Luận văn Khảo sát truyền thuyết về lưu nhân chú ở vùng Đại Từ Thái Nguyên

pdf 174 trang ngocly 2040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Khảo sát truyền thuyết về lưu nhân chú ở vùng Đại Từ Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_khao_sat_truyen_thuyet_ve_luu_nhan_chu_o_vung_dai_t.pdf

Nội dung text: Luận văn Khảo sát truyền thuyết về lưu nhân chú ở vùng Đại Từ Thái Nguyên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM  HỒ THỊ MAI HƢƠNG KHẢO SÁT TRUYỀN THUYẾT VỀ LƢU NHÂN CHÚ Ở VÙNG ĐẠI TỪ THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ ANH TUẤN THÁI NGUYÊN - NĂM 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  2. LỜI CẢM ƠN Trước hết, luận văn này như một nén nhang tâm con xin kính dâng lên người anh hùng Lưu Nhân Chú, người con ưu tú của dân tộc, người làm rạng danh non sông đất nước. Em xin trân trọng cảm ơn khoa Sau đại học; khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khóa học này! Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng dạy lớp Cao học Văn học Việt Nam chuyên ngành văn học dân gian khóa 15 - những người đã cung cấp cho em tri thức và phương pháp khoa học cần thiết để em hoàn thành luận văn này! Đặc biệt, em xin bày tỏ tình cảm kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Vũ Anh Tuấn - Người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn thạc sĩ này! Trong quá trình điền dã, điều tra, khảo cứu các tư liệu phục vụ cho luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều tập thể và các cá nhân trên địa bàn huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những người thân luôn sát cánh ủng hộ, động viên, kích lệ giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài này. Đại Từ, tháng 10 năm 2009 Tác giả Hồ Thị Mai Hương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  3. MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU 0 1. Lý do chọn đề tài 1 1.1. Lý do văn hoá xã hội 1 1.2. Lý do khoa học 1 1.3. Lý do cá nhân 3 2. Lịch sử vấn đề 3 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 10 3.1. Đối tượng nghiên cứu 10 3.2. Phạm vi nghiên cứu 10 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 10 5. Đóng góp của luận văn 11 6. Phương pháp nghiên cứu 11 7. Cấu trúc Luận văn 12 B. PHẦN NỘI DUNG 13 Chƣơng một. ĐẠI TỪ - MỘT VÙNG VĂN HÓA LỊCH SỬ 13 1. Đại Từ - một vùng văn hóa lịch sử 13 1.1. Đặc điểm địa lý 13 1.2. Sơ lược lịch sử 15 1.3. Văn hóa dân gian 20 1.3.1. Văn học dân gian 20 1.3.2. Các lễ hội dân gian tiêu biểu 26 1.3.2.1. Hội tung còn ở Phú Xuyên 26 1.3.2.2. Hội xuống đồng ở Hùng Sơn 27 1.3.2.3. Lễ rước kiệu ở Bình Thuận 29 1.3.2.4. Lễ Phật Đản chùa Sơn Dược 30 1.4. Các địa danh văn hóa lịch sử 32 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  4. 1 2. Lưu Nhân Chú - con người trong lịch sử 34 2.1. Bối cảnh thời đại những năm đầu đời Lưu Nhân Chú sống 35 2.2. Lai lịch 35 2.3. Cống hiến của Lưu Nhân Chú trong lịch sử dân tộc 35 2.3.1. Giai đoạn thứ nhất, 1409 đến 1416 36 2.3.2. Giai đoạn thứ hai từ Hội thề Lũng Nhai đến năm đầu dựng cờ khởi nghĩa (1416 - 1418) 37 2.3.3. Giai đoạn thứ ba, mười năm khởi nghĩa (1418 - 1427) 38 2.3.4. Giai đoạn thứ tư - Những năm năm đầu xây dựng đất nước (1428 - 1434) 39 3. Đại Từ và những truyền thuyết về Lưu Nhân Chú và dòng họ Lưu 39 Chƣơng hai. TRUYỀN THUYẾT VỀ LƢU NHÂN CHÚ Ở VÙNG ĐẠI TỪ, THÁI NGUYÊN 42 1. Khảo sát các truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên 42 1.1. Số lượng 42 1.2. Đặc điểm 45 2. Lưu Nhân Chú - lịch sử và truyền thuyết 54 2.1. Hoàn cảnh xuất hiện và thân thế nhân vật 55 2.2. Cuộc đời sự nghiệp của nhân vật 56 2.3. Sau khi Lưu Nhân Chú mất 57 3. Hình tượng Lưu Nhân Chú trong truyền thuyết 59 3.1. Truyền thuyết khắc họa nhân vật Lưu Nhân Chú ở vị thế người anh hùng chống giặc ngoại xâm 59 3.2. Truyền thuyết khắc họa hình tượng Lưu Nhân Chú trên phương diện người dũng sĩ 67 3.3. Lưu Nhân Chú - con người nhân hậu, trung nghĩa 70 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  5. 2 3.4. Truyền thuyết khắc họa Lưu Nhân Chú trên cương vị "nhân thần", "phúc thần" 73 3.4.1. Truyền thuyết khắc họa Lưu Nhân Chú trên cương vị "nhân thần" 73 3.4.2. Phúc thần 74 4. Các môtip nổi bật 75 4.1. Môtip sinh nở thần kì 75 4.2. Môtip "tướng lạ - tài lạ" 80 4.3. Môtip chiến công phi thường 83 4.4. Môtip hóa thân 88 4.5. Môtip linh hiển, âm phù 95 Chƣơng ba. TRUYỀN THUYẾT VỀ LƢU NHÂN CHÚ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA XÃ HỘI ĐƢƠNG ĐẠI TẠI VÙNG ĐẠI TỪ-THÁI NGUYÊN 99 1. Truyền thuyết về Lưu Nhân Chú và tín ngưỡng tại vùng Đại Từ, Thái Nguyên 99 1.1. Lễ hội tưởng nhớ Lưu Nhân Chú tại Đại Từ, Thái Nguyên 99 1.2. Tục thờ cúng Lưu Nhân Chú tại Đại Từ, Thái Nguyên 103 2. Khảo sát về tình hình lưu truyền, phổ biến của truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở Đại Từ, Thái Nguyên 106 2.1. Đặc điểm phân bố 106 2.2. Mức độ phổ biến 110 3. Một số đề xuất, kiến nghị 119 C. KẾT LUẬN 126 TÀI LIỆU THAM KHẢO 131 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  6. 1 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Lý do văn hoá xã hội Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn đổi mới và hội nhập. Nghị quyết hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VII đã khẳng định: "Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" [7, tr.1]. Văn kiện lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam cũng chỉ rõ: "Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Cần phải hết sức coi trọng, bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể" [7, tr.1]. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn khuyến khích việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa truyền thống để khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc. Điều đó trở thành nội lực tạo nên sức mạnh để Việt Nam hòa nhập cùng thế giới. Nghiên cứu truyền thuyết nói chung và truyền thuyết về Lưu Nhân Chú nói riêng là một hoạt động thiết thực để thực hiện chủ trương đường lối của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước - giữ gìn phát huy bản sắc dân tộc. 1.2. Lý do khoa học Từ hàng nghìn năm nay đã và đang tồn tại một nền văn hoá Vịêt Nam thống nhất. Nhưng bản sắc văn hoá Việt Nam lại được biểu hiện thông qua sự đa dạng của các tộc người trong cộng đồng người Việt Nam và sự phong phú của các vùng miền đất nước. Nghiên cứu các trường hợp của Folklore cụ thể từng vùng văn hoá không phải là hướng đi mới, nhưng đối với Việt Nam là hướng đi rất cần thiết. Nó có tác dụng bảo tồn văn hoá truyền thống; sự giao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  7. 2 thoa văn hoá các tộc người. Đại Từ - Thái Nguyên là một vùng văn hoá. Vốn là vùng đất có vị thế đặc biệt, Đại Từ đã từng là vị trí chiến lược cho các cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Vì vậy, nghiên cứu vùng văn hoá Đại Từ là một việc làm cần thiết đáng được chú ý. Hơn năm trăm năm về trước, khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ (1418), Thái Nguyên là một trong những trung tâm kháng chiến chống giặc Minh xâm lược với một dòng họ bốn đời làm phiên trấn Thái Nguyên, cha con Lưu Nhân Chú tổ chức lực lượng kháng chiến ngay tại quê nhà. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến người trai yêu nước ấy đã hướng về đất Lam Sơn, tự nguyện đứng dưới lá cờ khởi nghĩa của Lê Lợi. Là một trong những người tham dự Hội thề Lũng Nhai, có mặt ngay từ đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chỉ huy trực tiếp nhiều trận đánh lớn của nghĩa quân Lam Sơn, đặc biệt là những trận đánh mang tính chất quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến, Lưu Nhân Chú chứng tỏ bản lĩnh và tài năng một nhà quân sự xuất sắc. Ông có những cống hiến to lớn trong kháng chiến, dẫn tới sự thành lập vương triều nhà Lê, một vương triều thịnh đạt trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Lưu Nhân Chú một danh nhân lịch sử dân tộc, niềm tự hào của quê hương Đại Từ - Thái Nguyên. Danh nhân lịch sử Lưu Nhân Chú đã được người đời dệt nên những truyền thuyết đẹp. Đây là hiện tượng văn hoá rất đáng lưu ý, chưa được lưu truyền rộng rãi xứng đáng với vị thế của Lưu Nhân Chú trong lịch sử dân tộc. Vì vậy, chúng tôi đi vào tìm hiểu những truyền thuyết về Lưu Nhân Chú hiện đang được lưu hành ở vùng Đại Từ - Thái Nguyên với mong muốn phần nào làm sáng tỏ vị trí của danh nhân Lưu Nhân Chú trong tâm thức cộng đồng, cả về diện rộng và chiều sâu. Truyền thuyết và lễ hội vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhờ truyền thuyết, lễ hội bám chặt gốc rễ vào mảnh đất đời sống, trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tâm linh của con người. Truyền thuyết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  8. 3 là chiếc cầu nối giữa niềm tin, cảm xúc của cộng đồng với tín ngưỡng, phong tục, tập quán. Niềm tin trong truyền thuyết được hiện thực hóa trong lễ hội. Lễ hội giúp truyền thuyết được lưu giữ và có sức lan tỏa rộng rãi. Thông qua việc khảo sát, phân tích các môtip, những đặc điểm nội dung và nghệ thuật cũng như mối quan hệ giữa truyền thuyết về Lưu Nhân Chú với lễ hội núi Văn, núi Võ ở Đại Từ, Thái Nguyên cũng là một đóng góp cho hướng nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian theo tính nguyên hợp. 1.3. Lý do cá nhân Là một người con của quê hương Đại Từ - Thái Nguyên, người viết mong muốn đóng góp một phần công sức vào việc giữ gìn và phát triển di sản văn hoá dân gian trên quê hương mình. Và tìm hiểu những truyền thuyết về Lưu Nhân Chú trên quê hương Đại Từ là một hoạt động thiết thực giúp tôi có thêm những hiểu biết về văn hoá dân gian địa phương. Từ đó, càng tự hào về vùng quê cách mạng của mình. Đối với một giáo viên Ngữ văn, sinh ra, lớn lên, trưởng thành và công tác trên vùng đất Đại Từ thân yêu, đây là nền tảng vô cùng thuận lợi để tôi giúp học sinh hiểu biết về lịch sử và văn hoá địa phương. Và đặc biệt, việc tìm hiểu chuỗi truyền thuyết về Lưu Nhân Chú có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động dạy học văn học dân gian địa phương theo đặc trưng thể loại - gắn với môi trường diễn xướng. Đồng thời, giáo dục học sinh lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ tôn kính người anh hùng có công chống giặc ngoại xâm. 2. Lịch sử vấn đề Lưu Nhân Chú thuộc dòng dõi quý tộc. Theo Gia phả thực lục của dòng họ Lưu thì đất Thuận Thượng là do công lao của ông tổ họ Lưu chiêu mộ dân chúng khai sơn, phá thạch mà thành ruộng, thành làng. Họ Lưu ở vùng Thuận Thượng được nhà Trần phong chức tước cho tập thể làm Phụ đạo chính ở đất Thái Nguyên đã bốn đời. Với uy thế chính trị và tiềm lực kinh tế, họ Lưu trở thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  9. 4 thủ lĩnh, có uy tín bao trùm trong vùng, được dân chúng nương nhờ tin cậy. Đến lượt mình Lưu Nhân Chú cũng đã để lại những dấu ấn nhất định trong lịch sử Việt Nam với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và buổi đầu xây dựng nhà Lê đầu thế kỷ XV. Trong khoảng mười năm khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh xâm lược, Lưu Nhân Chú được chủ tướng Lê Lợi tin cẩn, giao cho nhiều trọng trách. Do vậy, cho nên sử sách là nguồn tư liệu đầu tiên ghi chép về thân thế, sự nghiệp của nhân vật này. Sử ghi chép về Lưu Nhân Chú khá rõ, hầu hết nhằm nêu bật vị trí của ông trong mười năm khởi nghĩa chống quân Minh và những năm đầu triều Lê sơ thành lập. Bộ sách sớm nhất chép về Lưu Nhân Chú là Lam Sơn thực lục. Lam Sơn thực lục là quyển sách xưa nhất về khởi nghĩa Lam Sơn. Có thể nói đó là nguồn gốc các loại tài liệu lịch sử về cuộc kháng chiến chống Minh trong giai đoạn lịch sử từ 1418 đến 1428. Trong cuốn sách này chép tên ông là Lê Nhân Chú (sau khởi nghĩa Lam Sơn Lưu Nhân Chú được Lê Lợi ban “Quốc tính"họ Lê). Để thống nhất cách gọi chúng tôi đổi thành Lưu Nhân Chú. Chúng tôi thống kê được năm lần, tác giả Lam Sơn thực lục chép đến tên Lưu Nhân Chú: “Nước mình vào khoảng năm Hồng Hi tức năm Ất tị (1425) đêm vua chọn quân tinh nhuệ, phục ở chỗ hiểm. Giặc không ngờ đem hết quân ra. Vua tung phục binh xông ra đánh giặc. Bọn Lê Sát, Lê Vấn, Lê Nhân Chú, Lê Nhân, Lê Chiến, Lê Tôn Hiền, Lê Khôi, Lôi Bôi, Lê Văn An đều đua nhau lên trước phá trận giặc. Giặc thua to vỡ chạy [38, tr.45]. “Năm ấy ngày 15 tháng 4 vua bèn chia hai nghìn tinh binh, hai thớt voi, sai bọn cháu ngoại là Lê Lễ, Lê Sát, Lê Bị, Lê Triện, Lê Nhân Chú suốt ngày đi đánh úp thành Tây Đô [38, tr.45]. “Lại sai bọn Lê Nhân Chú, Lê Bị đem hơn ba nghìn quân Thanh Hoá và hai thớt voi ra các lộ Khái Châu, Thượng Hồng, Hạ Hồng, Bắc Giang, Lạng Giang để cắt đường viện binh từ phía Khâu Ôn" [38, tr.49]. “Năm Đinh mùi (1427) liền sai bọn Lê Nhân Chú, Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lĩnh, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  10. 