Nếp cũ - Tiết tháo một thời (Phần 2)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nếp cũ - Tiết tháo một thời (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nep_cu_tiet_thao_mot_thoi_phan_2.pdf
Nội dung text: Nếp cũ - Tiết tháo một thời (Phần 2)
- Phần Ii
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông TINH THẦN TRỌNG NGHĨA PHƯƠNG ĐÔNG Chịu ảnh hưởng của Khổng giáo rất sâu xa, người phương Đông luôn luôn cho tới ngày nay vẫn vậy, có một tinh thần trọng nghĩa rất cao quý. Người ta có thể hy sinh mọi quyền lợi để giữ nghĩa, và đã hơn một lần lịch sử chứng kiến sự hy sinh cả mạng sống để bao toàn chữ Nghĩa của người Á Đông qua các dân tộc, nhất là ba dân tộc Nhật Bản, Trung Hoa và Việt Nam. Người Nhật Bản trọng nghĩa và không sợ chết, đặt chữ Nghĩa trên cái chết. Nói đến người Nhật Bản, có lẽ tất cả thế giới đều phải phục họ ở tinh thần võ sĩ đạo, không sợ chết. Hơi bị nhục là họ tự sát bằng cách mổ bụng. Họ coi cái chết như rơm rác, và những chuyện liều chết vì nghĩa của họ đã từng khiến cả năm châu phải bái phục. Những chuyện đạn người, người lái thủy lôi đâm vào tàu địch trong trận đại chiến thứ hai vừa qua cũng như những chuyện phi công lái máy bay Thần Phong đâm nhào xuống những chiến hạm Mỹ đã nói lên rất nhiều sự hy sinh anh dũng của họ. Để chứng minh tinh thần trọng Nghĩa của người Nhật, 107
- Toan Ánh chúng tôi sẽ xin nêu ra mấy câu chuyện hy sinh cả mạng sống để giữ tròn chữ Nghĩa của họ. Cũng như người Nhật Bản, người Trung Hoa không thiếu tinh thần hy sinh cho chữ Nghĩa. Những chuyện trọng nghĩa khinh thân qua các sách vở của Trung Hoa nhiều lắm, nếu thu góp mà kể lại hết không biết mấy nghìn trang giấy cho đủ. Đời nào và giới nào cũng có những người liều chết để giữ nghĩa, liều chết để cứu cha, liều chết để báo thù cho chúa, liều chết để trả một ơn sâu. Những người trọng nghĩa này, nam nhiều mà nữ cũng nhiều, như chuyện năm trăm nghĩa sĩ nước Tề chết theo Điền Hoành; chuyện Thừa tướng Lục Tú Phu ẵm vua Tường Hưng nhà Tống nhảy xuống biển tự tử; chuyện hàng nghìn người chết theo vua Trang Liệt nhà Minh và nhiều chuyện khác. Trong những câu chuyện này, chữ Nghĩa bao giờ cũng đứng trên hết. Những câu chuyện nêu ra sẽ được xếp riêng hai loại: Những chuyện vị nghĩa thời Xuân Thu, và những chuyện khác về sau này. Những câu chuyện chúng tôi nêu ra cốt để chứng minh cái tinh thần vị nghĩa, và nhất là lòng hy sinh của các Nghĩa sĩ, do đó có thể có những chuyện khác hay hơn, nhưng sự lựa chọn của chúng tôi chỉ nhằm mục đích trên, nếu có sự vụng về cũng rất mong các bạn thứ lỗi. Sau hết là người Việt Nam. Với hơn bốn nghìn năm lịch sử, trải bao nhiêu cuộc hưng vong, dân ta đã chịu biết bao nhiêu sự điêu đứng, nhưng chính trong sự điêu đứng này, tinh thần vị nghĩa của người Việt Nam đã được biểu lộ rõ rệt. Qua những trang lịch sử, bao nhiêu anh hùng vị nghĩa đã lưu tên lại sử xanh. Một Trần Bình Trọng với câu trả lời giặc Nguyên: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Một Lê Lai liều mình cứu chúa; một Hoàng Diệu chết theo thành Hà Nội v.v là những tấm gương sáng cho chúng ta ngày 108
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông nay, nhưng cũng là những vết son trong lịch sử để chúng ta kiêu hãnh với tinh thần trọng nghĩa của dân tộc. Và gần đây hơn, một Phạm Hồng Thái dám đơn độc ném bom ở Sa Điện để định giết Toàn quyền Pháp Merlin rồi chịu chết, một Trần Trung Lập đành chịu chết ở Lạng Sơn chứ không chịu tìm cái sống bằng cách bỏ những kẻ đã theo mình đều là những nghĩa sĩ đã nêu cao tiếng tăm người Việt Và còn nhiều nữa, hữu danh và vô danh. Tinh thần Trọng Nghĩa Phương Đông muôn thuở được nêu cao với các nghĩa sĩ, và tinh thần này thực đáng tôn trọng, nếu chúng ta đem so sánh hành động của các nghĩa sĩ với hành động của những kẻ tham danh lợi, sợ chết đã coi rẻ chữ Nghĩa. Nói đến Phương Đông là nói đến tất cả dân tộc ở Viễn Đông, nhưng trong tập sách này chúng tôi chỉ nhắc tới ba dân tộc Nhật Bản, Trung Hoa và Việt Nam là những dân tộc đã chịu ảnh hưởng Khổng giáo. Chúng tôi mong sẽ có dịp đề cập tới tinh thần trọng Nghĩa của các dân tộc bạn khác ở Phương Đông. TOAN ÁNH 109
- Toan Ánh NHỮNG CHUYỆN TRỌNG NGHĨA VIỆT NAM Khí thiêng non sông hun đúc, hoàn cảnh địa dư bồi đắp và hoàn cảnh lịch sử tạo con người, nói đến những chuyện trọng nghĩa Việt Nam, không phải là chỉ nói đến một hai người, nhưng đây là tất cả những người đã có công với đất nước, đã hy sinh cho non sông, đã liều mình vì dân tộc, vì lý tưởng, vì nghĩa vụ, vì đạo đức, từ những vị anh hùng nữ kiệt, nói đến ai cũng biết, như Trần Bình Trọng, Lê Lai, Vũ Công Duệ, Phan Thanh Giản như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Phan Thị Thuấn, đến những người vô danh, đã bỏ mình vì chính nghĩa, vì bổn phận Ở đây chúng tôi không nhắc lại tất cả những bậc nghĩa sĩ anh hùng liệt nữ, nhiều người đã biết tới, chúng tôi chỉ xin trình bày qua một số nhân vật đã lấy nghĩa làm trọng, đã coi nhẹ thân mình để giữ nghĩa đúng với tinh thần đạo đức của phương Đông nói chung và của Việt Nam nói riêng. Một số các nhân vật này trước đây đã từng âm thầm hy sinh, bổn phận chúng ta phải nhắc tới để tỏ lòng biết ơn. 110
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Chúng tôi cũng chỉ xin nhắc tới một số danh nhân liệt nữ mà thôi, vì nói hết đến tất cả các nhân vật của Việt Nam đã có công với đất nước, đã giữ tròn chữ Nghĩa, biết mấy nghìn trang giấy cho vừa; với khuôn khổ tập sách này, chúng tôi buộc lòng phải tự hạn chế nhiều lắm, đó là không kể nhiều điều chúng tôi còn thiếu sót. 111
- Toan Ánh TƯỢNG ĐÁ DÃI Ai đã có dịp đi thăm đền Lý Bát Đế tại làng Đình Bảng thuộc phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, ắt phải để ý tới hai pho tượng đá, mình trần đóng khố, chầu ở hai bên hương án. Đó là tượng Tướng Đá Dãi. Tướng Đá Dãi là ai? Đó là vị tướng đời Hậu Lý, rất có công với vua Lý Thái Tổ trong việc đánh dẹp Chiêm Thành. Sự tích tượng Đá Dãi như sau: Nguyên tại làng Cổ Pháp xưa (làng Đình Bảng ngày nay) vào cuối đời nhà Tiền Lê, có một cây gạo bị bão đổ, trong cây có câu sấm: Hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành nghĩa: là Lê rụng, Lý lên (ba chữ Hòa đao mộc chắp thành chữ Lê và ba chữ Thập bát tử chắp thành chữ Lý), thì đồng thời ở bên giếng làng tự nhiên có một đứa trẻ nằm trên một hòn đá. Đứa trẻ chỉ cười không khóc. Có vợ chồng ông hàng nước ở đầu làng mang về nuôi. Đứa bé rất mau lớn và ăn rất tốn. Khi vợ chồng ông hàng nước chết, đứa bé lang thang đây đó và lạc ra thành Đại La. Lớn lên, sức nó rất khỏe, một mình có thể kéo nổi chiếc thuyền đi ngược nước. Không có quần áo, luôn luôn nó chỉ mang một chiếc khố. Bấy giờ Lý Công Uẩn đã thay nhà Tiền Lê lập ra nhà Lý, tức là vua Lý Thái 112
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Tổ. Vua Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp, dời đô ra Đại La. Trong cuộc dời đô này, khi thuyền rồng đi tới Đại La, gặp dòng nước chảy mạnh, thuyền không tiến được và quân lính cố sức chèo thuyền cũng không đi. Khi ấy, thằng bé con nuôi ông hàng nước đi trên bờ sông, trông thấy liền nhảy xuống sông lấy dây buộc vào thuyền rồng mà kéo. Thuyền đi phăng phăng mặc dòng nước ngược đang chảy xiết. Nhà vua thấy là người có sức khỏe liền vời tới hỏi họ tên thì khai không biết họ tên là gì, và chỉ biết mọi người vẫn gọi mình là thằng Đá Dãi. Vua ban quan tước cho, không chịu nhận; và ban quần áo, cũng không mặc, chỉ xin phép được sống tự do dời riêng của mình với mảnh khố che thân. Nhà vua ưng cho, nhưng về sau vua đi chinh phạt Chiêm Thành cho vời Đá Dãi đi theo và phong cho làm tướng, từ đó có danh là tướng Đá Dãi. Tướng Đá Dãi lập được nhiều công trạng trong công cuộc chinh phạt Chiêm Thành, nên được vua Lý Thái Tổ rất quý mến. Khi ban sư, nhà vua nhất quyết giữ tướng Đá Dãi lại triều và tướng Đá Dãi lúc đó cảm lòng quý mến của nhà vua, ở lại triều đình và lập được nhiều công trạng khác. Cho đến khi vua Lý Thái Tổ băng hà, trước khi nhắm mắt, nhà vua có căn dặn con là vua Lý Thái Tôn phải trọng dụng Đá Dãi. Vua Lý Thái Tôn vâng theo lời cha, nhưng chỉ trong ít lâu, vì tính cương trực thẳng thắn của tướng Đá Dãi, nhiều quan trong triều không ưa, dèm pha cùng nhà vua là tướng Đá Dãi có ý cậy công, muốn làm phản. Mặc dầu có lời di mệnh của vua cha, nhưng trước lời dèm pha hàng ngày của bọn gian thần, vua Lý Thái Tôn cũng đem bụng ngờ tướng Đá Dãi. Một hôm vua Thái Tôn cho vời tướng Đá Dãi tới. Tướng 113
- Toan Ánh Đá Dãi đã biết ý nhà vua, nên khi vào chầu có đem theo một thanh nứa tép vót nhọn, và trong khi triều kiến, tướng Đá Dãi đã lấy thanh nứa tép này tự đâm từ hậu môn lên tới cổ mà chết. Trước khi chết, tướng Đá Dãi đã tâu cùng vua Lý Thái Tôn: - Kẻ hạ thần đội ơn tiên đế, dù lấy cái chết cũng không đủ báo đền. Sở dĩ thần còn sống tới ngày nay là không muốn phụ lòng tiên đế tin cậy, ủy cho việc phò tá bệ hạ giữ gìn đất nước. Nay bệ hạ đã không còn lòng tin cậy kẻ hạ thần, kẻ hạ thần xin lấy cái chết để giữ tròn chữ Nghĩa. Kẻ hạ thần kính chúc bệ hạ muôn tuổi và xin phép được đi theo Tiên đế. Tướng Đá Dãi nói xong ngã lăn ra chết. Vua Lý Thái Tôn vô cùng hối hận, làm lễ an táng Tướng Đá Dãi rất trọng thể. Sau đó nhà vua cho tạc hai pho tượng, một pho đặt ở mộ và một pho đặt ở lăng, nhưng về sau cả hai pho tượng đều được mang về đặt tại lăng vì để tại mộ bị dãi nắng dầm mưa. Tướng Đá Dãi đã lấy cái chết để tỏ lòng trung nghĩa, khiến cho vua Lý Thái Tôn phải ân hận vì sự nghi kỵ nhỏ nhen của mình. Người trên hẹp lượng, sao mà dung được kẻ dưới! 114
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông ĐOÀN THƯỢNG Ai đã có dịp đi qua Bần Yên Nhân thuộc tỉnh Hưng Yên hẳn được biết ngôi đền thờ Đông Hải Đại Vương dựng trên đường đi Ninh Giang. Đông Hải Đại Vương chính là Tướng quân Đoàn Thượng, một danh tướng đời Lý mạt. Đoàn Thượng là người Hồng Thi, huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương, làm quan dưới đời vua Lý Huệ Tôn. Ông phụng mệnh nhà vua trấn thủ đất Hồng Châu. Ông sức khỏe hơn người, võ nghệ tinh thông, lúc lâm trận, một đao một ngựa có thể địch nổi hàng trăm nghìn quân, tung hoành giữa trận. Quân giặc nghe thấy tên ông là đủ sợ. Vua Lý Huệ Tôn không có con trai, truyền ngôi cho Lý Chiêu Hoàng, nhưng chẳng bao lâu Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh và truyền cho chồng là vua Trần Thái Tôn. Đoàn Thượng không chịu theo nhà Trần, quyết giữ đất Hồng Châu, nhất là khi được tin nhà Trần giết hại con cháu nhà Lý. Thái sư Trần Thủ Độ thấy Đoàn Thượng là bậc anh hùng, sai người tới dụ, hứa phong vương và gả công chúa cho, nhưng họ Đoàn nhất định không nghe. Ông lại chiêu binh 115
- Toan Ánh mãi mã tự xưng là Đông Hải Đại Vương, rắp tâm khôi phục lại giang sơn cho nhà Lý. Dụ hàng không được, Trần Thủ Độ mang quân tới đánh, nhưng đánh nhau trong mấy năm, quân của Thủ Độ cũng không sao thắng nổi quân của họ Đoàn. Sau cùng Thủ Độ dùng mưu cùng ông giảng hòa, nhưng thực ra lại sai quân ngầm đánh úp mặt sau để phá quân ông. Đoàn Thượng cho là giảng hòa với quân Trần rồi, không phòng bị cẩn thận như trước, đến khi được tin quân Trần kéo tới đánh mặt sau, ông liền đem quân ra cự địch. Cùng trong lúc ấy ông Trần Thủ Độ cũng kéo đại quân tới đánh từ mặt Văn Giang lại. Lâm vào thế lưỡng đầu thụ địch, quân của Đoàn Thượng phải thua chạy, Đoàn Thượng quay về chống giữ mặt tiền quân, không ngờ bị một tướng nhà Trần từ mé sau xấn lên chém một nhát vào cổ gần đứt. Bị chém, ông quay cổ lại. Tướng Trần sợ hãi chạy trốn mất. Ông liền cởi giây lưng ra buộc vào cổ cho khỏi rơi đầu rồi hầm hầm tế ngựa chạy về phía Đông, chạy tới đâu, quân nhà Trần phải dãn đường tránh tới đó. Khi ông chạy tới làng Yên Nhân, nay là Bần Yên Nhân, có một cụ già mũ áo chững chạc đứng bên đường nói rằng: - Tướng quân trung dũng lắm. Thượng đế đã kén Ngài làm thần xứ này rồi. Có một cái gò bên cạnh làng kia, đó là đất hương hỏa của tướng quân xin tướng quân để tâm cho. Đoàn Thượng vâng một tiếng, phi ngựa chạy thẳng tới gò đó, xuống ngựa, gối đầu vào ngọn mác mà nằm, một lát sau thì chết. Ông chết rồi, mối đùn đất đắp thành mộ ngay. Nơi này thuộc thôn Đông Đạo xã Yên Phú. Ông chết đi, dân làng Yên Phú lập miếu tô tượng để thờ nhưng về sau vỡ đê nước lụt, tượng ông trôi tới xã Yên Nhân. Làng Yên Nhân liền lập một ngôi miếu khác để thờ ông ở 116
