Luận văn Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương

pdf 54 trang ngocly 1650
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_tiem_nang_du_lich_va_phuong_huong_bien_phap_phat_tr.pdf

Nội dung text: Luận văn Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương

  1. LUẬN VĂN: Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương
  2. Lời mở đầu Du lịch từ lâu vẫn được hiểu là nghỉ ngơi, tham quan giải trí. Nhưng trên thực tế, du lịch có một hình ảnh năng động hơn, hình ảnh một ngành kinh doanh mới, có hiệu quả và ngày càng phát triển trên mỗi quốc gia. Bước sang thế kỷ 21, thế kỷ của dịch vụ, tin học và nền kinh tế tri thức, thì du lịch ngày càng trở nên quan trọng và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Du lịch được coi là một ngành “ công nghiệp không khói”, “ xuất khẩu tại chỗ, xuất khẩu vô hình” để thu về nguồn ngoại tệ. Hoạt động du lịch đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế và đang phát triển nhanh với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Hoà chung với sự phát triển của du lịch thế giới. Ngành Du lịch Việt Nam cũng đã có những bước chuyển biến rõ rệt nhờ vào chính sách “ mở cửa ” của Đảng và Nhà nước, ngành du lịch đã có sự tăng trưởng và phát triển đáng khích lệ góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Ngành du lịch Việt Nam trước những thách thức và cơ hội mới còn nhiều việc phải làm để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh trên cơ sở giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và an ninh, quốc phòng của đất nước. Trong bối cảnh chung của du lịch cả nước, Du lịch Hải Dương cũng bắt đầu có những bước chuyển biến nhưng vẫn chưa thực sự phát triển với tiềm năng sẵn có của mình. Là một tỉnh nằm trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Hải Dương không có những tài nguyên, di sản Văn hoá ở tầm quốc tế như nhiều tỉnh khác. Ngành du lịch chưa thực sự có những đóng góp đáng klể vào thu nhập của người dân, nhưng như vậy không có nghĩa là Du lịch Hải Dương không thể phát triển. Nằm trong tam giác phát triển của phía Bắc là Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh cùng với nhiều di tích và danh thắng cũng như các công trình văn hoá còn được lưu giữ . Hải Dương có nhiều thuận lợi để phát triển thương mại và du lịch Với mong muốn có cái nhìn toàn diện và hiểu rõ hơn về tiềm năng du lịch của Hải Dương, trong thời gian thực tập tại Sở Thương mại – Du lịch Hải Dương em đã chọn đề tài “ Tiềm năng du lịch và phương hướng , biện pháp phát triển du lịch tỉnh Hải Dương ” làm chuyên đề tốt nghiệp đại học của mình. Kết cấu báo cáo chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm 3 chương.
  3. Chương I: Tiềm năng du lịch. Khái niệm, nội dung và điều kiện phát triển du lịch Chương II: Thực trạng tiềm năng du lịch và kết quả hoạt động du lịch ở Hải Dương trong những năm qua. Chương III: Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch Hải Dương.
  4. chương I: tiềm năng du lịch. Khái niệm, nội dung và điều kiện phát triển du lịch: I/ Khái niệm chung về du lịch và tiềm năng du lịch. 1. khái niệm chung về du lịch. 1.1 Khái niệm về du lịch. Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, không chỉ ở nước ta mà cả nhiều nước trên thế giới cũng chưa thống nhất. Về khái niệm và nội dung đó có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch. Theo Tổ chức du lịch thế giới (WTO): "Du lịch bao gồm tất cả những hoạt động của một cá nhân đi đến và lưu lại không quá 12 tháng với mục đích kiếm tiền thường xuyên". Theo Michel Coltmant: " Du lịch là mối quan hệ tương tác giữa bốn nhóm nhân tố: khách du lịch, các tổ chức cung ứng du lịch, chính quyền nơi đến du lịch, dân cư tại nơi du lịch để thống nhất hoạt động du lịch nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống của con người". Tuyên bố LaHay về du lịch viết: " Du lịch là hoạt động tất yếu của con người và của xã hội hiện đại. Bởi lẽ du lịch đã trở thành một hình thức quan trọng trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con người, đồng thời là phương tiện giao lưu trong mối quan hệ giữa con người với con người". Qua các định nghĩa về du lịch nêu trên ta nhận thấy nổi lên một số điểm chủ yếu: - Hoạt động du lịch của con người ở ngoài nơi làm việc thường xuyên của họ. - Hoạt động vận chuyển hầu như trong tất cả mọi trường hợp đi du lịch đều có sự tham gia của một phương tiện giao thông nào đó. 1.2. Khái niệm về tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao đông sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch tạo ra sức hấp dẫn du lịch.
  5. Về thực tế, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên các đối tượng văn hoá, lịch sử đã bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và khả năng sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch. Những điều kiện hiện nay luôn tồn tại và gắn liền với môi trường xã hội đặc thù của mỗi địa phương, mỗi quốc gia nhằm tạo nên điểm đặc sắc cho mỗi địa phương, mỗi quốc gia đó. Khi các yếu tố này được phát hiện, được khai thác và sử dụng cho mục đích phát triển du lịch thì chúng sẽ trở thành tài nguyên du lịch. Như vậy có thể nói rằng, tài nguyên du lịch được xem như tiền đề phát triển du lịch, trên thực tế cho thấy tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hậu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu. - Mức độ khai thác của tài nguyên du lịch phụ thuộc vào: + Khả năng nghiên cứu phát hiện và đánh giá tiềm năng tài nguyên vốn còn tiềm ẩn. + Yêu cầu phát triển các sản phẩm du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch, các nhu cầu của khách ngày càng lớn, đa dạng và phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí. + Trình độ phát triển khoa học công nghệ đã tạo ra các phương tiện để khai thác tiềm năng mọi cách để đạt hiệu quả tốt nhất, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu thoả mãn của khách du lịch khi có nhu cầu khám phá những điều kỳ diệu của tài nguyên du lịch. Như vậy, giống như các tài nguyên khác, tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử, vì những thay đổi cơ cấu và nhu cầu đã lôi cuốn vào hoạt động du lịch những thành phần mang tính chất kinh tế cũng như tính văn hoá - lịch sử. Nó là một phạm trù động, vì khái niệm tài nguyên du lịch thay đổi tuỳ thuộc vào sự tiến bộ kỹ thuật, sự cần thiết về kinh tế, tính hợp lý và mức độ nghiên cứu, khi đánh giá tài nguyên và xác định định hướng khai thác chúng cần phải tính đến những thay đổi trong tương lai về nhu cầu cũng như khả năng kinh tế - kỹ thuật khai thác các tài nguyên du lịch mới. Bên cạnh những tài nguyên đã và đang được khai thác thì còn nhiều tài nguyên du lịch vẫn tồn tại dưới dạng tiềm năng đó. + Chưa được nghiên cứu, đánh giá và điều tra đầy đủ. + Chưa được khai thác do " cầu" còn quá thấp. + Tính tài nguyên thấp, chưa đủ tiêu chuẩn cần thiết để khai thác và hình thành nên các sản phẩm du lịch.
  6. + Các điều kiện để tiếp cận các phương tiện khai thác còn hạn chế, do đó còn gặp nhiều khó khăn trong khai thác. 1.3. Khái niệm khách du lịch. Nói đến khách du lịch, chúng ta có thể hiểu đó là những người đi từ nơi này đến nơi khác để nghỉ ngơi, giả trí, cũng có thể hiểu đó là người đi du lịch hoặc kết hợp du lịch, trừ trường hợp đi làm hay đi học Định nghĩa của nhóm tác giả trường kinh tế quốc dân có thể nói là tương đối hoàn chỉnh." Khách du lịch là người đi đến một quốc gia khác, một vùng khác và lưu lại ở đó với thời gian lớn hơn một ngày nhằm các mục đích khác nhưng không nhằm mục đích kiếm tiền". - Định nghĩa khách du lịch quốc tế. Theo tổ chức du lịch thế giới ( WTO): " Khách du lịch quốc tế là một người lưu trú ít nhất một đêm nhưng không quá một năm tại một quốc gia khác với quốc gia thường trú với nhiều mục địch khác nhau ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến. + Khách du lịch quốc tế chủ động: là những người ở nước ngoài vào nước đó. + Khách du lịch quốc tế bị động: là những người ở trong nước đi ra nước ngoài. - Định nghĩa khách du lịch nội địa. Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO). " Khách du lịch nội địa là người đang sống trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác không phải là nơi cư trú thường xuyên trong quốc gia đó, trong thời gian ít nhất là 24 giờ và không quá một năm với các mục đích có thể là giải trí, công vụ, hội họp, thăm gia đình ngoài hoạt động làm việc để lĩnh lương ở nơi đến. - Theo Điều 4 Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 thì. “ Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập từ nơi đến ” “ Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, là người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch, công dân Việt Nam, người nướcngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch ”
  7. “ Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ tại Việt Nam ” 1.4. Khái niệm về thị trường du lịch Xuất phát từ đặc điểm sản phẩm du lịch có thể thấy thị trường du lịch được coi là một bộ phận tương đối đặc biệt của thị trường hàng hoá nói chung, bao gồm toàn bộ các mối quan hệ và cơ chế kinh tế có liên quan đến địa điểm, thơì gian, điều kiện và phạm vi thực hiện hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về du lịch Nét đặc thù riêng của thị trường du lịch là ở chỗ: + Thị trường du lịch thực hiện dịch vụ hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hôị về du lịch + Toàn bộ các mối quan hệ của các mối quan hệ toàn bộ trên thị trường kinh tế du lịch phải gắn liền với vị trí, thời gian, điều kiện và phạm vi thực hiện của thị trường hàng hoá + Thị trường du lịch là tổng hợp nhu cầu hay tập hợp nhu cầu về sản phẩm du lịch, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá dịch vụ + ở góc độ một đơn vị kinh doanh có thể hiểu thị trường du lịch là một tập hợp khách hàng hay nhóm khách hàng đang có nhu cầu, mong muốn và có khả năng thanh toán sẽ được thoả mãn + Thị trường du lịch, mối quan hệ mua bán được hình thành giữa các tổ chức kinh tế phục vụ lưu thông phân phối trong du lịch, đó chính là các đại lý du lịch + Người mua thông qua những đại lý du lịch này xẽ biết được những thông tin vế sản phẩm mà mình sẽ mua và sau khi đồng ý thực hiện mua ở đây. Như vậy, sản phẩm đang bán trực tiếp ở thị trường hàng hoá này đã chuyển sang bán ở thị trường du lịch + Chỉ khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu du lịch mới xuất hiện và ngày càng cao, chính vì thế thị trưồng du lịch xuất hiện muộn hơn thị trường hàng hoá + Trên thị trường du lịch không có sự dịch chuyển của khối lượng hàng hoá, do tính chất đặc biệt của sản phẩm du lịch, khách hàng chỉ có thể tiêu dùng tại nơi bán sản phẩm,nên thị trường du lịch là dòng một chiều của khách đến với sản phẩm. - Cầu du lịch
  8. Cầu du lịch là loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người. Nhu cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý ( đi lại ) và nhu cầu tâm lý ( giao tiếp ) trong hệ thống các nhu cầu của con người, để làm cho cuộc sống thay đổi về môi trường sống, muốn có thêm hiểu biết cũng như muốn nghỉ ngơi, giải trí thoát khỏi sự căng thẳng và môi trường ô nhiễm. Nhu cầu du lịch có được thực hiện hay không phụ thuộc vào khả năng thanh toán của khách du lịch, có thời gian rỗi dành cho tiêu dùng du lịch và phải sẵn sàng mua sản phẩm du lịch. Khi thoả mãn 3 điều kiện này thì nhu cầu du lịch của cá nhân biểu hiện ở cấp độ ý định. Nhu cầu du lịch ở cấp độ quyết định của tất cả cá nhân ở một không gian và thời gian nhất định tạo ra thị trường khách du lịch hiện tại ở không gian và thời gian đó. Nếu nhu cầu du lịch của các cá nhân chưa thoả mãn 1 trong 3 điều kiện nói trên thì tập hợp lại tạo ra thị trường khách du lịch tiềm năng , khi mà trình độ sản xuất xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ xã hội càng hoàn thiện, mức độ toàn cầu hoá càng cao thì nhu cầu về du lịch càng lớn về số lượng, chất lượng và cơ cấu của nó. - Cung du lịch Cung trong du lịch là khả năng cung cấp toàn bộ hàng hoá về dịch vụ du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách, cung du lịch là toàn bộ hệ thống của cải và dịch vụ mà hệ thống của cải và dịch vụ mà bộ máy du lịch đưa ra phục vụ khách bao hàm một chuỗi các nhiệm vụ, trách nhiệm về hoạt động hợp thành các đơn vị tổ chức năng hoạt động trên thị trường du lịch. - Mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường du lịch. Cung và cầu du lịch có mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại lẫn nhau, cung tác động lên cầu qua khối lượng và cơ cấu của nó, còn cầu ảnh hưởng đến sự phát triển của cung qua việc tiêu thụ và sự phân hoá của cầu. Trong du lịch chỉ có dòng chuyển động một chiều cầu đến cung. Xu hướng đặc trưng của thị trường du lịch là sự cân bằng giữa cung và cầu. Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch muốn phát triển hoạt động kinh doanh của mình thì phải biết liên kết, tập hợp cầu, phải biết phối hợp cung - cầu để đem lại hiệu quả
  9. kinh doanh cao ( vì cung trong du lịch là cố định, còn cầu thì phân tán, cung du lịch mang tính bộ phận trong khi cầu di lịch mang tính tổng hợp). 1.5. Các khái niệm khác: - Khái niệm kinh doanh lữ hành. Kinh doanh lữ hành là việc đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các công việc trong quá trình chuyển giao sản phẩm thực hiện giá trị sử dụng hoặc làm gia tăng giá trị của nó để chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch với mục đích lợi nhuận. - Khái niệm kinh doanh khách sạn. Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách nhằm đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi và giải trí của họ tại các điểm du lịch nhằm mục đích có lãi. - Khái niệm kinh doanh vận chuyển. Có 2 loại theo tính đặc thù, kinh doanh vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú của khách du lịch và kinh doanh vận chuyển tại điểm du lịch. 2. Tiềm năng du lịch. Theo nghĩa rộng, tiềm năng là tổng hợp tất cả các điều kiện bên trong và bên ngoài có giá trị khai thác, sử dụng và phát triển. Tiềm năng du lịch là một trong những điều kiện trực tiếp để phát triển du lịch. Tiềm năng du lịch bao hàm: vị trí địa lý, tài nguyờn du lịch, con người, thị trường, các điều kiện về kinh tế - xó hội II/ Các đặc điểm chủ yếu để phát triển tài nguyên du lịch. 1. Đặc điểm tài nguyên du lịch. Để có thể khai thác và sử dụng một cách tốt nhất các tài nguyên du lịch, cần phải nghiên cứu các đặc điểm tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch có các đặc điểm sau đây. 1.1. Tài nguyên du lịch rất đa dạng và phong phú, trong đó có nhiều tài nguyên đặc sắc và độc đáo tạo ra sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách.