5 Lê Luận đem một vạn tinh binh và năm thớt voi ở ải Chi Lăng để chờ" [38, tr.53]. “Bọn Sái, Chú, Lý Lai đưa các tướng cả tung binh ra đánh. Giặc lại thua to" [38, tr.54], “Khi quân giặc giải hoà vua kiên quyết từ chối không cho, sai bọn Lê Hối, Lê Vấn, Lê Khôi đem ba nghìn quân và bốn thớt voi cùng với bọn Sái, Lý, Nhân Chú, Văn An tiến đánh [38, tr.54]. Qua thống kê, chúng tôi thấy ở bộ sách này khi chép đến Lưu Nhân Chú là gắn liền tên tuổi của ông với những trận đánh mà kết quả đều chiến thắng vang dội của nghĩa quân Lam Sơn. Bên cạnh Lam Sơn thực lục, còn một tài liệu gốc nữa về khởi nghĩa Lam Sơn, có ghi chép về Lưu Nhân Chú là Bài văn hội thề. Đây là bài văn do Nguyễn Trãi soạn thảo để làm văn bản ký kết chính thức giữa Lê Lợi và Vương Thông tại lễ hội thề diễn ra ở phía nam thành Đông Quan vào ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427), bản chép “Tôi là đại đầu mục nước An Nam tên là Lê Lợi và bọn Trần Văn Hãn, Lê Nhân Chú, Lê Vấn, Trần Ngân cùng với " [62, tr.281]. Trong số đại biểu của phái đoàn nghĩa quân Lam Sơn, ngoài vị chủ tướng Lê Lợi, chúng ta còn thấy Lưu Nhân Chú đứng hàng thứ hai chỉ sau Trần Văn Hãn. Bộ chính sử của nhà Lê là Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép nhiều sự kiện liên quan đến Lưu Nhân Chú. Trong bộ sách có những ghi chép về Lưu Nhân Chú trùng với Lam Sơn thực lục. Song có một sự kiện quan trọng về danh tướng này là ông được phong chức Đại tư mã. Theo quan chiếu của triều Lê, chức quan Đại tư mã chịu trách nhiệm phụ trách toàn thể quân đội lúc bấy giờ, sách viết: “Tháng 6 năm Đinh mùi (1427), lấy thông hầu Lưu Nhân Chú làm hành quân đốc quản, Nhập nội Đại tư mã, Lĩnh tiền hậu tả hữu trí vệ, kiêm trị tân vệ quân sự [62, tr.283]. Lam Sơn thực lục và Đại Việt sử ký toàn thư, mặc dù đã chép khá kỹ về hành trạng của Lưu Nhân Chú, nhưng bỏ qua nhiều sự kiện quan trọng liên quan tới thân thế, sự nghiệp và cả cái chết của ông. Những khiếm khuyết của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  11. 6 hai bộ sử trên đã được Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn chép khá rõ. Ở đây chúng tôi chỉ thâu tóm những ý chính: “Lưu Nhân Chú người xã An Thuận Thượng huyện Đại Từ, nguyên trước họ Lưu được vua ban họ. Lúc trẻ nghèo khổ làm nghề buôn bán. Một đêm ông nằm ngủ trọ ở đền thờ nằm mộng được điềm tốt, sau đó đến Lam Sơn đem hết sức phò Lê Lợi. Năm Bính Thân (1416) tham gia hội thề. Năm Thuận thiên thứ 2 (1429) khắc hiến công thần. Năm thứ tư được phong là Nhập nội tư khấu. Năm thứ 6 (1433) vua mất bị ngầm đánh thuốc độc giết chết, về sau được vua Thái Tông minh oan. Năm Hồng Đức thứ 15 (1484) tặng là Thái phó vinh Quốc công" [23, tr.33, 34]. Sử gia Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí chép về tiểu sử và hành trạng của Lưu Nhân Chú, cơ bản như trong cuốn Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn. Nhưng trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú có chép lại toàn bài văn Chế của Lê Lợi ban cho Lưu Nhân Chú. Bài Chế có đoạn viết ca ngợi công lao của Lưu Nhân Chú: “Xét (Lưu Nhân Chú) đây: Tài năng như cây tùng, cây bách, đồ dùng cho nước như ngọc “phan”, ngọc “dư” sáng nghiệp là khó, ngươi đã lấy võ công mà dẹp được loạn; giữ cơ nghiệp có sẵn không dễ, phải tìm hiền tài để bảo người sau " [15, tr.324 ]. Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục được chép biên soạn dưới triều vua Tự Đức (1848 - 1883), khi chép về Lưu Nhân Chú cơ bản theo Lam Sơn thực lục và Đại Việt sử ký toàn thư nhưng có nói rõ hơn về cái chết của Lưu Nhân Chú do Tư đồ Lê Sát hãm hại. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy những cuốn sách đã nói trên ghi chép về nhân vật Lưu Nhân Chú ở góc độ lịch sử và chủ yếu là hành trạng, công tích, tiểu sử. Nhưng phải kể đến cuốn Đại Nam thống nhất chí, đây là bộ sách địa lý học, lịch sử được biên soạn vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, trong mục nhân vật chí được chép tiểu sử để biểu dương của tỉnh Thái Nguyên có chép về Lưu Trung, Lưu Nhân Chú như sau: "Lưu Trung, người xã Vân Yên, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  12. 7 huyện Đại Từ. Cuối đời Trần, Hồ Quý Ly cướp ngôi, quân Minh xâm lược. Lưu Trung cùng con là Chú gánh dầu đi bán, khi đến đền Cẩm ở xã Quan Ngoại huyện Tam Dương tỉnh Sơn Tây, gặp mưa gió, phải vào ngủ đỗ trong đền. đêm đến nửa trống canh một nghe có tiếng hỏi rằng:“Hôm nay bác có lên chầu trời không? Nghe trong đền có tiếng trả lời rằng: “Hôm nay tôi có khách, bác lên chầu trời nếu có việc gì, khi trở về, xin bác nói cho tôi biết”. Đến trống canh năm, chợt nghe có tiếng báo lại rằng: “Hôm nay trên thiên đình yết bảng cho Lê Lợi là dân thôn Như Áng sách Khả Lam, huyện Giang Lộ, lộ Thanh Hoá làm vua”. Cha con Lưu Trung lấy làm kỳ dị, bèn lén lút vào Lam Sơn thờ Lê Thái Tổ. Sau này đánh giặc nhiều công, được liệt vào hàng công thần, phong tước cho quốc tính”. Những ghi chép trên, đã phần nào hé mở một chút huyền thoại hoặc tư liệu dân gian về nhân vật này. Đó là chi tiết cha con Lưu Nhân Chú được báo mộng. Ngoài những bộ sử lớn của dân tộc, sau này đã có nhiều công trình lịch sử, trong đó ít nhiều có viết về Lưu Nhân Chú. Chủ yếu những cuốn sách ấy viết dưới góc độ sử học do vậy chúng tôi không tham khảo thêm được gì từ những nguồn tư liệu này ngoài cuốn Đại Nam nhất thống chí. Đến đây, có thể khẳng định những truyền thuyết về nhân vật Lưu Nhân Chú chưa có tác giả nào nghiên cứu. Đến năm 1985, Sở văn hoá thông tin Bắc Thái xuất bản cuốn Con người và sự tích Bắc Thái trong đó có ghi lại truyền thuyết Thượng tướng quân Lưu Nhân Chú (do hai tác giả Vũ Anh Tuấn và Hà Đức Toàn sưu tầm). Lần đầu tiên truyền thuyết về Lưu Nhân Chú được ghi lại thành văn. Đối với chúng tôi văn bản này là một tài liệu có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu về truyền thuyết Lưu Nhân Chú. Truyền thuyết này còn được in trong cuốn Núi Văn núi Võ và Lưu Nhân Chú do UBND huyện Đại Từ xuất bản năm 1992 và cuốn Bắc Thái văn học do Sở Giáo dục - Đào tạo Bắc Thái xuất bản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  13. 8 năm 1995. Theo PGS. TS Vũ Anh Tuấn thì truyền thuyết Lưu Nhân Chú được kể ở nhiều nơi, những mảnh truyền thuyết về vị anh hùng này dồn tụ xoay quanh di tích danh thắng núi Văn, núi Võ địa đầu xã Văn Yên, Đại Từ. Trong cuốn Kho báu vùng hồ (Vũ Anh Tuấn - Vũ Phong sưu tầm và biên soạn), có truyền thuyết Sự tích núi Văn núi Võ, đã ít nhiều kể về nhân vật Lưu Nhân Chú. Ngày 22 tháng 8 năm 2001, UBND tỉnh Thái Nguyên kết hợp với Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Viện sử học Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học Danh nhân lịch sử Lưu Nhân Chú. Cuộc hội thảo đã đi sâu phân tích và lí giải có sức thuyết phục để làm rõ hơn những cống hiến của Lưu Nhân Chú trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước những thập niên đầu thế kỉ XV. Kết quả của Hội thảo đã được tập hợp trong cuốn Danh nhân lịch sử Lưu Nhân Chú do Sở văn hoá - Thông tin Thái Nguyên xuất bản. Đây là hội thảo thiên về sử học cho nên không có bài viết nào đề cập đến những truyền thuyết về Lưu Nhân Chú. Tuy nhiên, trong bài tham luận “Gia phả dòng họ Lưu Nhân Chú xã Vân Yên, huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên”, các tác giả đã dịch và công bố trọn vẹn gia phả. Trong cuốn gia phả có chi tiết truyền thuyết hoá về họ tộc mình như sau: “Mẹ của Lưu Trung là Nguyễn Thị Thành nằm mơ thấy một ông lão cho một viên thuốc rồi bảo uống. Từ lúc tỉnh dạy thấy bụng đau dữ dội đến giờ Dần sinh ra Lưu Trung ”, chi tiết “Mẹ của Phạm Cuống đang đêm thấy một khối hào quang to bằng cái đấu từ ngoài bay vào trong đến nơi giường thì biến mất, đến giờ Hợi thì sinh ra phạm Cuống”, “ba cha con Lưu Trung, Lưu Nhân Chú, Phạm Cuống nghỉ ở miếu rồi nghe được lời các vị thần trên thiên đình bàn về việc Lê Lợi lên làm vua nước Nam" [38, tr.342]. Đây là những chi tiết đã có sự can thiệp của văn học viết, song nó là nguồn tài liệu quý đối với chúng tôi trong việc nghiên cứu môtip và chúng cũng đã hé mở phần nào kho tàng truyền thuyết phong phú về Lưu Nhân Chú đang tồn tại trong nhân dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  14. 9 Cuốn Truyền thuyết Lam Sơn của tác giả Nguyễn Sơn Anh sưu tầm và biên soạn (Nxb Thanh Hoá, 2005) đã ghi lại truyền thuyết Hội thề Lũng Nhai, có chi tiết nói về việc cha con Lưu Nhân Chú tìm về tụ nghĩa dưới trướng Lê Lợi như sau: “Lưu Nhân Chú cùng với cha là Lưu Trung và em rể là Phạm Cuống từ miền Đại Từ (Thái Nguyên) xa xôi mộ tiếng chúa Lam Sơn, lặn lội tìm vào quy nạp" [8, tr.25]. Qua chi tiết trên có thể khẳng định sức sống và sự lan toả của truyền thuyết về Lưu Nhân Chú. Gần đây nhất, quý II năm 2008, tiểu thuyết Nữ tướng họ Lưu của tác giả Vũ Phong - Hội viên hội nhà văn Thái Nguyên được xuất bản. Trên cơ sở những yếu tố hư cấu, tưởng tượng và những tư liệu dân gian mà nhà văn Vũ Phong đã sưu tập được trong quá trình điền dã, tác giả đã xây dựng nên hình tượng nhân vật Lưu Nhân Chú với vẻ đẹp phi thường và chiến công hiển hách, lòng yêu nước sâu thắm. Đây cũng là nguồn tư liệu để chúng tôi tham khảo trong quá trình nghiên cứu về truyền thuyết Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên. Song chúng tôi cũng không quan niệm những sáng tạo của tác giả Vũ Phong là lịch sử vấn đề mà để chỉ ra rằng truyền thuyết về Lưu Nhân Chú đã có sức lan toả và tạo nguồn cảm hứng phong phú cho các sáng tác nghệ thuật. Tóm lại, xem xét quá trình nghiên cứu về nhân vật lịch sử Lưu Nhân Chú và những truyền thuyết về nhân vật này, chúng tôi nhận thấy, từ xưa tới nay, các sử gia, các nhà khoa học ít nhiều đã chú tâm nghiên cứu nhân vật lịch sử này dưới góc độ sử học với nội dung ngợi ca hành tích công trạng. Và truyền thuyết về nhân vật Lưu nhân Chú đã được các nhà nghiên cứu văn học dân gian ghi lại thành văn trong quá trình sưu tầm, điền dã. Số lượng truyền thuyết này còn rất khiêm tốn. Theo thống kê của chúng tôi, chỉ có hai truyền thuyết về Lưu Nhân Chú được ghi lại thành văn bản - Sự tích Lưu Trung và Lưu Nhân Chú. Còn ở truyền thuyết Sự tích núi Văn, núi Võ như đã dẫn ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  15. 10 trên, có một vài chi tiết đề cập đến nhân vật Lưu Nhân Chú mà những chi tiết này mục đích làm nền cho hình tượng khác. Ngoài ra, chưa có một công trình nào nghiên cứu truyền thuyết về Lưu Nhân Chú dưới góc độ của khoa học nghiên cứu văn học dân gian. Đây cũng là những khó khăn song cũng là sự thách thức thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài: “Khảo sát truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên". 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Là các truyền thuyết xoay quanh cuộc đời, sự nghiệp và thân thế của Lưu Nhân Chú. Nguồn tư liệu của đề tài chủ yếu là những truyền thuyết ở cuốn sách: Bắc Thái văn học và Kho báu một vùng hồ, Gia phả dòng họ Lƣu do các tác giả dòng họ Lưu biên soạn, người dịch Thạc sĩ Nguyễn Hữu Tâm, Tiến sĩ Nguyễn Đức Nhuệ, đính hiệu Mai Xuân Hải (Sở văn hoá - thông tin Thái Nguyên, 2001) và các truyền thuyết chúng tôi thu thập được trong quá trình điền dã. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát các truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên, luận văn chỉ ra những giá trị nội dung và nghệ thuật của chuỗi truyền thuyết này. Đồng thời, luận văn đi vào nghiên cứu, khảo sát về sự lưu truyền, sức sống lâu bền của truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Giới thiệu khảo sát về Đại Từ, vùng đất văn hoá - quê hương của danh nhân lịch sử Lưu Nhân Chú và cũng là nơi sản sinh, bảo lưu các truyền thuyết về Lưu Nhân Chú. Qua qúa trình điền dã, thu thập các truyền thuyết về Lưu Nhân Chú đang lưu truyền trong nhân dân và chỉ ra những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật của chuỗi truyền thuyết này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  16. 11 Thông qua các phiếu thăm dò khảo sát, nghiên cứu về quá trình lưu truyền, sức sống của truyền thuyết về Lưu Nhân Chú trong đời sống văn hoá xã hội đương đại; đề xuất ý kiến nhằm bảo lưu và phát triển chuỗi truyền thuyết này. 5. Đóng góp của luận văn Khảo sát ghi lại thành văn một cách tương đối đầy đủ, hệ thống chuỗi truyền thuyết về Lưu Nhân Chú đang được lưu truyền trong nhân dân vùng Đại Từ - Thái Nguyên vốn lâu nay chưa được nhiều người quan tâm, khảo sát. Nhận xét đánh giá về những giá trị nội dung và nghệ thuật của chuỗi truyền thuyết về Lưu Nhân Chú dưới góc độ của khoa học nghiên cứu của văn học dân gian. Chỉ ra sức sống của chuỗi truyền thuyết về Lưu Nhân Chú trong đời sống hiện tại. Đề xuất ý kiến nhằm bảo lưu và phát huy vốn văn hoá cổ truyền ở Đại Từ - Thái Nguyên. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp thống kê: Khảo sát, tập hợp và thống kê các tư liệu liên quan đến truyền thuyết về Lưu nhân Chú. 6.2. Phương pháp điền dã: Chúng tôi tiến hành điền dã trên địa bàn huyện Đại Từ, Thái Nguyên, tham quan các di tích lịch sử có liên quan đến Lưu Nhân Chú. Gặp gỡ, trao đổi với những cán bộ văn hoá, cán bộ quản lí di tích lịch sử, hậu duệ của dòng họ Lưu, những người dân địa phương đã nhiều năm tìm hiểu thu thập tư liệu về Lưu Nhân Chú. 6.3. Phương pháp phân tích tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp này trước hết là để tiếp cận đối tượng khoa học một cách cụ thể, chi tiết, sau đó là để đảm bảo vấn đề được đánh giá một cách toàn vẹn, khái quát. 6.4. Phương pháp liên ngành: Do văn học dân gian nói chung, truyền thuyết nói riêng có đặc trưng là tính nguyên hợp, tính chất sinh hoạt thực hành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  17. 12 nên khi tiến hành đề tài này chúng tôi đã vận dụng những tri thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng để lí giải một số vấn đề có liên quan đến đề tài. 6.5. Phương pháp điều tra xã hội học: Khi nghiên cứu sức sống về chuỗi truyền thuyết về Lưu Nhân Chú trong đời sống xã hội đương đại, chúng tôi tiến hành phát phiếu điều tra, phỏng vấn, lấy ý kiến nhiều nhóm đối tượng trên địa bàn huyện Đại Từ, Thái Nguyên để có kết quả xác thực nhất. 7. Cấu trúc Luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có ba chương với ba nội dung chính như sau: Chương một: Đại Từ - vùng văn hóa lịch sử. Chương hai: Truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên. 1. Khảo sát các truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên. 2. Lưu Nhân Chú lịch sử và truyền thuyết. 3. Hình tượng Lưu Nhân Chú trong truyền thuyết. 4. Các mô típ nổi bật. Chương ba: Truyền thuyết về Lưu Nhân Chú trong đời sống văn hoá xã hội đương đại ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên. 1. Truyền thuyết về Lưu Nhân Chú và tín ngưỡng tại vùng Đại Từ, Thái Nguyên. 2. Khảo sát về tình hình lưu truyền, phổ biến truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở Đại Từ, Thái Nguyên. 3. Một số đề xuất, khuyến nghị. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  18. 13 B. PHẦN NỘI DUNG Chương một ĐẠI TỪ - MỘT VÙNG VĂN HÓA LỊCH SỬ 1. Đại Từ - một vùng văn hóa lịch sử 1.1. Đặc điểm địa lý Đại Từ là một huyện miền núi nằm ở phía tây nam của tỉnh Thái Nguyên. Phía bắc giáp huyện Định Hóa và huyện Phú Lương. Phía đông và đông nam giáp thành phố Thái Nguyên. Phía nam giáp huyện Phổ Yên. Dãy núi Tam Đảo là địa giới tự nhiên của Đại Từ với hai tỉnh Tuyên Quang và Vĩnh Phúc. Nếu đất Thái Nguyên xưa kia là "Phên dậu của Thăng Long", "Lá chắn của thủ đô Hà Nội" [59, tr.234], thì với vị trí như vậy Đại Từ cửa ngõ phía nam của Thái Nguyên đồng thời cũng là cầu nối giữa Việt Bắc với Hà Nội và vùng châu thổ sông Hồng. Địa hình của Đại Từ chủ yếu là đồi núi nhưng không đồng nhất. Miền tây của huyện kéo dài từ bắc xuống nam, dựa lưng vào dãy núi Tam Đảo. Sườn đông Tam Đảo là các xã phía tây huyện Đại Từ có độ cao trên 1400m giảm nhanh xuống thung lũng sông Công và lòng hồ Núi Cốc ở độ cao hơn 1000m, tạo nên một vùng núi non hùng vĩ, trữ tình. Nhìn từ trên xuống, vùng Đại Từ giống như một thung lũng nhỏ được bao quanh bởi một vành đai núi xanh mướt, nằm nép mình bên dãy Tam Đảo sừng sững. Với địa thế như vậy, Đại Từ trở thành căn cứ quân sự đặc biệt hiểm yếu có tính chất công thủ toàn diện trong các cuộc kháng chiến của dân tộc, đặc biệt trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Vùng Đại Từ nhiều suối ít, sông. Cả huyện chỉ có một con sông Công. Đây là phụ lưu lớn nhất của sông Cầu. Lượng nước sông Công rất rồi rào do chảy qua khu vực có lượng mưa lớn và bốn mùa bồi đắp phù sa cho mảnh đất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  19. 14 Đại Từ. Mặc dù có duy nhất một con sông nhưng Đại Từ được nhiều ưu đãi từ dãy Tam Đảo và hệ thống các núi khác tạo ra 53 con suối lớn nhỏ cùng đổ vào sông Công. Hệ thống thủy văn của Đại Từ không có giá trị lớn về vận tải đường thủy nhưng có một vai trò cực kì quan trọng trong việc cung cấp nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và cuộc sống sinh hoạt cho người dân. Từ thời Pháp thuộc, khi đặt chế độ cai trị ở Việt Nam, người Pháp đã nhận thấy giá trị kinh tế của hệ thống sông suối Đại Từ. Công sứ Thái Nguyên Ê-si-na đã nhận xét: "Đây là một huyện hứa hẹn đầy tương lai , việc tưới nước cũng được thuận lợi nhờ có con sông chảy từ tây bắc xuống đông nam và rất nhiều dòng thác từ dãy Tam Đảo đổ xuống" [20, tr.12]. Không chỉ có giá trị trong việc về mặt thủy lợi sông suối Đại Từ còn có giá trị du lịch. Những dòng thác từ trên núi đổ xuống tạo cảnh quan nên thơ, hùng vĩ, sơn thủy hữu tình. Song bên cạnh những thế mạnh, người dân Đại Từ cũng phải đối mặt với những cơn lũ bất thường, xuất hiện nhanh những rút cũng nhanh, gây nhiều tổn thất cho người dân trong vùng. Đại Từ có hệ thống hồ nhân tạo, có thể kể đến ba hồ lớn như hồ Núi Cốc (Tân Thái), hồ Vai Miếu (Kí Phú), hồ Vai Bành (Phú Xuyên). Đây là những hồ lớn do nhân dân ngăn sông, ngăn suối tạo nên. Hồ lớn nhất là hồ Núi Cốc có sức tưới cho 12 nghìn ha đất lúa ở các huyện phía nam của tỉnh và một phần nước đổ vào sông Cầu. Mỗi năm, hồ cung cấp cho nhân dân Thái Nguyên hàng trăm tấn tôm cá, đặc biệt hồ có giá trị du lịch. Cả một vùng trời nước mênh mông, xanh ngắt. Chiều về, trong cái tĩnh lặng của sông nước mây trời, từng đàn cò trắng mải miết bay về tổ. Nơi đây đã từng khơi gợi nguồn cảm hứng nghệ thuật cho nhiều nghệ sĩ. Khí hậu của Đại Từ thuộc vùng nhiệt đới gió mùa song cũng mang những đặc điểm khác biệt nhất định so với các vùng khác của Thái Nguyên. Đại Từ thuộc vùng khí hậu ấm, mưa nắng thuận hòa. Kiểu thời tiết này có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  20. 15 nhiều thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Song ở đây, mùa đông đến sớm và kết thúc muộn, mỗi năm cố nhiều đợt gió mùa đông bắc thổi về có thể gây ra mưa rào, mưa giông lớn, lốc xoáy, sương muối gây hại cho sản xuất nông nghiệp. Mùa hè, lượng mưa ở đây cao nhất tỉnh nhất là ở các xã Văn Yên, Kí Phú, Mỹ Yên. Vào dịp tháng bảy, mưa ngâu kéo dài thường gây ra lụt lớn. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của Đại Từ thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, một phần nào đó là thủy sản song khai thác thủy sản không phải là thế mạnh của vùng. Điều đó, phần nào ảnh hưởng đến việc hình thành tính cách, phẩm chất của người dân nơi đây. Người dân Đại Từ cần cù, dũng cảm, sáng tạo trong lao động, đoàn kết chống lại những cản trở của tự nhiên. 1.2. Sơ lược lịch sử Đại Từ nằm ở trung tâm vùng núi Việt Bắc, ngay từ rất xa xưa, tổ tiên chúng ta đã lập cư ở đây. Trải qua hàng nghìn năm, tên gọi Đại Từ luôn gắn liền với sự phát triển và trưởng thành của vùng đất Đại Từ, vùng đất Thái Nguyên qua các thời đại.Theo sử sách ghi lại, Đại Từ là một miền đất cổ. Vào thời các vua Hùng dựng nước, Đại Từ thuộc bộ Vũ Định, một trong mười năm bộ của nước Văn Lang. Thời thuộc Hán, theo ý kiến của các nhà sử học Đào Duy Anh, Trần Quốc Vượng, đất Đại Từ thuộc Châu Long. Tên Đại Từ có chính xác từ bao giờ, tới nay vẫn chưa tìm được tài liệu chính xác. Thời Lý, Đại Từ thuộc phủ Phú Lương (Phủ Phú Lương có một thời Dương Tự Minh làm thủ lĩnh). Năm 1466 nhà Lê chia nước ta làm hai đạo, Đại Từ thuộc phủ Phú Bình, đạo Thái Nguyên. Năm 1469, nhà Lê đổi đạo thành Thừa tuyên, phủ Phú Bình thuộc Thừa tuyên Ninh Sóc. Năm 1490, Thừa tuyên Ninh Sóc đổi thành xứ Thái Nguyên, huyện Đại Từ vẫn thuộc phủ Phú Bình của xứ Thái Nguyên. Từ cuối thế kỷ XVI đến những năm bẩy mươi của thế kỷ XVII, xứ Thái Nguyên là nơi thường xuyên xảy ra những cuộc giao tranh giữa hai tập Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  21. 16 đoàn phong kiến Trịnh - Mạc. Thời nhà Nguyễn, chia nước ta thành trấn, Đại Từ vẫn thuộc phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên. Năm 1831, Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh. Cho đến năm 1835, Minh Mạng cắt một số châu thuộc phủ Phú Bình lập phủ Tòng Hóa. Đại Từ và châu Văn Lãng (phía bắc Đại Từ hiện nay) thuộc phủ này. Năm1922, Đại Từ và Văn Lãng hợp lại gọi là huyện Đại Từ cho đến ngày nay. Trước cách mạng tháng Tám, Đại Từ cùng với Định Hóa, Sơn Dương là vị trí trung tâm của chiến khu Nguyễn Huệ, có thời gian huyện Đại Từ mang tên châu Giải Phóng. Sau cách mạng tháng Tám, chính quyền dân chủ nhân dân tổ chức kết hợp nhiều làng xã, cả huyện có 14 xã. Trong suốt 80 năm qua, phần đất Đại Từ không có thay đổi gì đáng kể so với hiện nay. Ngày nay, huyện Đại Từ có 31 đơn vị hành chính. Khai phá đất hoang, chế ngự thiên nhiên, chống chọi với thú dữ được coi là công việc hàng đầu diễn ra xuyên suốt trong lịch sử hình thành của huyện Đại Từ. Vùng đất Đại Từ xưa rất hoang vu, nơi rừng sâu nước độc, đồi núi âm u, cỏ cây rậm rạp. Là nơi xa xôi cách trở như vậy, triều đình phong kiến ít quan tâm đến. Nhân dân các dân tộc vừa cùng nhau đoàn kết, vận lộn với với bao khó khăn vất vả, khai phá đất hoang, xây bản, dựng làng, trồng củ sắn, củ khoai, kiếm miếng ăn, vừa chống chọi với thú rừng, kẻ ác. Từ xa xưa lắm, các cụ truyền rằng ven bờ sông Công là những cánh rừng rậm rạp, bò tót đi hàng đàn, đông nhung nhúc, chúng thường xuyên qua sông để phá phách lúa ngô của dân làng. Dân bản lấy nứa vót nhọn, làm bẫy, cắm xuống lòng sông, để đuổi chúng. Thời Lý, Thủ lĩnh Dương Tự Minh, cho dân khai phá vùng đất Đại Từ lập ra các làng An khánh, Cù Vân, Hà Thượng. Đến đời Trần, dòng họ Lưu bốn đời làm quan phiên trấn nhà Trần cùng nhân dân khai khẩn vùng An Thuận Thượng (vùng Vạn Thọ, Văn Yên, Kí Phú, Quân Chu bây giờ ). Vùng phía tây của huyện, dòng họ Phạm cũng nhiều đời làm quan Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  22. 17 phiên trấn triều Trần có công khai khẩn vùng Văn Lãng, lập ra nhiều làng bản. Thời kì vua Lê chúa Trịnh, vùng đất Đại Từ đã được mở rộng, ruộng đất được khai hoang nhiều. Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) khi làm quan Đốc đồng Thái Nguyên, ông sáng tác bài thơ Thái Nguyên tức cảnh. Bài thơ có đoạn viết: "Cư dân thái bán, Thổ tham Nùng. Mộc lư giá sạn Đông Tây hướng, Thủy cữu tùy cơ nhật dạ thung. Đáo sứ kiến điền giai khẩn tịch, Tương truyền niên đại cốc thường phong." Dịch nghĩa: (Nhân dân quá nửa là người Thổ người Nùng Nhà thì gác tre gỗ làm sàn, hoặc trông về hướng đông hoặc trông về hướng Tây, Tùy chỗ khe nước chảy, đặt cối giã gạo, giã suốt đêm ngày. Đến chỗ nào cùng thấy ruộng đất đều khai khẩn, Thấy nói xưa nay năm nào cũng được mùa.) [49, tr.306]. Tác giả đã khẳng định cuộc sống nơi đây đã khá trù phú, thường xuyên được mùa không có đất bỏ hoang. Dưới thời thực dân phong kiến, ngoài việc vơ vét bóc lột, cướp không ruộng đất của nhân dân, giặc Pháp bắt nhân dân Đại Từ san đầm, phá núi làm đồn điền cho chúng, do vậy một phần nào đó diện tích đất nông nghiệp được mở rộng. Cách mạng tháng Tám thành công, tiếp đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân miền xuôi lên Đại Từ khai hoang lập nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới. Vùng đất Đại Từ càng có nhiều cánh đồng phì nhiêu, nhiều trang trại được mở ra. Thỉnh thoảng có những cánh đồng sình lầy, cày bừa khó khăn, người dân đào mương tưới tiêu, đặc biệt là xây dựng các công trình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  23. 18 thủy lợi như hồ Núi Cốc, hồ Vai Miếu, hồ Vai Bành, cải tạo đất trồng cho nên năng xuất lúa và hoa màu được nâng cao. Cư dân Đại Từ bao đời nay chủ yếu làm nghề nông như trồng lúa, trồng màu, và làm kinh tế trang trại, đặc biệt Đại Từ là vùng đất chè ngon nổi tiếng. Ngoài ra, người dân còn làm nghề phụ như làm đậu, làm bún, làm mì, làm mộc, đan lát, nhưng không có làng nghề. Một bộ phận người dân Đại Từ làm công nhân khai thác than, các loại khoáng sản quý. Việc trao đổi hàng hóa ở đây rất thuận tiện. Trước cách mạng cả huyện có bốn chợ, chợ Mụ, chợ Kí Phú, chợ Phú Minh, chợ Văn Lãng. Nhìn chung, cuộc sống của người dân Đại Từ trong giai đoạn hiện nay tương đối ổn định, tuy nhiên vẫn còn nhiều vất vả. Bên cạnh truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, người dân Đại Từ còn nổi bật với truyền thống yêu nước và cách mạng, đấu trang giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước. Tinh thần ấy đã được thể hiện trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Nổi bật lên từ thế kỷ XV, năm 1410, nghĩa quân Áo Đỏ phất cờ khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược. Cuộc khởi nghĩa lan nhanh khắp vùng Việt Bắc, Tây Bắc vào đến Thanh Hóa Nghệ An gây cho giặc Minh nhiều tổn thất. Cũng trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, tài thao lược của Thượng tướng quân Lưu Nhân Chú đã nổi lên sáng chói được sử sách lưu truyền. Đội quân của Lưu Nhân Chú mà trong đó lực lượng nòng cốt là con em các dân tộc Đại Từ đã phát huy truyền thống của quê hương, nêu cao ý chí chiến đấu, đi khắp các chiến trường lập nên những chiến công oanh liệt. Bốn trăm năm sau, Thực dân Pháp xâm lược nước ta, năm 1884 những tên lính Pháp đầu tiên đặt chân lên đất Đại Từ, chúng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân các dân tộc trong huyện. Năm 1892, Cai Bát cùng binh khố đỏ ở Hùng Sơn làm binh biến. Nhờ nhân dân và núi rừng che chở, nghĩa quân Cai Bát đã chống lại nhiều đợt tấn công của Thực dân Pháp trong ba năm (1892 - 1895). Gần hai mươi năm sau, Đại Từ là địa bàn hoạt động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  24. 