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông ngay bên cạnh sông Hồng Giang, mặt ngoảnh ra con đường cái chính xứ Đông Bắc. Triều Nguyễn phong ông là bảo quốc hà dân nhất đẳng thần. Miếu ông, cho tới hồi tiền thế chiến vẫn còn. Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm có đôi câu đối: Thanh miếu tuế thời hương, lăng cốc bất khai canh hoàn cục. Hồng Châu kim cổ lộ, cương thường sức khởi vãng lai nhân. Diễn nôm: Khói hương Thanh miếu ngạt ngào, trời trăng gió cao nêu nền tiết nghĩa. Đường xá Hồng Châu đi lại, khách gần xa trông rõ cột cương thường(1). Tương truyền rằng miếu Đoàn tướng quân linh thiêng lắm, kẻ qua lại có ý ngạo ngược bị trừng phạt ngay. Các lái buôn qua lại trước đền, vào kính cẩn lễ bái đều được buôn may bán đắt. Ai cầu gì thường rất linh ứng. Đoàn Thượng thật xứng đáng được sự tôn thờ của dân chúng. Ông từ khước mọi sự vinh quang nhà Trần dành cho ông để giữ tròn tiết nghĩa với nhà Lý. Ông đã chết vì nhà Lý, khôi phục nhà Lý không xong, nhưng danh ông còn lưu lại nghìn thu. 1 Nhật Nham Trịnh Như Tấu: “Hưng Yên địa chí”. 117
- Toan Ánh THÀ LÀM QUỶ NƯỚC NAM, còn hơn LÀM VƯƠNG ĐẤT BẮC Người Việt Nam chúng ta ai không biết câu nói trên của Trần Bình Trọng, một danh tướng đời Trần, câu nói để trả lời tướng giặc Mông Cổ khi chúng dụ ông hàng. Ông vốn là dòng dõi Lê Đại Hành, đổi sang họ Trần từ đời ông nội vì có công với triều đình. Là một người khỏe mạnh và đảm lược hơn người, khi nhà Trần khởi nghiệp, ông có công trong việc ổn định tình hình trong nước, dẹp tan được đám bầy tôi nhà Lý nên được phong là Khuông quốc Thượng tướng quân Thượng Vị Hầu. Khi quân Mông Cổ kéo sang nước ta lần đầu tiên do tướng Ngột Lương Hợp chỉ huy, ông đã tham dự trận đánh. Quân Mông Cổ bị thua phải rút lui về Vân Nam. Ông được vua Trần Thánh Tôn phong tước Bảo Nghĩa Vương. Năm 1283 quân Mông Cổ lại sang nước ta lần thứ hai do thái tử Thoát Hoan thống lĩnh. Chúng kéo đại quân lấy cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành, để thực hiện mộng xâm chiếm nước Nam nhưng triều đình ta không chịu, đã đem quân 118
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông chống lại. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được phong làm Tiết chế Thống lĩnh toàn quân để ngăn giặc. Ngài chia quân đóng giữ các nơi. Quân Nguyên đánh gấp, Ngài hộ giá tới Thiên Trường rồi sau lại rước xa giá ra Quảng Yên. Trần Bình Trọng được cử giữ Thiên Trường để cự nhau với quân của Thoát Hoan. Đóng ở Thiên Trường, ông đón đánh quân Nguyên khi chúng kéo tới bãi Đà mạc (ở khúc sông Thiên mạc, huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên), nhưng vì quân ít thế yếu nên bị chúng bao vây rồi bị bắt. Quân Nguyên dẫn ông tới Thoát Hoan. Tên này biết ông là dũng tướng muốn khuyên dỗ về hàng, thết đãi cho ăn uống. Ông từ chối không ăn. Chúng hỏi ông về việc nước, ông không nói. Sau Thoát Hoan hỏi ông: - Có muốn làm vương đất Bắc không? Ông quát lên rằng: - Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt, chỉ có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi. Thoát Hoan thấy dụ hàng ông không xong, sai quân đem chém. Được tin ông bị giặc giết, Thánh Tôn thượng hoàng, vua Nhân Tôn và Hưng Đạo Vương thương xót vô cùng. Ông đã tử tiết vì nước, ông đã khước từ vinh hoa phú quý của giặc để nhận lấy cái chết, không giống bao nhiêu kẻ tôn thất nhà Trần đã đầu hàng giặc như lũ Trần Kiện, Trần Ích Tắc, Trần Nhật Hiệu Gương tiết nghĩa của ông vằng vặc chiếu muôn đời. Đời sau nhắc đến chuyện ông ai cũng ngợi khen. Phan Kế Bính có thơ khen rằng: 119
- Toan Ánh Giỏi thay Trần Bình Trọng! Dòng dõi Lê Đại Hành. Đánh giặc, dư tài mạnh, Thờ vua, một tiết trinh. Bắc vương sống mà nhục, Nam quỷ thác cũng vinh. Cứng cỏi lời trung liệt, Nghĩa thu tỏ đại danh. 120
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông NGUYỄN BIỂU Ông làm quan vào cuối đời nhà Trần khi Hồ Quí Ly chuyên quyền để đi dần đến chỗ cướp ngôi nhà Trần. Ông sinh tại thôn Nội Diên, xã Bình Hồ, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Thái học sinh vào năm 1375 làm quan tới chức Điện tiền thị ngự sử. Nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, triều Minh bên Trung Hoa cử Trương Phụ sang lấy tiếng phù Trần diệt Hồ, nhưng thực sự là muốn thôn tính nước Nam. Trước tình trạng ấy, ông bỏ trốn. Trong khi ấy, con thứ vua Trần Nghệ Tôn là Quỹ xưng là Giản Định Hoàng đế nổi lên nối nghiệp nhà Trần, chống nhau với quân của Trương Phụ. Ông theo Giản Định đế vào Nghệ An. Giản Định đế lúc ấy được các quan triều thần cũ của nhà Trần theo, nên chống nhau với quân Tàu, đã thắng được những trận lớn như trận Bô Cô, nhưng về sau Giản Định đế bị quân Trương Phụ bắt. Nước Nam khi ấy có vua Trùng Quang, cháu vua Trần Nghệ Tôn tiếp tục chống nhau với quân Minh nhưng bị thua nhiều trận phải bỏ chạy vào Hóa Châu. Trước tình trạng không thể thắng được quân Minh, vua Trùng Quang phải sai Nguyễn Biểu đi phong với Trương 121
- Toan Ánh Phụ; nhà vua muốn dựa vào việc cầu phong để làm kế hoãn binh, có thì giờ chỉnh đốn lại binh mã để tiếp tục chống giặc. Nguyễn Biểu lĩnh mệnh vua đi, quyết giữ lấy quốc thể, không để cho giặc Minh dám coi thường người Nam. Nhà vua đã tiễn Biểu bằng một bài thơ, và Biểu cũng đã họa lại: Mấy vần thơ cũ ngợi Hoàng Hoa(1) Trân trọng rày nhân mở khúc ca, Chiếu phượng vài hàng tơ cặn kẽ, Vó câu ngàn dặm tuyết xông pha, Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ, Khương quế thêm cay tính tuổi già. Việc nước một mai công gỡ vẹn, Gác lân danh tiếng dội càng xa(2). Bài họa: Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa, Lắng tai đồng vọng thuở thi ca. Đường mây vó ký lần lần trải, Ải tuyết cờ mao thức thức pha Há một cung tên lồng chí trẻ, Bội mười vàng sắt đúc gan già. Hổ mình luống thiếu tài chuyên đối(3) Dịch lộ ba ngàn dám ngại xa(4). Vua tôi tiễn nhau bằng thơ văn, biết đâu những lời thơ đó lại là những lời vĩnh biệt vì chuyến đi sứ này Nguyễn Biểu chỉ có đi, chẳng có về. 1 Có ý chúc Nguyễn Biểu ra đi được thành công. 2 Gác lân là nơi nhà Hán ghi tên những bậc có công với quốc gia. 3 Tài đi sứ. 4 Theo Giai thoại làng Nho của Lãng Nhân. 122
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Trương Phụ lúc đó đóng ở Nghệ An. Ông đến Nghệ An vào yết kiến, không chịu lạy, đứng ngang nhiên. Phụ hỏi ông một cách hỗn xược; ông trả lời lại bằng những lời đanh thép, không làm nhục mệnh vua. Trương Phụ muốn dụ ông hàng, ông không chịu. Để thử gan ông, Phụ sai dọn một mâm cơm, trong bát canh rất lớn có chiếc đầu lâu người, thực ra đây là đầu một loại cá ở biển Nam Hải. Ông thản nhiên khoét mắt đầu lâu, ăn và nói: - Mấy khi được ăn thịt chó Ngô. Trương Phụ giận lắm, nhưng sau bữa cơm vẫn cho ông về. Không may cho ông, ông ra về chưa được bao xa thì có tên Phan Liêu, hàng tướng của Trương Phụ ton hót nói rằng: - Không nên thả hổ về rừng. Người này thoát được ắt quân ta nguy lắm. Trương Phụ liền sai quân bắt ông trở lại, bảo ông nếu không chịu hàng sẽ bị giết. Ông giận mắng Trương Phụ: - Chúng bay là một lũ chó tham lam, trong bụng chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại dương tiếng mang quân nhân nghĩa đi đánh dẹp. Trước chúng bay nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế vơ vét của cải, ức hiếp dân sinh. Chúng bay là đồ ăn cướp hung ngược. Ta chết thì chết, đời nào ta đi theo lũ chúng bay. Trương Phụ giận lắm sai đem cột ông vào cầu La, cạnh chùa Yên Quốc. Ông vùng vẫy, tháo được một tay ra, lấy móng tay vạch vào lớp rêu bám ở cột cầu tám chữ: Thất nguyệt sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử (1). Bị trói ở cột cầu, ông tròn xoe cặp mắt chửi giặc Tàu cho đến khi nước thủy triều dâng lên, ông bị chết ngạt mới thôi. 1 Mồng một tháng bảy, Nguyễn Biểu chết. 123
- Toan Ánh Tin ông bị giết tới vua Trùng Quang, nhà vua thương xót lắm. Ông thật là một người nghĩa khi coi thường cái chết, dám chửi giặc trong khi có những bọn như Phan Liêu lại đi theo giặc để cầu vinh. Buồn thay, bọn Phan Liêu thời nào cũng có. Sau khi Nguyễn Biểu đã chết, vua Trùng Quang bị quân giặc đánh thua và bị bắt cùng với các tướng như Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy. Chúng đem giải mọi người đến Yên Kinh, nhưng giữa đường, vua Trùng Quang nhảy xuống bể tự tử, và Đặng Dung cũng đều tử tiết chết theo. Thật đáng khen thay! 124
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông LÊ LAI CỨU CHÚA Ta có câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi để chỉ ngày giỗ của vua Lê Thái Tổ nhằm vào ngày 22 tháng 8 âm lịch mỗi năm, và trước ngày giỗ nhà vua là ngày giỗ ông Lê Lai. Sự thực không phải ông Lê Lai chết vào ngày 21 tháng 8, nhưng sở dĩ người ta cúng ông vào ngày trước giỗ vua Lê một hôm chính là do lệnh của vua Lê vậy. Nguyên khi vua Lê khởi nghĩa tự Lam Sơn để đánh quân nhà Minh, có trận được, có trận thua, có khi tiến, có khi thoái, và trong một trận tại Chí Linh, nhà vua bị quân giặc vây kín, rất khó bề thoát thân. Nếu bấy giờ nhà vua bị quân giặc bắt giết, việc khởi nghĩa có thể bị bỏ dở, và quân Minh sẽ tiếp tục làm chủ đất nước Việt Nam. Nhà vua đóng quân trên núi Chí Linh, quân giặc vây kín chân núi. Trong lúc nguy hiểm đó, nhà vua có hỏi trong các hàng tướng tá, có ai dám, vì nhà vua, liều mình chết thay, như Kỷ Tín khi xưa đã chết thay vua Hán Cao Tổ; thì ông Lê Lai, nhận xin ra trận chết thay vua. Nhà vua trao áo bào cho ông Lê Lai mặc ra trận. Quân Minh thấy ông Lê Lai mặc áo hoàng bào, cho chính là vua Lê Thái Tổ, xông vào vây đánh và ông Lê Lai tử trận. 125
- Toan Ánh Giết được Lê Lai, quân giặc cho là đã giết được vua Lê, không đề phòng nữa, vua Lê đã nhờ đó mà thoát thân gây lại thế lực, tiếp tục chiến đấu cho đến năm 1428 toàn thắng quân Minh, đem lại nền độc lập cho nước nhà, lập ra nhà Lê. Ông Lê Lai đã liều mình cứu chúa, bỏ sự sống tìm cái chết, để giúp vua Lê cứu được đất nước. Nước nhà lúc đó, không có ông Lê Lai thì được, nhưng không có vua Lê thì không xong, vì ai sẽ là người đánh đuổi giặc Minh đang xâm lăng đất nước. Ông Lê Lai đã vì nghĩa mà chết. Tấm gương sáng đã được nêu cao. Và để ghi ơn người đã liều chết cứu mình, vua Lê Thái Tổ khi sắp băng hà có truyền lại cho triều đình: hàng năm, trước khi cúng giỗ mình, phải cúng giỗ ông Lê Lai. Ông Lê Lai vì đất nước cứu chúa, thật đáng khen, nhưng vua Lê Thái Tổ, người biết ơn ông Lê Lai, lại càng đáng khen hơn. Xưa nay, hết chim thì bẻ ná, hết thỏ, giết chó săn là chuyện thường tình, như Câu Tiễn giết Văn Chủng, như Hán Cao Tổ giết Hàn Tín và Tiêu Hà, như Tống Thái Tổ giết Trịnh Ân, vậy mà vua Lê Thái Tổ nhớ ơn ông Lê Lai chẳng là một việc khác thường sao. Đáng khen lắm thay, nhất là ở chỗ bắt thần dân, trước khi cúng giỗ mình, phải cúng người đã liều chết thay mình, để công cứu chúa của Lê Lai được mãi mãi lưu truyền cùng hậu thế. Ân nghĩa trong lòng người Việt nam là như vậy, dù người đó ở giai cấp nào. 126
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông ÔNG VŨ CÔNG DUỆ VỚI CHIẾC ẤN NGỰ SỬ Thời có loạn, mới tỏ mặt anh hùng; nước có nguy, mới rõ mặt tôi trung. Đời nhà Lê, trước khi nhà Mạc cướp ngôi, triều đình nẩy sinh một lũ gian thần kéo bè, kéo cánh, dối vua, lừa dân, đã khiến cho ngai vàng của nhà Lê mất về tay họ Mạc. Nhưng trong đá sỏi còn có trạch vàng, trong đám bầy tôi nhà Lê lẽ nào không có tôi trung. Một trong vị tôi trung của nhà Lê khi họ Mạc cướp ngôi, phải kể ông Vũ Công Duệ. Ông quê làng Trình Xá, huyện Sơn Vi, tỉnh Sơn Tây. Lúc nhỏ, nhà nghèo, bố mẹ ông phải vay nợ nuôi con. Ông là người thông minh, học đâu nhớ đấy, lại rất chăm chỉ nên ngoài hai mươi tuổi ông đã thi đỗ Trạng Nguyên. Sách thuật lại rằng, khi ông còn bé, một hôm có khách tới đòi nợ. Cha mẹ lúc đó đều đi vắng. Người khách nợ hỏi ông: - Bố mày đâu? Ông đáp: - Bố tôi đi giết người. 127
- Toan Ánh Khách nợ lại hỏi: - Mẹ mày đâu? - Mẹ tôi đi cứu người. Người khách nợ lấy làm lạ không hiểu ý ông định nói gì, căn vặn hỏi ông. Ông bảo rằng: - Nếu ông muốn biết, cho tôi tiền thưởng, tôi sẽ nói. Người khách nợ bảo: - Bố mẹ mày còn nợ tao tiền, mày nói đi, tao sẽ tha nợ cho nhà mày. Lúc ấy Vũ Công Duệ đang nghịch đất sét nặn đồ chơi, đất đang còn dẻo. Ông chìa cục đất bảo người khách nợ in tay vào đấy để làm tin. Người kia liền in tay vào cục đất để thử xem Công Duệ nói ra sao? Khách đã in tay rồi. Công Duệ liền bảo: - Cha tôi đi nhổ mạ, còn mẹ tôi đi cấy mạ. Người kia lấy làm kỳ dị ra về. Mấy hôm sau, người này trở lại đòi nợ. Vũ Công Duệ liền đưa cục đất sét hôm trước có lằn tay của người này ra nói: - Ông đã bảo tha nợ cho bố mẹ tôi, tay ông ký vào đây, sao ông còn đòi nữa? Lời của Công Duệ khiến người kia không còn biết nói sao, đành phải bảo cha mẹ Công Duệ xin tặng món nợ đó để cho Công Duệ lấy tiền mua sách đi học. Về trí thông minh của Công Duệ, người ta còn thuật lại rằng hồi nhỏ, khi ông đi chơi với bọn trẻ, lấy đất sét nặn con voi, ông đã làm cho con voi đất mà cử động được bằng cách bắt hai con bướm làm hai tai, cắm con đỉa làm vòi và lấy bốn con cua làm chân. Như vậy tuy là voi đất mà tai vẫy được, vòi co lên quắp xuống được và bốn chân đi được, ai trông thấy cũng lấy làm khen. Đi học, Vũ Công Duệ học rất tấn tới, học đâu nhớ đấy, 128