  10. Khác với nhiều loại tài nguyên khác, tài nguyên du lịch rất phong phú càng đa dạng, đặc điểm này tạo nên sự phong phú về sản phẩm du lịch, nếu chỉ tính toán đơn thuần từ mặt kinh tế thì hiệu quả của tài nguyên du lịch đem lại là rất lớn có khi vượt trội hơn so với các tài nguyên khác. 1.2. Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác. Trong tài nguyên du lịch có tài nguyên có thể khai thác quanh năm, nhưng cũng có tài nguyên khai thác lệ thuộc vào thời vụ. Sự lệ thuộc này chủ yếu dựa theo diễn biến của khí hâu, như ở nước ta các tài nguyên được khai thác theo mùa rất rõ rệt: vào mùa Xuân ở đồng bằng Bắc bộ là mùa của những lễ hội như hội Chùa Hương, hội Lim, hội Đền Hùng , vào mùa Hè thường diễn ra các hoạt động biển, đặc biệt là du lịch biển diễn ra quanh năm ở các tỉnh có biển, nhất là ở miền Trung từ Đà Nẵng trở vào có thể tắm biển quanh năm (cả 4 mùa )vì ở đó rất ít bị ảnh hưởng của không khí lạnh. 1.3. Tài nguyên du lịch là tài nguyên không chỉ có giá trị hữu hình mà còn có giá trị vô hình. Đây được xem là đặc điểm quan trọng của tài nguyên du lịch. khác với tài nguyên khác, tài nguyên du lịch là phương tiện vật chất tham gia vào việc hình thành nên các sản phẩm du lịch, đó chính là giá trị hữu hình của tài nguyên du lịch. Giá trị vô hình của tài nguyên du lịch được khách du lịch cảm nhận thông qua những cảm xúc tâm lý, làm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. 1.4. Tài nguyên du lịch thường dễ khai thác. Các tài nguyên du lịch thường được khai thác để phục vụ du lịch là các tài nguyên vốn đã có sẵn trong tự nhiên do tạo hoá sinh ra hoặc con người tạo dựng lên và thường dễ khai thác. Con người khó có thể tạo nên tài nguyên du lịch bởi vì nó sẽ giảm đi rất nhiều về giá trị và sự hấp dẫn, chỉ cần đầu tư không lớn nhằm tôn tạo thêm vẻ đẹp và giá trị của tài nguyên. 1.5. Tài nguyên du lịch được khai thác tại chỗ tạo ra sản phẩm du lịch. Khách du lịch thường đến tận những nơi có sản phẩm du lịch để thưởng thức, đây là đặc điểm rất khác nhau giữa tài nguyên du lịch và các tài nguyên khác. Khác là những tài nguyên sau khi khai thác có thể vận chuyển đến tận nơi để chế biến thành sản phẩm rồi lại
  11. đưa đến tận nơi tiêu thụ, chính vì khách du lịch phải đi đến tận các điểm du lịch nơi có các tài nguyên du lịch để thưởng thức sản phẩm du lịch. Nên muốn khai thác tốt tài nguyên này phải chuẩn bị tốt các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và vận chuyển khách du lịch. Những điểm du lịch có vị trí thuận lợi sẽ thu hút được nhiều khách du lịch và các hoạt động du lịch ở đó sẽ đạt hiệu qủa cao. 1.6. Tài nguyên du lịch có thể sử dụng nhiều lần. Các tài nguyên du lịch được xếp vào loại tài nguyên có khả năng tái tạo và sử được dụng lâu dài, vấn đề cơ bản là phải nắm được quy luật tự nhiên, lường trước được những thử thách của tự nhiên, cũng như những tác động do con người tạo ra. Từ đó có định hướng lâu dài và có biện pháp cụ thể để khai thác tài nguyên du lịch, bảo vệ và tôn tạo phát triển một cách bền vững mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của du lịch trong tương lai. 2. Phân loại tài nguyên du lịch. Các tài nguyên du lịch rất đa dạng và phong phú, có thể chia làm hai loại: Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. 2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên. Thiên nhiên là môi trường sống của con người và của mọi sinh vật trên trái đất, thiên nhiên bao gồm các yếu tố và các thành phần tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên, các quá trình biến đổi của chúng tạo nên các điều kiện tự nhiên thường xuyên tác động đến sự sống, hoạt động của con người. Các thành phần tự nhiên tạo nên tài nguyên du lịch bao gồm: - Địa hình: là các vùng núi có phong cảnh đẹp, hệ thống hang động, bãi biển, di tích tự nhiên. - Khí hậu: gồm tài nguyên khí hậu thích hợp với sức khoẻ con người, tài nguyên khí hậu phục vụ cho việc chữa bệnh, an dưỡng, du lịch, thể thao, giải trí -Thuỷ văn: gồm mặt nước và các bãi nông ven bờ, các điểm nước khoáng. - Sinh vật: gồm các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, các cơ sở hệ sinh thái đặc thù. 2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn. Là nhóm tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo, nghĩa là do con người sáng tạo ra. Đó là toàn bộ những sản phẩm có giá trị về vật chất cũng như tinh thần do con người sáng tạo ra,
  12. đều được coi là những sản phẩm văn hoá. Tài nguyên du lịch nhân văn được phân chia thành những nhóm cụ thể sau: - Các di tích lịch sử văn hoá gồm: các di sản văn hoá thế giới, di tích lịch sử, thắng cảnh cấp quốc gia và địa phương. - Các lễ hội: làng nghề thủ công truyền thống gồm: nghề gốm sứ, trạm khắc đá, nghề mộc, nghề kim hoàn - Các đối tương du lịch gắn với dân tộc học. - Các đối tượng văn hoá - thể thao và hoạt động nhận thức khác. III/ Những nội dung cơ bản về hoạt động du lịch ở Hải Dương. 1. Những tiềm năng cần được đánh thức. Thuộc đồng bằng Bắc Bộ với địa hình bao gồm cả đồng bằng và đồi núi, cùng với lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, Hải Dương có nhiều lợi thế để phát triển toàn diện cả du lịch văn hoá, tín ngưỡng tâm linh và du lịch sinh thái. ở phía đông Bắc có 2 huyện miền núi là Chí Linh và Kinh Môn, tuy không rộng lớn nhưng cảnh quan đa dạng, trong đó. Vùng Chí Linh núi đồi trùng điệp, rừng cây xanh tốt là thiên đường của du lịch sinh thái, xây dựng sân golf, biệt thự, hình thành cắm trại, picnic, vùng núi hồ Côn Sơn - Kiếp Bạc - Thanh Mai, vào thế kỷ 14 nơi đây đã biến thành chốn " Phật tổ" của Thiền Phái Trúc Lâm và gắn liền với tên tuổi danh nhân Nguyễn Trãi, danh tướng Trần Hưng Đạo. Vùng Kinh Môn có “ tập đoàn ” đá vôi với những hang động kỳ thú, nơi lưu giữ di tích của con người từ thời đại đồ đá mới. Kinh Môn tự hào là nơi có động Kính Chủ, động Tâm Long từ thời Trần được tôn tạo thành Chùa. Đến thế kỷ 17 Kính Chủ trở thành động nổi tiếng của đất nước, nơi đây để lại bút tích của nhiều thời đại khác nhau. Huyện Thanh Miện nổi tiếng với Đảo Cò Chi Lăng Nam, nơi du khách được hoà mình với thiên nhiên, ngắm những đàn cò sinh động trong mọi trường đặc trưng vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Vùng Thanh Hà với cây vải thiều đặc sản là lợi thế hứa hẹn một vùng du lịch miệt vườn độc đáo. Hải Dương có 1.098 di tích các loại, bao gồm 133 di tích được xếp hạng quốc gia, được bố khá đồng đều khắp thôn, làng của 11 huyện và thành phố Hải Dương chứa đựng chiều sâu văn hoá, lịch sử vùng đất tỉnh Đông. Mỗi di tích gắn với một truyền thống, một nhân vật lịch sử hay một phong cách kiến trúc của một thời đại nào đó. Chẳng hạn như Văn
  13. Miếu Mao Điền ( thuộc địa phận huyện Cẩm Giàng) có bia khắc tên các cử nhân, tiến sỹ thời phong kiến, di tích khảo cổ học gốm Chu Đậu ( xã Thái Tân, huyện Nam Sách) lưu giữu dấu ấn của một trung tâm sản xuất gốm mỹ nghệ xuất khẩu từ thế kỷ 15, 16, hay đền thờ nhà nho yêu nước Chu Văn An trên núi Phượng Hoàng ( xã Văn An, huyện Chí Linh ). Không chỉ có vậy, Hải Dương còn có nhiều làng nghề truyền thống như: làng Đồng Giao ( xã Lương Điền, huyện Cẩm Giàng) chuyên nghề chạm, khắc gỗ, làng Tam Lâm ( Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc) có nghề đóng giầy, làng Cúc bồ ( Kiến Quốc, huyện Gia Lộc) có nghề mộc nổi tiếng , mỗi làng nghề đều mang bản sắc riêng, gắn với hệ thống di sản và truyền thuyết. Tìm hiểu văn hoá và truyền thống làng nghề sẽ khiến du khách cả trong và ngoài nước nhận biết được nhiều điều thú vị. Thực tế đó là tiền đề thuận lợi cho làng nghề Hải Dương được " trình làng " với vị thế mới. làng nghề Văn hoá - Du lịch độc đáo và hấp dẫn. 2. Những chuyển động đầu tiên. Không phải chỉ từ năm 2003 lại đây, Hải Dương mới nhận rõ tiềm năng du lịch của mình. Song, do khả năng đầu tư cho ngành du lịch còn hạn chế, nhỏ giọt, chưa đủ sức đem lại những thay đổi to lớn. Chẳng hạn, để dần bắt nhịp với du lịch toàn quốc, một số khách sạn, nhà nghỉ, nhà khách được nâng cấp thành khách sạn đạt tiêu chuẩn “ sao ”. Nhiều thành phần kinh tế được tham gia, đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khách sạn đã tạo nên những chuyển biến nhất định. Nếu như năm 1997, Hải Dương chỉ có 13 khách sạn, nhà nghỉ với 400 phòng, 900 giường, trong đó chỉ có 7 khách sạn đạt tiêu chuẩn thì đến năm 2003 toàn tỉnh có 60 khách sạn, nhà nghỉ với 54 khách sạn đạt tiêu chuẩn, gồm 975 phòng, có 1500 giường, phần lớn thuộc về các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong đó, có 4 khách sạn 2 sao, 3 khách sạn 1 sao. Tuy nhiên, phần lớn các khách sạn, nhà nghỉ đều tập trung tại thành phố Hải Dương, hầu hết các điểm du lịch chưa có các cơ sở du lịch thực hiện kinh doanh dịch vụ lưu trú chuyên nghiệp. So với các tỉnh có tiềm năng du lịch, các dịch vụ vui chơi giải trí, phương tiện đi lại, đường giao thông du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch Dải Dương còn quá thiếu và yếu. Ngoài một số điểm như An Phụ - Kính Chủ, Côn Sơn - Kiếp Bạc được đầu tư xây dựng hệ thống giao thông phục vụ khu du lịch, những điểm du lịch khác vẫn đang ở nguyên trạng hoang sơ hoặc " ăn nhờ" hệ thống giao thông
  14. dân dụng, nối vào di tích vẫn là đường nhỏ. Vì thế, phần lớn trong hơn 1.000 di tích chủ yếu thu hút khách trong phạm vi gần, vào vài tháng nhất định trong năm( chủ yếu là mùa lễ hội, mùa xuân ) 100% làng nghề đều chưa khai thác du lịch. Bản thân các khu di tích, thắng cảnh chưa được tôn tạo, sửa chữa, nâng cấp đầy đủ, thường xuyên. Để khắc phục tình trạng trên, năm 2001, Hải Dương đã đầu tư gần 50 tỷ nhằm đồng tôn tạo khu du lịch Côn Sơn - Kiếp Bạc và sắp tới sẽ triển khai dự án xây dựng khu hồ Mật Sơn ( Chí Linh ) với tổng số vốn đầu tư gần 41 tỷ đồng. Ngoài ra, khu núi An Phụ - Kính Chủ, cũng được đầu tư xây dựng tượng đài Hưng Đạo Vương và tôn tạo đường lên đỉnh và chùa Tường Vân với số tiền hàng chục tỷ đồng. Đó là những khoản tiền vốn đầu tư cho du lịch lớn nhất trong thời gian vừa qua. Trong giai đoạn đầu mỗi năm cần đến 150 tỷ đồng để tạo ra diện mạo mới cho ngành du lịch.Thiếu vốn đầu tư, đó là mấu chốt của bài toán khai thác tiềm năng du lịch Hải Dương hiện nay. Tuy nhiên, tiềm năng du lịch Hải Dương đang thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong và nước ngoài tỉnh, các nhà đầu tư trong nước và từ nước ngoài. 3. Tạo tương lai mới bằng những chiến lược mới. Quy hoạch phát triển du lịch Hải Dương xác định gồm 4 chiến lược trọng tâm là: chiến lược đầu tư, chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược nâng cấp chất lượng sản phẩm và tuyên truyền quảng bá. Trong đó chiến lược quan trọng nhất là đầu tư kết cấu hạ tầng, vật chất kỹ thuât tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp, song nguồn vốn hiện có chỉ cho phép đầu tư vào một vài điểm nhất định. Vì vậy, để đạt được mục tiêu phát triển nền kinh tế của tỉnh, trong đó có vấn đề đầu tư cho du lịch, Hải Dương đang mời gọi mọi đối tác đầu tư, mọi nguồn vốn ở trong và ngoài nước đầu tư mạnh vào lĩnh vực này trên cơ sở quy hoạch du lịch đã được phê duyệt. Để phát triển tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, Sở Thương mại - Du lịch Hải Dương đang kết hợp với Tổng cục Du lịch tổ chức đào tạo nhân viên khách sạn, hướng dẫn viên du lịch, bởi lẽ một khi hạ tầng du lịch được đổi mới, chiến lược nhân lực sẽ càng được đẩy mạnh tạo nên hình ảnh mới cho nhành du lịch Hải Dương. Với hàng chục làng nghề và lực lượng lao động dồi dào, chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch của Hải Dương hướng tới khuyến khích đầu tư sản xuất
  15. những mặt hàng lưu niệm đặc trưng, giúp Hải Dương được nhìn nhận như một vùng đất mang bản sắc văn hoá độc đáo và riêng biệt. Với mục tiêu tận dụng lợi thế vị trí địa lý, Hải Dương bắt đầu thực hiện cơ chế phối hơp với ngành du lịch của Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh để biến Hải Dương thành một" mắt xích" trong tuyến du lịch liên tỉnh.Sắp tới Công Ty Du lịch Hải Dương sẽ trở thành công ty thành viên của Tổng công ty du lịch Hà Nội là bước khởi sắc đầu cho chính sách tạo mối quan hệ hợp tác liên kết trong du lịch của Hải Dương. Mục tiêu của ngành đến năm 2006 sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 25%/ năm, với doanh thu 300 tỷ đồng và du lịch của tỉnh sẽ đón 300 nghìn lượt khách. Cùng với tốc độ tăng trưởng, ngành đặc biệt coi trọng việc phát triển du lịch bền vững, phát triển du lịch nhưng vẫn đảm bảo an ninh, gắn du lịch với phát huy, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, truyền thống văn hoá địa phương. Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt của du lịch hiện nay, con đường phát triển đúng đắn cho du lịch Hải Dương là: Chinh phục khách hàng bằng chất lượng bền vững, theo tiêu chuẩn quốc tế để thực sự là điểm đến tốt nhất đối với mỗi khách hàng. IV/ Những điều kiện nhằm phát triển du lịch Hải Dương: 1. Điều kiện chung. Du lịch chỉ có thể phát sinh, phát triển trong nhữngđiều kiện và hoàn cảnh thuận lợi nhất định. Trong số những điều kiện đó có những điều kiện tác động trực tiếp đến việc hình thành nhu cầu du lịch và việc tổ chức các hoạt động kinh doanh du lịch, bên cạnh đó có những điều kiện mang tính phổ biến nằm trong các mặt của đời sống xã hội và có những điều kiện gắn liền với từng khu vực địa lý. Tuy nhiên, tất cả các điều kiện này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau tạo thành mội trường cho sự phát sinh, phát triển du lịch. 1.2 Về mặt xã hội. Theo địa giới hành chính, tỉnh Hải Dương có 11 huyện, 1 thành phố loại III , với dân số năm 2002 là 1.683.138 người, mật độ dân số trung bình 1.022 người/km. Dân cư thường tập trung ở đô thị và các thôn xóm dọc theo các trục giao thông đường bộ, đường thuỷ quan trọng Dân cư sinh sống ở Hải Dương chủ yếu là dân tộc Kinh theo hai tôn giáo chính là:
  16. Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Tính cách của người dân Hải Dương mang đậm nét đặc trưng của vùng văn minh lúa nước Châu thổ sông Hồng: cần cù, hiền lành, phóng khoáng, cởi mở và giàu lòng mến khách. Do kinh tế tăng trưởng ổn định nên đời sống dân cư ở thành thị và nông thôn đều được cải thiện. Đến năm 2002 tỷ lệ hộ đói nghèo chỉ còn 7%, toàn tỉnh đã đạt tiêu chuẩn quốc gia về xoá mù chữ. Đến nay, tất cả các xã, phường trên địa bàn tỉnh đều có hệ thống điện, đường, trường, trạm tương đối hoàn chỉnh, thêm vào đó là chính sách phát triển du lịch cùng với sự ổn địnhvề mặt chính trị và an ninh đã làm cho du lịch của Hải Dương có điều thuận lợi hơn để phát triển. 1.2. Về mặt kinh tế. Trong quá trình cùng cả nước thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tỉnh Hải Dương đã tạo sự chuyển biến tích cực trong toàn bộ nền kinh tế cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội của tỉnh, đặc biệt là lĩnh vực du lịch, trong thời kỳ 1998 - 2003 đạt mức tăng trưởng bình quân rất cao ( 30% ) và chiếm tỷ trọng 1,14 % GDP của tỉnh Hải Dương năm 2003. Kết quả mà ngành du lịch đạt được là nhờ có nhiều hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch được Sở Thương mại - Du lịch tiến hành như phát hành phim, sách về du lịch, tổ chức triển lãm và xây dựng các tour du lịch làng nghề, tổ chức gian hàng du lịch Hải Dương tại Liên hoan du lịch Hà Nội đã góp phần tạo ra hình ảnh mới cho hoạt động du lịch của tỉnh Hải Dương. 2. Điều kiện đặc trưng. Trong quá trình cả nước thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tỉnh Hải Dương đã tạo sự chuyển biến tích cực trong toàn bộ nền kinh tế cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ trong Tổng sản phẩm xã hội của tỉnh, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ du lịch, trong thời kỳ 1998 – 2003 đạt mức tăng trưởng bình quân rất cao ( 30% ) và chiếm tỷ trọng 1,14% GDP của tỉnh Hải Dương năm 2003. Kết quả mà ngành du lịch đạt được là nhốc nhiều hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch được Sở Thương mại - Du lịch tiến hành như phát hành
  17. phim, sách về du lịch, tổ chức triển lãm và xây dung các tour du lịch làng nghề, tổ chức gian hàng du lịch Hải Dương tại Liên hoan du lịch Hà Nội đã góp phần tạo ra hình ảnh mới cho hoạt động du lịch của tỉnh Hải Dương. 2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên. Tài nguyên du lịch của Hải Dương được phân bố đều trên phạm vi toàn tỉnh và tập trung nhiều tại hai huyện miền núi Chí Linh và Kinh Môn. Chí Linh núi đồi trùng điệp có độ cao trung bình không quá 700m, rừng cây xanh tốt, cảnh quan đẹp, có nhiều hồ nước tự nhiên, có nhiều di tích, di chỉ văn hoá như: khu danh thắng Phượng Hoàng - Kỳ Lân là địa danh thích hợp cho du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo núi; Khu du lịch danh thắng Côn Sơn là nơi cảnh đẹp thiên nhiên, tâm linh gắn liền với cuộc đời của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi, cùng với tên tuổi của danh nhân đất Việt khác như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang, đồng thời là một trong ba Trung tâm của phái Trúc Lâm ( Côn Sơn - Yên Tử - Trúc Lâm ). Kinh Môn thuộc vùng núi đá vôi với nhiều hang động kỳ thú, nơi còn lưu lại di tích của con người thời đại đồ đá mới. Núi An Phụ với đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu trên đỉnh và tượng đài người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo ở chân núi là nơi thích hợp cho du lịch tâm linh. Hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi Dương Nham thích hợp cho du lịch vãn cảnh gắn với những trang sử hào hùng chống quân Nguyên của nhân dân ta. Ngoài ra, các huyện thuộc vùng đồng bằng cũng có tiềm năng du lịch phong phú nhờ có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, làng quê trù phú mang đậm nét đặc trưng của văn hoá Bắc Bộ: khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà, nổi tiếng với cây vải tổ, làng Cò ( Chi Lăng Nam ) Thanh Niệm, Văn Miếu Mao Điền (huyện Cẩm Giàng ), gốm chu Đậu (huyện Nam Sách ) rất thuận tiện cho phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch đồng quê và tham quan nghiên cứu khoa học. 2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn. Trên địa bàn tỉnh hiện nay có trên 1.098 di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 133 di tích đã được Nhà nước xếp hạng, bao gồm các đình, đền, chùa, phủ với nét kiến trúc độc đáo, có sự giao thoa của kiến trúc cổ và kiến trúc hiện đại, giữa kiến trúc Phương Đông và
  18. Phương Tây. Đặc biệt, các di tích lịch sử văn hoá đều gắn với các lễ hội truyền thống văn hoá dân gian, đây là tài nguyên du lịch nhân văn lớn, là động lực và thế mạnh cho du lịch Hải Dương phát triển. Ngoài các di tích lịch sử văn hoá, các lễ hội truyền thống văn hoá dân gian, tài nguyên du lịch Hải Dương còn được thể hiện qua các làng nghề truyền thống trong tỉnh, các giá trị văn hoá phi vật thể cùng truyền thống canh tác lâu đời của người dân vùng đồng bằng Châu thổ sông Hồng, tất cả làm cho nguồn tài nguyên du lịch của Hải Dương thêm phong phú và là điều kiện thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch. Hiện nay, tài nguyên du lịch của Hải Dương đã được cải thiện một cách căn bản về hạ tầng giao thông, điện nước, vệ sinh môi trường và an ninh trật tự. Một số dự án lớn đã được triển khai thực hiện và hoàn chỉnh như dự án mạng lưới giao thông khu Côn Sơn – Kiếp Bạc, Đền thờ Chu Văn An, đường lên núi An Phụ, đường giao thông dẫn đến Đảo cò ở Chi Lăng Nam- Thanh Miện, Dự án kè hồ Côn Sơn đã ngày càng tạo cho Hải Dương những sản phẩm du lịch có tính háp dẫn du khách ngày càng cao hơn. 2.3. Điều kiện sẵn sàng đón tiếp khách. * Cơ sở lưu trú du lịch. Các cơ sở lưu trú du lịch phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Năm 2000 cả tỉnh có 26 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó, chỉ có 1 khách sạn 2 sao, 1 khách sạn 1 sao; đến năm 2004 cả tỉnh có 60 cơ sở lưu trú du lịch được phân loại, xếp hạng, với tổng số 1.500 phòng, trong đó, có 1050 phòng đạt tiêu chuẩn. Có 6 khách sạn xếp hạng 2 sao, 6 khách sạn xếp hạng 1 sao. Năm 2005 trên địa bàn của tỉnh đã có một khách sạn đạt tiêu chuẩn 4 sao đi vào hoạt động. * Kinh doanh lữ hành. Các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trên địa bàn tỉnh đã trú trọng đẩy mạnh công tác thị trường, xây dựng các chương trình du lịch hấp dẫn nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh. Đến hết năm 2004 toàn tỉnh có 7 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa, 15 doanh nghiệp vận chuyển hành khách. Hoạt động vận chuyển khách du lịch không chỉ chuyển biến về số lượng mà còn cả về chất lượng phương tiện phục vụ được nâng cao hơn. Năm 2000 toàn tỉnh có gần 200 xe kinh doanh vận chuyển
  19. khách du lịch; đến năm 2004 đã có trên 500 xe đảm bảo chất lượng, tiện lợi và an toàn cho khách tham gia kinh doanh trong lĩnh vực này. CHương II: Thực trạng tiềm năng và kết quả hoạt động du lịch ở hải dương trong những năm vừa qua I/ thực trạng tiềm năng du lịch và quá trình khai thác sử dụng tiềm năng du lịch ở Hải Dương. 1.thực trạng tiềm năng du lịch ở Hải Dương. 1.1.vị trí địa lý. Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phía Tây giáp Hưng Yên, phía Đông giáp Hải Phòng, phía Nam giáp Thái Bình, phía Bắc giáp Bắc Ninh. Địa hình của tỉnh Hải Dương tương đối bằng phẳng. Giao thông thuận lợi có cả đường bộ, đương sắt và đường sông. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, chính trị,
  20. văn hoá, khoa học kỹ thuật của tỉnh, nằm trên trục đường quốc lộ số 5, cách Hải Phòng 45 km về phía Đông và cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía Tây. Phía Bắc của tỉnh có 20 km quốc lộ 18 chạy qua, nối sân bay quốc tế Nội Bài ra biển ( qua cảng Cái Lân - Quảng Ninh ). Đường sắt Hà Nội – Hải Phòng chạy qua Hải Dương là cầu nối giữa thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc ra các cảng biển. Hơn nữa, Hải Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ ( Hà Nội – Hải Phòng - Quảng Ninh ), sẽ là thuận lợi cho Hải Dương tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động trên phạm vi toàn vùng Bắc Bộ, đặc biệt là trao đổi hàng hoá với các tỉnh bạn, các thành phố lớn và xuất khẩu. Trong quy hoạch phát triển du lịch quốc gia, Hải Dương nằm trong không gian trung tâm du lịch Hà Nội và các vùng phụ cận thuộc vùng du lịch Bắc Bộ, với tiềm năng du lịch nổi trội như du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, du lịch làng nghề độc đáo Mặt khác, Hải Dương gần vị trí trung tâm du lịch biển Hải Phòng, Hạ Long, có hệ thống đường bộ và hệ thống sông ngòi thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế nói chung và phát triển du lịch nói riêng. 1.2. Đặc điểm địa hình. Là tỉnh vừa có vùng đồng bằng vừa có đồi núi tạo cho Hải Dương có khả năng phát triển mạnh và đa dạng các sản phẩm nông, lâm nghiệp. Vùng đồi núi của tỉnh chiếm khoảng 10% diện tích đất tự nhiên, còn lại là vùng đồng bằng chiếm 90% diện tích đất. Địa hình của Hải Dương nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Đông của tỉnh có một số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng úng ngập vào mùa mưa. Hệ thống sông ngòi của tỉnh khá dầy đặc, bao gồm hệ thống sông Thái Bình, sông Luộc và các trục Bắc Hưng Hải, có khả năng bù đắp phù sa cho đồng ruộng, đồng thời cũng là tuyến giao thông thuỷ, tạo điều kiện tốt cho việc giao lưu hàng hoá nội tỉnh cũng như với các tỉnh khác trong vùng. Tuy nhiên, sông ngòi có nhiều cũng gây khó khăn trong việc đầu tư đắp đê phòng chống lụt bão và ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất . 1.3. Đặc điểm khí hậu. Cũng như các tỉnh khác thuộc đồng bằng Châu thổ sông Hồng, Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lượng mưa trung bình hàng năm 1500 – 1700 mm, nhiệt độ trung bình hàng năm là 23oC, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng. Lượng mưa phân bố
  21. không đồng đều, tập trung vào tháng 7 và tháng 8, dễ gây ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và dân sinh. Độ ẩm không khí trung bình là từ 75 – 80%, các tháng có độ ẩm cao là tháng 7 và tháng 8, với độ ẩm trung bình là 80 – 86%. Hải Dương mang đầy đủ những đặc thù của khí hậu nhiệt đới gió mùa: nóng ẩm, mưa nhiều và có 4 mùa rõ rệt: mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Nhìn chung, khí hậu của Hải Dương thuận lợi cho môi trường sống của con người, sự phát triển của hệ sinh thái động, thực vật và thích hợp cho các hoạt động du lịch. Đặc biệt điều kiện khí hậu vào mùa đông rất thuận lợi cho việc phát triển cây rau mầu thực phẩm, đặc biệt là khả năng trồng rau xuất khẩu. 1.4. Đặc điểm đất đai, thổ nhưỡng, rừng và hệ sinh thái. 1.4.1.Đặc điểm đất đai, thổ nhưỡng. - Đất đai. Đất ở Hải Dương chia làm 2 vùng rõ rệt: vùng đồng bằng chiếm 89% diện tịch tự nhiên, chủ yếu là đất phù sa sông Thái Bình, thuận tiện cho việc sản xuất nhiều loại cây trồng cho năng xuất cao. Vùng đất đồi núi chiếm 11%diện tích tự nhiên nằm gọn ở phía Đông Bắc thuộc 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn, vùng đất này nhìn chung nghèo chất dinh dưỡng, chủ yếu dành cho phát triển cây lấy gỗ, cây ăn quả như vải thiều, dứa, cây công nghiệp như lạc, chè. - khoáng sản. Khoáng sản không nhiều nhưng có một trữ lượng lớn với giá trị kinh tế cao là nguồn nguyên liệu quý giá để phát triển công nghiệp, đó là nguồn đá vôi có trữ lượng khoảng 200 triệu tấn đủ để sản xuất 4-5 triệu tấn xi măng/năm, nguồn cao lanh 40 vạn tấn, đất sét chịu lửa khoảng 80 triệu tấn 1.4.2. Rừng và hệ sinh thái. Trong những năm qua do phát triển kinh tế của tỉnh chưa theo quy hoạch thống nhất, việc khai thác đất, chặt phá rừng bừa bãi ở thượng nguồn đã tác động xấu tới điều kiện sinh thái của Hải Dương, ngoài ra việc sử dụng không hợp lý số lượng không nhỏ thuốc trừ sâu, phân hoá học trong quá trình canh tác, đồng thời mức độ phát triển công nghiệp và quá trình đô thị hoá tăng nhanh, chất thải ngày một nhiều đã ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, môi sinh.