19 của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám trong mười năm (1903 - 1913). Nhân dân Đại Từ đã đi theo cụ Đề Thám, chung sức chung lòng đánh Tây. Nhiều người tham gia nghĩa quân. Nhân dân còn tiếp tế lương thực, thực phẩm và dẫn đường cho nghĩa quân hoạt động. Trong hai năm (1917 - 1918), nghĩa quân Đội Cấn lấy núi rừng Đại Từ là địa bàn hoạt động và Đội Cấn hi sinh oanh liệt trên núi Pháo, Đại Từ. Bước sang thế kỉ XX, bọn thực dân Pháp tăng cường áp bức nhân dân khi các cuộc khởi nghĩa lắng xuống, nhân dân Đại Từ cũng như nhân dân cả nước liên tục đấu tranh dưới nhiều hình thức phong phú như chống thuế, chống phu làm cho địch sợ hãi. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới. Đảng đã nhìn thấy vị trí chiến lược quan trọng của Thái Nguyên nói chung và Đại Từ nói riêng. Năm 1936, cơ sở Đảng đầu tiên của Thái Nguyên được thành lập. Từ đây, ngọn lửa cách mạng lan sang Võ Nhai, Định Hóa. Cuối năm 1944, cơ quan chỉ huy chiến khu Nguyễn Huệ được thành lập ở xã Yên Lãng. Nhân dân Đại Từ một lòng đi theo Đảng, vùng lên đập tan chính quyền tay sai, thiết lập chính quyền toàn dân sớm trong toàn quốc, mở ra trang sử mới cho vùng Đại Từ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần hai, phía bắc Đại Từ nằm trong An Toàn Khu trung ương. Nhiều cơ quan trung, các cơ quan quân đội đóng trên mảnh đất này. Đặc biệt, tại xóm Bàn Cờ xã Hùng Sơn - nơi đã diễn ra lễ mít tinh công bố Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy ngày 27-7 là ngày Thương binh liệt sĩ toàn quốc. Đại Từ còn là địa phương được Trung ương chỉ đạo thí điểm cải cách ruộng đất, xây dựng tổ đổi công, thành lập Hợp tác xã sớm nhất trong toàn quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, hàng nghìn thanh niên nam nữ các dân tộc Đại Từ đã lên đường chiến đấu, nhiều người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  25. 20 đã hy sinh anh dũng trên khắp các chiến trường. Ở hậu phương, người nông dân giỏi tay cày, chắc tay súng và là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Năm 1966 dân quân xã Hà Thượng đã dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay phản lực Mỹ, tô đậm thêm nét son truyền thống của Lịch sử Đại Từ. Trong suốt một chặng đường lịch sử dài, người dân Đại Từ đã dệt nên những truyền thống đẹp, cần cù, chịu khó, sáng tạo trong lao động, một lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần cách mạng triệt để. Đặc biệt truyền thống cách mạng là nét son chói lọi trong trang sử Đại Từ. Người dân nơi đây luôn tự hào về truyền thống cách mạng của mảnh đất thân yêu này. 1.3. Văn hóa dân gian 1.3.1. Văn học dân gian Đại Từ có một kho tàng văn học dân gian phong phú với nhiều thể loại khác nhau như truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, tục ngữ, vè Những tác phẩm ấy đã phản ánh đầy đủ đời sống tinh thần phong phú của người dân nơi đây và góp phần tạo nên một vùng văn hóa giàu bản sắc tộc người. Thần thoại Đại Từ bao gồm các mẫu kể đơn giản về người khổng lồ Tài Ngào của một số dân tộc Sán Dìu, Trại Đất, có nội dung giải thích nguồn gốc tộc người, tộc danh và địa danh. Có thể kể đến các truyện tiêu biểu như Sự tích các dân tộc Tày, Nùng, Mèo, Dao là anh em, Sự tích núi Văn, núi Võ. Những tác phẩm ấy là niềm tin, là sức mạnh, là chỗ dựa trong cuộc chiến đấu để sinh tồn của người dân Đại Từ. Thể loại phong phú và chiếm số lượng tác phẩm nhiều nhất ở Đại Từ là thể loại truyền thuyết. Hầu như mỗi con sông, ngọn núi, ngôi làng đều gắn liền với những truyền thuyết đẹp. Mầu sắc nổi bật nhất của truyền thuyết Đại Từ là tiếp xúc và hội tụ. Bộ phận chủ chốt của truyền thuyết ở vùng này là truyền thuyết địa danh và truyền thuyết về các nhân vật lịch sử. Truyền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  26. 21 thuyết địa danh có nhiều mẫu kể như Sự tích sông Công, núi Cốc, Sự tích gò Chùa, Sự tích đảo Cò, Sự tích hang rắn, Sự tích vực Ách, Sự tích núi Vuốt, Sự tích tảng đá Hàm Rồng, Sự tích thác Bạc Những huyền thoại đẹp này nhằm giải thích tên núi, tên sông, tên làng, tên xóm của người dân Đại Từ. Những địa danh sông Công, núi Cốc, núi Vuốt, thác Bạc, cây Đa Đôi đều gắn liền với những mối tình đẹp thủy chung son sắc của các chàng trai, các cô gái Đại Từ. Truyền thuyết Sự tích sông Công núi Cốc đã trỏ thành niềm tự hào của người dân Đại Từ. Truyện kể rằng ngày xưa đã lâu lắm rồi từ đời già, đời cũ kĩ có một chàng trai nhà nghèo có tài thổi sáo. Mỗi khi chàng cất tiếng sáo thì con gà đang gáy cũng ngừng bặt, gió đang thổi cũng dừng lại để nghe, muôn vạn chim chóc cũng động lòng thương cảm. Còn nàng Công con nhà giàu, xinh đẹp tuyệt trần, hát hay múa dẻo. Họ yêu nhau say đắm. Cha mẹ nàng Công ngăn cấm, chàng Cốc bị rượt đuổi, nàng Công bị bắt về nhà. Chàng Cốc ngày ngày chờ đợi, mong ngóng người yêu trong đau khổ vô vọng, chàng chết và hóa thành ngọn núi Cốc. Nàng Công thương nhớ người yêu nước mắt chảy thành sông. Huyền thoại đẹp ca ngợi tình yêu tự do bất tử đã đi vào thơ vào nhạc và in dấu trong lòng người Thái Nguyên. Bên cạnh đó, một số truyền thuyết địa danh Núi Văn, núi Võ, vực Ách, gò Chùa, giếng Dội, núi Xem bắt nguồn từ những sự kiện chống giặc ngoại xâm. Bao trùm lên những truyền thuyết đó là tinh thần thượng võ bất diệt của người dân Đại Từ trong lịch sử xây dựng quê hương, đất nước. Nơi đây còn lưu truyền nhiều truyền thuyết độc đáo về các nhân vật lịch sử, Dương Tự Minh, Lưu Nhân Chú, Hoàng Hoa Thám, Cai Bát, Trịnh Văn Cấn. Dương Tự Minh là người Tày quê ở Quan Triều, phủ Phú Lương. Ông là người giàu tài năng, đức độ và trở thành thủ lĩnh Phú Lương, cai quản một vùng đất rộng lớn, phụng sự dưới ba triều vua. Ông được nhân dân khắp vùng biên cương yêu mến, triều đình tin cậy. Ông cũng là danh nhân duy nhất trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  27. 22 lịch sử được phong phò mã hai lần. Các triều đại đều sắc phong ông "Cao sơn quý minh". Hiện nay, ở vùng Đại Từ cũng như nhiều vùng lân cận đều lưu truyền nhiều truyền thuyết ca ngợi tài năng, trí thông minh, công đức của ông. Các truyền thuyết tiêu biểu Sự tích đền Thượng núi Đuổm, Sự tích Bàn cờ tiên, Sự tích Thánh Đuổm trừ tà. Vùng Đại Từ còn lưu giữ nhiều truyền thuyết về những người anh hùng thời kì đầu chống Pháp. Có thể kể đến các danh nhân như Hoàng Hoa Thám, Trịnh Văn Cấn. Những truyền thuyết về chiến tích anh hùng của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám còn truyền đến ngày nay. Tên tuổi Đội Cấn nổi bật trong lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX. Một thủ lĩnh kháng Pháp oanh liệt và hào hùng bậc nhất trong lịch sử dân tộc ta. Ổ nơi đây còn lưu truyền truyền thuyết về mối tình giữa Đội Cấn và con gái lí trưởng, truyền thuyết về sự tuẫn tiết của ông dưới chân núi Pháo. Ngoài ra, còn có thể kể đến các truyền thuyết về tài năng, nghị lực của tiến sĩ Đồng Doãn Giai ở Hùng Sơn và Đàm Sâm ở Yên Lãng. Ở vị trí trung tâm và chiếm số lượng đáng kể trong thể loại truyền thuyết ở vùng Đại Từ là truyền thuyết về Lưu Nhân Chú và dòng họ Lưu ở Văn Yên- Kí Phú. Hiện nay, người dân Đại Từ vẫn lưu truyền những truyền thuyết đẹp về ông và cả những người trong dòng tộc họ Lưu - Lưu Trung, Phạm Cuống, Lê Thị Ngọc Trân, Lưu Thị Ngọc Ngoan. Họ thực sự là những con người thật sự khổng lồ về ý chí [47, tr.9]. Những truyền thuyết ấy đã trở thành một di sản văn hóa phi vật thể vô cùng giá trị của Đại Từ. Bên cạnh truyền thuyết, còn phải kể đến một thể loại phong phú không kém, truyện cổ tích. Nhân dân ở đây lưu truyền truyện cổ tích mà mẫu kể đơn giản chỉ có một môtip Sự tích ruộng thác đao (Dải lụa đào) đến những mẫu kể chuỗi xích liên hoàn như Tua Tềnh và Tua Nhì (kiểu truyện Tấm Cám), Chàng rể Dê, Cô gái dệt vải và tiếng hát, Nàng tiên thứ bẩy. Đó là những tác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  28. 23 phẩm tiêu biểu cho loại hình cổ tích sinh hoạt, nó phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội miền núi và thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và của những tộc người Kinh, Tày, Nùng, Sán dìu, Trại đất sinh sống trên vùng đất này. Họ thông minh, giàu lòng yêu thương con người và khát khao một cuộc sống tự do, dân chủ. Ngoài ra, ở vùng Đại Từ bà con còn kể cho nhau nghe những câu chuyện Thi gào to, Giống ếch lưng gù, Hổ không sợ - Báo không sợ - Chỉ sợ con "Sán sò". Những câu truyện này khêu gợi được không khí hoang sơ, thôn dã mà kì thú. Truyện Thi gào to kể về việc voi và hổ đánh nhau suốt mấy đêm liền không phân thắng bại. Chúng phân thắng bại bằng cách thi gào to, cuối cùng voi thua cuộc phải để cho hổ ăn thịt mình. Sáng hôm sau, voi đến chỗ hẹn để chờ hổ ăn thịt và vừa nằm vừa khóc. Sóc thấy vậy, liền nghĩ kế cứu voi. Sóc ăn một miếng trầu to sau đó nhổ nước miếng làm đỏ cả một mảng sườn của voi. Hổ đến, sóc nói rất to ''con chưa ăn hết, lại con nữa đến rồi!". Hổ chột dạ, chạy thục mạng vào rừng sâu. Sóc nhỏ nhất rừng mà cứu được bác voi to lớn. Đến bây giờ miệng sóc vẫn đỏ vì nhai trầu. Truyện cổ tích về loài vật ở vùng đất này nói riêng và các vùng lân cận nói chung đang được ngụ ngôn hóa, mượn hình thức loài vật để nói về các mối quan hệ nhân sinh và thể hiện tính thông minh, óc dí dỏm của con người. Đại Từ còn là vùng đất sản sinh những câu ca dao vừa mộc mạc vừa chan chứa tình người. Cũng như các địa phương làm nông nghiệp khác, người dân Đại Từ xưa thường tổ chức ca hát khi lao động ngày mùa. Người Kinh có hát ví, hát ống, hát cầm tay. Người Tày có hát si lượn. Hát ống là hát vào ống nứa, tiếng hát được truyền vào dây chỉ đến tai người kia. Một bên nam, một bên nữ cứ thế hát đối nhau. Người hát, người nghe chỉ cảm nhau qua câu hát mà không biết mặt nhau. Lời hát thể hiện tiếng nói tâm tình của người dân lao động. Hát cầm tay vốn là tục hát không chỉ phổ biến ở Đại Từ mà còn phổ biến ở Phú Bình và Phú Lương. Các cụ già kể lại rằng, ngày xuân, ngày mùa, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  29. 24 trai gái hát giao duyên, vừa cầm tay nhau vừa hát. Người khởi xướng cuộc hát thường là các cô gái hát hay, xinh đẹp. Bên nào thua phải chịu phạt theo yêu cầu của bên thắng cuộc. Lời của những bài hát cầm tay thường là có kết cấu đối đáp thể hiện sự ứng xử thông minh không kém phần tình tứ của các chàng trai, các cô gái Đại Từ đang tuổi hoa, tuổi nụ. - Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng - Đại Từ em thiếu gì giang Sao anh lại hỏi đan sàng bằng tre" - Một bên đèn sách văn chương Một bên Hủi cụt em thương bên nào Văn chương em để trăng sao Thương anh Hủi cụt võng đào em đưa. [47, tr.59] Không chỉ dừng lại ở lời hát giao duyên đằm thắm, người dân Đại Từ còn sáng tạo những câu ca ca ngợi sự đổi đời của con người và sản vật của quê hương mình với niềm tự hào sâu sắc. - Bao giờ cho đến tháng tư Lên đất Đại Từ ăn bát canh mon - Ra đi nhớ vợ cùng con Về nhà nhớ bát canh mon Đại Từ - Ai ơi, đến với Đại Từ Khi về lại nhớ chén chè ngát hương. Người Đại Từ xưa khi nói về người dân quê mình có câu: "Lử khử lừ khừ Chẳng Đại Từ thì Võ Nhai" Người dân Đại Từ trong thời đại mới đã biến đổi đời, lật ngược số phận từ tăm tối đến reo vui tự hào. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  30. 25 "Những người đẹp gái xinh trai Chẳng phải Võ Nhai thì cũng Đại Từ" Bên cạnh những câu ca dao ngọt ngào chan chứa bản sắc con người, vùng Đại Từ còn phải kể đến những bài ca nghi lễ của người Tày, người Nùng như hát đám cưới, đám ma, những bài ca cúng bái để trừ tà cầu yên, giải hạn cho con người. Những bài ca tang lễ mại xe, văn tế, văn than thể hiện niềm thương tiếc, sự cầu nguyện phù trợ cho người sống, cầu nguyện cho người chết sang thế giới bên kia được an lành. Những bài ca đám cưới tồn tại trong tập quán người Tày trong bao nhiêu đời nay như hát căng dây, hát giữ của, hát trải chiếu, hát mời nước, hát trình tổ tiên, hát nộp dâu rể. Đặc biệt mỗi độ xuân về, ngày hội đến, thanh niên nam nữ gặp nhau hát giao duyên bằng các làn điệu si lượn. Rồi cuộc hát nào cũng phải chia tay giã bạn, hẹn hò đến mùa xuân năm sau gặp lại. Bài lượn lại vang lên những lời xin đính ước, hẹn hò. Giờ đây còn được bên nhau Lúc nữa duyên đôi ta tạm biệt Cho anh xin kết duyên làm bạn Thân anh xin kết bạn là nên Kết nhau để thành đôi đừng bỏ Duyên tơ hồng gắn chặt thành đôi. Qua lời hát lượn, người dân gói vào tích truyện cảnh vật thiên nhiên, niềm tin yêu cuộc sống, tình yêu lứa đôi được trọn vẹn, mùa màng bội thu. Ngoài mảng tự sự và trữ tình văn học dân gian Đại Từ còn có tục ngữ, câu đố. Tục ngữ đúc kết ngắn gọn những tri thức về mặt tự nhiên và xã hội, đậm đà bản sắc dân tộc. Mười cây lúa cấy muộn Không bằng năm cây lúa đúng vụ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  31. 