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông và năm ngoài hai mươi tuổi thì đỗ Trạng Nguyên dưới Triều vua Lê Thánh Tôn. Ông làm quan, tính nết trung trực nên được nhà vua cất lên chức Đô ngự sử, các quan trong triều đều kính nể. Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, triều thần nhiều người theo họ Mạc, chỉ còn một số ít các quan trung thần chống lại, là các ông Ngô Hoán, Nguyễn Văn Vận, Nguyễn Thái Bạt, Lê Tuấn Mậu, Đàm Thận Huy, Nguyễn Duy Tường, Vũ Công Duệ v.v vào khoảng tất cả độ mươi người, đều là những tay khoa giáp, trọng tiết nghĩa. Những người này, người thì nhổ vào mặt Mạc Đăng Dung, người thì lấy nghiên mực đập, người thì chửi mắng. Những người này đều bị Mạc Đăng Dung giết chết. Có người, không bị Đăng Dung giết, lại tự tử để giữ tròn chữ Nghĩa đối với nhà vua. Riêng Vũ Công Duệ, khi Mạc Đăng Dung dụ ông, ông đã chửi mắng rầm rĩ, sau đó ông ôm quả ấn ngự sử đâm đầu xuống cửa bể Thần Phù trầm mình. Ông Vũ Công Duệ đã cùng mấy bạn đồng liêu giữ tròn tiết nghĩa, không ham sống sợ chết, lưu lại tiếng thơm muôn đời. Sáu chục năm sau, nhà Lê trung hưng khôi phục lại được kinh thành Thăng Long. Triều đình sai đúc quả ấn ngự sử mới, nhưng đúc mãi không xong, đành phải sai người lặn xuống cửa bể Thần Phù để tìm quả ấn cũ. Người lặn xuống đáy bể, thấy Vũ Công Duệ còn mặc nguyên trào phục, cổ đeo túi ấn, ngồi xếp bằng tròn như khi còn sống, liền trở lên tâu cùng vua Trang Tôn rõ. Nhà vua lấy làm lạ, cho là lòng trung thành của Công Duệ đã kết tinh như vậy, liền cho làm lễ, rồi vớt xác Công Duệ, khâm liệm và đưa về an táng tại quê nhà và truy phong làm Thượng đẳng phúc thần. 129
- Toan Ánh BÀ PHAN THỊ THUẤN Bà Phan Thị Thuấn người thời Lê mạt, là ái thiếp của tướng Ngô Cảnh Hoàn coi đội quân tiền phong đời vua Lê Cảnh Hưng. Năm Bính Ngọ (1786) Ngô Cảnh Hoàn chống quân Tây Sơn bị thua rồi chết trận tại Thúy Ái. Vợ cả của tướng Hoàn không có con đã thí phát đi tu, nên tuy là thiếp, bà vẫn được chồng coi như vợ cả. Vậy mà khi ông chết, bà không tỏ vẻ gì là đau đớn, cứ thản nhiên như không, cười nói vui vẻ mặc người chung quanh mai mỉa, và cũng không phân trần phải trái. Người nhà ai cũng lấy làm lạ. Khi quân Tây Sơn đã rút, bà cũng thu xếp mọi việc trong nhà, dặn bảo trao lại cho các con, bà mới đến chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng, nơi bà vợ cả tu hành, làm một tuần chay tế độ cho chồng. Làm chay xong, bà cùng vợ cả và các con ra bờ sông Thúy Ái, ở gần bến Thanh Trì, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông ngày nay, nơi chồng bà đã tử trận, đặt bài vị làm lễ chiêu hồn cho chồng. Mọi người kéo nhau ra xem đông như kiến. Chiêu hồn chồng xong bà khóc suốt một đêm rồi ngày hôm sau, bà ăn mặc chỉnh tề, quần áo lượt là, đeo hoa hột chải 130
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông chuốt, một mình chở một chiếc thuyền con ra giữa dòng sông, gieo mình xuống tự trầm để chết theo chồng. Bà chết, ai cũng thương và ai cũng ngợi khen lòng tiết liệt thủy chung của bà. Vua Tự Đức có bài thơ khen bà: Trượng Phu tử sự diệc hà bi, Nhược chất hùng tâm vị dị khuy? Giang thượng thung dung thân khốc điện, Khiết thân dĩ định trạc liên y. Bản dịch của Lam Giang: Không buồn phu tướng chết trung, Trong thân liễu yếu, chí hùng, ai hay? Bên sông tế điện chọn ngày, Nước trong xin gửi thân này trung trinh. Tấm gương bà Phan Thị Thuấn đáng để cho phụ nữ ngày nay soi chung. Hàng ngày, bao nhiêu tấn kịch gia đình đã xảy ra chỉ vì người vợ không trọn lòng chồng. Chồng còn sống, năm bảy mặt con với chồng, vẫn bỏ chồng theo trai, thậm chí có kẻ dắt trai về giết chồng để tiện bề dâu bộc với gian phu. Lại còn bao nhiêu kẻ khác, chồng chết, mồ chưa xanh cỏ, đã vội vàng bỏ đàn con dại, lấy ngay chồng khác kẻo sợ phí thời gian. Bà Phan Thị Thuấn, chồng chết, không lộ vẻ buồn, chính là bà đã quyết tâm chết theo chồng. Bà cần bình tĩnh để thu xếp việc nhà trao lại cho đàn con. Chồng bà chết trận bên sông Thúy Ái, bà đã gieo mình tự trầm ngay nơi đó sau khi làm chay và chiêu hồn chồng, vừa trọn nghĩa với chồng lại vừa giữ vững đạo cương thường. Thật đáng khen lắm thay! 131
- Toan Ánh VÕ TÁNH VÀ NGÔ TÒNG CHU CHẾT THEO THÀNH BÌNH ĐỊNH Võ Tánh và Ngô Tòng Chu là bầy tôi vua Gia Long. Tháng tư năm Kỷ Mùi (1799) sau khi lấy được thành Quy Nhơn của nhà Tây Sơn, vua Gia Long lúc đó là chúa Nguyễn Ánh đổi tên là thành Bình Định, ủy cho Võ Tánh làm trấn thủ và Ngô Tòng Chu làm hiệp trấn để giữ thành này. Được tin thành Quy Nhơn thất thủ, vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn liền sai Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đem binh vào cứu. Tháng giêng năm sau, khi vua Gia Long đã kéo quân về Gia Định, thì quân của Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng gồm đủ thủy binh, bộ binh, tiến tới vây đánh thành Bình Định. Võ Tánh và Ngô Tòng Chu cố thủ thành không giao chiến. Quân Tây Sơn vây đánh rất hăng. Trần Quang Diệu đắp lũy chia quân vây bốn mặt thành. Võ Văn Dũng đem chiến thuyền giữ cửa Thị Nại để phòng ngừa quân cứu viện của họ Nguyễn. Được tin thành Bình Định bị vây, vua Gia Long sai các tướng chia quân làm hai đạo ra cứu, nhưng đều bị quân Tây Sơn đánh chặn. Thấy không thể cứu ngay thành Bình Định được, vua Gia Long sai người lẻn vào thành 132
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông bảo Võ Tánh và Ngô Tòng Chu bỏ thành mà ra, nhưng Võ Tánh đã trả lời nhà vua: - Quân tinh nhuệ của Tây Sơn dồn cả ở Bình Định, xin đừng lo việc giải vây, hãy kíp ra đánh Phú Xuân thì hơn. Vua Gia Long y theo kế ấy nên tháng năm năm sau, Tân Dậu 1801, thì lấy được Phú Xuân. Trong khi ấy thành Bình Định vẫn bị vây. Lương thực trong thành đã gần hết, dân tình thật là khổ sở. Võ Tánh liệu thế không chống nổi liền viết thư sai người đưa cho Trần Quang Diệu, đại ý nói: Mình làm tướng phải chết theo thành, nhưng xin tha cho quân sĩ và dân chúng. Sau đó Võ Tánh ngồi lên lầu bát giác, sai quân chất củi khô chung quanh rồi nổi lửa đốt để tự thiêu mình. Hiệp trấn Ngô Tòng Chu cũng uống thuốc độc chết theo Võ Tánh. Trần Quang Diệu chiếm lại được Bình Định, cảm lòng trung nghĩa của Võ Tánh và Ngô Tòng Chu, đã cho an táng thi hài của hai người theo đúng lễ nghi và cũng thể theo lời yêu cầu của Võ Tánh, không giết một quân sĩ hay người dân nào. Ở đây, nghĩa khí của Võ Tánh và Ngô Tòng Chu đã cảm hóa được cả kẻ thù. Phận mình làm tướng chết theo thành đã đành, trước khi chết lại xin với quân địch tha thứ cho nhân dân và quân sĩ, thực là đáng khen vậy. Trần Quang Diệu cũng là người chuộng nghĩa nên kính trọng những người biết vị nghĩa quên mình, dù người đó là kẻ địch của mình. 133
- Toan Ánh THÁI PHÓ TRẦN QUANG DIỆU Trần Quang Diệu là một hổ tướng triều Tây Sơn dụng binh rất giỏi và là một tướng rất có độ lượng. Theo vua Quang Trung, ông đã từng dự trận đánh đuổi quân Thanh năm Ất Dậu (1789). Sau ông được cử giữ chức Đốc trấn Nghệ An, rồi đến năm Tân Hợi (1792), ông lại được lệnh mang quân chinh phục Ai Lao: thắng trận, ông chia quân ở lại đóng giữ Vạn Tượng. Vua Quang Trung băng hà, con là Nguyễn Quang Toản lên ngôi là vua Cảnh Thịnh. Ông giữ chức Thái phó, hết lòng phò vua Cảnh Thịnh theo đúng di mệnh của vua Quang Trung chống lại quân của chúa Nguyễn Ánh ở phía Nam. Vua Cảnh Thịnh ít tuổi, nhẹ dạ, kém cương quyết, lại hay nghe lời dèm pha gây nên cảnh triều thần giết hại lẫn nhau như việc Võ Văn Dũng giết Ngô Văn Sở năm Ất Mão (1795). Trần Quang Diệu lúc ấy đang vây thành Diên Khánh của chúa Nguyễn, được tin, thất kinh nói cùng các tướng: - Chúa thượng không phải là người cứng cỏi để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong không yên, đánh người ta thế nào được. Mặc dầu tình thế nội bộ ra sao, bên ngoài ông vẫn cố hết 134
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông sức ngăn bước tiến của quân chúa Nguyễn. Với trí dũng hơn người, ông đã thắng nhiều trận khiến cho đối phương phải khiếp. Không những thế ông lại là người rộng lượng, biết bao dung nên đã cảm hóa được Vũ Văn Dũng, người vẫn thù nghịch, trở nên người bạn thân sinh tử. Năm Tân Mão (1801) sau nhiều tháng bao vây, ông đã hạ được thành Bình Định do Võ Tánh và Ngô Tòng Chu chống giữ. Lấy được thành nhưng ông không giết hại tướng địch và không động đến nhân dân. Không những thế ông còn liệm táng Võ Tánh và Ngô Tòng Chu là hai tướng của chúa Nguyễn đã tử tiết theo thành. Năm sau được tin quân Tây Sơn thua ở Trấn Ninh, ông liền cùng Vũ Văn Dũng bỏ thành Quy Nhơn đem binh tướng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An để hội với vua Cảnh Thịnh lo sự chống giữ. Lúc này quân chúa Nguyễn đã chiếm được Phú Xuân, và tháng năm năm đó Nguyễn Vương lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Gia Long. Lên ngôi rồi, vua Gia Long cử quân tiến đánh và chiếm được Nghệ An do tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Thuận trấn giữ. Bấy giờ Trần Quang Diệu từ Quy Nhơn đã ra tới châu Quy Hợp, xuống huyện Hương Sơn, thấy Nghệ An thất thủ, ông cùng vợ là nữ tướng Bùi Thị Xuân lên đường định ra Bắc, bao nhiêu quân sĩ đều bỏ cả. Vợ chồng ông đi tới huyện Thanh Chương thì bị bắt. Vũ Văn Dũng chạy ra đến Nông Cống cũng bị bắt. Vua Gia Long, thấy ông là người có tài, có ý muốn dụ hàng để trọng dụng. Ông đã khẳng khái trả lời nhà vua: - Nhà vua thắng là ở trời, chứ không phải ở tài mình. Tôi nay thất thế. Ngài muốn làm gì thì làm. Một người tôi trung, không ai thờ hai chúa. Nếu nhà vua rộng lượng tha chết cho tôi, như tôi đã từng tha cho tướng sĩ của nhà vua ở thành Bình 135
- Toan Ánh Định độ trước, tôi sẽ xin về quê làm ruộng và đóng thuế như người thường dân. Ví thử nhà vua e ngại thì tôi sẵn sàng chết theo đại nghĩa. Vua Gia Long đã không tha ông, ông đã bị hành hình cùng với gia quyến. Ông chịu tội lột da; vợ ông là Bùi Thị Xuân và con gái ông là Bích Xuân bị tội voi giầy. Trước ngày chịu tội, ông có làm sớ xin vua Gia Long tha tội chết cho mẹ già, và đã được như ý. Đọc đến chuyện ông, người đời ai cũng khen. Ông đành chịu chết vì nghĩa không muốn thờ hai chúa, mang điều bất trung. Khen ông bao nhiêu, người ta lại chê vua Gia Long hẹp lượng chừng ấy. Ông đã có thể tha cho tướng sĩ của nhà vua, lẽ nào nhà vua không thể khoan hồng cho gia đình ông khi ông chịu về sống như một thường dân. 136
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông NGUYỄN TRUNG TRỰC KHÁNG PHÁP Khi thực dân Pháp đem quân vào đánh Nam Kỳ, dân chúng trong Nam, các nơi đều lo việc kháng Pháp. Trong số các người đứng lên kháng Pháp, phải kể ông Nguyễn Trung Trực. Ông lãnh đạo phong trào kháng chiến chống Pháp ở Kiên Giang và đã thắng nhiều trận oanh liệt, nhất là ở Vàm Nhật Tảo. Năm 1861 hưởng ứng lời kêu gọi kháng Pháp của vua Tự Đức, ông Nguyễn Trung Trực chiêu mộ nghĩa quân nổi lên đánh phá vùng Tân An và được phong chức Quản Cờ, như chức Đại Úy ngày nay. Ngày 10 tháng 12 năm đó, ông chỉ huy nghĩa quân đốt phá được pháo thuyền Espérance của Pháp ở Vàm Nhật Tảo. Quân Pháp đánh phá ba tỉnh miền Tây, triều đình Huế cử ông vào phòng thủ Hà Tiên với chức Thành Thủ Ủy, nhưng Hà Tiên đã bị Pháp chiếm trước khi ông tới nơi. Ông rút quân về Hòn Chông để chiêu mộ thêm quân sĩ và liên lạc với nghĩa quân các nơi như Cái Nước, Hóc Hỏa, Thầy Quơn, Chắc Băng v.v 137
- Toan Ánh Rất nhiều nhân sĩ địa phương hưởng ứng và giúp đỡ ông như Quản Thứ, Quản Thành, Đội Chín, Quản Câu, Xã Lý, Bà Điều, Bà Đỏ Nhờ sự hưởng ứng và giúp đỡ này, ông đã có một thế lực đáng kể. Ông quyết định đánh đồn Kiên Giang vào đêm hôm 16-6-1866 và đã chiếm được đồn một cách dễ dàng. Trong trận này, nghĩa quân giết được 5 võ quan và 67 lính giặc, đoạt được 100 khẩu súng và nhiều đạn dược. Ông giao đồn cho Lâm Quang Ký trấn giữ và rút về núi Sập. Ngày 18 tháng 8 năm 1866, bộ chỉ huy Pháp tại Mỹ Tho được tin Kiên Giang thất thủ. Bọn chúng rất lấy làm kinh ngạc, vì đồn Kiên Giang rất kiên cố. Chúng ra lệnh cho Thiếu tá Ausert từ Vĩnh Long đem toàn lực về tái chiếm Kiên Giang. Cùng đi theo bọn quân Pháp có hai tên Việt gian Trần Bá Lộc và Đỗ Hữu Phương. Bọn Pháp đến Long Xuyên rồi theo kinh núi Sập tiến vào Kiên Giang. Ông Nguyễn Trung Trực đoán trước được đường tiến quân của địch, đã huy động dân chúng đắp đập cản nước sông, nhưng thế địch mạnh chúng tiến qua được núi Sập và vào được Sóc Suông. Ông vội vã về Kiên Giang lo việc chống cự, nhưng thất bại, lại phải rút lui về Hòn Chông. Tái chiếm xong Kiên Giang, bọn giặc đuổi theo ông tới Hòn Chông; ông phải rút quân về Phú Quốc, nơi đây có nghĩa quân của ông Quản Thứ. Ông bàn với ông Quản Thứ định ngày tiến đánh Hà Tiên. Quân Pháp lại đuổi theo, ông rút quân về cửa Cạn (Phú Quốc) lập chiến khu. Quân Pháp, được tuần dương hạm Groenland tăng cường, tuần thám đảo Phú Quốc vào ngày 19-9-1868. Sau đó, tên Việt gian Huỳnh Công Tấn được Pháp phong chức lãnh binh dẫn giặc tới tấn công căn cứ của nghĩa quân 138