  22. Nhìn chung hệ sinh thái của tỉnh Hải Dương ngày một bị xâm phạm, tính cân bằng đang bị phá vỡ. Vì vậy, vấn đề trước mắt cần giải quyết ngay là: phải có chính sách hữu hiệu bảo vệ và chăm sóc diện tích rừng hiện có và nhanh chóng phủ xanh đất trống đồi núi trọc còn lại. Thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ môi trường để duy trì và làm giầu tài nguyên đất. 1.5. Tài nguyên nước. Nguồn nước tại Hải Dương khá phong phú, hệ thống sông ngòi khá dầy đặc với các sông lớn là sông Hồng, sông Thái Bình, sông Luộc, sông Kinh Thầy. Ngoài ra, trên lãnh thổ Hải Dương còn có rất nhiều ao hồ được phân bố rộng khắp trên khắp địa bàn tỉnh. 1.6. Tài nguyên du lịch tự nhiên. Phần lớn đất đai của Hải Dương thuộc đồng bằng Bắc Bộ, ở phía Đông Bắc có 2 huyện niềm núi, tuy không rộng lớn nhưng có cảnh quan đa dạng. Vùng Chí Linh núi đồi trùng điệp cao không quá 700m, rừng cây xanh tốt, rất thuận lợi cho việc xây dựng những công trình văn hoá. Vùng Kinh Môn có nhiều núi đá vôi, có những hang động kỳ thú, nơi còn di tích của con người từ thời đại đồ đá mới. Cách đây hàng ngàn năm, dân tộc ta đã quan tâm tới 2 vùng cảnh quan đặc biệt này. Côn Sơn, Thanh Mai thế kỷ 14 đã trở thành Trung tâm của thiền phái Trúc Lâm, đến thế kỷ 17, Kính Chủ trở thành động nổi tiếng của đất nước, nơI để lại bút tích của danh nhân thời đại. Hải Dương có địa hình khá bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn với những cánh đồng lúa tốt tươi, những dòng sông lớn, môi trường tự nhiên khá trong sạch. Nhiều làng quê trù phú mang đậm nét đặc trưng của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Du lịch sinh tháI, nghỉ dưỡng, du khảo đồng quê, tham gia nghiên cứu khao học. Các tài nguyên du lịch tự nhiên thường gắn với tài nguyên du lịch nhân văn. Một số tài nguyên du lịch tự nhiên tiêu biểu xin được dẫn ra sau đây. 1.6.1. Khu danh thắng Phượng Hoàng – Kỳ Lân. Khu danh thắng thuộc xã Văn An, huyện Chí Linh. Phượng Hoàng là khu danh thắng có rừng thông bát ngát, suối trong róc rách, núi đá lô xô, chùa tháp cổ kính, khu danh thắng có tới 72 ngon núi ngoạn mục, có mộ và đền thờ Chu Văn An một người thầy tiêu
  23. biẻu cho tài coa đức trọng của nền giáo dục Viêt Nam. Có chùa Huyền Thiên, cung Tử Cục, điện Lưu Quang, am Lệ Kỳ, miết Trí và giếng Soi. Khu thắng cảnh này rất thích hợp cho du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo núi, thăm di tích lịch sử. 1.6.2. Khu di tích danh thắng Côn Sơn. Khu di tích ở xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, nằm giữa 2 dãy núi Phượng Hoàng – Kỳ Lân, cách Hà Nội khoảng 70km Khu di tích danh thắng này có nhiều núi, chùa, tháp, rừng thông, khe suối và các di tích gắn liền với cuộc đời của danh nhân lịch sử. Ngay từ thời Trần chùa Côn Sơn là 1 trong 3 Trung tâm của thiền phái Trúc Lâm ( Côn Sơn – Yên Tử – Quỳnh Lâm ). Mảnh đất này đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và đặc biệt là anh hùng dân tộc – danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Ngày nay, Côn Sơn còn lưu giữ được nhiều dấu tích văn hoá thời Trần và các giai đoạn lịch sử của dân tộc. * Giếng Ngọc. Giếng ngọc nằm ở núi Kỳ Lân, bên phải lối lên Bàn Cở Tiên, phía dưới chân Đặng Minh Bảo Tháp. Tương truyền đây là giếng do Thiền sư Huyền Quang được thần linh báo mộng ban cho chùa nguồn nước quý. Nước giếng trong vắt xanh mát quanh năm, uống vào thấy khoan khoái dễ chịu. Từ đó có tên gọi là Giếng Ngọc và nước ở đây được các sư dùng làm nước cúng lễ của chùa. * Bàn Cờ tiên. Từ chùa Côn Sơn leo khoảng 600 bậc đá là đến đỉnh núi Côn Sơn. Đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên có dùng nhà bia theo kiểu Vong Lâu Đình, hai tầng cổ các có 8 mái. Đứng từ đây, du khách có hể nhìn bao quát cả một vùng rộng lớn. * Thạch Bàn. Bên suối Côn sơn có một phiến đá gọi là Thạch Bàn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân nghỉ tại đây khi Người đến thăm di tích này. Từ chân núi đi theo lối mòn có kê đá xuống phía chân núi có một tảng đá lớn, mặt phẳng và nhẵn nằm kề ven suối gọi là Thạch
  24. Bàn lớn. Tương truyền khi xưa Nguyên Trãi lấy làm “chiếu thảm” nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm thơ và suy tư việc nước. 1.6.3. Khu vực núi An Phụ. Đây là dãy núi nổi lên như một nón chóp khổng lồ xanh đậm một rừng cây, mờ ảo vài công trình kiến trúc giữa vùng đồng bằng phía bắc Hải Dương. Núi còn nhiều những cây rừng thiên nhiên. Đỉnh núi cao 246m. Từ đỉnh núi người ta có thể nhìn bao quát về đồng bằng Hải Dương, nhìn thấy sông Kinh Thầy uốn khúc, thấy khu vực núi đá vôi Kinh Môn nên thơ. Trên đỉnh núi là đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu, tục gọi là Đền Cao, còn văn bia của An Phụ Sơn Từ với 2 giếng nước mang đầy cổ tích Mới đây, Bộ Văn hoá đã cho xây dựng một tượng đài Trần Hưng Đạo hoành tráng, những tấm phù điêu bằng gốm nung, bậc lên xuống bằng đá Việc điểm xuyết của con người đã khiến cho khu vực núi An Phụ có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. 1.6.4. Khu hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi Dương Nham( Kinh Môn) Nằm về phía bắc của đỉnh Yêu Phụ, trong dãy Dương Nham như một hòn Non bộ khổng lồ giữa mênh mông sóng lúa của thung lũng Kinh Thầy. Phía Bắc Dương Nham dòng sông lượn sát chân núi, sơn thuỷ hữu tình, phía tây Nam Dương Nham là làng quê cổ Kính Chủ – quê hương của những người thợ đá xứ Đông, sườn phía Nam Dương Nham có mộit động lớn gọi là động Kính Chủ ( hay động Dương Nham ), đã được xếp vào hàng Nam Thiên. Khu núi đá vôi Dương Nham và động Kính Chủ còn gắn liền với các trang lịch sử hào hùng của dân tộc chống quân Nguyên, vùng núi đá nơi Dương Nham còn gắn liền với lịch sử hình thành người Việt cổ, cảnh đẹp nơi đây rất hấp dẫn đối với khách du lịch. 1.6.5. Khu Lục Đầu Giang – Tam Phủ Nguyệt Bàn. Đây là một khu vực sông trải dài sát với các hệ thống di tích của Kinh Bắc. Trên khúc sông này có khu vực bãi bồi gắn liền với các truyền thuyết đánh quân Nguyên nơi có hội Bình Than 1.6.6. Khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà Là một miệt vườn nổi tiếng với cây Vải Tổ. Giống vải ở đây ngọt và rất có giá trị với nhân dân ta và khách du lịch. Sản phẩm từ vải cũng được chế biến một cách sinh động, Rượu vải, vải khô, vải “ tham gia ” làm vị thuốc. Vùng vải thiều này hiện thời được trải rất rộng bám dòng sông Hương ( Thanh Hà kỳ thú, thơ mộng.
  25. 1.6.7.Làng cò ( Chi Lăng Nam Thanh Miện). Làng Cò thuộc xã Chi Lăng, huyện Thanh Miện. Gọi là làng Cò vì làng có một đảo nhỏ nằm giữa hồ vực rộng mênh mông với hàng vạn con cò về đây trú ngụ, xây tổ. Trên đảo có tới 9 loài cò, cò trắng, cò lửa, cò bộ, cò ruồi, cò đen, cò hương, cò nghênh, cò ngang, diệc. Ngoài ra trên đó còn có tới ba, bốn ngàn loài Vạc và các loại chim quý hiếm như Bồ Nông, Mòng Két, Le Le cùng trú ngụ ở nơi đây. Đến đây vào lúc hoàng hôn hay sớm mai là lúc “ giao ca ” thú vị giữa cò và vạc trong cuộc sống mưu sinh hàng ngày. 1.6.8. Khu Ngũ Nhạc Linh Từ – Lê Lợi, Chí Linh Khu vực đền Ngũ Nhạc là nơi thờ Sơn Thần theo tín ngưỡng người Việt cổ. Trước đây đã từng có 5 miếu nhỏ trên 5 đỉnh núi, được tôn tạo từ thời Nguyễn. Những công trình này đều mang tính cổ xưa và gắn với phong cảnh núi non. 1.6.9. Khu rừng Thanh Mai. Một khu vực rừng Thanh Mai gắn liền với những đền chùa, một trong những quê hương của Trúc Lâm Tam Tử. 1.6.10. Thiên nhiên của nền văn hoá lúa nước. Dường như mật độ các dòng sông và một hệ thống đình, đền, chùa được bố cục dày đặc trên toàn tỉnh. Những đình, đền, chùa này đều gắn liền với cây đa, bến nước hoặc những dòng sông, bến đò luôn luôn tạo nên những cảnh đẹp dễ gây ấn tượng đối với du khách. Phải chăng trong mỗi người dân Việt Nam hình ảnh về cây đa, bến nước, sân đình đã gần như trở thành một biểu tượng của Văn hoá Việt. 1.6.11. Mỏ nước khoáng ở Thạch Khôi. Đây là một mỏ nước nóng đã từng là nguồ để tạo nên nước khoáng. Nhiệt độ nóng đến mức tương đối vừa phải và được sử dụng để chữa bệnh. Cần thiết phải có nghiên cứu sâu hơn về nguồn nước ở khu vực này để khai thác vì mỏ nước khoáng này rất gần thành phố Hải Dương. 1.7. Tài nguyên du lịch nhân văn. 1.7.1. Tài nguyên du lịch văn hoá vật thể. * Các di tích lịch sử văn hoá, cách mạng.
