Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam - Quyển thượng (Phần 2)

pdf 144 trang ngocly 2240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam - Quyển thượng (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnep_cu_tin_nguong_viet_nam_quyen_thuong_phan_2.pdf

Nội dung text: Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam - Quyển thượng (Phần 2)

  1. PHẦN THỨ HAI Tôn giáo Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 159
  2. LÃO GIÁO Đạo Lão là một trong tam giáo du nhập vào Việt nam cùng với sự đô hộ của người Trung Hoa và đã có thời kỳ toàn thịnh. Cho đến ngày nay, ảnh hưởng của Lão giáo tại Việt nam không phải là không còn mạnh, nhất là những biến thể của đạo nầy trong dân chúng Việt nam với những nơi thờ phượng như điện, tĩnh, am của các thầy phù thủy. Dù nhiều ít gì, dù đây chỉ là những sự biến thể cố ý hoặc vô tình, thì nguồn gốc sự thờ phượng Thái Thượng Lão Quân, Trương Thiên Sứ, Tề Thiên Đại Thánh cũng đều bắt nguồn tự đạo Lão mà ra. Những biến thể của đạo Lão, cho đến ngày nay, vẫn còn đang bành trướng tại Việt nam, và những nghi thức lễ bái của đạo nầy đã được mượn rất nhiều trong tục thờ cúng Tổ tiên cũng như trong tục thờ thần. Lão Tử Lão giáo còn gọi là Đạo giáo, và người sáng lập ra đạo nầy là Lão Tử. Lão Tử chỉ là danh hiệu, nghĩa là ông thầy già. Theo Dương Quảng Hàm, thân thế của ông ta không biết rõ[14]. Theo Phan Kế Bính, trong Việt Nam phong tục, Lão Tử họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam, người làng Khúc nhân, huyện Hổ thuộc nước Sở, nay là tỉnh An Huy, sinh năm thứ ba đời vua Định Vương nhà Đông chu, đồng thời với Đức Khổng Tử. Dương Quảng Hàm, nhắc lại những điều ghi trong "Sử ký” của Tư Mã Thiên có viết không rõ Lão Tử sinh và mất năm nào. Lão Tử, vẫn theo Phan Kế Bính, làm quan Trụ hạ sử nhà chu, nhưng về sau đã từ quan đi ẩn dật. Thời bấy giờ, người đời chuộng lễ nghĩa, chú ý rất nhiều đến những điều vụn vặt làm bận tâm trí con người, và vài những điều câu nệ tỉ mỉ đã làm mất cái khoáng đạt của tâm hồn. Trước tệ đoan đó, Lão Tử có ý muốn sửa đổi lại để con người sống theo lẽ tự nhiên. Ông soạn ra bộ Đạo đức kinh gồm năm ngàn câu nói, chủ ý cốt theo cách tự nhiên thanh tĩnh, không cần phải làm gì, nghĩa là muôn việc cứ phó mặc tự nhiên, không cần phải lo lắng, nghĩ ngợi, mới hưởng được sự khoái lạc tiêu diêu.[15] [14] Việt Nam Văn Học Sử Yếu, in lần thứ năm, trang 60. [15] Phan Kế' Bính, Việt Nam phong tục. Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 160 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  3. Đạo đức kinh bày tỏ rõ tôn chỉ của ông, bởi vậy người ta gọi đạo của ông là đạo Lão. Sau ông có Liệt Tử và Trang Tử cũng có sách dẫn giải tôn chỉ vô vi của đạo Lão để chống các học thuyết khác. Đúng ra, Lão Tử là một triết gia hơn là một giáo chủ và tôn chỉ của ông chính là một học thuyết, hơn là một giáo điều. Lão Tử tiếp kiến Đức Khổng Tử Năm Quý Mùi, tức là năm thứ hai đời vua chu Kính Vương, đức Khổng Tử lúc đó 34 tuổi, có cùng với các đệ tử đến xin hội kiến với Lão Tử tại phủ Hà nam. Lão Tử đã tiếp đức Khổng Tử. Đức Khổng Tử hỏi ngài về Lễ thì ngài đáp: - Người quân tử gặp thời thì đi xe, không gặp thời thì đội nón lá đi chân không. Tôi nghe nói: người buôn bán khôn ngoan chứa nhiều tiền của, cũng như người không có gì. Người quân tử có đức tốt dung mạo xem như người ngu, nên bỏ cái chí kiêu căng, lòng ham muốn, cái sắc dục và chí quá độ, những điều ấy vô ích và có hại. Khi đức Khổng Tử ra về ngài đưa tiễn rất lễ phép và nói thêm rằng: - Tôi nghe nói, người giàu sang đưa người thì dùng tiền của, người nhân đức đưa người thì dùng lời nói. Tôi đây chẳng được giàu sang, chỉ trộm lấy danh nghĩa của người nhân đức mà đưa ngài bằng lời nói vậy: Người thông minh xét nét sâu xa, trở lại gần với sự chết, là bởi hay chê bai nghị luận việc của người thế gian; người có tài hùng biện giỏi dắn cao xa mà bị nguy hiểm đến mình, là vì ưa chỉ vạch điều xấu của kẻ khác. Đức Khổng Tử đã đáp lại: - Tôi rất cảm tạ các lời dạy của ngài. Tôn chỉ của Đạo Lão Xét qua cuộc đối thoại trên giữa Khổng Tử và Lão Tử ta đã thấy một phần nào tôn chỉ của đạo lão hiện ra. Đạo Lão lấy thanh tĩnh tự nhiên làm tôn chỉ, ý tưởng rất cao, người thường khó mà hiểu thấu được. Ai đã rõ được cái thân là nguồn khổ sở, cái trí khôn là cái góc phiền lụy, tất phải chịu sự cao kiến của tôn chỉ đạo lão. Phải xét rõ việc đời, tình người Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 161
  4. để lấy sự nhạt nhẽo hư không mà đối với đời, không để một chút gì tơ tóc vướng víu đến mình ngõ hầu tận hưởng cái thú ung dung, nhàn nhã, sung sướng, khoan thai. Việc đời xảy ra tới đâu đối phó tới đó, không cần khó nhọc tâm cơ, hao tổn tinh thần, cứ lấy tự nhiên mà thù ứng các việc tự nhiên, rồi đâu sẽ ra đấy cả. Sở dĩ người ta phải khổ sở lo nghĩ là vì phải suy tính hành động, mà phải hành động là do sự ham muốn. nay nếu dứt bỏ được sự ham muốn, sẽ không phải hành động và như vậy sẽ không còn sự lo nghĩ khổ sở. Lòng sẽ thư thái, thân sẽ an nhàn. Trong nhân loại đạo gần nhất là đứa trẻ nhỏ, con người nhiều đức được gần đạo cũng hồn nhiên như đứa trẻ vậy. Về phương diện triết lý, Lão Tử cho rằng đạo là một nguyên lý huyền diệu, vô hình, vô sắc, đã sinh ra âm dương trời đất và vạn vật. Muôn vật sinh ra khắp cả thế gian rồi lại quay về đạo, đẻ lại hóa ra muôn vật muôn loài, theo một cuộc tuần hoàn biến cả thiên nhiên. Tôn chỉ đạo Lão rất cao, ý tưởng rất lạ, duy đối với môn đồ Lão Tử thì phàm việc gì cũng cho là phù phiếm hư không, chỉ biết nhàn thân hưởng lấy mình, không thiết tưởng gì đến đời cho nên đạo Lão bị các người theo nho học bác bỏ đi. Sự quảng bá đạo Lão tại Trung Quốc và Việt Nam Không sách nào chép tới cái chết của Lão Tử về năm nào, nhưng như trên đã nói, đạo Lão đầu tiên đã được quảng bá bởi Liệt ngữ Khâu và Trang chu qua các sách Liệt Tử và Trang Tử. Tại Trung Quốc, mãi tới đời nhà ngụy, nhà Tần, lối học của Lão Tử mới thịnh hành. Trên từ vua chúa, dưới đến sĩ phu ai ai cũng tôn sùng đạo Lão và gọi Tôn Lão Tử là Thái Thượng Lão Quân. Thời ấy nước ta đang nội thuộc Trung Hoa. Đạo Lão đã lan rộng ở Trung Quốc cũng được truyền bá sang nước ta và dân ta cũng tin sùng lắm. Đến đời vua Đinh Tiên Hoàng, đạo Lão càng bành trướng, nhà vua đã phong cho Trương Ma ni làm Tăng Lục đạo sĩ. Đời nhà Lý, đạo Lão cũng được duy trì với đạo Phật và đạo Nho. Vua Lý Anh Tôn dùng cả tam giáo làm đề thi trong khoa cử. Cho đến đời nhà Lê, đạo Lão vẫn không suy, tuy rằng không được thịnh như đạo Khổng và đạo Phật. Vua Lê Thần Tôn đã cho phép Trần Lộ lập ra Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 162 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  5. đạo nội tràng. Từ đó về sau đạo Lão vẫn tồn tại, mặc dù kém phổ thông. Các bậc cao nhân dật sĩ phần nhiều điều hiểu biết đạo Lão và lĩnh hội được tinh thần đạo. Những người phóng khoáng, những người ưa thanh tĩnh, những người có mưu cơ, những người biết nhẫn nhục đều hợp với đạo Lão. Tuy nhiên ảnh hưởng của đạo Lão tại Việt nam ta đã tạo nên hai hạng người khác nhau: - Bực thượng lưu học thức nhiễm những tin tưởng tiêu diêu phóng khoáng, chán đường công danh phú quý thích an nhàn tự do. - Người bình dân tin tưởng ở những truyện thần tiên huyền ảo, vì biến thể của đạo Lão. BIẾN THỂ CỦA ĐẠO LÃO Tất cả những điều trình bày trong tập sách này về các tôn giáo, chỉ là những điều sơ lược chính yếu của mỗi đạo; đây không phải là một tập sách có mục đích nghiên cứu triết lý của mỗi đạo, hoặc bình luận về triết lý này, những điều viết ra đây cốt để có một đôi ý niệm về mỗi đạo. Ý niệm nầy sẽ giúp các bạn hiểu cặn kẽ hơn về sự liên quan giữa các đạo và phong tục Việt nam. Riêng về đạo Lão, cái tôn chỉ cao xa của Lão Tử về sau đã bị các lưu phái biến thành lối thuật số, cách tu luyện đạo phù thủy với những điều dị đoan làm hư hại dân trí mà không có ích dụng gì. Đó chỉ là do các môn đồ đạo phái căn cứ theo tôn chỉ đạo Lão mà suy diễn ra một cách lầm lỗi vô tình hoặc cố ý. Nếu cái tinh thần đạo Lão được các bậc trí thức tìm hiểu thì những hình thức sai lầm bề ngoài về các việc ma quỉ, thần tiên, kiêng khem, cấm kỵ, phương tai, kỳ phúc đã được quần chúng tin theo rất nhiều. Nhiều môn đồ đạo phái đã lợi dụng sự tin theo đó của nhiều người, bày đặt ra những trò bùa bèn ấn quyết trừ ma, trừ quỷ để trực lợi trong đám người ít kiến thức! Đạo giáo đâu có vậy! Đó chỉ là biến thể đáng tiếc! Biến thể này chính do sự không hiểu đạo mà ra vậy. Lần lượt dưới đây, chúng ta thử tìm hiểu mọi biến thể đó với các môn phái do chúng sinh ra. Phù thủy Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 163
  6. Theo Phan Kế Bính thì phù thủy có phép luyện âm binh, âm tướng, thường đêm khuya đến những noi tha ma mộ địa, đốt hưong khấn khứa luyện phù, luyện phép để cầu cho các âm hồn phải theo hiệu lệnh của mình. Những nhà có người chết, gặp giờ xấu, sợ có trùng tức là có hung thần tra khảo phải nhờ thầy phù thủy cho bùa dán trong quan tài, yểm chung quanh huyệt cũng như ở trong nhà để trấn áp tà ma. Người đau ốm cho là ma làm, mời thầy phù thủy để diệt ma. Muốn diệt ma, ngoài việc dùng bùa, thầy phù thủy thượng phụ trượng hoặc phụ thần bạch xà. Phụ trượng nghĩa là niệm chú yểm vào cây trượng, cho người cầm đi khua khắp nhà để đuổi ma. Phụ thần bạch xà thì dùng một con rắn bằng rơm rồi phù phép vào con rắn để con rắn bò quanh nhà diệt tà ma. Con rắn thường bò được là nhờ trong ruột có bộ phận cử động bằng máy, nhưng những người quá tin cho là thầy phù thủy cao tay có phép lạ. Thầy phù thủy có khi phụ đồng chổi, đọc chú để cây chổi cử động được nhưng sự thật cái chổi cử động cũng chẳng khác chi con rắn bằng rơm bò quanh nhà. Ngoài ra, những người có thân nhân quá vãng, thương nhớ, thường nhờ thầy phù thủy phụ cành phan để mời hương hồn người chết về nói chuyện. Phụ cành phan nghĩa là có một người sống cầm một cành tre, ngồi trước đàn, rồi thầy phù thủy niệm chú phụ động để hồn người khuất nhập vào người ngồi trước đàn và có thể nói được với người đang sống. Trong lúc phụ cành phan, tiu cảnh trống chiêng gõ vang rền lẫn vào lời đọc phép của thầy phù thủy, thêm mùi hương ngào ngạt, khiến người ngồi đồng bị thôi miên có thể mê mẩn đi được. Có người nói rằng những thầy phù thủy cao tay có thể bắt ấn phù phép niệm chú để cho người sống xuống được âm phủ tìm giáp mặt người thân đã khuất trò chuyện. Phù thủy lại có phép làm bùa yêu bùa mê. Bùa yêu làm cho hai người ghét nhau phải thương nhau. Bùa mê làm cho người tình trở nên mê mẩn có khi hóa điên dại, phải có bùa giải mới hết. Người ta cũng lại nói rằng các thầy phù thủy có lắm phép kỳ lạ, sai khiến nổi âm binh làm những công việc của người trần, nhưng phần nhiều thực hiện về đêm: Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 164 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  7. - Sai âm binh đi tát nước. - Sai âm binh ném đá gạch vào nhà người khác. Những thầy phù thủy mỗi khi điều khiển âm binh xong phải có lễ khao quân, nếu không âm binh sẽ phản lại đánh trả thầy. Và mỗi khi sai âm binh thầy phù thủy phải canh chừng đừng để trời sáng, phải thâu âm binh về trước khi có ánh dương ló ra. Bị lộ thiên cơ, nghĩa là bị người trần trông thấy vào ban ngày, âm binh cũng đánh trả thầy. Thuật thủy là một việc huyền ảo, thực thực hư hư, các thầy phù thủy khéo thôi miên con người, nên thường được người đời tín nhiệm. Nhiều thầy phù thủy muốn tỏ ra mình cao tay, thường phù ấn làm phép khấn các vị thiên thần như Tề Thiên Đại Thánh, Thác Tháp Thiên Vương v.v Tĩnh Mỗi thầy phù thủy đều lập một ngôi tĩnh để thờ các vị thần về đạo Lão, và cũng là nơi để lập ấn bắt quyết, cầu khẩn các thần để trị ma trừ quỷ. Theo nghĩa đen, Tĩnh là một bàn thờ nhỏ ở một nơi yên tĩnh, thờ một vị thần mà dân chúng tin theo uy lực như Thái Thượng Lão Quân, Độc cước thần, Trương thiên sứ các vị thần này đều thuộc về đạo Lão. Trong những ngày sóc vọng tuần tiết, dân chúng thôn xóm làng xã chung quanh kéo nhau tới tĩnh lễ, xin bùa, xin dấu, cầu sự phò hộ để được bình an. Những người ốm đau đến xin chữa bệnh, những người buôn bán tới xin bùa cầu tài, và những trai gái thương yêu nhau cũng đến xin bùa để đôi bên càng say nhau. BÀI TRÍ MỘT NGÔI TĨNH Thường các thầy phù thủy dành riêng một gian nhà để lập tĩnh. Việc kê bày xếp đặt một bàn thờ tại một ngôi tĩnh cũng tương tự như cách trang trí một bàn thờ khác, chỉ về chi tiết mới có sự khác biệt. Kê sát ngay vào tường hậu gian nhà là một hương án cao. Trên hương án có bài vị, tượng hoặc tranh vẽ vị thần mà thầy phù thủy thờ phụng, đặt trên một chiếc khám hoặc một chiếc ngai. Trước ngai là hòm ấn kiếm, lẽ tất nhiên ấn gỗ và kiếm gỗ, tượng trưng cho uy pháp của vị thần. Thần không có sắc vua phong, nhưng hai bên ngai cũng có hai chiếc tráp đựng quyển sách chép sự tích vị thần với những sự tâng bốc tất nhiên phải có và một bản sao tờ sắc không biết thầy phù thủy đã căn cứ vào đâu mà Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 165
  8. chép. Rồi đài rượu, mâm bồng, bình hương và những đồ tự khí khác: tam sự, ngũ sự, còn có những nghìn vàng và đồ mã bày ở bàn thờ. Ngoài cùng bàn thờ là một chiếc y môn. Một ngôi tĩnh có thể có ba bốn bình hương. Bình hương chính lớn hơn những bình hương phụ, các bình hương phụ để thờ các thần phụ tá vị chính thần ngôi tĩnh. Ngôi tĩnh nào cũng có một chiếc kiểng. Trước khi cúng khấn, thầy phù thủy bao giờ cũng đánh ba tiếng kiểng giáo đầu. Các bình hương ở một ngôi tĩnh luôn luôn ngày đêm có thắp hương. Theo các thầy phù thủy nói, thì lúc nào ở tĩnh cũng có sự giáng lâm của thần hoặc của các bộ hạ ngài, do đó việc đèn nhang không thể sơ xuất được. Tại cột gian tĩnh có treo những bức liễn, nhưng không phải để viết những đôi câu đối, mà ở đó thầy phù thủy có vẽ bùa ấn chữ son, biểu hiện cho uy lực của vị thần thầy thờ phụng. Thanh đồng Tục quan niệm rằng nhiều người có căn thờ, nghĩa là số phải thờ một vị thần nào của đạo Lão mới bình yên được. Có thể những vị thần này trước đây không phải là của đạo Lão, nhưng các lưu phái tại Việt nam đã tôn thờ các vị này và coi các vị là thần linh theo Lão giáo: Hưng Đạo Vương, Tản Viên Sơn Thần, Liễu Hạnh công chúa, cửu Thiên huyền nữ, Thượng Ngàn thánh mẫu, v.v Tùy sự thờ phụng của từng người có căn thờ, những người này được gọi là Thanh đồng hoặc đồng cốt. Thanh đồng là những người thờ về đức Hưng Đạo Vương, người có căn thờ ngài lập điện tại nhà và có các con hương tới lễ bái. Những người này, trong những ngày lễ hội tại đền Kiếp Bạc hoặc đền Bảo Lộc đều tới lễ và lên đồng bắt tà. Tà đây là chỉ phạm nhan và bộ hạ của hắn. Phạm nhan nguyên là tướng của Mông cổ bị Hương Đạo Vương giết. Đàn bà sinh sản đau yếu hữu sinh vô dưỡng cho là mình bị phạm nhan ám, hoặc tiền phu tiền thê ghen tuông, hoặc ma quỉ trêu cợt, đem vàng bạc tới cửa điện lễ bái nhờ thanh đồng kêu khấn xin trừ tạ. Người có bệnh ngồi đồng bịt khăn đỏ vào mặt. Thanh đồng cầm hương Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 166 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  9. thư trên mặt và tay người này, rồi niệm chú khấn nguyện. Trong lúc đó cung văn đánh trống gõ phách, ca những bài văn sai để ốp đồng. Bị thôi miên người ngồi đồng lảo đảo: đó là lúc tà ma đã nhập! Thanh đồng liền ra oai quát hỏi người bệnh như tra tấn tù nhân. Người bệnh liền tự mình cầm vồ đập vào đầu mình, hoặc cầm bàn vả tát vào mặt, hoặc cầm roi đánh vào mình. Đó là tà ma bị sự trừng phạt. Rồi tà ma cung chiêu nhận tội, làm tờ cam kết không quấy nhiễu người bệnh nữa, trên tờ cam kết có in dấu tay của con tà. Người ta bảo rằng dấu tay trên tờ cam kết tuy người bệnh in vào, nhưng không là dấu của người bệnh, đó là dấu tay của con tà, so sánh với tay người bệnh khi hết bệnh không giống nhau. Tờ cam kết có dấu ấn của thanh đồng được trao cho người bệnh mang về dán ở đầu giường, nếu bị đau yếu trở lại thì lại mang vàng hương tới điện kêu, thánh sẽ lại trị tội con tà. Cũng có khi bóng ma không ốp vào người bệnh, mà trái lại bóng thánh lại nhập vào thanh đồng. Thanh đồng sẽ ra oai để tra tấn con tà: Tự thắt cổ bằng lụa, nung đỏ lưỡi cày rồi xỏ chân vào, nấu dầu sôi uống rồi lại phun ra, nhai nắm hương đang cháy, lấy lình xiên mép, lấy dao rạch lưỡi v.v Lúc rạch lưỡi chảy máu, máu được phun vào một tờ giấy để làm bùa gọi là dấu mặn. Bùa này, người bệnh đốt uống với tàn hương nước thải để trị tà, hoặc dùng để đeo hay dán ở buồng ngủ để trấn áp ma quỷ. Con bệnh khỏi đau phải tới lễ tạ đại điện. Hàng năm vào ngày 20 tháng 8, tức là ngày húy nhật đức Hưng Đạo Vương, các thanh đồng kéo nhau về đền Kiếp Bạc, hoặc đền Bảo Lộc lễ bái cúng tế. Trong dịp này, những người đó sắm cờ kiếm, xin yểm phép để thay bộ cờ kiếm cũ năm trước. Hưng Đạo Vương là một vị anh hùng dân tộc, đã từng ba phen đánh đuổi giặc nguyên, và trong khi giết giặc đã giết được một viên tướng nguyên tên gọi là nguyễn nhan tục gọi là Phạm Nhan, tức là tên Nhan phạm tội. Tục truyền rằng nguyễn nhan có phép yêu, Hưng Đạo Vương đã phá phép yêu trị tội hắn. người đời sau cho là ngài có tài trừ tà ma yêu quỷ, do đó có tục trừ tà của các thanh đồng. Điện Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 167
  10. Cũng giống như tĩnh, điện là một nơi thờ tự riêng của tư gia, nhưng được dân chúng tới lễ bái trong dịp tuần tiết sóc vọng, hoặc khi muốn cầu xin việc gì. Nhiều khi có người tới lễ bái rất đông, không kém gì một nơi thờ tự công cộng. Điện do các thanh đồng hoặc đồng cốt lập nên. Điện của thanh đồng được trang trí tương tự như một ngôi tĩnh. Trên bàn thờ có bài vị, tượng hoặc hình Hưng Đạo Vương. Lại thêm kiếm ấn. Ở mé trên bàn thờ có hoành phi, và ở cột có câu đối. Trên mái nhà có cài nhiều roi dâu để thanh đồng dùng tra khảo tà ma quỷ quái, - tà ma sợ roi dâu. Cũng như ở Tĩnh, một điện có nhiều bình hương phụ ngoài bình hương chính để thờ các bộ hạ của Hưng Đạo Vương. Các thanh đồng có bày thêm trên điện những xấp vàng mã để được hóa vào những buổi lễ. Đồng cốt Đồng cốt là những người có căn thờ về chư vị như Liễu Hạnh công chúa, cửu Thiên Huyền nữ, Thượng ngàn công chúa hoặc các vị hoàng tử, các cậu các cô. Đồng cốt chia ra đồng Đức Mẹ, đồng Đức Ông, đồng cậu, đồng cô tùy theo người có căn thờ theo vị nào: Thờ các bà công chúa là đồng Đức Mẹ; Thờ các vị hoàng tử là đồng Đức Ông; Thờ các cậu là đồng cậu; Thờ các cô là đồng cô. Các hoàng tử có thể là con vua, hoặc là những vị linh thiêng được các người có căn đồng tôn lên, còn các cậu và các cô là những người chết trẻ gặp giờ linh được tôn thờ. Có người chỉ có căn số thờ một vị, có người theo căn số phải thờ nhiều vị. Thờ một vị hay nhiều vị, đồng cốt đều lập điện thờ và được mọi người tin theo kéo nhau tới cầu cúng lễ bái trong những tuần tiết hoặc những khi ốm đau. Căn đồng Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 168 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  11. Thế nào là những người có căn số phải thờ, tức là có căn đồng. Không phải tự nhiên ai cũng lập điện thờ, hoặc cũng tới điện để lên đồng lên bóng. Thường đồng cốt phần lớn là đàn bà. Những bà, những cô hay đau yếu, hoặc đôi khi mặt đỏ rần rần, nằm mơ thấy bay trên không, thấy lội dưới nước, đi xem bói, đi lễ bái được thầy bói hoặc các ông đồng bà cốt bảo là số thờ, thánh bắt đồng. Người có số thờ này đem vàng hương tới một cửa điện xin làm con công đệ tử và phải đội bát phù hương, nghĩa là những bình hương nhỏ để ở bàn thờ chư vị tại điện; những ngày tuần tiết người có số thờ đến lễ rồi đội những bình hương đó lên đầu. Bình hương đặt trên một chiếc mâm nhỏ và có thắp hương. Có người phải đội một bát phù hương, có người căn đồng nặng phải đội hai ba bát hoặc nhiều hơn. Có người chỉ phải đội bát phù hương, có người được chư vị bắt đồng thì phải ngồi bóng thánh. Nếu vì lý do còn trẻ tuổi có thể làm lễ xin khất đồng được. Khi đã bắt đồng thì hoặc lập điện tại gia mà thờ, hoặc thờ theo tại điện của một ông đồng bà cốt khác, hay tại một cửa miếu thờ chư vị. Ông đồng đây, có khi không phải là một người đàn ông, chỉ là một người đàn bà có đồng Đức Ông, cũng như có nhiều bà đồng không phải là đàn bà mà chính là đàn ông có đồng Đức Mẹ. Bài trí điện chư vị Điện chư vị thường cũng được lập tại một gian nhà riêng và bàn thờ được trang trí tương tự như ngôi điện thanh đồng, nhưng ở đây thay vì có một bức thần tượng hoặc một bức tranh hay một bài vị lại có nhiều thần tượng, hoặc tranh hoặc bài vị, một vị thần, nam hay nữ, đều có tượng hoặc tranh hoặc nhiều bát hương, bát hương thờ, lại thêm bát hương của các con ông đệ tử. Tại bàn thờ có đủ ngựa, võng, hài hộp, vàng xanh, vàng đỏ, nón dứa, nón nghệ, treo lủng lẳng từ trên xuống hoặc bày ở hương án, có khi ở cả gầm hương án nữa, vì nơi đây cũng thờ một cô hoặc một cậu nào. Trong những ngày tuần tiết, cúng bàn thờ chư vị thường có hoa quả bỏng kẹo. Ngồi đồng hầu bóng Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 169
  12. Các ông đồng bà cốt đều có khăn trầu áo ngự, tức là loại khăn áo ngũ sắc để khi ngồi đồng hầu bóng mặc vào. Những ngày rằm, mồng một, tuần tiết, hoặc khi có người nào đau yếu đến điện kêu cầu, đều có ngồi đồng hầu bóng. Tại điện đã sẵn có cung văn, tức là người đàn ca lúc hầu bóng, đàn bà như vậy gọi là chầu văn. Người chủ điện hoặc một người có căn đồng khác vào ngồi đồng, mặc áo xanh, áo đỏ, đội khăn các mùi, múa may nhảy nhót ở trước cửa điện. Lúc đó là lúc thánh đã ốp vào đồng. Bọn cung văn đàn ngọt hát hay được đồng ban tiền lộc cho, có những người hầu dâng tức là người phụ tá để đưa quần áo cho đồng, và con công đệ tử ngồi chung quanh kêu xin để thánh chữa bệnh cho người đau. Thánh, xin hiểu đây là người ngồi đồng, ban truyền bằng một giọng nũng nịu, ỏn ẻn, có khi giọng hờn dỗi để được nịnh nọt tâng bốc. Thánh phán sao, gia chủ của người bệnh phải tuân theo, có khi thánh cho uống tàn hương nước thải, có khi nước quết Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 170 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  13. trầu để mang về xoa cho người bệnh, có khi cho bùa đeo. người bệnh khi khỏi phải tới lễ tạ. Trong lúc lên đồng như vậy, bà đồng đã được thánh ốp vào thưởng ban lộc cho những người hầu dâng hoặc những người đứng chung quanh lễ bái. Lộc có thể là tiền, là kẹo bánh đã được mua trước cúng tại điện, là trầu cau hoặc thuốc lá. Những bà đồng thường dùng giấy bạc một đồng hoặc năm đồng kết thành con bướm để dùng ban lộc. Tất cả những điều trên viết về đồng cốt đều do sự mắt thấy tai nghe, còn thực hư, hư thực đó là vấn đề tín ngưỡng. Ở đây người viết chỉ nhắc lại những điều liên quan về phong tục, nói lên nếp cũ của dân ta. Cô hồn Đây cũng là một biến thể của đạo Lão tạo nên bởi các môn đồ lưu phái hoặc do kém ý thức, hoặc do mê tín. Cô hồn cũng hơi tương tự như đồng cốt, ở chỗ một âm hồn nhập vào cốt một người trần và mượn miệng của người trần này, tức là cô hồn, để nói lên ý muốn của âm hồn. Người trần có khi được gọi là xác cậu, xác cô, vì một đồng nam hoặc một đồng nữ chết đi, hồn nhập vào người trần này, và chỉ nhập riêng vào người trần này thôi. Tục tin rằng hồn đồng nam hoặc đồng nữ nhập vào xác của mình, nghĩa xác người trần mà hồn mượn, thì hồn này có thể giúp đỡ người trần được những điều cầu xin. Do đó, nhiều người ở nhà lập nên một bàn thờ, tự nhận là xác cậu hoặc xác cô của một đồng nam hay đồng nữ nào, là tự nhiên có những người mang đồ lễ tới để cầu xin nhiều việc. Đôi khi xác cậu, xác cô đó lại nói cả việc vị lai cho mọi người. Thường ra thì cô hồn là người lấy nghề gọi hồn cho người ta mà kiếm ăn[16]. Cô hồn thờ ông Chiêu bà Dí tức là hai vị thần đi chiêu các âm hồn của những người đã chết, có người nhà trên dương thế muốn tìm. Những nhà có người mới chết, thương sót nhớ tưởng muốn tìm cách gặp [16] Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 171