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông ở Hàm Ninh nhưng chúng đã thất bại vì quân ta đã liều chết cố thủ. Thấy đánh không thắng nghĩa quân, bọn Pháp theo kế hoạch của Việt gian Huỳnh Công Tấn, sai người tới bắt mẹ và con cái ông đang còn ẩn náu ở Hà Tiên. Chúng báo tin này cho ông hay, dụ ông về hàng, nhưng ông không chịu. Huỳnh Công Tấn liền bắt rất nhiều đàn bà trẻ con và các cụ già ở quanh vùng trói lại dẫn đến trước đồn ông, và rêu rao sẽ giết tất cả những người này nếu ông còn tiếp tục chống Pháp. Chúng bắt buộc ông phải đầu hàng. Không thể nhìn đồng bào vì mình mà chết oan, ông giải tán nghĩa quân và tự nộp mình cho giặc. Huỳnh Công Tấn và Thiếu tá Bouchet Rivière giải ông về Rạch Giá rồi đưa ông lên Sài Gòn. Pháp đem quyền cao chức trọng ra dụ dỗ ông, nhưng ông một mực từ chối. Chống Pháp không thành công, ông chịu chết để đền ơn đất nước. Trước nghĩa khí của ông, bọn Pháp rất khâm phục, nhưng ông không chịu theo chúng, chúng buộc lòng phải giải ông về Kiên Giang để hành quyết vào ngày 27 tháng 10 năm 1868. Ông chết đi, dân chúng rất thương tiếc và người người đều căm giận lũ Việt gian Huỳnh Công Tấn. Cụ Huỳnh Mẫn Đạt có đôi câu đối để ghi công nghĩa sĩ Nguyễn Trung Trực. Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa, Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần. Lược dịch của Thạc Nhân: Lửa hồng Nhật Tảo lừng trời đất, Gươm bạc Kiên Giang khóc quỷ thần. Nhớ ơn ông, dân chúng Kiên Giang có lập đền thờ ông tại các xã Vĩnh Thanh Vân và Vĩnh Hòa Hiệp. 139
- Toan Ánh Tương truyền rằng, trước khi thụ hình, ông có làm bài thơ tuyệt mệnh: Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên, Yêu gian đảm khí hữu long tuyền. Anh hùng nhược ngộ vô dung địa, Báo hận thâm cừu bất đái thiên. Bản dịch của Đông Hồ: Theo việc binh nhung thuở trẻ trai, Phong trần hăng hái tuốt gươm mài. Anh hùng gặp phải hồi không đất, Thù hận chan chan chẳng đội trời. 140
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông HOÀNG DIỆU VỚI THÀNH HÀ NỘI Năm Nhâm Ngọ. Cõi Việt Nam ta đang lâm vào tình cảnh loạn ly. Trong, giặc nổi tứ tung, mặc triều đình ra công trừ dẹp; ngoài, quân Pháp đã xâm lăng hết miền Nam nước Việt và đang kiếm cớ để nhòm ngó miền Bắc, tuy ta đã theo một đường lối ngoại giao hòa hoãn. Và ngày mồng 6 tháng 3 năm 1882, bỗng dưng quân Pháp, dưới quyền điều khiển của Henri Rivière, kéo từ Gia Định tới đóng binh thuyền tại Đồn Thủy, sát Hà Nội. Giữ Thành Hà Nội bấy giờ là Tổng đốc Hoàng Diệu. Thấy sự hiện diện đột nhiên của quân Pháp, Hoàng Diệu không khỏi nghi ngờ và lo sợ. Ngài liền một mặt sai quân bố trí canh phòng cẩn mật, một mặt sai quan tuần phủ Hoàng Hữu Xứng mang lễ vật sang trại quân Pháp để tiếp đón tử tế. Hôm sau, Henri Rivière vào thành để đáp lễ. Hắn thấy quân ta bố trí, tỏ ý bất mãn và yêu cầu triệt hết đi. Lẽ tất nhiên Tổng đốc Hoàng Diệu không chịu lời yêu cầu đó, và hai bên găng nhau không bên nào chịu nhường bên nào. Cho đến sáng mồng 8 tháng 3, Án sát Tôn Thất Bá xin với Hoàng Tổng đốc ra ngoài thành 141
- Toan Ánh để thương thuyết cùng với Pháp, may ra có tránh được binh đao. Sự thực ấy chỉ là một cớ để Tôn Thất Bá thoát khỏi thành Hà Nội vì y cũng đã cùng Pháp tư thông từ trước. Y đi khỏi không được bao lâu, bên quân Pháp nổ súng bắn vào thành Hà Nội. Quân Việt Nam kháng cự anh dũng từ 8 giờ sáng đến 11 giờ trưa, nhưng về sau sự bội phản của một số binh lính đã theo Pháp, kho thuốc súng của chúng ta bị đốt cháy khiến tinh thần quân ta nao núng và nhờ đó quân Pháp vào được trong thành. Thành bị hạ. Thật là đau đớn cho Hoàng Tổng Đốc. Giữ thành, thành mất, chỉ còn cách chết theo thành cho trọn nghĩa. Vì vậy Hoàng Công đã mặc triều phục đi vào hành cung, ngoảnh mặt về cửa Khuyết lễ tạ nhà vua rồi thắt cổ tự tử chết. Trong khi ấy thì văn quan võ tướng mỗi người chạy trốn một nơi. Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng còn lại trong thành, chạy đi tìm Hoàng Tổng Đốc, nhưng có tên Án sát phản bội Tôn Thất Bá tới khuyên can. Về sau dân chúng có làm lễ truy điệu Tổng Đốc Hoàng Diệu rất long trọng và sĩ phu đã khóc người bằng những bài văn tế rất sâu xa cũng như bằng những đôi câu đối rất đáng nhớ. Hoàng Hữu Xứng có một đôi câu đối viếng như sau: - Trinh tai tiết độc khổ như không! Diệc viết tận tâm yên, thị phi hữu triều đình định luận. - Quý hỹ chi phất quả ư ngã! Phương chi năng tử giả, cổ kim vi thiên hạ tối nan. Tạm dịch: Trung thay, một mình ông trọn đạo làm tôi, thế là hết, phải trái tùy triều đình định liệu. Thẹn thay, riêng phần ta không đạt ý muốn, cho nên việc chết là việc khó làm xưa nay. 142
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Chết theo thành, Tổng đốc Hoàng Diệu đã được cả quốc dân ghi ơn, và càng nhớ tới Tổng đốc Hoàng Diệu, người ta càng chê Tôn Thất Bá phản bội nước nhà. Chết đâu phải là dễ, nhưng vì nghĩa, người ta thường không sợ chết. Với thành Hà Nội, quân Pháp hai lần tới chiếm đánh, đã hai lần khiến chủ tướng thủ thành phải tìm cái chết để báo đền nợ nước. Lần trước, Nguyễn Tri Phương chống với Francis Garnier; lần sau, Hoàng Diệu chống với Henri Rivière. Về lần thất thủ Hà Nội năm Nhâm Ngọ, tập “chính khí ca” của Nguyễn Văn Giai đã nêu hết kẻ hay người dở, và đã thuật rõ mọi điểm khen chê. 143
- Toan Ánh ÔNG TÔN THẤT ĐẠM Ông là con trai quan phụ chính Tôn Thất Thuyết và là một võ tướng phò vua Hàm Nghi chống quân Pháp ở Quảng Bình và Hà Tĩnh. Vua Hàm Nghi cử ông giữ chức Khâm sai Tán Lý quân vụ ở gần Hà Tĩnh, chỗ hai hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên. Chính ông giữ việc liên lạc giữa nhà vua và quân Cần Vương ở các nơi. Năm 1888, khi tên Trương Quang Ngọc phản bội bắt vua Hàm Nghi nộp cho Pháp và giết chết em ông là Tôn Thất Thiệp, ông biết đại sự đã hỏng, liền tự sát để giữ tròn tiết nghĩa. Năm ấy ông mới 22 tuổi. Trước khi chết, ông lo bảo toàn tính mệnh cho các tướng sĩ và quân lính theo ông. Ông đã viết hai lá thư, lời lẽ rất thống thiết, để tỏ rõ tấm lòng trung nghĩa của mình, quyết đem thân thế đền nợ núi sông và để yêu cầu người Pháp đừng sát hại hoặc áp bức những tướng sĩ theo mình. Ông đã tuẫn tiết trước mặt ba quân. Sử thuật lại rằng trước khi tuẫn tiết ông hội họp tất cả tướng sĩ, khuyên họ ra thú ở Đồn Thuận Bài rồi về quê hương an nghiệp làm ăn, không nên nhậm chức tước của người Pháp. Ông bảo: 144
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông - Còn về phần tôi, nếu người Pháp có hỏi, các ông cứ bảo họ vào trong rừng này mà tìm mả. Khuyên nhủ tướng sĩ xong, ông trật chiếc khăn đang đội trên đầu, thắt cổ tự tử. Tướng sĩ lấy làm thương xót vô cùng, và chính vua Hàm Nghi, khi được tin này, cũng rất đau đớn. Dưới đây là hai bức thư ông đã viết trước khi chết, bức thứ nhất đệ gửi vua Hàm Nghi và bức thứ hai gửi Thiếu Tá Dabat, sĩ quan chỉ huy Đồn Thuận Bài. Bức thư thứ nhất: “Niên hiệu Hàm Nghi thứ tư, tháng 11 ngày mồng 8. Thần, Tôn Thất Đạm, Khâm sai chưởng lý quân vụ, cúi dâng ngự lãm. Không được gần gũi Hoàng Thượng để hộ giá khi có phản thần làm việc ám muội, thần mang tội rất lớn. Song đây là mệnh trời xui nên nước ta gặp bước gian nguy, và các công thần không được gần vua để cứu giá. Các quan văn võ sẽ mang hận ấy suốt đời, vậy xin Hoàng thượng tha thứ cho và thề sẽ hết lòng trung cho đến thác.” Bức thư thứ hai: “Niên hiệu Hàm Nghi thứ tư, tháng mười một, ngày mồng 8. Khâm sai đại thần Tôn Thất Đạm, thư kính sĩ quan Pháp, quản đồn Thuận Bài. Những việc khốn nạn vừa xảy ra ở nước tôi, bắt buộc tôi phải viết thư cho Ngài. Cha tôi vì việc nước phải xuất dương, hiện chưa về, tôi phải kế cái nghiệp lớn lao mà vua tôi chẳng quản tôi tuổi trẻ tài hèn, đã phó thác cho tôi. Tôi không hiểu sao trời lại sai khiến cho vua phó thác cho tôi cái trách nhiệm quan trọng ấy, và tôi rất tiếc rằng không 145
- Toan Ánh được ở cạnh vua để cứu giá và giết chết bọn phản thần hoặc cùng chết với em tôi khi quân phản nghịch bắt vua nộp cho quân địch. Nếu bọn giáo dân không xen vào giữa người Pháp và người Nam thì không bao giờ có chiến tranh. Nếu chúng tôi có chống với người Pháp chẳng qua chỉ là vì phận sự phải che chở cho bờ cõi và hết lòng trung theo vua khi Ngài rời bỏ kinh thành. Nay chúng tôi bị thua, cái then của chiến bại đã đến bước cùng. Vậy xin Ngài cho các tướng sẽ được về quê hương an trí làm ăn và không phải ra thờ triều đình mới”(1). Những người trung dũng như Tôn Thất Đạm, khi quân Pháp mới xâm chiếm nước ta, không phải là hiếm, và chính những người này đã khiến cho người Pháp phải e dè dân Nam. Nếu vì vận nước người Pháp đã đô hộ nước Nam, thì lòng người trong suốt thời gian đô hộ gần một trăm năm, không lúc nào người Nam lại quên giang sơn đất nước, ngoại trừ bọn vong bản cam tâm làm nô lệ cho ngoại quốc. 1 Theo “Việt Nam danh nhân tự điển” của Nguyễn Huyền Anh. 146
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông ÔNG NGUYỄN CAO TỰ SÁT TRƯỚC MẶT VIÊN THỐNG SỨ BIHOURD Trong suốt gần một thế kỷ nước Việt Nam ta thuộc Pháp, đã có biết bao anh hùng liệt sĩ, hữu danh và vô danh, vì nước bỏ mình. Đối với các liệt sĩ đó, chúng ta luôn luôn phải nhớ ơn và có nhiệm vụ nêu cao nghĩa khí của các Người. Để tỏ một phần nào lòng biết ơn đối với các vị đó, ở đây xin thành kính thuật lại những cử chỉ liều chết vì non sông của vài ba vị. Cứ kể chép lại những cái chết vị Nghĩa của các liệt sĩ chống Pháp, trong lúc Pháp chiếm đóng Việt Nam thì rất nhiều, không biết mấy nghìn trang sách cho xuể, do đó ở đây chỉ xin thuật lại cái chết của vài ba vị cũng đủ tượng trưng cho cái tinh thần vị nước bất diệt của tất cả các vị khác. Xin trước hết thuật lại chuyện Án sát Nguyễn Cao. Nguyễn Cao hiệu là Trác Phong, người làng Cách Bi tỉnh Bắc Ninh, sinh năm Thiệu Trị nguyên niên. Lớn lên thi đỗ Thủ khoa, ông làm quan với triều Nguyễn, đã từng dự trận đánh giết Ngô Côn với ông Ông Ích Khiêm, năm Nhâm Ngọ 1870, và trước đó đã từng được ông Vũ Trọng Bình là Tổng đốc Hà Ninh kiêm chức Tuyên Thái 147
- Toan Ánh Lang quân thứ dùng trong việc quân. Ông là người văn võ kiêm toàn lại lắm mưu lược nên đã giúp ích rất nhiều trong việc tiễu giặc. Về sau ông lại cùng các ông Hoàng Kế Viêm, Tôn Thất Thuyết tiễu trừ giặc Cờ vàng Hoàng Sùng Anh. Sau khi giặc Hoàng Sùng Anh tan, ông được cử giữ chức Án sát Thái Nguyên với nhiệm vụ phụ lực quan quân tiễu trừ giặc cỏ tại các tỉnh mạn ngược: Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn. Ông giữ chức này không lâu vì đến năm Quý Mùi (1883) thì triều đình ký Hòa ước nhận sự bảo hộ của người Pháp tại Trung và Bắc Việt. Được tin này, ông Nguyễn Cao đã ôm mặt khóc và sau bỏ quan về Hải Dương giúp ông Nguyễn Thiện Thuật, tức là ông Tán Thuật, chống Pháp ở vùng Bãi Sậy. Tổng hành dinh của ông Tán Thuật đóng ngay ở làng Xuân Dục, quê ông Thuật, và đã quy tụ được rất nhiều nhân sĩ chống Pháp. Quân Bãi Sậy chống nhau với quân Pháp, trận được trận thua, mãi cho tới năm Bính Tuất (1886) mới bị quân Pháp đánh tan. Ông Tán Thuật, sau đó, cùng một số đồng chí trốn sang Tàu để gây cơ sở, nhưng công việc không thành. Trước sự tan vỡ của đại sự, ông Nguyễn Cao chỉ đành ngậm ngùi và tìm đường lẩn trốn những con mắt của bọn tay sai Pháp. Ông phải trốn đến làng Kim Giảng, phủ Ứng Hòa. Hà Nội, lúc đó chưa có tỉnh Hà Đông, để dạy học. Nhưng về sau ông cũng bị bắt vì sự phản bội của lãnh binh Nhung, một tay sai của Pháp, đầy tớ của Lê Hoan. Ông bị dẫn tới trước mặt Thống sứ Pháp là Bihourd. Tên này dụ ông quy thuận sẽ được trọng dụng và lại được bổ án sát Thái Nguyên, nếu không, sẽ bị chém đầu. Ông Nguyễn Cao đã dùng giọng khinh bỉ trả lời Bihourd, nói cho y biết, quan tước của y không thể mua chuộc được ông như những bọn phản dân hại nước. 148
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Rồi ông vừa nói chuyện, vừa tự rạch bụng, moi ruột, cắn lưỡi, móc mắt, để tỏ cho Bihourd biết là người Việt Nam không sợ chết và không phục người Pháp. Bihourd giận lắm. Mặc dầu ông Nguyễn Cao đã ở tình trạng sắp chết, y còn sai đem chém đầu cho bõ tức. Ông bị chém đầu bằng mã tấu vào lúc 6 giờ chiều ngày 14-4-1887. Ông Nguyễn Cao chết nhưng đã cho giặc Pháp thấy cái nghĩa khí của người Việt Nam. Thà làm ma nước Nam chứ không làm quan với Pháp trong địa vị nô lệ. Cho hay danh vọng có làm gì nếu nghĩa khí đã mất. Ông Nguyễn Cao chết, dân Việt Nam đời đời ghi ơn ông. Ham danh vọng, theo hầu ngoại nhân để hậu thế mỉa mai, sao cho bằng thác trong vinh dự. 149