  26. Qua nghiên cứu cho thấy các di tích lịch sử văn hoá, lễ hội truyền thống, văn hoá dân gian chính là động lực, thế mạnh để phát triển du lịch của Hải Dương. Vùng đất này đã để lại rất nhiều những dấu tích lịch sử, văn hoá từ thời dựng nước đến lịch sử cận hiện đại hết sức sống động. Hải Dương là một vùng đất sớm phát triển và giàu truyền thống lịch sử, văn hoá. Trên địa bàn tỉnh có 1.098 di tích lịch sử – văn hoá được kiểm kê đăng ký bảo vệ với 133 di tích được xếp hạng quốc gia. Các di tích này được trải rộng trên phạm vi toàn tỉnh. Nhiều di tích có giá trị có thể khai thác để phục vụ du lịch, tiêu biểu như, quần thẻ di tích văn hoá - lịch sử Trần Hưng Đạo và di tích Kiếp Bạc, khu di tích danh thắng Côn Sơn. Các di tích lịch sử văn hoá và danh thắng tiêu biểu của Hải Dương đều có những nét kiến trúc độc đáo, có sự giao thoa của các kiến trúc cổ và hiện đại, kiến trúc phươg Đông và phương Tây. Đặc biệt tại Hải Dương các di tích văn hoá lịch sử đều gắn liền với các lễ hội. Hải Dương là vùng đất trù phú, cảnh quan đa dạng, là nơi có nhiều di tích lịch sử, văn hoá và dah thắng. Mặc dù Hải Dương hiện so với thừa tuyên Hải Dương thời Lê Sơ hay tỉnh Hải Dương khi mới thành lập, năm Minh Mệnh 12 (1831) diện tích chỉ còn 1.661 km2, bằng 50 % diện tích cũ với 11/18 huyện, đồng thời bị hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ tàn phá nặng nề cộng với những biến động của thiên nhiên và xã hội, số di tích hiện còn cũng không nhỏ so với tổng số di tích của quốc gia đã được đăng ký, trong đó, có những di tích được xếp hạng vào loại đặc biệt quan trọng. Hiện nay, ở Hải Dương đã có 1.098 di tích được kiểm kê, đăng ký, bảo vệ theo quy định của Pháp lệnh về bảo vệ, bảo tồn, 133 di tích và cụm di tích được xếp hạng quốc gia, bằng 4 % số di tích được xếp của cả nước. Trong số những di tích đã được xếp hạng có 47 đình, 28 chùa, 19 đền, 4 miếu và nghè, 1 nhà thờ họ, 1 cầu đá, 4 di tích về lịch sử cách mạng, 5 danh thắng, 7 lăng mộ, 1 miếu, trong đó có 2 di tích sếp vào hạng đặc biệt quan trọng là Côn Sơn – Kiếp Bạc. Thành phố Hải Dương Hải Dương thành phố trẻ của thời kỳ đổi mới, trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - thể thao của tỉnh; có cơ sở hạ tầng đồng bộ, nhà văn hóa trung tâm, nhà thi đấu lớn, đúng quy cách, giao thông thuận tiện, dịch vụ công cộng đầy đủ, hệ thống khách sạn nhà hàng với
  27. đầy đủ tiện nghi và các dịch vụ phụ trợ đáp ứng mọi nhu cầu cao của du khách, là nơi lý tưởng để tổ chức các hội nghị hội thảo, các giải thể thao lớn trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, Thành phố Hải Dương còn có nhiều di sản văn hóa lịch sử được xếp hạng quốc gia như khu di tích Đinh Văn Tả, đình- đền- chùa Bảo Sài, đền- đình Sượt, đình- chùa Đồng Niên, đình Ngọc Uyên, đình Tự Đông đặc biệt là Bảo tàng cách mạng, nơi lưu giữ nhiều di sản văn hóa của dân tộc từ thời vua Hùng dựng nước, thời Đinh- Lê- Lý- Trần tới thời đại Hồ Chí Minh với 20.000 cổ vật trong đó có trống đồng Hữu Chung được xếp vào loại số một quốc gia, đến thăm bảo tàng cách mạng Hải Dương du khách sẽ thấy đựơc những tinh hoa văn hóa, những chiến công hiển hách của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Thành phố Hải Dương còn là nơi dừng chân lý tưởng để du khách thực hiện các tour du lịch đến những điểm di tích lịch sử, văn hóa, thắng cảnh nổi tiếng. - Trần Hưng Đạo và di tích Kiếp Bạc. Kiếp Bạc từ lâu đã trở thành “ điển tích ”của lịch sử và mỗi khi nhắc đến sự kiện này chẳng khác nào như một tiếng chuông cảnh tỉnh và làm xúc động lòng người nhớ về một thời oanh liệt, một anh hùng dân tộc, về những ngày hội truyền thống và như nhắc nhở đến nghĩa vụ của mỗi người dân đất Việt đối với giang sơn, đất nước. Kiếp Bạc thuộc hương Vạn Kiếp, Lạng Giang thời Trần, đến thời Nguyễn thuộc địa phận hai xã Vạn Yên ( làng Kiếp) thuộc Tổng Trạm Điền và xã Dược Sơn ( làng Bạc) Tổng Chi Ngại, nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Kiếp Bạc có dãy núi Rồng hình tay ngai bao lấy một thung lũng trù phú và thơ mộng, bảo lưu nhiều di tích quý báu và truyền thuyết ly kỳ về Trần Hưng Đạo. Đông Nam Kiếp Bạc tiếp giáp vùng núi Phả Lại. Phượng Hoàng, Côn Sơn là những nơi có di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng từ thời Lý – Trần. Nay tại Phả Lại mọc lên nhà máy nhiệt điện khổng lồ làm cảnh quan thêm hoành tráng. Xa hơn một chút là đền thờ Phiêu Kỵ Đại tướng quân Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, tục còn gọi là đền Gốm, bên bờ vụng Trần Xá - nơi họp hội nghị Vương Hầu. Phía Tây sang sông Thương – một nhánh của sông Lục Đầu mà thời Trần còn có tên là sông Bình Than. Giữa sông có một dải đất hẹp và dải gọi là Cồn Kiếm. Dân gian cho rằng, đó là thanh kiếm của Trần Hưng Đạo sau khi dẹp xong giặc ngoại xâm để nhắc nhở đời sau luôn cảnh giác trước hoạ xâm lăng. Phía bắc, thung lũng Vạn Yên rộng
  28. lớn. Giữa thung lũng có sông Vang tuy nhỏ mà sâu tạo điều kiện thuận lợi cho thuyền bè vào sát chân núi Bắc Đẩu, nhánh phía Nam gọi là núi Nam Tào. Trên mỗi đỉnh núi từng có một ngôi chùa cổ kính. Rừng Kiếp Bạc nhìn thấy xa xa với bạt ngàn gỗ quý như: lim, sến, táu cùng thông, trúc xanh tốt quanh năm. Sông Lục Đầu lắm tôm, nhiều cá cho người dân thả lưới quăng chài. Từ Kiếp Bạc có 6 đường sông và đường bộ, tiến lui đều thuận lợi như về Thăng Long, ra biển, lên bắc, xuống miền đồng bằng. Các thung lũng nối liền với sông Lục Đầu có thể tập kết hàng chục quân thuỷ bộ, hàng nghìn thuyền chiến. Từ đỉnh núi Nam Tào, Bắc Đẩu có thể quan sát một miền rộng lớn, núi sông, làng mạc bao la, tàu thuyền xuôi ngược tấp nập. Vì thế Kiếp Bạc không chỉ là một cảnh quan hùng vĩ mà còn là một vị trí có thế quân sự quan trọng, một vùng đất giàu có của đất nước. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Trần Hưng Đạo đã lập phủ đệ và quân doanh ở đây từ sau cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ nhất. - Nguyễn Trãi với Côn Sơn. Nguyễn Trãi là Danh Nhân văn hoá thế giới, một con người hết lòng vì dân, vì nước sống trong sáng, thường được ví như sao Khuê. Trong con người ông thể hiện sự yêu ghét rõ ràng, suốt đời tân tâm vì non sông đất nứơc, nhưng lại chịu oan nghiệp vì những kẻ gian thần. Vụ nghi án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam như một nhắc nhở cho muôn đời sau. Ông còn là một nhà thơ mà văn học của ông hàm ý sâu xa, ngàn đời sau khi đọc lại vẫn còn có những điều phải bàn đến. Bộ Văn hoá - Thông tin mới đây đã cho xây dựng lại đền thờ Nguyễn Trãi tại Côn Sơn. Đây là mộ công trình văn hoá đẹp trong một thiên nhiên đẹp. Nó chứng tỏ sự trường tồn của những giá trị văn hoá trong con người Nguyễn Trãi. - Thiền Phái Trúc Lâm và vùng chùa chiền tại Chí Linh. Chí Linh có 3 ngôi chùa nổi tiếng là chùa Côn Sơn, chùa Minh Khánh và chùa Thanh Mai. Thiền Phái Trúc Lâm là một đạo phái mang dáng dấp Việt Nam. Nó thừa kế những nét tinh hoa đạo Phật của ấn độ và Trung Quốc. Thiền Phái Trúc Lâm cũng thể hiện một tư tưởng độc lập, nhạy bén với thời cuộc, có cách nhìn của người Việt Nam.
  29. - Những giá trị độc đáo của những đền chùa Hải Dương. ở Hải Dương có rất nhiều đền, đình, chùa đã được kiểm kê, đánh giá. Nhưng phải kể đến những giá trị độc đáo của những di tích sau; + Chùa Đồng Ngọ cổ nhất. + Chùa Giám độc đáo nhất. + Đình Huê Trì hoành tráng nhất. + Văn miếu Mao Điền cổ kính nhất. Nếu xem xét kỹ lưỡng thì những di tích này đều có khả năng để tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn. * Các làng nghề. Hải Dương là vùng đất hình thành và phát triển lâu đời, ngày nay nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng vẫn còn tồn tại và phát triển như: sản xuất giày, trạm khắc kim hoàn, trạn khắc gỗ, chế biến lương thực, thực phẩm ( làm bánh kẹo), hàng thêu ren và tơ tằm. - Làng nghề trạm khắc gỗ Trạm khắc gỗ, đồ kim hoàn là nghề truyền thống mang tính gia truyền, tạp trung ở một số làng như Đông giao, thợ kim hoàn với nhữg mặt hàng gia công nổi tiếng góp phần vào việc giảI quyết công ăn việc làm và phát triển kinh tế nông thôn. - Làng nghề làm bánh đậu xanh, bánh gai. Làng nghề có truyền thống từ lâu đời, sản phẩm đã nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới. Với quy mô sản xuất đã được mở rộng và thu hút một lượng đông đảo lao động trong vùng tham gia vào quá trình này. - Làng nghề đóng giầy da ( Hải Dương ) Nghề đóng giầy da ở Hải Dương có tín nhiệm cao, các nghệ nhân làng nghề Hoàng Diệu có mặt hầu khắp mọi nơi trên cả nước. ở Hải Dương nghề đóng giầy da đang trên đà phát triển nhờ có một số điều kiện thuận lợi như nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, yêu cầu vốn đầu tư không nhiều, người lao động khéo tay. - Làng nghề làm Mộc ( Cúc Bồ Ninh Giang) Thợ mộc ở Cúc Bồ vốn nổi tiếng ở trong tỉnh và trong cả Đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng thợ mộc ở đây khi chuyển đến những vùng khác cũng tạo dựng lên được những làng mộc
  30. mới. Các đền, đình, chùa nổi tiếng ở Hải Dương hầu như đều có bàn tay thợ mộc của làng này. - Nghề làm gốm. Nghề làm gốm đã được phát triển rộng rãi ở Hải Dương từ rất lâu đời, nổi tiếng là gốm Chu Đậu ( Nam Sách) và gốm Cậy ( Bình Giang ) . Do địa hình sông nước trên những thềm đất sét nên đã từu lâu người dân Hải Dương khá quen thuộc với nghề làm gốm. Nước men của gốm Chu Đậu có một đặc thù khá riêng biệt và khá nổi tiếng, nhất là đối với những người sành chơi của Hà Nội ngày xưa. - Nghề thêu ren ( Tứ Kỳ ) Người Hải Dương vốn có truyền thống khéo tay: đan lát, thêu thùa. Nghề thêu ren ở Xuân Nèo từng đã làm nên những sản phẩm của các mặt hàng thêu ren xuất khẩu của nước ta. - Nghề trạm khắc đá ở Kính Chủ ( Kinh Môn) Phía Đông Bắc Hải Dương có dải núi đá vôi ( Dương Nham ), có làng Kính Chủ, nổi tiếng ở đây có nghề trạm khắc đá đã tạo nên những tác phẩm về đá trên các công trình miếu mạo, đền, chùa. Ngoài ra còn có các nghề tiểu thủ công khác như: dệt chiếu ở Tiên Kiều ( Thanh Hà ), gốm, sứ rải rác khắp tỉnh, nghề làm thuócc tại quê hương Tuệ Tĩnh đang phát triển mạnh góp phần đưa sản xuất công nghiệp quốc doanh tăng nhanh. Trên địa bàn thị trấn, thị tứ, nhiều hộ tư nhân đầu tư xây dựng xưởng cơ khí sửa chũa máy móc nông nghiệp, sản xuất nông cụ và đồ dùng gia đình. Việc phát triển nghề và làng nghề đã tạo ra hình thái mới trong việc sắp xếp lao động, vừa giữ gìn phát triển được nghề truyền thống ngay trên quê hương vừa tạo việc làm và có hiệu quả kinh tế cao, thu nhập ổn định hơn nghề trồng lúa, chẳng những thế những làng nghề truyền thống trên còn là tiềm năng du lịch to lớn của Hải Dương, là đối tượng độc đáo có sức thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Vì vậy, cần phải có kế hoạch đầu tư để duy trì phát triển các làng nghề, biến chúng thành những điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Mặt khác, cần nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm lưu niệm mang tính đặc thù của Hải Dương để phục vụ du khách.
  31. 1.7.2. Tài nguyên văn hoá phi vật thể. Tài nguyên văn hoá phi vật thể thực chất là sống ký sinh trên các tài nguyên văn hoá vật thể. Các trò chơi, các lễ hội thường được diễn ra trên những trung tâm văn hoá của từng thời kỳ mà ở giai đoạn cổ xưa chính là các đình, đền, chùa, miếu. * Các lễ hội tiêu biểu tại Hải Dương. Lễ hội, sinh hoạt văn hoá dân gian cũng là một loại tài nguyên nhân văn, có sức hấp dẫn và khả năng thu hút du khách cao, ở mức độ nào đó du khách có thể thấy được, hiểu được phông tục tập quán của nhân dân đại phương. Lễ hội là một hình thức văn hoá đặc săc phản ánh đời sống của mỗi dân tộc, gắn với các di tích lịch sử, thường là một phần trong các chương trình thu hút, quảng bá của khu du lịch. Không thể tách rời các nội dung lễ hội ra khỏi các di tích, cũng như không thể tách nội dung lễ hội truyền thống ra khỏi các chương trình du lịch. Vì vậy, cần khai thác di tích lịch sử và lễ hội truyền thống như một loại hình du lịch văn hoá chuyên đề gắn với tour du lịch. - Lễ hội Côn Sơn ( Chí Linh ) Chùa Côn Sơn ở huyện Chí Linh thờ Huyền Quang ( Lý Đạo Tái ) một trong ba vị sáng lập thiền phái Trúc Lâm và Nguyễn Trãi - nhà thơ lớn của Việt Nam thế kỷ 15, nhà quân sự, nhà nhính trị thiên tài của nghĩa quân Lam Sơn, Hội xuân từ 16 đên 22 tháng riêng âm lịch hàng năm nhằm tưởng nhớ vị tổ thứ 13 của phái Trúc Lâm. Hội thu từ 15 – 20 tháng 8 âm lịch tưởng niệm Nguyễn Trãi. Khách thập phương đến với lễ hội để tưởng niệm và vãn cảnh danh thắng. - Hội Kiếp Bạc ( Hưng Đạo – Chí Linh ) Là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng rất hưng thịnh trước đây. Lễ hội đền Kiếp Bạc diễn ra hàng năm từ 18 – 20 tháng 8 âm lịch tại đền Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh. Đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, vị tướng kiệt suất thời Trần, tài đức song toàn. Lễ hội gồm có lễ rước, diễn thuỷ binh trên sông Lục Đầu. Khách về dự hội rất đông vừa để vãn cảnh, vừa để tham dự ngày giỗ của tướng quân Trần Hưng Đạo. - Hội đền Quan Lớn Tuần Tranh ( Đồng Tâm – Ninh Giang ) Theo truyền thuyết đền thờ thần Sông Nước để thuyền bè đi ngang qua được bình an, lễ hội hàng năm mở vào ngày 25 tháng 2 âm lịch gần bén đò Tranh, Ninh
  32. Giang, Hải Dương để cúng thần sông cầu bình an. Ngoài nghi thức lễ bái, hội có lên đồng, hầu bóng, hát chầu văn. - Hội đền Yết Kiêu( Gia Lộc ) . Còn gọi là hội Đền Quát. Đền Yết Kiêu ở làng Hạ Bì là quê hương của ông, lễ hội hàng năm được mở vào ngày 15 tháng riêng âm lịch để nghi nhớ công ơn của ông trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Sau phần nghi lễ, phần hội có đánh cờ, bơi lội, đánh đáo đĩa, hội có bơi trải, bơi triềng trình làng. - Lễ hội Đền Cao ( An Lạc – Chí Linh ) Lễ hội Đền Cao mở trong 3 ngày từ 22 đến 24 tháng riêng âm lịch hàng năm. Ngày rước thánh là ngày 22, tất cả kiệu rước, nghi trang, cờ quạt, tán lọng đều được sắm sửa ở Đền Cả, đến ngày 23 sẽ rước về Đền Cao và làm lễ dâng hương. Sáng 23, lễ hội bắt đầu bằng đám rước kiệu. Đi trước là đội cồng và kỳ lân, tiếp sau có 6 kiệu. Kiệu thứ nhất rước bài vị sắc phong của năm anh em họ Vương. Ngoài ra còn có kiệu rước Thành Hoàng làng. Đoàn rước xuất phát từ Đền Cả qua đền Bến Cả, Đền Bến Tràng rồi dừng ở Đền Cao. Sau đó là lúc mọi người trẩy hội và thắp hương. Ngày cuối cùng của lễ hội, bốn kiệu rước được đưa về Đền Cả. Cảnh lễ hội diễn ra thật náo nức, sống động. - Lễ hội An Phụ ( Kinh Môn ) Cũng gọi là lễ hội Đền Cao ( trên núi An Phụ có chùa Tường Vân cổ kính tục gọi là chùa Cao ) được tổ chức vào mồng 1 tháng 4 âm lịch, kỷ niệm ngày mất của An Sinh Vương Trần Liễu, việc chảy hội thành tập quán của nhân dân từ nhiều thế kỷ. 1.8. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch. Hiện nay vùng Chí Linh đã có sân golf 9 lỗ, còn ở trung tâm thành phố thì có hồ công viên Bạch Đằng thành phố Hải Dương đã dược hình thành. Đây là những cơ sở tạo tiền đề cốt yếu cho các khu vui chơi giải trí. Trên toàn tỉnh đã có 950 phòng nghỉ, có 77 khách sạn, số phòng đạt tiêu chuản cao cấp chưa có, số phòng đạt tiêu chuẩn trung bình chiếm 60%. Chu yếu tập trung ở Sao Đỏ và thành phố Hải Dương, đã có 180 xe vận chuyển khách du lịch. 1.9 .Lao động trong ngành du lịch.