26 (Slip co lả, Bấu táy hả co hua) Đàn ông không biết làm cày, thành quái Đàn bà không biết dệt vải thành cáo. (Po chài bấu hất thay pền quải Me nhình bấu khăn pải pền hên) [47, tr.54]. Đại Từ còn lưu giữ bài vè kể về ông Đội Cấn đánh Tây. Bài vè có độ dài 190 câu, kết cấu thành ba phần. Cảm hứng hào hùng bi tráng, giọng điệu ngợi ca gương anh dũng, tiết tháo của người đã khuất để lưu danh cổ vũ hậu thế noi gương. Những bài vè về thói hư tất xấu cũng được nhân dân lưu truyền, ví như ở Hùng Sơn, bà con lối xóm truyền nhau câu vè về một người đàn ông nhiều vợ: "Trên trời có vẩy tê tê Ồng Nhân bảy vợ chẳng chê vợ nào". Nguồn tư liệu văn học dân gian ở Đại Từ còn lại đến nay khá phong phú và đa dạng với nhiều thể loại khác nhau. Đó là kho báu trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, thẩm mĩ cao đẹp và phong phú của nhân dân các dân tộc Đại Từ. Đồng thời nó cũng thể hiện sức mạnh tiềm tàng của con người nơi đây. Văn học dân gian Đại Từ nổi bật với màu sắc tiếp xúc và hội tụ. Trong kho tàng văn học dân gian ấy, truyền thuyết về Lưu Nhân Chú thực sự là những tư liệu quý giá, là di sản văn hóa phi vật thể của người dân Đại Từ. Di sản ấy cần được bảo tồn và phát huy trong giai đoạn hiện nay. 1.3.2. Các lễ hội dân gian tiêu biểu 1.3.2.1. Hội tung còn ở Phú Xuyên Cứ mỗi độ xuân về, vào ngày mùng 6 tết nhân dân xã Phú Xuyên lại nô nức kéo nhau đi chơi hội tung còn. Không biết trò chơi tung còn ra đời từ khi nào, chỉ biết rằng các cụ già kể lại, đã lâu lắm rồi, trai gái Thái đi làm ruộng, con trai nhổ mạ gánh đến cho con gái cấy. Con trai thích ai thì ném mạ cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  32. 27 người ấy, may mắn bắt được thì yêu. Từ ngày ấy, tung còn không thể thiếu được trong các dịp lễ tết. Để chuẩn bị cho ngày hội tung còn, các cô gái chuẩn bị khâu còn từ trước tết. Gần đến ngày hội, những chàng trai vạm vỡ đi tìm những cây tre (cây mai) thật dài, đẹp, chưa ra lá đem dựng trên nền đất rộng, bằng phẳng. Trên đỉnh cột, uốn một vòng tròn có đường kính rộng khoảng 30 đến 50 cm được phong kín bằng giấy đỏ. Trên cột tre còn có một lá cờ ngũ sắc phấp phới bay, biểu hiện của ngày hội xuân. Lúc khai hội, người chủ hội là người tung còn mở màn, lấy quả còn ném tượng trưng lên trời. Khi chiếc vòng được ném thủng, những người tung còn chia làm hai phe, một bên nam, một bên nữ. Các chàng trai, các cô gái say sưa tung còn Các cô gái mê nhất khi được tung còn cho người yêu. Họ cảm nhận được hương vị ngọt ngào của tình yêu qua hình ảnh quả còn bay đi bay lại Quả còn ném trúng đích sẽ được người chủ hội rạch ra, lấy thóc chia cho mọi người làm giống. Kết thúc ngày hội, mọi người ra về, buổi tối quây quần bên bếp lửa rực hồng, cùng nhau nâng chén rượu nồng, chúc nhau một năm mới hạnh phúc, nhà nhà đầy thóc đầy ngô, lợn đầy chuồng, gà đầy sân. Qua ngày hội tung còn tình yêu lúa đôi nảy nở, gắn kết bền chặt. Đây là lễ hội nông nghiệp tràn đầy tính phồn thực, nó không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của người dân Đại Từ. 1.3.2.2. Hội xuống đồng ở Hùng Sơn Áo em thêu chỉ biếc hồng Ngày xuân đi hội Lồng Tồng thêm tươi. Hội xuống đồng được tổ chức ba năm một lần vào một ngày đầu năm mới tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ. Hội xuống đồng theo nguyên văn tiếng Tày gọi là hội Lồng Tồng. Đây là lễ hội truyền thống của dân tộc Tày với ý nghĩa là sự mở đầu tốt đẹp cho một năm lao động nông nghiệp, cầu mong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  33. 28 thần nông ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, xóm làng yên vui, gia đình no ấm. Trước ngày hội, mọi gia đình đều quét dọn nhà cửa, chuẩn bị đồ tế lễ chu đáo. Ngày chính hội được mở đầu bằng nghi thức thiêng liêng, lễ tế thần nông. Mặt trời bắt đầu lên cũng là lúc rước mâm tồng ra làm lễ. Đi đầu là bẩy thanh niên trai tráng khỏe mạnh, mỗi người cầm trên tay một cành lá cây vừa đi vừa vung vẩy. Dân làng quan niệm làm như vậy là để đuổi tà khí, rủi do. Đi sau đoàn lễ là đoàn múa lân, tiếp đó là thầy cúng của buổi lễ và các mâm lễ vật được các thiếu nữ đội lên đầu. Lễ vật gồm có gà luộc, xôi, các loại bánh, hoa quả, rượu trắng. Khi cỗ được bày xong, người được dân làng tín cử thể hiện nghi lễ cầu cúng, tế thần. Sau đó ban tổ chức cử một bô lão khỏe mạnh, giỏi nghề nông, con cháu đông vui hòa thuận xuống cày một đường cày tượng trưng. Xong phần tế lễ là đến phần hội. Mở đầu phần hội là màn thi cấy lúa nhanh. Người chơi là các cô gái đại diện cho các làng và được chia làm hai hay nhiều đội. Người chơi được dân làng và ban tổ chức lựa chọn khá kĩ trên các tiêu chuẩn như nhanh nhẹn, giỏi giang, khỏe mạnh, xinh xắn, đặc biệt là cấy giỏi. Trong những đám ruộng được bừa mượt, tiếng trống lệnh nổi lên các cô gái của các đội bắt đầu thi cấy. Trên bờ tiếng trống hội rồn rập như thúc giục các cô gái nhanh tay thể hiện tài năng của mình cùng với tiếng reo hò động viên cổ vũ của bà con thôn xóm. Kết thúc cuộc thi đôi nào cấy trong thời gian ngắn nhất, cấy thẳng, đều, đúng quy định thì đội đó sẽ thắng cuộc. Phần thưởng là những chiếc nón lá rất đẹp. Dân làng quan niệm, nhà nào có con gái tham gia thi thắng cuộc thì năm đó sẽ gặp nhiều may mắn. Sau phần thi cấy, dân làng giao lưu văn nghệ và tổ chức các trò chơi như kéo co, chọi gà, cờ tướng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  34. 29 Kết thúc ngày hội, mọi người ra về hân hoan, vui vẻ, hứa hẹn một năm làm ăn nhiều phúc lộc. 1.3.2.3. Lễ rước kiệu ở Bình Thuận Năm nào cũng vậy, cứ độ trưa ngày mồng năm tết, bà con nhân dân huyện Đại Từ lại nô nức rủ nhau về chùa Sơn Dược xã Bình Thuận để dự lễ rước kiệu, Đây là lễ hội lớn, có từ rất lâu đời ở vùng Đại Từ. Nó gắn bó máu thịt với người dân Đại Từ. Chuẩn bị cho lễ rước chính vào trưa ngày mùng 5 hôm sau, Dân làng xóm Chùa tập trung từ buổi chiều hôm trước, náo nức quét dọn chùa, trang trí cổng chùa để đón khách đến dự. Các cụ già và đám thanh niên tập trung tại nhà chứa cỗ để làm lễ rửa kiệu, chọn người khênh kiệu, chuẩn bị đồ tế lễ. Mỗi năm Ban tổ chức chọn một nhà chứa cỗ ở một xóm trong xã, các xóm luân phiên nhau. Mỗi xóm trong năm ấy phải chọn nhà chứa cỗ. Nhà được chọn chứa cỗ, phải có người cụ già có tâm với phật, sống đức độ với bà con hàng xóm, con cháu ngoan ngoãn, trưởng thành. Người dân ở đây cho rằng nhà nào, cụ nào được chọn chứa cỗ thì năm đó gia đình làm ăn phát đạt, con cháu gặp nhiều may mắn. Dân làng chuẩn bị hai kiệu, kiệu ông, kiệu bà. Kiệu ông rước thành hoàng làng. Kiệu bà rước Phật bà. Hai kiệu được rước bắt đầu từ nhà chứa cỗ. Nhóm người khênh kiệu là 8 cháu học sinh gồm 4 nam, 4 nữ, tuổi từ 16 đến 18, chưa lập gia đình, đạo đức tốt. Trưa ngày mùng 5, dân làng đã tề tựu đông đủ, lễ rước kiệu được bắt đầu. Kiệu ông, kiệu bà được rước từ nhà chứa cỗ đi ra đình và chùa. Cỗ trên kiệu có lễ chay đặt ở kiệu bà gồm có xôi nếp, các loại bánh và hoa quả. Còn cỗ trên kiệu ông là lễ mặn xôi, gà, rượu, hoa quả. Có một điều đặc biệt mà năm nào cũng vậy, khi kiệu vào gần đến cửa chùa thì quay tròn. Có khi quay cả vào bờ rào tre mà kiệu không bị xuy xuyển, đồ tế lễ vẫn được giữ nguyên. Thời gian quay khá lâu rồi mới vào được trong chùa. Dân làng cho rằng kiệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  35. 30 quay càng nhiều mà quay lan ra đó là điềm tốt. Nhân dân làm ăn được mùa, cầu được ước thấy. Sau lễ rước kiệu là lễ cúng tế và tổ chức các trò chơi như đánh vật, đánh đu, chọi gà, kéo co. Lễ rước kiệu thể hiện ước nguyện về một cuộc sống thanh bình no ấm, mùa màng tốt tươi, cây trồng vật nuôi sinh sôi nảy nở của nhân dân xã Bình Thuận nói riêng, của người dân Đại Từ nói chung. 1.3.2.4. Lễ Phật Đản chùa Sơn Dược Chùa Sơn Dược nằm trên một khu đất bằng phẳng giữa làng Chùa, xã Bình Thuận. Cổng chùa có một cây đa rất to, tỏa bóng mát xum xuê. Chùa có từ rất lâu đời. Thời gian đã khiến chùa xuống cấp, hiện nay chùa đã được tôn tạo lại. Tại đây, ngày mùng 8 tháng tư âm lịch diễn ra lễ Phật Đản. Các Tăng Ni Phật tử từ khắp trong và ngoài vùng Đại Từ tập trung về đây để dự lễ. Từ chiều hôm trước, bà con xã Bình Thuận náo nức chuẩn bị khánh tiết, trang hoàng, dọn dẹp nhà chùa. Lễ đài được dựng ngay dưới tán cây đa và được trang hoàng rực rỡ. Màu sắc chủ đạo là màu vàng của hoa cúc và hoa hồng. Buổi tối, nhân dân giao lưu văn nghệ, hát những bài hát ca ngợi Đức Phật, ca ngợi ngôi chùa. Sáng sớm ngày mùng 8 tháng 4, Phật tử ở khắp nơi với áo nâu, tràng hạt, cơm nắm cùng với lòng thành kính Đức Phật nô nức về tập tại chùa Sơn Dược. Đúng bảy giờ, ban tổ chức cùng các Phật tử cung nghênh Chư tôn Đức Tăng Ni cùng Chư vị Đại biểu quan khách quang lâm lễ đài. Tiếp theo là các tiết mục văn nghệ chào mừng và cử hành chính thức lễ cúng Gường Phật. Mở đầu Đại lễ là Tuyên đọc thông điệp Phật Đản, Phật lịch 2553 của Đức Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Nội dung của thông điệp khẳng định sự trong sáng của giáo lý Đức Phật và sự đóng góp của Phật giáo trong suốt chiều dài hơn 2500 năm đối với nhân loại. Tư tưởng giáo lí về hòa bình, từ bi, hỷ xả, vô ngã và tự giác ngộ đối với mỗi người Phật trên con đường tu tập. Tiếp đó là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  36. 31 Tuyên đọc diễn văn Đại lễ Phật Đản - Phật lịch 2553 của Hòa thượng chủ tịch hội đồng trị sự Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Bài diễn văn thể hiện lòng thành kính hướng về quá khứ, về vùng đất thiêng, tưởng như trong hiện tại, chúng ta đang tắm mình trong ánh vàng rực rỡ của kim thân Đức Phật. Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam luôn song hành với sự phát triển của đất nước. Mặt khác trong thời đại mới, những hiện tượng suy giảm đạo đức ở khắp mọi nơi trên thế giới cũng như ở Việt Nam cúng là mối quan ngại lớn cho phương hướng phát triển chung. Tăng Ni Phật tử cần củng cố niềm tin Tam Bảo, biết sợ hãi và biết đối trị với điều xấu, điều ác, biết hổ thẹn về những hành vi xấu của mình; từ đó kiên trì nhẫn nhại trong việc phát triển trí tuệ, tâm linh. Bài diễn văn thứ ba của buổi lễ là Tuyên đọc ý nghĩa Phật Đản, Phật lịch 2553 của ban Hoằng Pháp Trung ương Giáo Hội Phật giáo Việt Nam. Bài diễn văn tái hiện lại khung cảnh lúc Đức Phật sinh có ánh bình minh rực rỡ, như đóa đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo. Núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc thầy nhân thiên ba cõi. Ngài hướng về hướng Bắc, ung dung đi trên bảy tòa sen vàng, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất làm chấn động cả vũ trụ càn khôn. Cùng với đó là sự tôn vinh Đức Phật suốt bốn chín năm thuyết giáo truyền bá tư tưởng Đạo Phật. Cầu mong tất cả các Tăng Ni Phật tử đều ứng dụng tinh thần lời Phật dạy đều đạt khả năng siêu việt, được an vui lợi lạc trong chính pháp. Bài diễn văn kết thúc trong không khí thơm ngát hương hoa và lòng thành kinh của Tăng Ni, Phật tử. Đúng 10 giờ, cử hành nghi lễ dâng hương cúng Gường Đại lễ Phật Đản. Bắt đầu nghi lễ cử ba hồi trống bát nhã rước lễ Đản Sanh. Toàn thể đạo tràng niệm hương, nhập từ bi quán, tụng niệm kinh phật. Lễ tắm Phật được các Tăng Ni, Phật tử tiến hành. Nước tắm Phật được nấu bằng lá thơm cùng với hồi, quế, thảo quả, sau đó rắc thêm cánh của hoa hồng, hoa cúc. Một hòa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  37. 