- Toan Ánh BÀ ẤU TRIỆU Bà tên thật là Nguyễn Thị Đang, sinh trưởng trong một gia đình bình dân ở xã Thế Lại Thượng, tỉnh Thừa Thiên. Bà gia nhập Việt Nam Quang Phục hội từ khi hội mới thành lập, và là một đảng viên rất đắc lực. Bà đã hoạt động liên lạc và tuyên truyền tại các tỉnh miền Trung, nhất là tại mấy tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Nay tỉnh này, mai tỉnh khác, bà góp phần rất nhiều vào công việc cổ động phong trào thanh niên Đông du. Người Pháp vẫn để ý theo dõi bà từ lâu. Bà lại tham gia phong trào kháng thuế tại các tỉnh Trung Việt. Với người thân, bà thường nói: - Bọn Pháp chúng bóc lột dân ta, nếu ta không có phản ứng gì, chúng càng bóc lột nhiều hơn. Trước những hành động của ta, ít ra chúng cũng thấy nhân dân Việt Nam không phải ai cũng là tay sai cho chúng. Năm 1910, bà bị chúng bắt. Chúng giam giữ bà và tra tấn hết sức tàn nhẫn bằng những lối độc ác nhất, nhưng bà nhất thiết không khai mảy may điều gì. Tức giận, chúng càng hành hạ tra tấn bà hơn. Trước mọi thủ đoạn dã man của chúng, bà 150
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông cắn răng chịu, rồi đến khi cơ hội thuận tiện bà đã dùng dây lưng thắt cổ ngay trong ngục. Bà chết đi để giữ được những bí mật của Việt Nam Quang Phục hội, cũng như của những đồng chí Cách Mạng. Bà đã giữ tròn chữ Nghĩa đối với đoàn thể. Các bậc trí thức có tâm với đất nước được tin bà tuẫn thân, ai cũng lấy làm thương xót. Cụ Phan Bội Châu đã có đôi câu đối sau đây để khóc bà: Tấm thân trót gả giang sơn Việt; tấc dạ soi chung nhật nguyệt trời. Tơ nhân, sợi nghĩa, dây lưng thắt; da sắt, lòng son, nét máu hồng. Bà thật là một liệt nữ. 151
- Toan Ánh PHẠM HỒNG THÁI Trong chuyện liệt sĩ Hoàng Hoa Cương, tôi sẽ có dịp trình bày việc người Trung Hoa vì tôn trọng Phạm Hồng Thái, nên mặc dầu là người Việt Nam, Phạm Hồng Thái đã được an táng ở Hoàng Hoa Cương cùng với các liệt sĩ Trung Quốc đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa năm Tân Hợi (1911). Chuyện Phạm Hồng Thái, chắc chắn nhiều bạn đã đọc qua; nhân viết tới chuyện các vị liều mình vì Nghĩa lớn, tôi không thể bỏ qua chuyện liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Là một thanh niên Việt Nam, phẫn uất trước sự cai trị áp bức của người Pháp đối với dân tộc ta, Phạm Hồng Thái thường luôn luôn muốn đuổi người Pháp ra khỏi nước nhà, hay ít ra cũng phải tỏ rõ cho họ biết là dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc hèn đớn. Do đó, Thái đã hoạt động cách mệnh và đã tham gia tổ chức chống Pháp. Năm 1923, Thái nhận được nhiệm vụ sang Quảng Châu để ám sát viên Toàn quyền Đông dương Martial Merlin đi công cán bên Nhật về. Ngày 19-6 năm đó, Merlin lúc ở Nhật về có ghé qua Quảng Châu tại tô giới Sa Điện và được các Pháp kiều nơi đây đặt tiệc đón mừng tại khách sạn Victoria. 152
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Ta chẳng phải nói, ai cũng hiểu rằng khách sạn này, hôm đó đã được canh gác cẩn mật tới mức nào, và lũ Pháp kiều, cũng như Merlin, ai nấy đều dương dương tự đắc coi người đời bằng nửa con mắt, tưởng rằng đi chinh phục được nước ngoài thì mọi người đều phải khiếp sợ mình. Có ngờ đâu giữa lúc tiệc đang vui vẻ, giữa lúc mọi người đang hân hoan nói cười thì bỗng có tiếng nổ vang khiến cả bọn phải cuống quít chạy trong trốn ngoài. Đó là liệt sĩ Phạm Hồng Thái của Việt Nam đã ném một trái bom để mong trả mối thù của dân tộc, nhưng Merlin chưa tới ngày tận số, quả lựu đạn của Phạm liệt sĩ đã không giết được y. Ném xong quả lựu đạn, Phạm liệt sĩ băng mình chạy, nhưng bị lính canh đuổi gấp, liệt sĩ đã không ngần ngại, nhảy xuống dòng Châu Giang tự tử. Liệt sĩ thà chết để nêu cao chính nghĩa còn hơn sống mà bị kẻ thù bắt được. Phạm liệt sĩ đã chết vì nước. Người Việt Nam nhớ ơn liệt sĩ. Người Trung Hoa, thấy liệt sĩ liều mình vì nghĩa lớn cũng đem lòng kính mến và an táng liệt sĩ vào Hoàng Hoa Cương với tấm bia ghi rõ sự nghiệp của liệt sĩ. Người Pháp, sau trái bom nổ ở khách sạn Victoria, cũng đã hơi bừng tỉnh, không dám coi thường dân tộc Việt Nam. Người ta đã ca ngợi Phạm Hồng Thái là Kinh Kha Việt Nam; và Kinh Kha Việt Nam, cũng như Kinh Kha thời Chiến quốc, đã một đi, không trở lại. 153
- Toan Ánh NGUYỄN KHẮC NHU VỚI BA LẦN TỰ SÁT Người ta còn gọi ông là Xứ Nhu. Ông sinh năm 1881 ở làng Song Khê tỉnh Bắc Giang, trong một gia đình nho học luôn luôn lấy đạo đức tiết nghĩa làm đầu. Ông theo nghiệp nhà học đạo thánh hiền. Năm ngoài 20 tuổi, ông đến thụ nghiệp cụ Cử Nội Duệ, một nhà Nho tiết tháo đã từng hoạt động Cần Vương mưu đồ đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam. Thụ nghiệp cụ Cử, ông theo luôn ngay được chí hướng của thầy, và hoài bão của ông là mong sao có ngày được đảm nhiệm công việc nặng nề cứu quốc giết thù. Trong khi theo học cụ Cử, ông đã có hầu hạ bên thầy trong những buổi cụ Cử tiếp các ông Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ cùng những nhà cách mạng khác. Chí lớn càng nẩy nở ở nơi ông với ảnh hưởng những câu chuyện giữa cụ Cử và các vị cách mạng tiền bối. Nung nấu chí lớn, ông càng cố gắng học, ông hiểu rằng 154
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông muốn gánh vác việc quốc gia phải có tài và sách vở chính là những dụng cụ hun đúc tài năng. Năm Nhâm Tý (1912), thi kỳ khảo hạch, ông đỗ đầu xứ, tức là đỗ đầu trong những sĩ tử toàn tỉnh được chọn lọc dự kỳ thi Hương, do đó người ta gọi tắt ông là Xứ Nhu. Đỗ đầu xứ, nhưng khi dự kỳ thi Hương năm đó ở Nam Định, ông đã bay kinh nghĩa, nghĩa là hỏng ngay từ kỳ đệ nhất. Hỏng kỳ thi này, ông không trở về nhà mà đi thẳng sang Quảng Tây với ý muốn tham dự vào cuộc khởi binh của học sinh Đông du đang sửa soạn ở biên giới Trung Hoa. Cuộc khởi binh đã không thành, ông buồn rầu trở lại cố hương trong lòng càng mang nặng hơn chí muốn diệt thù cứu nước. Ông bỏ hẳn khoa cử, tính chuyện lấy máu sắt rửa hận non sông. Để che mắt giặc Pháp cũng như lũ chó săn tay sai và bọn quan lại vong bản, ông mở lớp dạy học ở ngay trong nhà. Dựa vào việc dạy học, ông rèn đúc tinh thần ái quốc cho học sinh và thỉnh thoảng ông lại cùng các đồng chí hội họp để tính việc lớn. Tại ngay lớp học, ông có treo câu đối: Chúng tộc giang sơn, ngô đảng sự. Thánh hiền hào kiệt thế gian sư. Nghĩa là: Nòi giống non sông việc ngô đảng, Thánh hiền hào kiệt thầy thế gian.(1) 1 Cố Nhi Tân - Nguyễn Thái Học, tủ sách Tiến Bôn. Cơ sở xuất bản của Phạm Quang Khai, trang 91. 155
- Toan Ánh Chính trong lúc dạy học này, với sự tuyên truyền khích lệ đám nam nữ thanh niên, ông đã tổ chức được một đoàn thể cách mạng ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Hai cô Bắc và Giang đều có chân trong đoàn thể này. Năm 1929, sau bản án đầu tiên xử các đảng viên đồng chí của ông, ông đã cảm khái có bài thơ sau đây: Nặng lòng ưu ái khó làm thinh, Dội máu nam nhi rửa bất bình. Cướp nước, chém cha quân Phú Lãng, Cháy thành chết mụ chú Ba Danh. Gian nan những xót người trong hội, Tâm sự nào ai kẻ với mình? Hỡi hỡi anh em cùng gắng sức, Phen này quét sạch lũ hôi tanh. Trong cuộc khởi nghĩa đánh quân Pháp đêm hôm mồng 9 tháng 2 năm 1930, ông nhận nhiệm vụ chỉ huy tấn công bốn nơi hiểm yếu khu Tây Bắc là Yên Bái, Phú Thọ, Hưng Hóa và Lâm Thao. Ông phân phối công việc cho các anh em đồng chí, còn chính ông trực tiếp chỉ huy đánh đồn Hưng Hóa. Việc đánh Hưng Hóa của ông đã thất bại vì cơ mưu bại lộ, thực dân đã biết trước, chúng đã đổi hết lính ở đồn này, những người gia nhập đảng hoặc có cảm tình với đảng, và thay thế toàn bằng lính ở nơi khác tới. Đánh Hưng Hóa thất bại, ông đã cùng anh em đồng chí kéo quân về Lâm Thao thì nơi đây Cách mệnh quân đã chiếm xong phủ lÿ. Ông biết trước thế nào quân Pháp cũng tới cứu Lâm Thao, nên truyền lệnh cho anh em sửa sang lại khí giới và nấu cơm gấp để các chiến sĩ lấy sức còn phải kháng địch. 156
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Quân địch tới, chúng vây bắn dữ dội. Cách mệnh quân ứng chiến rất hăng hái, do chính ông xứ Nhu chỉ huy. Ông hăng hái xông pha gươm đạn trước cả mọi người. Trong lúc giao chiến, ông bị trúng một viên đạn ở đùi, buông tay súng ra, ngã xuống với năm sáu chiến sĩ khác. Anh em muốn cứu ông liền mở một huyệt lộ ở phía sau phủ, nhưng ông bảo: - Anh em hãy rút lui đi, lưu cái thân hữu dụng cho Tổ quốc. Đằng nào tôi cũng chết, anh em đừng quan tâm đến tôi. Nói rồi, ông khoát tay ra hiệu để các đồng chí tẩu thoát; còn ông, hai tay cầm hai trái lựu đạn mở chốt. Lựu đạn nổ, ngực ông vỡ, bụng ông thủng, gan ruột lòi ra ngoài nhưng không chết. Ông bị địch bắt, khiêng về đồn Hưng Hóa để băng bó. Ông đã không chết sau lần tự tử đầu tiên. Ông còn sống, địch sẽ có thể khai thác được ông. Ông phải chết, chết để tạ ơn Tổ quốc, để tạ lòng các đồng chí đã vì ông nổi lên chống giặc, bỏ mình. Ý định cần chết, phải chết là ý định cuối cùng của ông từ khi lọt vào tay giặc. Do đó, trong lúc giặc khiêng ông dọc đường, đi sát bờ sông, ông lại nhảy xuống sông tự tử nhưng cũng lại được chúng vớt lên. Lần thứ hai ông tự tử không xong. Ông bị tên mật thám Riner thẩm vấn. Hắn tra hỏi cách nào ông cũng làm thinh. Bực mình, tên Riner sừng sộ gọi ông là đồ kẻ cướp. Ông trợn mắt quát lại: - Giữa tao và chúng bay, chúng bay chính là kẻ cướp giết người chứ còn nói ai. Và từ đó luôn luôn ông thóa mạ bọn Pháp đội lốt văn minh cướp bóc thiên hạ. Tên phó sứ Phú Thọ là Chauvet hỏi ông: - Tại sao anh làm loạn? 157
- Toan Ánh Ông đã trả lời: - Tôi là người Việt Nam, có bổn phận bảo vệ đất nước, như thế là hợp lẽ phải và nhân đạo, sao có thể gọi là làm loạn được. Ông bị giam trong lô cốt đồn Hưng Hóa. Ở đây ông đã đập đầu vào tường đá đến ba lần mới chết. Nghe tin ông chết, các anh chị em đồng chí đều xúc động và người Việt Nam có lòng, ai cũng thương cảm. 158
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông THIẾP THEO CHÀNG Những chàng trai Việt Nam biết vì nghĩa chết theo nước thì những phụ nữ Việt Nam cũng biết vì nghĩa chết theo chồng. Từ xưa tới nay đã bao nhiêu cặp phu phụ cùng nhau chàng đi theo nước, thiếp theo chàng. Trường hợp đôi nam nữ Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang cách đây mấy chục năm cũng đã người vì nước, kẻ vì chồng. Ở đây chúng tôi chỉ xin nói riêng về cô Nguyễn Thị Giang. Cô là một nữ đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng và là vị hôn thê của đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Chính ra, Việt Nam Quốc dân đảng trước đây không thu nhận nữ đảng viên, ngoại trừ chi bộ tỉnh Bắc Giang mới có một vài biệt lệ. Trước khi thành lập Việt Nam Quốc dân đảng, ông Nguyễn Khắc Nhu, như tài liệu trước đã trình bày, đã thành lập một tổ chức cách mạng ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, và trong số các người gia nhập tổ chức này, có hai chị em Cô Bắc và Cô Giang. 159
- Toan Ánh Toàn thể tổ chức của ông Nguyễn Khắc Nhu sau đã sáp nhập Việt Nam Quốc dân đảng, do đó cả hai Cô Bắc và Cô Giang đều thành nữ đảng viên. Cô Bắc và Cô Giang quê ở Bắc Giang, sinh trưởng ở ngay tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương. Gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng, Cô Giang được dịp gặp Nguyễn Thái Học trong công tác. Đôi bên hiểu nhau, tâm đầu ý hợp rồi nảy lòng cảm mến yêu nhau. Lạ gì thanh khí nhẽ hằng, Một dây một buộc ai giằng cho ra. Cô Giang không những là người thân tín của Nguyễn Thái Học, mà còn là một nữ đảng viên rất đắc lực trong việc giao liên, thông tin tức cho các anh em. Hai người yêu nhau được ít lâu. Nguyễn Thái Học đã xin phép Đảng được lấy Cô Giang làm người vợ. Hai người ít khi rời nhau trong công tác. Một lần, nhân dịp đi qua Phú Thọ, hai người đã đem nhau vào đền Hùng Vương thề nguyền. Thề nguyền xong, Cô Giang xin với Nguyễn Thái Học trao cho mình một khẩu súng, và cô đã hứa: - Nếu chẳng may Học chết vì nước, Giang cũng xin lấy khí giới này chết theo chồng. Lời thề ước ấy có ngờ đâu sau này đã ứng nghiệm, và Cô Giang đã được chết bởi chính khẩu súng Học giao mình. Công việc đảng vỡ lở, các đảng viên bị bắt và bị Hội đồng đề hình của Pháp kết án. Nguyễn Thái Học và xứ Nhu chưa bị bắt, bị chúng xử vắng mặt mỗi người 20 năm khổ sai. Kể từ ngày đó Học càng hoạt động, mặc dầu bị bọn Pháp tầm nã, và trong mọi hoạt động luôn luôn có Cô Giang đi theo giúp đỡ. Cô vừa phụ trách giao liên, vừa như một nữ cố vấn của Học. Gặp việc khó khăn, cô xin đảm nhiệm một 160
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông phần, và trong những lúc thất bại, cô khuyến khích vị hôn phu rất nhiều. Trong những buổi hội đồng ở Lạc Đạo, ở Võng La, Cô Giang đều có mặt và giữ một địa vị trọng yếu. Chính cô đã giữ việc giao thông để truyền tin cho các chi bộ, khi đảng quyết định dùng võ lực. Cô luôn luôn thay hình đổi dạng đi khắp nơi này qua nơi khác. Sau cuộc khởi nghĩa thất bại ở Yên Bái đêm mồng 9 tháng 2 năm 1930, Cô Giang và Học vẫn không xa nhau. Cuộc khởi nghĩa thất bại, các yếu nhân dần dần bị bắt rồi đến cả Nguyễn Thái Học cũng lọt vào tay địch. Cô Giang gặp một cơn khủng hoảng tinh thần. Nhớ đến lời thề sơn hải với người yêu, cô như người mất trí, bỗng dưng cười, bỗng dưng khóc. Những anh em ở Hà Nội còn chưa bị bắt, hết sức ngăn cản cô mới giữ được cho cô khỏi lộ hình tích để cô có thể gián tiếp chăm nom được cho Học. “Tuy vậy, Cô Giang vẫn giữ địa vị cố vấn của Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, hai người đứng đầu cải tổ Việt Nam Quốc dân đảng. Nhờ cô mà Cảnh và Huân vẫn nhận được tin tức và mệnh lệnh của đảng trưởng khi bị giam ở Hỏa lò Hà Nội hoặc ở nhà lao Yên Bái”(1). Trong lúc ấy, cô đã tính đến đời mình. Chiều hôm 17 tháng 6 năm 1930, khi được tin Nguyễn Thái Học bị giải lên Yên Bái, cô đã đáp xe lửa đi theo. Cô mang theo khẩu súng và một quả bom định hôm sau vào phá pháp trường, nhưng cô không tới gần được, lính canh đã ngăn cản. Tại pháp trường, với một sức tự chủ phi thường, đứng đằng xa, cô đã đem nụ cười đáp lại nụ cười của Nguyễn Thái Học khi sắp bước lên máy chém. Đứng giữa đám người đứng xem, cô đã không mảy may lộ vẻ gì là đau xót. 1 Cố Nhi Tân - Tài liệu đã dẫn. 161
- Toan Ánh Nguyễn Thái Học đã chết. Việc nước đã hỏng, đảng thì tan vỡ, biết làm sao hàn gắn được như cũ. Cô Giang thấy đời sống của mình là vô nghĩa, chỉ có cách lấy cái chết để đền ơn nước và trả nghĩa ý trung nhân. Cô tiếc là không được chết một cách oanh liệt như các bạn tại trận tiền, dưới bóng quốc kỳ. Cô quay về Thổ Tang ở Vĩnh Yên, quê hương của Nguyễn Thái Học, vào thăm lại cái quán giữa đồng, gần làng Đồng Vệ, nơi đây đã có lần cô và Thái Học cùng ngồi trong quán trò chuyện. Rồi cô bước ra ngoài quán dùng khẩu súng lục tự bắn vào thái dương, ngã vật xuống, súng quăng ra một bên, nằm chết bên gốc đa cạnh quán. Cô đã vẹn lời thề với vị hôn phu, cô đã dùng khẩu súng của Thái Học trao cho để chết theo Thái Học. Lúc chết, cô mặc tang phục, áo vải trắng và khăn trắng. Cô để tang chồng. Cô đang có mang được mấy tháng. Trong người cô, ngoài các đồ lặt vặt, còn có hai bức thư cô đã viết ở nhà trọ Yên Bái trên ba trang giấy khổ hẹp và ký tên là Nguyễn Thái Học phu nhân. Tin cô chết được báo về tỉnh Vĩnh Yên và Hà Nội. Bọn thám tử Hà Nội, viên công sứ Vĩnh Yên cùng với viên Tri phủ Vĩnh Tường đến tại chỗ khám nghiệm và lập biên bản. Chúng đã lột trần truồng cô ra và cứ để như vậy dưới mưa nắng trong hai ba hôm mới cho chôn. Chúng muốn trả thù ở cái xác chết về những hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng. Chúng có biết đâu đối với người liệt nữ đã chết vì nước vì chồng, tất cả những hành động dã man của chúng có nghĩa lý gì. Dưới đây là hai bức thư Cô Giang đã để lại: Bức thư thứ nhất: 162
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Ngày 17 tháng 6 năm 1930 Thưa thày mẹ, Con chết là vì hoàn cảnh đã bó buộc, con không báo được thù cho nhà, rửa được nhục cho nước. Sau khi đã đem tấm lòng trinh bạch dâng cho chồng con ở đền Hùng, giờ con tìm về chỗ quê cha đất tổ, mượn phát súng này mà kết liễu đời con. Đứa con dâu thất hiếu kính lạy. Bức thư thứ hai: Anh đã là người yêu nước, không làm tròn được nghĩa vụ cứu nước, anh giữ lấy linh hồn cao cả để về dưới suối vàng chiêu binh rèn súng, đánh đuổi quân thù. Phải chịu đựng nhục nhã mới mong có ngày vẻ vang. Các bạn đồng chí còn sống lại sau Anh phải phấn đấu thay anh để đánh đổ cường quyền mà cứu đồng bào đau khổ. Cùng với bức thư thứ hai này có bài THƠ TUYỆT BÚT: Thân không giúp ích cho đời, Thù không trả được cho người tình chung. Dẫu rằng đương độ trẻ trung, Quyết vì dân chúng thề lòng hy sinh. Con đường tiến bộ mông mênh, Éo le hoàn cảnh buộc mình, biết sao. Bây giờ hết kiếp thơ đào, Gian nan bỏ mặc đồng bào từ đây. Dẫu rằng chút phận thơ ngây, Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên. Chết đi, dạ những buồn phiền, Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình. Quốc kỳ phấp phới trên thành, Tủi thân không được chết vinh dưới cờ. 163
- Toan Ánh Cực lòng lỡ bước sa cơ, Chết sầu, chết thảm, có thừa xót xa. Thế ru? Đời thế ru mà? Đời mà ai biết người mà ai hay. Cô Giang chết theo Nguyễn Thái Học. Những người có tâm huyết thời ấy được tin này đều xót xa. Hai người đã chết cùng một ngày, chết vì non sông, vì đất nước. Cụ Phan Bội Châu có làm bài văn tế: Than rằng: Sóng nhân đạo ở hai mươi thế kỷ, bạn má hồng toan cướp gái làm trai, Cương nữ hùng trên một góc trời Nam, bọn da trắng phải ghê dòng giống Việt. Trên Quốc sử mực chàm giấy phấn, ong cả đoàn nhan nhản bầy nô, Dưới Long thành máu thắm cỏ xanh, gái đến thế rành rành chữ liệt. Trăng thu mờ mịt, trong những buồn tanh. Người ngọc xa vời, nghĩ càng đau tuyệt. Nhớ nữ liệt xưa: Đất nhà tinh hoa, Trời treo băng tuyết. Vóc quần thoa những chí khí tu mi, Thân khuê các mà can trường khí tiết. Thuở bé nhờ ơn gia giáo, Hán học vừa thông, Tuổi xanh vào quốc học trường, Pháp văn cũng biết. Tang hải gặp khi xoay cuộc, ngó giang sơn luống những lòng đau: Trần ai tức tối không người, thấy nô lệ dương đôi tròng ngút. Xem sách Pháp từng đem óc nghĩ: Dan Đá, La Lan thuở nọ, chị em mình há dễ ai hơn; 164
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Giở sử nhà bỗng vỗ tay reo: Bà Trưng, Cô Triệu sau này, non nước ấy có đâu hồn chết. Triều Cách Mạng đang lên sùng sục, cát Vệ Tinh ngậm đầy trước miệng, mong thấy bể vùi; Vai quốc dân gánh nặng trĩu trìu, đá Oa Hùng dấp sẵn trong tay, nỡ xem trời khuyết. Tức tối cường quyền. Thi gan sấm sét. Khi nhập đảng tuổi vừa đôi tám, cô nữ binh đăng đối tiên phong; Lúc tuyên truyền sách động ba quân, lưỡi biện sĩ trổ tài du thuyết. Thổi gió phun mây từng mấy trận, nào Lâm Thao, nào Yên Bái, nữ tham mưu đưa đẩy đội hùng binh; Vào sinh ra tử biết bao phen, kia thành huyện, kia đồn binh, cờ nương tử xông pha hùm rắn rết. Nguyễn Thái Học trổ tài kiện tướng, nhờ có cô mà lông cánh thêm dài: Phạm Thị Hào nổi tiếng trung trinh, em có chị mà xứng danh nữ kiệt. Khốn nỗi thay: Vận nước còn truân, Tai trời chửa hết. Trắc trở buồm xuôi gió ngược, tài anh thư gặp bước gian truân; Ngại ngùng nước biếc non xanh, tay Chức Nữ uổng công thêu dệt. Nhưng hãy còn: Thiết thạch tâm can, Chân toàn bách chiết. 165
- Toan Ánh Trời như thế, việc đành phải thế, đoạn đầu đài mừng thấy anh lên: Sống là còn, thác cũng là còn, súng kề cổ không nhường cho giặc giết. Tiếng súng lúc vang lên một phút, núi đổ sông nhào. Hồn anh như hẹn phút trùng lai, thần gào quỷ thét. Ôi thương ôi! Khóc nữa mà chi, Nói không kể xiết. Một nén hương lòng, Mấy lời thống thiết, Bọn nữ lưu ai nối gót theo chân? Nghĩa đoàn thể xin từ đây cố kết. Hỡi ơi! Thương thay. 166
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông CÔ ĐỖ THỊ TÂM, MỘT NỮ CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG ĐÃ TỰ SÁT MỘT CÁCH GHÊ GỚM Năm 1930, phong trào cách mạng chống Pháp đang sôi nổi tràn lan suốt từ Nam ra Bắc, và ở đâu Pháp cũng thẳng tay đàn áp, mong lấy cường quyền và thủ đoạn tàn ác để dẹp lòng yêu nước của dân Nam. Nào chém giết, nào tù đầy, nhưng trước mọi sự tàn bạo của Pháp, lòng người Việt Nam như càng bùng cháy thêm lửa rực. Càng bắt bớ dữ dội, càng tra xét hung tàn, người Việt càng không sờn lòng trước mọi hành động quyết liệt của người Pháp. Sau những vụ Yên Bái, Cổ Am, Phụ Dực, Hưng Hóa, còn biết bao nhiêu vụ trỗi dậy khác, khiến cho người Pháp luôn luôn như ngồi trên đống lửa. Trong số các người chống Pháp, trai có, gái có, già có, trẻ có, người Pháp càng muốn trị thì mầm mống lại như càng muốn mọc thêm lên. Một buổi sáng mùa hạ năm đó, tại con đường Hậu Giám, có một thiếu nữ Việt Nam trẻ đẹp đang rải truyền đơn thì bị mật thám của Pháp tới bắt. Khi bị bắt cô còn giữ một gói truyền đơn trong người. 167
- Toan Ánh Thiếu nữ đó là cô Đỗ Thị Tâm tức Chuyên, quán làng Thịnh Hào, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, con một gia đình cách mệnh Nho giáo. Cha là ông Đỗ Văn Viêm, đã từng theo chân các nhà cách mệnh Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ sang Tàu, rồi sau lại trở về hoạt động ở nước nhà, đã bị Pháp bắt và xử trảm ở Lạng Sơn. Ông Viêm có bốn con, hai gái là bà Thành và cô Tâm, hai trai là các ông Xương và Bàng. Sau khi ông Viêm chết được ít lâu, bà Viêm cũng vì buồn phiền quy tiên. Cô Tâm, từ lúc mẹ chết, phải lo gánh vác việc nhà, nhưng lòng cô luôn luôn nghĩ tới thù nước thù nhà. Cô Tâm căm giận lũ Pháp đã hành hạ người Việt Nam, đã giết cha cô, làm cho mẹ cô phải chết sớm. Cô tham gia cách mệnh để có thể rửa hận một phần nào. Cô đã giúp cho phong trào cách mệnh hồi đó được rất nhiều việc, cho nên cô vẫn bị theo dõi. Khi cô bị bắt, bọn mật thám đã dùng đủ mọi cực hình để tra tấn cô, nhưng cô cắn răng chịu mọi sự đau đớn mà không khai ra một điều gì. Thấy không khai thác được gì ở cô, bọn Pháp sau ít ngày giam cô ở sở mật thám, liền cho giải sang giam ở khám lớn Hà Nội. Cô bị giam riêng ở xà lim và bị xiềng xích như một trọng phạm. Cô chỉ được một bộ quần áo lót mình với chiếc yếm có đôi giải yếm. Bị giam trong xà lim, cô tự nghĩ, nếu sống để bọn chúng tra khảo, e có khi vì quá yếu ớt mà khai ra điều gì có lợi cho giặc và có hại cho công cuộc cách mệnh của các đồng chí, hơn nữa nếu cô không chịu khai, e có thể bị chúng làm nhục và xâm phạm tới tiết hạnh của mình, sao cho bằng thác đi mà giữ tròn nghĩa lớn với cách mệnh. Cô tìm cái chết, nhưng giam trong xà lim, chết bằng cách nào? Sau khi suy nghĩ, cô liền xé yếm và giải yếm của mình, tống vào họng nuốt để tự tử. 168
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Cô đã chết được như ý muốn. Bọn Pháp không khai thác được gì ở cô, và các nhà cầm quyền Pháp càng thêm sợ nghĩa khí của người Việt Nam. Cô Đỗ Thị Tâm đã chết vì nghĩa. Ngày nay nhắc tới cô ở đây, chúng tôi không ngoài ý muốn nêu cao một tấm gương đẹp đẽ của phụ nữ. Ngoài cô Tâm còn biết bao nhiêu phụ nữ khác hữu danh và vô danh cũng đã hy sinh cho chính nghĩa. 169
- Toan Ánh NGỌN LỬA TỰ THIÊU Ở trên tôi đã nhắc tới mấy tín đồ đạo Gia Tô chịu chết vì đạo để giữ Nghĩa với Chúa. Để khép lại phần này, tôi xin thuật sơ qua về vụ mấy tu sĩ Phật giáo đã tự thiêu để bảo toàn Phật pháp; các vị đó đã tìm cái chết để tranh đấu cho chính nghĩa của đạo Phật. Chuyện mới xảy ra gần đây không lâu, có lẽ nhiều người cho là còn quá mới để ghi vào tập sách này. Sự kiện xảy ra năm 1963 dưới thời Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm là người theo đạo Gia Tô, có anh là Giám mục Ngô Đình Thục. Có em làm Tổng thống Việt Nam, Giám mục Thục nuôi mộng lên chức Hồng y tại Việt Nam, và muốn như vậy, giám mục Thục phải làm sao để đạo Gia Tô vượt trên các đạo khác về nhân số tín đồ cũng như về tổ chức cơ sở. Nhưng Việt Nam lại là quốc gia đa số dân chúng theo Phật giáo. Phải diệt Phật giáo để Gia Tô giáo vượt lên. Giám mục Thục đã âm mưu với các em là Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, cùng bọn tay sai, phần nhiều là côn đồ táng tận lương tâm mới theo đạo, đang cần lập công, để diệt Phật giáo trước rồi lần lượt đến các tôn giáo 170
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông khác, ngõ hầu biến quốc gia Việt Nam thành một quốc gia hoàn toàn theo Gia Tô giáo. Như vậy chức Hồng y sẽ rơi chắc vào tay Giám mục Thục. Vừa nhân ngày lễ Phật Đản 2507 tới. Phật tử treo cờ Phật giáo, Ngô Đình Diệm đã ra lệnh triệt hạ Phật kỳ trên toàn lãnh thổ miền Nam, nhất là tại Huế, nơi đây cờ treo nhan nhản và san sát như rừng. Cùng với việc triệt hạ Phật kỳ tại Huế, Ngô Đình Cẩn đã cấm không cho phát thanh chương trình buổi lễ Phật Đản như thường lệ. Dân chúng, như những năm qua, kéo nhau tới trước đài phát thanh để nghe chương trình này đều ngạc nhiên khi chỉ được nghe những bản nhạc không dính dáng gì đến lễ Phật Đản. “Các Phật giáo đồ ở nhà không được nghe, cũng đến đài phát thanh để tìm hiểu nguyên do. Lúc đó là 20 giờ 05, Phật giáo đồ càng lúc đến càng đông, ước lượng độ 10.000 người. Trong khi đó, Quân vụ Thị trấn cho lệnh cấm trại 100%; Thiếu tá Đặng Sỹ một tín đồ Gia Tô giáo đã lập nhiều công trạng với họ Ngô, Phó Tỉnh Trưởng Nội An và Tiểu khu Thừa Thiên, huy động lực lượng thiết giáp Bảo An cùng đại bác và xe cứu hỏa của Cảnh sát thành phố Huế, Quân cảnh và Hiến binh bao vây đám đông mà họ gọi là đám biểu tình(1).” Sau đó, theo lệnh của Đặng Sỹ, súng và lựu đạn đã nổ, xe thiết giáp đã lăn xả vào đám đông. Kết cuộc: “Bốn người bị thương và tám người bị giết bằng súng, lựu đạn và xe thiết giáp cán. Trong số tám người chết có sáu thanh thiếu nhi, hai em bị cán mất nửa đầu, một em bị cán mất đầu, xương sọ bị vụn tan, không ai nhìn được mặt, và một em bị mất hẳn đầu. 1 Tuệ Giác - “Việt Nam Phật giáo tranh đấu sử” - Nhà xuất bản Hoa Nghiêm, Sài Gòn, Phật lịch 2.508, trang 83-84. 171