  33. Hải Dương có một nguồn lao động rất dồi dào. Hiện nay số người lao động trong ngành Du lịch là 1.300 người trong đó đại học và trên đại học 145 người, cao đẳng và trung cấp là 600 người, lao động khác là 555 người. Chất lượng trong lao động trong du lịch con nhiều hạn chế về thực chất. Tuy nhiên, cùng với truyền thống thông minh hiếu học của người Hải Dương đây là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển kinh tế trong đó có du lịch khi có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực. 1.10. Công tác quản lý du lịch Cơ quan quản lý cấp trên của Sở Thương mại - Du lịch địa phương là Uỷ ban nhân dân tỉnh. Sở là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh xem xét, đưa ra quyết định trên tất cả các vấn đề liên quan đến chính sách, quá trình đầu tư, khai thác và phát triển du lịch, trên địa bàn toàn tỉnh. - Thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước cùng sự quan tâm phối hợp trực tiếp của Tổng cục Du lịch, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Hải Dương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư, xây dựng và kinh doanh trong ngành du lịch. Ví dụ: Sân golf Ngôi sao Chí Linh, Trung tâm du lịch dịch vụ Nacimex - Nam Cường, khu vui chơi giải trí Đảo Ngọc làm phong phú thêm các dịch vụ phục vụ và thu hút khách du lịch, tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Thường xuyên hướng dẫn các văn bản có tính pháp quy về du lịch tới từng đơn vị, tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh du lịch, đặc biệt phổ biến, hướng dẫn việc thực hiện Luật Du lịch Việt Nam, Nghị định 39/2000/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh lưu trú; Nghị định 27/2001/NĐ-CP về kinh doanh lữ hành và hướng dẫn viên du lịch: Nghị định 50/2001/NĐ-TCDL chỉ đạo các đơn vị hoạt động du lịch chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực theo hướng dẫn của Tổng cục Du lịch. - Tổ chức tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch với các hình thức phong phú đa dạng; Trong năm 2005, đã tổ chức và tham gia một số hoạt động, chương trình quảng bá xúc tiến du lịch như: Festival Tây Nguyên 2005 tại Đắc Lắc, Liên hoan Du lịch quốc tế Hà Nội 2005, Lễ hội Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi tại xã Nam Tân ( Huyện Nam Sách ), Lễ hội Côn Sơn ( Huyện Chí Linh ) "Hành trình theo dấu chân Bác Hồ", Phát hành sách, tờ rơi, tập gấp; cung cấp thông tin về Du lịch Hải Dương và cơ hội đầu tư cho
  34. các tổ chức, Trung tâm nghiên cứu phát triển cộng đồng Các thông tin mới nhất liên quan đến hoạt động du lịch được Trung tâm thông tin xúc tiến Thương mại và Du lịch cập nhật và đăng tải hàng tuần trên internet, bản tin hàng tháng của hoạt động này ở tỉnh Hải Dương. - Tổ chức 03 khoá đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ du lịch- khách sạn cho số lao động du lịch trong tỉnh. Khuyến khích các đơn vị đào tạo, đào tạo tại chỗ, tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, nâng cao chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp. Hải Dương 2. Quá trình khai thác và phát triển tiềm năng du lịch ở Hải Dương Trong thời gian qua, ngành Thương mại - Du lịch Hải Dương được sự quan tâm, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ của Tổng cục Du lịch, hỗ trợ giúp đỡ tích cực của các ngành, các cấp liên quan (Văn hoá, Giao thông, Công nghiệp, Đầu tư, Tài chính ) trong tỉnh, cùng với những cố găng, nỗ lực phấn đấu, quyết tâm cao của cán bộ, công chức, viên chức trong ngành, đặc biệt là của các doanh nghiệp hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh, tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và cùng với du lịch cả nước, du lịch Hải Dương phấn đấu trở thành điểm đến thân thiện và không thể thiếu trong hành trỡnh của du khỏch thập phương. - Trên cơ sở phát huy các nguồn lực sẵn có được sự quan tâm và hỗ trợ kinh phí từ Tổng cục Du lịch và UBND tỉnh, Du lịch Hải Dương tranh thủ thu hút mọi nguồn vốn của các thành phần kinh tế, kể cả nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư phát triển du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch và đa dạng các sản phẩm du lịch, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của tỉnh, tạo ra sản phẩm du lịch hấp dẫn trong mối liên hệ giữa du lịch của tỉnh với hệ thống du lịch của vùng và cả nước để thu hút khách trong nước và quốc tế. Nhiều tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đã tham gia đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Trước nhất là đầu tư xây dựng hệ thống khách sạn nhà hàng và các khu vui chơi giải trí tổng hợp, trong đó nổi bật là các dự án lớn như: đầu tư xây dựng khách sạn tiêu chuẩn 4 sao Nacimex, khu du lịch tổng hợp Đảo Ngọc phía Tây thành phố
  35. Hải Dương , khu vui chơi giải trí Sân golf Ngôi Sao Chí Linh, dự án khu vui chơi giải trí tại Trúc Thôn, xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh Đến nay, cùng với nguồn vốn nhà nước đầu tư, cải tạo các cơ sở hạ tầng du lịch, bảo tồn các di tích, danh lam thắng cảnh quan trọng với tổng vốn đầu tư giai đoạn 2001 - 2005 là 880 tỷ đồng; nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các dự án phát triển du lịch đã lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Nhờ đó, các khu du lịch, điểm du lịch của Hải Dương đã được cải thiện một cách căn bản về hạ tầng giao thông, điện, nước, vệ sinh môi trường và an ninh trật tự, nhất là mạng lưới giao thông ở khu Côn Sơn - Kiếp Bạc, Đền thờ Chu Văn An, đường lên Tượng đài Trần Hưng Đạo, núi An Phụ, đường giao thông dẫn đến đảo Cò - Chi Lăng Nam -Thanh Miện, Dự án hồ Côn sơn, hồ Mật Sơn - Chí Linh; khu du lịch sinh thái phía Đông và phía Tây thành phố Hải Dương, Công viên xanh hồ Bạch Đằng, thành phố Hải Dương v.v - Du lịch Hải Dương đó xõy dựng kế hoạch khai thỏc và phỏt triển du lịch với định hướng lâu dài và bền vững với việc thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hải Dương đến năm 2020. Nội dung đề cập là: đánh giá tài nguyên du lịch Hải Dương; Đánh giá thực trạng phát triển du lịch của Hải Dương; Định hướng phát triển du lịch Hải Dương - Xác định và tập trung xây dựng 2 vùng du lịch trọng điểm là Côn Sơn - Kiếp Bạc, Thành phố Hải Dương thành điểm đến du lịch tổng hợp bao gồm các yếu tố hấp dẫn của điểm tham quan du lịch, khách sạn, cơ sở vui chơi giải trí, nghệ thuật, giá trị văn hoá, có cơ sở vật chất và hạ tầng kỹ thuật đồng bộ. - Xây dựng, tổ chức đa dạng các loại hỡnh, sản phẩm du lịch như: du khảo làng quê, làng nghề truyền thống, du lịch thể thao chơi golf, du lịch leo nỳi, đi rừng, khám phá hang động, nghỉ dưỡng cuối tuần - Tăng cường liên kết phát triển du lịch với các tỉnh, thành phè thuéc phía Bắc, xây dựng sản phẩm liên vùng nhằm tăng cường sự hấp dẫn đối với du khách quốc tế. - Mở rộng khai thác có hiệu quả những thị trường du lịch quốc tế trọng điểm, chủ yếu là các nước Châu Âu, Châu á và Bắc Mỹ đi đôi với phát triển thị
  36. trường du lịch nội địa, đáp ứng nhu cầu và khả năng thanh toán của nhân dân, phù hợp với điều kiện cụ thể của Hải Dương. - Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, quảng bá du lịch, tăng cường liên kết giữa các đơn vị hoạt động du lịch nhằm nâng cao sức cạnh tranh; nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch hiện có và phát triển thêm các sản phẩm mới; tăng cường nhân thức cộng đồng về hoạt động du lịch, tạo sự chuyển biến sâu rộng trong xó hội, ý thức trỏch nhiệm tham gia phỏt triển du lịch, từ việc giữ gỡn bảo vệ tài nguyờn, sản phẩm du lịch, bảo vệ mụi trường, trật tự vệ sinh,trËt tù an toàn xó hội ở cỏc khu du lịch, tuyến du lịch và cỏc điểm du lịch, đến việc khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch. Đồng thời, tiếp tục mở thêm các dịch vụ mới cho khách lưu trú như: dịch vụ thông tin, Internet tốc độ cao, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, đa dạng hoá sản phẩm c¸c dịch vụ ăn uống.vµ c¸c dịch vụ khácv.v gúp phần nõng cao chất lượng phục vụ, kéo dµi thời gian lưu trú của du khách; đẫy mạnh công tác xúc tiến du lịch và xây dựng chương trỡnh phỏt triển, đào tạo nguồn nhân lực du lịch, đáp ứng yêu cầu hội nhập trong giai đoạn mới.v.v II/ Lịch sử hình thành và phát triển của Sở Thương mại – Du lịch Hải Dương. 1. Quá trình hình thành. Ngày 26/11/1946 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 220/SL thành lập Nha Thương vụ trong Bộ kinh tế Việt Nam. Nha Thương vụ được đảm trách nhiều nhiệm vụ khác nhau. Trong đó có nhiệm vụ quan trọng là kinh doanh, buôn bán hàng hoá, tiếp tế lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng phục vụ kháng chiến và đấu tranh kinh tế với địch. Sau khi nước nhà hoàn toàn thống nhất, Đảng, Nhà nước ta quyết định lấy ngày 26/11 hàng năm là ngày Thương mại Việt Nam. 2. Quá trình phát triển. - Trong thời kỳ chống Pháp: Đầu năm 1947 Uỷ ban kháng chiến tỉnh Hải Dương thành lập bộ phận công thương chuyên lo hậu cần cho kháng chiến và đấu tranh kinh tế với địch. Chính quyền các cấp đã vận động người buôn bán nhỏ mang lương thực, thực phẩm thuốc chữa bệnh nhu yếu phẩm
  37. từ vùng tạm chiến ra vùng tự do để trao đổi từng bước hình thành các cơ sở giao lưu kinh tế hàng hoá giữa các vùng. Thời kỳ này vật chất đơn sơ, cửa hàng kho, trạm là lán trại dựa vào nhân dân là chủ yếu. Thương nghiệp quốc doanh được Đảng và Nhà nước giao nắm giữ một số mặt hàng chính bao gồm: lương thực, thực phẩm, sách báo, dược phẩm, tư liệu sản xuất, vật tư nông nghiệp Với đội ngũ vài chục cán bộ, nhân viên chưa qua buôn bán phần lớn đều từ kháng chiến sang hoạt động thương nghiệp, khó khăn nhiều mặt, từ trình độ quản lý tới nghiệp vụ kinh doanh, nhưng các cụ, các bác, các đồng chí không quản ngại gian khổ, khó khăn, phấn đấu hết lòng cho sự nghiệp của ngành, các bộ, nhân viên thương nghiệp vừa buôn bán, vừa vận động nhân dân sản xuất, cung cấp nhu yếu phẩm cho chiến khu kháng chiến, nhiều nhân viên thương nghiệp kiêm cả dân quân du kích trực tiếp chiến đấu chống càn, cứu thương, một số đồng chí bắt tù đày có đồng chí đã hi sinh trên đường vận chuyển hàng hoá tiếp tế lên chiến khu. Có thể nói thời kỳ đầu cách mạng, mặc dù hoạt đồng thương nghiệp Hải Dương rất non trẻ nhưng đã giải quyết được vẫn đề cấp bách về vấn đề hậu cần cho công cuộc kháng chiến thắng lợi và điều quan trọng là đặt nền móng cho quá trình hình thành, phát triển thương nghiệp tỉnh nhà sau này. - Thời kỳ khôi phục phát triển kinh tế ở miền Bắc và phục vụ công cuộc chống Mỹ cứu nước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Hải Dương cùng các tỉnh từ vĩ tuyến 17 trở ra bước vào giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế trong điều kiện vô cùng khó khăn. Khi tiếp quản, cơ sở vật chất về thương nghiệp của chính quyền cũ để lại hầu như không có. Ngành thương nghiệp vừa phải tổ chức lực lượng hàng hoá, lao động, tổ chức mạng lưới buôn bán, bán lẻ từ tỉnh tới huyện phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng cho nhân dân, đồng thời trực tiếp tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các hộ công thương nghiệp tư bản. Chỉ sau một thời gian ngắn, được sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp bộ Đảng, chính quyền, trên 40 hộ công thương nghiệp, phần lớn tập trung tại thị xã Hải Dương đã chấp hành chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước, tự nguyện vào công tư hợp doanh, chuyển giao tài sản hàng hoá, cơ sở vật cho nhà nước quản lý.