  14. hồn người thân để hỏi han về cuộc sống ở cõi âm, hay mời cô hồn về nhà gọi hồn. Cách thức gọi hồn Muốn gọi hồn cần phải đặt quẻ, và quẻ phải do người lành vía đặt. Tôi xin mở dấu ngoặc để nói về vía lành và vía dữ, người vía dữ khi nhìn vào vết thương của một người đau, vết thương có thể bị nặng lên, hoặc khi người đó bế một đứa trẻ sơ sinh, đứa trẻ sẽ khóc thét lên cho đến khi cha mẹ đứa trẻ hoặc người nhà phải đốt vía. Những người đi buôn bán làm ăn, ra ngõ gặp người vía dữ sẽ gặp những sự khó khăn và kém may mắn. Người vía dữ mua mở hàng cho một người bán hàng, người này sẽ ế hàng và cũng phải đốt vía. Trái với người vía dữ là người vía lành. Muốn đốt vía người ta thường dùng cây chổi xuể hoặc chổi lúa đã dùng rồi, hoặc nắm lá gối, đốt lên soi chung quanh đứa trẻ đang khóc, hoặc gánh hàng đang bán, vừa soi vừa nói: - Đốt vía, đốt vía, vía lành thì ở, vía dữ thì bước! Người ta soi đi soi lại hai ba lần, nhắc lại câu nói trên cũng chừng ấy lượt rồi đem vứt cây chổi hoặc nắm lá ra xa. Nếu không có cây chổi hoặc nắm lá gối, có thể dùng một nắm giấy rách hoặc giẻ cũ đốt vía cũng được. Người ta tin rằng, sau khi đốt vía như vậy, vía của kẻ dữ phải bạt đi, đứa trẻ sẽ hết khóc và hàng hóa sẽ bán được. Tôi xin đóng dấu ngoặc ở đây là xin trở lại cách gọi hồn. Người lành vía được kén đặt quẻ, đưa một cơi trầu và mấy đồng tiền, xưa là một trăm đồng tiền kẽm. Món tiền này chính là món tiền thù lao cho cô hồn, ngày nay có thể là năm ba chực hay hơn nữa tùy theo cô hồn. Cô hồn thắp hương đặt lên cơi trầu, đoạn bưng cơi trầu trong có đặt tiền quẻ, nâng ngang trán khấn khứa ông Chiêu bà Dí để hai vị thần này xuống âm phủ tìm âm hồn người đã chết về. Một lát sau, âm hồn về nhập vào cô hồn kể lể khóc lóc, nói lại lúc lâm chung, tả oán cảnh tình ly biệt. Lúc ấy cha mẹ, anh em, vợ con xúm vào hỏi han hồn. Hồn sẽ tùy những câu hỏi mà trả lời, và tùy người hỏi nhận anh em vợ con hoặc người khác trong gia đình. Người ta cho rằng âm hồn có thể Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 172 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  15. nhận đúng ai là cha, ai là mẹ, ai là vợ, ai là chồng, ai là cô, dì, chú, bác, con, cháu, anh em. Âm hồn cũng lại nói được nguyên do tại sao mà chết, chết vì bệnh gì, chết ngày tháng nào, lúc an táng người nhà đã cho chọn theo thi hài những gì. Âm hồn lại cho người nhà biết hiện ở âm phủ đang làm gì và tình trạng ra sao. Âm hồn có muốn xin gì, người nhà sẽ cúng cho. Những câu cô hồn nói đúng đều được người nhà thưởng tiền, và nếu có những câu sai thì cô hồn, thay lời âm hồn, sẽ nói là quá đau đớn thương xót người sống nên âm hồn đã nhầm lẫn. Âm hồn nhập vào cô hồn một lát, sau khi đã được người nhà hỏi thăm đủ chuyện thì thăng. Thực ra cô hồn chính là người sành tâm lý, khi nói một câu, thấy người nhà tỏ vẻ không đồng ý là cô hồn đã sửa chữa ngay. Thí dụ hỏi về giờ chết của âm hồn, cô hồn nói: Hồn rằng hồn chết ban ngày. Câu nói không được người nhà tán thưởng, cô hồn liền sửa: Thương cha nhớ mẹ hồn rày thác đêm! Các cô hồn phần nhiều thường là những người có mục tật, không nhìn thấy gì, nhưng rất thính tai, và dường như có đệ lục giác quan để hiểu biết khi nói lầm. Những điều kỵ của âm hồn: Giữa khi hồn đang nói chuyện với người nhà, nếu có người dữ vía bước vào thì lập tức hồn thăng, cũng như khi gọi hồn mà do người dữ vía đặt quẻ thì hồn không lên! Ngoài việc kỵ người dữ vía, âm hồn còn kỵ các điểm sau: - Trước khi hồn chưa về mà có người nhà lấy nồi đất úp vào đầu ông táo, tức là ông đồ rau ở trong bếp, hồn không lên. - Hoặc có ai nghịch tinh bỏ muối vào bếp, thì hồn cũng không lên được. Tục cho rằng làm như vậy thì ông Chiêu bà Dí không hỏi han ông Táo được để đi tìm hồn về thì hồn lên làm sao nổi. Gọi hồn người sống Có nhiều người muốn thử thách cô hồn, thay vì gọi hồn người chết, người ta đã gọi hồn người sống, những người vắng mặt và có khi cả những người có mặt. Ấy thế mà hồn vẫn cứ lên và vẫn cứ trả lời được những câu hỏi của mọi người, nhiều khi rất phù hợp với những việc đã xảy ra, hoặc tình trạng ở trong nhà. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 173
  16. người ta bảo rằng đó là ông Chiêu bà Dí đã hỏi han Táo quân nên biết rõ mọi việc trong nhà của người đứng lên hỏi hồn mà nói ra. Ngày xưa phụ nữ tin gọi hồn lắm. Hễ trong nhà bất hạnh có người mất, dẫu nghèo kiết cũng cố mời cô hồn về để gọi hồn, có khi gọi đôi ba lượt để đỡ nhớ thương! Phụ tiên Phụ tiên cũng giống như gọi hồn chỉ khác ở đây là mời bóng một vị tiên nhập vào cốt người trần, thay vì mời âm hồn người chết. Tiên lên không truyền phán như cô hồn, tiên chỉ thảo thơ. Muốn phụ tiên phải tìm những nơi chùa chiền thanh vắng, người nào có việc cầu khẩn phải tắm rửa sạch sẽ, ăn chay một ngày, rồi mua vàng hương trầu rượu bày lên một hương án đốt đèn, đốt hương lễ bái, khấn khứa rồi mới phụ. Cách thức phụ tiên Trước chỗ án thờ có một mâm gạo. Một người ngồi đồng lấy khăn che kín mặt, tay cầm một cái bút bằng cành đào. người ta thường kén cành đào mọc về hướng Đông và bẻ cành đào vào buổi sáng, ngọn cành đào chấm xuống mâm gạo. Một người cầm hương thư vào mặt và hai người ngồi đồng. Vài ba người khác đọc những văn sai để cầu tiên lên, hoặc ngâm những cổ thi. Khi người ngồi đồng bắt đầu đảo là tiên sắp lên. Lúc đó người ngồi hầu đồng phải khấn khứa, tấu lạy, kêu van. Một lát sau tiên gõ bút vào mâm gạo rồi bắt đầu viết. Tiên viết trên mâm gạo. Người hầu bút phải trông theo những chữ viết trên mâm, chép ra một tờ giấy. Thường thường khi tiên viết xong một bài thơ lại truyền cho những người hầu đồng ngâm lại cho tiên nghe. Lúc đó, tiên muốn truyền phán gì sẽ viết trên mâm gạo để người hầu bút chép lại. Thơ tiên làm rất nhanh, như kiểu ứng khẩu hoặc ứng bút, không nghĩ ngợi gì. Tiên đã viết ra là thành thơ, cũng có khi tiên làm ca phú, làm tứ khúc. Lúc tiên mới lên, bài thơ đầu tiên bao giờ cũng là bài thơ để tiên tự xưng danh hiệu của mình cho mọi người biết: Lê Sơn Thánh Mẫu, Quỷ cốc tiên ông hay Vương Ngao lão tổ cũng có khi vị tiên lên lại là Lý Bạch, hay một Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 174 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  17. tay thi bá nào khác. Sau khi xưng danh hiệu rồi, tiên mới lần lượt làm tặng mỗi người hầu đồng một bài thơ, trong bài thơ ẩn rõ sự hay dở của đương sự, riêng đương sự biết, nếu đương sự hiểu thấu bài thơ. Có khi tiên truyền lấy rượu uống. Người hầu đồng phải rót hỏa thang. Tiên cầm bút chấm vào rượu hỏa thang. Tiên cầm bút chấm vào rượu đã là tiên uống rồi! Có khi tiên hứng đánh cờ, truyền lấy bàn cờ, người hầu đồng phải hầu cờ tiên. Mỗi khi muốn đi một nước cờ, tiên chỉ cầm cành đào chỉ vào quân cờ và vạch nước đi. Một người hầu đồng khác nhắc quân cờ đi theo ý tiên. Có khi đòi xướng họa thơ với người hầu đồng. Ai muốn xin điều gì, chữa bệnh cầu danh thì viết thơ phong kín mà kêu, tiên sẽ chỉ bảo. Ngày xưa, mỗi khoa thi học trò thường rủ nhau năm bảy người phụ tiên lên để hỏi về khoa cử. Tiên có khi lên rất lâu, và có khi thăng sau khi đã giáng một vài bài thơ. Phụ tiên cũng như gọi hồn và đồng cốt, thực hay hư, hư hay thực chỉ duy những người trong cuộc mới hiểu rõ. Ngoài ra, đây cũng chỉ là biến thể các môn đồ lưu phái đạo Lão đã tạo nên do sự suy diễn cái tinh thần đạo mà ra. Xin thẻ Tại các đền miếu, và cả tại các chùa nữa thường có một hoặc nhiều ống thẻ để thờ. Mỗi ống có trăm thẻ. Thẻ tức là mảnh tre mỏng, trên có mang một số, số này ăn với quẻ thẻ. Thẻ còn được gọi là xâm và quẻ thẻ là quẻ xâm. Quẻ thẻ là gì`? Một quẻ thẻ là một bài thơ giáng bút trong lúc phụ đồng vị thần linh thờ tại ngôi đền hoặc miếu có thẻ. Bài thơ giáng bút được chép lại và ghi số, số bài thơ này ghi vào thẻ tre trong ống thẻ. Thơ giáng bút ở đây khác với thơ giáng bút lúc phụ tiên ở chỗ được chép lại và dùng để ứng vào những người xin thẻ về sau, còn thơ phụ tiên thì chỉ hợp với người hầu đồng lúc đang lên. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 175
  18. Mỗi bài thơ giáng bút đều được khắc in với số đã ghi để phát cho người xin thẻ. Triệu Trong quẻ thẻ, ngoài bài thơ còn mấy chữ đề là triệu gì. Triệu tức là cái điềm ứng vào quẻ thẻ. Thí dụ: triệu Tướng quân đắc thắng, triệu Vạn vật phùng xuân, hoặc triệu Du thuyền ngộ vũ, có triệu xấu có triệu tốt. Triệu chỉ những nét đại cương về quẻ thẻ. Triệu Tướng quân đắc thắng là triệu tốt, và ứng vào người xin thẻ như một vị tướng quân được trận, triệu vạn vật gặp xuân; trái lại triệu du thuyền ngộ vũ tức là chơi thuyền gặp mưa là một triệu xấu. Mỗi quẻ thẻ có một triệu riêng, không quẻ nào giống quẻ nào. Thường thường trong ống thẻ trăm quẻ, có độ 10 triệu thật tốt mang hai chữ đại cát hoặc thượng thượng, 20 triệu tốt vừa mang chữ đại cát hoặc chữ thượng; 10 triệu thật xấu mang hai chữ hạ hạ, 20 triệu xấu mang chữ hạ, còn 40 triệu mang chữ trung bình, không tốt không xấu. Nội dung quẻ thẻ Như trên đã nói, mỗi quẻ thẻ có một bài thơ, bài thơ này tổng đoán việc cát hung, tùy theo triệu ghi ở đầu quẻ thẻ. Dưới bài thơ lại phân ra từng mục với lời giải: bản mệnh, mưu vọng, cầu tài, hành nhân, thất vật, lục giáp, quan trạng, bệnh tật v.v Lời giải của mỗi mục hoặc là văn xuôi, hoặc có khi lại là một bài thơ riêng. Cuối cùng quẻ thẻ là lời chú giải chung theo ý nghĩa của bài thơ tổng đoán trên. Đầu năm, các thiện nam, tín nữ đi lễ thường xin quẻ thẻ để xem vận mệnh hay dở quanh năm của mình. Các thí sinh đi thi, các người buôn bán làm ăn, các người có thân nhân đau ốm cũng thường xin thẻ để tìm hiểu kết quả trước. Cách thức xin thẻ Muốn xin thẻ trước hết phải quỳ khấn trước bàn thờ, khấn rõ tên tuổi, sinh quán, trú quán, muốn xin quẻ thẻ về việc gì. Khấn xong lễ bốn lễ rưỡi, ngày nay người ta vái bốn vái dài, ba vái ngắn. Lễ hoặc vái xong, người xin thẻ cầm ống thẻ mà xốc, xốc mãi cho đến khi từ trong ống thẻ một chiếc vọt ra thì Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 176 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  19. thôi. Trong trường hợp có nhiều chiếc thẻ cùng vọt ra một lúc, người xin phải khấn lễ lại và lại xốc ống thẻ cho đến khi được một chiếc thẻ. Tại miền nam, sau khi xóc được chiếc thẻ bắn ra ngoài rồi, người xin thẻ còn xin thêm một đài âm dương bằng hai đồng tiền hoặc bằng hai con keo hình mặt trăng lưỡi liềm. Hai con keo đều một mặt phẳng và một mặt vồng lên khum khum, coi như một mặt sấp, một mặt ngửa. nếu đài âm dương ứng theo lời xin nhất âm, nhất dương, tức là quẻ thẻ đương sự xin đã được thần linh chiều theo việc cát hung vận về đương sự mà ứng cho vậy. Khi đã có một chiếc thẻ bắn ra ngoài và khi đài âm dương đã ứng cho quẻ đó, người xin thẻ đọc số thứ tự ghi trên chiếc thẻ, rồi ra xin người thủ từ hoặc ban quản trị nơi thờ tự một quẻ thẻ, có in sẵn, theo số đã đọc trên chiếc thẻ. có nơi, người lấy thẻ phải trả tiền giấy in, có nơi thẻ được phát không cho khách tới lễ bái xin thẻ. Về đài âm dương, có người xin trước, có được nhất âm nhất dương mới xin quẻ sau. Trong trường hợp keo âm dương đầu tiên không được, người ta thường khấn khứa xin lại, và như thế cho tới lần thứ ba, nếu vẫn không được nhất âm nhất dương thì người ta sẽ thôi. Hôm đó thần linh không ứng cho đương sự. Đoán thẻ Xin được quẻ thẻ rồi, đương sự phải nhờ người đoán, vì nhiều khi bài thơ tổng đoán cũng như các lời chú giải, nghĩa không rõ ràng, chỉ những người đoán thẻ quen mới hiểu. Tại trước của các nơi thờ tự thường có những ông thầy ngồi xem số đoán thẻ. Mỗi quẻ thẻ đoán xong, khách đi lễ thường trả cho người đoán thẻ một món tiền thù lao nhỏ. Những quẻ thẻ ngày nay Theo lời các cụ thì trước đây, mỗi quẻ thẻ bao giờ cũng là một bài thơ giáng bút Hán tự. Số người đọc được Hán tự giờ đây, không có nhiều nên tại các thờ tự, ban quản trị hoặc những người có trách nhiệm đã thuê người diễn nôm và diễn nghĩa những quẻ thẻ, cho in sang chữ quốc ngữ, và có khi vẫn còn kèm cả chữ Hán. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 177
  20. Tại những nơi thờ tự mới lập gần đây, người ta không xin được thần linh giáng bút thì người ta thuê hoặc nhờ soạn sẵn một số những quẻ thẻ, có hay có dở, có trung bình với đủ lời chú giải, rồi làm lễ cầu thần linh, xin cho mỗi quẻ một số bằng cách rút thăm. có bao nhiêu quẻ thì người ta viết từng ấy số, mỗi số trên thanh tre hoặc một mảnh giấy, đoạn người ta khấn vái để rút một số cho một quẻ thẻ. Ngày nay ở Sài Gòn, về dịp đầu năm cũng như trong những ngày tuần tiết, người ta kéo nhau đi lễ và xin thẻ rất đông tại các đền chùa như tại lăng Tả quân Lê Văn Duyệt ở Gia Định, đền Hưng Đạo Vương ở Sài Gòn, đền Sòng Sơn thờ Liễu Hạnh công chúa ở đường Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ), đền Hai Bà Trưng ở Gia Định v.v Tục xưa nếp cũ, mấy ai bỏ được dễ dàng. Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 178 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  21. NHO GIÁO Cũng như Lão giáo có một ảnh hưởng rất sâu xa tới gia đình và xã hội Việt nam, nho giáo là một trong tam giáo đã được dân ta sùng tín từ thời Bắc thuộc, nghĩa là từ gần hai nghìn năm nay, đã du nhập vào Việt nam cùng với sự đô hộ của người Trung Hoa và cũng có những thời kỳ toàn thịnh. Người ta gọi nho giáo là Khổng giáo nghĩa là đạo của đức Khổng Tử. Gọi như vậy không phải là vì đức Khổng Tử sáng lập ra đạo nầy, nhung chính vì ngài là người đã biểu dương và phát huy lẽ đạo Trước khi tìm hiểu nho giáo một cách sơ lược, thiết tưởng cần biết qua thân thế đức Khổng Tử. Đức Khổng Tử Đức Khổng Tử sinh ngày 27 tháng 8 năm canh Tuất tức là năm thứ 21 đời Vua Linh Vương nhà chu, và là năm thứ 22 đời vua Tương công nước Lỗ, vào năm 445 trước Thiên chúa giáng sinh. Quê ngài ở làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông. Chính tên húy ngài là Khâu và tự là Trọng NÌ. Thánh phụ là Khổng Thúc Lương, tự là Thúc Lương Nột làm quan nước Lỗ. Thánh mẫu là Nhan Thị, đi cầu tự ở núi Ni Sơn mà sinh ra Ngài. Có sách chép tổ tiên đức Khổng Tử thuộc về hoàng tộc nhà Ân, và Ngài chính là con cháu Vi Trọng làm vua nước Tống. Về sau tới đời ông của Ngài là Khổng phòng Thúc di cư sang nước Lỗ và do đó nước Lỗ đã trở thành quê hương của Ngài. Bà Nhan Thị là vợ thứ của cha Ngài. Khi lấy bà thì cha Ngài đã 70 tuổi và đang ước ao sinh được con trai. Bà Nhan Thị muốn cho chồng được như ý mới lên núi Ni Khâu cầu tự. Sách chép rằng khi bà tới núi thì lá cây ở trên núi đều dựng đứng lên, và lúc bà trở về thì lá cây lại ngả chúi xuống đất. Khi đức Khổng Tử sinh ra, trên đầu có cái gò giống như núi Ni Khâu, vì vậy nên Ngài được đặt tên là Khâu, tự là Trọng Ni để tỏ ý biết ơn và kính trọng núi Ni Khâu vậy. Những điềm lạ trước khi Đức Khổng Tử ra đời Sách chép lại rằng trước khi đức Khổng Tử ra đời có nhiều điềm lạ. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 179