- Toan Ánh Đau đớn thay! Không có biểu tình và không có bạo động mà tám tín đồ Phật giáo bị bỏ mình vì một chính sách bất công gian ác. Đau đớn thay cho nhân dân Việt Nam! Đã thế, Chính quyền còn âm mưu vận động quần chúng vu khống Phật giáo đồ bị Việt Cộng mua chuộc, để lấy cớ tiếp tục đàn áp và bắt bớ ”(1) Trước tình trạng đó, trước sự quyết tâm đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm mong thực hiện cái mộng Hồng y của Giám mục Thục, các giới Phật giáo, Tăng ni cũng như Phật tử, bị dồn vào thế buộc phải đứng lên tranh đấu và đưa ra năm nguyện vọng chính đáng đòi chính quyền thỏa mãn: 1- Yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt hạ giáo kỳ của Phật giáo. 2- Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các Hội truyền giáo Thiên chúa đã được ghi trong đạo dụ số 10. 3- Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo. 4- Yêu cầu cho tăng ni Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo. 5- Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng những kẻ vô tội bị chết oan; và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng. Năm nguyện vọng trên, xét ra không có chi là quá đáng; và đó chỉ là những điều tối thiểu cần thiết cho bất cứ tôn giáo nào ở một nước khả dĩ gọi là dân chủ tự do. Vậy mà anh em Giám mục Thục đã không chấp nhận và với tham vọng chức 1 Tuệ Giác - Tài liệu đã dẫn. 172
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Hồng y của La Mã, anh em họ Ngô đã tiếp tục triệt hạ Phật giáo bằng cách sát hại tín đồ và tu sĩ, bắt bớ giam cầm, và đã xảy ra nhiều trường hợp chôn sống các sư sãi một cách hết sức dã man. Họ khủng bố Phật tử, đốt phá chùa chiền, tuyệt đường lương thực của các tu sĩ và tín đồ ở các chùa. Tội ác của họ cao như núi, rộng như biển. Trước tình trạng ấy, trước thái độ ngoan cố của anh em Giám mục Thục, ngày 11-6-1963 vào “lúc 10 giờ sáng, Thượng tọa Thích Quảng Đức đã phát nguyện thiêu thân tại ngã tư Lê Văn Duyệt, Phan Đình Phùng, với nguyện vọng đòi hỏi Chính quyền Diệm hãy chấm dứt tình trạng đàn áp Phật giáo đồ, đòi hỏi việc giải tỏa các chùa Từ Đàm, Linh Quang, Diệu Đế v.v và các chùa ở Đô Thành Sài Gòn, giải quyết gấp rút năm nguyện vọng của Phật giáo Việt Nam”(1). Ngọn lửa tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng Đức đã được loan truyền nhanh chóng, không riêng chỉ ở trong nước, còn bay xa tới khắp các nước trên thế giới. Sự hy sinh của Bồ Tát đã gây xúc động cho toàn thể đồng bào, trong số đó có cả các đồng bào Thiên Chúa giáo chân chính, vì vẫn còn một số mới a dua theo đạo lập công. Chúng chỉ biết nịnh nọt anh em họ Ngô để lấy lòng. Lại cũng có các tu sĩ Thiên Chúa lên tiếng chỉ trách chính quyền họ Ngô về vụ đàn áp Phật giáo này, trong số đó có linh mục M.G. Lê Quang Oánh đã gửi một bức Huyết lệ thư cho Phật giáo, dưới đây là một đoạn trích trong thư ấy: “Xin nghiêng mình mặc niệm các linh hồn tử sĩ, chia buồn với gia đình họ và an ủi các nạn nhân trong cuộc đổ máu này. Chúng tôi lên án TỘI BẤT CÔNG đã giết hại đồng bào vô tội. Thật là tàn bạo, dã man, phản dân chủ, phản tự do, 1 Tuệ Giác - Tài liệu đã dẫn. 173
- Toan Ánh phản đạo đức, làm nhục cho quốc thể Việt Nam, một nước văn hiến trên bốn ngàn năm lịch sử”(1). Sau cái chết của Bồ tát Thích Quảng Đức, ngày 24-7-1963, nhiều vị linh mục và thanh niên Thiên Chúa giáo đã gửi thư lên đức Khâm sứ Tòa Thánh Vatican ở Sài Gòn. Đức Giáo hoàng Phao Lồ Đệ Lục vạch trần những hành vi tàn ác, vô nhân đạo trong cuộc đàn áp Phật giáo đồ Việt Nam, và cầu xin Đức Giáo hoàng dùng uy quyền tối cao can thiệp với anh em Ngô Đình Diệm để sớm chấm dứt tình trạng bi thảm này ở Việt Nam. Mặc dầu ngọn lửa thiêng đã ngùn ngụt bốc lên, mặc dầu sự lên tiếng của các giới trong và ngoài nước, Giám mục Thục và các em hắn vẫn tiếp tục chính sách đàn áp Phật giáo để mong đoạt cho được địa vị Hồng y La Mã ở Việt Nam. Sự ngoan cố của bọn họ đã khiến thêm sáu vị tu sĩ khác lần lượt tự thiêu để tranh đấu cho chính nghĩa của đạo pháp: - Ngày 4-8-63, Đại đức Thích Minh Hương tự thiêu tại Bình Thuận. - Ngày 13-8-63, Đại đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu tại chùa Phước Duyên, Huế. - Ngày 15-8-63, Ni cô Diệu Quang tự thiêu ở Ninh Hòa, Nha Trang. - Ngày 16-10-63, Đại đức Thích Tiêu Diêu tự thiêu tại chùa Từ Đàm, Huế. - Ngày 5-10-63, Đại đức Thích Quảng Hương tự thiêu trước chợ Bến Thành. Bảy vị nam nữ tu sĩ tự thiêu để bảo vệ Phật pháp đã nói lên lòng khát vọng tự do tín ngưỡng của toàn dân Việt Nam 1 Theo Tuệ Giác trong tài liệu đã dẫn, trang 160. 174
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông và đã tố cáo hành động khát máu và điên cuồng của anh em Giám mục Thục. Bảy ngọn lửa thiêng đã làm sôi sục lòng căm uất của nhân dân Việt Nam đối với chính quyền họ Ngô chủ trương theo đường lối kỳ thị tôn giáo. Họ đã đi dần tới con đường tự sát. Phật giáo đồ luôn luôn ghi ơn các tu sĩ vì nghĩa quên mình, tự thiêu để ngọn cờ Phật giáo được tự do phấp phới trên đất nước Việt Nam. 175
- Toan Ánh NHỮNG CHUYỆN TRỌNG NGHĨA TRUNG HOA VÌ NƯỚC GIẾT CON Vua Trang Công nước Vệ qua đời, con là công tử Hoàn lên nối ngôi tức là Vệ Hoàn Công. Hoàn Công có người em khác mẹ là Chu Hu tính khí hung tợn chỉ nhắm muốn chiếm ngôi của anh. Hoàn Công nhu nhược, triều thần lại không có người tài giỏi, Chu Hu chẳng sợ hãi ai, lúc nào cũng bàn với Thạch Hậu, con quan đại phu Thạch Thác đã cáo lão về việc cướp ngôi. Chẳng bao lâu, trong một tiệc rượu, Chu Hu đâm chết Vệ Hoàn Công, rồi loan tin Hoàn Công ngộ cảm mà chết. Vệ Hoàn Công chết, em ruột là công tử Tấn phải trốn sang nước Hình lánh nạn. Chu Hu tự lên nối ngôi vua, phong Thạch Hậu làm Thượng đại phu. Việc Chu Hu giết anh, người nước Vệ ai cũng biết và đều lấy làm oán giận. Chu Hu lo sợ lắm, bàn cách với Thạch Hậu, muốn ra oai với nước láng giềng để cho dân trong nước phải sợ. Thạch Hậu khuyên Chu Hu nên kéo quân đánh nước Trịnh, Chu Hu nghe theo và đã thắng quân Trịnh một trận. Sau trận thắng, Chu Hu kéo quân về nước, nhưng người trong nước vẫn tỏ ý không phục. 176
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Lại nói về Thạch Thác, vị lão thần của nước Vệ, bố Thạch Hậu, từ khi Chu Hu giết vua tiếm ngôi, trong lòng vẫn lo lắng nghĩ kế để trừ kẻ loạn thần. Chu Hu thấy lòng dân không phục, bàn cùng Thạch Hậu. Thạch Hậu nói: - Phụ thân tôi là Thạch Thác, khi trước làm quan Thượng Khanh, người trong nước ai cũng tin phục, nếu chúa công triệu vào để cùng coi việc nước, dân chúng sẽ phục. Chu Hu sai người mang lễ vật tới tặng và triệu Thạch Thác vào triều. Thạch Thác không nhận lễ vật, cáo ốm nặng không đi. Chu Hu hỏi lại Thạch Hậu và có ý muốn đến tận nhà gặp Thạch Thác. Thạch Hậu bảo: - Chúa công đến vị tất cha tôi đã chịu tiếp kiến, xin để tôi phụng mệnh chúa công về hỏi trước xem sao. Thạch Hậu về nhà nói với Thạch Thác lòng kính mến của Chu Hu. Thạch Thác hỏi con: - Chúa công triệu ta vào chầu có việc gì? Thạch Hậu đáp: - Nay chúa công mới lên ngôi, lòng dân chưa phục, muốn nhờ phụ thân chỉ bảo cho một kế. Thạch Thác nói: - Chư hầu lên ngôi, phải có mệnh vua nhà Chu mới là chính đáng. Chúa công nên vào chầu vua nhà Chu, nếu được vua nhà Chu phong cho, người trong nước ai còn dám không phục. Thạch Hậu nói: - Lời phụ thân dạy rất phải, nhưng nay tự nhiên vào triều, tất vua nhà Chu sinh lòng nghi, con nghĩ cần phải có một người nói trước với vua nhà Chu. Thạch Thác bảo: - Việc đó có khó gì. Trần Hoàn Công là người trung 177
- Toan Ánh thành với vua nhà Chu, rất được vua nhà Chu yêu mến. Nước ta với nước Trần vốn giao hiếu với nhau, chúa công nên sang qua nước Trần, nhờ Trần Hoàn Công nói trước với vua nhà Chu, rồi sẽ vào triều, lo gì vua nhà Chu chẳng chịu phong cho. Thạch Hậu đem lời cha nói lại với Chu Hu. Chu Hu lấy làm phải, sắm sửa lễ vật cùng Thạch Hậu sang Trần. Được tin chúa tôi Chu Hu sửa soạn sang Trần, Thạch Thác trích máu đầu ngón tay viết một bức mật thư gửi quan đại phu nước Trần là Tử Hàm nhờ đệ trình lên vua Trần. Thạch Thác và Tử Hàm là đôi bạn thân. Bức huyết thư như sau: “Thạch Thác cúi đầu trăm lạy có mấy lời kính dâng Trần Hiền Hầu. Nước Vệ tôi nhỏ mọn, không ngờ trời lại ra tai, sinh ra cái vạ giết vua. Đó dẫu là cái tội của Chu Hu, nhưng thật tại thằng con hư của tôi là Thạch Hậu, nó tham lợi mà đem lòng xui giục. Nếu mà hai kẻ loạn tặc kia không giết được, thiên hạ tất lắm đứa bắt chước cái gương xấu ấy làm càn, tôi đây tuổi già mình yếu, không thể trừng trị nổi, thật đắc tội với tiên công lắm. Bây giờ hai kẻ loạn tặc ấy dắt nhau sang quý quốc là bởi cái mưu của tôi bày ra. Xin chúa công bắt mà trị tội để làm gương cho những kẻ thần tử mai sau, thật là một việc may cho cả thiên hạ, chẳng những may riêng cho nước tôi mà thôi”(1). Trần Hoàn Công xem xong bức thư hỏi ý kiến Tử Hàm, Tử Hàm tâu: 1 Theo Nguyễn Đỗ Mục, “Đông Chu liệt quốc”, Hà Nội, nhà in Trung Bắc Tân Văn, 1930. 178
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông - Đứa loạn tặc của nước Vệ tức là đứa loạn tặc của nước Trần. Bây giờ chúng nó dắt nhau đến nước ta là chúng nó tự đem thân đến chỗ chết. Ta không thể dung túng được. Trần Hoàn Công khen phải, lập sẵn kế để bắt Chu Hu và Thạch Hậu. Khi chúa tôi Chu Hu tới, nước Trần phục quân giáp sĩ bắt trói lại. Tử Hàm đem bức thư của Thạch Thác tuyên đọc một lượt. Mọi người bấy giờ mới biết mưu của Thạch Thác mượn tay nước Trần để trừ nghịch tặc. Trần Hoàn Công toan đem Chu Hu và Thạch Hậu ra chém. Các quan bàn nên báo tin cho Thạch Thác để người nước Vệ sang nghị tội. Hoàn Công cho là phải, bèn một mặt báo tin cho nước Vệ, một mặt đem giam riêng Chu Hu và Thạch Hậu ở hai nơi khiến cho hai kẻ không thể liên lạc được với nhau, Chu Hu giam ở Bộc Ấp, Thạch Hậu giam ở Trần Đô. Nhận được thư của Trần Hoàn Công, Thạch Thác vào triều họp các quan lại, mở thư ra đọc. Các quan đều nói rằng: - Đây là việc lớn của nước nhà, xin lão quan chủ trương cho mới được. Thạch Thác nói: - Hai đứa loạn tặc ấy không thể dung tha, tất phải đem chính pháp, nào ai là người đảm đương công việc ấy? Quan Hữu Tế Xú nhận đi giết Chu Hu. Các quan lại nói: - Kẻ thủ ác là Chu Hu bị giết, còn Thạch Hậu là kẻ tòng nghịch cũng nên cho nhẹ tội một chút. Thạch Thác nổi giận nói: - Tội ác của Chu Hu đều là do thằng Thạch Hậu xúi giục cả, các quan định cho nó nhẹ tội, chẳng hóa ra nghi ta có bụng tư với con ta hay sao. Âu là để lão thân hành đi giết 179
- Toan Ánh thằng loạn tặc ấy, nếu không thì còn mặt mũi nào ta trông thấy nhà miếu của tiền nhân nữa. Gia nhân Nhu Dương Kiên thấy Thạch Thác nói vậy, liền xin đi giết Thạch Hậu. Thạch Thác sai Hữu Tế Xú đi Bộc Ấp để chém Chu Hu, Nhu Dương Kiên sang Trần Đô để chém Thạch Hậu, rồi sắp sửa xe giá đi đón công tử Tấn ở nước Hình về làm vua. Hữu Tế Xú và Nhu Dương Kiên sang nước Trần, vào yết kiến Trần Hoàn Công tạ ơn trừ hộ loạn đảng. Sau đó, Hữu Tế Xú đến Bộc Ấp đem Chu Hu ra chém. Chu Hu bảo Hữu Tế Xú: - Mày làm bề tôi, sao mày dám giết ta? Hữu Tế Xú bảo: - Nước Vệ ta ngày trước có người làm bề tôi mà dám giết vua, vậy nên ngày nay bắt chước. Chu Hu nín thinh chịu chết. Nhu Dương Kiên đến Trần Đô đem Thạch Hậu ra chém, Thạch Hậu bảo: - Chết thì ta cũng đành phận, nhưng hãy giải ta về để ta thấy mặt cha ta, rồi sẽ chém. Nhu Dương Kiên nói: - Ta phụng mệnh cha ngươi đến đây để chém ngươi. Nếu nhà ngươi muốn gặp mặt cha, ta đem đầu ngươi về để cha ngươi trông thấy. Nói xong, Dương Kiên tuốt gươm chém Thạch Hậu. Người sau, nhắc đến chuyện Thạch Thác giết con, ai cũng ngợi khen. Ông đã giữ nghĩa với đất nước không dung túng con làm điều càn bậy. 180
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông KHUYÊN VUA THỜ MẸ Chuyện nước Trịnh. Vua Trịnh Vũ Công lấy con gái vua nước Thân là nàng Khương Thị, sinh hạ hai người con trai: con lớn đặt tên là Ngộ Sinh, con thứ hai đặt tên là Đoạn. Bà Khương Thị lúc lâm bồn Ngộ Sinh, đẻ ngang bị đau đớn rất nhiều, nên đặt tên con như vậy. Bà ghét Ngộ Sinh lắm và bà chỉ yêu Đoạn. Đoạn người trông phương phi, lại thêm võ nghệ giỏi giang, cung kiếm thông thạo. Ý bà Khương Thị muốn bỏ Ngộ Sinh để lập Đoạn làm thế tử, mai sau nối giữ ngôi nước Trịnh. Nhiều lần bà bàn cùng vua Vũ Công việc đó, đều bị vua Vũ Công gạt đi nói rằng: - Anh em phải có thứ tự, không thể lộn bậy được. Ngộ Sinh không có tội lỗi gì, ta không thể bỏ trưởng lập thứ để gây mầm loạn về sau cho giang sơn. Ngộ Sinh được lập làm thế tử. Đoạn được phong ở đất Cung. Người thời bấy giờ gọi là Cung Thúc Đoạn. Khương Thị dẫu không bằng lòng, nhưng trước sự cả quyết của vua Vũ Công, bà đành phải chịu. Từ đấy, bà càng ghét Ngộ Sinh hơn. 181