  38. Trong thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế của những năm 60, thương nghiệp Hải Dương nhanh chóng phát triển với quy mô ngày càng mở rộng, hệ thống thương nghiệp từ tỉnh tới huyện, cụm xã, đường phố bao gồm: - Các công ty chuyên doanh cấp tỉnh như: Công ty công nghệ phẩm, công ty Kim khí hoá chất, Công ty vật liệu kiến thiết, Công ty vật tư lâm sản, Công ty nông thổ sản, Công ty dược phẩm, Công ty lương thực, Công ty ăn uống, Công ty thực phẩm, HTX mua bán tỉnh, Công ty ngoại thương - ở cấp huyện, thị xã: tổ chức các công ty thương nghiệp huyện kinh doanh tổng hợp, các trạm thu mua hàng ngoại thương XK, và hệ thống HTX mua bán phủ kín từ huyện tới các xã trong toàn tỉnh. Năm 1964 giặc Mỹ bắn phá miền Bắc, chiến tranh lan rộng, cùng với cả nước thương nghiệp Hải Dương, sản xuất kinh doanh, phục vụ theo yêu cầu nhiệm vụ mới "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Hàng năm ngành thương nghiệp đã lo đủ hàng hoá thiết yếu cung cấp theo định lượng cho cán bộ, nhân dân và bộ đội với khẩu hiệu "Không sợ hàng thiếu, chỉ sợ phân phối không công bằng". Lúc này thương nghiệp Hải Dương phải chia nhỏ kho tàng cửa hàng, trạm, trại tới các điểm dân cử, bám sát các cụm cơ quan sơ tán, tổ chức nhiều đội xung kích, đưa hàng tới trận địa phục vụ chiến sỹ. Hầu hết nam giới của ngành trong độ tuổi đều lên đường ra trận, nhiều kho, trạm, cửa hàng do 100% nữ giới đảm nhiệm, các mẹ, các chị, vừa buôn bán, vừa trực chiến nhưng vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Sau cuộc chiến tranh, giải phóng nhiều cán bộ, Đảng viên, công nhân viên của ngành đã mang thương tật suốt đời, hàng chục liệt sỹ là cán bộ công nhân viên của ngành đã hy sinh trên các chiến trường từ bắc tới nam. -Thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường Từ sau năm 1975, mà đặc biệt là trong giai đoạn 20 năm đổi mới, ngành Thương mại đã có bước chuyển về chất. Xuất phát là một trong những kinh tế được bao cấp triệt để nhất của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, khi chuyển sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, ban đầu còn bỡ ngõ, lúng túng, thậm trí còn trao đảo không chỉ đối với doanh
  39. nghiệp nhà nước, mà còn cả doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhưng sau đó được Đảng và Nhà nước, sự quan tâm của toàn xã hội đã giúp Thương mại Hải Dương từng bước trưởng thành. Từ những cơ sở đầu tiên đến nay đã có đội ngũ ngày càng lớn mạnh gồm: 25 doanh nghiệp TW, 10 doanh nghiệp nhà nước cấp tỉnh, 14 công ty CP, 177 Công ty TNHH, 137 doanh nghiệp tư nhân, và trên 20000 hộ kinh doanh cá thể, 147 chợ trên địa bàn tỉnh, tạo nên một sức mạnh tổng hợp trong sản xuất, kinh doanh. Từ đầu thập kỷ 90, ngành Thương mại chuyển mạnh sang kinh doanh, cơ chế hai giá được xoá bỏ, lưu thông hàng hoá thuận tiện, tình trạng “ ngăn sông cấm chợ ” được khắc phục, nền sản xuất bắt đầu phát triển. Hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng. Ngay từ những năm 1970, tỉnh ta đã đẩy mạnh XK hàng hoá, nhằm nâng cao hiệu quả, và tăng kim ngạch XK. Kim ngạch XK qua một số năm gần đây đạt được như sau: Năm 1997 đạt 36,85 triệu đôla Mỹ, Năm 1998 đạt 34,4 triệu đô la Mỹ, Năm 1999 là 45 triệu đôla Mỹ, Năm 2000 là 42,1 đôla. Chủng loại hàng hoá XK của tỉnh ngày càng phong phú, tỷ trọng hàng nông sản thực phẩm XK chiếm khoảng 45%, tiểu thủ công nghiệp chiếm 55% hàng công nghiệp. Hàng nông sản thực phẩm là mũi nhọn của tĩnh đã XK đi 20 nước và vùng lãnh thổ. Từ đó trở đi thì Sở Thương mại và Du lịch tỉnh Hải Dương đã và đang trên con đường phát triển vững bước trên thị trường và đã mang lại nhiều doanh thu cho nhà nươc nói chung và của tỉnh Hải Dương nói riêng cũng như tạo nhiều việc làm cho người dân trong tỉnh. Kết quả đạt được nêu trên là nhờ có sự quản lý Nhà nước về Thương mại đã được tăng cường và đổi mới, chức năng kinh doanh đã được tách hẳn ra khỏi chức năng quản lý nhà nước, các doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh. Bộ máy của Sở Thương mại- Du lịch được tinh giảm, trình độ cán bộ công chức Văn phòng Sở được nâng cao để đảm đương được các công việc quản lý nhà nước về Thương
  40. mại và Du lịch thuộc các thành phần kinh tế và việc quản lý xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn của tỉnh. 3. Vai trò của Sở Thương mại và Du lịch trong hoạt động du lịch tại Hải Dương. - Trình UBND tỉnh ban hành quyết định, chỉ thị quản lý nhà nước về du lịch thuộc phạm vi quản lý của địa phương và phân cấp của Tổng cục du lịch, đồng thời chịu trách nhiệm về nội dung các văn bản đã trình. - Trình UBND tỉnh quy hoạch, kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm, các chương trình, dự án quan trọng về các lĩnh vực về du lịch. - Trình UBND tỉnh quyết định việc phân công, phân cấp hoặc uỷ quyền quản lý nhà nước về lĩnh vực du lịch đối với UBND huyện, thành phố, các sở, ban, ngành theo quy định của pháp luật. - Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch phát triển, các chương trình, dự án về du lịch đã được phê duyệt; chủ trì, phối hợp các sở, ngành có liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở. - Giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể và tư nhân, các thành phần kinh tế, các hội và tổ chức phi chính phủ, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch theo quy định của pháp luật; được quyền yêu cầu các thương nhân báo cáo tình hình cung cấp thông tin về hoạt động du lịch của các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh. - Tổ chức thẩm định hồ sơ và đề nghị Tổng cục Du lịch cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế; cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch; công nhận cơ sở lưu trú du lịch đạt tiêu chuẩn tối thiểu và loại đạt tiêu chuẩn xếp hạng 1 sao, 2 sao; cấp chứng chỉ bồi dưỡng ngắn hạn nghề du lịch; cấp, thu hồi các loại thẻ, giấy phép, văn bằng, chứng chỉ khác thuộc thẩm quyền của Sở theo quy định của pháp luật. - Trình UBND tỉnh quyết định các điểm du lịch, khu du lịch, tuyến du lịch của tỉnh và phân cấp quản lý các điểm du lịch, khu du lịch, tuyến du lịch; chủ trì phối hợp các cơ
  41. quan liên quan nghiên cứu, đề xuất với UBND tỉnh các mô hình, biện pháp bảo vệ trật tự trị an, vệ sinh môi trường tại các khu, tuyến, điểm du lịch. - Quản lý tài nguyên du lịch được giao, điều tra đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch và tổng hợp tình hình đầu tư phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên du lịch trên địa bàn tỉnh. - Tổ chức thực hiện các dự án đầu tư được UBND tỉnh giao, thẩm định hoặc tham gia thẩm định các chương trình, dự án đầu tư phát triển thương mại, du lịch hoặc có liên quan đến thương mại, du lịch theo quy định của pháp luật và phân cấp của tỉnh. - Thực hiện việc đăng ký thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật. - Trình UBND tỉnh chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về cải cách hành chính nhà nước thuộc các lĩnh vực quản lý của Sở. - Hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn nghiệp vụ đối với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, thành phố thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương mại, du lịch. - Thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật về thương mại, du lịch trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật. - Quản lý hoạt động xúc tiến thương mại và du lịch: tổ chức các hoạt động xúc tiến du lịch trong và ngoài nước; cung cấp các thông tin về du lịch, các tổ chức và các cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực du III/ KếT QUả HOạt động du lịch ở hải dương trong những năm qua - Về số lượng khách du lịch: Giai đoạn 2001-2005, tỉnh Hải Dương đón tổng số 2.942.100 lượt khách du lịch qua các cơ sở lưu trú, các điểm dừng chân và khách thập phương đi thăm quan, tham dự các lễ hội cổ truyền trên địa bàn tỉnh. Riêng năm 2004 tổng số khách du lịch qua tỉnh đạt 720.000 lượt khách; vượt mục tiêu của Chương trình đặt ra là đón 500.000 lượt khách vào năm 2005. Trong 5 năm 2001-2005, tổng số lượt khách do các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn đón là 839.452 lượt khách. Trong đó, riêng năm 2001 toàn tỉnh đón 112.452 lượt khách, năm 2005
  42. đón 251.000 lượt khách. Tốc độ tăng trưởng bình quân cho cả giai đoạn 2001-2005 đối với số lượt khách đạt 25,7%/năm. Được thể hiện qua bảng sau. Biểu 1: Lượng khách du lịch qua các cơ sở lưu trú của Hải Dương giai đoạn 2001-2005 Năm ĐVT 2001 2002 2003 2004 2005 Chỉ tiêu 1. Lượt khách Lượt 112.452 122.000 151.000 203.000 251.000 Khách nội địa 85.466 96.500 120.000 165.500 200.000 Khách quốc tế 26.986 25.500 30.900 37.500 51.000 2. Ngày khách Ngày 193.560 192.890 245.860 339.790 400.000 Khách nội địa 160.206 152.890 183.760 266.400 300.000 Khách quốc tế 33.354 40.000 62.100 73.390 100.000 (Nguồn: Sở Thương mại và Du lịch Hải Dương) - Về doanh thu du lịch: Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của lượng khách du lịch trong giai đoạn 2001- 2005, doanh thu từ hoạt động du lịch trên địa bàn đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Doanh thu du lịch tăng từ 120 tỷ đồng năm 2001 lên 250 tỷ đồng năm 2005; đạt tốc độ tăng trưởng bình quân cả thời kỳ là 20,1%/năm; vượt tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1996-2000 là 18,7%/năm. Ngoài hiệu quả thu được về kinh tế, hoạt động du lịch phát triển còn mang lại hiệu quả xã hội, tạo thêm công ăn việc làm, góp phần thiết thực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tỉnh. Biểu 2: Doanh thu và số nộp ngân sách nhà nước từ hoạt động du lịch Đơn vị tính:tỷ đồng Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Chỉ tiêu 1. Doanh thu 120 140 167 206 250 Trong đó doanh thu từ:
  43. Lữ hành 0,8 7,1 9,0 9,2 10 Cho thuê buồng 13,2 23,0 26,5 28,5 32 Bán hàng ăn uống 40,3 35,6 40,4 45,3 50 Bán hàng hoá 35,2 28,5 32,1 50,0 58 Vận chuyển khách du lịch 16,3 30,9 38,2 44,8 65 Phục vụ vui chơi giải trí và 13,4 13,0 15,7 21,2 25 các dịch vụ khác Doanh thu khác (giặt là, 0,8 1,9 5,1 7,0 10 điện thoại, bán vé máy bay ) 2. Nộp ngân sách 2 4 5,15 6 9 (Nguồn: Sở Thương mại và Du lịch Hải Dương) - Về bộ máy quản lý nhà nước về du lịch: Từng bước được củng cố, kiện toàn phát huy tốt hơn chức năng tham mưu quản lý nhà nước nhất là trong việc xây dựng và triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch, công tác thông tin, tuyên truyền, xúc tiến, quảng bá du lịch, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh. IV/ Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân: 1. Những hạn chế, tồn tại: Mặc dù thu được những kết quả khả quan ở mọi mặt công tác, nhưng hoạt động du lịch Hải Dương trong giai đoạn 2001-2005 vừa qua vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Hoạt động du lịch chủ yếu dựa trên cơ sở khai thác các tài nguyên sẵn có, đầu tư cơ sở vật chất còn ở mức khiêm tốn, thiếu đồng bộ nên chưa có sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn và thu hút du khách. Khách du lịch đến Hải Dương chủ yếu là khách trong nước, với đặc thù là khách tham quan, khách đi lễ hội, khách đi nghiên cứu các di tích lịch sử văn hoá đền chùa tập trung vào mùa lễ hội. Lượng khách nước ngoài qua tỉnh trong giai đoạn 5 năm qua có xu hướng tăng song chủ yếu tăng nhanh tại các điểm dừng chân du lịch, khách lưu trú tại tỉnh chưa nhiều,
  44. nếu có thì chủ yếu là khách khảo sát thực hiện dự án đầu tư tại tỉnh; khách của các tổ chức phi chính phủ làm từ thiện; nguồn khác là người Hải Dương làm ăn sinh sống ở nước ngoài về thăm thân nhân . Kết cấu hạ tầng cho du lịch đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng được một cách đầy đủ yêu cầu phát triển; hạ tầng đến và trong các khu, điểm du lịch còn yếu, chưa có hệ thống xử lý môi trường đạt tiêu chuẩn . 2. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, tồn tại : Các tiện nghi vui chơi giải trí của Hải Dương nhìn chung chưa phát triển. Hiện nay tỉnh mới có một sân GOLF; phục vụ khách sạn mới dừng lại ở một số phòng massage, karaoke, sân tennis chủ yếu phục vụ khách nội địa. Các dịch vụ khác như bể bơi, câu lạc bộ qua đêm và các hoạt động tiêu khiển khác cho du khách hầu như chưa phát triển. Do đó, chưa đủ sức hấp dẫn thời gian lưu lại của khách. Qua thực tế khách đến Hải Dương với số lượng tương đối đông, nhưng họ chủ yếu đi về trong ngày do vậy hiệu quả kinh doanh du lịch chưa cao. Mặc dù đã được đào tạo và cải thiện đáng kể trong những năm qua, nhưng nhìn chung nguồn nhân lực du lịch ở Hải Dương chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại. Những yếu kém về quản lý, nghiệp vụ, ngoại ngữ và nhận thức về công tác du lịch đã làm giảm chất lượng phục vụ khách của Du lịch Hải Dương. Khai thác du lịch mang tính tự phát, manh mún, chú ý nhiều đến hiệu quả trước mắt mà chưa chú ý đến việc phát triển lâu dài. Nhận thức xã hội về du lịch còn những bất cập nhất định, chưa có cơ chế chính sách hợp lý để có thể thu hút các nguồn vốn tập trung cho du lịch nhằm tạo thế, tạo lực, đẩy mạnh hoạt động du lịch. Hệ thống quản lý Nhà nước về du lịch từ tỉnh xuống cơ sở còn bất cập; công chức làm công tác quản lý Nhà nước về du lịch tại các huyện, thành phố hầu như chưa có do đó các chính sách của Nhà nước về quản lý cơ sở lưu trú, kinh doanh lữ hành chưa được thực hiện nghiêm. Công tác xúc tiến quảng bá du lịch chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức, đầy đủ và thường xuyên.
  45. chương III:Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển du lịch Hải Dương I/ Phương hướng, mục tiêu phát triển du lịch Hải Dương 1. Phương hướng chung. Phát triển du lịch Hải Dương trở thành một ngành kinh tế quan trọng, trên cơ sở phát huy các nguồn lực sẵn có; tranh thủ mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử của tỉnh. Phát triển du lịch theo hướng du lịch văn hoá lịch sử, du lịch thể thao, du lịch làng nghề và du lịch sinh thái; tạo ra các sản phẩm du lịch đặc thù độc đáo mang sắc thái riêng của Hải Dương, đặt du lịch của tỉnh trong hệ thống du lịch của vùng và cả nước để thu hút du khách trong nước và quốc tế. Nâng cao chất lượng, quy mô và hiệu quả hoạt động du lịch. Liên kết chặt chẽ các ngành liên quan đến hoạt động du lịch để đầu tư phát triển một số khu du lịch tổng hợp và trọng điểm. Tăng cường nhận thức của toàn dân về vai trò của du lịch, nâng cao ý thức bảo vệ, giữ gìn và khai thác hợp lý tài nguyên du lịch. Phát triển du lịch đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao, đảm bảo sự tăng trưởng liên tục, xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh nhưng gắn liền với việc bảo vệ và tôn tạo cảnh quan, môi trường sinh thái góp phần tích cực trong việc giữ gìn môi trường tự nhiên và xã hội. 2. Mục tiêu chủ yếu.