32 thượng múc nước dội nhẹ nhàng lên tượng Phật. Kết thúc lễ tắm Phật là màn thả bóng bay và chim bồ câu với mong ước thế giới hòa bình, an lạc. Buổi trưa, Chư tôn Đức Tăng Ni, cùng quý vị quan khách dùng cơm chay tại nhà chùa. Đại lễ kết thúc, Phật tử ra về trong niềm hoan hỷ, hòa hợp. Trong tâm niệm một điều tu nhân, tích đức, làm việc thiện để lại phúc đức cho đời và cho con cháu. Họ không quên xin một chút nước tắm của Phật với niềm hy vọng mang phước lành cho con cháu. Nhìn chung, các lễ hội dân gian truyền thống đã thể hiện bản sắc độc đáo của người dân Đại Từ. Bên cạnh yếu tố văn hóa truyền thống, lễ hội dân gian Đại Từ còn mang đậm chất văn hóa miền núi phía Bắc, chất hội tụ ngược xuôi. Lễ hội góp phần làm nên lối sống cởi mở, chân thành, thật thà, chất phát của người dân nơi đây. Nó đáp ứng nhu cầu giải trí, tín ngưỡng, thi thố tài năng, thể hiện niềm tự hào của cộng đồng trong trường kì lịch sử. 1.4. Các địa danh văn hóa lịch sử Đại Từ là vùng đất văn hóa lịch sử. Theo thống kê có 159 địa danh văn hóa. Đầu tiên là hệ thống đình chùa miếu với 46 điểm. Trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, đình chùa miếu mạo là không gian văn hóa tâm linh linh thiêng. Mỗi ngôi đình, mỗi mái chùa trở thành địa danh văn hóa, là tài sản văn hóa vật thể quý giá của mỗi miền quê. Đền chùa ở vùng Đại Từ có một vị trí đặc biệt, nó không chỉ là không gian sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân mà còn là địa điểm để hoạt hoạt động cách mạng bí mật. Ví như đình làng Ngò - An Khánh, chùa Sơn Dược - Bình Thuận, chùa Hàm Long - Cát Nê, chùa Phú Nghĩa - Khôi Kỳ Hệ thống đền chùa miếu của Đại Từ giải đều trong các xã, không có xã nào là không có đền, chùa. Cứ vào dịp "xuân thu nhị kì "nhân dân lại tổ chức lễ hội. Năm 1947 được lệnh của Đảng và Chính phủ phải tiêu thổ kháng chiến, một số đình chùa lớn trên địa bàn huyện phải dỡ bỏ. Tiêu biểu, đền Cao Khản, đền Ninh Giang (Bản Ngoại), đình Cát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  38. 33 Nê, đình Ký Phú, chùa Am (Văn Yên), đình Tràng Dương (Vạn Thọ) Một số đền chùa bị giặc Pháp phá hủy như chùa Đài (Phú Xuyên), chùa Bắc Lãm (Minh Tiến), đình Trung Na (Tiên Hội), đình Cả (Văn Yên). Hiện nay, một số đền chùa được bà con nhân dân tôn tạo lại, hiện vật cổ còn lại rất ít, hệ thống kiến trúc cổ bị mất đi. Trong số địa danh văn hóa ấy, một địa danh vốn là niềm tự hào của quê hương Đại Từ, khu di tích núi Văn, núi Võ nằm trên hai xã Văn Yên và Ký Phú - Quê hương của vị khai quốc công thần triều Lê Lưu Nhân Chú. Đã sáu trăm năm qua, kể từ thủa cha con Lưu Nhân Chú trở về vùng Thuận Thượng mộ quân đưa vào Lam Sơn khởi nghĩa, thời gian và con người đã vô tình xóa đi biết bao dấu vết của một thời oanh liệt, nhưng đó đây giữa vùng quê Văn Yên Ký Phú vẫn còn lưu lại những quả đồi, ngọn núi, con sông, cánh đồng nên thơ gắn bó với gia tộc họ Lưu và tướng quân Lưu Nhân Chú. Núi Văn nằm trên xã Văn Yên là ngọn núi có độ cao tới cả trăm mét. Từ xa nhìn lại, núi trông tựa chiếc mũ cánh chuồn của quan văn ngày xưa. Lưng chừng núi có hang khá rộng và sâu. Tương truyền, hang núi Văn là nơi những ngày đầu từ Thanh Hóa trở về, Lưu Nhân Chú thường hội họp luận bàn việc nước ở đây. Cách núi Văn gần 1km về phía đông là núi Võ. Đây cũng là núi đá vôi trông giống hình mũ trụ của quan võ thủa xưa. Trong núi có một hang đá ngầm ăn sâu vào lòng núi và xuyên sang núi Văn. Phía đông núi Võ chừng 200m là di tích núi Quần Ngựa, trên núi có một đường xoáy trôn ốc rộng chừng 3m chạy từ chân núi cho tới đỉnh núi. Từ khu vực núi Võ theo con đường trải nhựa vào khu trung tâm xã là đồi Xem. Từ trên đỉnh núi Xem, Lưu Nhân Chú ngồi xem quân sĩ tập trận trên núi Cắm Cờ. Phía tây xã Văn Yên là ngọn núi trông giống người nằm ngủ, đây là nơi đặt miếu thờ ông tổ dòng họ Lưu. Cách núi Võ không xa là đầm Tắm Ngựa. Đó là một đầm khá rộng, nước trong xanh, sau mỗi chiều luyện tập vất vả nghĩa quân thường Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  39. 34 xuống tắm giặt và cũng là địa điểm luyện tập thủy binh. Cánh đồng trải dài từ Văn Yên, Ký Phú, Vạn Thọ gọi là cánh đồng Tàng Lương (bây giờ gọi là Tràng Dương). Cánh đồng cung cấp lương thảo cho nghĩa quân. Tất cả những dấu tích một thời đã tạo dựng lên khu di tích lịch sử núi Văn, núi Võ để con cháu muôn đời chiêm ngưỡng thờ phụng. Năm 1947, ta mở chiến dịch Thu - Đông, trong trận tấn công lên Việt Bắc, giặc Pháp đốt phá đình Cả, chùa Am thờ tướng quân Lưu Nhân Chú. Các cụ già ở xã Văn Yên kể rằng, đình Cả, chùa Am thờ thành hoàng Lưu Nhân Chú. Trong đình có những cái cột mà một vòng tay người ôm không xuể, bên ngoài trạm trổ rồng phượng trông rất đẹp. Trong chùa có 6 quả chuông rất to, khi thỉnh chuông ở tận trên Hùng Sơn cũng nghe thấy. Ngày xuân, đình mở hội lớn, có các trò diễn rất vui. Tiếc thay, những địa danh văn hóa linh thiêng ấy không còn nữa. Hiện nay, đền thờ Lưu Nhân Chú đang được khôi phục lại. Như vậy, mới xứng đáng với tầm vóc của vị khai quốc công thần triều Lê. Đại Từ là vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Những địa danh trên vùng đất này gắn liền với nhiều sự kiện quan trọng của Đảng và Chính phủ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Địa danh núi Pháo xã Cù Vân là nơi Đội Cấn hi sinh trong khởi nghĩa Thái Nguyên. Các địa danh Vai Cày, Đèo Khế, Cát Nê, Quân Chu nổi tiếng với những trận tiêu diệt quân Nhật để tiến đến Tổng khởi nghĩa năm 1945. Xóm Bàn Cờ xã Hùng Sơn là khởi nguồn của ngày Thương binh liệt sỹ. Tại xã La Bằng, cơ sở Đảng đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên được thành lập. Mảnh đất Đại Từ vinh dự được đón Bác Hồ và các đồng chí Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Chu Văn Tấn về làm việc. 2. Lƣu Nhân Chú - con ngƣời trong lịch sử Sử sách chép về Lưu Nhân Chú hầu hết nhằm nêu bật vị trí của ông trong mười năm kháng chiến chống giặc Minh và những năm đầu triều Lê sơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  40. 35 thành lập. Có thể khẳng định: "Tuyệt đối không một tài liệu thành văn nào, kể cả chính sử có những lời bình luận khác về công lao phẩm hạnh của ông" [62, tr.23]. 2.1. Bối cảnh thời đại những năm đầu đời Lưu Nhân Chú sống Lưu nhân Chú sinh ra trong bối cảnh đất nước đã lâm vào tình thế loạn lạc. Loạn từ trong nội bộ của bộ phận cầm quyền. Tình trạng rệu rã của vương triều nhà Trần trên con đường suy vong đã dẫn đến sự xuất hiện của Hồ Quý Ly với vương triều Hồ. Giặc Minh sang xâm lược, nhà Hồ tổ chức chống giặc Minh. Cuộc kháng chiến thất bại, vương triều nhà Hồ bị tiêu vong. Ngọn cờ đuổi giặc lại trao vào tay nhà Hậu Trần. Cuộc kháng chiến của nhà Trần bắt đầu suy yếu, kéo dài đến 1413 thì thất bại hoàn toàn. Trong bối cảnh ấy, nhân dân chịu biết bao lầm than, khổ cực dưới ách thống trị của giặc Minh. Sự tàn bạo của quân thù tăng lên tới mức: "Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi." (Đại cáo bình Ngô) Trong thời tao loạn như vậy, Lưu Nhân Chú tự nguyện chọn con đường đứng vào hàng ngũ những người yêu nước chống giặc ngoại xâm. 2.2. Lai lịch Cho đến nay, chưa có một tài liệu nào để xác định năm sinh của Lưu Nhân Chú. Về cái chết của ông, chính sử chỉ chép là bị Lê Sát ghen ghét, bức hại bằng thuốc độc vào đầu năm Lê Thái Tông, năm Thiệu Bình thứ nhất - 1434. Ông sinh ra ở vùng quê Thuận Thượng (nay là xã Văn Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên), trong một gia đình bốn đời tập thế làm qua phiên trấn ở vùng đất Thái Nguyên. Ông sớm được giác ngộ lòng yêu nước và ý chí diệt giặc. 2.3. Cống hiến của Lưu Nhân Chú trong lịch sử dân tộc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  41. 36 Để thấy được những cống hiến lớn lao của Lưu Nhân Chú trong sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh và xây dựng triều Lê, dựa trên sự phân tích lô gíc của các nhà sử học, cuộc đời Lưu Nhân Chú có thể chia thành bốn giai đoạn. Theo suy luận của các nhà sử học, Lưu Nhân Chú có mặt ở Lam Sơn, Lê Lợi mới 25 tuổi - năm 1409 (căn cứ vào Gia phả dòng họ Lưu), Lưu Nhân Chú cũng đang ở độ tuổi thanh xuân. Nếu tính từ năm 1409, không kể thời gian ông sống với gia đình ở Thái Nguyên, cho đến năm 1434, tất cả là 25 năm. Trong 25 năm đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng triều Lê, Lưu Nhân Chú đã sống và hoạt động trải qua bốn chặng đường lịch sử đầy vinh quang nhưng cũng hết sức gian nan. 2.3.1. Giai đoạn thứ nhất, 1409 đến 1416 Đây là giai đoạn 7 năm trước khi Lê Lợi chiêu tập các anh hào tại Hội thề Lũng Nhai. Trong giai đoạn này, chính sử không ghi cụ thể Lưu Nhân Chú làm những việc gì nhưng chắc chắn lúc này ông đang có mặt ở Lam Sơn. Gia phả dòng họ Lưu cho biết, khi ba cha con đến Lam Sơn được Lê Lợi dung nạp "từ đó, ba người thường qua lại khi thì ở với vua, lúc lại cày ruộng ở động Chiêu Nghi với Trương Lôi. Trong nhà có việc tin cẩn đều giao phó cho hết" [62, tr 347]. Như vậy giai đoạn này, ba cha con Lưu Nhân Chú phải ẩn dấu tung tích. Một điều cần phải nhấn mạnh Lưu Nhân Chú đã chọn một con đường đi đúng đắn. Tại sao ông không hưởng ứng cuộc chống giặc Minh của nhà Hồ, gia đình bốn đời làm quan phiên trấn cho nhà Trần lại không tìm đến dưới cờ của Trần Quý Khoáng mà lặn lội vào Thanh Hóa với Lê Lợi. Phải chăng với dòng dõi quý tộc, nhiều đời làm quan ông được dân chúng nương nhờ tin cậy khiến ông nuôi chí cứu nước. Thứ hai, ông nhận thức đúng đắn về tài và lực của mình, từ đó có sự lựa chọn sáng suốt. Trai thời loạn, chọn nghiệp võ, đem tài năng cứu nước, cứu dân đã là đẹp, lại chọn đất Lam Sơn - tụ điểm tinh hoa của xã hội lúc bấy giờ - lại càng sáng suốt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  42. 37 Tóm lại, trong giai đoạn này Lưu Nhân Chú là người hiện diện với tư cách là người đặt nền móng đầu tiên, mở màn khởi nghĩa để trở thành những vị công thần khai quốc. 2.3.2. Giai đoạn thứ hai từ Hội thề Lũng Nhai đến năm đầu dựng cờ khởi nghĩa (1416 - 1418) Đây là thời điểm có ý nghĩa lớn đối với Lê Lợi và hào kiệt bốn phương. Có rất nhiều người tìm đến với Lê Lợi xin được đứng trong hàng ngũ nghĩa quân nhưng chỉ có 18 người thân tín được dự buổi lễ thiêng liêng cùng non sông đất trời Lũng Nhai năm 1416. Trong 18 hào kiệt đó có Lưu Nhân Chú. Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Việt thông sử đều chép: "năm Bính Thân (1416), Thái tổ cùng các tướng văn tướng võ 18 người liên danh thề ước cùng vui cùng lo có nhau, ông cũng được tham dự" [23, tr.204], [15, tr.245]. Gia phả dòng họ Lưu ghi cụ thể hơn: "Năm Binh Thân (1416), tháng Hai ngày mùng một là ngày Kỷ Mão, chúng thần là Lê Lợi, Phụ đạo chính lộ Khả Lam nước A Nam cùng Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An , Lưu Trung, Lê Liễn, Bùi Quốc Hưng, Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú 18 người chung sức đồng lòng, giữ vững đất nước làm cho [nhân dân] được sống yên lành, thề sống chết cùng nhau, không dám quên lời thề son sắt" [62, tr.353]. Đối với Lưu Nhân Chú được tham gia Hội thề là một sự kiện trọng đại đánh dấu bước đường đầu tiên trong sự nghiệp cứu nước của ông. Ngọn lửa yêu nước đã được nhóm lên từ Hội thề Lũng Nhai, con người ưu tú của dân tộc đã góp phần vào vinh dự đó; mở đầu trang sử vàng với những chiến công oanh liệt chống lại sự xâm lược của nhà Minh để giải phóng đất nước, bảo tồn dân tộc. Sau Hội thề, Lê Lợi sai cha con Lưu Nhân Chú trở về Tứ trấn mộ binh. Gia phả dòng họ Lưu có chép: "Ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân thứ nhất (1416), ngày 20 tháng 4 năm ấy, ba người trở về Tứ trấn ngầm mộ dân lính, chiêu tập những kẻ trốn tránh, thu nạp những kẻ chống đối, ẩn quân đợi ngày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  43. 38 dấy khởi" [62, tr.356]. Trở về quê "Ban ngày giả làm khách buôn, bí mật chiêu mộ nhân dân, ban đêm nghỉ trên cây, lấy mỡ viết vào lá cây rằng Lê Lợi làm vua nước Nam Việt" [62, tr.356]. Trong hai năm chuẩn bị, cha con Lưu Nhân Chú đã gây dựng được một lực lượng khá lớn cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. 2.3.3. Giai đoạn thứ ba, mười năm khởi nghĩa (1418 - 1427) Đây là thời kì oanh liệt và vinh quang nhất trong cuộc đời Lưu Nhân Chú. Trong mười năm "nằm gai nếm mật", Lưu Nhân Chú luôn là vị tướng giỏi, dũng cảm tài ba. Chính sử còn ghi lại rằng Ông xông pha tên đạn, ra vào trận mạc, đem hết sức ra giúp. Năm 1424 trong trận đánh ở Khả Lưu, ông xông lên trước hãm trận, quân ta toàn thắng. Năm Ất Tỵ (1925), ông cùng các tướng Lê Sát, Lê An, đánh úp quân Minh ở Tây Đô, Lam Sơn thực lục chép: "Giặc không ngờ, đem hết quân ra, vua cả tung phục binh ra đánh trận giặc. Bọn Lê Sát, Lê Bị, Lê Vấn, Lê Lễ, Lê Nhân Thọ đều đua nhau chạy lên trước phá trận giặc. Giặc thua to vỡ chạy." [38, tr.45]. Để cô lập giặc ở Nghệ An, Lê Lợi chủ trương đánh úp Tây Đô. Trong trận đánh quan trọng này, Lưu Nhân Chú tham gia với cương vị là một vị tướng chỉ huy. "Vua bèn chia hai nghìn tinh binh, hai thớt voi, sai bọn cháu ngoại Lê Sát, Lê Bị, Lê Triện, Lưu Nhân Chú suốt ngày đi đáng úp Tây Đô" [38, tr.47]. Vào khoảng cuối năm 1425, nhằm cô lập hơn nữa thành Đông Quan, Lê Lợi đánh chiếm một vùng đất rộng lớn để phô trương lực lượng và uy hiếp kẻ địch. Lam Sơn thực lục chép lại như sau: "Lại sai Lưu Nhân Chú, Lê Bị đem hai nghìn quân ra các phủ Thiên Quan, Thiên Trường, Tân Hưng, Kiến Xương để cắt đường về của bọn Phương Chính, Lý An" [38, tr.48]. Đặc biệt trong chiến dịch chặn đánh, tiêu diệt viện binh của nhà Minh vào giai đoạn cuối cuộc khởi nghĩa, Lưu Nhân Chú cũng là một trong số các vị tướng góp công đầu. Lam Sơn thực lục chép: "Liền sai bọn Lưu Nhân Chú, Lê Sát đem một vạn tinh binh và năm thớt voi ngầm ở ải Chi Lăng để chờ Giặc lại bức tiến Chi Lăng, bọn Lê Sát và Lưu Nhân Chú Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  44. 