Tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường

pdf 128 trang ngocly 1450
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftiep_can_quyen_trong_bao_ve_moi_truong.pdf

Nội dung text: Tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường

  1. Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường Tài liệu Tập huấn Cánh đồng cỏ năn được phục hồi ở Vườn Quốc Gia Tràm Chim - mùa khô 2006@MWBP INTERNATIONAL UNION FOR CONSERVATION OF NATURE The United Nations UNDEF Democracy Fund
  2. Việc xác định các thực thể địa lý trong dịch sang các ngôn ngữ khác dựa ISBN: 978-2-8317-1504-9 ấn phẩm này và cách trình bày các số vào những thông tin được cung cấp liệu không phản ánh bất cứ quan điểm trong tài liệu tập huấn. Ảnh bìa: IUCN Việt Nam nào của IUCN, Quỹ Dân chủ Liên Hợp Dàn trang: Công ty CP in La Bàn Quốc, hay Viện Nghiên cứu Quyền con Ấn phẩm này là một phần kết quả người (Học viện Chính trị - Hành chính trong dự án do Tổ chức Luật Phát triển Cơ quan xuất bản: Văn phòng IUCN Quốc gia Hồ Chí Minh) về tư cách pháp Quốc tế (IDLO) và Quỹ dân chủ Liên Việt Nam lý của bất kỳ quốc gia, vùng lãnh thổ Hợp Quốc (UNDEF) tài trợ. Số đăng ký xuất bản: hay khu vực, hoặc thẩm quyền, hoặc Cơ quan xuất bản: IUCN Việt Nam. quan điểm về phân định ranh giới hay 1261-2012/CXB/03-81/TN biên giới của các quốc gia, lãnh thổ Bản quyền: © 2012 Tổ chức Bảo tồn In 2.500 khổ A4 tại Công ty CP in La Bàn hay khu vực đó. Thiên nhiên Quốc tế Cơ quan tài trợ: Quỹ dân chủ Liên Các quan điểm trình bày trong ấn Các tổ chức hoặc cá nhân có thể tái Hợp Quốc (UNDEF) phẩm này không nhất thiết phản ánh bản ấn phẩm này vì mục đích giáo Nơi cung cấp: IUCN các quan điểm của IUCN, Quỹ Dân chủ dục hoặc phi lợi nhuận mà không cần Liên Hợp Quốc, hay Viện Nghiên cứu sự đồng ý trước bằng văn bản của cơ Văn phòng tại Việt Nam Quyền con người (Học viện Chính trị quan giữ bản quyền, với điều kiện phải Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh). trích dẫn nguồn đầy đủ. Nghiêm cấm tái bản ấn phẩm này để bán lại hoặc Tầng 1, nhà 2A, Khu ngoại giao đoàn Đây là tài liệu tập huấn cho các giảng vì các mục đích thương mại khác mà Vạn Phúc viên trường chính trị về tiếp cận không được sự đồng ý trước bằng văn 298 Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội quyền trong bảo vệ môi trường được bản của cơ quan giữ bản quyền. thực hiện trong năm 2011 và 2012. IPO Box 60 Tài liệu này được hoàn thiện trong Trích dẫn: Viện Nghiên cứu Quyền ĐT: ++844-37261575/6 khuôn khổ dự án “Thúc đẩy sự tham con người (2012). Tiếp cận Quyền trong Fax: ++844-37261561 gia tích cực của các tổ chức xã hội vào Bảo vệ Môi trường. Thúc đẩy sự tham E-mail: info.vietnam@iucn.org quản trị nhà nước về môi trường” do gia tích cực của các tổ chức xã hội vào IUCN triển khai. IUCN và nhân viên quản trị nhà nước về môi trường, Hà Web: www.iucn.org/vietnam của IUCN không chịu trách nhiệm Nội, Việt Nam: IUCN. 114 trang. về bất kỳ sai sót nào trong quá trình
  3. Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường Tài liệu Tập huấn Chủ biên TS. NGUYỄN ĐỨC THÙY Nhóm tác giả (theo thứ tự ABC) TS. ĐẶNG DŨNG CHÍ PGS.TS. TƯỜNG DUY KIÊN TS. HOÀNG VĂN NGHĨA PGS.TS. NGUYỄN THANH TUẤN TS. NGUYỄN ĐỨC THÙY TS. NGUYỄN DUY SƠN TS. VÕ THANH SƠN Ban biên tập TS. NGUYỄN ĐỨC THÙY PGS.TS. TƯỜNG DUY KIÊN The United Nations UNDEF Democracy Fund
  4. MỤC LỤC Chuyên đề 1: MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM 1 I. Mối quan hệ giữa môi trường với phát triển bền vững ở Việt Nam 3 II. Những thách thức về tài nguyên, môi trường và sự tác động của suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay 8 III.Nỗ lực của nhà nước Việt Nam trong giải quyết những vấn đề tài nguyên và môi trường theo hướng bền vững 19 Chuyên đề 2 : MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VÀ QUYỀN CON NGƯỜI 24 I. Mối quan hệ giữa môi trường và quyền con người 26 II. Nguyên tắc và các quyền con người về môi trường 33 III. Cách tiếp cận Quyền con người trong Bảo vệ Môi trường 36 Chuyên đề 3: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG 41 I. Pháp luật quốc tế về Quyền con người đối với Môi trường 43 II. Pháp luật Việt Nam về Quyền con người có liên quan tới Môi trường 53 Chuyên đề 4: VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG VIỆC GIÁM SÁT, BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 66 I. Tổng quan về các tổ chức xã hội (TCXH) ở Việt Nam 68 II. Vai trò của các TCXH trong giám sát bảo vệ môi trường 77 III.Tăng cường vai trò và sự tham gia của các TCXH trong GSBVMT 91 Chuyên đề 5: BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN, QUYỀN THAM GIA VÀ TIẾP CẬN TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 99 I. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về môi trường ở Việt Nam 101 II. Bảo đảm quyền tham gia của người dân vào các hoạt động BVMT ở Việt Nam 104 III.Bảo đảm quyền tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường ở Việt Nam 107
  5. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành Tập tài liệu này, nhóm tác giả xin chân thành cám ơn sự cộng tác, giúp đỡ và hỗ trợ của cán bộ, chuyên gia của Tổ chức Bảo tồn Thiên Nhiên Quốc tế tại Việt Nam (IUCN), đặc biệt phải kể đến ông Jake Brunner (Điều phối viên Chương trình), bà Nguyễn Thùy Anh (Cán bộ Truyền thông), bà Lê Thị Thanh Thủy (Trợ lý Chương trình) đã có nhiều ý kiến góp ý về nội dung và kỹ thuật trong quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện Tài liệu. Nhóm tác giả cũng xin chân thành cám ơn sự cộng tác của bà Partricia Parkinson, Chuyên gia tư vấn pháp luật môi trường của Tổ chức Phát triển Luật Quốc tế (IDLO) thuộc Trung tâm Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Australia, ông Vaclav Prusa, Cán bộ Giám sát và Đánh giá Dự án của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP); một số chuyên gia, nhà quản lý thuộc Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV); Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường (VACNE); Viện Môi trường và Phát triển Bền vững (IESD); Viện Tư vấn và Phát triển (CODE); Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature); Viện Kinh tế - Sinh thái (ECO-ECO); Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng (CECR). Cuối cùng, nhóm tác giả xin chân thành cám ơn các đại biểu đại diện cho một số cơ quan, ban, ngành, tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương và địa phương có liên quan tới công tác bảo vệ môi trường; đại biểu đại diện cho một số Viện, Khoa có liên quan của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Khu vực và một số trường Chính trị tỉnh, thành phố đã tham dự và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho Tập tài liệu tại bốn khóa tập huấn thí điểm “Tiếp cận Quyền con người trong Bảo vệ Môi trường” được tổ chức tại Hà Nội, Hòa Bình, Hải Phòng và Cần Thơ trong năm 2010 và 2011.
  6. CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á ASIAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á BOD5 Lượng oxy hòa tan mà các quá trình sinh học phân hủy chất hữu cơ sử dụng trong 5 ngày. BTTN Bảo tồn thiên nhiên BVMT Bảo vệ môi trường BVTV Bảo vệ thực vật CECR Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng COD Là lượng oxy cần thiết để oxy hoá các hợp chất hoá học trong nước bao gồm cả vô cơ và hữu cơ CODE Viện Tư vấn & Phát triển CTNS Chương trình Nghị sự DDT Là một loại hóa chất có công dụng diệt trừ sâu bọ DO Là lượng oxy hoà tan trong nước cần thiết cho sự hô hấp của các sinh vật nước (cá, lưỡng thê, thuỷ sinh, côn trùng v.v ) thường được tạo ra do sự hoà tan từ khí quyển hoặc do quang hợp của tảo ĐDSH Đa dạng Sinh học ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long ĐMC Đánh giá Môi trường Chiến lược ĐNB Đông Nam Bộ ĐVHG Động vật hoang dã ĐSQ Đại sứ quán ĐTM Đánh giá Tác động Môi trường ECO-ECO Viện Kinh tế Sinh thái ENV Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên EITI Sáng kiến quốc tế về thúc đẩy minh bạch trong ngành khoáng sản EU Liên minh Châu Âu GSBVMT Giám sát bảo vệ môi trường HIV/AIDS - HIV là vi - rút gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh - AIDS là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do HIV gây ra, thường được biểu hiện thông qua các nhiễm trùng cơ hội, các ung thư và có thể dẫn đến tử vong HCM Hồ Chí Minh IUCN Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế KCN Khu công nghiệp
  7. KHCN Khoa học công nghệ KTXH Kinh tế xã hội LHQ Liên Hợp Quốc MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn NGO Tổ chức phi chính phủ PanNature Trung tâm Con người và Thiên nhiên PTBV Phát triển bền vững QCVN Quy chuẩn Việt Nam TAI Sáng kiến về quyền tiếp cận môi trường TCCP Tiêu chuẩn cho phép TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TCTT Tiếp cận thông tin TCXH Tổ chức xã hội TNCSHCM Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh UBND Ủy ban nhân dân UNEP Chương trình Môi trường LHQ VASS Viện Khoa học Xã hội Việt Nam VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VPO Tổ chức tư nhân tự nguyện VQG Vườn quốc gia VRN Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam VUSTA Liên hiệp các Tổ chức Khoa học và Kỹ thuật WARECOD Trung tâm Bảo tồn và Phát triển Tài nguyên nước WCED Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển WHO Tổ Chức Y tế thế giới WCS Chiến lược Bảo tồn thế giới
  8. LỜI GIỚI THIỆU Bảo vệ môi trường (BVMT) và quyền sống trong môi trường trong lành đang là vấn đề lớn không chỉ thách thức đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhất là những nước đang phát triển. Ở Việt Nam, kết quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thu hút các dự án đầu tư, đã tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người lao động, nhờ đó kinh tế tăng trưởng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nhưng cũng kéo theo đó là sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường. Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về môi trường, tuy nhiên việc thực thi chính sách, pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu. Một trong những nguyên nhân chính đó là nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và người dân về vấn đề BVMT còn nhiều hạn chế, chưa hiểu sâu sắc về tác động nguy hại của suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường đến sức khỏe của cộng đồng, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước. Suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường hiện nay đang tác động trực tiếp tới việc hưởng thụ các quyền con người, trước hết đó là quyền được sống trong môi trường trong lành. Nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và quyền con người, được sự hỗ trợ của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tại Việt Nam (IUCN) và Quỹ Dân chủ của Liên Hợp Quốc (UNDEF), Viện Nghiên cứu Quyền con người thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng tài liệu tập huấn “Tiếp cận Quyền con người trong BVMT”. Tài liệu được xây dựng nhằm góp phần nâng cao nhận thức của các cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể xã hội về tầm quan trọng của sự gắn kết giữa BVMT với bảo vệ quyền con người; qua đó nâng cao kỹ năng và khả năng lồng ghép quyền con người trong hoạch định chính sách, pháp luật về môi trường, tiếp cận quyền con người trong BVMT. Tài liệu này được xây dựng gồm các chuyên đề sau đây: Chuyên đề 1. Môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam Chuyên đề này nhằm cung cấp cho người học nhận thấy được bức tranh tổng thể về hiện trạng môi trường và những thách thức của môi trường ở Việt Nam hiện nay; thấy được tác động của suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường đến cuộc sống, sức khỏe của người dân và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước. Đồng thời thấy được những nỗ lực của Chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề tài nguyên và môi trường theo hướng phát triển bền vững. Chuyên đề 2. Mối quan hệ giữa môi trường và quyền con người Chuyên đề này nhằm cung cấp cho người học nhận biết được mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và quyền con người. Thấy được vấn đề môi trường chính là vấn đề của quyền con người. Do vậy, bảo vệ tốt môi trường sẽ là điều kiện để thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt các quyền con người sẽ có tác động tốt đến BVMT. Vì vậy, cần có hướng tiếp cận lồng ghép quyền con người trong BVMT.
  9. Chuyên đề 3. Pháp luật quốc gia và quốc tế về quyền con người đối với môi trường Chuyên đề này được xây dựng nhằm cung cấp cho người học biết được những nội dung, tiêu chuẩn quốc tế và các quy định pháp luật quốc gia về các quyền con người có liên quan/tác động bởi môi trường; thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia thành viên trong việc thực thi các công ước, điều ước quốc tế về môi trường và quyền con người; nhận thấy được những khó khăn, thách thức trong việc thực thi chính sách, pháp luật có liên quan giữa BVMT và quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Chuyên đề 4. Vai trò của các tổ chức xã hội trong giám sát BVMT Chuyên đề này nhằm cung cấp cho người học thấy được trách nhiệm BVMT không chỉ thuộc các cơ quan nhà nước, mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong đó thấy được vai trò và tầm quan trọng ngày càng gia tăng của các tổ chức xã hội bao gồm các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp; các đoàn thể quần chúng và cộng đồng đang đóng góp tích cực và có hiệu quả trong việc giám sát, thực thi chính sách, pháp luật về BVMT ở Việt Nam hiện nay. Chuyên đề 5. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia và tiếp cận tư pháp trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam Chuyên đề này nhằm cũng cấp cho người học thấy được tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về môi trường; quyền tham gia của người dân trong giám sát BVMT, trong hoạch định, xây dựng chính sách, pháp luật có liên quan về môi trường; đồng thời hiểu được quy trình, thủ tục trong khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. Ba quyền này được xếp là ba trụ cột trong hệ thống các quyền có liên quan tới bảo vệ quyền con người về môi trường. Thực hiện tốt ba quyền này, sẽ có hiệu quả tích cực đến việc BVMT nói chung. VIỆN NGHIÊN CỨU QUYỀN CON NGƯỜI Tháng 11-2011
  10. Chuyên đề 1 MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM MỤC TIÊU BÀI GIẢNG Sau khi kết thúc chuyên đề này, các học viên có thể: 1. Hiểu được mối quan hệ giữa môi trường với phát triển bền vững 2. Biết được thực trạng suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường và sự tác động của ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay. 3. Nhận thức được nỗ lực của Chính phủ trong việc giải quyết những vấn đề tài nguyên và môi trường, thực hiện các chương trình quốc gia có liên quan để phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. THÔNG ĐIỆP 1. Phát triển bền vững trong kinh tế, xã hội và môi trường là xu thế chung và là yêu cầu cấp thiết của thế giới và Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 2. BVMT là một trong những nhiệm vụ sống còn của nhân loại, là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, là cơ sở cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị - xã hội và hợp tác quốc tế. 3. Những thách thức lớn về môi trường ở Việt Nam, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, không khí đang ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội, sức khỏe, cuộc sống của người dân ở cả nông thôn và thành phố. 4. Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ tài nguyên, môi trường. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều bất cập trong việc áp dụng và thực thi trên thực tiễn. 1 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  11. NỘI DUNG CƠ BẢN I. Mối quan hệ giữa môi trường với phát triển bền vững ở Việt Nam 1. Khái niệm, nội dung, nguyên tắc phát triển bền vững 2. Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) II. Những thách thức về tài nguyên, môi trường và sự tác động của suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay 1. Mất rừng và nguyên nhân suy thoái rừng 2. Suy thoái đất đai và mất đất nông nghiệp 3. Ô nhiễm không khí ở khu đô thị và khu công nghiệp 4. Ô nhiễm do chất thải rắn 5. Thiếu nước và ô nhiễm nước 6. Tác động của suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường III. Nỗ lực của Chính phủ trong giải quyết những vấn đề tài nguyên và môi trường 1. Xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp luật đồng bộ để giải quyết những vấn đề tài nguyên và môi trường 2. Thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia có liên quan để phục hồi tài nguyên 2 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  12. A. PHẦN KHỞI ĐỘNG Câu hỏi: 1. Anh/chị hãy cho một số ví dụ về những thảm họa ô nhiễm môi trường lớn ở Việt Nam hiện nay? 2. Anh/chị hãy cho biết những nguyên nhân chính của suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường ở nước ta? 3. Theo anh/chị môi trường có tác động/ảnh hưởng như thế nào đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay? B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG I. Mối quan hệ giữa môi trường với phát triển bền vững ở Việt Nam 1. Khái niệm, nội dung và nguyên tắc phát triển bền vững Thuật ngữ Phát triển bền vững (PTBV – Sustainable Development) lần đầu tiên được sử dụng trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” (World Conservation Strategy) do IUCN đề xuất (1980). Mục tiêu tổng thể của chiến lược là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ PTBV ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Our Common Future), Uỷ ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED) lần đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về PTBV là “sự phát triển đáp ứng đuợc nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng của các thế hệ tương lai trong việc thoả mãn các nhu cầu của chính họ”. Định nghĩa của WCED về PTBV được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Rio - 92 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg - 2002: “PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển, đó là: phát triển kinh tế, công bằng xã hội và BVMT”. Nói một cách khái quát, PTBV là sự phát triển hài hoà về cả ba mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người không những cho thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ mai sau. Phát triển bền vững không chỉ là vấn đề BVMT: Phát triển bền vững có nghĩa là cả ba khía cạnh chủ yếu liên quan tới đời sống của nhân loại là kinh tế, xã hội và môi trường phải được tổng hòa, kết hợp, lồng ghép khi có thể và được cân đối một cách có hiệu quả qua các chính sách, cơ chế, công cụ và qua quá trình thực hiện chính sách. Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà: Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt: Kinh tế - Xã hội - Môi trường để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát triển kinh tế - xã hội mai sau, không làm giảm chất lượng cuộc sống của các thế hệ trong tương lai. Hay nói một cách khác: Muốn phát triển bền vững thì phải đồng thời thực hiện 3 mục tiêu: (1) Phát triển có hiệu quả về kinh tế; (2) Phát triển hài hòa các mặt xã hội, nâng cao mức sống, trình độ sống của các tầng lớp dân cư và (3) Cải thiện môi trường, bảo đảm phát triển lâu dài vững chắc cho thế hệ hôm nay và mai sau. 3 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  13. Hình 1. Mô hình phát triển bền vững BVMT là cơ sở có tính quyết định cho mô hình phát triển bền vững, một nhiệm vụ quan trọng cấp thiết. Con người luôn cần có môi trường sống tức là không gian sống, bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có tác động trực tiếp đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Môi trường cho ta không khí để thở, đất để xây dựng, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên, khoáng sản cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng. Với các chức năng của mình, môi trường có vai trò nền tảng quyết định đối với cuộc sống của con người và sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội của mọi quốc gia trên trái đất. Sự suy thoái tài nguyên, ô nhiễm và thảm họa môi trường ngày nay tác động tiêu cực trực tiếp đến sản xuất và đời sống của hàng triệu người, hạn chế, thậm chí gây tổn thất lớn về kinh tế, đồng thời kéo theo nhiều thiên tai, dịch bệnh, sự bất ổn định xã hội Chính vì vậy, cân bằng giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế với yêu cầu BVMT là cơ sở đầu tiên để bảo đảm phát triển bền vững. Đó là yêu cầu cấp thiết của phát triển bền vững, cũng là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay ở nước ta. Nguyên tắc phát triển bền vững Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới năm 1992 ở Rio de Janerio, các nhà hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường cùng với các nhà chính trị đã thống nhất về quan điểm PTBV; coi đó là trách nhiệm chung của các quốc gia, của toàn nhân loại; đồng thuận thông qua Tuyên bố Rio gồm 27 nguyên tắc cơ bản về PTBV và CTNS 21 về xác định các hành động cho sự PTBV của toàn thế giới trong thế kỷ thứ 21. Mục tiêu của phát triển bền vững Phát triển bền vững không chỉ là một chiến lược, một lối sống, một quan niệm đạo đức mà là một quá trình hoà nhập sự phát triển mọi mặt của con người, xã hội loài người với thiên nhiên. Tại Hội nghị Thượng đỉnh năm 2000, các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ/PTBV cũng đã đạt đuợc sự nhất 4 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  14. trí với 8 mục tiêu sẽ đuợc thực hiện vào trước năm 2015 là: i) Xoá tình trạng nghèo đói cùng cực; ii) Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học; iii) Khuyến khích bình đẳng giới và nâng cao địa vị của phụ nữ; iv) Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; v) Nâng cao sức khoẻ sinh sản; vi) Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; viii) Bảo đảm bền vững về môi truờng; và ix) Phát triển quan hệ đối tác toàn cầu phục vụ hoạt động phát triển. 2. Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) Việt Nam đã sớm tham gia vào tiến trình chung của thế giới trong việc xây dựng Chương trình nghị sự 21 (CTNS 21). Năm 1992, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janeiro (Braxin) đã ký Tuyên bố chung của thế giới về môi trường và phát triển, CTNS 21 toàn cầu, cam kết xây dựng Chiến lược PTBV quốc gia và CTNS 21 địa phương. Năm 2004, Việt Nam đã phê chuẩn Chiến lược quốc gia về BVMT đến 2010 và định hướng đến 2020. Việt Nam cũng đã tham gia nhiều cam kết quốc tế nhằm BVMT và phát triển xã hội, thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc. Ngày 17/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/TTg về “Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam)”. Nội dung của Quyết định này bao gồm mục tiêu dài hạn, những nguyên tắc, những lĩnh vực ưu tiên, những định hướng về chính sách và biện pháp tổ chức thực hiện PTBV ở Việt Nam. Hội đồng PTBV quốc gia cũng đã được thành lập theo Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ và sau đó chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng đã được điều chỉnh theo Quyết định số 248/QĐ-TTg ngày 24/2/2009. a) Những mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc trong PTBV của Việt Nam CTNS 21 của Việt Nam là khung chiến lược để xây dựng các chương trình hành động. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển của Việt Nam dưới góc độ bền vững, CTNS đã đưa ra những nguyên tắc PTBV, mục tiêu và tầm nhìn dài hạn, các lĩnh vực hoạt động ưu tiên, phương tiện và giải pháp nhằm đạt được sự PTBV trong thế kỷ 21. Quan điểm phát triển trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010 được Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT”; “Phát triển Kinh tế - Xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI (năm 2011) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội và Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 2011- 2020, trong đó xác định quan điểm “phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt của Chiến lược”, “phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững”. Phát triển kinh tế được coi là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phải phát triển bền vững về kinh tế, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển bền vững là cơ sở 5 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  15. để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội(1). Mục tiêu tổng quát của PTBV là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT. Mục tiêu cụ thể BVMT trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 được ghi rõ là cải thiện chất lượng môi trường: - Đến 2020, tỷ lệ che phủ rừng đạt 45%; - Hầu hết dân cư được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh; - Các cơ sở kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải, 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh cũ đạt tiêu chuẩn về môi trường; - Các đô thị loại 4 trở lên, các khu chế xuất, khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung; - 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn; - Cải thiện và phục hồi các khu vực bị ô nhiễm nặng; - Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, nước biển dâng. b) Tám nguyên tắc chính cho phát triển bền vững của Việt Nam - Con người là trung tâm của phát triển bền vững; - Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới; - Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển; - Quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại đối với cuộc sống của thế hệ tương lai; - Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, thúc đẩy phát triển nhanh mạnh và bền vững đất nước; - Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ ngành và địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân; - Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước; 1Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội - 2011, trang 98,99 6 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  16. - Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT với bảo đảm quốc phòng, trật tự và an ninh xã hội. c) Các lĩnh vực ưu tiên 5 lĩnh vực ưu tiên trong phát triển kinh tế bao gồm: - Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu quả, hàm lượng khoa học - công nghệ và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường; - Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân thiện với môi trường, dựa trên cơ sở sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái tạo lại được, giảm tối đa chất thải độc hại và khó phân huỷ, duy trì lối sống của cá nhân và xã hội hài hòa và gần gũi với thiên nhiên; - Thực hiện quá trình “công nghiệp hóa sạch”, nghĩa là ngay từ ban đầu phải quy hoạch sự phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền “công nghiệp xanh”; - Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Trong khi phát triển sản xuất theo yêu cầu của thị trường, đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm đồng thời vẫn bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên như: đất, nước, không khí, rừng và đa dạng sinh học; - PTBV vùng và xây dựng các cộng đồng địa phương PTBV. 5 lĩnh vực ưu tiên trong phát triển xã hội bao gồm: - Tập trung nỗ lực để xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm, tạo lập cơ hội bình đẳng để mọi người được tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, chính trị, phát triển kinh tế và BVMT; - Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng dân số đối với các lĩnh vực tạo việc làm, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, và BVMT; - Định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm PTBV các đô thị, phân bố hợp lý dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo đảm sự phát triển kinh tế, xã hội và BVMT bền vững ở các địa phương; - Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước; - Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống. 9 lĩnh vực ưu tiên trong sử dụng tài nguyên & BVMT bao gồm: - Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; - BVMT nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; - Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; 7 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  17. - BVMT biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; - Bảo vệ và phát triển rừng; - Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp; - Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại; - Bảo tồn đa dạng sinh học; - Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu góp phần phòng, chống thiên tai. II. Những thách thức về tài nguyên, môi trường và sự tác động của suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay 1. Mất rừng Rừng là nguồn tài nguyên sinh vật quý giá nhất của đất nước ta. Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, mà còn giữ chức năng sinh thái quan trọng như tham gia vào quá trình điều hòa khí hậu, bảo đảm sự chu chuyển ôxy và các nguyên tố cơ bản khác trên trái đất, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất và bờ biển, sụt lở đất đá, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, bảo vệ nguồn nước mặt và nước ngầm, làm giảm mức ô nhiễm không khí và nước. Qua quá trình phát triển, độ che phủ của rừng ở Việt Nam đã giảm sút nhanh chóng và chất lượng của rừng ở các vùng còn rừng đã bị hạ thấp quá mức. Trước đây, toàn bộ đất nước Việt Nam có rừng che phủ, nhưng chỉ mới mấy thập kỷ qua, rừng bị suy thoái nặng nề. Diện tích rừng toàn quốc đã giảm đáng kể, từ năm 1943 có khoảng 43% diện tích rừng tự nhiên, thì đến năm 1992 chỉ còn 27,7%. Trong những năm gần đây, tổng diện tích rừng có chiều hướng tăng lên, nhưng phần lớn diện tích tăng lên là rừng trồng. Diện tích rừng cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều ) tăng nhanh chóng, làm cho độ che phủ rừng liên tục tăng lên, từ 27,8% ở năm 1990 đến 39,1% vào năm 2009 (xem biểu đồ). Tuy nhiên, diện tích rừng nguyên sinh – rừng nhiều tầng (thường là từ 3-7 tầng) giảm sút nghiêm trọng; diện tích rừng trồng – rừng một tầng, rừng nhân tạo tăng cao, với tốc độ gia tăng trung bình từ năm 1990 đến 2009 cao gấp 13 lần rừng tự nhiên. 8 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  18. Theo số liệu thống kê, mặc dù độ che phủ rừng nước ta đã tăng lên, nhưng chất lượng rừng lại giảm sút đáng lo ngại. Trong tổng số 12,3 triệu ha rừng, rừng nguyên sinh chỉ còn 0,57 triệu ha phân bố rải rác, chiếm 8% tổng diện tích rừng, trong khi các nước trong khu vực là 50%. Phần lớn diện tích rừng tự nhiên hiện nay thuộc loại rừng nghèo có trữ lượng gỗ dưới 100 m3/ha, như rừng khộp ở Tây Nguyên. Rừng non mới được phục hồi chưa ổn định, chất lượng cây gỗ và tính ĐDSH chưa cao. Rừng trồng có cấu trúc đơn điệu, tính ĐDSH thấp. Những khu rừng tự nhiên ít bị tác động, rừng nguyên sinh có giá trị cao về ĐDSH tập trung chủ yếu ở các khu rừng phòng hộ và khu bảo tồn(2). 2. Suy thoái đất đai và mất đất nông nghiệp a) Thực trạng tài nguyên đất đai và thoái hóa đất Việt Nam có gần 25 triệu ha đất dốc (76% diện tích đất tự nhiên) với nhiều hạn chế cho sản xuất nông nghiệp, trong đó có hơn 12,5 triệu ha đất xấu và trên 50% diện tích đồng bằng là “đất có vấn đề”, bao gồm 0,82 triệu ha đất phèn, 0,54 triệu ha đất cát, 2,06 triệu ha đất xám bạc màu, 0,5 triệu ha đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá, 0,24 triệu đất ngập mặn, 0,47 ha đất lầy úng, 8,5 triệu ha đất có tầng mặt mỏng ở vùng đồi núi. Các loại đất có nhiều hạn chế nói trên chiếm 14,13 triệu ha hay 42,8% đất tự nhiên cả nước. Thoái hóa đất là xu thế phổ biến đối với nhiều vùng đất rộng lớn, đặc biệt là vùng đồi núi, nơi cân bằng sinh thái đã bị phá vỡ nghiêm trọng do không có rừng che phủ. Mặn hóa, phèn hóa, lầy hóa trên quy mô diện tích hàng triệu ha vùng đồng bằng cũng là nguyên nhân chủ yếu làm ngừng trệ khả năng sản xuất của đất. Tại nhiều vùng, sự suy thoái đất còn kéo theo cả suy thoái về hệ thực vật, động vật, môi trường địa phương và đồng thời làm cho diện tích đất nông nghiệp trên đầu người giảm xuống đến mức báo động. Ngoài ra, sự cố nứt đất và trượt lở đất cũng xảy ra ngày một nghiêm trọng hơn tại Tây Bắc và miền Trung với tốc độ ngày càng gia tăng. Sa mạc hóa ở Việt Nam cũng khá nghiêm trọng, tập trung chủ yếu ở các dải cát hẹp trải dọc theo bờ biển miền Trung, tập trung ở 10 tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận với diện tích khoảng 419.000 ha và ở đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 43.000 ha. Trong gần 40 năm qua, quá trình hoang mạc hoá do cát di động rất nghiêm trọng, đặc biệt ở các vùng có thời tiết đặc biệt khô nóng vào mùa khô, lượng mưa trung bình hàng năm thấp, như ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ. Tác động của việc thoái hóa đất và giảm diện tích đất canh tác làm cho nước ta đang đứng trước những thử thách lớn phải giải quyết nhiều vấn đề nghiêm trọng về môi trường đất, nhằm bảo đảm sự an toàn lương thực và sự tồn tại của cả dân tộc với gần 100 triệu dân vào những năm 2010. b) Chuyển đổi sử dụng đất góp phần làm tăng suy thoái đất đai Công tác lập quy hoạch sử dụng đất đai hàng năm, 5 năm và 10 năm là cơ sở pháp lý để các cơ quan quản lý nguồn tài nguyên đất, tạo điều kiện cho vùng nông thôn thành lập các mô hình kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đồng thời góp phần khôi phục bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, diễn biến sử dụng đất còn nhiều bất cập, đặc biệt trong phát triển các khu công nghiệp, sử dụng đất nông nghiệp, đất rừng và phát triển sân gôn. 2Nguồn: Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2010 9 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  19. - Phát triển các khu công nghiệp Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, các khu công nghiệp đã phát triển nhanh chóng ở Việt Nam trong suốt hàng thập kỷ qua, đem lại lợi ích lớn cho đất nước, nhưng sự phát triển này cũng kéo theo nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết. Theo quy hoạch, thì đến năm 2010 cả nước sẽ có 443 KCN, với diện tích khoảng 61.485 ha (MPI, 2005a). Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng đất còn thấp, vì số KCN có diện tích cho thuê dưới 50% chiếm đến 55% tổng số KCN; số chưa cho thuê chiếm 19,3%(3). Hơn nữa, với chính sách khuyến khích đầu tư, tất cả các tỉnh đều thành lập những khu công nghiệp, nhiều khi tỷ lệ lấp đầy thấp gây lãng phí lớn về quỹ đất đai. Để thuận tiện cho hoạt động kinh doanh, các khu công nghiệp có xu thế nằm gần quốc lộ, tỉnh lộ, đồng thời cũng là những nơi bằng phẳng, là nguyên nhân làm mất một diện tích lớn đất nông nghiệp, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng, và đồng bằng sông Cửu Long. Những vùng đất nông nghiệp bị phân mảnh bị kẹt giữa các khu công nghiệp cũng không canh tác hiệu quả vì hệ thống thủy lợi cũng bị cắt sẻ. - Thực tiễn phát triển và sử dụng đất lâm nghiệp Trong gần 20 năm qua, Chính phủ đã nỗ lực rất lớn trong việc phục hồi và bảo vệ rừng. Từ những năm 1990 đến 2005, khoảng 2 triệu ha rừng được trồng mới (0,56 triệu ha trong khuôn khổ Chương trình 327/556 (giai đoạn 1993 - 1997), 1,55 triệu ha trong khuôn khổ Chương trình 661/5 triệu ha rừng (1998 - 2010), khoanh nuôi tái sinh 2 triệu ha rừng với mục tiêu là đến 2010 nâng độ che phủ của rừng lên 43% (MPI, 2005b). Tuy nhiên, mới đây, nhằm tăng hiệu quả kinh tế sử dụng đất rừng, Bộ NN&PTNT đã có chủ trương chuyển đổi 100.000 ha rừng nghèo kiệt ở vùng Tây Nguyên thành rừng cao su trong giai đoạn 2007 - 2010, riêng tỉnh Gia Lai là 51.000 ha, với mục đích góp phần phát triển kinh tế xã hội cho vùng đất đặc thù này, đặc biệt là nâng cao đời sống cho vùng đồng bào khó khăn với vốn đầu tư lên đến 2.000 tỷ đồng(4). Do chưa có những hướng dẫn cụ thể nên trên thực tế chính sách này của Chính phủ cũng gây ra nhiều vấn đề bất cập, và nhiều khu rừng tốt có thể cũng bị phá hủy. Hơn nữa, việc phát triển cà phê mạnh mẽ ở Tây Nguyên đòi hỏi một lượng nước tưới cho mùa khô, làm suy giảm lượng nước ngầm ở đây. Nếu kế hoạch chuyển đổi một diện tích lớn rừng tự nhiên, mà chủ yếu là rừng khộp, là loại rừng thích nghi với điều kiện khô hạn 6 tháng mùa khô, thành rừng cao su thì tình trạng suy kiệt nước ngầm của vùng này chắc chắn sẽ trầm trọng hơn. - Xây dựng các sân gôn cho hoạt động du lịch và phát triển kinh tế Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2008, hiện cả nước có 141 sân gôn ở 39 tỉnh, với 49.268 ha đất, trong đó có 2.625 ha là đất lúa đã bị trưng dụng, chuyển đổi mục đích. Nếu như trong suốt 16 năm, Thủ tướng chỉ cấp phép cho 34 dự án sân gôn thì chưa đầy hai năm (2006 - 2008), các địa phương sau khi phân cấp đã cấp phép cho 104 dự án, tập trung nhiều nhất ở Nam Trung bộ (27 sân), đồng bằng Bắc bộ (25 sân). Sự phát triển mạnh mẽ các khu sân gôn đã gây ra nhiều vấn đề môi trường và xã hội. Về khía cạnh môi trường, việc duy trì hoạt động của sân gôn cần dùng đến một lượng hóa chất khá lớn khoảng 1,5 tấn/năm, (gấp ba lần sử dụng cho nông nghiệp) để trừ sâu bệnh, nấm mốc cho các thảm cỏ và tiêu thụ mỗi ngày 10.000m3 nước cho sân gôn 36 lỗ là nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm nước cho các thủy vực và sử dụng thái quá tài nguyên nước. Về mặt xã hội, việc chuyển đổi hàng ngàn 3MPI, 2005a: trang 51. 4Theo Báo Lao động Online ngày 09/08/2008 và Báo Tuổi Trẻ Online ngày 09/05/2008. 10 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  20. ha đất nông nghiệp và lâm nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa, cho việc xây dựng các dự án sân gôn cũng làm cho nhiều nông dân mất đất sản xuất, tăng tỷ lệ thất nghiệp ở những nơi thực hiện dự án. c) Suy giảm diện tích đất nông nghiệp Ở Việt Nam, tuy đất nông nghiệp chiếm 28,4% diện tích đất tự nhiên, nhưng thời gian gần đây diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa, đã giảm đi nhanh chóng với mức độ đáng lo ngại. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2007, diện tích đất trồng lúa đã giảm 361.935 ha (bình quân mỗi năm giảm gần 51.705 ha), trong đó, vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đã giảm 257.413 ha (71,1% diện tích giảm). Diện tích đất nông nghiệp giảm đi này chủ yếu là do quá trình đô thị hóa, phát triển các khu công nghiệp, đường giao thông, sân gôn và các cơ sở hạ tầng khác. Một thách thức khác là diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người rất thấp, xếp thứ 159 trong tổng số 200 nước trên thế giới và bằng 1/6 bình quân trên thế giới. Năm 1940, đất canh tác bình quân/người ở nước ta là 0,2 ha, năm 1960 là 0,16 ha, năm 1970 là 0,13 ha, năm 1992 là 0,11 ha và năm 2000 là 0,10 ha, và còn tiếp tục giảm xuống do dân số còn tăng. Trong mấy năm gần đây, trung bình hàng năm có khoảng 72.000 ha đất nông nghiệp được chuyển đổi sử dụng. Do đó, dù năng suất lúa tăng bình quân hơn 2%/năm, nhưng sản lượng lúa tăng không đáng kể, ảnh hưởng đến bảo đảm an ninh lương thực. Vì vậy, để ngăn chặn sự suy giảm diện tích nông nghiệp, Bộ NN & PTNT đã có kiến nghị bằng mọi giá phải duy trì được 3,5 triệu ha trồng lúa để bảo đảm an ninh lương thực. 3. Ô nhiễm không khí ở khu đô thị và khu công nghiệp Trong vài chục năm vừa qua, kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng với tăng trưởng GDP trung bình khoảng 7% và hiện nay Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, với trên 1000 USD/người vào năm 2009. Quá trình đô thị hóa tăng nhanh với khoảng 22% dân số đô thị. Tuy nhiên, dân số đô thị ngày càng nhiều, công nghiệp ngày càng phát triển thì chất thải ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, đặc biệt là ô nhiễm không khí. Các nguồn gây ô nhiễm chính đối với không khí đô thị bao gồm hoạt động giao thông vận tải, các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và các hoạt động xây dựng, trong đó ô nhiễm do giao thông chiếm tỷ lệ khoảng 70%. Xét các nguồn thải gây ô nhiễm không khí trên toàn quốc (bao gồm đô thị và khu vực khác) ước tính cho thấy hoạt động giao thông đóng góp tới gần 85% lượng khí CO2 95% lượng khí dễ bay hơi (các hợp chất hữu cơ bay hơi - VOC), trong khi đó các hoạt động công nghiệp đóng góp chính khí SO2. Đối với NO2, giao thông và công nghiệp có tỷ lệ đóng góp tương đương nhau. Trong các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp cũ, bao gồm cả các khu tiểu thủ công nghiệp và làng nghề (thường được xây dựng trước năm 1975), thường là công nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, ít có thiết bị xử lý khí thải độc hại nên là một trong những nguồn chính gây ô nhiễm không khí hiện nay. Các ngành công nghiệp mới, phần lớn phân bố ở trong các khu công nghiệp, tuy được cung cấp các trang thiết bị xử lý chất thải, nhưng với nguồn thải lớn và tập trung nên quản lý môi trường các khu công nghiệp không tốt sẽ tác động xấu đến môi trường của các khu dân cư xung quanh. Thứ tự các ngành công nghiệp gây ra ô nhiễm không khí là: nhiệt điện, sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng, khai thác mỏ, công nghiệp hóa chất, công nghiệp phân bón, luyện kim, giấy, đường, thực phẩm và các ngành công nghiệp khác. 11 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  21. Các hoạt động giao thông vận tải, chủ yếu do các loại xe máy và ô tô, đã trở thành một nguồn gây ô nhiễm không khí chính ở các đô thị, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng. Nạn tắc nghẽn giao thông trong những năm gần đây ở các đô thị này cũng làm cho ô nhiễm không khí trong đô thị trở nên trầm trọng hơn. Các hoạt động xây dựng nhà cửa, cầu cống, đường sá diễn ra rất mạnh mẽ ở khắp nơi, đặc biệt là ở các khu đô thị. Các hoạt động xây dựng như đào lấp đất, đập phá công trình cũ, vật liệu xây dựng bị rơi vãi trong quá trình vận chuyển, thường gây ô nhiễm bụi trầm trọng đối với môi trường không khí xung quanh. Kết quả đo lường thực tế cho thấy khoảng 60 - 70% lượng bụi trong không khí đô thị là bụi sinh ra từ hoạt động xây dựng. Mức ô nhiễm về bụi và các khí thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, đặc biệt là tại một số thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, vượt tiêu chuẩn cho phép đến 2-3 lần. 4. Ô nhiễm do chất thải rắn Chất thải rắn được sinh ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động đời sống của con người, từ 0,8 đến 1,2 kg/người/ngày ở đô thị lớn, 0,5 - 0,7 kg/người/ngày ở các đô thị nhỏ. Mỗi năm có khoảng 15 triệu tấn chất thải rắn được tạo ra, 80% trong số đó là từ các hộ gia đình, nhà hàng, chợ và khu thương mại. 12.8 triệu tấn chất thải rắn trong nước, trong đó 6.9 triệu tấn từ các khu vực thành thị được thải ra mỗi năm. Tổng chất thải rắn từ các khu công nghiệp khoảng 2,7 triệu tấn mỗi năm. Khoảng 160.000 tấn (chiếm khoảng 1% tổng số) mỗi năm là chất thải rắn nguy hại. 77% lượng chất thải rắn ở các khu đô thị Việt Nam không được xử lý đúng tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Nhiều bãi rác và bãi đổ phế thải hiện được coi là mối nguy hiểm về tác động môi trường cho người dân xung quanh. Chỉ 17 trong số 91 bãi đổ rác tại các đô thị Việt Nam đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Môi trường công nghiệp, nhất là ở các khu công nghiệp cũ, các ngành hóa chất, luyện kim, xi măng, chế biến đang bị ô nhiễm do chất thải rắn, nước thải, khí thải và các chất thải nguy hại chưa được xử lý theo đúng quy định. Các cơ sở công nghiệp trong nước chủ yếu có quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu (chỉ có khoảng 20% xí nghiệp cũ đã đổi mới công nghệ). Khoảng 90% cơ sở sản xuất cũ chưa có thiết bị xử lý nước thải. Hiện nay, đã hình thành nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, nhưng chỉ có khoảng 1/3 trong số đó đã xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và rất ít khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Trong khi đó, việc thu gom, xử lý chất thải rắn đô thị, khu công nghiệp và vùng nông thôn vẫn đang còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, với tỷ lệ thu gom tăng từ 40- 67% lên đến 70 - 75% (ở các thành phố lớn), khoảng 20 - 35 % (ở đô thị nhỏ), trung bình khoảng 55% (toàn quốc). Ở nông thôn, tỉ lệ thu gom chất thải rắn ước đạt 10 -15%. Lượng chất thải rắn dự báo sẽ tăng lên nhiều trong tương lai. Đến năm 2010, dự báo dân số đô thị sẽ là khoảng 30 triệu hoặc cao hơn, sản xuất và tiêu thụ cũng sẽ tăng đáng kể. Tỷ lệ thu hồi chất thải rắn có khả năng tái chế khoảng 13 - 20%, trong đó khoảng 1,5 - 5% tổng lượng chất thải hữu cơ được chuyển hoá thành phân vi sinh. Hiện nay có 32/61 đô thị trong cả nước có dự án đầu tư xây dựng bãi chôn lấp hợp vệ sinh, trong đó có 13 đô thị đã khởi công xây dựng. 5. Thiếu nước và ô nhiễm nước a) Thực trạng tài nguyên nước Việt Nam có mạng lưới sông ngòi dày đặc, trong đó có 13 hệ thống sông lớn có diện tích trên 10.000 km². Tài nguyên nước mặt tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy 12 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  22. của các sông trên thế giới. Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km³, chiếm tới 59% tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả nước, hệ thống sông Hồng 126,5 km³ (14,9%), hệ thống sông Đồng Nai 35,3 km³ (4,3%), sông Mã, Cả, Thu Bồn có tổng lượng dòng chảy xấp xỉ nhau, khoảng 9 km³ (1%), các sông còn lại là 94,5 km³ (11,1%)(5). Ngoài hệ thống sông, Việt Nam có khoảng 3.600 hồ chứa với kích thước khác nhau, trong đó chưa đến 15% là các hồ cỡ vừa và lớn. Ngoài ra Việt Nam có rất nhiều hồ tự nhiên, một trong những hồ lớn phải kể đến là Ba Bể. Tài nguyên nước ngầm của Việt Nam khá dồi dào với tổng trữ lượng tiềm năng khai thác được ước tính 60 tỷ m³ mỗi năm, nhưng dao động từ mức rất nhiều ở vùng ĐBSCL đến khá khan hiếm ở Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên, tính chung cho cả nước chỉ chưa đầy 5% tổng trữ lượng được khai thác. Tài nguyên nước mặt và nước ngầm là nguồn tài nguyên quý giá, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, tài nguyên nước ở Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó đáng kể nhất là tình trạng suy kiệt và ô nhiễm trên diện rộng. b) Suy kiệt nguồn nước Theo số liệu thống kê, tổng trữ lượng nước mặt của Việt Nam đạt khoảng hơn 830-840 tỷ m³, trong đó hơn 60% lượng nước được sản sinh từ nước ngoài(6). Tình trạng suy kiệt nguồn nước trong hệ thống sông, hồ chứa trên cả nước đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do khai thác quá mức tài nguyên nước và ảnh hưởng của BĐKH. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế về tài nguyên nước, ngưỡng khai thác được phép giới hạn trong phạm vi 30% lượng dòng chảy. Thực tế hiện nay, hầu hết các tỉnh miền Trung và Tây nguyên đã và đang khai thác trên 50% lượng dòng chảy. Riêng tại tỉnh Ninh Thuận, hiện các dòng chảy đã bị khai thác tới 70-80%. Việc khai thác nguồn nước đã làm suy thoái nghiêm trọng về số lượng và chất lượng tài nguyên nước trên các lưu vực sông lớn của Việt Nam như sông Hồng, Thái Bình và sông Đồng Nai. Do ảnh hưởng của BĐKH, ở Việt Nam mùa mưa và lưu lượng mưa đang có xu hướng diễn biến thất thường nên hạn hán hoặc úng ngập cục bộ xảy ra thường xuyên và trên diện rộng hơn. Sự suy kiệt và diễn biến thất thường của các nguồn tài nguyên nước phản ánh thực tế Việt Nam đã và đang đứng trước nguy cơ thiếu nước về mùa khô, lũ lụt về mùa mưa gây nhiều thiệt hại về người và của trên nhiều vùng. c) Ô nhiễm nguồn nước Môi trường nước hiện nay bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là theo các lưu vực sông và ở các khu đô thị, khu công nghiệp. 5Nguồn: Cục Quản lý Tài nguyên Nước (Báo cáo môi trường Quốc gia năm 2010) 6Theo 13 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  23. - Ô nhiễm theo lưu vực sông Nước mặt ở tất cả các lưu vực sông không thỏa mãn tiêu chuẩn nước uống vì bị ô nhiễm hữu cơ. Hàm lượng bình quân BOD5 vượt quá tiêu chuẩn Việt Nam loại A ở hầu hết các sông, lớn hơn từ 1,2 đến 2 lần so với tiêu chuẩn. Các sông có giá trị hàm lượng này cao là Trà Khúc, Gianh, Đồng Nai, Hồng - Thái Bình và Cửu Long (gấp 2–3 lần tiêu chuẩn) còn các sông Kone, Srê Pốk và Ba có hàm lượng này thấp. Cũng có một số điểm nóng như tiểu lưu vực sông Nhuệ - Đáy và đoạn sông Sài Gòn chảy qua các khu dân cư, nơi có hàm lượng BOD5 gấp 12,5 lần tiêu chuẩn loại A. Ô nhiễm hữu cơ nói chung ở trong phạm vi của tiêu chuẩn loại B (trừ các điểm nóng) (ADB, 2009). Chất hữu cơ và Chất rắn lơ lửng (SS) là những nguồn ô nhiễm chính trong nhiều sông. Tuy nhiên, nếu nói về các chất ô nhiễm cần quan tâm thì một số hoá chất và kim loại nặng từ hoạt động công nghiệp, khai khoáng là hết sức quan trọng vì tác động của chúng tới sức khoẻ con người và hệ sinh thái. Liên quan đến các chất độc hại còn có phân bón, thuốc trừ sâu sử dụng trong nông nghiệp. Bốn trong số 10 tỉnh có sự ô nhiễm nước lớn nhất thuộc lưu vực sông Đồng Nai. Ba lưu vực sông có vấn đề ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng đã được quan tâm đặc biệt là lưu vực sông Cầu, Nhuệ - Đáy và Đồng Nai. Mức độ ô nhiễm nước tại các nhánh sông vùng hạ lưu lưu vực sông Đồng Nai là cao nhất trong cả nước. Sông Thị Vải ô nhiễm nặng nhất trong lưu vực, với đoạn sông “chết” dài hơn 10km. Lưu vực sông Nhuệ - Đáy cũng bị ô nhiễm nặng tại nhiều nơi. Ngay cả trong mùa mưa, các chỉ tiêu BOD5, DO, NH4+, và coliform không đạt tiêu chuẩn môi trường TCVN loại B. Đối với lưu vực sông Cầu, đoạn sông Cầu chảy qua thành phố Thái Nguyên bị ô nhiễm nặng. Hàm lượng SS, BOD5 và COD vượt TCVN (loại A) nhiều lần, nước sông có chứa các hợp chất hữu cơ và dầu mỡ. Nhiều nơi khác trong tiểu lưu vực sông này cũng bị ô nhiễm, đặc biệt là bởi chất hữu cơ (ADB, 2009). - Ô nhiễm nước ở các khu đô thị Mỗi năm ước tính khoảng 15 triệu m3 chất thải rắn được thải ra – khoảng 80% đến từ các hộ gia đình, nhà hàng, chợ và các khu vực thương mại. 77% lượng chất thải rắn tại các khu đô thị Việt Nam được xử lý không đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường. Chỉ 17 trong số 91 bãi thải ở các khu đô thị Việt Nam đạt tiêu chuẩn vệ sinh (ADB, 2009). Theo báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2006, các tỉnh thành bị ô nhiễm môi trường nước nhiều nhất được sắp xếp theo thứ tự sau: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Hải Phòng, Đồng Nai. Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Nhiều cơ sở sản xuất và cơ sở y tế lớn không xử lý nước thải, một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng. Đối với thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải lên tới 300.000 - 400.000 m³/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m³/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời (Bản tin VOV online). Những thành phố khác 14 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  24. như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý, độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiểu chuẩn cho phép. Ô nhiễm nước mặt, đặc biệt là nồng độ ô nhiễm các chất hữu cơ có chiều hướng gia tăng, nguyên nhân chủ yếu là hầu hết nước thải đô thị và công nghiệp chưa được xử lý, thải thẳng vào ao hồ, sông ngòi. Mới chỉ 3% nước thải đô thị được xử lý, 100% đô thị không có hệ thống xử lý nước thải tập trung, chỉ có khoảng 20/82 khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải. Phần lớn các sông ngòi chảy qua khu vực đô thị và công nghiệp chỉ đạt tiêu chuẩn nước loại B (trước năm 1975 rất nhiều sông còn đạt tiêu chuẩn loại A). Sông ngòi nằm trong đô thị, đặc biệt là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng bị ô nhiễm nặng hơn, nhiều sông ngòi, kênh rạch đã bốc mùi hôi thối, hay trở thành sông chết. - Ô nhiễm nước ở khu công nghiệp và làng nghề Đến năm 2010, các hoạt động công nghiệp dự báo sẽ đóng góp 45% cho GDP toàn quốc. Năm 2007, có 154 cơ sở công nghiệp (không tính các khu và các cụm công nghiệp của các tỉnh và địa phương) trong đó 97 cơ sở công nghiệp ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình, Đồng Nai và hệ thống lưu vực sông Đồng Nai. Gần một nửa tổng lượng nước sử dụng cho công nghiệp là ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình, 25% ở lưu vực sông Đồng Nai, 7% ở hệ thống sông Đồng Nai và 10% ở lưu vực sông Cửu Long. Mặc dù trên toàn quốc có 154 khu công nghiệp và các khu chế xuất nhưng chỉ có 43 nhà máy xử lý nước thải tập trung. Khoảng một nửa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nằm ngoài các khu công nghiệp, có rất ít hoặc không có hệ thống xử lý nước thải. Năm 2006, ước tính có 2.803 doanh nghiệp công nghiệp trên phạm vi toàn quốc xả ra trên 155 triệu m3 nước thải mỗi năm tương đương 850.000 m³/ngày. Lượng nước thải mỗi ngày chưa qua xử lý trên toàn Việt Nam tương đương với lượng nước trong 340 bể bơi Olympic. Các làng nghề đã có sự phát triển ấn tượng, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình, nơi tập trung 60% làng nghề trên cả nước. Năm 2002, ước tính cả nước có trên 2.000 làng nghề, với khoảng 40.500 doanh nghiệp, trong đó khoảng 80% là kinh doanh hộ gia đình có 1 đến 3 nhân công. Làng nghề là nơi ẩn chứa các rủi ro sức khoẻ nghề nghiệp và ô nhiễm cao. Hầu hết các hộ gia đình trong làng đều sử dụng nhà và vườn làm nơi sản xuất và xả trực tiếp chất thải vào môi trường xung quanh. Điều này ảnh hưởng trực tiếp không chỉ nước mặt mà cả nước ngầm, ảnh hưởng đến nguồn nước uống của các làng. Ô nhiễm nguồn nước từ các làng nghề là một vấn đề hết sức nghiêm trọng và ngày càng gia tăng (ADB, 2009). - Ô nhiễm nước ở vùng nông thôn Ở Việt Nam, dân số nông thôn chiếm khoảng gần 76% dân số toàn quốc và sinh sống trên một diện tích rộng lớn với 90% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Vệ sinh môi trường nông thôn còn nhiều bất cập, đặc biệt là nước sạch cho sinh hoạt, sử dụng hoá chất trong nông nghiệp và thu gom, sử dụng phân gia súc. Tập quán sinh hoạt không hợp vệ sinh của nhiều nhóm dân cư là một trong những nguyên nhân gây bệnh tật khá phổ biến ở nông thôn Việt Nam. Vệ sinh phân, rác thải cần được xem là một trong những tiêu chí quan trọng để xem xét đánh giá sự đổi mới “làng xã trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam”. 15 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  25. Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng ở nông thôn Việt Nam còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân dân. Chính vì vậy, ở vùng nông thôn, việc mở rộng mạng lưới cấp nước và vệ sinh là một nội dung quan trọng trong công cuộc chống đói nghèo. Với người nghèo ở nông thôn Việt Nam, được tiếp cận nước sạch và vệ sinh là cả một vấn đề. Năm 2005, có trên 60 triệu dân sinh sống ở nông thôn. Trong số 20% người nghèo nhất, chỉ có 22% được dùng nước sạch so với 78% của 20% những người giàu nhất. Về vệ sinh, trong số 20% số người nghèo nhất chỉ có 2% được tiếp cận điều kiện vệ sinh so với tỉ lệ 20% ở người giàu. Tỷ lệ cấp nước hợp vệ sinh nông thôn toàn quốc (theo tiêu chuẩn truyền thống của Bộ NN&PTNT) ước tính đạt xấp xỉ 66% và tỉ lệ nhà vệ sinh đạt yêu cầu là 50%; khoảng 70% các trường học, nhà trẻ và mẫu giáo đạt tiêu chuẩn; 58% trạm y tế xã và 17% chợ nông thôn được sử dụng nước sạch và có nhà vệ sinh đạt yêu cầu. Tuy nhiên, nếu theo tiêu chuẩn nước sạch của Bộ Y tế thì chỉ khoảng 25% dân số nông thôn được dùng nước sạch tại nhà và tỉ lệ được tiếp cận điều kiện vệ sinh còn thấp hơn. Nói cách khác, đến cuối năm 2006 khoảng 21 triệu người sống ở nông thôn không được sử dụng nước “hợp vệ sinh” và 42 triệu người không được dùng “nước sạch” (ADB, 2009). 6. Tác động của suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường a) Tác động của suy thoái tài nguyên lên sinh kế của người dân Mối liên quan giữa suy thoái tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên rừng lên cuộc sống của người dân tộc miền núi, đã được nhiều nghiên cứu xem xét và đánh giá. Hiện nay, ước tính hơn 24 triệu người trong cộng đồng 54 dân tộc khác nhau sống ở vùng miền núi, chiếm ¾ diện tích tự nhiên và cũng là nơi còn lưu giữ hệ sinh thái rừng phong phú. Cuộc sống của hầu hết những người dân tộc miền núi phụ thuộc vào đất đai để canh tác nông nghiệp, thậm chí cả bằng phương thức canh tác nương rẫy, phụ thuộc vào sản phẩm rừng như gỗ, tre nứa để làm nhà, củi để đun nấu, phụ thuộc vào hệ sinh thái rừng để duy trì nguồn nước sinh hoạt, phụ thuộc vào môi trường rừng để tiến hành những văn hóa truyền thống của mình. Khi rừng bị suy thoái và mất đi, kèm theo đó là đất đai bị suy thoái, lũ lụt và hạn hán xảy ra thường xuyên hơn, và kết quả là cuộc sống của họ bị đe dọa. Đấy cũng là một trong những lý do chính mà hàng ngàn người dân tộc thiểu số (Tày, H’Mông ) đã di cư tự do vào vùng Tây Nguyên để sinh sống khi tài nguyên đất đai và rừng ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc bị suy thoái kiệt quệ vào những năm thập niên 90 của thế kỷ trước. Một nghịch lý nữa là những vùng miền núi còn giữ được những hệ sinh thái rừng quý giá lại là những nơi có tỷ lệ nghèo đói cao nhất. b) Tác động của ô nhiễm môi trường lên sức khỏe của cộng đồng Chất lượng của môi trường, trong đó có môi trường đất, nước và không khí, có tác động rất lớn đến sức khỏe của con người không những bởi điều kiện tự nhiên mà còn bởi điều kiện kinh tế - xã hội. Theo Tổ chức Y tế thế giới: Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội. Mỗi điều kiện và hiện tượng của môi trường bên trong hay bên ngoài đều tác động đến sức khỏe. Có sức khỏe tức là có sự thích ứng của cơ thể với môi trường, ngược lại bệnh tật là biểu hiện sự không thích ứng. Như vậy, sức khỏe là một tiêu chuẩn của sự thích ứng của cơ thể con người và cũng là một tiêu chuẩn của môi trường. Trạng thái sức khỏe của một cá nhân, của cộng đồng phản 16 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  26. ánh phần nào hiện trạng chất lượng nước, không khí, thức ăn, nhà ở và tiện nghi sinh hoạt. Khi môi trường bị ô nhiễm, tức là không khí, đất, nước trong môi trường sống của chúng ta ẩn chứa những chất độc nguy hiểm cho sức khỏe con người. Chất nguy hiểm là những chất khi xâm nhập vào cơ thể gây ra các biến đổi sinh lý, sinh hóa, phá vỡ thế cân bằng sinh học, gây rối loạn chức năng sống bình thường dẫn đến trạng thái bệnh lý của các cơ quan, hệ thống và toàn bộ cơ thể. Từ những năm đầu của thập niên 50, trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu về những ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe con người. Các nhà y học thế giới cho rằng 80% các loại bệnh tật của con người đều liên quan tới ô nhiễm môi trường. Trong vòng 30 năm qua, có khoảng 40 triệu bệnh mới đã phát sinh và đều có nguồn gốc từ ô nhiễm môi trường(7). - Tác hại của ô nhiễm không khí Ô nhiễm không khí có những ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người, đặc biệt là đối với đường hô hấp. Kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy, khi môi trường không khí bị ô nhiễm, sức khỏe con người bị suy giảm, quá trình lão hóa trong cơ thể bị thúc đẩy, chức năng của phổi bị suy giảm; gây bệnh hen suyễn, viêm phế quản; gây bệnh ung thư, suy nhược thần kinh, tim mạch và làm giảm tuổi thọ con người. Các nhóm cộng đồng dân cư chịu tác động lớn nhất là người cao tuổi, phụ nữ mang thai, trẻ em, những người lao động ngoài trời Theo thống kê của Bộ Y tế, trong những năm gần đây các bệnh về đường hô hấp có tỷ lệ mắc cao nhất trên toàn quốc là bệnh viên phổi; viêm họng và viêm amidan cấp; viêm phế quản và viêm tiểu phế quản. Nguyên nhân chủ yếu là do ô nhiễm không khí (8). - Tác hại của ô nhiễm nguồn nước Ảnh hưởng của ô nhiễm nước đối với sức khỏe con người có thể thông qua hai con đường: một là do ăn uống phải nước bị ô nhiễm hay các loại rau quả và thủy hải sản được nuôi trồng trong nước bị ô nhiễm; hai là do tiếp xúc với môi trường nước bị ô nhiễm trong quá trình sinh hoạt và lao động. Theo thống kê của Bộ Y tế, gần một nửa trong số 26 bệnh truyền nhiễm có nguyên nhân liên quan tới nguồn nước bị ô nhiễm. Điển hình nhất là bị tiêu chảy cấp. Ngoài ra, có nhiều bệnh khác như tả, thương hàn, các bệnh về đường tiêu hóa, viêm gan A, viêm não, ung thư - Tác hại của ô nhiễm đất và chất thải rắn Dư thừa đạm trong đất hoặc trong cây đều gây nên những tác hại đối với môi trường và sức khỏe con người. Do bón dư thừa hoặc do bón đạm không đúng cách đã làm cho Nitơ và phốt pho theo nước xả xuống các thủy vực là nguyên nhân gây ra phù dưỡng – ô nhiễm cho các nguồn nước. Đạm dư thừa bị chuyển thành dạng Nitrat (N03) hoặc Nitrit (N02) là những dạng gây độc trực tiếp cho các động vật thủy sinh. Đặc biệt gây hại cho sức khỏe con người thông qua việc sử dụng các nguồn nước hoặc các sản phẩm trồng trọt là các loại rau quả ăn tươi có hàm lượng dư thừa Nitrat với hai khả năng sau: Gây nên hội chứng trẻ xanh (Methaemoglobinamia – tắc nghẽn vận chuyển ôxy trong cơ thể trẻ em) và ung thư dạ dầy ở người lớn. 7Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2010 8Xem tại: 17 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  27. c) Tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam có thể phải chịu tổn thất do ô nhiễm môi trường lên tới 5,5% GDP hàng năm. Như vậy, nền kinh tế mất khoảng 3,9 tỷ USD trong 71 tỷ USD của GDP trong năm 2007 và khoảng 4,2 tỷ USD trong ước tính 76 tỷ USD của GDP trong năm 2008. Cũng theo đánh giá của WB, mỗi năm ở Việt Nam thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực sức khỏe cộng đồng vì ô nhiễm môi trường. - Thiệt hại kinh tế do gia tăng gánh nặng bệnh tật Thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến sức khỏe bao gồm các khoản chi phí: chi phí khám và thuốc chữa bệnh, tổn thất mất ngày công lao động do nghỉ ốm, tổn thất thời gian của người nhà chăm sóc người ốm Theo kết quả điều tra tại Phú Thọ và Nam Định, ước tính thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí tác động đên sức khỏe trung bình trên đầu người mỗi năm là 295.000 đồng(9). Còn theo kết quả điều tra tính đến tháng 12/2010, tổng chi phí khám chữa bệnh đường hô hấp, thiệt hại kinh tế do nghỉ việc vì ốm đau đối với người lớn và chi phí nghỉ việc để chăm sóc trẻ em cũng như người lớn bị mắc bệnh đường hô hấp (chưa tính đến thiệt hại chết non do ô nhiễm không khí) đối với dân cư nội thành Hà Nội là 1.538 đồng/người/ngày, đối với dân cư nội thành thành phố Hồ Chí Minh là 729 đồng/người/ngày(10). Từ số liệu này, có thể quy đổi tổng thiệt hại về kinh tế do mắc các bệnh đường hô hấp ở Hà Nội (tính với 2,5 triệu dân nội thành) là 66,83 triệu đô la Mỹ/năm và ở thành phố Hồ Chí Minh (tính 5,6 triệu dân nội thành) là 70,96 triệu đô la Mỹ/năm. - Thiệt hại kinh tế do ảnh hưởng đến thủy sản và nông nghiệp Ô nhiễm môi trường nước là nguyên nhân chủ yếu gây ra thiệt hại đối với ngành thủy sản; ô nhiễm môi trường không khí, nước mặt, đất gây ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp và cây trồng. Theo số liệu thống kê, sản lượng nuôi trồng thủy sản (đặc biệt nuôi cá bè trên sông) đã bị giảm sút nhiều do vấn đề ô nhiễm nước mặt. Ví dụ, các vụ cá bè chết hàng loạt vào những năm 2008 và 2010 tại Đồng Nai và trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy trong những năm gần đây. Nước mặt sông hồ, kênh mương là nguồn tưới tiêu chính trong hoạt động nông nghiệp. Khi chất lượng nước của hệ thống này bị ô nhiễm gây ra những tác động không nhỏ tới hoạt động nông nghiệp tại các khu vực nông thôn. Khí thải tại các khu vực sản xuất công nghiệp đặc biệt tại các cơ sở công nghiệp nhỏ, làng nghề ở khu vực nông thôn, chưa qua xử lý có nồng độ cao các chất độc hại như C02, Nox, SO2 cũng gây thiệt hại tới năng suất cây trồng và kinh tế(11). Ngoài ra ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng tới hoạt động du lịch; thiệt hại kinh tế do chi phí cải thiện môi trường và góp phần tăng nguy cơ phát sinh xung đột môi trường. 9Dự án “Điều tra, thống kê, đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe cộng đồng” (Cục BVMT (2007), Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010 10Kết quả điều tra của Đề tài “Nghiên cứu đánh giá tổng thể ảnh hưởng sức khỏe và thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí đô thị” , Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2010. 11Nguồn: Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2010 18 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  28. III. Nỗ lực của nhà nước Việt Nam trong giải quyết những vấn đề tài nguyên và môi trường theo hướng bền vững 1. Xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp luật đồng bộ để giải quyết những vấn đề tài nguyên và môi trường Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo quan trọng để định hướng cho công tác BVMT nói chung cũng như sự phát triển của hệ thống pháp luật về BVMT nói riêng, như Chỉ thị số 36 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1998) và Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (2004). Hệ thống pháp luật về BVMT đang từng bước được hoàn thiện theo hướng tiếp cận với các mục tiêu của phát triển bền vững. Năm 1993, Luật BVMT đã được Quốc hội thông qua, trở thành đạo luật đầu tiên trong hệ thống pháp luật nước ta về BVMT. Kể từ thời điểm này, công tác BVMT đã có những bước chuyển biến quan trọng. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về BVMT đã được thành lập và phát triển tới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hàng loạt các văn bản pháp luật về BVMT đã được ban hành thể hiện sự quan tâm, chú trọng của Đảng và Nhà nước tới công tác này trong quá trình thực hiện phát triển bền vững, như Nghị định Hướng dẫn Thi hành Luật BVMT (1994), sửa đổi (2004); Nghị định về xử lý Vi phạm Hành chính trong lĩnh vực Môi trường (1996, sau thay thế vào năm 2004); Nghị định về Bảo tồn và Phát triển Bền vững các vùng đất ngập nước (2003); Nghị định về phí BVMT đối với Nước thải (2003); Nghị định về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu và quá cảnh các loài động vật, thực vật hoang dã (2002); Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch Quốc gia kiểm soát Ô nhiễm Môi trường đến năm 2010 (2005). - Luật Tài nguyên Nước được Quốc hội thông qua vào năm 1998 và có hiệu lực từ 1/1999. Điểm đặc biệt của Luật Tài nguyên Nước là cách tiếp cận quản lý tài nguyên nước mang tính liên ngành, và phối hợp thông qua việc thành lập Hội đồng Quốc gia về Tài nguyên nước ở cấp quốc gia và các Ban quản lý và quy hoạch lưu vực ở cấp địa phương. - Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt Chiến lược BVMT Quốc gia đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (2003); Quyết định ban hành Định hướng Chiến lược phát triển Bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) (2004), và Quyết định ban hành Chương trình Hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về BVMT (2005). - Năm 2005, Luật BVMT sửa đổi đã được Quốc hội thông qua nhằm luật hoá các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về BVMT và phát triển bền vững (như bổ sung thêm việc thực hiện đánh giá tác động môi trường chiến lược đối với các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia, ngành, lĩnh vực; quy định rõ ràng và chi tiết việc phân công, phân nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước về môi trường theo hướng tăng cường trách nhiệm cho các Bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp; Chi tiết hóa các điều luật nhằm dễ áp dụng trong quản lý và BVMT trong thực tiễn). - Liên quan đến lĩnh vực tài nguyên sinh học và đa dạng sinh học, nhiều văn bản pháp lý đã được biên soạn và ban hành. 19 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  29. - Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam (BAP) được soạn thảo và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22 tháng 12 năm 1995. BAP được xây dựng trong bối cảnh Chính phủ Việt Nam đã ký Công ước Quốc tế Đa dạng sinh học vào năm 1993 và được Quốc hội thông qua năm 1994. Kể từ khi ban hành đến nay, BAP là văn bản có tính pháp lý và là kim chỉ nam cho hành động của Việt Nam trong việc bảo vệ đa dạng sinh học ở tất cả các cấp từ Trung ương đến địa phương, các ngành và các đoàn thể. - Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng được Quốc hội thông qua ngày 3 tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 2005. Đây là một đạo luật quan trọng, thể hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luật này đã bổ sung, điều chỉnh và thay thế cho Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng năm 1991. - Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ ký ngày 5/2/2007, theo đó, đến năm 2020, sẽ thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng bền vững 16,24 triệu ha đất quy hoạch cho lâm nghiệp; nâng tỷ lệ đất có rừng lên 42 - 43% vào năm 2010 và 47% vào năm 2020. - Năm 2008, Luật Đa dạng sinh học đã được Quốc hội thông qua, và có hiệu lực từ tháng 7/2009, với 8 chương, 78 điều. Bộ luật được đánh giá là đầy đủ và thống nhất về đa dạng sinh học như các quy định về hệ sinh thái, bảo tồn - phát triển bền vững các loài sinh vật và tài nguyên di truyền. 2. Thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia có liên quan để phục hồi tài nguyên, BVMT. a) Bảo vệ rừng và phục hồi đất đai - Chương trình 327 (1993-1997) với mục đích phủ xanh đất trống đồi núi trọc, khai thác bãi bồi ven biển, nuôi trồng thủy sản bằng biện pháp trồng, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng Quyết định 556 (1995) bổ sung 327 về tạo mới rừng phòng hộ và đặc dụng (từ năm 1995). Chương trình đã đầu tư khoảng 2.300 tỷ đồng cho phát triển và bảo vệ rừng để bảo vệ 6,79 triệu ha rừng, khoanh nuôi tái sinh gần 1 triệu ha, trồng 560.000 ha. - Chương trình 661/5 triệu ha rừng (1998-2010): Mục tiêu là đẩy mạnh tốc độ trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ rừng hiện có và trồng mới, đưa tỷ lệ che phủ của rừng lên 43% (cụ thể trồng 2 triệu ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng (1 triệu trồng mới), khoanh nuôi tái sinh 1 triệu ha, trồng 3 triệu ha rừng sản xuất). 5.900 tỷ đồng (1998-2005) đã chi để trồng mới 1,55 triệu ha rừng (63% kế hoạch), có 0,77 triệu ha rừng sản xuất (26% kế hoạch) (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2006). - Nghị định 02 (1994), Nghị định 196 (1999) về giao đất và cho thuê đất lâm nghiệp nhằm mục đích sử dụng hiệu quả đất rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng, bảo đảm mỗi mảnh đất, khoảng rừng có chủ quản lý cụ thể. Năm 2002, 12,8 triệu ha đã giao (70,4% diện tích lâm nghiệp), trong đó doanh nghiệp Nhà nước là 4,5 triệu ha, hộ gia đình, tập thể là 4,8 triệu, còn lại là các ban quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. b) Phát triển nông thôn gắn với bảo vệ rừng Một trong những chính sách kinh tế lớn, góp phần ổn định cuộc sống của đồng bào dân tộc là chương trình định canh, định cư được triển khai từ năm 1968 để giảm áp lực canh tác nương rẫy lên rừng. 20 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  30. - Nghị quyết 38/CP (1968) về cuộc vận động định canh, định cư cho đồng bào dân tộc, với mục đích chuyển đồng bào dân tộc còn du canh, du cư sang định canh định cư. Cuộc vận động này thực hiện trong 40 năm ở miền Bắc và hơn 30 năm ở miền Nam. Nghị quyết 22/ TW (1989) tiếp tục công tác định canh, định cư gắn với việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương. - Trong khoảng 10 năm gần đây, công tác định canh, định cư thường gắn với các chương trình phát triển kinh tế cho các xã khó khăn (135), xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ miền núi (134), Chương trình trồng rừng (327/661) và các chương trình kinh tế - xã hội khác. c) Xóa đói giảm nghèo Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội này bao gồm các chương trình xóa đói giảm nghèo 135, 134 và Chương trình giảm nghèo bền vững cho 62 huyện trong toàn quốc. - Chương trình 135, hay còn gọi là Chương trình phát triển kinh tế - xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, thực hiện theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ theo hai giai đoạn. Chương trình 135 giai đoạn 1 (1997-2006) và giai đoạn 2 (2006-2010) có mục tiêu phát triển sản xuất, cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, phát triển cơ sở hạ tầng cho 1.870 xã đặc biệt khó khăn. Giai đoạn 1 có nguồn kinh phí khoảng 10 nghìn tỷ đồng và Giai đoạn 2 với khoảng 12 nghìn tỷ đồng, đã xây dựng và đưa vào sử dụng hơn 37 nghìn công trình thiết yếu các loại, góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn miền núi, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân địa phương. - Chương trình 134, hay còn gọi là Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, thực hiện theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg, nhằm mục đích đẩy nhanh tiến độ xóa nghèo cho các hộ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, được thực hiện từ năm 2004. Sau 4 năm triển khai, chương trình đã hỗ trợ gần 380.000 nhà ở, hỗ trợ đất ở được hơn 1.500 ha cho gần 72.000 hộ, hỗ trợ đất sản xuất cho hơn 83.500 hộ với gần 30.000 ha(12). - Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo, là một chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ Việt Nam nhằm tạo ra sự chuyển biến nhanh về đời sống vật chất và tinh thần cho các hộ nghèo, các dân tộc thiểu số ở 62 huyện nghèo trong cả nước với 4 nhóm biện pháp chính: (i) Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập (bao gồm cả đưa người lao động ở huyện nghèo đi lao động ở nước ngoài); (ii) Đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; (iii) Bổ sung nguồn lực con người ở các cấp quản lý và các tổ công tác; và (iv) Đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả cấp thôn/bản, xã, huyện. d) Xây dựng hệ thống các khu bảo tồn nhằm bảo tồn đa dạng sinh học Nước ta đã xây dựng được một hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên được gọi chung là rừng đặc dụng và chia ra làm ba hạng chính: vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và khu bảo vệ cảnh quan. Tính đến năm 2005, đã có 128 khu rừng đặc dụng được thành lập với diện tích trên 2,5 triệu ha, chiếm khoảng 7,6% diện tích tự nhiên cả nước, bao gồm 30 vườn quốc gia, 59 khu bảo tồn thiên nhiên và 39 khu bảo vệ cảnh quan. 12Nguồn: Ủy ban Dân tộc, 21 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  31. C. PHẦN THẢO LUẬN NHÓM Hiện trạng môi trường khu công nghiệp (KCN) Nước thải: Nước thải từ các KCN có thành phần đa dạng, chủ yếu là các chất lơ lửng, chất hữu cơ, dầu mỡ và một số kim loạt nặng. Khoảng 70% trong số hơn 1 triệu m³ nước thải/ ngày từ các KCN được xả thẳng ra các nguồn nước tiếp nhận không qua xử lý đã gây ra ô nhiễm môi trường nước mặt. Chất lượng nước mặt tại những vùng chịu tác động của nguồn thải từ các KCN đã suy thoái, đặc biệt tại các lưu vực sông: Đồng Nai, Cầu và Nhuệ - Đáy. Khí thải: Ô nhiễm không khí ở các KCN mang tính cục bộ, tập trung nhiều ở các KCN cũ, do các nhà máy trong KCN sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa đầu tư hệ thống xử lý khí thải. Vấn đề ô nhiễm không khí tại các KCN chủ yếu là ô nhiễm bụi, một số khu công nghiệp có xuất hiện CO, SO2 và No2. - Bệnh do ô nhiễm không khí: Bệnh phổi silic do ô nhiễm công nghiệp là tình trạng bệnh lý ở phổi do hít thở SiO2 hoặc silic tự do. Đặc điểm của bệnh là hiện tượng xơ hóa phổi lan tỏa. Hiện nay, trên thế giới, bệnh phổi silic chiếm tỷ lệ cao nhất. Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ mắc bệnh bụi phổi silic trong các ngành nghề có tiếp xúc với bụi silic từ 21 đến 54% (theo đánh giá của WHO) so với tổng số mắc bệnh nghề nghiệp. Nguồn: Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2009: Môi trường Khu công nghiệp Việt Nam Thảo luận: Nhóm 1. Thảo luận về thực trạng và nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường; trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay? Nhóm 2. Thảo luận về những tác hại của ô nhiễm môi trường đối với sức khỏe con người? Liên hệ thực tiễn những tác hại của ô nhiễm môi trường đối với sức khỏe cộng đồng ở địa phương, nơi anh/chị sinh sống và đưa ra các giải pháp khắc phục? Nhóm 3. Thảo luận về những tác động của ô nhiễm môi trường đối với sự phát triển bền vững của quốc gia? Liên hệ thực tiễn sự tác động của ô nhiễm môi trường đối với sự phát triển bền vững ở địa phương nơi anh/chị sinh sống? Và tìm các giải pháp khắc phục bảo đảm sự phát triển bền vững cho địa phương? D. ĐÀO SÂU (Thảo luận cả lớp) Những giải pháp ưu tiên nào nên được áp dụng để giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam hiện nay? 22 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  32. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ADB, 2009. Báo cáo cuối cùng của Dự án đánh giá ngành nước TA 4903-VIE. 199 trang. 2. Báo cáo tổng kết chương trình “Sử dụng hợp lý tài nguyên và BVMT” Mã số KHCN 07, tháng 12 năm 2001. 3. Bộ NN&PTNT, 2002. Chiến lược phát triển các khu bảo tồn và vườn quốc gia. 4. Bộ NN&PTNT, 2005. Báo cáo ngành Lâm nghiệp 2005. 181 trang 5. Bộ NN&PTNT, 2006. Chiến lược phát triển ngành lâm nghiệp đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. 6. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2010. Môi trường không khí đô thị Việt Nam. Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010. Hà Nội 7. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008. Đánh giá giữa kỳ kế hoạch 5 năm 2006-2010 về mối quan hệ giữa vấn đề đói nghèo và môi trường. Dự thảo báo cáo tham vấn tháng 12 năm 2008. 50 trang. 8. Cục BVMT, 2002. Báo cáo hiện trạng môi trường. 9. Phạm Ngọc Đăng, 2003. Ô nhiễm môi trường không khí. NXB Khoa học và Kỹ thuật. 10. FAO, 2001. State of World’s forest. Rome. 11. MPI (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), 2005a. Ảnh hưởng của chính sách phát triển các khu công nghiệp tới phát triển bền vững ở Việt Nam. Nhà Xuất bản Lao động – Xã hội. 81 trang. 12. MPI (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), 2005b. Ảnh hưởng của chính sách nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản tới phát triển bền vững ở Việt Nam. Nhà Xuất bản Lao Động – Xã Hội. 133 trang. 13. Ngân hàng thế giới, 2003. Báo cáo diễn biến môi trường 2003: Môi trường nước. 74 trang. 14. Trương Quang Học (chủ biên), Phạm Thị Minh Thi, Võ Thanh Sơn, 2006. Phát triển bền vững : lý thuyết và khái niệm. Tài liệu giảng dạy dùng cho Chương trình cao học : Môi trường trong phát triển bền vững. Dự án Vie01/021. NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội. 115 trang. 15. Võ Quý, Võ Thanh Sơn, 2008. Phát triển bền vững với những vấn đề môi trường tòan cầu và Việt Nam. Bài giảng cho khóa Bồi dưỡng sau đại học “Tiếp cận sinh thái học trong Quản lý Tài nguyên thiên nhiên và Phát triển bền vững”. CRES, ĐHQG Hà Nôi; 150 trang. 16. Võ Quý và Võ Thanh Sơn, 2009. Những thách thức về môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam. Phục hồi và tái sử dụng các vùng đất bị suy thoái do chất độc hóa học: Tài liệu hội thảo tập huấn. NXB Nông nghiệp: 154-183 trang. 17. Trịnh Thị Thanh, 2004. Sức khỏe môi trường. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 296 trang. 23 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  33. Chuyên đề 2 MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔI TRƯỜNG VÀ QUYỀN CON NGƯỜI MỤC TIÊU BÀI HỌC Sau khi kết thúc bài học này, các học viên có thể: 1. Nhận thức được mối quan hệ giữa môi trường với quyền con người. 2. Hiểu được nội dung các nguyên tắc và các quyền bị tác động bởi môi trường. 3. Hiểu được cách tiếp cận quyền con người trong BVMT. THÔNG ĐIỆP 1. Môi trường và quyền con người có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. 2. BVMT là điều kiện để thực hiện quyền con người và thực hiện tốt các quyền con người sẽ tác động tốt đến BVMT. 3. Tiếp cận quyền con người trong BVMT là cách tiếp cận có hiệu quả trong xây dựng chính sách, giám sát BVMT hiện nay. 24 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  34. NỘI DUNG CƠ BẢN I. Mối quan hệ giữa môi trường và quyền con người 1. Khái niệm và các đặc điểm của quyền con người 2. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về quan hệ giữa môi trường, sức khỏe, và quyền con người 3. Sự tương tác giữa môi trường và quyền con người II. Nội dung nguyên tắc và các quyền con người về môi trường 1. Các nguyên tắc quyền con người về môi trường 2. Các quyền con người đối với môi trường 3. Trách nhiệm và nghĩa vụ 4. Những lưu ý đặc biệt III. Cách tiếp cận quyền con người trong BVMT 1. Huy động và sử dụng các quyền hiện có 2. Giải thích lại các quyền hiện có 3. Xây dựng các chuẩn mức mới về quyền con người đối với môi trường 25 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  35. A. PHẦN KHỞI ĐỘNG Câu hỏi: 1. Hãy nêu và liệt kê một số quyền và tự do cơ bản của con người được quy định trong Hiến pháp, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế? 2. Theo anh/chị, các quyền được liệt kê trên, có những quyền nào liên quan tới môi trường? Tại sao? 3. Theo anh/chị, việc bảo vệ tốt các quyền này sẽ có tác động như thế nào đối với việc BVMT? B. NỘI DUNG BÀI GIẢNG I. Mối quan hệ giữa môi trường và quyền con người 1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của quyền con người Do sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, chế độ chính trị, giá trị truyền thống, văn hóa dân tộc, nên cách tiếp cận về quyền con người có sự khác nhau giữa các quốc gia, dân tộc. Vì thế, khái niệm nhân quyền còn có nhiều cách hiểu khác nhau và đến nay chưa có một định nghĩa chính thức thế nào là quyền con người đúng cho mỗi quốc gia, dân tộc. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào ngày 10/12/1948 và hai công ước năm 1966(13) tạo thành Bộ luật nhân quyền quốc tế. Tuy nhiên, cả ba văn kiện này cũng không đưa ra một định nghĩa chính thức thế nào là quyền con người, và thay vào đó là liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của con người và trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia thành viên là tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền và tự do cơ bản đó. Tuy nhiên, dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng quyền con người có thể hiểu một cách đơn giản nhất, đó là những đặc quyền tự nhiên mà mỗi người khi sinh ra đều có, không phân biệt về độ tuổi, trình độ, nghề nghiệp, địa vị xã hội, ngôn ngữ, chính kiến, dân tộc, sắc tộc, giới tính Các quyền và tự do của con người được ghi nhận và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Từ định nghĩa nêu trên, có thể khái quát những đặc điểm cơ bản nhất của quyền con người như sau: - Quyền con người mang giá trị phổ biến Quyền con người là phổ cập cho tất cả mọi người. Mọi người không phân biệt về nguồn gốc dân tộc, sắc tộc, chủng tộc, địa vị xã hội, giới tính, ngôn ngữ, tình trạng sức khỏe, nghề nghiệp đều có địa vị bình đẳng như nhau trong việc hưởng thụ và được tôn trọng quyền và các tự do cơ bản. Hiện nay, đặc tính phổ biến của Quyền con người là nền tảng của luật nhân quyền quốc tế, được thiết lập trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948, và được tái khẳng định trong một loạt các tuyên ngôn, công ước và các nghị quyết có liên quan của Liên Hợp Quốc. - Quyền con người là không thể chuyển nhượng Quyền con người là không thể chuyển nhượng vì nó bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người; gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân do đó không thể bị tước đi, ngoại trừ trong những hoàn cảnh và trường hợp đặc biệt và phải tuân theo một chu trình pháp lý cụ thể. Ví dụ: quyền tự do của 13Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị; Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, được Đại Hội đồng thông qua năm 1966 26 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  36. cá nhân là không thể bị hạn chế, ngoại trừ có những căn cứ pháp lý chứng minh rằng họ có hành vi phạm tội và việc áp dụng các biện pháp hạn chế, hay tước tự do của một người phải tuân theo một quy trình tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy định. - Các quyền con người có tính phụ thuộc lẫn nhau và không thể chia cắt Tất cả các quyền con người có tính phụ thuộc lẫn nhau và không thể chia cắt dù đó là quyền dân sự, chính trị như quyền sống, bình đẳng trước pháp luật và tự do bày tỏ ý kiến; quyền kinh tế, xã hội và văn hóa như quyền lao động, an ninh xã hội, bảo hiểm, quyền giáo dục hay các quyền tập thể như quyền phát triển và tự quyết là không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và có quan hệ qua lại. Việc làm tổn hại, hay tước bỏ một quyền cụ thể nào đó của con người sẽ ảnh hưởng tới việc hưởng thụ các quyền khác. Do vậy, các quyền con người cần phải được coi trọng như nhau. Theo đó, không được coi loại quyền này là quan trọng hơn loại quyền khác. Vì thực tế khách quan là các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá là một thể thống nhất bắt nguồn từ tính trọn vẹn của con người, thể hiện các nhu cầu cần thiết cho cuộc sống của con người trên cả hai phương diện thể chất và tinh thần. Thiếu một trong các loại quyền đó, con người đều không thể sống, phát triển toàn diện và hoàn thiện nhân cách. - Quyền con người mang giá trị văn hóa, lịch sử, và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội Các quyền con người mang tính phổ biến, nhưng sự bảo đảm các quyền đó không thể tách rời hoàn cảnh lịch sử cụ thể, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, truyền thống văn hoá của mỗi quốc gia, dân tộc và khu vực. Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động đã tái khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ biến, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ qua lại. Cộng đồng quốc tế phải bảo đảm các quyền con người theo phạm vi toàn cầu một cách công bằng, bình đẳng và coi trọng như nhau. Các quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hoá, trong khi thực hiện nghĩa vụ đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con người và các tự do cơ bản, phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau (14)“. 2. Nhận thức của cộng đồng quốc tế về quan hệ giữa môi trường và quyền con người Môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với sức khỏe và quyền con người, nhất là quyền được sống trong một môi trường trong lành. Đây là chủ đề đã và đang được cả cộng đồng thế giới và mỗi quốc gia quan tâm. Sự gắn kết giữa BVMT với bảo vệ sức khỏe và bảo vệ quyền con người đã được đặt ra ngay từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ trước. Năm 1972 Liên Hợp Quốc đã tổ chức Hội nghị về môi trường của loài người và đã tuyên bố rằng: “Cả hai khía cạnh, môi trường tự nhiên và nhân tạo của con người đều cần thiết cho an sinh xã hội và tác động đến chính việc hưởng thụ những quyền cơ bản của con người - quyền được sống”(15). Trong bản Tuyên bố Stockholm về Môi trường của loài người(16), Nguyên tắc 1 đã thiết lập nền tảng mối quan hệ giữa quyền con người và BVMT, tuyên bố rằng: “Con người có các quyền cơ bản về tự 14Hội nghị thế giới về Nhân quyền thông qua tại Viên (Áo) đã thông qua Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động năm 1993 15 Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Môi trường của loài người được tổ chức từ ngày 5 -16/6/1972, tại Stockholm, Thụy Điển 16 27 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  37. do, bình đẳng và điều kiện sống đầy đủ, trong môi trường có chất lượng tốt, cho phép con người có cuộc sống khoẻ mạnh, hạnh phúc và có nhân phẩm. Nguyên tắc cũng chỉ ra trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường vì cuộc sống của thế hệ hiện tại và các thế hệ tương lai. Gần 20 năm sau, trong Nghị quyết số 45/94 ngày 14/12/1990 về nhu cầu bảo đảm môi trường lành mạnh cho hạnh phúc của các cá nhân, Đại Hội đồng LHQ tái nhắc lại ngôn ngữ trong Tuyên bố Stockholm , rằng tất cả các cá nhân nên sống trong một môi trường được bảo đảm tối thiểu cho sức khỏe và hạnh phúc của họ. Nghị quyết nhắc lại và đề cao những nỗ lực bảo đảm môi trường tốt hơn. Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Môi trường và Phát triển được tổ chức tại thành phố Rio de Janeiro, Brazil đã đưa ra công thức liên kết giữa quyền con người và BVMT trong một số thuật ngữ có tính thủ tục. Nguyên tắc 10 tuyên bố(17): Vấn đề môi trường phải được giải quyết một cách tốt nhất với sự tham gia của tất cả các cá nhân liên quan, ở cấp độ thích hợp. Cấp độ quốc gia, mỗi cá nhân sẽ được tiếp cận thông tin thích hợp liên quan đến môi trường, do các cơ quan công quyền lưu giữ, bao gồm cả thông tin về các chất và hoạt động nguy hiểm trong cộng đồng của họ, và có cơ hội được tham gia trong quá trình ban hành các quyết định. Các quốc gia sẽ phải tạo điều kiện, tăng cường nhận thức và kêu gọi sự tham gia của cộng đồng trong việc phổ biến thông tin rộng rãi. Cơ hội tiếp cận một cách hiệu quả với tư pháp và các thủ tục hành chính, bao gồm cả việc bồi thường và đền bù thiệt hại phải được bảo đảm”. Quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia và quyền được đền bù thiệt hại liên quan đến các điều kiện về môi trường đã được quy định trong Tuyên bố Rio. Bên cạnh Nguyên tắc 10, Tuyên bố còn bao gồm các quy định về sự tham gia của các thành phần dân cư khác nhau, như phụ nữ (Nguyên tắc 20), thanh niên (Nguyên tắc 21), người bản xứ và cộng đồng địa phương (Nguyên tắc 22). Sự tham gia của công chúng cũng được nhấn mạnh trong trong chương trình nghị sự (CTNS) 21. Lời nói đầu khẳng định: Một trong những điều kiện tiên quyết cơ bản để đạt tới sự phát triển bền vững là sự tham gia rộng rãi của công chúng trong việc ban hành quyết định. Hơn thế, trong bối cảnh đặc biệt hơn về môi trường và phát triển, cần thiết phải có những hình thức tham gia mới. Điều này cần có sự tham gia của các cá nhân, các nhóm và các tổ chức để đánh giá tác động môi trường cũng như quá trình xác định và ra các quyết định chính sách có khả năng ảnh hưởng đến các cộng đồng trong khu vực họ sinh sống. Các cá nhân, các nhóm và các tổ chức cần được tiếp cận với các thông tin môi trường và phát triển do các cơ quan chính phủ cung cấp. Những thông tin này cho biết các sản phẩm và các hoạt động có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường và các biện pháp để BVMT(18). Chương trình nghị sự 21 cũng kêu gọi các chính phủ và các nhà lập pháp thiết lập các thủ tục hành chính và tư pháp để lập lại các quy định và chỉnh sửa các hành động tác động đến môi trường, trái pháp luật hoặc vi phạm các quyền theo luật, và tạo cơ hội tiếp cận cho cá nhân, các nhóm và các tổ chức với những lợi ích pháp lý được công nhận. Phần III Chương 23 xác định các nhóm chính mà sự tham gia của họ là cần thiết, đó là phụ nữ, thanh niên, người bản xứ và dân cư địa phương, các tổ 17 18Hiến chương Châu Âu về Môi trường và sức khỏe, được hội nghị thứ nhất các Bộ trưởng Môi trường và Sức khỏe của các Quốc gia thành viên Khu vực Châu Âu của Tổ chức Thương mại thế giới thông qua ngày 8 tháng 12 năm 1989. 28 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  38. chức phi chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, các doanh nhân và công nhân các ngành công nghiệp, các nhà khoa học và nông dân. CTNS cũng khuyến khích các chính phủ nên hoạch định chính sách tạo điều kiện trao đổi thông tin trực tiếp giữa chính phủ và công chúng trong các vấn đề về môi trường, theo gợi ý của Đánh giá Tác động Môi trường (EIA) quá trình này là một cơ chế tiềm năng cho sự tham gia của công chúng. Trong thập kỷ qua, kể từ khi bắt đầu chuẩn bị các công việc cho Hội nghị Rio, các điều ước khu vực và toàn cầu trong lĩnh vực nhân quyền và môi trường đã được ký kết và có các quy định cụ thể về các quyền, như được quy định trong Nguyên tắc 10. Năm 1998, Công ước (Châu Âu) về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề môi trường được thông qua ngày 25/6/1998. Đây là công ước khu vực đầu tiên có liên quan về quyền con người với môi trường. Trong lời mở đầu, Công ước nhắc lại một số văn kiện được ban hành trước đó, và thừa nhận: “BVMT một cách thích đáng là thiết yếu cho hạnh phúc của nhân loại và việc hưởng thụ các quyền con người cơ bản, bao gồm quyền được sống(19)”, và “cũng thừa nhận rằng tất cả mọi người có quyền được sống trong một môi trường tốt cho sức khỏe và hạnh phúc của bản thân, và có nghĩa vụ thực hiện độc lập hoặc hợp tác với người khác trong việc bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai(20)”. Trong quyết định 2001/111 Ủy ban Nhân quyền đã đề nghị Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền (OHCHR) và Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) xem xét tổ chức một nhóm chuyên gia để “xem xét và đánh giá những tiến bộ đã đạt được kể từ khi Hội nghị của Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người liên quan tới các vấn đề về môi trường và khuôn khổ CTNS 21(21)”. 3. Sự tương tác giữa môi trường và quyền con người Mối quan hệ qua lại giữa môi trường và quyền con người có thể được khái quát trên ba phương diện chính sau đây: 3.1 Môi trường là quyền con người Sau thảm họa Chiến tranh thế giới lần thứ II (1945), Liên Hợp Quốc ra đời, khẳng định các quyền con người trong Hiến chương của Liên Hợp Quốc, coi việc tôn trọng quyền và các tự do cơ bản của con người là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Ba năm sau, Đại Hội đồng LHQ đã thông qua bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, quy định một loạt các quyền và tự do cơ bản. Chính từ đây, khái niệm quyền con người và sự bảo hộ quốc tế đối với các quyền và tự do cơ bản của con người chính thức được đặt trên nền tảng Hiến chương LHQ và luật quốc tế hiện đại. Liên Hợp Quốc đã soạn thảo và thông qua một loạt các tuyên bố, công ước quốc tế về quyền con người, và chính thức bổ sung vào công pháp quốc tế ngành luật quốc tế về quyền con người. 19Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, tháng 10 – 2007, trang 35 20NT 21Hội thảo đã được tổ chức tại Giơ-ne-vơ vào ngày 16 tháng 1 năm 2002 với sự tham dự của đại diện các chính phủ, xã hội dân sự và các tổ chức quốc tế. Báo cáo của Hội thảo đã được xây dựng trên tinh thần các bình luận của các Quốc gia và đã đệ trình lên Ủy ban Nhân quyền tại phiên họp lần thứ 48 (E/CN.4/2002/109). 29 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  39. Trong khi đó, quyền về môi trường, tiếp cận quyền trong BVMT mới được thừa nhận từ những năm 70 của thế kỷ trước. Tuyên bố Stockholm năm 1972 đã tạo ra bước ngoặt đầu tiên, đánh dấu cách tiếp cận có sự liên kết giữa bảo vệ quyền con người với vấn đề BVMT. Đây là hai vấn đề tưởng chừng có sự cách biệt trong hoạch định chính sách công, nhưng thực ra chúng có mối quan hệ qua lại, gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự gắn kết giữa môi trường và quyền con người được thể hiện khá rõ đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền như: quyền được sống; sự toàn vẹn thân thể của mỗi cá nhân, của đời sống mỗi gia đình; quyền đối với sức khỏe, thịnh vượng và phát triển của mỗi cá nhân, cũng như nhóm và cộng đồng xã hội Tất cả các quyền này đều phụ thuộc vào môi trường sống, môi trường tự nhiên xung quanh con người. Đây được xác định là cơ sở quan trọng cho cuộc sống của tất cả mọi cá nhân, mọi cộng đồng xã hội. Sự suy kiệt tài nguyên và sự ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng đã tác động to lớn và trực tiếp tới sức khỏe và cuộc sống nói chung của mỗi con người. Chính vì thế, quyền được sống trong môi trường trong lành, bảo đảm sức khỏe môi trường ngày càng được thừa nhận rộng rãi. Đó là cơ sở, nền tảng thiết yếu để hiện thực hóa quyền con người. Vì vậy, yêu cầu BVMT sống gắn bó chặt chẽ với yêu cầu bảo vệ quyền con người. Ô nhiễm môi trường, sự hủy hoại môi trường đều trực tiếp tác động đến chất lượng cuộc sống, hưởng thụ quyền con người. - Quyền sống sẽ không thể được bảo đảm nếu nguồn không khí bị ô nhiễm. Theo ước tính của WHO, có khoảng 2,4 triệu người chết mỗi năm do ô nhiễm không khí. - Quyền về sức khỏe, quyền này liên quan chặt chẽ với quyền sống, thường xuyên bị vi phạm do ô nhiễm không khí, đất đai, và nước. - Quyền về nước, mặc dù chưa được pháp điển hóa trong các điều ước quốc tế, tiếp cận nước sạch thường xuyên được trích dẫn và được chấp nhận là quyền con người. Đó là quyền có nước sạch và vệ sinh. Quyền này có liên quan chặt chẽ với quyền sống và sức khỏe. - Quyền về thực phẩm, vì sự phá vỡ môi trường, môi trường ô nhiễm, dẫn tới thực phẩm không an toàn. - Quyền phát triển, phát triển bền vững thừa nhận sự tăng trưởng kinh tế nhưng kèm theo đó là sự phá hủy môi trường thì sẽ không thể có sự tiến bộ xã hội lâu dài. - Quyền đối với tài sản, khi mực nước biển dâng cao, nhiều người sống trên đất liền hoặc các hải đảo, tài sản của họ sẽ bị mất. - Quyền đối với nhà ở, sự xuống cấp của môi trường sẽ đẩy cá nhân, cộng đồng hoặc họ sẽ bị cưỡng bức di dời tới những nơi điều kiện sống không bảo đảm về sức khỏe và an toàn. - Quyền thông tin và quyền tham gia, những quyền này là quyền thủ tục, công chúng nhận được thông tin từ chính phủ và nghĩa vụ của chính phủ là cung cấp thông tin cho công chúng. - Quyền làm việc, kiếm kế sinh nhai, phá hủy môi trường đồng nghĩa với sự tước đi quyền làm việc của nhiều người. Chẳng hạn, ô nhiễm môi trường đối với các sông, mương, đẩy những người đánh bắt cá đến phá sản - Quyền văn hóa, gia đình và quyền của người bản địa, tuyên ngôn về quyền của người bản địa chính thức công nhận việc bảo tồn và BVMT và nguồn tài nguyên thiên nhiên là quyền con người. - Quyền phụ nữ và trẻ em, phụ nữ và trẻ em bị tác động nhiều hơn so với nam giới khi môi trường bị xuống cấp. Bởi hệ thống miễn dịch chưa phát triển đầy đủ, trẻ em thường dễ bị tổn thương với độc tố, vi khuẩn và nhiễm khuẩn. 30 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường
  40. Chỉ với những ví dụ đơn giản nêu trên cũng đã cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và quyền con người. Chính vì vậy, cần khẳng định môi trường chính là quyền con người, BVMT chính là bảo vệ quyền con người. Tất cả mọi người đều có quyền có môi trường không gây hại đối với sức khỏe, sự thịnh vượng và môi trường trong sạch, vì lợi ích của thế hệ hiện nay và mai sau. Cách tiếp cận quyền trong BVMT sẽ nâng cao khả năng phát triển bền vững, bảo tồn các giá trị cơ bản của xã hội. Điều này, sẽ nâng cao nhận thức chung của cộng đồng, xã hội về quyền và nghĩa vụ, do vậy nhận thức về BVMT sẽ ngày càng được nâng lên. 3.2 BVMT là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa quyền con người Nếu môi trường không được bảo đảm, các quyền con người không thể được thực hiện tốt, vì môi trường có liên quan và tác động trực tiếp tới hưởng thụ nhân quyền của mỗi cá nhân và cộng đồng. Vì vậy, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường của con người là yêu cầu thiết yếu để bảo vệ cuộc sống con người, điều kiện tiên quyết bảo đảm nhân phẩm và giá trị của con người, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Tuy nhiên, trên thực tế, khi xem xét mối quan hệ giữa BVMT với bảo vệ quyền con người, do BVMT và quyền con người dựa trên những giá trị xã hội, biện pháp khác nhau, nên thường xuất hiện một câu hỏi gây tranh luận. Đó là, liệu mục đích của BVMT có nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người hay không? Mặc dù cả luật nhân quyền và luật về môi trường đều tìm kiếm để đạt được chất lượng cuộc sống bền vững cao nhất cho nhân loại, các mục tiêu của chúng có thể xung đột với nhau. “Mối quan tâm thiết yếu của luật nhân quyền là bảo vệ các cá nhân đang tồn tại và cộng đồng. Trong khi đó, mục tiêu của luật môi trường là để duy trì cuộc sống toàn cầu bằng việc cân bằng các nhu cầu của thế hệ hiện tại với nhu cầu của các thế hệ tương lai” (Shelton: 1991). Cộng đồng quốc tế thừa nhận BVMT hiện nay là điều kiện tiên quyết cho bảo vệ quyền con người. Các hoạt động của con người đã làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu và chính sự ô nhiễm này gây tác hại đối với con người. Do vậy quyền sống của con người bị ảnh hưởng trực tiếp hàng ngày do ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất đai - Theo Chương trình môi trường của LHQ (UNEP), sự khai thác quá mức nguồn nước đầu nguồn và hệ thống nước ngầm, sự ô nhiễm nguồn nước tại các sông, suối, ao hồ do nước thải sinh hoạt và công nghiệp ở nhiều nước không qua xử lý, đặc biệt là những nước đang phát triển đã và đang ngày càng tăng sức ép đối mặt với sự thiếu nước nghiêm trọng. Điều này xẩy ra không chỉ ảnh hưởng tới sự sống của con người, mà việc thiếu điều kiện tiếp cận nước sạch là mầm mống của dịch bệnh, đặc biệt tác động đến đời sống của những người dễ bị tổn thương trong xã hội (người nghèo, dân tộc, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ, trẻ em ). - Cũng theo UNEP, hơn 70% bề mặt đất của trái đất có thể bị tác động do ảnh hưởng của các con đường, hầm mỏ, thành phố và sự phát triển cơ sở hạ tầng trong khoảng 30 năm tới, trừ khi có hành động khẩn cấp từ các chính phủ được đưa ra. - Sự tàn phá rừng đang diễn ra nghiêm trọng ở nhiều nước đang phát triển dẫn tới hạn hán, lũ lụt 31 Tiếp cận Quyền trong Bảo vệ Môi trường