  46. - Đầu tư xây dựng và phát triển khu du lịch Côn sơn - Kiếp bạc thành khu du lịch đạt tiêu chuẩn quốc gia. Xây dựng và phát triển các khu vui chơi giải trí tại đô thị phía Tây thành phố Hải Dương và khu vực Sao Đỏ, Chí linh. - Phát triển nguồn nhân lực du lịch ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ phát triển ngành. - Tốc độ tăng trưởng doanh thu du lịch bình quân đạt 22%/năm; tốc độ tăng trưởng lượt khách du lịch qua các cơ sở lưu trú bình quân đạt 18%/năm; - Phấn đấu riêng năm 2010 đạt doanh thu du lịch 700 tỷ đồng; tổng số lượt khách qua các cơ sở lưu trú là 600.000 lượt người, trong đó khách quốc tế 150.000 lượt người. II/ Nhiệm vụ phát triển Du lịch Hải Dương trong giai đoạn mới. - Hoàn chỉnh báo cáo tổng hợp xây dựng tuyến du lịch đường sông tỉnh Hải Dương. - Xây dựng Quy hoạch chi tiết 3 vùng: Côn Sơn- Kiếp Bạc; Kính Chủ- An Phụ; Đảo Cò- Chi Lăng Nam. - Xây dựng Đề án phát triển du lịch Hải Dương. năm 2006 – 2010. - Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch của tỉnh nhằm đáp ứng tốt nhu cầu phát triển du lịch của tỉnh trong giai đoạn mới. - Đẩy mạnh xúc tiến quảng bá du lịch, tuyên truyền quảng bá nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, tích cực thâm nhập và mở rộng thị trường. - Tổ chức liên hoan du lịch làng nghề và văn hoá ẩm thực năm 2006. - Triển khai Luật Du lịch tới toàn thể các đơn vị hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh. - Khảo sát thực tế và phân loại các khu, tuyến, điểm du lịch. - Công tác thi đua khen thưởng: phát động phong trào thi đua trong các đơn vị hoạt động du lịch của các tập thể và cá nhân và tổng kết kịp thời những gương, những điển hình tiên tiến. - Các công việc chuyên môn: thẩm định cơ sở lưu trú, cấp thẻ Hướng dẫn viên, báo cáo định kỳ, đột xuất với các cấp trên đảm bảo kịp thời, đầy đủ - Thực hiện tốt các công việc khác khi được Tổng cục du lịch và lãnh đạo Tỉnh giao. III/ Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch Hải Dương. Để thực hiện được các nmục tiêu, nhiệm vụ cũng như trong quá trình phát triển du lịch của tỉnh Hải Dương cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
  47. 1. Quy hoạch lãnh thổ trên dịa bàn tỉnh. Triển khai lâp, xét duyệt các đồ án quy hoạch chi tiết khu vực trọng điểm, trên cơ sở đó xây dựng các dự án ưu tiên theo từng giai đoạn. Trong đó đặc biệt quan tâm lập và xét duyệt các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cấp, phục hồi các di tích lịch sử văn hoá cho các khu vực trong điểm. Phát huy việc xã hội hoá phát triển du lịch, thực hiện quy hoạch theo tinh thần Nghị định 52/1999/NĐ-CP và các văn bản khác của Nhà Nước về quản lý quy hoạch của Chính Phủ về Quy chế quản lý đầu tư xây dựng, công bố rộng rãi các quy hoạch phát triển du lịch sau khi được cấp thẩm quyền phê duyệt, tăng cường quản lý theo quy hoạch. Trong công tác quy hoạch cần lưu tâm đến một số điểm: - Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển du lịch Hải Dương đến năm 2010. - Tiến hành thiết kế các quy hoạch chung – Phối hợp đồng bộ với quy hoạch văn hoá và quy hoạch xây dựng cũng như quy hoạch của các chuyên ngành khác + Côn Sơn – Kiếp bạc + An Phụ – Dương Nham + Quy hoạch các điểm du lịch ở các huyện ( các di tích quan trọng, danh y Tuệ Tĩnh, cây vải Thanh Hà, đảo cò Chi Lăng ) - Rà soát lại các quy hoạch và dự án đã có - Tăng cường công tác quy hoạch gắn liền với dự án, các chủ đầu tư có tiềm lực về kinh tế trong và ngoài nước - Tăng cường công tác quy hoạch với việc quản lý tốt quy hoạch 2. Về thông tin, tuyên truyền, xúc tiến du lịch: Tuyên truyền hình ảnh và du lịch Hải Dương với cộng đồng du lịch trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức: trên các phương tiện thông tin đại chúng; phát hành sách, tờ gấp, tờ rơi để giới thiệu về văn hoá Hải Dương, các lễ hội truyền thống, các khu danh thắng, điểm du lịch cũng như tiềm năng du lịch của tỉnh với khách du lịch và các nhà đầu tư trong nước, quốc tế. Với đặc thù là một ngành kinh tế tổng hợp và mang tính xã hội hoá cao. Vì vậy cần phải thực hiện các biện pháp về thông tin, tuyên truyền để tạo nên sự chuyển biến trong
  48. nhận thức về ngành du lịch trong các cấp, các ngành và cộng đồng dân cư trong tỉnh; nâng cao nhận thức của toàn dân về phát triển du lịch tạo cho các điểm du lịch thực sự hấp dẫn, an toàn và thân thiện cho du khách. Xây dựng “Chương trình xúc tiến du lịch trọng điểm của tỉnh trong giai đoạn 2006- 2010”, tổ chức các hoạt động xúc tiến du lịch trọng tâm, với kế hoạch và tiến độ cụ thể nhằm đưa hình ảnh của Hải Dương đến với du khách trong nước và quốc tế. 3. Về phát triển nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định cho sự phát triển của ngành du lịch, trong đó trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ của công nhân viên trong ngành là rất quan trọng. Do đó, việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công nhân viên làm công tác du lịch là hình thức đầu tư đặc biệt, quyết định sự phát triển và tính bền vững trong hoạt động kinh doanh du lịch. Các doanh nghiệp tham gia kinh doanh du lịch cần xác định rõ vai trò cũng như quyền lợi của mình trong việc đưa đi đào tạo hoặc đào tạo tại chỗ cho cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp. Xây dựng kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo ngắn hạn; gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của cán bộ công nhân viên để tạo sự liên kết chặt chẽ trong hoạt động quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp, với phương châm làm ăn lâu dài. Từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý du lịch đủ năng lực điều hành các hoạt động kinh doanh du lịch, có chính sách thu hút nhân tài phục vụ cho ngành du lịch. 4. Nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch của tỉnh: Các khu, điểm du lịch giữ vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn du khách. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hình thành các vùng, các điểm du lịch hấp dẫn, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của du khách là việc làm khó, cần sự nỗ lực, cố gắng của các doanh nghiệp cùng các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý và cần nguồn vốn đầu tư lớn. Những năm qua, chất lượng các sản phẩm du lịch của tỉnh còn quá thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Bởi vậy, lượng du khách đến với tỉnh còn ít, số ngày lưu chân ngắn và chủ yếu đi về trong ngày.
  49. Trong giai đoạn 2006-2010, du lịch Hải Dương cần ưu tiên đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo và xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du lịch trọng điểm của tỉnh là Chí Linh - Kinh Môn và thành phố Hải Dương với các khu vực phụ cận. Tranh thủ sự hỗ trợ về nguồn vốn của Trung ương và sử dụng một phần vốn Ngân sách Nhà nước tỉnh để tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng tại các khu du lịch trọng điểm, đồng thời xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư của mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các cơ sở lưu trú du lịch tại các điểm du lịch tập trung. Trước mắt, tập trung đầu tư hoàn thành 209 phòng nghỉ có trang thiết bị cao cấp tại Chí Linh, 90 phòng tại thành phố Hải Dương; Đến 2010, toàn bộ cả hai khu vực sẽ có tới 350 nhà biệt thự và một khách sạn 5 sao, một khách sạn 4 sao và khoảng 15-20 khách sạn 3 sao. Định hướng cho phát triển du lịch sinh thái, du lịch làng nghề theo vùng núi và vùng đồng bằng. Khu vực đồng bằng sẽ xây dựng điểm du lịch sinh thái miệt vườn vải thiều Thanh Hà, với dự án phát triển du lịch sông Hương - Thanh Hà; điểm du lịch sinh thái Làng Cò - Chi Lăng Nam. Tại vùng núi của tỉnh sẽ hình thành và xây dựng điểm du lịch núi Phượng Hoàng- Côn Sơn- Kiếp Bạc; điểm An Phụ và vùng hang động Dương Nham tại Kinh Môn. Ngoài ra trên địa bàn còn tổ chức du lịch làng nghề ở một số vùng có các nghề truyền thống, nổi tiếng trong và ngoài nước. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển các khu vui chơi giải trí lớn như: công viên vui chơi giải trí tại hồ Bạch Đằng và khu du lịch sinh thái Hải Hà, thành phố Hải Dương; khu du lịch sinh thái Trái Bầu; khu du lịch sinh thái Thạch Khôi- Gia Lộc. 5. Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về du lịch trên địa tỉnh: Ngành du lịch được xác định là một ngành công nghiệp không khói. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới việc phát triển du lịch đã ban hành Luật Du lịch Việt Nam, các Nghị định và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhằm thúc đẩy và quản lý tốt các hoạt động trong lĩnh vực du lịch. Song do hoạt động du lịch là hoạt động kinh tế tổng hợp, mang tính xã hội hoá cao, chịu sự chi phối và quản lý của nhiều ngành, nhiều cấp nên công tác tuyên truyền, phổ biến và thực thi pháp luật còn hạn chế; công tác quản lý nhà nước còn có sự chồng chéo. Do đó, việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước về du lịch là việc cần thiết.
  50. Soạn thảo các văn bản quản lý Nhà nước trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành về cơ chế quản lý du lịch, quản lý tài nguyên du lịch. Thành lập Ban quản lý khu du lịch trọng điểm; triển khai công tác xúc tiến du lịch một cách có hiệu quả. Bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý du lịch tại các huyện thành phố trong tỉnh để nâng cao năng lực quản lý về du lịch. Đồng thời cần thống nhất quản lý trong khu vực có di tích lịch sử, văn hoá, tránh sự chồng chéo chức năng. 6. Về cơ chế chính sách phát triển du lịch. Triển khai thực hiện tốt hơn nữa công tác quy hoạch phát triển du lịch trên địa bàn. Lập, xét duyệt các đồ án quy hoạch chi tiết khu vực du lịch trọng điểm trên cơ sở đó xây dựng các dự án ưu tiên đầu tư theo từng giai đoạn, đảm bảo các công trình có kiến trúc về thẩm mỹ, cấu trúc không gian tạo lên cảnh quan đẹp song phải giữ được vẻ đẹp tự nhiên của khung cảnh chung, trong đó cần quan tâm đến việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cấp, phục hồi các di tích lịch sử văn hoá trong các khu du lịch trọng điểm. Trên cơ sở hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước, xây dựng chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực du lịch áp dụng riêng trên địa bàn tỉnh, nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch nhất là các dự án đầu tư vào khu du lịch trọng điểm. Xây dựng chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng hình thức liên doanh, liên kết đầu tư; hình thành các Tour du lịch trong tỉnh kết nối với du lịch trong khu vực và cả nước để làm tiền đề cho phát triển du lịch lâu dài, bền vững đảm bảo khai thác tốt và bảo tồn tài nguyên du lịch. 7. Giải pháp về vốn. Muốn đầu tư phát triển thì yếu tố quan trọng hàng đầu là vốn, trong khi đó nguồn tích luỹ từ GDP du lịch chỉ đáp ứng một phần nhỏ. Đối với một tỉnh có nguồn thu còn khiêm tốn như Hải Dương thì việc huy động vốn cho đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách và từ tích luỹ của các doanh nghiệp là khá hạn chế, vì vậy cần có những giải pháp linh hoạt để huy động nguồn vốn ở trong nước và từ ngoài nước. Các nguồn vốn có thể huy động thêm là
  51. vốn hỗ trợ của Trung ương và các Bộ, ngành, vốn đầu tư tư nhân, vốn liên doanh liên kết; vốn vay ngân hàng và các nguồn vốn khác. Vấn đề quan trọng là phải tạo được cơ chế, chính sách phù hợp, khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các công trình du lịch theo quy hoạch và dự án đầu tư cụ thể, đồng thời có chính sách rõ ràng về quản lý đầu tư xây dựng, kinh doanh và phân chia lợi nhuận. Một số hướng đi cần nghiên cứu áp dụng: - Nhanh chóng xây dựng các dự án kêu gọi vốn đầu tư cho Du lịch Hải Dương, ban hành các quy định ưu đãi về đầu tư như ưu tiên giải phóng mặt bằng, giảm giá cho thuê đất, miễn giảm các khoản thuế trong một thời gian nhất định - Tập trung xây dựng các quy hoạch và dự án đầu tư cụ thể, sử dụng nguồn vốn đầu tư hỗ trợ hạ tầng du lịch của Trung ương đầu tư hạ tầng cho các khu, điểm du lịch làm đòn bẩy thu hút vốn của các thành phần kinh tế khác đầu tư vào sản phẩm du lịch - Nghiên cứu áp dụng giải pháp “ đổi đất lấy hạ tầng “, đấu thầu sử dụng quỹ đất tạo vốn đầu tư phát triển du lịch. Giải pháp này được thực hiện có hiệu quả ở một số địa phương trong nước. -Tăng cường công tác quản lý thị trường chống thất thu thuế từ các doanh nghiệp và các hộ tư nhân, tiết kiệm các khoản chi không cần thiết, tăng cường liên doanh với các địa phương khác để phát triển du lịch. - Đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp, cấp giấy phép đầu tư, xác định rõ chức năng và trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong việc hướng dẫn, xúc tiến đầu tư, thành lập yhêm các tổ chức xúc tiến đầu tư: khuyến khích phát triển đi đôi với tăng cường quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo vai trò quản lý và điều tiết của cơ quan Nhà nước, đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng của mọi thành phần kinh tế trong khuôn khổ pháp luật. 8. Giải pháp xã hội hoá phát triển du lịch. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, sự phát triển du lịch luôn nằm trong mối quan hệ tương hỗ với các cấp, các ngành, các đoàn thể và toàn xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX xác định là