Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

pdf 107 trang ngocly 120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftap_bai_giang_mon_tien_te_ngan_hang.pdf

Nội dung text: Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

  1. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Chương I TIỀN TỆ VÀ LƯU THÔNG TIỀN TỆ I. NGUỒN GỐC RA ĐỜI VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ 1. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thuỷ, với công cụ lao động thô sơ, con người tự cung cấp cho nhau số sản phẩm ít ỏi kiếm được từ săn bắn, hái lượm. Khi đời sống cộng đồng ngày càng phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành và lượng sản phẩm dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc. Tuy nhiên, trong giai đoạn này trao đổi chỉ mang tính chất ngẫu nhiên và được thực hiện bằng cách trao đổi sản phẩm trực tiếp. Cùng với sự chuyên môn hoá lao động phát triển và quá trình phân công lao động xã hội ngày một sâu hơn, nhu cầu trao đổi hàng hoá ngày càng nhiều và mở rộng, việc trao đổi trực tiếp gây khó khăn cho việc lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có một “vật ngang giá chung” làm trung gian cho trao đổi. Vật ngang giá chung là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp với nhiều hàng hoá thông thường khác. Ban đầu, vật trung gian được lựa chọn từ những hàng hoá mang nét đặc trưng phổ biến của vùng, lãnh thổ Khi kinh tế phát triển, nhu cầu trao đổi ngày càng mở rộng không chỉ diễn ra trong phạm vi vùng, lãnh thổ mà còn vượt ra khỏi vùng, lãnh thổ đó thì quá trình trao đổi gặp khó khăn khi mỗi địa phương có một vật trung gian khác nhau. Để khắc phục tình trạng này, cần có một vật ngang giá chung duy nhất làm trung gian cho quá trình trao đổi. Vật ngang giá chung đó chính là tiền tệ. Có thể nói, sự ra đời của vật trung gian trao đổi đánh dấu giai đoạn mở đầu cho sự xuất hiện của tiền tệ, đồng thời là bước chuyển hoá từ nền kinh tế đổi chát sang nền kinh tế tiền tệ. Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế. Trong thời kỳ đầu khoảng 2.000 năm trước công nguyên, vật trung gian trao đổi thường được chọn từ một hàng hoá có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người, có tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa phương, khu vực nơi diễn ra quan hệ trao đổi. Chẳng hạn như thời cổ đại, ở Hy Lạp dùng gia súc; Tây Tạng, Mông Cổ dùng chè; ở Bắc Mỹ dùng thuốc lá, ở Trung Quốc có vùng dùng vải, có vùng dùng vỏ trai hoặc -1-
  2. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng da Việc sử dụng tiền tệ dưới dạng hàng hoá, còn gọi là hoá tệ, có nhiều bất lợi. Khó chia nhỏ trong trao đổi, khó bảo quản và vận chuyển. Vì thế, các loại hàng hoá thông thường được dùng làm tiền tệ dần bị đào thải nhường chỗ cho thời kỳ sử dụng tiền kim loại. Từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, tiền kim loại đã bắt đầu được sử dụng và phát triển rộng rãi trong suốt thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong các kim loại được chọn làm vật ngang giá chung là sắt, kẽm, thiếc, đồng, bạc và vàng cũng trải qua quá trình tự đào thải dần dần để cuối cùng còn lại ở kim loại quý là vàng. Đầu thế kỷ XIX, vàng độc quyền đóng vai trò là vật ngang giá chung, còn gọi là kim loại tiền tệ. Một khối lượng vàng với một trọng lượng và chất lượng nhất định được gọi là tiền tệ. Việc sử dụng tiền kim loại tuy có những ưu điểm hơn so với hoá tệ không kim loại nhưng cũng có những hạn chế như cồng kềnh, khó chuyên chở. Mặt khác, khi quy mô sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển đòi hỏi sự gia tăng của phương tiện trao đổi trong khi nguồn vàng dự trữ không đủ đáp ứng. Do đó, thay vì dùng vàng trực tiếp làm tiền, các nước đã có xu hướng chuyển sang sử dụng tiền dấu hiệu ngày càng phổ biến. Tiền giấy có mầm mống ra đời từ thế kỷ thứ XIV, khi các ngân hàng cho ra đời các chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng phát hành để huy động tiền gửi của xã hội, được sử dụng làm phương tiện thanh toán ở các nước Châu Âu. Đến thế kỷ XVI-XVII, nó được thay thế bằng giấy bạc của ngân hàng phát hành, loại giấy bạc này được đảm bảo bằng vàng và được lưu hành song song với tiền đúc bằng vàng của nhà nước. Đến đầu thế kỷ XX, giấy bạc ngân hàng thay thế hoàn toàn cho các kim loại quý như bạc và vàng. Ngày nay, tiền giấy được sử dụng làm phương tiện trao đổi ngày càng phổ biến vì những tiện lợi như dễ mang theo trong người, dễ cất trữ. Mặt khác, việc in tiền với nhiều mệnh giá khác nhau tạo thuận lợi cho quá trình trao đổi hàng hoá. Tuy nhiên việc lưu thông tiền giấy dễ rơi vào tình trạng bất ổn vì việc điều chỉnh cho nó phù hợp với nhu cầu trao đổi hàng hoá là cả một nghệ thuật phức tạp. Cùng với việc phát triển mạnh mẽ của ngân hàng, quá trình thanh toán của nền kinh tế được tập trung phần lớn qua hệ thống ngân hàng thông qua các bút toàn chuyển khoản hoặc thanh toán bù trừ trên tài khoản ký thác. Sự ra đời của tiền ghi sổ, còn gọi là bút tệ, cùng với các chứng từ thanh toán như séc, giấy nhờ thu đã làm đa dạng các phương tiện thanh toán bên cạnh các hình thức thanh toán bằng tiền mặt, đồng thời còn -2-
  3. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng tạo điều kiện giảm bớt những chi phí lưu hành tiền giấy như in ấn, bảo quản, kiểm đếm, vận chuyển. Vì vậy, việc sử dụng tiền qua ngân hàng được coi là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế phát triển. Hơn nữa, trong thời đại mà những tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng đi sâu vào đời sống kinh tế xã hội thì việc sử dụng những loại thẻ thanh toán trở nên được ưa chuộng vì người ta có thể thanh toán ngay, giảm thiểu thời gian luân chuyển chứng từ qua ngân hàng hoặc ghi chép chứng từ thanh toán. Loại tiền điện tử này cho phép giảm tối đa việc sử dụng tiền mặt trong lưu thông và khắc phục những hạn chế của hệ thống chi trả bằng séc. Tóm lại, lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ luôn gắn liền với sự phát triển và lưu thông hàng hoá. Điều này đã được chứng minh qua quá trình hoàn thiện các hình thức tiền tệ, từ hình thức sơ khai ban đầu là hoá tệ không kim loại cho đến tiền điện tử ngày nay. Tuy nhiên cần xác định rằng, các thời kỳ phát triển này không phủ định lẫn nhau, nghĩa là các loại tiền tệ vẫn tồn tại đan xen nhau trong quá trình lưu thông. 2. Bản chất của tiền tệ Quá trình phát triển của tiền tệ cho thấy tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức từ hoá tệ đến kim tệ. Ngày nay vàng ít được dùng làm tiền tệ mà chủ yếu là tiền dấu hiệu nên đã hình thành nên nhiều quan niệm khác nhau về tiền. Các nhà kinh tế học thế kỷ XVI mà đại diện là Thomas-Men (1576-1641) đã khẳng định: vàng, bạc là tiền tệ, là của cải xã hội chính thống. Trường phái này cho rằng chỉ có kim loại quý mới thực hiện các chức năng của tiền tệ. Đến đầu thế kỷ XVIII, khi các loại tiền dấu hiệu như tiền giấy, tiền tín dụng ra đời nhưng vẫn thực hiện chức năng trao đổi và lưu thông hàng hoá thì các nhà kinh tế lại đề cao tiền dấu hiệu. Họ cho rằng: tiền tệ chỉ là công cụ kỹ thuật để phục vụ cho việc trao đổi hàng hoá thuận tiện, chỉ là đơn vị tính toán trừu tượng, nên bản thân tiền tệ không cần có giá trị nội tại mà Nhà nước hoàn toàn có thể phát hành tiền giấy với những dấu hiệu quy ước là có thể phục vụ cho trao đổi hàng hoá. K.Marx (1818-1863) nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ qua sự phát triển các hình thái giá trị và khẳng định tiền tệ có nguồn gốc từ hàng hoá. Ông cho rằng: Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt tách ra khỏi thế giới hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung để đo lường giá trị của tất cả các hàng hoá khác. Ông chỉ ra rằng vàng -3-
  4. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng chỉ trở thành tiền tệ trong những điều kiện lịch sử nhất định. Trước khi trở thành tiền tệ và sau khi được thừa nhận đóng vai trò là tiền tệ thì vàng vẫn giữ nguyên bản chất là hàng hóa. Cho đến bây giờ, những quan điểm của K.Marx vẫn mang giá trị lý luận rất lớn để chúng ta nghiên cứu về tiền. Ngày nay, cùng với việc phát triển các phương tiện trao đổi, thanh toán, khi đề cập đến tiền người ta không nhìn nó một cách giản đơn cho rằng tiền chỉ là kim loại quý hay chỉ là tiền giấy. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại (đại diện là P.A Samuelson): “Bản chất của tiền tệ ngày nay đã được phơi bày rõ ràng, người ta muốn có tiền tệ với danh nghĩa là tiền chứ không phải là hàng hoá, không phải vì bản thân nó mà là vì những thứ mà có thể dùng nó để mua được”. Như vậy, họ cho rằng, tiền tệ là tất cả các phương tiện thanh toán có thể được chấp nhận làm trung gian trao đổi và được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất và trao đổi phát triển như hiện nay, tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện trao đổi mà có thể sử dụng tiền để đầu tư, cho vay và tích luỹ, sở hữu. Theo những phân tích trên, một định nghĩa về tiền được hiểu đầy đủ như sau: Tiền tệ là tất cả các phương tiện có thể đóng vai trò trung gian trao đổi được pháp luật thừa nhận và người sở hữu nó sử dụng để phục vụ cho những nhu cầu trong đời sống kinh tế xã hội. Bản chất của tiền được thể hiện rõ hơn thông qua các chức năng của nó. 3. Chức năng của tiền tệ Theo K.Marx, vàng trong vai trò là vật ngang giá chung là hàng hoá tiền tệ và ông đã nêu 5 chức năng của tiền tệ là: - Chức năng thước đo giá trị - Chức năng phương tiện lưu thông - Chức năng phương tiện cất trữ - Chức năng phương tiện thanh toán - Chức năng tiền tệ thế giới Ngày nay, chế độ lưu thông tiền kim loại đã nhường chỗ cho chế độ lưu thông tiền giấy không chuyển đổi ra vàng, đặc biệt người ta đã hạn chế rất nhiều việc sử dụng vàng trực tiếp làm phương tiện trao đổi ở phạm vi lưu thông hàng hoá trong nước cũng như mậu dịch quốc tế. Mặc dù vàng vẫn được thừa nhận làm tiền tệ với đầy đủ 5 chức năng ban đầu. Nhưng với sự đa dạng về hình thức tiền tệ được sử dụng trong điều -4-
  5. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng kiện kinh tế hiện nay, các nhà kinh tế học hiện đại đã xem xét các chức năng của tiền tệ ở góc độ tổng quát hơn với 3 chức năng chủ yếu sau: 3.1. Chức năng phương tiện trao đổi Đây là chức năng cơ bản đầu tiên của tiền tệ, nó phản ánh lý do tại sao tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá. Trong nền kinh tế trao đổi sản phẩm trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai giao dịch bán và mua trong cùng một thời điểm. Điều này thực hiện được trong điều kiện có ít người tham gia trao đổi, người mua và người bán phù hợp về sản phẩm trao đổi. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, việc tìm kiếm nhu cầu phù hợp về sản phẩm trao đổi là rất khó khăn và tốn kém quá nhiều chi phí. Vì vậy người ta cần sử dụng tiền làm môi giới trung gian trong quá trình này, tức là trước hết người ta trao đổi hàng hoá của mình lấy tiền sau đó dùng tiền mua thứ hàng hoá mình cần. Hình thức trao đổi này có những tiến bộ sau đây: Thứ nhất, quá trình trao đổi hàng hoá được tách thành hai giai đoạn riêng biệt là bán và mua. Giai đoạn H-T là giai đoạn bán hàng, chuyển giá trị của hàng hoá thành tiền. Đây là giai đoạn quan trọng và khó khăn nhất đối với nhà sản xuất kinh doanh, vì sự chuyển hoá từ hình thái sản phẩm hàng hoá thành hình thái tiền tệ sẽ cho thấy lao động của người sản xuất được xã hội thừa nhận, đó là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Giai đoạn H-T là giai đoạn mua hàng, thông thường giai đoạn này được tiến hành dễ dàng. Hai giai đoạn này được tiến hành độc lập tương đối với nhau, dẫn đến phương tiện làm trung gian trao đổi lại trở thành mục tiêu trong các cuộc trao đổi và được mọi người sùng bái. Chính sức mua đồng tiền quyết định điều này. Thứ hai, hành vi mua và bán có thể tách rời về không gian và thời gian. Người sản xuất hàng hoá có thể bán ở chỗ này và mua ở chỗ khác, bán lúc này và mua lúc khác một cách chủ động và linh hoạt. Như vậy, thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, tiền tệ đã góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch, đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá. Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền tệ phải có những điều kiện nhất định: Có thể sử dụng tiền dấu hiệu, mục đích của bán hàng không phải để trở thành người sở hữu tiền tệ vĩnh viễn mà là để thực hiện việc mua bán hàng hoá, đạt đến một -5-