39 ngầm sai Lựu ra đánh, giả thua mà chạy bọn Sát và Chú cả tung phục binh, bốn mặt đều dạy xông đánh. Ta chém đầu được Liễu Thăng và Lý Khánh cùng hơn ba vạn đầu giặc" [38, tr.53]. Các sách Đại Việt sử kí toàn thư, Đại Việt thông sử, Lịch triều hiến chương loại chí đều chép như vậy. Ông là một vị tướng có tài đánh mai phục, bày binh bố trận làm nên chiến thắng lừng lẫy trên cánh đồng Xương Giang lịch sử vào năm Đinh Mùi (1427). Mười chín năm nung nấu ý chí diệt giặc và xông pha trận mạc, Lưu Nhân Chú đã cống hiến trọn tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. 2.3.4. Giai đoạn thứ tư - Những năm năm đầu xây dựng đất nước (1428 - 1434) Những năm đầu xây dựng đất nước với tài năng của Lưu Nhân Chú, Lê Thái Tổ đã ban cho ông chức tể tướng. Đó là một chức vụ cao sang đứng đầu hàng võ trong triều đình nhà Lê. Sang năm Thuận Thiên thứ 2, trong đợt ban biểu ngạch cho 93 công thần Lưu Nhân Chú được phong Á thượng hầu và ban quốc tính. Bắt đầu từ đây, Lưu Nhân Chú đã trở thành vị khai quốc công thần triều Lê và bắt đầu một thời kì mới với tư cách là một vị tể tướng. Ông giúp nhà vua một cách đắc lực trên tất cả mọi lĩnh vực kể cả quân sự, nội trị và ngoại giao. Trong những ngày tưởng chừng như vinh hoa phú quý ấy thực chất ông đã chứng kiến và nếm mùi cay đắng của chốn quan trường. Bước sang những năm 30, triều đình nhà Lê bắt đầu đợt thảm sát công thần lần thứ 2, Lưu Nhân Chú là người đầu tiên bị giết hại. Đại Việt sử ký toàn thư và Lịch triều hiến chương loại chí đều chép "Năm thứ 6, Thái Tổ mất, Thái Tông còn nhỏ, đại tư đồ Lê Sát ghen ghét ông, ngầm đánh thuốc độc chết" [50, tr.47]. Nguyên nhân cái chết của ông còn nhiều uẩn khúc. Sự việc ấy làm đau lòng người đọc sử. Trong tâm thức của người đời nay, Luu Nhân Chú là một con người đã cống hiến trọn đời vì dân vì nước. Ông là niềm tự hào của nhân dân Thái Nguyên, là tấm gương sáng muôn đời về lòng yêu nước, trung quân, về lòng tận tụy với công việc, vì sự nghiệp "Quốc thái dân an". 3. Đại Từ và những truyền thuyết về Lƣu Nhân Chú và dòng họ Lƣu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  45. 40 Vùng đất Đại Từ là quê hương của dòng họ Lưu, nơi mà dòng họ Lưu đã bốn đời làm quan phiên trấn của nhà Trần. Bắt đầu từ vùng đất này cha con Lưu Nhân Chú nhóm lên ngọn lửa yêu nước quật cường. Hiếm có trong lịch sử, một gia đình cống hiến cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bốn vị tướng giỏi, cống hiến cho triều Lê bốn vị công thần - Lưu Trung, Lưu Nhân Chú, Phạm Cuống, Khắc Phục và ba người phụ nữ được phong công chúa. Trải qua nhiều biến động thăng trầm của lịch sử, thời gian xóa nhòa nhiều dấu tích nhưng ngày nay trên đất Đại Từ vẫn còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử đã từng đồng hành và gắn bó với gia tộc họ Lưu. Cùng với những di tích lịch sử ấy là những truyền thuyết được nhân dân gìn giữ và lưu truyền qua bao thế hệ để đến được ngày hôm nay. Bất chấp cả khi con cháu dòng họ Lưu bị triều đình phong kiến nhà Lê ghẻ lạnh, phải thay tên đổi họ. Ở vùng Đại Từ, nhân dân lưu truyền những câu truyện kể về sự đức độ, tài năng, cống hiến của các thành viên trong gia tộc họ Lưu. Tiêu biểu như truyện về đại tướng quân Lưu Trung. Ông là một con người có tướng lạ, hào tâm nghĩa cả, dốc lòng cho sự nghiệp cứu nước và ông hóa cùng giấc ngủ trong một lần đi săn, đàn mối lớn đùn đất lên phủ kín từ đầu đến chân. Vợ ông - bà Lê Thị Ngọc Chân, Đại phụ công chúa, là người đoan chính nhân hậu, giàu lòng thương người nghèo. Truyện kể về Phạm Cuống, chàng trai cao lớn, có trí lực hơn người, gặp việc dám nghĩ dám làm, hùng trưởng một phương, có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Song trong số đó, chiếm vị trí trung tâm là những truyền thuyết về Lưu Nhân Chú. So với các truyền thuyết về các nhân vật dòng họ Lưu truyền thuyết về nhân vật Lưu Nhân Chú chiếm số lượng nhiều hơn cả. Có thể nói số lượng truyền thuyết về Lưu Nhân Chú còn tồn tại cho đến ngày nay không kém gì các vị vua khai sáng các vương triều trong lịch sử Việt Nam. Tất cả những truyền thuyết này đều khắc họa một Lưu Nhân Chú tướng mạo phi thường, sức khỏe hơn người, có tài quân sự, có công chống giặc ngoại xâm xây dựng triều Lê, vị phúc thần của vùng Văn Yên, Ký Phú. Những truyền thuyết này chính là những tấm bia miệng quý giá để ghi nhớ công ơn, ca ngợi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  46. 41 những người anh hùng đã làm rạng rỡ vùng đất Thái Nguyên; những con người đã đem lại một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân Việt Nam một thủa. Họ sẽ sống mãi với non sông đất nước. Hiện tại, những truyền thuyết về Lưu Nhân Chú và dòng họ Lưu vẫn tồn tại sâu rộng trong đời sống tâm linh của người dân vùng quê ông. Nó minh chứng cho cảm hứng tôn vinh lịch sử, tôn vinh những người anh hùng chống giặc ngoại xâm. Việc sưu tầm, nghiên cứu, tiếp cận chuỗi truyền thuyết về Lưu Nhân Chú là một vấn đề vô cùng khẩn thiết trong giai đoạn hiện nay, hơn nữa nó sẽ đem lại cho chúng ta một cách nhìn đầy đủ trọn vẹn đối với một nhân vật lịch sử đáng kính. * Tiểu kết chƣơng một Đại Từ là vùng đất có lịch sử lâu đời. Nhìn chung điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi cho việc phát triền nông - lâm nghiệp. Người dân nơi đây có bản tính cần cù, chịu khó, yêu lao động. Với địa thế đặc biệt, vùng đất này từng có vị trí chiến lược trong các cuộc kháng chiến của dân tộc. Vì thế, người dân Đại Từ có tinh thần cách mạng triệt để. Nhân dân các dân tộc Đại Từ có đời sống tinh thần phong phú với những tín ngưỡng đậm chất nhân văn với những lễ hội dân gian khá độc đáo. Văn học dân gian Đại Từ mang màu sắc tiếp xúc và hội tụ, vừa chứa đựng cái nguồn sống chảy trong mạch ngầm văn hóa cộng đồng vừa tích tụ nét bản sắc riêng của địa phương độc đáo. Thế kỉ XV, gia tộc họ Lưu ở vùng đất này đã cống hiến cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn những người con ưu tú. Trong niềm thành kính và tự hào, người dân đã truyền nhau những truyền thuyết đẹp về tướng quân Lưu Nhân Chú và gia tộc họ Lưu. Những năm gần đây, ngày mùng 4 tết, nhân dân ĐạiTừ lại mở hội để tưởng nhớ công đức của ông. Truyền thuyết ấy góp phần làm nên nét đặc sắc của văn học dân gian vùng Đại Từ và còn là hiện tượng văn học lí thú cần được nghiên cứu sâu sắc hơn dưới góc độ khoa học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  47. 42 Chương hai TRUYỀN THUYẾT VỀ LƢU NHÂN CHÚ Ở VÙNG ĐẠI TỪ, THÁI NGUYÊN 1. Khảo sát các truyền thuyết về Lƣu Nhân Chú ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên 1.1. Số lượng Cho đến nay, tổng số truyền thuyết về Lưu Nhân Chú mà chúng tôi thu thập được là mười bẩy truyện. Những truyền thuyết này được lưu truyền ở khu vực Đại Từ, Thái Nguyên (số lượng này có thể phong phú hơn khi mở rộng địa bàn khảo sát). Trong số đó, chỉ có hai truyền thuyết đã được văn bản hóa, mười năm truyền thuyết chúng tôi ghi lại được trong quá trình điền dã. Hai truyền thuyết được văn bản hóa mà chúng tôi thu được trong các cuốn sách Con người và sự tích Bắc Thái, Bắc Thái văn học, Lưu Nhân Chú và núi Văn, núi Võ, Kho báu một vùng hồ. Đây là những cuốn sách do địa phương xuất bản bắt đầu từ giai đoạn 1985 trở lại đây. Đó là các truyền thuyết sau: 1. Sự tích Lƣu Trung và Lƣu Nhân Chú 2. Sự tích núi Văn, núi Võ Đối với một vị tướng tài ba, một công thần khai quốc triều Lê - một vương triều phong kiến thịnh trị nhất trong lịch sử Việt Nam, thì số lượng truyền thuyết được văn bản hóa như vậy là ít. Theo chúng tôi, có thể do các nguyên nhân khách quan sau: Thứ nhất, liên quan đến cái chết của Lưu Nhân Chú. Sử sách chép lại cái chết của Lưu Nhân Chú hết sức ngắn gọn "bị Lê Sát ghen ghét rồi đầu độc". Thực chất nguyên nhân về cái chết có phải do sự ích kỷ cá nhân của Lê Sát hay Lê Lợi sai Lê Sát giết. Nhưng biết rằng ba năm sau Lê Sát cũng bị giết và Đại đô đốc Lê Ngân lên cầm quyền thay Tể tướng Lê Sát. Đến tháng 12 năm 1437, Lê Ngân cũng bị sát hại. Vấn đề hạn chế của thời đại lúc bấy giờ chúng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  48. 43 tôi không bàn đến. Nhưng hình phạt của xã hội phong kiến vốn vô cùng thảm khốc với những cái án "chu di tam tộc", "chu di cửu tộc", hầu như tất cả những gì liên quan đến người bị hại đều bị hủy hoại, chính quyền phong kiến cấm nhân dân chứa chấp những gì liên quan đến họ. Có lẽ trường hợp của Lưu Nhân Chú cũng không năm ngoài quy luật ấy. Dòng họ Lưu phải thay tên, đổi họ, những tư liệu về ông bị mất mát, thất lạc. Chẳng hạn, trong Gia phả dòng họ Lưu ở Văn Yên, phần cuối có sao năm sắc phong cho ba người, đó là Lưu Trung, Phạm Cuống, Lê Văn Hiển, không thấy nhắc đến Lưu Nhân Chú. Phải chăng, Lưu Nhân Chú chết rồi mà vẫn bị triều đình phong kiến ghẻ lạnh. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp với nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, các địa danh văn hóa đều bị dỡ bỏ hoặc bị chiến tranh tàn phá. Các tài liệu liên quan đến Lưu Nhân Chú hầu như mất hết. Ngay cả nguồn sử liệu chép về Lưu Nhân Chú cũng còn hạn chế. Vậy nên, số lượng truyền thuyết được văn bản hóa đều do các nhà nghiên cứu sưu tầm từ giai đoạn 1985 trở lại đây. Một truyền thuyết nữa cũng được chúng tôi sưu tầm trong nguồn tài liệu tại chỗ, đó là truyền thuyết: Cha con Lưu Nhân Chú và chuyện mả Phật Hoàng Truyền thuyết này chúng tôi sưu tầm được trong Gia phả dòng họ Lưu ở Văn Yên. Truyền thuyết được sáng tạo xuất phát từ sự tôn vinh lịch sử, ở một chừng mục nào đó truyền thuyết có liên quan đến lịch sử. Ở những giai đoạn chưa có sử, truyền thuyết được các sử gia trung đại sử dụng như một nguồn tài liệu là chuyện hiển nhiên. Truyền thuyết dân gian như những cứ liệu, có thể nói, đó là hiện tượng phổ biến của các bộ sử thời trung đại [6, tr.98]. Về vấn đề này, tác giả Kiều Thu Hoạch có nhận định như sau: "Việc biên soạn thần tích, thần phả của các triều đại phong kiến nói chung nhưng dù sao cũng có một tác động khách quan là góp phần vào việc bảo tồn truyền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  49. 44 thuyết của dân tộc, đặc biệt là truyền thuyết anh hùng [31, tr.34]. Gia phả dòng họ Lưu ở Văn Yên có những câu chuyện kỳ ảo nhằm mục đích tôn vinh, thiêng liêng hóa các nhân vật trong dòng họ Lưu. Từ những căn cứ trên, chúng tôi sử dụng Gia Phả dòng họ Lưu ở Văn Yên để tách lấy những truyền thuyết về Lưu Nhân Chú. Mười bốn truyền thuyết còn lại chúng tôi sưu tầm được trong quá trình điền dã. Đối tượng mà chúng tôi tập trung tiếp cận là những người làm công tác văn hóa ở địa phương, người cao tuổi, đặc biệt là các cụ già trong dòng họ Lưu ở Văn Yên cùng đông đảo bà con nhân dân các xã Văn Yên, Kí Phú, Vạn Thọ, Quân Chu và các vùng lân cận. Cụ thể là các truyền thuyết sau: 1. Sự tích núi Chúa ở Phục Linh. 2. Truyền thuyết về sức khỏe của Lưu Nhân Chú. 3. Sự tích núi Xem, giếng Dội, hồ Tắm Ngựa. 4. Sự tích núi Miễu. 5. Sự tích núi Cắm Cờ. 6. Sự tích đát Đá Mài. 7. Cứu đói cho nghĩa quân ở Linh Sơn. 8. Sự tích núi Quần Ngựa và cánh đồng Tràng Dương. 9. Truyền thuyết về sự ra đời của Lưu Nhân Chú. 10. Sự tích bến Ngâm Thuyền. 11. Sự tích Phạm Cuống. 12. Sự tích về sự ra đời của Lưu Trung. 13. Sự tích đền Lục Giáp. 14. Truyện Lưu Nhân Chú báo mộng. Trong quá trình điền dã, sưu tầm những truyền thuyết này có một điều đặc biệt đáng chú ý, có thể có những truyền thuyết do người hiện đại ngày nay hư cấu, sáng tạo nên. Những truyền thuyết này đa phần được ghi theo lời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  50. 45 kể của người dòng họ Lưu, khi kể họ đóng vai trò của người diễn xướng và cũng vừa là chủ thể sáng tạo, kết hợp với cảm xúc tôn vinh tự hào dòng tộc nên tâm trạng thăng hoa. Do vậy, ngôn ngữ kể có khả năng biểu đạt cao. Đây là trường hợp thường gặp vì văn học dân gian luôn có xu hướng "hiện đại hóa tác phẩm" [7, tr.45]. Hơn nữa "Kể có nghĩa là viết cho người đọc nghe" [6, tr.148]. Trong bối cảnh hiện đại, văn học dân gian có mối quan hệ chặt chẽ với văn học chuyên nghiệp và nhất là với văn học quần chúng. Do vậy việc sưu tầm những bản kể ấy rất cần thiết bởi vì một phần nào đó nó phản ánh sức sống của truyền thuyết trong thời hiện đại. So với các truyền thuyết được văn bản hóa, các truyền thuyết truyền miệng về Lưu Nhân Chú có số lượng phong phú hơn. Số lượng mười bốn truyền thuyết thu được là con số tương đối lớn. Lớn hơn số lượng truyền thuyết về người anh hùng Dương Tự Minh đời Lý, truyền thuyết về Trần Quốc Tảng đời Trần. Điều ấy chứng tỏ trong tâm thức của người dân vùng Đại Từ, mức độ ảnh hưởng của Lưu Nhân Chú là vô cùng sâu sắc. Họ yêu quý ông không kém gì các ông vua hiền, các thủ lĩnh trong các triều đại phong kiến Việt Nam trước. 