  22. Trước ngày sinh Ngài hai hôm, tại Khuyết Lý, tỉnh Sơn Đông, ở phía Tây Nam, cách huyện Khúc phụ, quê hương của Ngài, ba dặm có một con Kỳ Lân hiện ra và nhả ra một tờ ngọc thư có đề chữ rằng: “Thủy Tinh chi Tử, Kế Suy chu Vi Tố Vương” nghĩa là con của Thủy Tinh, nối ngôi nhà chu đã suy mà làm vua không ấn. Bà Nhan Thị tới nơi lấy làm lạ mới lấy dây lụa buộc nơi sừng con Kỳ Lân để làm dấu tích. Hai đêm sau, con thú ấy biến mất. Tới đêm bà Nhan Thị sinh Ngài, có hai con rồng hiện xuống quấn chung quanh bà. Và ở ngoài sân có năm ông lão đứng ngay trước cửa nhà, năm ông lão ấy chính là năm vị sao Kim Tinh, Mộc Tinh, Thủy Tinh, Hỏa Tinh và Thổ Tinh. Người ta đoán rằng bởi Ngài là con của Thủy Tinh nên vị sao nầy hiện xuống, còn bốn vị sao kia cũng xuống để chúc mừng ngày sinh ra ngài. Cho đến lúc ngài ra đời, trong phòng bà nhan Thị có tiếng nhạc nổi lên và ở không trung có tiếng nói: “Thiện cảm Sinh Thánh Tử”, nghĩa là trời cảm lòng cầu nguyện cho sinh con thánh. Sách cũng có chép rằng khi ngài mới sinh, ở ngực ngài có ghi mấy hàng chữ đại ý nói: cái đạo của người làm phép tắc cho thế gian. Lúc thiếu thời Năm Ngài lên ba tuổi thì Thánh phụ qua đời. Lên năm, lên sáu tuổi ngài ưa chơi những đồ dùng trong nghi lễ cúng tế như đèn, nến v.v Chơi với chúng bạn, ngài xếp chúng bạn ngồi thành hàng trước rồi ngài ngồi một cách cung kính, hoặc bày đồ tế lễ tập cúng tế với nhau. Năm lên bảy tuổi, Ngài khởi học với Án Bình Trọng, quan đại phu của vua cảnh công nước Tề. Bẩm tính thông minh, ngài học viết rất dễ dàng, ngài học xa, kiến văn rộng, hiểu thấu lẽ huyền diệu của tạo hóa. Năm 19 tuổi, Ngài kết duyên với con gái Tống hầu tên là Thị Quan. Xuất chính Trong sách Luận ngữ, đức Khổng Tử có nói: - “Ngô Thiếu Dã Tiện, cố Đa Năng Bỉ Sự” nghĩa là Ta lúc niên thiếu vì nhà nghèo, nên phải làm việc ở nhiều chỗ không xứng đáng. Năm 20 tuổi, Ngài nhận làm Ủy lại cho bá tước Quý Thị chức. Ủy lại chuyên Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 180 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  23. trông coi các vựa lúa. Năm 21 tuổi, Ngài được phong làm Tư chức lại, trông coi đồng cỏ nuôi súc vật dùng trong việc cúng tế. Năm 22 tuổi, Ngài dạy học ở Khuyết Lý. Ngài rất nổi tiếng trong việc giáo dục con em mặc dù Ngài còn ít tuổi. Năm Ngài 51, vua nước Lỗ nghe tiếng Ngài dùng Ngài làm quan Tư Khấu, coi việc hình. Một năm sau vua nước Lỗ lại phong Ngài làm Nhiếp chính sự, nhưng chỉ ít lâu về sau, Ngài thấy nhà vua đam mê về nữ nhạc, trễ nãi việc triều chính, Ngài can ngăn không được, xin từ chức. Sự nghiệp Sau khi từ quan tại nước Lỗ, Ngài đi chu du khắp các nước chư hầu, trải qua Tề, Vệ, Sở, Tống với ý nguyện mong đem đạo học của Ngài ra để cứu đời, nhưng tới đâu, Ngài cũng không được các vua chư hầu hết lòng tin dùng. Ngài lại trở về nước Lỗ, mở trường dạy học ở Hạnh Đàn. Ngài san định lại kinh Thi, kinh Thư, kinh Dịch, kinh Lễ, kinh Nhạc, kinh Xuân Thu gọi là Lục kinh. Kinh Nhạc sau bị thất truyền nên chỉ còn lại Ngũ kinh. Ngài dạy người ta những điều Hiếu, Đễ, Trung, Thứ, Tu, Tề, Trị, Bình. Hiếu: để thờ cha kính mẹ Đễ để hòa thuận với anh em Trung để hết lòng với vua với nước Thứ để ở với người cho hợp lẽ Tu để tự sửa nết mình Tề để quản trị gia đình Trị để lấy đạo trị nước Bình để yên thiên hạ. Tám điều trên là tôn chỉ của Ngài mà cũng là của Nho giáo. Ngoài tám điều đó, Ngài lại dạy người ta lục nghệ là: Lễ, phép giữ lễ nghi Nhạc, phép âm nhạc Xạ, phép bắn cung Ngự, phép cưỡi ngựa Thư, phép viết Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 181
  24. Số, phép tính. Theo ngày nay, Lễ là phép giao thiệp, Nhạc để giải trí, Xạ và Ngự là thể thao, Thư là văn nghệ, còn Số là toán pháp. Học trò Ngài đông tới 3.000 người, nhưng được xếp vào bậc cao hiền thông hiểu hết lục nghệ chỉ có 72 người. Trong bọn cao hiền nầy duy có Nhan Hồi, Tăng Sâm là giỏi hơn hết. Ngài thọ 73 tuổi, mất vào ngày 18 tháng hai năm Nhâm Tuất tức là năm thứ 41 đời vua Kinh Vương nhà chu, 373 trước Thiên chúa kỷ nguyên. Ngoại thư chép rằng khi Ngài đang làm bộ sách Xuân Thu, có người nước Lỗ đi săn bắt được con Kỳ Lân què một chân, đem bỏ ở ngoài đồng. Khi Ngài trông thấy con thú, Ngài trừng mắt nói: - Ngô đạo cùng hĩ, nghĩa là cái đạo của ta đã cùng đường rồi. Một buổi sáng thầy Tử công trông thấy Ngài vắt tay sau lưng kéo cây gậy thủng thỉnh đi ngoài cửa ngâm: Thái sơn kỳ đồi hề! Lương mộc kỳ hoại hề! Triết nhân kỳ hủy hề! Dịch: Núi Thái Sơn đổ rồi! Cây lương mộc mất rồi! Người triết nhân tàn rồi! Sau khi ngài mất. Ngài mất rồi, học trò lập đền thờ ngay ở chỗ nhà ngài. Thầy Tăng Tử chép lời Ngài soạn ra sách Đại Học, các học trò ghi chép lời ăn nết ở của Ngài soạn ra sách Luận Ngữ. Sau đó Tử Tư soạn ra sách Trung Dung và 110 năm sau, thầy Mạnh Tử soạn ra sách Mạnh Tử. Những sách đó được truyền bá để dạy thiên hạ và do vậy đạo Nho ngày một lan rộng. Tại Trung Hoa cũng như ở các nước đã từng nội thuộc, đạo Nho ngày càng được tôn sùng nên càng thịnh đạt. Khắp nơi, đâu đâu cũng có đền thờ Ngài, và mọi người tôn ngài là chí Thành Tiên Sư. Tại nước ta, đền thờ Ngài cũng được thiết lập từ làng xã cho tới kinh đô: đó là văn chỉ, văn từ và văn miếu. Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 182 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  25. Hàng năm tới ngày đản sinh Ngài, tại các nơi này đều có cúng tế. Nguồn gốc Nho giáo Như trên đã nói, Nho giáo có từ lâu, từ trước khi đức Khổng Tử ra đời. Bắt đầu từ đời vua phục Hi chế ra bát quái gồm tám quẻ càn, Khảm, cấn, chấn, Tốn, Ly, Khôn và Đoài và sáng lập ra văn khế; kế đến đời vua Hạ Vũ dựng ra cửu trù tức là chín phương pháp để trị thiên hạ, gốc triết học Nho giáo đã phát sinh. Với các lời khuyên răn của các ông Đại Vũ, cao Dao, Y Doãn, phó Duyệt tóm thâu trong mấy chữ Điển, Mô, Huấn, cáo, Thệ, Mệnh, nền luân lý Nho giáo đã được dựng: Điển là phép tắc Mô là mưu chước, là cách thức Huấn là dạy bảo Cáo là lời bảo xuống Thệ là lời răn bảo tướng sĩ Mệnh là mệnh lệnh Rồi vua Nghiêu, vua Thuấn đặt ra điển hình, chu công chê là lễ nhạc tạo nên gốc chính trị học của Nho giáo. Cho đến đời Xuân Thu, đức Khổng Tử mới góp nhặt các lời lẽ văn chương của Tiền Thánh để dạy thiên hạ, lập thành một lối học riêng, lối học đó chính là Nho giáo. Lý thuyết Nho giáo Nho giáo đã có một ảnh hưởng xâu xa trong dân chúng và đã tạo nền nếp trong phong tục Việt Nam. Muốn hiểu biết ảnh hưởng ấy, cần biết sơ qua về lý thuyết của Nho giáo trên hai phương diện vũ trụ và con người. Về vũ trụ Theo nguyên tắc chung về vũ trụ, các triết gia Á Đông cho rằng vật chất đã có từ muôn thuở, vũ trụ, quả đất đã có từ lâu đời và sẽ mãi mãi, qua sự biến chuyển từ kiếp này qua kiếp khác. Cứ sau mỗi thời kỳ 129.600 năm, tất cả trở lại tình trạng hỗn độn, ngoại trừ những mầm mống bất diệt sẽ tạo nên thời kỳ sau. Thời kỳ 129.600 năm là một Nguyên. Nguyên chia là 12 hội, mỗi hội 10.800 năm. Lúc vũ trụ đi tới hội thứ 11, tức là hội Tuất, tính theo hội đầu là Tý, loài Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 183
  26. người và vạn vật phải tiêu diệt. Đến hội thứ 12 là hội Hợi, tất cả mọi vật đã tạo nên đất phải tan rã hoàn toàn để hòa với những vật lỏng trên trời thành một khối gọi là hỗn độn hay hỗn mang. Trong nửa phần thứ hai của hội Hợi, tức là 5.400 năm, đêm tối bao trùm vũ trụ cho đến ngày tận thế. Một nguyên mới lại bắt đầu từ hội Tý. Ánh sáng bắt đầu dần dần tỏ rõ, nhưng khối hỗn độn vẫn còn duy trì, cho hết nửa phần đầu của hội Tý trong 5.400 năm. Lúc này những phần nhẹ của khối hỗn độn dâng lên thành mặt trời, mặt trăng và các vị sao. Hội Tý phải vượt qua nửa hội sau nữa, và trời sẽ mở vào giờ Tý đầu tiên, như sách đã nói “Thiên khai ư Tý”. Đến hội Sửu, đất thành hình bởi những vật cứng của khối hỗn độn, và nước bắt đầu có bởi phần ẩm ướt, cùng với lửa tạo nên bởi phần nóng của khối này. Vì vậy đất ở giờ Sửu, “Địa tịch ư Sửu”. Rồi đến hội Dần. Trong nửa phần đầu, vạn vật trong đó có người ở giữa trời đất bắt đầu có. Sách Nho do đó nói người sinh ra ở giờ Dần, “Nhân sinh ư Dần”. Lý và Khí. Vũ trụ cùng mọi phần tử trong vũ trụ đều gồm hai yếu tố bất khả phân tách là lý và khí. Lý là nguyên tắc hoạt động của vũ trụ, thúc đẩy mọi vật biến hóa. Lý vô hình, vô sắc, vô vị. Khí là một khối hơi biến hóa theo lý, do đó khí có một thể, có một hình, ngũ quan có thể nhận thấy được. Lúc vũ trụ bắt đầu biến hóa gọi là Thái hòa, nghĩa là sự yên tĩnh cực độ, kế đó do yếu tố lý thúc đẩy, mọi việc biến hóa bắt đầu và sự yên tĩnh cực độ cùng với sự hư không cực độ, gọi là Thái hư, đều chịu biến chuyển do lý tạo nên. Thái cực Thái cực chỉ yếu tố lý khi lý là nguyên nhân của mọi cuộc biến hóa vạn vật. Theo Lễ ký thì “Thái cực hàm tam vi nhất”, nghĩa là Thái cực là ba trong một vì Thái cực là nguyên tắc đưa đến chỗ duy nhất của tam tài là Trời, Đất và Người. Tất cả mọi vật trong vũ trụ, kể cả những điều rất trừu tượng như những nỗi vui buồn cũng đều có thái cực. Thái cực ở trong mọi vật nhưng vẫn chỉ có một, như chu Hi đời nhà Tống đã nói: Mặt trăng soi sáng ban đêm chỉ có Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 184 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  27. một mặt trăng; lúc mặt trăng chiếu xuống hồ lại có thêm mặt trăng ở dưới hồ, nhưng có ai bảo mặt trăng bị chia xẻ và mất sự duy nhất. Âm và dương Âm và dương là hai trạng thái của những phần tử vật chất trong vũ trụ. Những phần tử này dưới sự thúc đẩy của lý cấu hiệp với nhau sinh ra ngũ hành, còn gọi là ngũ đế gồm kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Ngũ hành chia ở bốn phương và trung tâm: Kim: ở phía Tây Mộc: ở phía Đông Thủy: ở phía Bắc Hỏa: ở phía Nam Thổ: ở trung tâm Giữa vạn vật luôn luôn có sự tranh chấp và tương đối, nghĩa là có sự chống chọi nhau cứ từng hai, bốn hoặc hơn nữa tương đối với nhau, tạo nên hai trạng thái Âm và Dương đối chọi nhau. Âm là cái, là tĩnh là chưa hoàn bị, dương là đực, là động, là hoàn bị. Thí dụ: Mặt trăng và mặt trời Đêm và ngày Thể xác và linh hồn Ác và thiện v.v Theo các sách để lại, chính vua phục Hi (2852-2737 trước CN) đã tìm ra nguyên tắc tương đối Âm và Dương. Một đêm nhà vua nằm mơ thầy con ngựa rồng lội trên sông Hoàng Hà, mang trên lưng một Hà đồ gồm những chấm đen và chấm trắng sắp cân nhau, thành hai hình, lưỡng nghi, đen là âm và trắng là dương. Những hình đó trà trộn với nhau thành bốn hình mới là Tứ tượng; Tứ tượng sinh ra Bát quái; Bát quái sinh ra 64 Trùng quái lại sinh ra 4096 hình kép khác, mỗi hình gồm 12 điểm - và như thế các hình các điểm được nhân lên vô tận(-) phục Hi thay những điểm đen bằng một vạch cắt đôi ( ) là Âm và những điểm trắng bằng một vạch liền (-) là Dương. Tất cả mọi hình này được trình bày và cắt nghĩa trong bộ Kinh Dịch. Tam tài Mọi vật trong vũ trụ đều có Âm và Dương tương đối nhau, và trong mọi vật có ba yếu tố chính là Tam tài: Trời, Đất và Người. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 185
  28. Trời, Đất: Do sự biến hóa giao động liên tiếp của vật chất phát sinh ra sức nóng và ánh sáng. Những phần tử tinh vi nhất bốc lên trời. Trời gồm: mặt trời, mặt trăng, các tinh tú. Không trung cũng là một phần của bầu trời, chính ở đây có sự trà trộn của ngũ hành để tạo nên nguyên tố căn bản của các vật. Những phần tử cặn bã, lạnh lẽo, tối tăm đọng lại biến thành đất. Trời với đất riêng biệt nhưng vẫn liên quan với nhau về phương diện động. Trời hoàn thiện nhất nên Kinh Thư gọi trời là Thượng Thiên, trời cao, là Hiệu Thiên, trời sáng, là Hoàng Thiên, là Thượng Đế Người ta coi Trời là đấng tối cao chỉ huy mọi vật trong vũ trụ. Khí hóa: do sự giao hợp giữa Âm và Dương, Trời và Đất các động vật trong đó có con Người được sinh ra, giống đực do trời, giống cái do đất. Việc sinh sản đầu tiên này được gọi là Khí hóa. Sau đó các động vật giao hợp thẳng với nhau để sinh tồn, việc sinh sản này là hình hóa. Theo sách nho, người đầu tiên là ông Bàn cổ do trời đất sinh ra. Ông Bàn cổ hiểu lẽ âm dương biến hóa đã làm chủ được Tam tài - Không sách nào nói đến vợ ông Bàn cổ. Vạn vật nhất thể: Qua các điều trên ta thấy rằng mọi vật, không phân biệt vật nào đều có một nguồn chung, tất cả đều do nguyên tắc tương đối sinh ra: Trời và đất là cha mẹ chung, loài người là anh em và các vật khác là bầu bạn. Nếu có sự dị biệt giữa người với người, giữa người với loài vật là do bởi Khí, khí có bốn đặc điểm khác nhau: Chính là ngay thẳng Thiên là lệch lạc Thông là hở, dễ thấm Tắc là bít lối Chính và Thông là những đặc điểm của loài người. Thiên và Tắc là những đặc tính của cầm thú, thảo mộc, và Thông còn có thêm nhiều đặc tính khác gây nên sự dị biệt giữa người với người, cũng như trong Thiên và Tắc cũng có những đặc tính khác gây sự dị biệt giữa cầm thú, thảo mộc lẫn với nhau. Về con người Về vũ trụ, Nho giáo đã có quan niệm rõ rệt thì về nhân sinh cũng vậy. Nho giáo cũng có một quan niệm riêng. Bản thể con người Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 186 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  29. Quan niệm của Nho giáo về con người, qua Tử Tư, cháu đức Khổng Tử, tác giả sách Trung Dung thì mọi người đều sinh ra với một bản thể toàn diện, con người phải sống theo tính tình toàn thiện ấy để tập nhân đức. Chính Mạnh Tử cũng đã xác nhận loài người sinh ra hướng về sự thiện: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Người ta hướng về điều thiện như nước chảy theo đường dốc vậy. Sở dĩ loài người không đi tới chỗ toàn thiện chỉ vì không chịu tập lấy nhân đức. Các thánh nhân, các nhà đạo đức chỉ hơn người ở chỗ biết giữ lấy bản năng toàn thiện của con người. Qua các điểm nhận định về vũ trụ ở trên thì Lý giao hợp với Khí để sinh sản ra mọi vật trong đó có con người. Lý là cái phần toàn thiện thì bản thể con người do Lý tạo, lẽ tất nhiên cũng phải tốt lành và hướng thiện. Vậy sao lại có những điều xấu về luân lý và tinh thần, nghĩa là những điều thiếu nhân đức? Đấy là do nguyên tắc Khí sinh ra. Loài người hơn muôn vật vì đã hấp thụ những cái gì tinh vi nhất của nguyên tắc khí. Tuy vậy, giữa con người, cũng có người khôn ngoan, kẻ ngu độn, đó là vì đã lãnh nhận nhiều ít những yếu tố tốt hay xấu ở Khí. Như vậy, có thật “nhân chi sơ, tính bản thiện” không? Ở đây, có thể nói được rằng thật nếu chỉ xét về bản thể của con người lúc mới bởi trời ban cho: nhưng nếu xét qua bản thể đó khi đã được cá tính hóa trong vật chất thì phải nói rằng trong bản thể đó có xấu có tốt, có xấu, có tốt, nhưng nếu lý điều khiển tất cả mọi việc và nguyên tắc vật chất khí không làm trở ngại việc điều khiển này con người sẽ hoàn thiện. Ngoài ra, sự học vấn, cũng bổ khuyết cho con người. Bởi vậy cho nên, khi con người sinh ra, bản thể giống nhau, nhưng sự ăn ở, việc học hành làm cách biệt người nọ với người kia: “Tính tương cận, tập tương viễn”. Tất cả, về bản thể con người, quan niệm của Nho giáo tóm tắt trong 12 chữ: Nhân chi sơ, tính bản thiện. Tính tương cận, tập tương viễn. Nhân đức và tài lộc Nho giáo khuyên người ta làm điều nhân đức. Trong sách Luận Ngữ đức Khổng Tử có nói: “Nhân giả an nhân, trí giả lợi nhân“’, người nhân đức tìm sự an nghỉ trong nhân đức. Kẻ trí thức bao giờ cũng hiểu lời dạy của ngài, Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 187
  30. nhưng giới quần chúng không thấu hiểu được hết lời ngài nói. Do đó muốn hướng thiện con người phải cho con người biết có nhân đức thì có lợi lộc, không có nhân đức bị thiệt hại, trong các sách nho, chỉ có kinh Dịch nói tới sự thưởng phạt cá nhân. Mặc dầu không nhắc tới sự trừng phạt, chỉ nói tới đạo đức, nhưng trên thực tế vẫn có người nhân đức hiền lành, còn người xấu xa lẽ tất nhiên không thể tránh được. Thánh nhân Thánh nhân là những người hoàn thiện. Chính ra, về phương diện bản thể lúc mới trời ban cho, Thánh nhân không khác người thường, nhưng Thánh nhân sinh ra trong thời gian thuận tiện dưới một ngôi sao tốt nên tính khí tinh vi và trong sạch. Trong thời kỳ hỗn độn, vũ trụ còn trẻ trung, có nhiều Thánh nhân ra đời, nhưng lúc trời đất vạn vật càng lâu càng già thì Thánh nhân càng hiếm hoi. Dưới đây là các Thánh nhân theo Nho giáo. Phục Hi (2825-2737) Thần Nông (2737-2697) Nghiêu (2356-2258) Thuấn (2255-2205) Văn Vương (1231-1135) Vũ Vương (1169-1116) Chu công (+ 1105) Liễu Hạ Huệ (600) Khổng Phu Tử (551-479) Trong các vị Thánh trên, Khổng Phu Tử được tôn là chí Thánh Tiên sư, là Vạn thế sư biểu. Tử Tư trong Trung Dung quan niệm: Thánh nhân là con người toàn thiện, mà bản thể phù hợp với thiên lý, có thể sánh ngang hàng Trời Đất. Nhân đức của vị Thánh cũng là nhân đức của Trời Đất. Vị Thánh sáng tỏ như mặt trời và mặt trăng, sự điều hòa của vị Thánh có thể sánh với sự điều hòa của bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, ảnh hưởng của Thánh nhân có thể ví như ảnh hưởng các vị thần linh. Quỷ thần Theo Nho giáo thì có quỷ thần, nhưng quỷ thần đây không giống như ma quỷ và thần thánh được thờ phụng trong đạo Lão hay đạo thờ thần của người Việt Nam. Trong sách Lễ Ký, một môn đệ của đức Khổng Tử là Tế Ngã, khi hỏi Ngài về quỷ thần đã được Ngài trả lời: Khí là sung mãn của thần và phách là sung mãn của quỷ. Phối hợp quỷ với Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 188 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  31. thần, lúc chúng ta cúng lễ tổ tiên là một phận sự cao cả. Đức Khổng Tử cũng lại bảo Tế Ngã: - Tất cả những vật gì sống phải chết, và chết mọi vật đều trở về với đất, vì thế mới gọi là quỷ, xương thịt chôn xuống đất sẽ thành tro bụi, còn khí bay lên không trung để trở nên một ánh sáng rực rỡ và cứ dâng lên trời như hơi nước nhẹ nhàng và gây trong tâm hồn chúng ta một mối sợ hãi và buồn chán; đó là bản thể thuần túy của mọi vật không được gọi là tinh và cũng là sự biểu dương của thần. Hơi thở của con người, khí, một ngày kia cũng tắt đi, vì thế ai cũng phải chết. Lúc ấy phách trở về dưới đất, khí lên không trung và là phần tinh vi của vật thể. Nho sĩ gọi tính linh. Người xưa đã chọn một danh từ bao hàm cung kính tôn trọng để gọi những khí phách ấy là quỷ thần. Trong sách Trung Dung, Tử Tư cũng nói: - Quyền pháp của quỷ thần rất lớn, mắt chúng ta không thấy, tai chúng ta không nghe được quỷ thần, tuy nhiên quỷ thần ở trong mọi vật và không lìa ra khỏi các vật được. Các dòng trên cho ta thấy sự kết hợp giữa quỷ thần với mọi vật, nhất là với con người rất mật thiết và không thể có sự chia lìa được! Sinh tử Có sống phải có chết. Lúc chết, khí và phách sẽ phân chia. Linh hồn hay hồn khí trở về trời, còn giác hồn hay hình phách trở về đất. Trong con người đã chết, không còn gì nữa. Kinh Dịch gọi hồn ra khỏi xác là du hồn. Chết không phải là qua một thế giới khác, nhưng theo lẽ quỷ thần con người phải nghĩ tới việc bảo tồn huyết thống để có người cúng tế sau khi mình đã chết. Lúc chết, sau hơi thở cuối cùng, con người sẽ tiêu tan và cá tính của một người sẽ là một nguyên tử vô hình trong Thái hư. Luân lý Nho giáo Qua các điểm về lý thuyết Nho giáo liên quan tới con người và qua tiểu sử của đức Khổng Tử, ta phải nhận thấy rằng Nho giáo chú trọng tới công việc giáo dục con người, và riêng đức Khổng Tử thì coi việc giáo dục này là vui thú nhất. Theo Nho giáo, trong lãnh vực, không có sự phân biệt giai cấp trong xã hội, và ở đây mục tiêu chỉ nhằm vào việc giáo hóa. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 189
  32. Đức Khổng Tử tin rằng công phu giáo hóa sẽ làm thay đổi tư cách con người, dù ở giữa thời phong kiến giai cấp quyền lợi phân tranh, nhưng hạng người trí thức có nhiệm vụ giáo hóa phải đứng bên các quyền lợi giai cấp để phụng sự cho chính nghĩa, cho lý tưởng làm người. Cái tinh thần bất vụ lợi về giáo dục đã trở nên cái tinh thần truyền thống ở khắp Á Đông. Lối thoát của Khổng giáo đối với xã hội giai cấp đấu tranh không phải là tiêu diệt tất cả mọi giai cấp, việc này không thể có được bất cứ ở đâu và ở giai đoạn nào. Khổng Nho đã có một biện pháp thích đáng để giải quyết vấn đề này mà quan điểm quyền lợi đã bị bế tắc, biện pháp rất thực tế là đạo đức hóa những hoạt động chính trị, bắt chính trị chỉ là phương tiện để đi đến một xã hội có giáo hóa trong đó Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, giai dĩ tu thân vi bản. Làm như vậy tức là trừ tận gốc các nọc độc của con rắn độc này. Cái căn bản luân lý của đạo đức hóa mọi tầng lớp theo Khổng giáo là căn bản tam cương, ngũ thường. Tam cương định rõ những tương quan giữa quân thần, phụ tử, phu phụ. Ngũ thường gồm có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, là năm đức thường con người cần phải có để cư xử với mọi người. Với căn bản luân lý này, khi đã thành nhân, con người phải gắng tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Còn đàn bà phải biết tam tòng tứ đức. Tất cả cái căn bản luân lý của Khổng giáo đều rút trong các sách gốc của Nho học là Tứ Thư và Ngũ Kinh. Những sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của Trung Hoa. Tứ thư Tứ Thư gồm bốn cuốn sách Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. Đại Học - Sách dạy cái đạo của người quân tử. Sách chia làm hai phần trên là Kinh chép lời đức Khổng Tử, có một chương, phần dưới là Truyện, chép lời giảng của Tăng Tử gồm 10 chương. Cái đạo của người quân tử tóm tắt ở câu đầu sách: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chí ư chí thiện”, nghĩa là cái đạo người theo bậc đại học là cốt làm sáng cái đức sáng của mình, cốt cải hóa người dân, cốt dừng lại ở cõi chí thiện. Người quân tử phải biết sửa mình, để lo dạy người khác và lấy sự chí thiện làm cứu cánh. Bởi thế cho nên trước hết người Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 190 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  33. quân tử biết tu thân, rồi chỉnh đốn việc nhà, sau đó cai trị việc nước rồi mới bình được thiên hạ. Từ tu thân, qua tề gia, trị việc nước rồi mới bình được thiên hạ, ta thấy phương pháp tuần tự nhi tiến, nhưng việc tu thân vẫn quan trọng nhất. Chính vì vậy mà từ nhà vua tới người dân giả đều phải lấy sự sửa mình làm gốc. Mà muốn sửa mình trước hết phải cách vật, thấu lẽ mọi sự vật rồi trí tri, biết cho đến cùng cực, thành ý, ý phải thành thực và chính tâm, lòng phải ngay thẳng. Trung Dung: Sách này gồm những điều đạo đức của đức Khổng Tử được truyền lại và do Tử Tư là cháu Ngài chép thành sách gồm 33 chương. Giảng về đạo Trung Dung đức Khổng Tử có nói trung hòa là tính tình tự nhiên của trời đất mà trung dung là đức hạnh của người. Người quân tử giữ đạo trung dung ăn ở đúng mực, không thái quá không bất cập. Đạo trung dung rất dễ theo, nhưng ít người chịu theo. Muốn giữ đạo trung dung phải có ba đạt đức là trí, nhân, dũng. Trí để biết rõ các sự lý, nhân để hiểu điều lành mà làm, dũng để có khí cường kiện theo làm điều lành cho đến cùng. “Ông Tử Tư lại dẫn lời đức Khổng Tử nói về chữ thành: Thành là đạo Trời, học cho đến bậc thành là đạo người. Đạo người là phải cố gắng hết sức để cho đến bậc chí thành. Phải học cho rộng, xét hỏi cho kỹ, nghĩ ngợi cho sâu, biện biệt điều phải trái cho rõ và dốc lòng làm điều thiện cho đến cùng. Hễ ai làm được như thế thì rồi ngu cũng thành ra sáng, yếu thành ra mạnh, tức là dần dần lên đến bậc chí thành. Ở trong thiên hạ duy có bậc chí thành tức là bậc Thánh, thì mới biết rõ cái tính của trời; biết rõ cái tính của trời mới biết rõ cái tính của người; biết rõ cái tính của người thì biết rõ cái tính của vạn vật; biết rõ cái tính của vạn vật thì khả dĩ giúp được sự hóa dục của trời đất và có công ngang với trời đất vậy “Sách Trung Dung nói cái đạo của thánh nhân căn bản ở Trời, rồi giải diễn ra hết mọi lẽ, khiến người ta phải giữ mình cho kính cẩn trong khi hành động và khi im lặng một mình. Suy cái lý ấy ra cho đến sự nhân nghĩa để khiến cho cả thiên hạ được bình trị và tán dương cái công hiệu linh diệu của đạo ấy cho đến chỗ tinh thần vô thanh, vô sắc mới thôi”[17]. Luận ngữ - Đây là cuốn sách ghi lại những lời đức Khổng Tử khuyên dạy học trò hoặc các câu chuyện giữa Ngài với các nhân vật đương thời về nhiều vấn đề từ luân lý, triết lý đến chính trị học thuật. [17] Trần Trọng Kim: Nho giáo, quyển I, trang 279. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 191
  34. Sách này có thể coi là cuốn sách dạy đạo người quân tử một cách thực tiễn và sự mô tả tính tình cử chỉ của đức Khổng Tử như phác họa ra một cái mẫu mực hoạt động cho người đời sau theo. Mạnh Tử - Sách do Mạnh Tử viết ra, gồm bảy thiên, chia làm hai tập, Thượng Mạnh, ba thiên và Hạ Mạnh, bốn thiên. Sách nói lên tư tưởng của Mạnh Tử về luân lý, chính trị và kinh tế. Về luân lý, sách chủ trương “Nhân chi sơ tính bản thiện” nhưng tính thiện có thể thiên lệch đi vì hoàn cảnh, vì tập quán, vì vật dục nên cần phải có giáo dục để nuôi lấy lòng thiện. Mấy điều cốt yếu trong việc giáo dục này là dưỡng tính, giữ vững chí hướng và dưỡng khí, giữ lấy khí phách. Mạnh Tử lại thường nhắc nhở tới phẩm cách của người quân tử, mà ông gọi là đại trượng phu hoặc đại nhân có đủ bốn điều nhân, lễ, nghĩa và trí. Về chính trị, ông chủ trương đạo trị dân phải trọng nhân nghĩa trên tài lợi mới tránh được biến loạn và chiến tranh. Về kinh tế, ông chủ trương kẻ bề trên phải trù tính làm sao cho tài sản của dân được phong phú rồi mới dạy dân và bắt dân làm điều hay được. Ông đưa ra các phương lược để làm cho phát đạt việc canh nông, mục súc và công nghệ của dân. Dân có hằng sản rồi mới hằng tâm được, nghĩa là dân có sung túc mới dễ làm điều thiện. Ngũ kinh Cũng như Tứ Thư, Ngũ Kinh là những cuốn sách gốc của Nho giáo. Trước đây có sáu kinh, nhưng về sau kinh Nhạc bị thất lạc, chỉ còn ngũ kinh. Kinh Thi - Vốn là những bài ca dao ở nơi thôn quê và nhạc chương ở nơi triều miếu do đức Khổng Tử sưu tập và lựa chọn. Kinh Thư - cũng do đức Khổng Tử sưu tập trong chép điển, mô, huấn, cáo, thệ, mệnh của các vua tôi bên Tàu tự đời Nghiêu, Thuấn đến đời Đông chu. Kinh Dịch - Đây là cuốn sách tướng số dùng về việc bói toán và sách lý học cốt giải thích lẽ biến hóa của trời đất và sự hành động của muôn vật. Sách này gần đây đã được ông Nguyễn Mạnh Bảo sưu tầm và dẫn giải trong Dịch kinh tân khảo gồm bảy tập, dày 4360 trang. Lễ Ký - chép các lễ nghi trong gia đình, hương đảng và triều đình. Kinh Xuân Thu - Đây là tập sử ký nước Lỗ do đức Khổng Tử san định lại, chép công việc từ đời vua Lỗ Ân công tới đời vua Lỗ Ai công, tất cả thời gian Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 192 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  35. 243 năm, từ 722 đến 481 trước Tây lịch. Tứ Thư và Ngũ Kinh là hai bộ sách gốc gồm những điều cốt yếu của Nho giáo cho mọi người hiểu rõ triết lý cũng như luân lý của đạo Nho. Ở đây chỉ nhắc sơ qua, tập sách này nhằm nhiều về phong tục Việt Nam qua tín ngưỡng triết lý và giáo điều của bất cứ tôn giáo nào. Nho giáo tại Việt Nam Ảnh hưởng của Nho giáo hiện này còn vững chắc trong dân chúng Việt Nam, và những phong tục của dân ta, rất nhiều bị chi phối bởi Nho giáo, nếu không bắt nguồn hẳn tự Nho giáo. Nho giáo truyền sang nước ta từ thời Bắc thuộc, khi nhà Hán đô hộ nước ta, bởi các ông Tích Quang và Sĩ Nhiếp. Hai ông này đã đem phong tục và văn hóa Trung Hoa truyền dạy cho dân ta khi các ông làm Thái Thú quận Giao chỉ, ông Tích Quang đầu thế kỷ thứ nhất, và ông Sĩ Nhiếp từ năm 187 đến năm 226. Trong suốt nghìn năm đô hộ, Nho học đã lan rộng trong dân chúng Việt Nam và dưới đời Đông Hán đã có những người Việt Nam thi đỗ và được bổ làm quan với người Tàu như Lý cầm, Lý Tiến và Trương Trọng. Hết thời kỳ Bắc thuộc, bước qua thời kỳ tự chủ, Nho giáo càng có một ảnh hưởng rộng mạnh hơn ở nước ta, nhất là dưới triều nhà Lý và triều nhà Trần. Chính Nho giáo đã đào tạo ra những bậc anh tài ngày nay còn ghi tên trong sử sách như Hàn Thuyên, Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Mạc Đĩnh chi, Lê Văn Hưu v.v Thời kỳ thịnh hành nhất của Nho giáo tại Việt Nam phải kể là dưới triều đình nhà Lê mà Nho giáo được coi như Quốc giáo. Nho giáo còn thịnh hành ở Việt Nam cho tới thời pháp thuộc. Đồng thời với sự nhập cảng thêm tôn giáo mới tại Việt Nam, người pháp đã bãi bỏ thi cử nho học để gây sự suy kém của Nho giáo tại nước ta. Ngày nay tinh thần phục hưng Nho giáo đang nẩy nở ở một vài lớp người với việc thành lập hội Khổng học. Mặc dù trong tình trạng suy kém, ảnh hưởng của Nho giáo vẫn còn rất sâu đậm trong mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam. Những nơi thờ tự Đức Khổng Tử Chịu ảnh hưởng của Nho giáo, dân ta cũng như người Trung Hoa, đã lập Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 193
  36. ra những nơi thờ tự để duy trì đạo Khổng trong nước. Từ vua chí dân, để tỏ lòng sùng đạo hàng năm đều có tế lễ tại các nơi thờ tự này là Văn miếu, Văn từ và Văn chỉ. Tại khắp các nơi, từ thôn xã trở lên đều có văn từ văn chỉ, với những kiến trúc khác biệt không giống các nơi thờ tự của đạo lão hoặc đạo thờ thần. Ở những nơi văn từ văn chỉ, văn miếu này, người ta thờ đức Khổng Tử, vị chí Thánh tiên sư, Vạn thế sư biểu, cùng với các bậc danh nho và các nhà khoa cử. Văn từ và văn chỉ Mỗi xã hội Việt Nam trước đây, điều có một văn từ hoặc văn chỉ để thờ đức Khổng Tử và các bậc khoa hoạn trong làng. Kể từ thời Pháp thuộc tới nay, nhiều làng, vì toàn thể dân xã theo đạo mới là Thiên chúa giáo, nên những nơi thờ tự hoặc bị bỏ hoang phế hoặc được sửa chữa thay đổi để biến thành nơi thờ chúa Jêsus cho đúng với tín ngưỡng mới. Văn từ hay văn chỉ là một đàn xây, thường ở đầu làng, có bệ thay cho hương án. Đàn nầy có mái hoặc lộ thiên, có mái gọi là văn từ, lộ thiên gọi là văn chỉ. Kiến trúc và bài trí Văn từ và văn chỉ thường xây trên một gò cao phong cảnh thanh nhã êm đềm. Kiến trúc văn từ hoặc văn chỉ khác hẳn kiến trúc đình, đền, miếu Mỗi văn từ hoặc văn chỉ thường có ba lớp. - Lớp trong cùng thờ đức Khổng Tử được mọi người tôn làm Tiên Thánh Sư, chủ trương cho việc văn học trong làng. Lớp này gồm một ban xây thay cho hương án, hai bên có những đôi câu đối, và ở trên nếu là văn chỉ thì viết ngay vào tường, nếu là văn từ thì có hoành phi mang mấy chữ Vạn Thế Sư Biểu, hoặc chí Thánh Tiên Sư. Trên ban có bình hương riêng. Tuy tại nơi đây không có bài vị nhưng mấy chữ đại tự ở hoành phi hoặc viết ngay trên tường để thay cho bài vị. - Lớp thứ hai gồm ba ban, một ban ở giữa và hai ban ở hai bên. Cả ba ban này đều xây gạch thay cho hương án. Ban ở giữa thờ những người đã đỗ Đại khoa từ Tiến sĩ và những người làm quan từ tam tứ thập trở lên. Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 194 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  37. Ban bên phải thờ những người đỗ Trung khoa từ cử nhân và những người làm quan từ lục thất phẩm trở lên. Ban bên trái thờ những người đỗ Tiểu khoa, từ Tú tài và những người làm quan cho đến bát cửu phẩm. Các bậc tiên hiền nước ta như chu Văn An, Hàn Thuyên đều được dân xã thờ vào ban giữa. Các người Trung Hoa có công truyền bá Nho giáo sang Việt Nam như Nhâm Diên, Tích Quang, Sĩ Nhiếp cũng được thờ ở ban này. Việc phân biệt ba ban trên gọi là liệt tự, nghĩa là liệt hạng để thờ phụng. Ba ban phân các hạng được dân làng thờ làm ba hạng nhất, nhì, ba, có bia ghi rõ ở văn từ hoặc văn chỉ. - Lớp thứ ba là bái đình tức là cái sân dùng vào trong việc tế tự. Văn từ và văn chỉ thường được xây ở các xã nhưng nhiều tổng và huyện cũng có xây văn tự hàng huyện hoặc hàng tổng. Tế tự Tuy trong việc thờ phụng liệt tự các hào mục, tổng lý các ông đồ không có khoa bảng không được ghi tên trong bia của dân xã, nhưng trong khi tế tự, thường dân làng vẫn khấn mời cả các vị nầy tới phối hưởng cùng với các vị có tên ghi trong bia làng. Cũng có nhiều làng quá chú trọng về đường khoa mục, chỉ ghi tên liệt tự những người đã thi đỗ, còn những người dù có làm quan mà không xuất thân tự nơi khoa ban, thì dầu phẩm trật đến nhất nhị phẩm cũng không được ghi tên trong bia làng, chỉ đến lúc tế mới được đem vào phối hưởng. Hàng năm, tại các văn chỉ và văn tự dân làng tế hai lần gọi là xuân tế và thu tế. Việc tế tự, nghi thức theo như nghi thức tế các thần linh đã được nói rõ ở trên, trong đạo thờ thần. Cả sự cúng tế cũng giống như cúng lễ các thần linh, chính vì sự giống nhau trong nghi thức này, mà người ngoại quốc cho rằng giữa các tôn giáo tại Việt Nam không có một ranh giới rõ rệt. Sự thật đạo nào vẫn ra đạo ấy tuy trong nghi thức cúng tế lễ bái có giống nhau. Ngày xưa, năm nào có khoa thi, các sĩ từ trong làng họp nhau tới lễ tại văn tự hoặc văn chỉ, gọi là làm lễ kỳ khoa. Có nhiều nơi cả làng lễ để cầu cho xã mình được nhiều người đỗ đạt. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 195
  38. Khi thi xong, các ông tân khoa đều ra lễ tại văn từ hoặc văn chỉ để tạ ơn đức chí Thánh tiên sư và các bậc tiên hiền. Dưới thời kỳ Pháp thuộc, các thí sinh các kỳ thi nền học mới cũng thường tới lễ tại văn từ hoặc văn chỉ của làng để cầu xin sự phù hộ của Thánh hiền trong kỳ thi, rồi khi thi đỗ cũng lại tới đó làm lễ tạ ơn. Các người có con đi học vỡ lòng, cùng với đồ lễ tới nhà ông đồ, xưa kia cũng dắt con mang đồ lễ tới văn từ hoặc văn chỉ để khấn xin được học đạo Thánh. Đứa trẻ sắp đi học khai tâm sau khi người cha khấn lễ xong cũng phải lễ trước bàn thờ các vị Thánh hiền. Văn miếu Văn miếu là đền thờ đức Khổng Tử của toàn nước Nam. Xưa kia nước Việt Nam chỉ có một văn miếu ở Hà Nội, nhưng về đời vua Gia Long vì kinh đô đóng tại Huế, nên nhà vua cho xây thêm một văn miếu thứ hai nữa. Do đó nước ta mới có hai văn miếu. Văn miếu ở Huế còn có tên là Thánh miếu, xây vào năm 1808, cách chùa Thiên Mụ độ 300 thước. Văn miếu Hà Nội Theo phan Kế Bính thì Văn miếu Hà Nội lập ra từ đời Lý Thánh Tôn, nhưng có thuyết cho rằng Văn miếu có tại nước ta đã từ lâu, từ đời ông Sĩ Nhiếp. Xét qua văn học sử nước ta, Văn miếu mới được dựng nên từ đời hậu Lý, do Thái sư Tô Hiến Thành hưng công, trên địa hạt xã Minh Giám, huyện Thọ Xương cũ, chính vì tên xã này mà Văn miếu còn được gọi là đền Giám. Cũng có sách cho rằng Văn miếu đã từng được dùng làm Quốc tử giám nên gọi vậy. Văn miếu lập nên để thờ cúng đức Khổng Tử cùng với những vị môn đệ xuất sắc của ngài gồm: Tứ phối: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử. Thập triết: Tử cống, Tử Hạ, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng cung, Tế Ngã, Nhiễm Hữu, Quí Lộ, Tử Du và Nhan Uyên (tức là Nhan Tử đã đứng trong hàng Tứ phối). Thất thập nhị hiền: Bảy mươi hai đệ tử thông hiểu đạo lý của Nho giáo. Ngoài ra ở hai bên tả mạc và hữu mạc lại có thờ tất cả một trăm hai mươi vị cao hiền, tiên hiền, tiên nho đời Đường và đời Tống. Về sau nước ta có thờ Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 196 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  39. thêm ông chu Văn An một hiền sĩ đời Trần. Xưa kia Văn miếu là nơi duy trì đạo cho nước. Hàng năm hai kỳ xuân, thu nhà vua dùng trọng lễ, thân ra tế hoặc cử đại thần đại diện tới tế để tỏ lòng tôn kính vị Vạn Thế sư biểu. ĐỒ ÁN VĂN MIẾU HÀ NỘI 1. Khải thành điện 2. Nhà ở của những người thủ đền 3. Chỗ ngủ của các thầy tư tề 4. Miếu thờ thổ thần 5. Đại thành điện 6. Văn miếu 7. Đền thờ môn đệ phía đông 8. Đền thờ môn đệ phía tây 9. Đại thành môn Kiến trúc Văn miếu Khi quan Thái sư Tô Hiến Thành hưng công dựng Văn miếu, ngài có rập theo nét đại cương kiến trúc đền thờ đức Khổng Tử ở quê hương Ngài thuộc làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ, nay thuộc Duyệt châu tỉnh Sơn Đông. Văn miếu Hà Nội kiến trúc theo hình bình hành trên một diện tích khá rộng, bề ngang 75 thước, bề dài 350 thước. chung quanh Văn miếu có tường cao bao bọc có cây cổ thụ um tùm trông thật trang nghiêm. Văn miếu chia làm năm đợt từ ngoài vào, ngăn nhau bởi những bức tường có năm cửa chính ăn thông. Mặt trước Văn miếu trông thẳng ra phố Sinh Từ, đằng sau là đường đi Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 197
  40. Thái Hà ấp. Ngoài cùng về phía Sinh Từ là cửa tam quan. Lớp thứ hai có cửa là Đại trung môn. Hai bên Đại trung môn có hai cửa nhỏ là Đại tài môn và Thành đức môn. Lớp thứ ba có cửa là Khuê văn các, hai bên có hai cửa nhỏ là cúc văn và Bi văn. Lớp thứ tư có cửa là Đại Thành môn, hai bên có hai cửa nhỏ là Ngọc Trần và Kim Thanh. Lớp cuối cùng có cửa hậu ăn thông vào sân sau. Bên phải có một cửa nhỏ gọi là Đông môn. Từ phố Sinh Từ đi vào qua một đường ngang. Trước Văn miếu là bốn cột trụ, rồi thẳng tới Tam quan. Đây là cửa chính, và cửa này có gác. Kế đó là lớp sân rồi đến Đại trung môn. Khỏi Đại trung môn lại là một lớp sân rộng hơn rồi tới Khuê văn các. Qua Khuê văn các là sân Thạch bia. Đây là trung tâm Văn miếu. Giữa sân có một giếng vuông gọi là Thiên quan tỉnh. Về phía đông và phía tây, hai bên giếng có hai ngôi đền thờ vọng để hàng năm vào những kỳ tế lễ ở đây có người tới dâng hương. Hai bên tả hữu hai ngôi đền là những hàng bia đá, tổng cộng tất cả 82 tấm dựng lên từ đời nhà Lê có ghi danh sách cùng quê 1.295 vị tiến sĩ của kỳ thi đã mở. Khỏi sân Thạch bia là cửa Đại Thành. Hai bên có hai dãy đền thờ 72 môn đệ của đức Khổng Tử. cuối hai dãy đền thờ này, ở ngay giữa sân có một tòa nhà tám mái nằm ngang. Tòa này có 40 cột lớn sơn son thiếp vàng lộng lẫy và được ngăn đôi: - Đằng trước gọi là Văn miếu, có bàn thờ đức Khổng Tử, hai bên có những hạc thờ đậu trên lưng rùa. - Đằng sau là điện Đại Thành cũng thờ đức Khổng Tử. Ở đây có một chiếc ngai lộng lẫy vàng son, trên ngai có bài vị đức chí Thánh tiên sư. Hai bên chiếc ngai là bài vị thờ Tứ phối. Đằng sau Tứ phối là bài vị Thập triết và Thất thập nhị hiền. Sân sau cùng của Văn miếu là đền Xã Tắc. Một chiếc cửa ăn thông từ điện Đại Thành tới đền này. Ở sân sau cùng có miếu thờ Thổ Thần tại phía Tây. Lại có bốn thạch nghiễn và hai dãy nhà đối nhau, một dãy dành cho những người coi giữ Văn miếu, Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 198 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  41. còn một dãy dành cho những người phụ trách việc tế lễ. Trong cùng sân là điện Khải Thành, nơi thờ song thân đức Khổng Tử cùng những bậc sinh thành của Tứ phối. Sau Khải Thành điện là khu vườn có cây cao bóng mát. Kể từ khi xây cất đến nay, Văn miếu đã được trùng tu nhiều lần, nhưng vẻ trang nghiêm vẫn lưu truyền suốt đời nọ qua đời kia, và con người đã cắp sách đi học đôi ba chữ Hán trước đây, ai đối với văn miếu, cũng như đối với văn từ và văn chỉ đều có thái độ cung kính để tỏ sự biết ơn đức Vạn Thế sư biểu. Khổng miếu tại các tỉnh Ngoài văn miếu xây cất tại Hà Nội và Huế, văn từ hoặc văn chỉ xây cất tại xã thôn, tổng và huyện, tại các tỉnh lỵ xưa kia cũng có nơi thờ tự đức Khổng Tử, các đệ tử của Ngài. Những nơi này thường được gọi là Khổng miếu, do hàng tỉnh trông nom và tu sửa. Khổng miếu tại Quảng Nam Để bạn đọc có một ý niệm sơ qua về Khổng miếu hàng tỉnh, dưới đây xin trình bày sơ lược, một miếu này, Khổng miếu tại Quảng Nam. Miếu này chứng tỏ dân chúng Việt Nam đâu đâu cũng tôn sùng đức Vạn Thế sư biểu. Trước đây, về đầu thế kỷ thứ XIX, khi vua Gia Long lập quốc, tỉnh Quảng Nam có xây nên một văn miếu, tại phía Tây xã cân Nhí, huyện Diên Phước, quận Điện Bàn ngày nay, nhưng vì văn miếu ở gần sông, bị nước xoi lở, được rời về phía Đông xã này, nhưng vẫn bị xoi lở, nên đến đời vua Minh Mạng văn miếu được chuyển hẳn sang làng Thanh chiêm cùng huyện. Kiến trúc - Khổng miếu Quảng Nam có nền kiến trúc giống với điện Đại Thành tại Đài Loan, tuy nhiên cửa Tam quan nơi Khổng miếu Việt Nam lại xây y hình cửa Khuyết lý ở Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Cửa Tam quan này có ba lối vào. Lối giữa là Đại Trung môn rộng và cao hơn lối tả hữu. Mái lợp ngói âm dương. Dưới mái này có một mô hình đắp theo điển đức Khổng Tử giảng đạo đồ. Ngang mô hình là một tấm đá cẩm thạch có khắc ba chữ Khổng Tử miếu. Tại các trụ Tam quan đều có câu đối như ở bất cứ nơi đình đền nào. Qua Tam quan là một hồ sen rộng, có cầu bán nguyệt bắc ngang là lối đi vào trong miếu. Khỏi hồ sen là bốn trụ biểu, mỗi trụ bên trên đều có một Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 199