  6. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng giá trị sử dụng mới. Tiền tệ lúc này chỉ là môi giới trung gian, không phải là mục đích của trao đổi. Do đó, thực hiện chức năng phương tiện lưu thông có thể sử dụng tiền đủ giá (tiền vàng) hoặc tiền dấu hiệu (tiền giấy và các dấu hiệu giá trị khác). Lưu thông chỉ chấp nhận một lượng tiền nhất định, muốn tiền tệ thực hiện tốt chức năng phương tiện lưu thông đòi hỏi hệ thống tiền tệ mỗi quốc gia phải sức mua ổn định, số lượng tiền tệ để thực hiện các quan hệ trao đổi phải đủ liều lượng để đáp ứng nhu cầu trao đổi của mọi hoạt động kinh tế. Điều này có nghĩa là lượng tiền đưa vào lưu thông phải phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, nếu yêu cầu này không thoã mãn sẽ gây khó khăn cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ngày nay, khi nền sản xuất hàng hoá phát triển ở mức độ cao thì tiền mặt ít được sử dụng mà thay vào đó là lưu thông các công cụ thanh toán – tín dụng của hệ thống ngân hàng. Lưu thông các công cụ này đã đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sản xuất phát triển. 3.2. Chức năng thước đo giá trị Chức năng này làm cho tiền tệ đã trở thành thước đo chung để biểu hiện và so sánh giá trị tất cả hàng hoá, từ đó làm cho sản xuất và trao đổi được đơn giản hoá hơn rất nhiều. Qua việc thực hiện chức năng này, giá trị của hàng hoá, dịch vụ được biểu hiện ra bằng tiền và có thể so sánh với nhau, nhờ đó mà việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ được diễn ra thuận lợi. Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, giá trị của tiền tệ được coi là “chuẩn mực”để giá trị của tất cả hàng hoá khác phải so sánh với nó. Thông qua quan hệ này, các hàng hoá biểu hiện giá trị của mình thành những lượng có cùng tên, giống nhau về chất và có thể so sánh được với nhau về lượng, đó là giá cả. Trong nền kinh tế thị trường, thước đo giá trị của tiền tệ cho phép các nhà kinh doanh đánh giá được khoản thu nhập của mình bằng tiền để có các quyết định tiếp theo liên quan đến hoạt động kinh doanh. Đối với người tiêu dùng thì dễ dàng so sánh, lựa chọn các hàng hoá có giá cả phù hợp. Đó cũng là tín hiệu để nhà kinh doanh điều chỉnh lại hoạt động của mình nhằm tìm kiếm thêm thu nhập trên thị trường. Hơn nữa, nhờ có chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã giúp cho việc định lượng và đánh giá các chỉ tiêu như GNP, GDP, thu nhập, thuế, chi phí sản xuất một cách dễ dàng. 3.3. Chức năng phương tiện tích luỹ giá trị -6-
  7. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện tích luỹ giá trị khi tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu thông và trở về trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu tiêu dùng trong tương lai. Khi tiền tệ chưa xuất hiện, người ta thường tích luỹ dưới dạng hiện vật. Hình thức này không tiện lợi vì phải có chỗ rộng rãi, phải tốn chi phí bảo quản, dễ hư hỏng, khó lưu động và ít sinh lời. Ở chế độ lưu thông tiền kim loại, người ta có quan niệm tích luỹ tiền tệ (tiền đúc bằng kim loại quý) như một dạng của cải xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, khi các doanh nghiệp muốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, khi tầng lớp dân cư có nhu cầu mua sắm những hàng hoá, tài sản có giá trị cao người ta thường tích luỹ dưới dạng tiền giấy hoặc số dư trên tài khoản tiền gửi ở ngân hàng. Trong thực tế, việc cất trữ có thể thực hiện bằng nhiều phương tiện khác như cổ phiếu, đất đai, nhà cửa đặc biệt trong điều kiện lạm phát, việc cất giữ các phương tiện trên có thể đề phòng sự giảm sức mua của đồng tiền. Song khi thực hiện chức năng này thì dự trữ tiền đã tạo một khả năng có thể chuyển đổi một cách nhanh chóng ra các tài sản khác. Vì vậy, việc lựa chọn phương tiện nào để dự trữ còn tuỳ thuộc vào việc sử dụng nó trong ngắn hạn hay dài hạn và chi phí để chuyển đổi từ phương tiện đó sang hàng hoá theo nhu cầu của người sở hữu. Ngày nay, việc dự trữ giá trị có thể được thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau và các phương tiện chuyển tải giá trị phải thoả mãn các điều kiện sau: - Giá trị dự trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện hiện thực - Giá trị dự trữ phải bằng những phương tiện được xã hội thừa nhận - Giá trị dự trữ phải có thời hạn II. CHẾ ĐỘ LƯU THÔNG TIỀN TỆ 1. Khái niệm chế độ lưu thông tiền tệ Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tổng giá trị tiền tệ so với tổng giá cả hàng hoá trong từng kỳ. Chế độ lưu thông tiền tệ là tổng hợp các quy định mang tính pháp luật có liên quan đến hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của mỗi nước nhằm đưa các nhân tố khác nhau của lưu thông tiền tệ đạt đến sự thống nhất. Sự phát triển của chế độ lưu thông tiền tệ không những tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà còn được quyết định bởi trình độ tổ chức của Nhà nước. Tuy nhiên cần lưu ý rằng chế độ lưu thông tiền tệ mà Nhà nước ban hành không phải là vấn đề đơn thuần về mặt luật pháp hay xuất phát từ ý thức chủ quan của Nhà -7-
  8. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng nước, mà để phát huy tác dụng tích cực của chế độ tiền tệ trong đời sống kinh tế xã hội. Vì thế, khi xây dựng chế độ tiền tệ phải bắt nguồn từ sự tồn tại các quan hệ kinh tế. 2. Các chế độ lưu thông tiền tệ 2.1. Chế độ lưu thông tiền kim loại Chế độ lưu thông tiền kim loại ứng với thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh trở về trước. 2.1.1. Chế độ đơn bản vị Đơn bản vị là chế độ tiền tệ lấy 1 thứ kim loại làm vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung là vật liệu đúc tiền có thể là đồng, kẽm, bạc hoặc vàng. - Nếu chế độ đơn bản vị với kẽm hoặc đồng làm bản vị và trở thành tiền đúc, gọi là chế độ lưu thông tiền kém giá. Nó phản ánh đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá kém phát triển. - Nếu chế độ đơn bản vị với vật ngang giá là bạc hoặc vàng và sự xuất hiện của tiền đúc bằng bạc hoặc vàng người ta gọi là chế độ lưu thông tiền đủ giá. 2.1.2. Chế độ song bản vị Chế độ song bản vị là chế độ tiền tệ mà vàng và bạc đều được sử dụng với tư cách là tiền tệ. Vàng và bạc đều là vật ngang giá, đều thực hiện chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông với quyền lực ngang nhau. Trong chế độ song bản vị có phân biệt 2 loại bản vị: - Bản vị song song: là bản vị mà theo đó tiền vàng và tiền bạc lưu thông trên thị trường theo giá trị thực tế của nó, nhà nước không can thiệp. Từ đó xuất hiện 2 thước đo giá trị và trong 1 nước có 2 hệ thống giá cả: hệ thống giá cả theo vàng và hệ thống giá cả theo bạc. Hai hệ thống này luôn thay đổi. - Bản vị kép: là song bản vị nhưng tiền vàng và tiền bạc lưu thông trên thị trường theo tỷ giá được nhà nước quy định (tỷ giá pháp định). Việc quy định tỷ giá nhằm khắc phục những rối loạn của chế độ bản vị song song. Tuy nhiên, chính tỷ giá pháp định lại sinh ra một rối loạn khác trong lưu thông tiền tệ: hiện tượng tiền xấu đuổi tiền tốt ra khỏi lưu thông. Vì vậy, tiền vàng biến khỏi lưu thông và trở thành thước đo giá trị, còn tiền bạc thì tràn đầy trong lưu thông. Đến giai đoạn này, chế độ song bản vị không còn tồn tại nữa mà chuyển sang chế độ bản vị vàng. 2.1.3. Chế độ bản vị vàng -8-
  9. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Là chế độ tiền tệ điển hình của chủ nghĩa tư bản. Trong chế độ này, 1 lượng vàng nhất định được nhà nước quy định làm tiêu chuẩn giá cả. Chế độ bản vị vàng có 3 đặc điểm: - Tiền vàng được đúc tự do theo tiêu chuẩn giá cả mà Nhà nước quy định và được thanh toán không hạn chế. - Tiền giấy được tự do đổi lấy tiền vàng theo giá trị danh nghĩa của tiền giấy nghĩa là đổi ngang giá. Từ đó sức mua của tiền giấy sẽ ổn định, đây là điều kiện quan trọng hàng đầu để ổn định và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Vàng được tự do luân chuyển giữa các nước, mọi người được tự do xuất nhập khẩu vàng. Với những đặc điểm trên, cho thấy bản vị vàng là chế độ tiền tệ ổn định không những là chế độ tiền tệ quốc gia mà còn là chế độ tiền tệ quốc tế thống nhất. 2.2. Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu (tiền giấy) là đặc trưng cơ bản của lưu thông tiền tệ trong giai đoạn phát triển sau này của CNTB. Tuy nhiên, trong thời kỳ phong kiến, tiền giấy đã xuất hiện sớm ở Trung Quốc (TK VII). Trong thời kỳ phong kiến, tiền giấy ra đời từ lý do là nó tạo ra thu nhập do việc in tiền và phát hành tiền cho các Nhà nước phong kiến, ngoài ra do các đế chế cần tập trung kim loại để chế tạo súng, đạn. khí giới đó cũng là nguyên nhân khiến tiền giấy ra đời. Đến giai đoạn phát triển của CNTB, lực lượng sản xuất phát triển nhanh nên làm nảy sinh sự khan hiếm tiền kim loại, mặt khác việc sử dụng tiền đúc trong lưu thông cũng có nhiều trở ngại vì nó bị hao mòn, bị biến chất. Và khi hệ thống ngân hàng phát triển thì càng tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu thông tín dụng. Vậy nguyên nhân ra đời của tiền dấu hiệu là xuất phát từ những đòi hỏi thực tế về lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ dưới tác động của hệ thống ngân hàng. Sử dụng tiền dấu hiệu trong chế độ lưu thông tiền tệ có 2 tác dụng lớn: - Giải quyết được tình trạng thiếu phương tiện trao đổi phát sinh từ chế độ lưu thông tiền kim loại. - Tiết kiệm nhiều chi phí cho xã hội. Tóm lại, tiền dấu hiệu là những phương tiện có thể thay thế được cho vàng trong chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. -9-
  10. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Có 2 chế độ lưu thông tiền giấy: - Chế độ lưu thông tiền giấy khả hoán: Đây là loại tiền giấy được chuyển đổi ra vàng 1 cách tự do và không hạn chế số lượng. - Chế độ lưu thông tiền giấy bất khả hoán: Là tiền giấy không chuyển đổi được ra vàng. III. QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ 1. Tính chất của quy luật Quy luật lưu thông tiền tệ do K.Marx nghiên cứu và phát hiện, làm nền tảng lý luận trong nghiên cứu tiền tệ ngày nay và trong điều hành chính sách tiền tệ. Theo ông, trong lưu thông, sự vận động của hàng hoá và sự vận động của tiền tệ giữ những vai trò khác nhau hoàn toàn. Hàng hoá vận động để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội và con người. Sự vận động đó là tương đối bất biến từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng. Còn tiền tệ vận động là để phục vụ cho sự vận động của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Vì vậy, nó luôn luôn vận động và tồn tại mãi trong lưu thông để phục vụ cho sự luân chuyển của sản phẩm xã hội. Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật kinh tế phổ biến, hoạt động trong bất kỳ một nền kinh tế, xã hội nào nếu ở đó còn tồn tại kinh tế hàng hoá, tồn tại tiền tệ và lưu thông tiền tệ. 2. Nội dung của quy luật Có thể nói, quy luật lưu thông tiền tệ chứa đựng 2 nội dung cơ bản: Thứ nhất, phản ánh mối quan hệ có tính quy luật giữa quy luật lưu thông hàng hoá với tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Trong đó sản xuất lưu thông hàng hoá bao giờ cũng vai trò cơ sở, quyết định còn tiền tệ và lưu thông tiền tệ có tác động ngược trở lại đối với sản xuất lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường phát triển sự vận động của hàng hoá và sự vận động của tiền tệ xoắt xuýt với nhau nhưng lưu thông hàng hoá bao giờ cũng giữ vai trò cơ sở cho lưu thông tiền tệ. K.Marx nói: “Sự vận động mà lưu thông hàng hoá buộc lưu thông tiền tệ phải theo, làm cho tiền tệ luôn luôn xa rời điểm xuất phát của nó để luôn luôn chuyển từ tay người này sang tay người khác: Đó là cái mà người ta gọi là Lưu thông tiền tệ”. -10-