- Toan Ánh Ít lâu sau, Trịnh Vũ Công tạ thế. Thế tử Ngộ Sinh lên nối ngôi lấy hiệu là Trang Công. Khương Thị thấy Cung Thúc Đoạn vô quyền, trong lòng áy náy không yên, mới bảo Trịnh Trang Công rằng: - Con nối ngôi cha làm chúa cả nước Trịnh, rộng kể hàng mấy trăm dặm, thế mà em con ở chỗ đất Cung nhỏ mọn không đủ dung thân, con nên nghĩ tới. Trịnh Trang Công liền thưa: - Vậy ý thân mẫu muốn thế nào? Khương Thị bảo: - Con nên đem đất Chế Ấp mà phong cho em để cho nó đủ sinh sống. Trịnh Trang Công đáp lời mẹ: - Thưa mẫu thân, Chế Ấp là một nơi hiểm yếu, xưa kia Tiên vương đã di mệnh không được đem phong cho ai, vậy con không dám tuân lệnh mẫu thân. Ngoài Chế Ấp ra, mẫu thân muốn cho em con chỗ nào con đều xin lĩnh mệnh. Khương Thị nói: - Thế thì con phong cho nó đất Kinh Thành. Kinh Thành là một Ấp lớn, đất rộng người nhiều. Khương Thị muốn cho Cung Thúc Đoạn nơi này là có hậu ý để Cung Thúc Đoạn sau này nhờ đất đó gây nghiệp lớn. Trịnh Trang Công nghe mẹ nói, nín lặng không đáp. Khương Thị liền nổi giận bảo: - Anh em sao con chẳng thương nhau. Thế thì con cứ đuổi Cung Thúc Đoạn ra khỏi nước Trịnh, mặc nó muốn làm gì mà sống thì làm. Thấy mẹ giận, Trang Công thưa: - Thưa mẫu thân, có đâu con lại dám thế. Ngày hôm sau, đành cho triệu Cung Thúc Đoạn đến để phong cho đất Kinh Thành. Quan đại phu là Sái Túc can thì Trang Công nói: 182
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông - Mẫu thân ta muốn như vậy, ta đâu dám trái ý. Cung Thúc Đoạn được phong lạy tạ trở ra, rồi vào cung cáo từ Khương Thị. Khương Thị đuổi hết cung nhân đi và bảo kín Cung Thúc Đoạn: - Anh mày chẳng nghĩ gì đến tình máu mủ, đãi mày rất bạc, nay phong cho mày đất Kinh Thành chỉ là vì ta đôi ba phen nài ép cầu khẩn, nhưng xem ý trong bụng vẫn là miễn cưỡng. Mày đến đất Kinh Thành nên luyện tập quân mã để chờ cơ hội chiếm lấy nước Trịnh. Mày chiếm được ngôi của Ngộ Sinh lòng ta mới hả. Cung Thúc Đoạn vâng mệnh, ra ở đất Kinh Thành. Ở đất Kinh Thành, Cung Thúc Đoạn ngày nào cũng giả cách săn bắn để luyện tập trận, tìm kế lấy nước Trịnh. Cung Thúc Đoạn lại chiếm lấy hai ấp ở gần đấy. Các quan ấp tể phải bỏ trốn về tâu cùng Trang Công. Trang Công chỉ cười nhạt không nói gì. Quan Thượng khanh nước Trịnh bấy giờ là công tử Lã thấy vậy liền tâu rằng: - Tội Cung Thúc Đoạn thật đáng chết. Xin chúa công phải lưu ý. Trịnh Trang Công hỏi thì công tử Lã tâu: - Đoạn, trong thì cậy có quốc mẫu yêu dấu, ngoài thì cậy có đất Kinh Thành hiểm yếu, đêm ngày luyện tập quân mã, tất là có ý khác. Nay lại chiếm ấp lân cận để khoa trương thanh thế. Xin chúa công cho tôi đem quân ra đất Kinh Thành bắt Cung Thúc Đoạn đem về đây cho khỏi di lụy về sau. Trịnh Trang Công bảo: - Tội ác của Cung Thúc Đoạn chưa có gì là chứng cớ, ta không thể đem quân hỏi tội được. Công tử Lã tâu: - Nay Đoạn chiếm lấy hai ấp, thế là đủ chứng cớ rồi. Trang Công vừa cười vừa bảo Công tử Lã: 183
- Toan Ánh - Đoạn là con cưng của mẫu thân ta, lại là em yêu dấu của ta, chẳng thà ta bỏ hai ấp, thiệt đi chút ít bờ cõi còn hơn để hại tình anh em, lại làm cho mẫu thân ta thất ý buồn rầu. Công tử Lã lại tâu: - Chúa công nghĩ thế không được. Có đâu là chuyện chỉ mất bờ cõi mà thôi. Rồi ra còn mất nước nữa. Cung Thúc Đoạn ngày một cường thịnh, dân tình sợ hãi, tất sinh hai lòng. Bây giờ chúa công bao dung cho Đoạn, tôi e rằng ngày khác Đoạn sẽ không bao dung chúa công đâu. Trịnh Trang Công lại gạt đi bảo: - Thôi nhà ngươi không được nhắc đến chuyện ấy nữa. Công tử Lã không dám nói gì hơn. Ra ngoài, gặp Sái Túc, công tử Lã liền phàn nàn: - Chúa công ta quyến luyến tình riêng quá, ta e rồi việc nước sẽ bị lỡ. Sái Túc đáp: - Chúa công ta là người sáng suốt, có đâu lại không nghĩ tới điều ấy. Ta chắc rằng ở chỗ đông người, nên chúa công làm ra như vậy. Nhà người thử vào hầu riêng mà hỏi chuyện, chắc chúa công sẽ cho biết định kiến của mình. Công tử Lã nghe lời, vào yết kiến Trịnh Trang Công. Trang Công hỏi: “Nhà ngươi vào yết kiến có việc gì?” Công tử Lã tâu: - Quốc mẫu vẫn có ý không muốn cho chúa công nối ngôi. Nếu vạn nhất trong ngoài hợp mưu với nhau, tôi e chúa công không giữ nổi nước Thịnh. Tôi ngày đêm lo lắng về chuyện này, vậy bất đắc dĩ vào tâu chúa công, xin chúa công xét kỹ cho, kẻo mai ngày việc lớn xảy ra rồi dù có ân hận cũng không kịp. Trang Công bảo: - Việc này can ngại đến mẫu thân ta, nên ta đã nghĩ kỹ lắm rồi. Đoạn dẫu vô đạo, nhưng tội phản nghịch chưa rõ, nếu ta 184
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông đem quân đi đánh, quốc mẫu tất tìm phương ngăn trở. Hơn nữa người ngoài không biết cho ta là bất hữu đối với em và bất hiếu đối với mẹ. Bởi vậy ta phải mặc kệ hắn làm càn, nếu hắn làm quá, ta sẽ kể rõ tội trạng, đem quân đi đánh thì người trong nước không ai có lòng giúp hắn và Quốc mẫu cũng không trách được ta nữa. Công tử Lã lại tâu: - Chúa công nghĩ vậy rất là cao kiến, nhưng tôi sợ thế lực của Đoạn một ngày một lớn, lan ra như cỏ thì cắt không hết được. Chi bằng chúa công nên lập kế, để xem nếu quả là Đoạn có ý khác thì hắn nổi loạn đi, chúa công sẽ nhân tội đó đem quân đi đánh để trừng trị hắn. Trang Công hỏi kế thì công tử Lã thưa: - Lâu nay chúa công không vào triều yết kiến thiên tử nhà Chu(1) chắc cũng vì việc của Đoạn. Bây giờ chúa công giả cách vào triều yết kiến thiên tử, Đoạn thấy chúa công đi vắng tất đem quân đánh Trịnh. Tôi xin đem một đám quân đến phục sẵn ở gần đất Kinh Thành. Nếu Đoạn kéo quân đi, tôi lẻn chiếm lấy Kinh Thành, rồi chúa công cũng đem quân do đường tắt kéo tới, hai bên đánh ập lại thì Cung Thúc Đoạn dẫu có mọc cánh cũng không bay thoát được. Trịnh Trang Công khen mưu của công tử Lã là hay, nhưng dặn công tử Lã không được nói hở cho một ai rõ. Công tử Lã cáo từ lui ra, khen Sái Túc là cao kiến. Ngay hôm sau, Trang Công ra triều giả cách truyền lệnh giao quốc chính cho Sái Túc để vào triều kiến thiên tử. Được tin Trang Công vào triều kiến thiên tử, Khương Thị mừng lắm, chắc chắn phen này Cung Thúc Đoạn cướp được nước Trịnh. 1 Thời Xuân Thu, các vua chư hầu phải triều Thiên tử. 185
- Toan Ánh Khương Thị viết một tờ mật thư sai người tâm phúc đem đến Kinh Thành, ước với Cung Thúc Đoạn đem quân đánh Trịnh. Người mang thư nửa đường bị công tử Lã cho người đón bắt giết đi, rồi đệ trình tờ mật thư tới Trịnh Trang Công. Trang Công mở xem xong, lại niêm phong như cũ, cho người giả làm người tâm phúc của Khương Thị mang tới cho Cung Thúc Đoạn để lấy thư trả lời. Trong thư trả lời, Đoạn hẹn ngày mồng 5 tháng 5 thì khởi sự. Trang Công bắt được thư nói: - Tờ cung chiêu của Đoạn đây rồi, hẳn quốc mẫu không còn che chở được nữa. Bấy giờ, Trang Công mới vào từ yết Khương Thị, nói là đi triều kiến thiên tử, nhưng kỳ thực đã đem quân theo đường tắt tiến tới Kinh Thành. Công tử Lã cũng đã đem quân đi phục trước ở gần Kinh Thành. Cung Thúc Đoạn từ khi tiếp được mật thư của mẹ, cùng với con là công tử Hoạt thương nghị, rồi sai Hoạt sang mượn quân nước Vệ, còn tự mình đem quân kéo về Trịnh, nói phao lên là phụng mệnh Trịnh Trang Công về coi quốc chính. Công tử Lã, sau khi Cung Thúc Đoạn đi rồi, sai quân lẻn vào Kinh Thành làm nội ứng mở cửa cho Lã vào chiếm lấy. Công tử Lã chiếm xong Kinh Thành treo biển an dân, xưng tụng công đức Trịnh Trang Công, kể tội Cung Thúc Đoạn. Cung Thúc Đoạn ra quân đến nửa đường thì được tin Kinh Thành thất thủ liền kéo quân về, trong lòng bối rối. Vừa lúc ấy, những quân sĩ của Đoạn cũng nhận được thư nhà, nói rõ sự bội phản của Đoạn, liền cùng nhau bỏ trốn mất già nửa. Thấy quân sĩ bỏ trốn, Đoạn phải kéo quân về Cung Thành và than rằng: “Thực là mẹ ta giết ta”. Đoạn lại được tin là Trang Công đem quân đến Cung Thành liền thở dài nói: “Ta còn mặt mũi nào trông thấy anh ta nữa.” 186
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông Nói xong, Đoạn đâm cổ tự tử. Khi Trang Công kéo quân đến, thấy em đã chết thì ôm lấy thi thể khóc. Trang Công lục những đồ hành trang của em, bắt được cái thư của mẹ gửi cho khi trước, liền lấy gói lẫn với bức thư trả lời của Đoạn, sai Sái Túc đưa tất cả cho Khương Thị xem, rồi đem Khương Thị ra an trí tại Dĩnh Ấp. Trang Công lại thề một câu: - Trừ khi nào xuống đến suối vàng thì ta mới có thể gặp mặt mẹ ta được. Khương Thị trông thấy hai bức thư, xấu hổ quá, nghĩ không còn mặt mũi nào gặp Trang Công nữa, liền tức khắc dọn đồ đạc để đi ra Dĩnh Ấp. Trang Công ở Cung Thành về, không trông thấy mẹ, trong lòng lấy làm buồn rầu nói: - Bất đắc dĩ, ta phải khiến để em ta tự sát, nay ta lại phải xa lìa mẹ ta, ta thật là một người trái đạo luân thường vậy. Quan phong nhân ở Dĩnh Ấp là Dĩnh Khảo Thúc, vốn là người chính trực lại hiếu hữu, nghe tin Trang Công an trí mẹ ở Dĩnh Ấp thì nói: - Mẹ dẫu bất từ, con không nên bất hiếu. Chúa công làm việc này, hại đến phong hóa nhiều lắm. Nói xong, Dĩnh Khảo Thúc bắt mấy con chim cú đem vào dâng Trịnh Trang Công. Trịnh Trang Công hỏi: - Chim gì đấy? Dĩnh Khảo Thúc tâu: - Tâu chúa công, đây là chim cú. Giống chim này thì ban ngày quả núi ở trước mặt cũng không trông thấy nhưng ban đêm lại rất tinh, cái gì cũng trông rõ, dù vật nhỏ đến đâu. Thật là loài chim chỉ trông thấy cái nhỏ mà không trông thấy cái lớn. Lúc nó bé, mẹ nó kiếm mồi nuôi nó, nhưng đến khi 187
- Toan Ánh lớn lên nó lại mổ mẹ nó. Vì nó là giống chim bất hiếu, nên tôi bắt để ăn thịt. Trịnh Trang Công nín lặng không nói gì. Vừa lúc ấy, nhà bếp dâng lên một con dê chín. Trịnh Trang Công sai cắt một miếng đưa cho Dĩnh Khảo Thúc ăn. Dĩnh Khảo Thúc chọn những chỗ ngon, đem bọc vào giấy giấu trong tay áo. Trang Công lấy làm lạ, hỏi Dĩnh Khảo Thúc, thì Thúc đáp: - Tâu chúa công, tôi có mẹ già, nhà lại nghèo. Ngày nào mẹ tôi cũng chỉ ăn các thức gia vị, chưa hề được ăn cái món ngon này. Nay chúa công ban cho tôi, nghĩ đến mẹ tôi, tôi phải bớt những chỗ ngon để mang về dâng mẹ. Trịnh Trang Công khen: - Nhà ngươi thực là một người hiếu tử. Nói xong Trang Công thở dài buồn bã. Dĩnh Khảo Thúc liền hỏi: - Chẳng hay vì sao mà chúa công thở dài? Trịnh Trang Công đáp: - Nhà ngươi có mẹ già được nuôi để trọn đạo làm con, ta đây tuy làm vua một nước chư hầu thật không được bằng nhà ngươi. Dĩnh Khảo Thúc, giả cách không biết, hỏi: - Quốc mẫu hiện đang mạnh khỏe, sao chúa công lại nói như vậy. Trang Công liền đem việc Khương Thị thông mưu cùng Cung Thúc Đoạn để cướp nước Trịnh và việc an trí Khương Thị ở Dĩnh Ấp nói cho Khảo Thúc nghe. Lại nói cho Khảo Thúc biết là có lời thề “suối vàng”, nay hối lại không kịp. Dĩnh Khảo Thúc nói: - Cung Thúc Đoạn nay đã tự sát rồi. Quốc mẫu chỉ có một mình chúa công là con, chúa công lại không phụng dưỡng 188
- Tinh thần trọng nghĩa phương Đông thì có khác gì giống chim cú. Nếu chúa công ngại về lời thề “suối vàng” tôi có cách này có thể giải được. Trang Công hỏi thì Khảo Thúc tâu: - Chúa công sai đào đất xuống tận suối vàng, làm một cái nhà hầm, rước Quốc mẫu xuống ở đấy, rồi nói cho Quốc mẫu biết những cái tình nhớ mong của chúa công. Tôi chắc rằng Quốc mẫu cũng nhớ chúa công và cũng muốn gặp mặt chúa công lắm. Chúa công gặp Quốc mẫu ở dưới nhà hầm sẽ không trái với lời thề suối vàng trước. Trịnh Trang Công mừng lắm, sai ngay Dĩnh Khảo Thúc đến yết kiến Khương Thị, kể hết sự nhớ mong của mình, và xin rước về phụng dưỡng. Khương Thị vừa tủi vừa mừng. Nhà hầm làm xong. Dĩnh Khảo Thúc rước Khương Thị xuống trước rồi Trịnh Công xuống sau, sụp lạy mẹ mà nói rằng: - Con là Ngộ Sinh, bấy lâu bất hiếu không phụng dưỡng mẹ, xin mẹ tha lỗi cho con. Khương Thị đỡ Trang Công dậy, nói: - Lỗi trước là tự mẹ, không việc gì đến con. Hai mẹ con ôm nhau khóc, rồi dắt nhau trèo lên mặt đất. Trang Công đỡ mẹ lên xe, ngồi hầu một bên để cầm cương ngựa. Người nước Trịnh trông thấy, ai cũng khen Trang Công là người có hiếu. Trang Công cảm ơn Dĩnh Khảo Thúc đã làm cho mẹ con mình được đoàn tụ, phong cho làm đại phu. Trang Công lại tha tội cho công tử Hoạt là con Cung Thúc Đoạn để cho ở nước Vệ thờ cúng cha. 189
- Toan Ánh NGHÈO HƠN GIÀU BẤT NGHĨA Đời vua Văn Công nước Lỗ có ba vị đại thần nhà vua tin dùng giao cho quyền chính là Trọng Toại, Thúc Trọng Bành Sinh và Thúc Tôn Đắc Thần. Thúc Trọng Bành Sinh là người hiền hậu được vua Văn Công phong làm Thái phó, lĩnh trách nhiệm dạy bảo thế tử Ác. Còn Trọng Toại và Thúc Đắc Thần thì chia nhau giữ binh quyền và điều khiển mọi việc triều chính. Vua Lỗ Văn Công lập con gái vua Tề Chiêu Công là nàng Khương Thị làm phu nhân. Khương Thị sinh được hai con là thế tử Ác và công tử Thị. Ngoài ra Lỗ Văn Công lại lấy nàng Kính Doanh nước Tần làm thiếp, và cũng sinh được hai con là công tử Tiếp và công tử Thúc Miện. Trong bốn người con của Văn Công thì công tử Tiếp là lớn tuổi hơn cả, nhưng vì không phải là đích tử nên không được lập làm thế tử. Nàng Kính Doanh được vua Văn Công sủng ái vẫn có ý muốn giành ngôi thế tử cho công tử Tiếp. Nàng đem tiền của đút lót Trọng Toại để nhờ bênh vực cho con. Trọng Toại nhận lễ, nhưng vẫn e Thúc Trọng Bành Sinh, Thái phó của thế tử 190