  42. con kỳ lân. Khỏi các trụ biểu là một tấm bình phong có đắp hình con Long mã theo điển “Long mã phụ đồ”, con Long mã đời vua phục Hy mang trên lưng Hà Đồ. Qua khỏi bình phong là một sân vuông, bốn góc có trồng bốn cây tùng tượng trưng cho Tứ phối. Hai bên Nam Bắc có trồng hai hàng mười cây tùng, tượng trưng cho Thập triết. Và trong cùng hai bên mé sân, có trồng 72 cây tùng khác tượng trưng cho Thất thập nhị hiền. Hai bên sân có Đông môn và Tây môn. Khỏi sân là miếu chính với nhà Tiền đường rộng rãi. Sau nhà Tiền đường là Đại Thành điện, nơi thờ đức Khổng Tử có dựng tượng Ngài, đầu đội vương miện nhà chu. Trên đây là mấy nét sơ qua về Khổng miếu tại Quảng Nam. chính ra tại miếu này còn có đắp mô hình theo các điển tích liên quan tới đời Khổng Tử hoặc tới các môn đệ của Ngài. Khổng miếu tại Quảng Nam Tại các tỉnh khác nhiều nơi cũng có Khổng miếu. Kiến trúc về đại cương bao giờ cũng có tam quan, sân mỗi nơi mỗi khác, nhưng tựu trung bao giờ cũng phân ra hậu tẩm và nhà tiền đường. Văn Thánh miếu Trước đây tại Nam Việt, việc thành lập các tỉnh chưa hoàn bị dưới triều Nguyễn, quân pháp đã kéo sang, do đó triều đình cũng như dân chúng chưa kịp xây dựng Khổng miếu tại các nơi. Cho đến dưới triều Tự Đức, toàn hạt Nam Việt chỉ có một Văn Thánh miếu tại Bình Dương, cũng như chỉ có một trường thi ở Gia Định. Văn Thánh miếu thờ đức Khổng Tử và môn đệ. Năm 1863, quân Pháp chiếm mất ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, gồm cả Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 200 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  43. Bình Dương ngày nay, Gia Định và Định Tường, bấy giờ Khâm sai Kinh lược đại thần Phan Thanh Giản mới cho lập trường thi khác tại An Giang, hồi đó thuộc châu Đốc và xây dựng một Văn Thánh miếu khác tại địa phận xã Long Hồ thuộc tỉnh Vĩnh Long. Văn Thánh miếu được dân làng Long Hồ săn sóc và lo việc đèn nhang tế tự theo tục lệ. Hàng năm có hai kỳ xuân tế và thu tế như tại các Văn miếu ở Huế và Hà Nội. Văn Thánh miếu gồm: Chánh điện thờ đức Khổng Tử. Hai bên có Tả ban và Hữu ban thờ Tứ phối và Thập triết. Hai miếu nhỏ hai bên chánh điện là Tả vu và hữu vu thờ Thất thập nhị hiền. Và đằng trước Văn Thánh miếu, mé bên trái có Văn Xương các. Đây là một ngôi đền có lầu, trên thờ đức Văn Xương đế quân, một vị thần chủ về văn học, và phía dưới thờ ông Phan Thanh Giản, người đã đứng lên xây Văn Thánh miếu. Ở Văn Thánh miếu ngoài việc cúng bái tế lễ về Nho giáo, dân làng Long Hồ hàng năm thường cúng giỗ cụ Phan Thanh Giản trong hai ngày mồng 4 và mồng 5 tháng bẩy âm lịch Ảnh hưởng của Nho giáo tại Việt Nam Trải gần hai nghìn năm du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã có một ảnh hưởng tuy không rầm rộ nhưng vững chắc trong mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam. Gia dĩ luân lý đạo Khổng là hai nền luân lý rất phù hợp với tâm hồn Đông Phương, nhất là đối với người Việt Nam, luôn luôn phải dùng lễ nghĩa để đối phó với mọi sức mạnh tự ngoại đến. Ngày nay, qua mọi tổ chức gia đình và xã hội Việt Nam ta đều thấy ảnh hưởng của Nho giáo, và rõ rệt nhất là về tế tự. Bao nhiêu nghi thức tiết lễ của Khổng giáo đã dần được áp dụng trong việc phụng thờ của các tôn giáo khác, đáng kể hơn hết là trong đạo Thờ phụng Tổ tiên, đạo thờ Thần và đạo Lão biến thể. chính vì áp dụng những nghi thức Khổng giáo trong các cuộc tế lễ thờ Thần đã khiến cho nhiều tác giả ngoại quốc bảo rằng giữa các tôn giáo Việt Nam có một sự hỗn độn hổ tương làm người ta khó phân biệt được cương giới của mỗi tôn giáo. Những tục lệ về quan hôn tang tế của Việt Nam cho đến ngày nay vẫn là Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 201
  44. những tục lệ ảnh hưởng nhiều của Khổng giáo. Trong gia đình, ngoài xã hội, mọi cách cư xử người ta đều dựa vào “tam cương ngũ thường”. Chính cái ảnh hưởng sâu xa của Khổng giáo đã rõ rệt nhất trong gia đình cũng như chốn triều đình. Ở triều đình nhà vua có một quyền tuyệt đối với bách quan và thần dân; trong gia đình, người cha cũng có một quyền tuyệt đối đối với các con. Sự hiếu thảo là một đều bắt buộc, lúc cha mẹ sống con cái phải phụng dưỡng, lúc cha mẹ chết con cái phải thờ phụng. Việc thờ phụng ông bà cha mẹ tại Việt Nam đã được nhiều người ngoại quốc lầm coi là một tôn giáo, vì sự cẩn trọng của người sống đối với anh hồn người chết. Tất cả mọi biến cố xảy ra trong gia đình, con cái đều phải làm lễ cáo gia tiên, từ việc một đứa trẻ ra chào đời, việc thi đỗ cho đến việc một người trong gia đình từ trần. Hàng ngày, trong mọi hành động, người ta đều giữ gìn để khỏi phạm tới luân lý, tức là những điều đã vạch ra bởi ngũ thường. Khi nói năng một điều gì để biện bạch, những lời đức Khổng Tử nói đều được đem ra dẫn chứng. Đức Thánh đã dạy sao, người ta đều cho là phải. Và khi nhắc đến đức Khổng Tử, người ta không nhắc thẳng tên người mà chỉ gọi là đức Thánh. Người ta tôn trọng đức Thánh đến mức tôn trọng cả những chữ đã dùng để truyền bá đạo Ngài. Gặp một tờ giấy chữ Nho, người ta nhặt lên rồi đem thả theo dòng sông hoặc đem đốt đi, để dưới đất sợ ô uế chữ Thánh. Không bao giờ người ta đem dùng những tờ giấy đã viết chữ Nho vào việc kém tinh khiết như gói món ăn, lau chùi đồ dùng v.v Làm điều gì người ta cũng cân nhắc tôn trọng lễ nghĩa, nhất là trong việc giao tế hàng ngày giữa mọi người bao giờ người ta cũng lấy lễ làm trọng. Lễ duy trì trật tự trong xã hội cũng như giữ vững được sự liên lạc mật thiết giữa mọi người. Tại các vùng quê trước đây, mỗi làng đều có một hoặc nhiều ông đồ dạy học. Trẻ con đến tuổi đi học được bố mẹ cho tới nhà các ông đồ này ăn mày đạo Thánh dăm ba chữ. Trước khi cho con đi học, bố mẹ đã cáo gia tiên và đã có sửa lễ ra văn từ hoặc văn chỉ ở làng để khấn đức Thánh và các vị tiên hiền cho con được đi học và xin các ngài phù hộ cho đứa bé thông minh sáng láng. Đứa bé cũng phải lễ trước bàn thờ. Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 202 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  45. Khi ông đồ nhận dạy thêm một đứa học trò mới, ông phải thắp hương khấn đức Thánh để trình cùng Ngài việc gia nhập cửa Khổng sân Trình của một môn sinh mới. Tại nhà các ông đồ, bao giờ cũng có bàn thờ đức Khổng Tử và các môn đệ nổi tiếng của Ngài. Chính vì việc khấn lễ nhập môn của đứa nhỏ mà bao giờ đứa con đi, cha mẹ cũng phải sửa cái lễ để cúng đức Thánh tại nhà ông đồ. Mâm lễ to nhỏ tùy tâm, nhưng thường gồm con gà đĩa xôi và trầu rượu. Kể từ ngày bắt đầu đi học đứa trẻ phải có cử chỉ đường hoàng, không như ngày còn ở nhà. Tất cả các môn sinh Khổng giáo đều phải giữ mình cho ngay thẳng, ngay thẳng trong y phục, ngay thẳng trong ngôn ngữ, trong cử chỉ. Và đã đi học, sau khi học xong mấy cuốn sách vỡ lòng như “Tam tự kinh”, “Minh Đạo gia huấn”, các học trò đều phải học qua Tứ Thư, Ngũ Kinh để hiếu thấu đạo Thánh và để tham dự các kỳ thi. Hiểu thấu đạo Thánh, người ta phải ăn ở cho có đạo đức, tránh sự chê cười của mọi người làm mang tiếng cho thầy học và đo đó phạm tới đạo Thánh hiền. Ngày nay, thời thế đổi thay ảnh hưởng Khổng giáo không còn được hoàn toàn như xưa trong mọi tầng lớp dân chúng, nhưng cũng không phải vì sự chung đụng với Tây phương mà con người đã bỏ hẳn đạo đức. Đạo đức vẫn được duy trì trong lòng người và trong tục lễ, tuy có nhiều sự thay đổi, nhưng sự thay đổi chỉ mạnh ở các đô thị và ở một số người hay a dua không suy xét. Đối với những người có căn bản đạo đức, mặc dù hòa mình theo nếp sống hiện tại, nhưng bao giờ cái tinh thần đạo đức cũng vẫn vững bất cứ ở trường hợp nào. Tế Nam Giao Kể về ảnh hưởng Nho giáo tại Việt Nam, ta phải nhận rằng mọi nghi lễ về cúng tế của đạo Nho đã được các tôn giáo khác, nhất là đạo Lão và đạo thờ Thần đem áp dụng trong việc cúng tế. Và trong các cuộc tế lễ bắt nguồn từ Nho giáo, quan trọng nhất phải kể là tế Nam Giao, tức là tế lễ Trời Đất, nguồn gốc có từ đời vua Vô Hoài, vua Phục Hi. Chủ tế do chính nhà Vua đảm nhiệm. Vua tức là Thiên Tử cử hành lễ để Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 203
  46. thông cảm lẽ Trời Đất với muôn dân. Theo quan niệm phương Đông, Trời không phải chỉ là khoảng không gian xanh biếc gồm các nhật nguyệt tinh vân, mà Trời chính là đấng chúa tể thiêng liêng sinh hóa muôn vật, chủ trì vận mệnh của loài người. Do đó có việc tế Trời, và trong một nước chỉ có nhà vua mới Nhạc khí trong tế Nam Giao có quyền đứng chủ tế, ngoài ra không ai được mạo lạm tế Trời cả. Quyền hạn và tế tự người xưa phân biệt rất nghiêm minh. cùng với tế Trời có tế cả Đất và tinh vân phong vũ Việc tế Trời trước đây hàng năm cử hành một lần, nhưng từ năm Đồng Khánh thứ ba, lễ này được tổ chức ba năm một lần, thay vì nhất niên nhất lễ, Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 204 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  47. vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Nguồn gốc lễ nầy bắt đầu như trên đã nói từ đời vua phục Hi. Nhà vua làm lễ phong, xây đàn ở núi Thái Sơn để tế Trời. các đời vua sau, không lên núi Thái Sơn làm lễ, cho xây đàn ở ngoài kinh thành về phía Nam gọi là đàn Nam Giao. Đàn Nam Giao Việt Nam Ở nước ta, đàn Nam Giao xây ở phía Nam kinh thành Huế. Đàn xây từ đời vua Gia Long, tại làng An cựu, song song với núi Ngự Bình, cách Huế ba cây số. Ngày nay, nơi đây được kể là một thắng cảnh của đất Thần kinh. chu vi đàn đo được 152 trượng 9 thước, 1 trượng là 10 thước ta tính vào 4 thước ngày nay. Bốn mặt có tường xây bằng đá, cao 4 thước 10, có cửa ra vào, mỗi cửa có bốn cột lớn. Ngoài cửa có dựng một bình phong bằng gạch, dài vào khoảng 10 thước và cao chừng 3 thước. Trong đàn trồng toàn thông, những cây thông này do các vị đại thần, mỗi vị trồng một cây: ngày tế Giao, các cây thông đều có đeo tên các vị đại thần đã trồng chúng. Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 205
  48. Đàn Nam Giao gồm có 3 đàn: Đàn thứ nhất ở chính giữa, đắp hình tròn, đường kính 9 trượng 6 thước ta, cao 7 thước ta, xây bằng gạch. Mặt gạch dày 2 thước 20, chung quanh có lan can cao 2 thước dày 7 tấc sơn màu xanh. Về bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc, đều có thềm lên xuống, thềm chính về hướng Nam có 15 cấp, còn ba thềm kia đều có 9 cấp. Đàn này gọi là Viên đàn có hương án thờ Trời, Hiệu Thiên Thượng Đế, sắc xanh và hương án thờ Đất, Hoàng địa ký, sắc vàng. Ngày xưa quan niệm Trời tròn Đất vuông và Trời xanh Đất vàng. Đàn thứ hai xây hình vuông, mỗi bề dài 19 trượng cao 2 thước 65, bốn mặt có thềm lên xuống. Đàn này gọi là phương đàn. Đàn thứ ba cũng xây hình vuông, mỗi bề dài 32 trượng 7 thước, cao 2 thước 1 tấc, sơn màu đỏ. Ở đây có nhà Đại Thứ, hướng Đông Nam có nơi Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 206 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  49. thiêu trâu gọi là sở Phần sài, hướng Tây Bắc có nơi chôn mao huyết gọi là sở Ẽ khảm. Bên ngoài đàn, về phía Đông Bắc có nhà Thần trù, tức là bếp thiêng và nhà Thần khố tức là kho thiêng, về phía Tây Nam có nhà Trai cung. Hai bên Trai cung có hai phòng Thượng Trà và Thượng Thiện lo cơm nước cho nhà vua khi ngài dự tế Nam Giao. Đàn Nam Giao thường ngày để lộ thiên. Khi nào có lễ, Bộ Lễ mới lo bài trí. Trên Viên đàn lợp vải xanh, Phương đàn lợp vải vàng. Trên Viên đàn, ngoài bàn thờ Trời Đất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các đức Tiên Đế, từ Đức Thái Tổ Gia Dũ hoàng đế tức là chúa Nguyễn Hoàng đến Đức Dục Tôn Anh hoàng đế tức là vua Tự Đức. Ở giữa Thanh Ốc, nhà xanh, trên Viên đàn, có hai Nội án một đặt rượu thịt và một đặt ngọc bạch. Tại Phương đàn, có tám hương án phụ, gọi là trùng đàn bát án. Bên tả bốn án thờ thiên thần: - Đại minh chi thần, mặt Trời. - châu thiên tinh tú chi thần, các vị sao. - Vân Vũ Phong Lôi chi thần, mây, mưa, gió, sấm. - Thái tuế Nguyệt tướng chi thần, năm và tháng. Bên hữu có một án thờ một vị thiên thần: - Dạ minh chi thần, mặt Trăng và ba án thờ địa thần: - Sơn Hải Giang Đầm chi thần, núi, biển, sông, đầm - Kỳ Lăng Phần Diễn chi thần, đồi, gò, đống, đồng bằng - Thiên hà thần kỳ chi thần, các vị thần khác trong thiên hạ. Sửa soạn tế Nam Giao Một năm trước ngày lễ, Bộ Lễ phải lựa chọn trước để dùng làm lễ Tam sinh trong kỳ tế: - Hai con trâu đen tuyền, sừng nhu nhú đỏ, thêm 200 con trâu khác sừng đen dài vào khoảng ngón tay. - Hai con dê trắng, thêm một trăm con dê vàng. - Hai con lợn đen tuyền, thêm một trăm con lợn khác. Những con vật này gọi là con sinh sẽ được nuôi trong một chuồng riêng Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 207