  11. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Lưu thông tiền tệ diễn ra một cách có quy luật. Quy luật đó bắt nguồn từ chỗ lưu thông hàng hoá là cơ sở lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá chỉ thu hút một khối lượng tiền tệ nhất định. Như vậy lưu thông tiền tệ, không chỉ là quy luật xác định khối lượng lưu thông tiền tệ cần thiết cho lưu thông, mà nó còn chỉ rõ mối quan hệ có tính quy luật giữa các yếu tố số lượng hàng hoá dịch vụ, mức giá cả, số lượng tiền tệ và tốcđộ lưu thông tiền tệ. Thứ hai: Đưa ra công thức cơ bản, công thức tổng quát để xác định nhu cầu tiền tệ cho nền kinh tế (khối lượng tiền tệ cần thiết cho nền kinh tế) và đi đến kết luận có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn: - Nhu cầu tiền tệ tăng giảm tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế - nghĩa là sản xuất, lưu thông hàng hoá gia tăng thì nhất định làm tăng nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế. - Nhu cầu tiền tệ tăng giảm tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông tiền tệ (Velocity of Money). K.Marx viết: Như vậy tổng số lượng tiền hoạt động với tư cách là phương tiện lưu thông trong mỗi một khoảng thời gian nhất định, một mặt được quyết định bởi tổng số giá cả của thế giới hàng hoá đang lưu thông và mặt khác bởi tốc độ nhanh hay chậm của những quá trình ngược nhau của lưu thông hàng hoá, tuỳ theo tốc độ này mà một bộ phận lớn hay nhỏ trong tổng số giá cả có thể được thực hiện với cùng một đồng tiền. K.Marx cho rằng lưu thông tiền tệ là: “quy luật theo đó số lượng các phương tiện lưu thông được quyết định bởi tổng số giá cả các hàng hoá đang lưu thông và tốc độ lưu thông trung bình của tiền” Quy luật ấy còn có thể diễn đạt như sau: Với một tổng số giá trị hàng hoá nhất định và với một tốc độ trung bình nhất định của những sự biến đổi hình thái của các hàng hoá, thì số lượng tiền hay vật liệu tiền đang lưu thông sẽ phụ thuộc vào bản thân của giá trị vật liệu này. Từ quy luật trên, có thể rút ra những kết luận quan trọng sau đây: Một là: Số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông (nhu cầu tiền tệ) được quyết định bởi 3 yếu tố: - Tổng số lượng hàng hoá dịch vụ; - Mức giá cả; - Tốc độ lưu thông tiền tệ -11-
  12. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Trong đó nhu cầu tiền tệ biến đổii tỷ lệ thuận với hai yêú tố đầu và tỷ lệ nghịch với yếu tố thứ ba. Hai là, số lượng tiền tệ trong lưu thông có ảnh hưởng ngược trở lại với mức giá cả hàng hoá. Từ sự phân tích nói trên, nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ cho rằng khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định phụ thuộc vào tổng giá cả của hàng hoá được sản xuất đưa vào lưu thông và tốc độ lưu thông tiền tệ trong thời gian đó. H ∑ PxQ Công thức: Mc = = V V Trong đó: Mc: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông H: Tổng giá cả hành cần được thực hiện P: Giá cả hàng hoá Q: Khối lượng hàng hoá đưa vào lưu thông V: Tốc độ lưu thông của tiền tệ 3. Ý nghĩa của quy luật Nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ của K.Marx cũng như tiếp thu có chọn lọc những học thuyết tiền tệ của các nhà kinh tế học nổi tiếng một cách đúng đắn và có cơ sở khoa học về phạm trù kinh tế tiền tệ nói riêng và nền kinh tế tiền tệ nói chung giúp việc hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ hợp lý. Qua đó, đảm bảo cung cấp đầy đủ các phương tiện cho nền kinh tế nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển. IV. CUNG CẦU TIỀN TỆ 1. Cầu tiền tệ 1.1. Khái niệm cầu tiền tệ Cầu tiền tệ là số lượng tiền tệ mà dân chúng, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các cơ quan Nhà nước cần nắm giữ để thoả mãn các nhu cầu giao dịch, dự phòng và tích luỹ. 1.2. Thành phần và các nhân tố ảnh hưởng mức cầu tiền tệ * Mức cầu giao dịch Là nhu cầu tiền tệ với tư cách là phương tiện trao đổi nhằm phục vụ cho nhu cầu giao dịch hàng ngày của các chủ thể trong xã hội như mua hàng, trả công, trả lương, thanh toán nợ Mức cầu giao dịch chịu tác động bởi 3 nhân tố cơ bản: -12-
  13. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng - Chi phí giao dịch liên quan đến việc mua bán các tài sản sinh lời khi cần thiết. Chi phí này càng cao mức cầu tiền giao dịch càng lớn. - Mức lãi suất ròng (chi phí cơ hội) phải trả khi nắm giữ tiền. Nếu chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền tăng lên thì mức cầu tiền giao dịch giảm. - Mức thu nhập. Nhu cầu chi tiêu tăng lên cùng với sự tăng lên của thu nhập định kỳ. * Mức cầu tiền dự phòng Là nhu cầu tiền nhằm đáp ứng các khoản chi tiêu không dự tính trước được khi có các nhu cầu đột xuất như ốm đau, hỏng xe, tai nạn hoặc giá cả tăng Mức cầu tiền dự phòng chịu tác động của các nhân tố như: - Tính lỏng của các tài sản tài chính. Nếu các tài sản tài chính được nắm giữ với tính lỏng cao thì nhu cầu tiền dự phòng giảm xuống và ngược lại. - Sự biến động của các chính sách vĩ mô, môi trường kinh tế, thất nghiệp cũng ảnh hưởng đến nhu cầu tiền dự phòng. * Mức cầu tiền đầu tư Là lượng tiền cần nắm giữ nhằm quản lý tài sản một cách linh hoạt và có hiệu quả trên cả hai góc độ: tối đa hoá lợi nhuận và an toàn. Nhu cầu về tiền tệ để phục vụ cho nhu cầu đầu tư phụ thuộc vào 2 nhân tố quan trọng là: - Lãi suất tín dụng ngân hàng. - Mức lợi nhuận từ hoạt động đầu tư 2. Cung tiền tệ 2.1. Khái niệm cung tiền tệ Cung tiền tệ là việc tạo ra và đưa vào lưu thông tổng phương tiện đóng vai trò tiền để đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền trong nền kinh tế. Khối lượng tiền trong nền kinh tế được cung ứng từ những tác nhân sau: - Ngân hàng Trung ương - Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng - Các tổ chức tài chính phi ngân hàng 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng mức cung tiền Cung tiền tệ trong nền kinh tế do ngân hàng Trung ương quyết định thông qua chính sách tiền tệ. Khi ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì -13-
  14. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng mức cung tiền giảm và ngược lại. Các yếu tố làm cơ sở để ngân hàng Trung ương quyết định đến chính sách tiền tệ của mình là: - Chỉ số trượt giá và tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế - Tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ - Mức độ thâm hụt ngân sách Nhà nước - Mức độ thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế 2.3. Các khối tiền trong lưu thông Thành phần mức cung tiền tệ thay đổi thường xuyên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và khác nhau giữa các nước. Một cách chung nhất, thành phần mức cung tiền tệ có thể được trình bày khái quát như sau: * Khối M1 bao gồm: - Tiền mặt trong lưu thông - Tiền gửi không kỳ hạn Đây là một bộ phận tiền tệ có tính lỏng cao nhất và sử dụng chủ yếu cho nhu cầu giao dịch hàng ngày. Kết cấu M1 gần như giống nhau giữa các nước (trừ trường hợp ở Mỹ, M1 còn bao gồm séc du lịch). Sự khác nhau bắt đầu được thể hiện trong kết cấu của khối tiền M2 trở đi và khối tiền càng rộng thì tính lỏng càng giảm. * Khối M2 bao gồm: - M1 - Tiền gửi tiết kiệm (tiền gửi có kỳ hạn) So sánh tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn cho thấy tính thanh khoản của hai loại tài sản này là khác nhau, người gửi tiền phải trả chi phí tài chính hoặc chi phí thời gian cho tiền gửi tiết kiệm trong trường hợp rút tiền trước hạn, do vậy, tính thanh khoản của tiền gửi tiết kiệm là thấp hơn tiền gửi không kỳ hạn. - Hợp đồng tín dụng ngắn hạn * Khối M3 bao gồm: - M2 - Một số khoản tín dụng ngắn hạn có khả năng chuyển đổi - Một số chứng khoán nợ như tín phiếu Kho bạc, trái phiếu chính phủ * Khối M4 bao gồm: - M3 - Giấy chứng nhận sở hữu bất động sản -14-
  15. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Chương II LẠM PHÁT TIỀN TỆ I. KHÁI NIỆM VÀ ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT 1. Khái niệm lạm phát Một trong những vấn đề hóc búa nhất mà các xã hội phải đối mặt trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường là lạm phát. Tuy nhiên, đó là thách thức mà các xã hội đó phải vượt qua nếu muốn hưởng những lợi ích vật chất mà nền kinh tế thị trường có thể mang lại. Có nhiều quan điểm nhìn nhận và định nghĩa lạm phát rất khác nhau: - Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng lên liên tục của giá cả, nói cách khác đó là tình trạng mức giá cả tăng và tăng liên tục. - Quan điểm khác cho rằng lạm phát là việc phát hành tiền giấy vượt quá mức đảm bảo bằng vàng, bạc, ngoại tệ của quốc gia, vì vậy gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hoá bị đẩy lên cao. - Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và hàng trong nền kinh tế, sự mất cân đối khiến cho giá cả tăng lên nhanh ở mọi lúc mọi nơi. Từ những quan điểm trên có thể đưa ra một khái niệm về lạm phát như sau: Lạm phát là hiện tượng kinh tế khi trong lĩnh vực lưu thông tràn ngập khối lượng tiền thừa, làm cho tiền tệ ngày càng bị mất giá so với toàn bộ sản phẩm, hàng hóa, vàng, ngoại tệ và được đo lường bằng chỉ số giá cả tổng quát ngày càng tăng. 2. Đo lường lạm phát Vì sự thay đổi giá cả hàng hoá và dịch vụ không đều nhau, có mặt hàng tăng giá nhanh, một số khác tăng chậm thậm chí có mặt hàng giảm giá, nên để đo lường lạm phát có thể đo lường qua các chỉ số sau: 2.1. Chỉ số giá tiêu dùng xã hội (CPI) (Consumer Price Index): (CPI là chỉ số được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức độ lạm phát) CPI đo lường mức giá bình quân của một nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho tiêu dùng của các hộ gia đình trong một giai đoạn nhất định. Người ta thường chọn một rổ hàng tiêu dùng có chia các nhóm: áo quần, nhà cửa, chất đốt, vận tải, y tế và xác định mức độ quan trọng của từng nhóm hàng trong tổng chi tiêu để làm căn cứ -15-
  16. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng tính chỉ số giá bình quân. Vào đầu kỳ tính CPI thì các số liệu về giá cả hàng hoá, dịch vụ cần thiết được thu thập và sau đó chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị hiện tại và giá trị gốc của rổ hàng hoá, dịch vụ được lựa chọn. Ở Việt Nam, CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá bình quân được thông báo hàng tháng, hàng quý và hàng năm. Hiện nay để tính CPI, một rổ hàng hoá được lựa chọn bao gồm 400 mặt hàng được phân thành 138 nhóm cấp 4, 86 nhóm cấp 3, 35 nhóm cấp 2 và 10 nhóm cấp 1. Quyền số gốc để tính mức giá bình quân là cơ cấu chi tiêu hộ gia đình theo kết quả điều tra kinh tế hộ gia đình năm 2000. Trên cơ sở xác định được chỉ số giá tiêu dùng bình quân, tỷ lệ lạm phát phản ánh sự thay đổi mức giá bình quân của giai đoạn này so với giai đoạn trước và được tính theo công thức sau: Mức giá năm hiện tại - Mức giá năm trước Tỷ lệ lạm phát = x 100 Mức giá năm trước 2.2. Chỉ số giá cả sản xuất PPI (Producer Price Index). Đây là chỉ số giá thành sản xuất của một số mặt hàng và dịch vụ tiêu biểu. Ở Mỹ người ta sử dụng giá của 3.400 loại hàng hoá để tính PPI. Chỉ số này thường được các doanh nghiệp sử dụng, cách tính của PPI hoàn toàn giống như cách tính của CPI. II. PHÂN LOẠI LẠM PHÁT Tùy theo tiêu thức dùng để phân loại lạm phát mà có các loại lạm phát khác nhau. Thông thường người ta phân loại lạm phát trên cơ sở định lượng và định tính. 1.Về mặt định lượng Đó là dựa trên tỷ lệ phần trăm lạm phát được tính trong năm, phân theo cách này thì lạm phát có các loại sau: - Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát ở mức một con số (dưới 10%/năm). Loại lạm phát này được xem là là tích cực và cần thiết vì nó có khả năng tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. - Lạm phát phi mã: là loại lạm phát ở mức hai đến ba con số, từ 10%, 100%, 900% một năm. Loại lạm phát này tác động tiêu cực đến nền kinh tế, với những hậu quả cực kỳ khó khăn cho đời sống kinh tế, xã hội, chính trị trong nước. -16-
  17. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng - Siêu lạm phát: là loại lạm phát 4 con số, từ 1000 % trở lên. Đây thực sự là một giai đoạn cực kỳ hỗn loạn, bất ổn định kinh tế xã hội và đời sống nhân dân. 2. Về mặt định tính - Lạm phát thuần túy: đây là trường hợp đặc biệt của lạm phát, hầu như giá cả của mọi loại hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian. - Lạm phát cân bằng: là loại lạm phát có mức giá chung tăng tương ứng với mức tăng thu nhập. - Lạm phát được dự đoán trước: là lạm phát mà mọi người có thể dự đoán trước nhờ vào sự diễn tiến liên tục theo chuỗi thời gian trong nhiều năm. - Lạm phát không được dự đoán trước: là lạm phát xảy ra bất ngờ, ngoài sự tiên liệu của mọi người về quy mô, cường độ cũng như mức độ tác động. - Lạm phát cao và lạm phát thấp: theo quan điểm của Gary Smith thì lạm phát cao là mức lạm phát mà tỷ lệ tăng thu nhập tăng thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ngược lại lạm phát thấp là mức tăng thu nhập tăng tăng cao hơn mức độ tăng của tỷ lệ lạm phát. III. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA LẠM PHÁT 1. Nguyên nhân của lạm phát Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến lạm phát và mỗi loại lạm phát được xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau. Các nguyên nhân này có thể xuất phát từ phía tổng cầu trong nền kinh tế, cũng có thể là các nguyên nhân xuất phát từ phía cung, và cũng có thể chúng xuất hiện đồng thời có cả phía cung lẫn phía cầu. Trong khi quan sát thực tế có thể nhận thấy rằng, trong môi trường đang có lạm phát thì bản thân môi trường đó nó cũng có khả năng và là nguyên nhân thúc đẩy hoặc tiếp tục gây ra một chu trình lạm phát mới, tức là tạo sự lẫn quẩn trong vòng xoáy lạm phát. Dù có sự khác nhau, nhưng tựu trung lại thì những nguyên nhân của lạm phát có thể được xếp vào các nhóm chủ yếu sau: 1.1. Lạm phát do cầu kéo (Demand pull inflation) Nguyên nhân này xảy ra khi tổng cầu trong nền kinh tế cao hơn tổng cung trong cùng thời điểm đó. Trường hợp này xuất hiện có thể là do tổng cầu tăng nhưng tổng cung không đổi, hoặc tổng cung cũng tăng nhưng tăng không bằng tổng cầu. - Khi tổng cầu tăng như vậy tức là có nhiều người muốn mua và sẵn sàng mua hàng hóa, trong khi đó lượng cung không tăng hoặc tăng ít hơn, thì đương nhiên trên thị trường sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt hàng hóa, theo quy luật cung cầu thì trong -17-
  18. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng trường hợp này giá cả thị trường tăng lên là điều tất yếu. Như vậy đã xuất hiện lạm phát. - Tổng cầu trong nền kinh tế bao gồm chi tiêu của hộ gia đình-C, chi tiêu của Chính phủ-G, đầu tư trong nền kinh tế-I, nhu cầu hàng hóa cho xuất khẩu-X, lượng hàng hóa nhập khẩu-M, (hàng hóa nhập khẩu làm phong phú thêm hàng hóa trong nước làm giảm căng thẳng của tổng cầu nên được biểu diễn bằng dấu âm (-) trong biểu thức cộng các yếu tố của tổng cầu). Nếu gọi tổng cầu là AD thì: AD = C + I + G + X - M. Tổng cầu tăng có thể do một hoặc một số các yếu trong vế bên phải của biểu thức tăng lên: + Các hộ gia đình tăng chi tiêu do thu nhập tăng, hoặc được Chính phủ giảm thuế, hoặc cảm thấy các chế độ an sinh xã hội hay bảo hiểm tốt nên quyết định cắt giảm tiết kiệm để chi tiêu, hoặc được Chính phủ tăng trợ cấp. + Chính phủ tăng các khoản chi tiêu cho an ninh quốc phòng, tăng các khoản đầu tư của Chính phủ, cũng làm tăng tổng cầu. + Các doanh nghiệp tăng đầu tư do xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn. + Kim ngạch XNK thay đổi theo hướng chênh lệch (X-M) ngày càng tăng do đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ, do chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn nên bán được nhiều hơn, do công tác quảng cáo giới thiệu tốt hơn. + Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, làm lãi suất giảm, các doanh nghiệp vay tiền đầu tư nhiều hơn, bên cạnh đó dân chúng hạn chế gửi tiền vào ngân hàng mà rút ra mua hàng hóa hay đầu tư vào chứng khoán, cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng đầu tư. Đó là một số nhân tố gây lạm phát xuất phát từ phía tổng cầu trong nền kinh tế, tiếp theo chúng ta sẽ bàn đến lạm phát do chi phí đẩy. 1.2. Lạm phát do chi phí đẩy (Cost push inflation) Lạm phát loại này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc năng lực sản xuất của nền kinh tế giảm sút. Chi phí đầu vào tăng có thể do giá các nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất tăng. Điều kiện khai thác khó khăn hơn đòi hỏi nhiều chi phí hơn, thiên tai làm mất mùa, lụt bão, động đất làm giảm năng lực sản xuất, khủng hoảng ngành dầu mỏ do các liên minh dầu mỏ tăng giá hoặc chiến tranh làm tăng giá. Khi giá dầu tăng làm tăng chi -18-
  19. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng phí trong ngành năng lượng, từ đó làm tăng chi phí đầu vào trong các ngành khác. Các chi phí sản xuất tăng làm tăng giá thành sản phẩm và buộc doanh nghiệp tăng giá bán để bù đắp chi phí. Giá bán của các hàng hoá tăng - tạo lạm phát. Nhưng mặt khác giá bán tăng kéo dài, theo quy luật cung cầu sẽ làm tổng cầu giảm xuống, các doanh nghiệp sẽ cắt giảm sản xuất, sa thải công nhân. Hậu quả dẫn đến cho nền kinh tế lúc này là vừa có lạm phát lại vừa bị suy thoái. Nếu lạm phát do cầu kéo ở mức vừa phải là một điều kiện rất tốt cho nền kinh tế, nó sẽ kích thích đầu tư mở rộng sản xuất, người ta còn ví nó như một chất dầu mở dùng để bôi trơn cho bộ máy kinh tế. Nhưng lạm phát chi phí đẩy thì dù bất kỳ mức độ nào cũng đều không tốt, vì bản thân nó đã mang trong mình sự suy thoái kinh tế. Cùng một hiện tượng là lạm phát, nhưng bản chất và nguyên nhân khác nhau nên tác động của chúng là khác nhau. 1.3. Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: công nhân, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị gần như được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung hàng hoá và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng tắc nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng mất cân đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất yếu. Cũng cần lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế tổ chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra một khối lượng hàng hóa và dịch vụ đầy đủ để thoả mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường hợp này cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát. 1.4. Một số nguyên nhân khác - Những nguyên nhân chủ quan có liên quan đến chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước: chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách tiền tệ và tài chính của Nhà nước không phù hợp làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt thì điều tất yếu là Nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối với một số quốc gia, trong những điều kiện nhất định, Nhà nước chủ trương dùng lạm phát như là một công cụ để thực hiện chính sách phát triển kinh tế. -19-
  20. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng - Những nguyên nhân khách quan đưa đến như thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới - Những nguyên nhân khác liên quan đến nội tại của đất nước như: chiến tranh, nội chiến, khủng hoảng chính trị làm cho đồng tiền không còn giữ được chức năng thước đo giá trị. 2. Hậu quả của lạm phát Tác động kinh tế - xã hội của lạm phát rất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ lạm phát, khả năng dự đoán chính xác sự biến động của mức lạm phát. Khi giá cả có xu hướng tăng lên từ thời gian này qua thời gian khác, mọi người đều nhận thức được thực tế đó và cố gắng dự đoán tỷ lệ lạm phát trong thời gian tới. Tỷ lệ mà mọi người dự đoán rằng lạm phát sẽ đạt tới gọi là tỷ lệ lạm phát dự tính hoặc tỷ lệ lạm phát được trông đợi. Nếu dự đoán này đúng với tỷ lệ lạm phát thực tế xảy ra thì loại lạm phát đó là lạm phát có thể dự tính được. Ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát trông đợi không giống với tỷ lệ lạm phát thực tế xảy ra thì loại lạm phát đó là lạm phát không dự tính được. Những ảnh hưởng của lạm phát sẽ khác nhau tuỳ thuộc đó là loại lạm phát có thể dự tính được hoặc không thể dự tính được. 2.1. Đối với lạm phát dự tính được Trong trường hợp lạm phát có thể được dự tính trước thì các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó. Tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội. - Chi phí da giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát. - Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm. - Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp -20-
  21. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô. - Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: Trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế. - Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước đo này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình. 2.2. Đối với lạm phát không dự tính được Điều nguy hiểm của lạm phát không chỉ nằm ở mức độ lạm phát mà nó còn ở sự xuất hiện bất ngờ của nó. Khi tỷ lệ lạm phát biến động ngoài dự tính, nó tạo nên sự biến động bất thường về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị, ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội: - Lạm phát tạo nên sự bất ổn trong môi trường kinh tế - xã hội Sự biến động bất thường của tỷ lệ lạm phát từ thời gian này đến thời gian khác gây khó khăn trong việc xác định mức sinh lời chính xác của các khoản đầu tư. Điều này tạo nên một tâm lý ngần ngại khi quyết định đầu tư, nhất là đầu tư vào các dự án đầu tư dài hạn. Hơn nữa sự bất ổn định của thu nhập có thể làm cho người đầu tư thích đầu tư vào các tài sản tài chính hơn là các dự án đầu tư thật sự. Kết quả là nguồn lực của xã hội bị phân bổ một cách thiếu hiệu quả và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện lạm phát biến động, các quyết định tài chính cũng bị bóp méo, các doanh nghiệp thích vay ngắn hạn hơn là bị ràng buộc chặt vào các hợp đồng vay dài hạn với lãi suất cố định, chứa đựng rủi ro lãi suất tiềm năng. Lạm phát cũng gây những ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường lao động khi các công đoàn tìm cách đấu tranh đòi tăng lương danh nghĩa với nguy cơ của các cuộc đình công hoặc sự đe dọa của một tỷ lệ lạm phát cao hơn. - Lạm phát làm phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội Khi lạm phát tăng, tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên, nhưng trong đó chứa đựng sự phân phối lại thu nhập giữa các nhóm dân cư với nhau: giữa giới chủ và người -21-
  22. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng làm công, giữa người cho vay và người đi vay, giữa Chính phủ với người đóng thuế. Nói tóm lại, tác động chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tác động không thể đoán trước đối với giá trị thực tế của thu nhập và của cải của nhân dân. - Lạm phát làm cho lãi suất tăng Lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa tăng lên bởi tỷ lệ lạm phát dự tính tăng. Vấn đề nảy sinh khi tỷ lệ lạm phát dự tính cấu thành trong mức lãi suất danh nghĩa không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế và ảnh hưởng đến mức lãi suất thực. Điều này, có nghĩa chính lạm phát gây ra những ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư và cuối cùng ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng kinh tế. - Lạm phát làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát nước ngoài thì hàng xuất khẩu trong nước trở nên kém hấp dẫn vì giá cả tăng lên, trong khi hàng xuất khẩu của nước ngoài trở lại rẻ hơn, thúc đẩy nhập khẩu, làm xấu đi tình trạng của tài khoản vãng lai gây áp lực đối với tỷ giá. Tỷ lệ lạm phát cao cùng với tỷ lệ bội chi tài khoản vãng lai có thể tạo tâm lý trông đợi vào sự giảm giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ, từ đó tạo nên áp lực mạnh hơn đối với tỷ giá và nếu điều này thực sự xảy ra thì có thể đẩy mức lạm phát trong nước cao hơn bởi giá của hàng nhập khẩu trở nên đắt, đẩy mức giá cả chung tăng lên. - Lạm phát ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp Mức giá chung tăng lên có thể gây nên sự giảm sút của tổng cầu và công ăn việc làm, do đó gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Tổng cầu giảm khi lãi suất danh nghĩa tăng lên, giá trị tài sản thực tế giảm xuống và sự giảm sút của khả năng cạnh tranh quốc tế. IV. CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ngày nay, trong thời đại lưu thông tiền giấy bất khả hoán, lạm phát hầu như là hiện tượng tất yếu ở các nước song chỉ khác nhau ở mức độ cao, thấp. Trải qua lịch sử lạm phát hiện đại hầu như chưa có nước nào có thể dập tắt hoàn toàn lạm phát, mà chỉ có kiềm chế, kiểm soát lạm phát ở mức độ phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm. Các biện pháp kiềm chế lạm phát rất đa dạng, tuỳ theo điều kiện của mỗi quốc gia mà có thể áp dụng những biện pháp khác nhau. Có thể chia các biện pháp kiềm chế lạm phát thành hai loại: những biện pháp cấp bách và những biện pháp chiến lược. -22-
  23. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng 1. Những biện pháp cấp bách Những biện pháp cấp bách hay còn gọi là những biện pháp tình thế. Áp dụng những biện pháp này với mục đích giảm tức thời cơn sốt lạm phát, để có cơ sở áp dụng những biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Khi nền kinh tế xảy ra tình trạng lạm phát cao hoặc siêu lạm phát, để kiềm chế lạm phát các nước thường áp dụng những biện pháp tình thế sau: * Biện pháp về chính sách tài khoá Áp dụng biện pháp về chính sách tài khoá có ý nghĩa quan trọng và then chốt vì trong nhiều trường hợp Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt là nguyên nhận chính của lạm phát, do đó nếu dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ được ổn định, lạm phát sẽ được kiềm chế. Khi lạm phát tăng ở mức độ phi mã hoặc siêu lạm phát, Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp như: - Tiết kiệm triệt để trong chi tiêu Ngân sách Nhà nước, cắt giảm những khoản chi chưa cấp bách. - Tăng thuế trực thu để tăng nguồn thu cho ngân sách - Vay nợ trong nước và nước ngoài không đi kèm điều kiện chính trị * Biện pháp thắt chặt tiền tệ Để góp phần giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, Nhà nước có thể thực hiện chính sách siết chặt lượng cung tiền tệ bằng nhiều biện pháp khác nhau như: - Ngừng phát hành tiền lưu thông hay còn gọi là “đóng băng tiền tệ” Ngân hàng Trung ương tạm ngừng thực hiện các nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho vay theo hồ sơ tín dụng. Ngay cả số bội chi của Ngân sách Nhà nước cũng không được phát hành tiền để bù đắp. Mục đích của biện pháp này là không cho tăng thêm tiền trong lưu thông. - Nâng cao lãi suất tín dụng Lãi suất tiền gửi tăng, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm có tác dụng thu hút tiền mặt trong dân cư và doanh nghiệp vào ngân hàng. Một tác hại có thể xảy ra là nếu lãi suất tiền gửi cao hơn lợi tức đầu tư thì các nhà kinh doanh sẽ không đầu tư cho sản xuất nữa mà tìm cách đưa vốn của mình vào ngân hàng vì nó đưa đến lợi tức cao mà không chịu sức ép rủi ro lớn. Mặt khác, lãi suất cho vay tăng cũng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của các ngân hàng. -23-
  24. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng - Quản lý và hạn chế khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. * Biện pháp kiềm chế giá cả Để chống lại sự tăng giá của hàng hóa, Nhà nước có thể thực hiện chính sách kiềm giữ giá cả bằng nhiều biện pháp khác nhau như: - Nhập hàng hoá của nước ngoài để bổ sung cho khối lượng hàng hóa trong nước tạo ra một sự cân bằng giữa cung và cầu hàng hóa. Đây là biện pháp “chữa cháy” tuy rất hữu hiệu trong việc chặn đứng sự khan hiếm hàng hóa nhưng có nhiều mặt hạn chế. - Nhà nước bán vàng và ngoại tệ nhằm thu hút tiền mặt trong lưu thông, ổn định giá vàng, ổn định tỷ giá hối đoái, từ đó tạo tâm lý ổn định giá cả các mặt hàng khác. - Quản lý thị trường, chống đầu cơ tích trữ * Biện pháp đóng băng lương và đóng băng giá Ở đây trước hết cần có sự cam kết của các nhà lãnh đạo công đoàn chấp nhận đóng băng lương vì việc tăng lương không giúp ích gì cán bộ công nhân viên, bời vì thông thường sau khi tăng lương thì giá cả cũng tăng. Mặt khác, hiệp hội các chủ doanh nghiệp cũng phải cam kết đóng băng giá. Thoả hiệp đó phải được Nhà nước công nhận và về phần mình Nhà nước cam kết cố gắng hết sức giữ các yếu tố khác không diễn biến xấu hơn như không làm tăng thêm số thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, cố gắng giảm thiểu số thiếu hụt đó. Đạt được một thoả hiệp như vậy là một yếu tố rất quan trọng trong tiến trình kiềm chế lạm phát. * Biện pháp cải cách tiền tệ Đây là biện pháp tình thế bắt buộc khi lạm phát ở mức độ cao mà việc vận dụng các biện pháp trên không đưa lại kết quả như mong muốn. Ở đây, Nhà nước huỷ hoặc thu hồi tiền cũ, phát hành tiền mới để lập lại trật tự mới trong lưu thông tiền tệ. 2. Những biện pháp chiến lược Đây là biện pháp nhằm tác động đồng bộ lên mọi mặt hoạt động của nền kinh tế, với ý tưởng tạo ra một sức mạnh về tiềm lực kinh tế của đất nước, tạo cơ sở để ổn định tiền tệ vững chắc. Trong thực tiễn, những biện pháp thường được áp dụng là: * Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn Do lưu thông hàng hóa là tiền đề của lưu thông tiền tệ nên nếu quỹ hàng hóa được tạo ra có số lượng lớn, chất lượng cao, chủng loại phong phú thì đây là tiền đề -24-
  25. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng vững chắc nhất để ổn định lưu thông tiền tệ, nhằm huy động tốt các nguồn lực để phát triển kinh tế. Nhà nước cần xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, trong đó cần chú trọng điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển ngành mũi nhọn xuất khẩu. * Kiểm soát thường xuyên thu chi Ngân sách Nhà nước Chính sách thu phải khai thác và quản lý chặt chẽ các nguồn thu, tăng thu từ thuế chủ yếu dựa trên cơ sở mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu có hiệu quả. Ngân sách Nhà nước phải đảm bảo tính hiệu quả và tiết kiệm. Thực hiện cân đối ngân sách tích cực làm cơ sở cho các cân đối khác trong nền kinh tế. * Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo Ở đây các nhà kinh tế chủ trương cần phải xoá bỏ mọi ngăn cản đối với hoạt động của thị trường. Nếu quá trình cạnh tranh được nâng cao lên ở mức độ hoàn hảo thì giá cả sẽ có xu hướng giảm xuống. Mặt khác, cạnh tranh thúc đẩy các nhà kinh doanh cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý và do đó giảm được chi phí sản xuất kinh doanh, giảm được giá bán hàng hóa. * Dùng lạm phát để chống lạm phát Đối với các quốc gia còn nhiều tiềm năng về lao động, đất đai, tài nguyên Nhà nước có thể tăng chỉ số phát hành tiền để có nguồn lực tăng chi phí cho việc mở rộng đầu tư và hy vọng các công trình đầu tư này mang lại hiệu quả và góp phần kiềm chế lạm phát. Áp dụng biện pháp này đòi hỏi phải có một tiềm lực mạnh về các yếu tố sản xuất, có trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến, trình độ quản lý kinh tế cao thì mới có thể thành công được. V. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁT KIỀM CHẾ LẠM PHÁT NHẰM ỔN ĐỊNH TIỀN TỆ TRONG ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY Việt Nam đã trải qua thời kỳ lạm phát cao kéo dài với những ảnh hưởng nặng nề trong suốt thập kỷ 80, được coi như là hậu quả tất yếu của cơ chế quản lý kinh tế thiếu hiệu quả và tình trạng bao cấp tràn lan. Mặc dù lạm phát đã được kiềm chế ở mức một con số trong những năm 90, nhưng sự bất ổn của nó cùng với những biểu hiện lạm phát cao gần đây đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà làm chính sách. Căn cứ vào mức độ, tính chất và nguyên nhân chủ yếu của lạm phát ở Việt Nam có thể được chia thành các giai đoạn như sau: -25-
  26. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng 1. Giai đoạn 1976 - 1980 Lạm phát ở Việt Nam là lạm phát “ngầm” nghĩa là tuy chỉ số giá cả ở thị trường có tổ chức tăng không nhiều bởi chính sách kiềm chế giá cả, nhưng chỉ số này ở thị trường tự do lại tăng khá cao. Mặc dù vậy, mức giá cả chung tăng với tốc độ chậm bởi vào thời gian này ở khu vực thị trường có tổ chức chiếm tỷ trọng quyết định trong cung cấp hàng hóa tiêu dùng cho xã hội và thói quen hạn chế tiêu dùng trong chiến tranh, điều này làm giảm sự căng thẳng trong quan hệ cung cầu hàng hóa. Tuy nhiên, tình trạng phát hành bù đắp sự thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước liên tục với số lượng lớn nhằm bù lỗ, bù giá và thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội đã làm cho mức giá chung thời kỳ 1976-1980 tăng 2,62 lần trong khi tổng sản lượng thực tế tăng 5,8%, thu nhập quốc dân tăng 1,5%. 2. Giai đoạn 1980-1989 Đây là thời kỳ lạm phát phi mã với chỉ số giá cả thưởng xuyên ở mức 3 con số. Giá cả ở thị trường có tổ chức và thị trường tự do đều tăng mạnh. Trong đó giá cả thị trường tự do tăng nhanh hơn kéo theo sự điều chỉnh giá trên thị trường có tổ chức. Những ảnh hưởng lạm phát bao trùm lên tất cả các lĩnh vực: sản xuất, tiêu dùng, tài chính tín dụng, đời sống nhân dân và sự ổn định của chế độ chính trị. Nguyên nhân chủ yếu của lạm phát thời kỳ này là do nhu cầu có khả năng thanh toán tăng lên vượt xa so với khả năng cung ứng hàng hoá của xã hội. Lạm phát còn xuất phát từ sự thiếu hiệu quả trong kinh doanh do sử dụng lao động và phân bổ các nguồn lực xã hội không hợp lý, không tôn trọng yêu cầu hạch toán kinh tế dẫn đến làm tăng giá thành sản phẩm và làm suy giảm mức sản lượng thực tế. Tuy nhiên nguyên nhân sâu xa của tất cả các vấn đề trên là do cơ chế quản lý kinh tế quan liêu, mệnh lệnh dựa trên chế độ công hữu và Nhà nước nắm độc quyền trên tất cả các lĩnh vực. 3. Giai đoạn 1990-2006 Trong giai đoạn này Chính phù đã thực hiện đồng thời các giải pháp, trước hết là các biện pháp hạn chế sự tăng cầu quá mức đã được áp dụng đem lại kết quả tức thời: hạn chế chi tiêu ngân sách, khơi tăng nguồn thu, giảm bội chi, hạn chế và tiến tới ngừng phát hành tiền bù đắp thiếu hụt ngân sách (từ năm 1992). Chính sách tiền tệ khan hiếm bắt đầu được sử dụng để kiểm soát lượng cung tiền, cùng với sự thay đổi trong khái niệm về tiền tệ cũng như quản lý tiền tệ, hệ thống ngân hàng đã được cải -26-
  27. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng tiến theo hướng hiệu quả và chất lượng nhằm tăng cường hiệu lực của chính sách tiền tệ. Chính sách lãi suất cao được áp dụng, lần đầu tiên sau nhiều thập kỳ người gửi tiền tiết kiệm nhận được mức lãi suất dương. Các giải pháp chiến lược nhằm tạo sự ổn định tiền tệ vững chắc vẫn tiếp tục được hoàn thiện trong suốt những năm của thập kỷ 90 và những năm đầu của thế kỳ 21: tăng cường hiệu lực chính sách tiền tệ, kết hợp với việc điều chỉnh hợp lý tỷ giá ngoại tệ, cải cách chính sách tài khoá, chính sách thuế, thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước một cách triệt để là cơ sở để duy trì mức lạm phát vừa phải trong suốt những năm 1990-2006. 4. Lạm phát 2007 đến nay Năm 2007, lạm phát của nước ta đã tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007. Nguy cơ tỷ lệ lạm phát tiếp tục ở mức cao trong năm 2008 là rất rõ ràng khi chỉ riêng hai tháng đầu năm, tỷ lệ này đã ở mức 5,94% so với 2007. Nếu chúng ta dùng các biện pháp tác động tích cực thì tỷ lệ lạm phát năm 2008 có thể xoay quanh mức17% với chỉ số giá tiêu dùng trong các tháng của năm 2008 được biểu diễn qua sơ đồ sau: a. Nhận diện lạm phát ở Việt Nam hiện nay -27-
  28. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Nhận diện lạm phát hiện tại ở Việt Nam là sự tích hợp của lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy, ba loại này tác động lẫn nhau làm cho lạm phát càng trở nên phức tạp. * Lạm phát tiền tệ Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù hợp nên việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn. Quản lý yếu kém dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát. Có thể kể ra các nguyên nhân trực tiếp làm lượng cung tiền tăng lên như sau: - Thứ nhất, chi tiêu ngân sách ngày càng lớn: chi tiêu ngân sách năm sau cao hơn năm trước do yêu cầu phát triển tế xã hội đòi hỏi các điều kiện hạ tầng như đường xá, cầu cống, bến cảng, các khu đô thị, khắc phục hậu quả của thiên tai Trong đó có nhiều các vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài, tốn kém, hiệu quả thấp. Những khoản chi tiêu ngân sách này đã đưa một lượng tiền mặt lớn ra thị trường. - Thứ hai, quản lý tiền mặt kém hiệu quả: hiện nay ở Việt Nam có nhiều đơn vị như Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, công ty bảo hiểm liên quan tới công tác lưu hành tiền tệ. Lượng tiền cần có (D) để cân đối với hàng hoá không đồng nhất với lượng tiền mặt thực tế đang có trên thị trường. Lượng tiền này không chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mặt thực tế (T) mà còn phụ thuộc vào vòng quay đồng tiền (V), chúng tỷ lệ thuận với nhau theo công thức: D = T . V. Lượng tiền D cân đối với hàng cần phải được kiểm soát chặt và thường ổn định trong một thời gian thích hợp có lợi cho sự phát triển kinh tế. Khi có nhu cầu tăng D, các nhà quản lý thường tăng vòng quay của đồng tiền (V), hạn chế tăng T. Vấn đề này rất quan trọng cả đối với quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. - Thứ ba, ngoại tệ tăng mạnh: năm 2007 đầu tư nước ngoài vào Việt nam tăng cao, kiều hối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này cũng đã gần 30 tỷ USD. Với lượng tiền đó đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn tung ra thị trường, làm cho lượng tiền mặt trên thị trường tăng lên. -28-
  29. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng - Thứ tư, sức hút của thị trường chứng khoán: thị trường chứng khoán phát triển mạnh trong thời gian qua đã hút một lượng tiền lớn vào đây. Ngoài lượng tiền nhàn rỗi trong dân được huy động, lượng vốn bằng tiền còn được huy động thông qua vay ngân hàng, rút tiết kiệm, bán tài sản (do thay đổi mục tiêu kinh doanh), từ các nhà đầu tư nước ngoài Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng khác là tâm lý hoang mang của người dân trước giá cả thị trường tăng cao, đồng tiền giảm giá nhanh chóng. Để bảo toàn vốn của mình, các nhà đầu tư cũng như dân chúng đã chuyển sang mua vàng hoặc kim loại quý, đá quý khác thay vì dùng vốn đó kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Do vậy một lượng tiền lớn được tung vào lưu thông đã làm cho lạm phát trầm trọng hơn. Tất cả những nhân tố trên làm cho lượng tiền mặt thực tế có trong lưu thông (T) tăng lên quá nhiều, vượt xa lượng tiền mặt thực tế cần có. * Lạm phát cầu kéo Lạm phát cầu kéo có nguyên nhân bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế, vì vậy loại lạm phát này thường chỉ diễn ra đối với từng nền kinh tế cá biệt. Lạm phát cầu kéo do tốc độ phát triển kinh tế cao, quy mô đầu tư lớn và dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, vượt quá khả năng đáp ứng về tài nguyên tiềm năng của nền kinh tế. Nền kinh tế phát triển nóng khiến cho nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung ứng có hạn, mất cân đối này làm giá cả tăng liên tục với tỷ lệ cao. Năm 2007 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng phát triển nóng. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung luôn thấp hơn cầu (năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên lạc, hạ tầng quá tải, công trình, dự án chậm tiến độ ). Chúng ta đang tập trung mọi nỗ lực nhằm đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP 8,5 – 9% trong năm 2008, điều này sẽ dẫn tới mất cân đối cung cầu hơn nữa và sẽ làm lạm phát tăng cao hơn. * Lạm phát chi phí đẩy Lạm phát chi phí đẩy do giá vật tư đầu vào tăng. Trong năm qua, nhiều loại nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, Những loại chi phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát. -29-
  30. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất nào trong nước cưỡng lại được xu thế này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than, khai thác đá, luyện cán thép sắp tới là ngành điện. Lạm phát chi phí đẩy mang tính toàn cầu song mức độ diễn ra ở mỗi nước có khác nhau. Những nền kinh tế đang trong thời kỳ suy giảm sẽ không lạm phát, tăng giá dầu chỉ là yếu tố dẫn tới tăng giá trong nước. Đối với những nền kinh tế tăng trưởng nóng như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, giá dầu tăng đã thực sự đẩy lạm phát cao. Do vậy, việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ những nền kinh tế tăng trưởng nóng cũng bao hàm việc nhập cả những yếu tố lạm phát của các nền kinh tế đó. b.Những giải pháp kiềm chế lạm phát trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay Từ những vấn đề đã được nêu ở trên, trong ba loại lạm phát tích hợp xuất hiện trong nền kinh tế thì lạm phát tiền tệ là nguy hiểm và khó kiềm chế, cần được quan tâm chú ý đặc biệt. Những giải pháp được đề xuất sẽ bao gồm cả trước mắt và lâu dài. * Một là, cần thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ năng động và hiệu quả. Ngoài những giải pháp Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng trong thời gian qua có thể áp dụng những giải pháp dưới đây nhằm điều chỉnh lượng cung tiền phù hợp, điều chỉnh chính sách tài khoá, tích cực quản lý và tăng hiệu quả của chi ngân sách: - Việc cần làm trước mắt hiện nay là giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông. Một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất vay nóng giữa các Ngân hàng, nới lỏng tỷ giá hối đoái là rất cần thiết, tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ. Cần phải quản lý lượng cung tiền trong lưu thông chặt hơn nữa, chủ động tăng vòng quay của đồng tiền. Trước mắt nên giảm hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại nhằm hạn chế và kiểm soát lượng tiền tiếp tục được tung vào lưu thông. Ngân hàng Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra giám sát các ngân hàng thương mại, nhất là những ngân hàng thương mại lớn trong việc xây dựng và thực hiện các biện pháp tăng vòng quay đồng tiền, quản lý lượng cung tiền cho lưu thông. Nếu không quản lý và tăng vòng quay tiền tệ sẽ hoàn toàn bị động trong quản lý lượng tiền mặt trong lưu thông, lượng tiền sẽ tăng lên nhiều gây ra những hậu quả xấu và dẫn tới lạm phát thường trực. Mặt khác phải xác định được lượng tiền thực có trong lưu thông (T), xây dựng chỉ tiêu vòng quay tiền, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu của toàn ngành. Trên cơ sở đó, Ngân hàng -30-
  31. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước chủ động giảm lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy các ngân hàng thực hiện các giải pháp tăng vòng quay đồng tiền của mình. Như vậy lượng tiền sẽ được cung ứng trong giới hạn an toàn đối với nền kinh tế. - Tiếp đó, cần quản lý chặt chẽ chi tiêu ngân sách. Cần xem xét lại các chương trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu của Chính phủ, của các ban ngành. Tập trung ngân sách vào những công trình cấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên chuyển vào những năm sau. Tăng hiệu quả chi tiêu ngân sách bằng việc hoàn thành các chương trình, các dự án đúng thời hạn để sớm phát huy tác dụng. Giảm chi phí trong các cơ quan khối công quyền, tích cực chống tiêu cực và lãng phí. - Các cơ quan chức năng cũng cần nghiên cứu điều chỉnh lãi suất ngân hàng năng động hơn. Có thể đảm bảo mức lãi suất bình quân cả năm 12%, song mức hiện tại có thể điều chỉnh cao hơn nhằm rút bớt lượng tiền mặt ra khỏi lưu thông. Tăng lãi suất tiết kiệm trong giai đoạn hiện tại tuy có ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán, tới tăng trưởng song trong hiện thời là hợp lý và tác động tích cực tới kiềm chế lạm phát. Ngoài ra, cũng cần phải quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường. Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn; thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với một số ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam như USD, EURO, Yên, Nhân dân tệ đảm bảo tác động khách quan vào xuất nhập khẩu, không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Khuyến khích chi tiêu không dùng tiền mặt, đặc biệt là khách nước ngoài, cần tạo cơ chế để nhóm khách này có thể giam gia, nhất là đối với thị trường chứng khoán. - Bên cạnh đó, Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân, thu hồi tiền mặt. Hoạt động này có tác dụng rất tích cực làm giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông và tác động trực tiếp tới giảm lạm phát. Trong trường hợp cấp bách hiện nay, không nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu qua trung gian. Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trực tiếp cho dân. Bán trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất đối với người mua sẽ cao hơn, thu hút được nhiều người tham gia. Có thể tổ chức thành những chiến dịch phân phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian cụ thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội tham gia. -31-
  32. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng * Hai là, điều chỉnh tăng trưởng kinh tế Trước thực trạng nền kinh tế phát triển quá nóng, cần phải giảm tốc độ tăng trưởng, duy trì tốc độc tăng trưởng xoay quanh 8% là hợp lý. Cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư cả Trung ương và địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, chủ động điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, có thể chuyển những dự án chưa cấp thiết xuống tiếp những năm sau nhằm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. - Kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thành dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng. - Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá vật chất, tăng năng suất lao động hơn nữa, nhất là sản xuất vật tư, nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng nhằm tăng năng lực của nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng để thúc đẩy tiêu dùng nội địa. - Kiểm tra, xem xét các doanh nghiệp lớn đã cổ phần hoá, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư huy động từ thị trường chứng khoán. Hạn chế các doanh nghiệp loại này chuyển hướng kinh doanh từ sản xuất hàng hoá hiện hữu sang dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ. Ba là, hạn chế tăng chi phí - Giảm mức tăng chi phí phải thực hiện tiết kiệm trong sản xuất. Để làm được điều này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định mức, kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng quy cách, phẩm chất, chủ động nghiên cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu. Một giải pháp giảm mức tăng chi phí khác có thể áp dụng là hoàn thiện công nghệ, đổi mới công nghệ, cải tiến tố chức quản lý nhằm tăng năng suất lao động. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng của kinh tế thị trường mang tính khách quan, dù muốn hay không chúng ta cũng vẫn phải đón nhận. Chính vì vậy, cần phải bình tĩnh nhìn nhận tìm hiểu bản chất sự việc để có những phản ứng điều chỉnh. Tuy nhiên, để thực hiện kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này, Việt Nam sẽ phải chấp nhận từ bỏ một số mục tiêu khác. Do đó, Nhà nước Việt Nam cần có sự tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác trên thế giới để có những quyết sách đúng đắn, kịp thời. -32-
  33. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Chương III TÍN DỤNG VÀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG I. TÍN DỤNG 1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng 1.1. Khái niệm Như chúng ta đã biết, khi có sự phân công lao động và sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Khi sự xuất hiện chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở hình thành sự phân hóa xã hội: Của cải, tiền tệ có xu hướng tập trung vào một nhóm người, trong lúc đó một nhóm người khác có thu nhập thấp hoặc thu nhập không đáp ứng đủ cho nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, đặc biệt khi gặp những biến cố rủi ro bất thường. Trong điều kiện như vậy đòi hỏi sự ra đời của tín dụng để giải quyết mâu thuẫn nội tại của xã hội, thực hiện việc điều hòa nhu cầu tạm thời của cuộc sống. Như vậy, tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. 1.2. Đặc điểm của tín dụng - Chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn tín dụng chứ không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng. Quyền sở hữu nguồn tài chính vẫn thuộc về người cho vay và quyền sử dụng thuộc về người đi vay. - Thời hạn tín dụng được xác định do thỏa thuận giữa người cho vay và người đi vay. Người sở hữu vốn được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức. 2. Phân loại tín dụng 2.1. Tín dụng thương mại (TDTM) 2.1.1. Khái niệm TDTM là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu. TDTM phát sinh là do xảy ra hiện tượng có một số doanh nghiệp có hàng hoá muốn bán, trong khi đó một số doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền, trong trường hợp này trên cơ sở quen biết, tín nhiệm nhau họ có thể thoả thuận một quan hệ vay mượn. Nhờ vậy, người bán có thể giải phóng nhanh lượng hàng hoá của mình giảm bớt những chi phí về bảo quản hàng hoá, ngược lại người mua mặc dù chưa -33-
  34. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng có tiền nhưng vẫn có được hàng hoá đưa vào chu kỳ sản xuất mới. Hành vi mua bán chịu hàng hoá được xem là hình thức tín dụng, bởi lẽ người người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định và khi đến thời hạn đã được thoả thuận người mua phải hoàn trả lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của TDTM là giấy nợ, được gọi là kỳ phiếu thương mại hay gọi tắt là thương phiếu. Đặc điểm của thương phiếu: Tính trừu tượng, tính bắt buộc và tính lưu thông. 2.1.2. Ưu điểm, hạn chế của TDTM - Ưu điểm: Một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của những doanh nghiệp tạm thời thiếu hụt vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ nhanh hàng hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ giảm chi phí giao dịch do không phải qua khâu trung gian mà qua quan hệ trực tiếp. - Hạn chế: + Quy mô tín dụng: Vì TDTM do các doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ cung ứng khối lượng tín dụng trong giới hạn khả năng của mình. Do đó nếu người đi vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng đầy đủ được. + Thời hạn cho vay: Bởi lẽ điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp có thể không trùng khớp với nhau và chỉ đáp ứng cho ngắn hạn. + Phạm vi: Do TDTM được cung cấp dưới hình thức hàng hóa, chính vì thế doanh nghiệp chỉ cung cấp được tín dụng cho một số doanh nghiệp có cung cầu hàng hóa phù hợp nhau. 2.2. Tín dụng ngân hàng (TDNH) 2.2.1. Khái niệm TDNH Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các chủ thể trong kinh tế (các doanh nghiệp, các cá nhân ) Được thực hiện dưới hình thức cung ứng vốn tiền tệ: tiền mặt và bút tệ. Các hình thức cho vay của tín dụng ngân hàng là: Cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay thế chấp và đầu tư chứng khoán Giữa TDNH và TDTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Hoạt động TDTM sẽ tạo cơ sở để cung cấp TDNH điều này thể hiện thông qua các -34-
  35. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố thương phiếu của TDTM. Ngược lại, hoạt động TDNH đã góp phần khắc phục các mặt hạn chế của TDTM. 2.2.2. Ưu điểm và hạn chế của tín dụng Ngân hàng - Ưu điểm: + Khối lượng tín dụng: Có khả năng cung ứng những khoản vốn lớn đáp ứng đủ nhu cầu vay của khách hàng. Do đối tượng của TDNH là tiền tệ, các hình thức huy động phong phú có thể huy động tiền tệ nhàn rỗi từ mọi chủ thể trong nền kinh tế. + Thời hạn tín dụng: Ngân hàng có thể đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn, tạo điều kiện cho nhu cầu của người tích lũy và người đầu tư được đáp ứng phù hợp. + Phạm vi tín dụng: Có khả năng huy động vốn và cho vay rất lớn, liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. - Hạn chế: Hạn chế cơ bản của TDNH là có độ rủi ro cao do việc ngân hàng cho vay với số tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự có hoặc có sự chuyển hóa thời hạn và phạm vi tín dụng rất rộng. 2.3. Tín dụng nhà nước (TDNN) 2.3.1. Khái niệm TDNN là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, biểu hiện dưới 2 hình thức: + Nhà nước là người đi vay: Bằng cách phát hành công trái để huy động vốn. + Nhà nước là người cho vay để thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ. - Mục đích: TDNN ra đời nhằm mục đích thoả mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng chi, nhằm bù đắp những khoản chi cho đầu tư phát triển kinh tế, tăng thêm nguồn lực tài chính cho Nhà nước để thực thi các chính sách. Mặt khác TDNN là công cụ để Nhà nước tài trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế kém phát triển. 2.3.2. Ưu và nhược điểm của tín dụngnhà nước - Ưu điểm: Nhà nước huy động vốn bằng cách phát hành các loại tín phiếu, trái phiếu qua đó có thể thu hút một lượng tiền mặt lớn trong lưu thông nhằm kìm chế lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Đây cũng là cơ sở quan trọng để hình thành và phát triển thị trường tài chính. -35-
  36. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng - Nhược điểm: Nếu mức độ huy động không hợp lý thì có thể dẫn đến tình trạng chen lấn đầu tư của tư nhân do chính phủ huy động vốn qua phát hành trái phiếu, gây sức ép tăng lãi suất khiến cho đầu tư của tư nhân giảm xuống. 2.4. Tín dụng thuê mua 2.4.1. Khái niệm Tín dụng thuê mua là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Trong đó, bên cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình theo yêu cầu của bên thuê sử dụng và bên thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong thời hạn thuê, khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê trả lại, hoặc tiếp tục thuê, hoặc mua tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. 2.4.2. Những lợi ích và hạn chế của hoạt động tín dụng thuê mua. - Lợi ích của hoạt động tín dụng thuê mua: + Hình thức này không nhất định phải có tài sản thế chấp, nên doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận khoản vay và tránh ứ đọng vốn trong tài sản cố định. + Rủi ro thấp hơn so với các hình thức tài trợ khác: Tài sản vẫn thuộc sở hữu của mình nên trong thời gian cho thuê, bên cho thuê có quyền chiếm hữu tài sản bất kỳ lúc nào nếu bên đi thuê vi phạm hợp đồng thuê. Nếu doanh nghiệp bên thuê lâm vào tình trạng phá sản thì tài sản thuê không bị phát mãi mà vẫn đảm bảo tính sở hữu hợp pháp của bên cho thuê. - Những hạn chế của hoạt động tín dụng thuê mua: + Phạm vi hoạt động hẹp hơn và chi phí sử dụng vốn cao hơn so với TDNH. + Bên đi thuê không phải là chủ sở hữu tài sản nên không được sử dụng nó để thế chấp cho các chủ nợ và chủ động trong việc sử dụng tài sản thuê. 2.5. Tín dụng tiêu dùng (TDTD) 2.5.1. Khái niệm TDTD nhằm hỗ trợ tài chính cho các cá nhân thực hiện một số nhu cầu tiêu dùng thường ngày như đồ dùng sinh hoạt, phương tiện đi lại, cải tạo tu bổ nhà, học tập TDTD được cấp phát dưới hình thức bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hóa. Việc cấp tín dụng bằng tiền thường do các ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, -36-
  37. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng quỹ tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác cung cấp. Còn việc cấp phát tín dụng dưới hình thức hiện vật thường do các công ty, các cửa hàng thực hiện. Ngoài ra, TDTD còn thực hiện dưới hình thức: Ngân hàng mua lại các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng. 2.5.2. Ưu điểm và hạn chế - Ưu điểm: + Góp phần nâng cao đời sống của nhân dân trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại còn hạn chế. + Thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm nhất là đối với hàng hóa có giá trị cao, hoặc hàng hóa chậm luân chuyển. - Nhược điểm: Không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng mà thông qua doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa, dịch vụ. 2.6. Tín dụng quốc tế (TDQT) 2.6.1. Khái niệm TDQT là mối quan hệ tín dụng giữa các Nhà nước, giữa các cơ quan của Nhà nước với nhau, hoặc giữa các chủ thể của một nước với các chủ thể của nước khác và với các tổ chức quốc tế khi cho vay và trả nợ tiền vay theo những nguyên tắc nhất định. Đối tượng của tín dụng quốc tế có thể là tiền tệ hoặc hàng hóa (dây chuyền sản xuất, thiết bị hàng hóa). 2.6.2. Ưu điểm và hạn chế - Ưu điểm: TDQT có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội khi nguồn vốn trong nước còn bị hạn chế. Góp phần nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và kiến thức chuyên môn của người lao động. - Hạn chế: Nguồn vốn này thường bị động do phụ thuộc bởi các yếu tố từ bên ngoài. Ngoài những rủi ro tín dụng nói chung thì tín dụng quốc tế còn bị rủi ro về tỷ giá, điều kiện về chính trị và ngoại giao. 3. Chức năng của tín dụng - Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả: Tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ sung vốn cho doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn -37-
  38. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Phân phối lại vốn tiền tệ dưới hình thức tín dụng được thực hiện bằng hai cách: + Phân phối trực tiếp: Là việc phân phối từ chủ thể có vốn tạm thời chưa sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng: TDTM và phát hành trái phiếu. + Phân phối gián tiếp là phân phối vốn được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian: ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. - Chức năng tiết kiệm tiền mặt: Thông qua việc thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế. Điều này sẽ làm giảm khối lượng giấy bạc, giảm được chi phí trong bảo quản và vận chuyển tiền. Đồng thời, cho phép Nhà nước điều tiết một cách linh hoạt khối lượng tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. - Chức năng phản ánh tổng hợp và kiểm soát quá trình hoạt động của nền kinh tế: Trong việc thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ nhằm phục vụ yêu cầu tái sản xuất, tín dụng có khả năng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén tình hình hoạt động của nền kinh tế, do đó tín dụng còn được coi là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước để kiểm soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược hoạch định phát triển kinh tế. Mặt khác, trong khi thực hiện chức năng tiết kiệm tiền mặt, gắn liền với việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, tín dụng có thể phản ánh và kiểm soát quá trình phân phối sản phẩm quốc dân trong nền kinh tế. 4. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế - Tín dụng góp phần đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục: Do tính đa dạng trong luân chuyển vốn của các doanh nghiệp mà tại một thời điểm nhất định có một số doanh nghiệp "thừa vốn" tạm thời, do bán hàng hóa có tiền nhưng chưa có nhu cầu sử dụng ngay (Chưa trả lương công nhân, chưa mua nguyên nhiên vật liệu) đã làm nẩy sinh nhu cầu cho vay vốn để tránh tình trạng ứ đọng vốn và có thêm lợi nhuận. Trong khi đó có doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời do chưa bán được hàng hóa, nhưng lại có nhu cầu mua nguyên nhiên vật liệu, thanh toán tiền lương làm nảy sinh nhu cầu đi vay (TDTM) để duy trì sản xuất đem lại lợi nhuận. - Tín dụng góp phần tích tụ, tập trung vốn thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh: Với hoạt động của hệ thống tín dụng có đủ độ tin cậy, do tính chuyên môn hóa -38-
  39. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng cao trong hoạt động tín dụng và đa dạng hóa các danh mục đầu tư thông qua cho nhiều nhà đầu tư của nhiều dự án khác nhau, từ đó giảm bớt rủi ro cá nhân của người tích lũy, tạo nên quá trình tập trung vốn đựơc thực hiện nhanh chóng, hiệu quả; tạo nên khả năng cung ứng cho nền kinh tế, đặc biệt nguồn vốn dài hạn. Các doanh nghiệp nhờ nguồn vốn này có thể nhanh chóng mở rộng sản xuất. - Tín dụng góp phần điều chỉnh, ổn định và tăng trưởng kinh tế: + Trong nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư chỉ tập trung vốn đầu tư vào những ngành có lợi nhuận cao, trong khi đó nền kinh tế đòi hỏi phát triển cân đối, đồng bộ giữa các ngành và các vùng, phải có ngành then chốt, mũi nhọn tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng. + Tín dụng thông qua cung cấp vốn trung và dài hạn đầy đủ, kịp thời với lãi suất và điều kiện cho vay ưu đãi, có vai trò trong việc đảm bảo vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, hình thành các ngành then chốt, mũi nhọn và các vùng kinh tế trọng điểm. + Tín dụng còn là phương tiện để Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thích hợp để ổn định nền kinh tế, khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái, lạm phát. Chẳng hạn khi nền kinh tế phát triển chậm, sản xuất đình trệ, Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ "nới lỏng", NHTW thực hiện mua các chứng khoán của các NHTM, tức “bơm tiền” vào lưu thông, tạo lực giảm lãi suất, dẫn đến chi phí cho vay giảm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất và ngược lại. - Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các chính sách xã hội: Thông qua các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, tín dụng có vai trò quan trọng nhằm thực hiện các chính sách việc làm, dân số và các chương trình xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội. - Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế: Trong điều kiện nền kinh tế mở, vay nợ nước ngoài ngày nay trở thành một nhu cầu khách quan đối với các nước trên thế giới và tỏ ra bức thiết hơn đối các nước đang phát triển. Nhờ tín dụng, các nước có thể mua hàng hóa, nhập khẩu máy móc thiết bị và tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật mới và trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới. Tín dụng tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trực tiếp. -39-
  40. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng II. LÃI SUẤT TÍN DỤNG 1. Khái niệm lãi suất tín dụng (LSTD) Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được từ người đi vay về việc sử dụng lượng tiền vay trong một thời gian nhất định. Như vậy thực chất của lợi tức tín dụng là giá cả hàng hóa cho vay. LSTD là sự cụ thể hoá của lợi tức tín dụng, nó được biểu hiện bằng tỷ lệ giữa tổng số lợi tức thu được với tổng số vốn đã cho vay trong một thời gian nhất định. Lãi suất tín dụng Tổng số lợi tức thu được trong kỳ = x 100 trong kỳ (%) Tổng số tiền cho vay trong kỳ 2. Phân loại lãi suất (LS) 2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng - LS ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn: từ một năm trở xuống - LS trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn: trên 1 đến 5 năm - LS dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn: trên 5 năm 2.2. Căn cứ vào các loại hình tín dụng (theo chủ thể tham gia) - LSTD thương mại: Áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Lãi suất tín dụng Tổng giá bán chịu - Tổng giá trả tiền ngay = x 100 thương mại (%) Tổng giá trả tiền ngay - LSTD ngân hàng: Áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của NHTW cho các ngân hàng, và trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường liên ngân hàng. + LS tiền gửi: LS trả cho các khoản tiền gửi, nó được áp dụng để tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền. LS tiền gửi có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào thời hạn gửi, vào quy mô tiền gửi + LS tiền vay: LS mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử dụng vồn vay của ngân hàng. Nó được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả ngân hàng. Về mặt nguyên tắc mức lãi suất tiền vay bình quân cao hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân, và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác nhau cũng như mức rủi ro khác nhau. -40-
  41. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng + LS chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Như vậy, nếu xét trong quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng vay chiết khấu, lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không trả sau như lãi suất thông thường. + LS tái chiết khấu: Áp dụng khi NHTW tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá . LS tái chiết khấu do NHTW ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Vì hành vi tái chiết khấu là hình thức cung ứng nguồn vốn cho các ngân hàng nên thông thường LS tái chiết khấu thường nhỏ hơn LS chiết khấu. Tuy nhiên, trong trường hợp cần phải hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân hàng nhằm kiềm chế đẩy lùi lạm phát, hoặc phạt các NHTM trong trường hợp vi phạm các yêu cầu về thanh toán, NHTW có thể ấn định LS tái chiết khấu bằng, thậm chí cao hơn LS chiết khấu. + LS liên ngân hàng: Là LS mà các ngân hàng áp dụng khi cho vay trên thị trường liên ngân hàng. LS liên ngân hàng thường được ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng (còn gọi là LS hàng ngày). + LS cơ bản : Là LS được các NH sử dụng làm cơ sở để ấn định mức LS kinh doanh của mình. LS cơ bản được hình thành khác nhau tùy từng nước, nó có thể do NHTW ấn định. Ở Việt Nam: Luật NHNN hiện nay quy định: "LS cơ bản là LS do NHTW công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định LS kinh doanh". - LSTD Nhà nước: Áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu. Loại LS này có thể do Nhà nước ấn định căn cứ vào LS tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng, vào các yếu tố khác như sự biến động của lạm phát, nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nước hoặc được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Nhà nước. Ở Việt Nam hiện nay, NHNN được giao nhiệm vụ tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho bạc Nhà nước. - LSTD tiêu dùng: Áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục vụ yêu cầu tiêu dùng cá nhân. Mức LSTD tiêu dùng thường cao hơn LS tín dụng ngân hàng và LS tín dụng Nhà nước. -41-
  42. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng 2.3. Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất - LS danh nghĩa: Là LS tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại LS chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. LS danh nghĩa thường được thông báo chính thức trong các quan hệ tín dụng. - LS thực tế: Là LS được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát. Hay nói cách khác là LS đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát, LS thực tế có 2 loại: + LS thực tính trước (dự tính): Là LS thực được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về lạm phát. + LS thực tính sau: Là LS thực được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi trên thực tế về lạm phát. Mối quan hệ giữa LS danh nghĩa, LS thực tế và lạm phát được Irving fisher, nêu thành phương trình sau (phương trình Fisher) LS danh nghĩa = LS thực + Tỷ lệ lạm phát. Hoặc có thể viết : LS thực tế = LS danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát. Vì được điểu chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát nên LS thực phản ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng như chi phí thật của việc vay tiền. 2.4. Căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất - LS cố định: Là LS được áp dụng cố định trong suốt thời hạn vay. + Ưu điểm: Người gởi tiền và người vay tiền biết trước số tiền lãi được trả và phải trả. + Nhược điểm: Bị ràng buộc vào một LS nhất định trong một thời gian nào đó, các tổ chức cung ứng tín dụng là người vay tiền khó có khả năng phản ứng linh hoạt với các biến động (nếu có) của cung cầu vốn trên thị trường tài chính. - LS thả nổi: Là LS có thể thay đổi phù hợp với sự biến động của LS thị trường và có thể báo trước hoặc không báo trước. Mặc dù khi áp dụng cơ chế LS này, cả người đi vay và người cho vay không thể xác định chính xác mức LS sẽ phải trả nhưng nó thích hợp trong một môi trường đầu tư không ổn định và các nhân tố ảnh hưởng đến LS là khó dự đoán. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất 3.1. Mức cung cầu tiền tệ -42-
  43. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng Đường cung tiền (S) biểu thị NHTW muốn giữ cung tiền tệ ổn định. Khi NHTW muốn kiềm chế lạm phát sẽ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua các công cụ như: + Thay đổi dự trữ bắt buộc. + Giảm LS chiết khấu. + Giảm hạn mức tín dụng. Mức cung tiền giảm đi, đường cung S dịch chuyển sang trái S', lãi suất tăng từ i Æ iE'. Lãi S' S suất iE' E' i E" iE" D D' Lượng tiền LS tăng, mức đầu tư giảm, mức cầu tiền tệ giảm các nhà doanh nghiệp và các gia đình sẽ giảm lượng tiền gửi vào tài khoản của họ đường cầu D dịch chuyển về bên trái D’; với mức LS cân bằng mới iE” Ngược lại, khi NHTW lo sắp có nguy cơ suy thoái, sẽ tăng mức cung cầu tiền tệ bằng việc bơm tiền vào lưu thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ. LS có xu hướng giảm xuống. Ngoài ra những thay đổi dự định trong cầu tiền tệ ảnh hưởng đến LS cân bằng. Ví dụ như một cuộc sụp đổ tài chính hàng loạt xảy ra làm cho nhiều Công ty phá sản, trái phiếu trở thành một tài sản bị rủi ro nhiều hơn, dân chúng muốn chuyển từ việc nắm giữ trái phiếu sang giữ tiền, họ sẽ giữ nhiều tiền hơn. Kết quả cầu tiền tệ tăng lên, LS tăng lên và ngược lại. Nghiên cứu nhân tố cung cầu tiền tệ tác động qua lại đến LS có một ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Khi nào thì NHTW bơm tiền ra lưu thông, khi nào thì hút tiền từ lưu thông về để điểu chỉnh LS một cách hợp lý, -43-
  44. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng trên cơ sở đó ổn định thị trường, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, giảm lạm phát. 3.2. Lạm phát Nếu mức giá cả ổn định và dự tính về lạm phát trong tương lai không đáng kể, cung quỹ cho vay được biểu hiện bằng S0 và cầu quỹ cho vay D0 với mức lãi suất i0. Khi lạm phát tăng yếu tố kích thích làm tăng cung quỹ cho vay gần như triệt tiêu bởi giá trị thực tế của vốn gốc và tiền lời thu được đã bị triệt tiêu do tác động của lạm phát. Trong tình hình ấy những người có vốn không muốn giữ tiền mặt, đổ xô đi mua hàng hoá dự trữ (vàng, ngoại tệ). Điều đó dẫn đến cung quỹ cho vay giảm, đường S0 chuyển về bên trái S1, LS tăng. Lãi S1 suất S0 i1 i0 D1 D0 Tiền vay Lạm phát tăng, không chỉ làm giảm độ lớn của cung mà còn kéo theo việc tăng thêm quy mô về cầu quỹ cho vay. Bởi với LS danh nghĩa cho trước khi lạm phát dự tính tăng lên chi phí thực của việc vay tiền giảm xuống kích thích người ta đi vay, đường D0 dịch chuyển sang phải D1, LS tăng. Một sự giảm xuống của cung và một sự tăng lên của cầu đối với quỹ cho vay sẽ đẩy LS tăng từ i0 đến i1. Tóm lại: Khi lạm phát dự tính tăng thì LS tăng. Điều này có một ý nghĩa quan trọng trong việc dự đoán LS khi nền kinh tế có xu hướng lạm phát tăng. Trên cơ sở đó có một chính sách LS hợp lý. Khi lạm phát cao, Nhà nước cần nâng LS danh nghĩa, -44-
  45. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng đảm bảo cho LS thực dương hoặc Nhà nước tung vàng hoặc ngoại tệ ra bán để kiềm chế lạm phát. 3.3. Sự ổn định của nền kinh tế - Ảnh hưởng đến cung tiền vay: Khi nền kinh tế ổn định và phát triển, của cải tăng lên, công chúng sẽ giữ một khoản tiền giao dịch vừa đủ cho cầu, họ đầu tư vào các tài sản thay thế có lợi tức cao hơn vì vậy cung tiền tăng lên, LS có xu hướng giảm. - Ảnh hưởng đến cầu tiền vay: Khi nền kinh tế đang phát triển nhanh, các công ty có nhiều ý định mở rộng sản xuất, vay vốn và tăng số dư nợ. Cầu tiền tệ tăng lên, LS có xu hướng tăng. Trong nền kinh tế ổn định và có xu hướng phát triển, Nhà nước nên sử dụng công cụ LS để tăng vốn đầu tư vào những lĩnh vực cần phát triển cho sự cân đối của nền kinh tế, đặc biệt từ các nguồn vốn trên thị trường tài chính. 3.4. Các chính sách của Nhà nước - Chính sách tài chính: Gồm chi tiêu của chính phủ và thuế khoá: Khi chi tiêu của chính phủ tăng trực tiếp (tăng tổng cầu) đồng thời chính phủ giảm thuế, tăng tổng sản phẩm, tăng lượng cầu tiền tệ, LS tăng. Ngoài ra thuế còn các tác động đến mức sản lượng tiềm năng, chẳng hạn việc giảm thuế đánh vào thu nhập của đầu tư mới, tăng đầu tư, tăng cầu tiền tệ, LS tăng. - Chính sách tiền tệ: + Thực hiện chính sách LS tái chiết khấu: Khi LS tái chiết khấu tăng (giảm), tăng (giảm) chi phí cho vay của NHTW đối với các NHTM từ đó cản trở (khuyến khích) nhu cầu xin vay, giảm (tăng) khối lượng tín dụng mà các NHTM cấp cho nền kinh tế + NHTW thực hiện chính sách thị trường mở, điều hòa cung - cầu chứng khoán có giá, thông qua các NHTM tác động vào việc cung ứng tiền tệ, cung ứng tín dụng. + NHTW tăng (giảm) mức dự trữ bắt buộc ở các NHTM. - Chính sách thu nhập: Đó là các chính sách về giá cả, tiền lương: + Nếu giá giảm (cung tiền tệ không thay đổi), giá trị của đơn vị tiền tệ theo giá trị thực tế tăng. Điều này cũng giống như ảnh hưởng của một sự tăng lên trong cung tiền tệ khi mức giá được giữ cố định, LS tăng và ngược lại. + Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất tăng, lợi nhuận giảm, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, LS giảm. -45-
  46. Khoa Tài chính – Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng - Chính sách tỷ giá: + Tỷ giá ngoại tệ tăng, tăng giá hàng nhập khẩu, tăng chi phí đầu vào của các mặt hàng nhập khẩu, giá hàng hoá trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu ngoại tệ tăng, cầu tiền tệ giảm, LS giảm. Mặt khác khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng tiền cung ứng để đảm bảo cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, LS giảm. + Trường hợp tỷ giá ngoại tệ giảm (đồng nội tệ đang tăng giá) điều này có thể hạn chế xuất khẩu kích thích nhập khẩu. Cầu tiền tệ tăng do tài sản đầu tư tăng khi tỷ giá thấp, kích thích sản xuất, LS tăng. 3.5. Cân đối ngân sách Nhà nước Thu, chi ngân sách Nhà nước là những yếu tố hình thành nên cung cầu về quỹ cho vay. Vì thế thu chi ngân sách cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến LS. - Khi ngân sách thâm hụt Nhà nước thường phát hành trái phiếu để vay nợ người dân, cầu quỹ cho vay tăng, LS tăng. - Khi ngân sách bội thu sẽ làm cho LS giảm. 4. Vai trò của LS trong nền kinh tế thị trường - LSTD là phương tiện thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế: LS là một loại giá cả đặc biệt của việc buôn bán vốn tiền tệ, do đó nó cũng tuân thủ quy luật cung cầu thị trường. Muốn thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế, ngoài việc phục vụ tốt còn đòi hỏi giá cả (LS) phải hợp lý và hấp dẫn. Đối với ngân hàng, LS huy động tiền gởi cao sẽ kích thích sự ham muốn lợi nhuận của khách hàng. Do đó, nếu ngân hàng muốn tăng cường huy động nguồn vốn có thể bằng nhiều biện pháp, trong đó có công cụ LS. - LSTD là công cụ kích thích đầu tư phát triển kinh tế: Với mức LS cho vay hợp lý sẽ kích thích các nhà đầu tư vay vốn mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập quốc dân, hạn chế thất nghiệp, tăng mức sống của người dân, từ đó tạo điều kiện cho nền kinh tế ngày càng phát triển. - LSTD là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả + Đối với các doanh nghiệp, khi vay vốn đòi hỏi phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm, có hiệu quả, phải thực sự quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh để đảm bảo hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi. -46-