với lợi ích tiêu cần tiến hành điều tra thu thập số liệu thiệt hại do úng khi chưa có công trình tiêu để từ đó xác định giá trị thiệt hại tránh được khi có dự án. Việc xác định thiệt hại tránh được nhờ có công trình tiêu cần phải dựa vào tần suất tiêu trong vùng. Lợi ích từ tiêu được xác định như sau: Bt = åVi 2.2) n Trong đó: Bt: Lợi ích từ tiêu (đ/năm) Vi: giá trị thiệt hại úng lụt tránh được nhờ tiêu của ngành i (nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh và các ngành kinh tế khác trong vùng dự án). Đối với ngành nông nghiệp, giá trị sản lượng nông nghiệp gia tăng do giảm úng ngập nhờ có công trình tiêu được tính tương tự như trường hợp tính lợi ích từ tưới. Một số lợi ích gián tiếp nhận được từ các dự án tưới tiêu có thể kể tới là lợi ích cấp nước sinh hoạt, nuôi trồng thuỷ sản, du lịch, ngăn mặn, phòng lũ, Đối với từng trường hợp cụ thể, lợi ích được ước tính như sau: Ø Lợi ích gián tiếp từ cấp nước sinh hoạt Lợi ích từ cấp nước sinh hoạt của dự án là giá trị gia tăng của dự án có được từ việc cấp nước sinh hoạt. Lợi ích này được xác định theo khối lượng nước (thô, hoặc đã xử lý) mà công trình cung cấp và mức giá nước (thô, hoặc giá cho nước đã qua xử lý), theo công thức sau: Bcn = Pc x Sc - SCi (2.3) Trong đó: - Bcn : Giá trị lợi ích tăng thêm từ cấp nước sinh hoạt (đ/năm) - Pc : Giá nước cấp (đ/m3) - Sc: Khối lượng nước cấp (m3/năm) - SCi: Tổng chi phí cho việc cấp nước, được xác định trên cơ sở giá kinh tế của nhập lượng đã được điều chỉnh từ giá tài chính sang giá kinh tế. 47
- Ø Lợi ích nuôi trồng thuỷ sản: Lợi ích nuôi trồng thuỷ sản là giá trị tăng thêm từ nuôi trồng thuỷ sản tăng thêm nhờ có dự án. Lợi ích này được xác định như sau: Bts = S( Pic x Sic)- SCi (2.4) Trong đó: Bts : Giá trị lợi ích tăng thêm từ nuôi trồng thuỷ sản (đ/năm) Pic : Giá loại thuỷ sản thứ i (đ/T) Sic: Khối lượng loại thuỷ sản thứ i (T/năm) SCi: Tổng chi phí cho việc nuôi trồng thuỷ sản (đ/năm) Đối với dự án xây dựng mới công trình như hồ chứa, khối lượng sản phẩm thuỷ sản có thể ước tính dựa vào diện tích mặt thoáng hồ chứa. Ø Lợi ích cho du lịch: Giá trị ngành du lịch trong vùng dự án tăng thêm nhờ có dự án, chủ yếu là các hoạt động du lịch gắn với công trình thuỷ lợi (ví dụ xây dựng các hồ chứa cung cấp nước tưới sẽ phát triển ngành du lịch). Lợi ích này thường được xác theo phương pháp Chi phí du lịch thông qua việc thu thập thông tin từ các cá nhân về lợi ích đem lại của dự án đối với du lịch trong vùng hưởng lợi. Ø Lợi ích phòng lũ Đây là loại lợi ích rất khó xác định giá trị vì lợi ích này được xác định bằng tổng giá trị thiệt hại do lũ lụt gây ra trong điều kiện không có công trình. Nghĩa là nhờ có công trình mà giảm được những thiệt hại về kinh tế do tình trạng ngập lụt gây ra hàng năm trong khu vực dự án, phần thiệt hại giảm được này coi như là lợi ích kinh tế mà dự án mang lại. Để ước tính được thiệt hại giảm được do lũ lụt gây ra nhờ có công trình, có thể sử dụng các tài liệu báo cáo tình hình lũ lụt hàng năm của vùng dự án, bổ sung với các số liệu thu thập được qua điều tra khảo sát thực tế tại vùng bị lũ lụt để phân bổ cho các năm theo tần suất xuất hiện lũ. Hay nói cách khác, lợi ích phòng lũ được ước tính thông qua việc điều tra thu thập số liệu thiệt hại do lũ lụt khi chưa có công trình để từ đó xác định giá trị thiệt hại tránh được khi có dự án. Tương tự như ước tính lợi ích từ tiêu, lợi ích từ phòng chống lũ được xác định như sau: 48