  50. làm bằng tre non, lợp lá gồi, bốn bề xây gạch, cho tới ngày chúng bị mổ thịt làm lễ. Cũng nên nói thêm rằng, số con sinh ngày càng giảm rút trong những kỳ tế cuối cùng dưới triều vua Bảo Đại. Ngoài ra Bộ Lễ cũng phải dự trù sẵn hai viên khuê ngọc và chín tấm lụa Ba tấm lụa màu vàng, gọi là lụa Tiến, do làng Đầu Sơn tỉnh Kiến An nay là Hải phòng cung cấp. Ba tấm lụa màu đỏ, gọi là lụa Nguyễn, do làng Nguyễn Xá, phủ Tiên Hưng tỉnh Thái Bình cung cấp. Ba tấm lụa màu xanh, gọi là lụa Hạc, do làng Hạc tỉnh Sơn Tây (Hà Sơn Bình) cung cấp. Khuê ngọc và chín tấm lụa được cất trong hai chiếc tráp sơn son thiếp vàng cho đến ngày lễ. Ngoài ra lại phải có sẵn 100 tấm lụa khác, loại lụa thường, năm mươi tấm màu xanh để lợp Viên đàn và năm mươi tấm màu vàng để lợp phương đàn. Đến ngày lễ, ngoài các lễ vật trên, phải có thêm hương hoa trầu rượu, và đặc biệt phải có nến sáp ong để dùng thắp sáng trong các buổi lễ. Một tháng trước ngày lễ, một vị đại thần được cử tới đàn Nam Giao để làm lễ cáo yết thiên địa. Vị đại thần phải bận triều phục và làm lễ cáo yết vào giờ Tý. Đồng thời vị nầy cũng phải cáo yết các tiên vương để kính mời các người về dự đại lễ. Ba ngày trước hôm Đại tế, nhà vua ngự giá từ Đại nội lên Trai cung để trai giới và dự bị hành lễ. Trong kỳ Nam Giao cuối cùng vào ngày 29 tháng 3 năm 1942, vua Bảo Đại chỉ ngự lên Trai cung trước có một ngày. Lễ cử hành lúc một giờ sáng ngày 29 tháng 3, thì nhà vua rời Đại Nội 6 giờ 30 sáng ngày 28 tháng 3 năm 1942. Trong khi nhà vua ngự ở Trai cung, các quan trợ tế ở tạm tại các nhà tranh dựng ở xung quanh đàn. Đám rước Ngự giá từ đại nội đến đàn Nam Giao Như trên đã trình bày, ba hôm trước ngày đại lễ, nhà vua ngự giá từ Đại nội tới Trai cung. Đám rước nhà vua đi rất long trọng, theo nghi thức nghiêm trang. Hai bên đường dân chúng đều bày hương án để bái lễ nhà vua. Để bạn đọc có ý niệm về đám rước ngự giá này, ở đây xin thuật lại qua Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 208 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  51. các tài liệu đã ghi chép được về lễ Nam Giao năm 1942, tức là năm Nhâm Ngọ, lễ Nam Giao cuối cùng được tổ chức tại Việt Nam. Mấy ngày hôm trước đại tế, các làng, các tổng thuộc tỉnh Thừa Thiên phải đặt hương án bái vọng hai bên những ngả đường nhà vua sẽ ngự giá đi qua từ Đại Nội đến Trai cung. Sáng ngày 28 tháng 3 năm 1942, tức là ngày 12 tháng 2 năm Nhâm Ngọ, đám rước nhà vua ngự giá khởi hành bắt đầu từ Nội điện qua cửa Ngọ Môn. Khi đám rước qua Đại cung môn, chín phát súng lệnh nổ lên đồng thời chiêng trống cũng nổi dậy. Đám rước chia làm ba đạo: tiền đạo, trung đạo và hạ đạo, gồm các quan văn võ, lính tráng cờ quạt, tàn lọng, voi ngựa cùng phường nhạc, do cửa Đông Nam ra Hoàng Thành, qua cầu Trường Tiền, qua thành phố Huế, qua cầu Phú cam rồi thẳng đến Nam Giao. Dọc đường, ngoài các hương án ở hai bên khói hương nghi ngút còn các cổng chào với cờ quạt rợp trời. Đi đầu đám rước là Tiền đạo do một vị Đô thống chỉ huy, có năm thớt voi trang hoàng lộng lẫy, bành đỏ, tán tía. Hai bên, quân lính cận vệ, quần áo trắng, thắt lưng điều vác cờ song song cùng tiến. Sau năm thớt voi là các sĩ quan thị vệ với những lá cờ ngũ hành điển hình, và ở giữa là một thần kỳ tượng trưng nhật nguyệt tinh vân. Sau đó là Trung đạo, có nhà vua ngự trên một chiếc xe sáu ngựa, ngồi nghiêm trang, nhận sự tung hô chào đón của dân chúng. Nhà vua mặc chiếc áo gấm vàng, đội khăn vàng biểu hiện của Hoàng triều. Rồi đến các kiệu đựng lễ phục nhà vua sẽ sử dụng trong buổi Đại tế. Sau cùng là Hậu đạo gồm các hoàng thân, các quan đại thần với y phục sặc sỡ. Đám rước đi qua, dân chúng theo sau đông như kiến cỏ. Lễ tập Để việc hành lễ ngày hôm sau không gặp sự vấp váp gì, ngay buổi chiều ngày 28 tháng 3-1942, một lễ tập được cử hành vào hồi 16 giờ chiều với đúng nghi thức của chánh lễ đại tế. Dân chúng được dự xem kể cả đàn bà. Trong lễ tập, một vị đại thần đóng vai chủ tế thay nhà vua. Chánh lễ Chánh lễ do chính nhà vua cử hành, và đây là một lễ trang trọng, nên chỉ Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 209
  52. một số rất ít người được tới dự. Tuyệt đối cấm đàn bà không được nhòm ngó vào buổi lễ. Lễ bắt đầu vào giờ Tý ngày 13 tháng 2 năm Nhâm Ngọ. Nhà vua từ Trai cung qua Giao Đàn theo lối cửa Tây; đi theo có các vị hoàng thân, đại thần và một số văn võ quan viên chấn sự. Kể từ lúc nhà vua rời khỏi Trai cung, tiếng Đại Hưng chung khí nổi lên, nổi mãi tới khi nhà vua tới Giao Đàn mới thôi. Hành lễ, nhà vua mặc áo mũ cổn Miện, khác với đồ triều phục vua dùng trong các buổi đại lễ tại điện Thái Hòa. Đây là y phục riêng dùng trong việc tế Nam Giao, y phục theo kiểu đã có từ mấy nghìn năm về trước và vẫn giữ nguyên vẻ cổ kính thời xưa. Áo cổn màu tía, tay rộng và dài, thân áo có thêu hình mặt trời, mặt trăng, sông núi, bát quái, chim trĩ, - những hình này tiêu biểu cho vũ trụ. Phía dưới áo cổn là xiêm giáp thêu bằng ngọc. Mũ miện hình bình thiên, nghĩa là một miếng bằng hình vuông, mỗi bề vào khoảng 30 phân ngày nay, hai mặt trước sau đều có 12 tua kết bằng ngọc, tượng trưng 12 tháng trong năm. Hia màu tía, đế dày, ống cao. Hốt bằng ngà đựng ngọc Trân quế. Sau đó nhà vua lên Nhà vàng, lập vị trước hương án để làm lễ cung nghinh và lễ hy sinh. Bộ Lễ phụ trách xướng lễ, chiêng trống và âm nhạc. Khi xướng “Phần sài”, tại lò phần sài, con trâu dùng làm con sinh được đem thiêu bằng củi quế; khi xướng “Ê mao huyết”, tại sở Ẽ khảm, huyết và lông trâu được đem chôn. Lễ hy sinh xong, nhà vua ngự lên Viên đàn, đi vào Thanh Ôc, nhà xanh, để làm lễ chính tế. Nhà vua ngự lập vị trước án chính phối hợp Trời Đất, các hoàng thân và đại thần tại các án tả hữu. Lễ Điện ngọc bạch tức là lễ dâng ngọc và lụa lên Trời Đất để cầu phúc cho trăm họ, cử hành. Lễ sinh xướng: “Tấu điện ngọc bạch”, đôi vũ sinh diễn khúc Tiểu thành. Nhà vua quỳ trước hương án. Hai văn quan chấp sự dâng lên nhà vua bảo tráp trong có đựng một viên ngọc hình tròn để tế Trời và một viên ngọc hình vuông để tế Đất. Nhà vua cung kính cầm hai phiến ngọc dâng lên ngang trán khấn niệm, vái ba vái rồi trao cho hai vị chấp sự kính cẩn để vào nội án. Nhà vua lễ bốn lễ. Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 210 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  53. Lễ sinh xướng: “Sơ hiến lễ” để dâng tuần rượu đầu. Nhạc sinh cử nhạc. Nhà vua quỳ trước hương án, chấp sự dâng rượu và một văn quan chấp sự khác đọc văn tế. Lễ sinh xướng: “Á hiến lễ” để dâng tuần rượu thứ hai. Nhạc sinh cử nhạc Sau tuần rượu thứ hai, lễ sinh xướng: Tiến trở. Văn quan chấp sự dâng đồ lễ lên trong lúc đó nhạc sinh cử nhạc. Sau đó, lễ sinh xướng: Ẩm phúc thụ tộ. Nhà vua hưởng rượu thịt Trời Đất ban. Hưởng rượu thịt xong, nhà vua bước xuống nhà vàng ở phương đàn, tạ thần bốn lạy. Sau đó là lễ phần hóa. Nhà vua đứng nghiêm trang nhìn vào chiếc lư có đốt chúc văn và tế phẩm. Tế Giao đến đây là xong. Nhà vua quay về Trai cung. Tại đây, đình thần vào làm lễ khánh hạ để mừng nhà vua. Đầu giờ Thìn, nhà vua hồi loan. pháo lệnh phát lên ba tiếng, kiệu Ngự di chuyển trên đường về. Dọc đường dân chúng lại đón chào lạy mừng. PHẬT GIÁO Phật giáo hiện nay là tôn giáo quan trọng tại Việt Nam về nhân số cũng như về sự thâm nhập sâu xa vào phong tục tập quán. Phật giáo truyền sang nước ta do hai ngả: Bắc Tông tức là phái Đại Thừa do lối Trung Hoa vào cùng với Khổng giáo và Lão giáo trong thời kỳ Bắc thuộc, còn Nam Tông tức là phái Tiểu Thừa qua các nước Thái Lan, Lào và campuchia rồi truyền sang nước ta do sự chung đụng của ta với dân chúng các nước nói trên. Trải qua bao nhiêu cuộc thịnh suy, đạo phật ở Việt Nam hiện nay với một số tín đồ rất đáng kể, đã có thể gọi là có những cơ sở vững chắc để quảng bá đạo pháp cũng như để dìu dắt tín đồ trên con đường hiểu đạo thờ phật. Nguồn gốc đạo Phật Đạo phật do ở đạo Bà la môn mà ra. Nguyên nhân trước khi có đạo phật, từ mấy nghìn năm, tại Ân Độ, dân chúng chia ra làm bốn bậc: Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 211
  54. - Bà la môn, do bọn thầy tu làm chủ coi riêng việc tế tự. - Lý đế lợi, do các quý tộc làm chủ nắm giữ chính quyền. - Phệ xá, hạng bình dân. - Thủ đà, hạng nô lệ. Trong bốn bậc trên, hạng Bà la môn đứng đầu và hạng Thủ đà là hạng khốn khổ nhất và chịu sự đè ép của ba hạng trên. Bọn thầy tu của đạo Bà la môn đặt ra điều này lệ khác, làm nhiều việc tệ hại khiến cho hai hạng Phệ xá và Thủ đà chịu nhiều sự thiệt thòi và kém cạnh. Trước mọi sự tệ hại ấy, và trước sự đau khổ chung của người đời vì bốn ách sinh, lão, bệnh, tử đạo Phật ra đời, do đức Thích ca Mâu Ni sáng lập. Đức Thích ca về sau được môn đồ suy tôn là Phật Tổ Như Lai. Sự tích Đức Phật Đức Phật chính tên là cổ Đàm (Gotama) tự là Tất Đạt Da, họ Thích ca, ngài là con vua nước ca Duy Vệ tên là Tĩnh Phạm Đồ Đâu Gia, và bà mẹ là Tĩnh Diệm. Theo sách Phật thì Phật mẫu nằm mê thấy Người Vàng đầu thai rồi sinh ra Ngài. cũng có sách lại nói là bà Tĩnh Diệm đã chiêm bao thấy bạch tượng sáu ngà biến thành hào quan soi vào bụng bà, và bà đã thụ thai trong mười tháng mới sinh ra đức Phật. Đức Phật ra đời theo lối cạnh sườn bên phải của Phật mẫu và có một bông sen nảy ra để đỡ Ngài lên. Để tắm cho Ngài có hai con rồng phun nước và để trông nom Ngài đã có bách thần. Ngài da vàng, tóc dựng ngược. Mới sinh ra Ngài đã đi bẩy bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất và thét: “Trên thì trời, dưới thì đất, duy có ta là quý hơn cả”. Truyện này đượm vẻ hoang đường, chắc hẳn là do các môn đồ thêu dệt ra. Phật sinh vào ngày 15 tháng Tư trước đức chúa Giêsu 644 năm, tính đến năm Tân Mùi 1991 là 2535 năm. Trước khi tu hành đức Thích ca cũng đã ba lần lấy vợ và đã sinh được một con trai là La Hầu La. Năm Ngài 29 tuổi, sách Trung Hoa chép là 19 tuổi, nhân một hôm thấy một người già yếu tàn tật vào ăn xin, Ngài mới suy ra mọi sự khổ não ở đời. Rồi Ngài lại thấy người đau ốm, chết tróc và sinh nở, nên Ngài bỏ nhà vào rừng rồi đi tu ở núi Đàn Đặc và núi Toàn Sơn, sau đến tu ở xứ Xá Vệ, mặc áo cà sa ngồi tĩnh niệm dưới gốc cây bồ đề đến bảy năm mới tìm ra được lẽ Tín ngưỡng Việt Nam – Quyển thượng Tác giả: Toan Ánh 212 Nhà xuấ tbản: Trẻ
  55. huyền diệu của đạo và tự xưng là Bồ đà, nghĩa là tâm tính sáng suốt. Từ đó Ngài đi truyền đạo. Về sau Ngài mất ở xứ câu Thì. Lúc mất Ngài có bảo môn đồ là Ngài lên cõi Nát bàn, nghĩa là nơi thế giới cực lạc. Kinh Phật Sau khi Ngài mất, các môn đồ Ngài soạn các lời di ngôn của Ngài góp lại thành sách gồm 42 chương, chia làm ba quyển, gọi là kinh Tam Tạng, nghĩa là ba quyển kinh chứa những lời phật dạy: - Kinh tạng gồm những lời luân thường đạo lý - Luật tạng gồm những lời giới cấm - Luận tạng gồm những lời nghị luận Theo kinh phật, trong đạo phật hai chữ Hư, Vô kiêm hết. Bởi vậy nên có câu rằng: “Hết thảy đều không có gì hết, chỉ có cái nhân duyên mà sinh ra. Nay dẫu tạm có nhưng bản tính vẫn là không. Người đời càn dỡ giữ lấy cho làm của mình có, cho nên đức Như Lai ra đời, lấy một chữ Vô mà phá cái hoặc ấy”. Câu này đủ nói hết triết lý đạo phật. Đạo phật chia trong cơ thể có sáu gốc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân mình và ý tưởng. Sáu gốc này kinh phật gọi là Lục côn. Lục côn chịu ảnh hưởng của sáu ngoại động lực là Lục Trần, tức là sáu cái bụi: Mắt chịu ảnh hưởng của sắc đẹp (Sắc) Tai chịu ảnh hưởng của tiếng hay (Thanh) Mũi chịu ảnh hưởng của mùi thơm (Hương) Lưỡi chịu ảnh hưởng của vị ngon (Vị) Thân mình chịu ảnh hưởng sự đụng chạm (Xúc) Ý tưởng chịu ảnh hưởng của tưởng tượng (Pháp) Người theo Phật chống lại sự chi phối của Lục Trần và mình phải tự chủ được mình mới mong độ được chúng sinh. Trong kinh Phật lại có năm điều cấm gọi là Ngũ Giới: - Không sát sinh - Không trộm cắp - Không gian dâm - Không vọng ngôn Thực hiện ebook: Học thuật Phương Đông www.hocthuatphuongdong.vn 213