1.2. Đặc điểm Khảo sát mười bẩy truyền truyết về Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ, Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy chuỗi truyền thuyết này có đặc điểm như sau: 1.2.1. Số lượng truyền thuyết về Lưu Nhân Chú còn lại đến ngày nay ở Đại Từ - Thái Nguyên tương đối phong phú, bao gồm nhiều truyền thuyết tồn tại dưới dạng những mẫu kể ngắn. Những mẫu kể ngắn này phản ánh đúng nhất đặc điểm của truyền thuyết dân gian: ngắn gọn, súc tích, chủ yếu nêu sự kiện chính. Nhờ đặc điểm này mà truyền thuyết dân gian dễ dàng được phổ biến, lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Đặc điểm này có thể thấy rõ trong các truyện: Sự tích núi Miễu, Sự tích núi Cắm Cờ, Sự tích đát Đá Mài, Cứu đói cho nghĩa quân Lam Sơn, Sự tích bến Ngâm Thuyền, Sự tích Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  51. 46 Phạm Cuống, Sự ra đời của Lưu Trung, Sự tích đền Lục Giáp, Truyện Lưu Nhân Chú báo mộng. Bên cạnh những mẫu kể ngắn gọn kể trên là những truyền thuyết với lời kể tương đối sinh động, giàu tính nghệ thuật, có thể kể những truyền thuyết sau: Sự tích Lưu Trung và Lưu Nhân Chú, Sự tích núi Văn, núi Võ, Sự tích núi Chúa ở Phục Linh, Truyền thuyết về sức khỏe của Lưu Nhân Chú, Cha con Lưu Nhân Chú và chuyện mả Phật Hoàng, Sự tích núi Quần Ngựa và cánh đồng Tràng Dương, Truyền thuyết về sự ra đời của Lưu Nhân Chú. Trong những truyền thuyết này, tác giả dân gian không chỉ chú ý đến những sự kiện cốt lõi, cốt truyện mà còn chú ý đến cấp độ tình tiết. Tác giả dân gian chú ý miêu tả không gian của truyện, lời nói, thái độ, suy nghĩ, trăn trở của nhân vật một cách hết sức chi tiết. Những truyền thuyết dân gian qua những lời kể khá biểu cảm đem lại cho người đọc, người nghe cảm giác thú vị như đang được chứng kiến tận mắt các sự việc và đôi khi cần thấy mình là một phần của câu chuyện. Nhân vật Lưu Nhân Chú như hiện lên bằng xương bằng thịt, hết sức đời thường. Tác giả dân gian đặc biệt thuật lại những lời nói, cử chỉ, hành động, tâm trạng của tướng quân Lưu Nhân Chú đối với hiện thực cuộc sống. Chi tiết Nhân Chú luôn mặc chiếc áo chàm mộc mạc, chi tiết ông động lòng thương con hổ, chi tiết ông cứu đàn trâu bị nước cuốn và cả một sự trăn trở ngày đêm lo lắng việc nước, tất cả những hành động và việc làm ấy in đậm trong tâm trí người dân Đại Từ. Đó là người anh hùng hết sức đời thường, luôn gần gũi với nhân dân, được nhân dân tin yêu cảm mến. Đây là một trong hai xu hướng của truyền thuyết, kéo người anh hùng trong quá khứ về với hiện thực đời thường nhằm làm cho nhân vật trong truyền thuyết gần gũi với hiện thực, làm tăng lòng tin của người dân đối với câu chuyện được kể. Từ đó, truyền thuyết lay động được nhận thức và tình cảm của con người. Việc tái hiện nhân vật Lưu Nhân Chú một cách cụ thể, chi tiết, cho thấy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  52. 47 khoảng cách người anh hùng và nhân dân gần như được xóa bỏ hoàn toàn. Như vậy, chứng tỏ người dân Đại Từ xưa đã hiểu sâu sắc về người con ưu tú của quê hương mình. Từ đó, hình thành nên tình cảm kính yêu, ngưỡng mộ và cũng vừa là cách để nhân dân tôn vinh những điều tốt đẹp về người anh hùng Lưu Nhân Chú. 1.2.2. Truyền thuyết về Lưu Nhân Chú là tổ hợp mẫu kể đa dạng về tiểu loại. Phân loại truyền thuyết là vấn đề khá phức tạp, theo giáo sư Kiều Thu Hoạch hệ thống thể loại truyền thuyết người Việt gồm ba loại lớn: 1. Truyền thuyết về nhân vật. 2. Truyền thuyết địa danh. 3. Truyền thuyết phong vật. Trong mỗi loại lớn tùy theo đề tài và chức năng của nội dung truyện kể mà chia tiếp thành các biến thể thể loại hoặc tiểu loại. Truyền thuyết nhân vật bao gồm các tiểu loại: truyền thuyết về các anh hùng chống xâm lược, truyền thuyết về các anh hùng văn hóa, truyền thuyết về các anh hùng nông dân. Truyền thuyết dịa danh gồm những truyện kể giải thích tên gọi của các địa danh gắn với các sự kiện các nhân vật lịch sử có liên quan. Truyền thuyết phong vật gồm những truyện kể phong tục sản vật. Nghiên cứu hệ thống truyền thuyết về Lưu Nhân Chú, chúng tôi nhận thấy đây là một tổ hợp mẫu kể đa dạng về tiểu loại. Truyền thuyết về Lưu Nhân Chú là truyền thuyết lịch sử về người anh hùng chống giặc ngoại xâm. Nhân vật chính của chuỗi truyền thuyết là tướng quân Lưu Nhân Chú, người có công lớn trong công cuộc đánh đuổi giặc Minh và xây dựng triều Lê. Ông là con người có lòng yêu nước nồng nàn, có tinh thần tự hào dân tộc sâu sắc, có khí phách hiên ngang trong đánh giặc và cần cù sáng tạo trong sản xuất. Bên cạnh hình tượng người anh hùng Lưu Nhân Chú còn xuất hiện các gương mặt rất đẹp khác như Lưu Trung, Phạm Cuống, nghĩa sĩ và đặc biệt là hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  53. 48 tượng "con cọp móng xám". Những "con người" này đóng vai trò rất lớn trong việc tạo dựng một tập thể anh hùng mang tinh thần dân tộc lớn lao. Người anh hùng không hoạt động đơn độc mà còn có rất nhiều tướng tá và nhân dân cùng giúp sức để đánh đuổi giặc ngoại xâm. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rất có lí khi cảm nhận về đất nước qua những câu thơ : "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất nước có từ ngày đó" Những câu thơ trên là một minh chứng về đời sống hiện thức của dân tộc ta qua hàng nghìn năm lịch sử, chỉ tập trung vào hai việc lớn: làm ăn và đánh giặc. Đó cũng là hai nhiệm vụ sống còn của dân tộc. Trong truyền thuyết anh hùng, sản xuất và chiến đấu là hai chủ đề cuộn chặt lấy nhau một cách kì lạ. Trong chuỗi truyền thuyết về Lưu Nhân Chú, chúng tôi thấy hai chủ đề này nổi lên rất rõ. Tác giả dân gian không chỉ kể ông Nhân Chú đánh giặc Minh mà còn kể chuyện ông cứu dân thoát khỏi nạn lụt, khai khẩn đất hoang ở Vạn Thọ, xẻ núi, cấy lúa trồng ngô, tích trữ lương thực nuôi quân. Cũng như người dân kể chuyện ông Thánh Gióng không chỉ đánh giặc Ân mà còn kể chuyện hái cà, đập đất, chăn trâu. Trong chuỗi truyền thuyết về Mạc Đăng Dung, hình ảnh Đăng Dung gắn liền với vị thần có công trị thủy. Ông đắp con đê lớn từ vùng Đa Độ ra tới tận biển, hôm đắp đê đích thân Thái tổ ra úy lạo quân lính và dân phu, Ngài xắn tay áo cùng đắp với họ khiến hết thảy dân chúng đều cảm kích. Ý thức quan tâm tới việc lao động và chiến đấu đã được quán triệt trong hầu hết các truyền thuyết và trong chính các nhân vật của truyền thuyết [31, tr.63]. Chuỗi truyền thuyết về Lưu Nhân Chú cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nhờ vậy, đời sống của những truyền thuyết về Lưu Nhân Chú mới bền vững, mới được người dân yêu thích và truyền tụng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  54. 49 Không chỉ thế, hệ thống truyền thuyết về Lưu Nhân Chú có những mẫu kể mang thuộc tính của truyền thuyết địa danh. Truyền thuyết địa danh là truyện kể dân gian về nguồn gốc lịch sử của những tên gọi địa lý khác nhau hoặc về nguồn gốc của bản thân những địa điểm, địa hình, sự vật địa lý ấy. Tất nhiên không phải địa danh nào cứ có nguồn gốc lịch sử là gắn với một nhân vật lịch sử và đều đi vào truyền thuyết. Nếu lấy mức độ truyền thuyết địa danh gắn với lịch sử làm tiêu chí thì truyền thuyết địa danh chia thành ba nhóm: những địa danh phản ánh quá trình chung của lịch sử, những địa danh phản ánh những sự kiện lịch sử cụ thể và những địa danh ít có căn cứ về mặt lịch sử. Thần thoại giải thích thiên nhiên nhưng thiên nhiên đại diện cho sức mạnh và quy luật của vũ trụ còn đối với thể loại truyền thuyết, thiên nhiên là bản hùng ca chống giặc ngoại xâm. Thiên nhiên được đặt trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc. Trong con số mười bẩy truyền thuyết mà chúng tôi sưu tầm được, có đến tám truyền thuyết giải thích nguồn gốc địa danh. Cụ thể: Sự tích núi Chúa ở Phục Linh, Sự tích núi Xem, giếng Dội, hồ Tắm Ngựa, Sự tích núi Miễu, Sự tích núi Cắm Cờ, Sự tích đát Đá Mài, Sự tích núi Quần Ngựa và cánh đồng Tràng Dương, Sự tích bến Ngâm Thuyền, Sự tích đền Lục Giáp. Những truyền thuyết này phản ánh sự kiện lịch sử cụ thể - những hành động, việc làm của người anh hùng Lưu Nhân Chú trong công cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược vào thế kỷ XV. Tên gọi của những ngọn núi, cánh đồng, dòng suối đến cái bến nhỏ thân thương đều ghi dấu ấn những ngày tháng gian khổ của cha con Lưu Nhân Chú cùng nhân dân chống quân Minh, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các địa danh núi Chúa, núi Xem, núi Miễu, núi Cắm Cờ, núi Quần Ngựa, cánh đồng Tràng Dương, đát Đá Mài, bến Ngâm Thuyền, miếu Vật, đền Lục Giáp (xem ảnh phần phụ lục) là những "tượng đài kỉ niệm" thuyết minh chính xác cho những việc làm yêu nước của Lưu Nhân Chú. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  55. 50 Truyện Sự tích núi Quần Ngựa và cánh đồng Tràng Dương giải thích vì sao ngọn núi ở địa đầu xã Vân Yên lại có tên là núi Quần Ngựa. Truyện kể rằng: "Hàng ngày Lưu Nhân Chú cho đội quân kị binh luyện tập trên núi mà ông cụ căn dặn. Một thời gian sau những con ngựa chiến trở nên thuần thục, đặc biệt như có nguồn sức mạnh vô hình nào khiến chúng rất khỏe. Cũng từ đó, ngọn núi ấy được gọi là núi Quần Ngựa". Truyện còn giải thích tại sao cánh đồng rộng lớn, màu mỡ trên xã Vạn Thọ lại có tên cánh đồng Tràng Dương: "Chàng cùng nhân dân khai khẩn vùng đất phía đông, đào mương, xẻ núi, cấy lúa, trồng ngô. Một thời gian sau, vùng đất hoang trở thành cánh đồng màu mỡ, bốn mùa xanh tươi trù phú. Lương thực không những đủ nuôi quân mà còn tích trữ được rất nhiều. Từ đó, cánh đồng ấy được nhân dân gọi là cánh đồng Tàng Lương (gọi chệch đi là Tràng Dương)". Khi nguồn lương thực rồi dào, Lưu Nhân Chú cho quân cất dấu ở trong một cái hang lớn trên núi Bút Thần (xã Yên Lãng), cái hang ấy được gọi là hang Nung. Nơi nghĩa quân mài gươm dáo được gọi là đát Đá Mài. Ngọn núi Lưu Nhân Chú cho quân tập trận được gọi là núi Cắm Cờ. Truyện kể rằng: "Sau khi chiêu mộ được đội quân đông đảo, Lưu Nhân Chú cho quân sĩ luyện tập. Hàng ngày, từ sớm cho đến tối cả những đêm trăng đoàn quân của ông luyện tập trên một ngọn núi. Ông lấy ngọn núi này giả làm thành giặc, mỗi lần binh sĩ chiếm được thành lại cắm cờ đỏ rực trên ngọn núi ấy. Nhân dân trong vùng luôn trông thấy lá cờ đỏ rực trên đỉnh ngọn núi đó và từ đó gọi là núi Cắm Cờ". Cái bến nước rất đẹp trên dòng suối Đôi là nơi Lưu Nhân Chú cho quân giấu thuyền sau mỗi lần luyện tập thủy quân cho nên nhân dân trong vùng gọi là bến Ngâm Thuyền. Quả núi nhân dân thường ngồi xem nghĩa quân tập trận gọi là núi Xem. Những địa danh ấy sáng ngời chiến công oai hùng của tướng quân Lưu Nhân Chú, mang dấu ấn của những ngày đầu chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và không khí thời đại. Giải thích địa danh đã trở thành nhu cầu tôn vinh lịch sử, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  56. 51 tôn vinh người anh hùng Lưu Nhân Chú. Ý thức tôn vinh lịch sử dân tộc, tôn vinh người anh hùng Lưu Nhân Chú đã khoác thêm ánh hào quang cho sông núi quê hương Đại Từ, một vùng quê chất chứa hồn thiêng dân tộc. Những địa danh ấy là niềm tự hào của nhân dân Đại Từ và là niềm tôn kính một vị tướng tài ba. Nó chính là bức thông điệp gửi đến cho thế hệ mai sau bài học về ý thức cộng đồng, niềm tự hào về một dân tộc anh hùng. 1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển của các loại tự sự dân gian gắn liền với sự phát triển của lịch sử xã hội. Mỗi thể loại tự sự chiếm vị trí "độc tôn" trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Các thể loại văn học dân gian không phải là một "bức tường phong kín" mà có sự đan xen thể loại hết sức phức tạp. Do vậy, chúng chưa có sự phân hóa rành mạch mà chuyển hóa lẫn nhau, thâm nhập vào nhau. Điều nay được coi như một thuộc tính của văn học dân gian. Truyền thuyết ra đời trong giai đoạn đã có truyện cổ tích cho nên ít nhiều ảnh hưởng thi pháp của cổ tích. Trong hệ thống truyền thuyết về Lưu Nhân Chú, tác giả dân gian sử dụng dày đặc những chi tiết kỳ ảo hoang đường. Nhân vật chính được các lực lượng thần kỳ phù trợ. Lực lượng thần kỳ là mô típ quen thuộc trong truyện cổ tích, nó có thể đứng về phía cái thiện hoặc về phía cái ác. Nhưng lực lượng này thường đứng về phía cái thiện nhiều hơn. Mỗi khi nhân vật chính gặp khó khăn thử thách, nhờ trợ thủ thần kỳ giúp, họ chiến thắng các thế lực thù địch. Chuỗi truyền thuyết về Lưu Nhân Chú có sự phù trợ của nhân vật thần kỳ. Truyền thuyết có tình tiết trong giấc mộng, bà mẹ thấy thần hiện lên báo mộng cho mình sẽ sinh được quý tử: "Vợ chồng nhà chị ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức, chị sẽ sinh quý tử". Cũng ở tình tiết này, nhân dân thể hiện triết lí "ở hiền gặp lành"- một triết lí vĩnh hằng trong truyện cổ tích. Sự ra đời của Lưu Nhân Chú được sự phù trợ của thần linh có tác dụng mang lại không khí thiêng thường thấy trong truyền thuyết. Ở truyền thuyết Sự tích núi Quần Ngựa và cánh đồng Tràng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên