Luận văn Bồi dưỡng kỹ năng giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bồi dưỡng kỹ năng giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
luan_van_boi_duong_ky_nang_giao_duc_cho_hoc_vien_dao_tao_sy.doc
Nội dung text: Luận văn Bồi dưỡng kỹ năng giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức đang đặt ra những yêu cầu mới không chỉ cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo mà còn đòi hỏi mỗi cá nhân phải có khả năng thích ứng cao, linh hoạt trong tiếp nhận, xử lý thông tin và không ngừng tự bồi dưỡng tri thức để đáp ứng được các nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội. Chính vì vậy, việc phát huy vai trò năng động chủ quan, chú trọng bồi dưỡng năng lực tự giáo dục, tự đào tạo của người học đang là một nội dung quan trọng của đổi mới giáo dục đào tạo trong nhà trường hiện nay, đây được xem như một hướng đột phá, một sự quan tâm lớn của xã hội và các trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Nhận thức được vấn đề trên, trong các Văn kiện, Nghị quyết gần đây, Đảng ta luôn khẳng định: “đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, làm chủ kiến thức tránh học vẹt, học chay” [5, 203]. Đây là vấn đề có ý nghĩa bức thiết của giáo dục, nhằm biến quá trình đào tạo của nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi cá nhân. Nằm trong hệ thống các học viện, nhà trường quân đội, HVHC có nhiệm vụ đào tạo cán bộ hậu cần cho toàn quân và đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu giảng dạy khoa học hậu cần quân sự. Từ những năm học đầu, học viên đã phải tiếp thu một lượng kiến thức rất lớn về khoa học cơ bản, khoa học quân sự, khoa học xã hội và nhăn văn làm cơ sở theo học các chuyên ngành. Để có thể lĩnh hội tri thức ở bậc đào tạo đại học, hình thành được các phẩm chất nhân cách cần thiết của người cán bộ hậu cần trong tương lai đòi hỏi học viên phải có các KNTGD tương ứng để có thể tự học tập, tự rèn luyện thường xuyên. Khi được bồi dưỡng và rèn luyện KNTGD, học viên sẽ có một hệ thống công cụ hữu ích cho hoạt động nhận thức, làm cho quá trình tiếp thu kiến thức, rèn luyện KN sẽ tốn ít sức lực và có hiệu quả hơn. Từ đó, học viên càng có điều kiện để hợp tác, đào sâu tìm hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Nhờ có KNTGD mà học viên từ chỗ là đối tượng của giáo dục sẽ trở thành chủ thể của giáo dục, tiếp nhận những tác động của giáo dục một cách chủ động tích cực, sáng tạo và tự làm chủ quá trình hoàn thiện nhân cách của mình. 4
- Quán triệt Nghị quyết 86 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về công tác giáo dục đào tạo trong tình hình mới. Trong những năm qua, HVHC đã tiến hành đổi mới đồng bộ nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục - đào tạo theo hướng dân chủ hoá, tích cực hoá nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo các học viên sỹ quan trở thành những con người hoạt động thực tiễn tự chủ, năng động và sáng tạo. Vai trò tích cực, chủ động trong học tập rèn luyện của học viên đã được đề cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ của Học viện và yêu cầu xây dựng ngành hậu cần quân đội trong thời kỳ mới thì chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện còn những vấn đề bất cập, qua khảo sát chất lượng cán bộ hậu cần cấp phân đội bậc đại học mới ra trường cho thấy: “đa phần cán bộ được đào tạo đều có phẩm chất, năng lực và tiềm năng phát triển. Song vẫn có không ít số cán bộ phân đội còn lúng túng trong thực hiện chức trách thực tế, đặc biệt những vấn đề liên quan đến kinh tế thị trường, làm luận chứng kinh tế, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra đối với cán bộ hậu cần [17]. Bên cạnh đó, sự trưởng thành về nhân cách và các phẩm chất nghề nghiệp của học viên còn chậm, khả năng định hướng giá trị còn yếu, kết quả học tập, rèn luyện của học viên còn chưa cao Những hạn chế đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân cơ bản, học viên chưa có KNTGD hoặc KNTGD, KN thực hành tuy được hình thành nhưng chưa vững chắc và mang tính hệ thống. Do vậy, để thực hiện thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Học viện, xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần vừa hồng vừa chuyên, yêu cầu đặt ra là phải không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình giáo dục đào tạo, đặc biệt cần chú trọng vào bồi dưỡng các kỹ năng tự học tập, tự rèn luyện và năng lực thực hành nhằm hình thành KNTGD cần thiết cho học viên. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn: “Bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề TGD, KNTGD nói riêng hay KN tổ chức các hoạt động nói chung, cả trong và ngoài quân đội. Trong đó có một số công trình tiêu biểu như: Lê Đức Phúc (2004), “Nâng cao khả năng tự giáo dục của học sinh” NXB Chính trị Quốc gia; Thái Duy Tuyên (2000), “Tăng cường hoạt động tự giáo dục của học sinh”, tạp chí Giáo dục và thời đại, 32( 294); 5
- Nguyễn Học Từ (1998): “Cơ sở sư phạm và giải pháp bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên các trường Đại học quân sự” Luận án phó tiến sỹ khoa học quân sự, Hà nội; Nguyễn Thành Vân (2004), “Những biện pháp bồi dưỡng kỹ năng tổ chức hoạt động nhận thức cho giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở các trường Đại học quân sự hiện nay”, Luận án tiến sỹ Giáo dục học, Hà Nội Các công trình đề tài nói trên là những định hướng, gợi ý quan trọng giúp tác giả trong quá trình nghiên cứu. Nhìn chung, các công trình khoa học đã đề cập và luận giải nhiều khía cạnh của vấn đề TGD, KNTGD, KN tổ chức các hoạt động cho học sinh, sinh viên trong đó có các học viên ở nhà trường quân sự. Các công trình đã khẳng định vai trò của TGD, KNTGD đối với việc hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách nói chung, nhân cách của người quân nhân cách mạng nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở HVHC. Đề tài không trùng lặp với các đề tài, công trình đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi dưỡng KNTGD, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC hiện nay * Nhiệm vụ - Luận giải một số vấn đề lý luận về bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học - Đánh giá thực trạng bồi dưỡng KNTGD của học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC hiện nay - Đề xuất một số giải pháp cơ bản bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở HVHC trong giai đoạn hiện nay 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HV HC * Phạm vi nghiên cứu Bồi dưỡng KNTGD của học viên Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 ở HVHC từ năm 2004 đến 2009 6
- 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng về giáo dục; lý luận của khoa học chuyên ngành giáo dục học - Cơ sở thực tiễn: Kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan; Kết quả thực tế bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC trong những năm gần đây; báo cáo tổng kết các mặt hoạt động chủ yếu của tiểu đoàn quản lý học viên và số liệu khảo sát của tác giả về bồi dưỡng KNTGD ở các tiểu đoàn quản lý học viên đào tạo sỹ quan hậu cấp phân đội, trình độ đại học của HVHC - Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp, điều tra xã hội học và phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp trao đổi, xin ý kiến chuyên gia 6. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài Kết quả nghiên cứu đề tài phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nâng cao hiệu quả bồi dưỡng KNTGD của học viên, đồng thời đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy. 7. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm mở đầu, 2 chương, 5 tiết, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG TỰ GIÁO DỤC CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SỸ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN 1.1. Một số vấn đề lý luận về bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở Học viện Hậu cần 1.1.1. Kỹ năng tự giáo dục của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội Trong lịch sử, vấn đề giáo dục và TGD đã được quan tâm từ rất sớm. Các nhà giáo dục đánh giá rất cao vai trò của TGD, tự tu dưỡng rèn luyện và coi trọng phát huy TTC, chủ động của người học. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà vấn đề này còn được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, thậm chí còn mang nặng tính tự phát, chủ quan, đơn giản và phiến diện. Chỉ khi học thuyết Mác- Lênin ra đời với cách xem xét biện chứng, vấn đề TGD được nhìn nhận một cách khoa học, TGD không còn hoàn toàn là hiện tượng thuần tuý chỉ có ở mỗi người mà còn là một hiện tượng xã hội. Theo đại từ điển tiếng Việt “tự” là từ “biểu thị hoạt động do chủ thể tiến hành hoặc biểu thị ý nghĩa phản thân” [30,236]. Theo đó, TGD của HV đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội, trình độ đại học được hiểu là quá trình nỗ lực tự giác cao của học viên nhằm tự tổ chức, tự điều khiển, tự điều chỉnh sự hình thành phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình theo mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện. TGD là nhân tố quyết định đến sự phát triển hoàn thiện nhân cách của mỗi người nói chung, của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội, trình độ đại học nói riêng. Đây là quá trình chuyển hoá những nhu cầu của xã hội, quân đội vốn tồn tại khách quan thành trạng thái chủ quan, thành nhu cầu động cơ, nội dung, khả năng tự học tập, tự rèn luyện của mỗi học viên thông qua vai trò của nhà giáo dục và hoạt động thực tiễn tích cực của học viên. Học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội trình độ đại học là những thanh niên trẻ, khoẻ, tuổi đời từ 18-22, phần lớn là học sinh phổ thông được tuyển chọn qua con đường tuyển sinh đại học. Đó là những học viên ham hiểu biết, nhạy cảm trước tác động của môi trường, tư duy mau lẹ, linh hoạt, trí nhớ tốt. Đây là những điều kiện thuận lợi để họ có khả năng tiếp thu nhanh tri thức khoa học, nhất là tri thức khoa học hậu cần quân sự, tạo tiền đề 8
- cho sự phát triển hoàn thiện phẩm chất nhân cách người cán bộ hậu cần trong điều kiện mới. Tuy nhiên, học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội là những người trẻ tuổi, vốn sống kinh nghiệm chưa nhiều, nhất là kinh nghiệm về chính trị xã hội, hậu cần quân sự và KNTGD và rèn luyện bản thân. Cho nên họ thường bộc lộ những hạn chế như nhận thức nhanh nhưng dễ phiến diện, đánh giá thường cảm tính thiếu sâu sắc, phân biệt đúng sai về một số vấn đề trong cuộc sống, rèn luyện, học tập còn hạn chế. Đặc biệt là trong những năm đầu, mục tiêu phân đấu chưa rõ ràng cụ thể, còn lý trí chưa biết bắt đầu từ đâu Do vậy cán bộ lãnh đạo, quản lý và các lực lượng giáo dục cần quan tâm, hướng dẫn, tổ chức hoạt động học tập, rèn luyện một cách cụ thể, nhất là bồi dưỡng KN, kinh nghiệm TGD cho họ hướng vào thực hiện thắng lợi mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện. Hiện nay, khi bàn về KN có nhiều quan điểm. Tuỳ theo từng góc độ, các nhà khoa học đưa ra khái niệm KN với nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Hà Thế Ngữ đưa ra khái niệm KN với nghĩa coi KN là mặt kỹ thuật của thao tác hành động: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động - những cái mà con người đã lĩnh hội từ trước” [18,17]. Ở góc nhìn khác, Hà Thị Đức lại nhấn mạnh việc coi KN không đơn thuần là mặt kỹ thuật của hành động mà còn là biểu hiện năng lực của con người: “Kỹ năng là năng lực sử dụng các tri thức và các kỹ xảo của mình một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn” [27,13] Nhìn chung, các khái niệm cơ bản đã chỉ ra đặc trưng cốt lõi của KN, đó là khả năng thực hiện có kết quả một hành động hay một loạt hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng đúng đắn, sáng tạo kiến thức đã có để giải quyết một nhiệm vụ, thực hiện một công việc tương ứng theo những chuẩn mực xác định.Việc xem xét KN với tư cách là năng lực hành động của cá nhân đặt ra yêu cầu là không chỉ phân tích mặt kỹ thuật của hành động mà còn phải nghiên cứu các nhân tố khác có liên quan đến việc triển khai hành động. Cho nên xem xét KN phải gắn với một hoạt động cụ thể, xem nó như một đặc điểm của hành động. KN trước hết biểu hiện mặt kỹ thuật, mức độ đúng đắn và thành thục của hành động. KN không có mục đích riêng, mục đích của KN cũng là mục đích của hành động. Trong KN, không chỉ là tri thức về phương thức hành động mà còn là tri thức về giá trị của hành động, định hướng cho chủ thể luyện tập để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng. Sự hình thành KN phụ thuộc vào cơ chế hình thành hành động. Do vậy cần luyện tập thường xuyên trong thực tiễn để chủ thể có thể nắm được quy luật của 9
- hành động và có thể triển khai nó ở các tình huống khác nhau. Xét về mặt kết quả hoàn thành, người được gọi là có KN vừa phải hoạt động có hiệu quả trong các điều kiện quen thuộc vừa phải đạt kết quả tương tự trong các điều kiện hoàn cảnh khác nhau. Dấu hiệu đặc trưng của KN là khả năng thay đổi thao tác hành động trong các điều kiện thay đổi. Có thể nói, tính đúng đắn, sự thành thạo, linh hoạt và mềm dẻo là một tiêu chuẩn quan trọng để xác định sự hình thành và phát triển của KN. Từ những khái quát trên, dưới góc độ tâm lý - giáo dục học tác giả quan niệm: Kỹ năng tự giáo dục là khả năng vận dụng có kết quả những tri thức về giá trị và phương thức hành động tự giáo dục, được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng đặt ra trong cuộc sống và hoạt động của chủ thể. Trong quá trình đào tạo, học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội, trình độ đại học vừa phải tiếp thu những kiến thức khoa học cơ bản, cơ sở và kiến thức chuyên ngành hậu cần quân sự vừa phải hoạt động phấn đấu rèn luyện để trở thành người sỹ quan hậu cần, người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiệm vụ học tập, rèn luyện đặt ra yêu cầu cao không chỉ về sự kiên trì, bền bỉ mà còn đòi hỏi học viên phải có KNTGD, tự rèn luyện để có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Để có được những KNTGD, người học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội một mặt phải tiếp thu sự định hướng, điều khiển, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của các lực lượng giáo dục, mặt khác có ý nghĩa quyết định là phải tự xác định kế hoạch, tự tổ chức thực hiện và kiểm tra hoạt động TGD của mình nhằm đạt mục đích đặt ra. Do đó, ở cấp độ khái quát, Kỹ năng tự giáo dục của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội là khả năng vận dụng những kiến thức và kinh nghiệm tự giáo dục để triển khai thực hiện những nhiệm vụ TGD và rèn luyện của bản thân học viên một cách chủ động sáng tạo và có hiệu quả. KNTGD được hình thành trên nền tảng kiến thức và kinh nghiệm TGD. Giáo dục là điều kiện của TGD. KNTGD đồng nghĩa với năng lực tự nhận thức, tự định hướng tổ chức, tự điểu khiển quá trình TGD và rèn luyện của học viên. Muốn TGD có hiệu quả và chất lượng điều quan trọng là học viên phải có khả năng biến những kiến thức và kinh nghiệm đó thành hoạt động TGD và rèn luyện phù hợp, sáng tạo. Vì vậy, ở cấp độ cụ thể KNTGD được hiểu là một hệ thống những thao tác hành vi định hướng tự tổ chức và tự điều khiển các hoạt động TGD và rèn luyện của cá nhân học viên. Nói cách khác, 10
- KNTGD là hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự điều khiển các hoạt động học tập và rèn luyện cụ thể của học viên. Như vậy, KNTGD của học viên bao gồm hai thành tố là tri thức và các thao tác cấu thành. Tri thức về phương thức thực hiện các thao tác, hoạt động cấu thành KNTGD.Ví như việc nắm mục đích, bản chất, vai trò cách thức, phương pháp thực hiện Các thao tác tương ứng cùng với những phương thức thực hiện thao tác. Đây là khả năng triển khai hoạt động trong thực tiễn trên cơ sở vận dụng tri thức kinh nghiệm đã thu được. Giữa hai thành tố trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tri thức về phương thức thực hiện các thao tác, hoạt động là cơ sở tiền đề để hình thành nên một thao tác, phương thức thực hiện. Vốn tri thức càng sâu sắc, kinh nghiệm thực tiễn càng phong phú thì việc hình thành KNTGD càng diễn ra nhanh chóng và vững chắc. Ngược lại các thao tác hoạt động được hình thành làm cho trình độ am hiểu tri thức, sự vận dụng các tri thức kinh nghiệm đã có trong hoạt động càng thêm sâu sắc đầy đủ. Sự quan hệ chặt chẽ này tạo nên kết quả của hành động. Xuất phát từ logic của quá trình giáo dục, từ đặc điểm đối tượng và môi trường hoạt động đặc thù. Trong quá trình đào tạo tại Học viện, KNTGD của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội được xác định bao gồm các nhóm KN cơ bản sau: * Nhóm KN định hướng mục đích TGD. KN định hướng mục đích TGD của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội bao gồm các thao tác: Tự nghiên cứu, quán triệt mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện, tự lựa chọn các chuẩn mực giá trị phù hợp và tự xác định mục đích TGD, rèn luyện và phấn đấu của cá nhân * Nhóm KN tự tổ chức hoạt động TGD Trước hết, KN tự tổ chức hoạt động TGD của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội bắt đầu từ việc tự thiết kế và kế hoạch hoá hoạt động, trong đó chú trọng các thao tác: Tự tìm hiểu nắm nội dung chương trình hoạt động của đại đội, tiểu đoàn, tự đề ra những chỉ tiêu cá nhân phù hợp, tự xác định tiến độ thực hiện theo quỹ thời gian cho phép và tự lập kế hoạch TGD và rèn luyện cá nhân. Thứ hai, để thực hiện KN tự thi công thực hiện kế hoạch đòi hỏi học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội phải tự thi công từng nội dung hoạt động theo kế hoạch đã đề ra; tự lựa chọn và vận dụng các phương pháp, hình 11
- thức TGD, rèn luyện một cách phù hợp và tự điều chỉnh bổ sung nội dung kế hoạch theo những yêu cầu mới. Thứ ba, để rút kinh nghiệm trong hoạt động TGD đòi hỏi người học viên phải có các KN kết thúc kế hoạch, ở nhóm KN này người học viên phải biết tự đánh giá và rút kinh nghiệm thực hiện kế hoạch và dự kiến nội dung chỉ tiêu cho kế hoạch TGD tiếp theo. * Nhóm KN chuyên biệt, tiến hành các hoạt động TGD rèn luyện, để thực hiện nhóm KN này đòi hỏi học viên phải thực hiện các thao tác: Tự quan sát thái độ hành vi của bản thân; Tự thuyết phục; Tự phê bình; Tự ám thị một cách thường xuyên trong suốt quá trình TGD. Trong quá trình đào tạo, các lực lượng giáo dục trong nhà trường cần giúp học viên nhận thức rõ vai trò của các KNTGD kể trên, đồng thời có kế hoạch tổ chức, rèn luyện để hình thành các KN đó, vận dụng có hiệu quả vào trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường. 1.1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành kỹ năng tự giáo dục của học viên Để làm cơ sở cho công tác bồi dưỡng, cần chỉ ra các yếu tố đã và đang tác động đến việc hình thành KNTGD của học viên. Sự hình thành và phát triển KNTGD của học viên chịu tác động bởi các nhân tố sau: * Những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội của đất nước và nhiệm vụ của cách mạng, quân đội, ngành hầu cần tác động đến công tác bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên Đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong những năm qua đã thu được những kết quả đáng khích lệ: Kinh tế phát triển, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, nhất là đời sống của cán bộ chiến sỹ trong quân đội được quan tâm và có nhiều cải thiện. Những thuận lợi đó đã tác động đến nhận thức, tư tưởng và tình cảm của cán bộ, giáo viên, học viên HVHC. Tuy nhiên, tì̀nh hình đó cũng đòi hỏi mỗi người học viên, cán bộ, giáo viên phải không ngừng phấn đấu vươn lên để tự khẳng định mình, phải có khả năng tự học, tự tu dưỡng rèn luyện phấn đấu vươn lên đáp ứng tốt yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn giáo dục đào tạo đặt ra; đồng thời không để các tác động của mặt trái kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội, sự cám dỗ của ma lực đồng tiền và lối sống hưởng thụ, dẫn đến suy thoái về phẩm chất đạo đức lối 12
- sống. Đây là yếu tố trực tiếp tác động làm hạn chế công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên trong điều kiện hiện nay Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội, ngành hậu cần, mô hình nhân cách cán bộ hậu cần trong giai đoạn hiện nay đặt ra ngày càng cao, bên cạnh đó “nhiệm vụ giáo dục đào tạo của Học viện Hậu cần tiếp tục phát triển cả về quy mô, hình thức, đối tượng. Tổ chức, biên chế của Học viện có sự phát triển”[12,1]. Tình hình đó đòi hỏi việc bồi dưỡng KNTGD cho học viên cần phải được quan tâm hơn nữa, tích cực góp phần vào xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao, nhất là đào tạo đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội vừa hồng, vừa chuyên. * Trình độ tự ý thức và hoạt động thực tiễn tích cực của học viên Đây là yếu tố có vai trò quyết định hàng đầu vì xét đến cùng chất lượng TGD của học viên phụ thuộc vào trực tiếp vào những nỗ lực cố gắng của chính họ. Tự ý thức chính là cái cốt lõi của TGD, nó vừa là công cụ vừa là điều kiện để học viên đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của mình so với yêu cầu nhiệm vụ, từ đó biết phát huy nội lực, tự tổ chức, tự quản lý làm chủ được bản thân mình trong mọi hoạt động. Hình thành KNTGD cho học viên đòi hỏi người học trước hết phải có động cơ TGD đúng đắn, trên cơ sở tự ý thức nhu cầu khách quan của xã hội, quân đội với mô hình người sỹ quan, người cán bộ Hậu cần, sự cần thiết phải trau dồi các phẩm chất, năng lực, sự thành thạo nghiệp vụ hậu cần quân sự để từ đó đề ra những yêu cầu vươn lên cho bản thân mình TGD cũng đòi hỏi học viên phải thể hiện sự nỗ lực, ý chí cao trong quá trình học tập, rèn luyện. Đó là sự nỗ lực bên trong của học viên nhằm khắc phục mọi khó khăn thử thách để thực hiện bằng được những mục tiêu học tập rèn luyện đã xác định. TGD là cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt để giải quyết những mâu thuẫn nội tại của bản thân người học. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa những thói quen và hành vi lạc hậu với những thói quen hành vi tiến bộ, phù hợp với những giá trị chuẩn mực mới. Hình thành KNTGD cho học viên còn phụ thuộc trực tiếp vào sự tích cực tham gia vào hoạt động thực tiễn của học viên. Tâm lý học chỉ rõ nhân cách chỉ được hình thành và phát triển thông qua hoạt động. Luận điểm này xuất phát từ chỗ, coi bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Các mối quan hệ đó lại được thực hiện và duy trì bởi hàng loạt các hoạt động đa dạng, phong phú của con người. Theo A.N.Leonchiev “Nền tảng của nhân 13
- cách là những quan hệ phối thuộc giữa các hoạt động của con người mà vốn do tiến trình phát triển của những hoạt động ấy tạo ra” [9,89]. Hoạt động làm cho con người nhận thức được hiện thực khách quan, kích thích hứng thú, niềm say mê, sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, thuộc tính tâm lý mới, nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển thông qua sự điều chỉnh các quan hệ xã hội, học viên tự giác điều chỉnh thói quan và hành vi của mình theo các chuẩn mực đó. Đồng thời hoạt động là nguồn cung cấp cho học viên hệ thống những kinh nghiệm và ứng xử xã hội. Hoạt động TGD rất đa dạng và phong phú đó không chỉ là những bài giảng ở trên lớp, những hoạt động chính khoá trong giờ hành chính mà phải được mở rộng hơn trong các hình thức hoạt động ngoại khoá ngoài giờ hành chính, trong giao lưu và giao tiếp. Kinh nghiệm cho thấy chỉ khi nào TTC tự giác tham gia vào các hoạt động của học viên được phát huy thì hoạt động TGD của học viên mới đạt hiệu quả. * Hoạt động sư phạm của giáo viên và cán bộ quản lý Trong nhà trường quân sự giáo viên và cán bộ quản lý vừa là cán bộ chỉ huy vừa là chủ thể của các hoạt động sư phạm, chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức thực hiện quá trình đào tạo học viên trở thành những sỹ quan, những người cán bộ hậu cần trong tương lai. Hoạt động TGD của học viên gắn liền với các hoạt động sư phạm của giáo viên và cán bộ quản lý. Họ là những người chịu trách nhiệm chính trong việc định hướng quá trình TGD của học viên. Với tư cách là cấp trên thường xuyên nắm bắt những yêu cầu giáo dục, thường xuyên tiếp xúc với học viên, giáo viên và cán bộ quản lý là những người trực tiếp tham gia vào xây dựng động cơ, mục đích TGD và rèn luyện trau dồi lý tưởng phấn đấu cho học viên. Giáo viên và cán bộ quản lý là những người trực tiếp tổ chức và điều khiển hoạt động TGD của học viên. Thông qua các chức năng như thiết kế và kế hoạch hoá các hoạt động sư phạm, tổ chức và thi công thực hiện kế hoạch, đánh giá và rút kinh nghiệm thực hiện kế hoạch, thông qua thực hiện chức năng này họ chủ động tạo ra những điều kiện thuận lợi cho học viên thực hiện các chức năng tự thiết kế và kế hoạch hoá, tự tổ chức và thi công, tự đánh giá rút kinh nghiệm thực hiện kế hoạch của cá nhân. Giáo viên và cán bộ quản lý còn là tấm gương sáng cho học viên về nhân cách TGD nghiêm túc và khoa học. Là những người trực tiếp quản lý học viên cả trước và sau khi lên lớp, nhân cách của giáo viên và đội ngũ cán bộ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhân cách người học. Trong công tác họ phải 14
- là những người có trách nhiệm cao, nhiệt tình với công việc, phương pháp làm việc phải khoa học, thường xuyên tự học tập, tự rèn luyện để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của chức trách nhiệm vụ. Trong sinh hoạt họ phải là những người thực sự gương mẫu về đạo đức lối sống với học viên. * Vai trò của tập thể lớp học đối với sự hình thành kỹ năng tự giáo dục của học viên Trong nhà trường quân sự mọi hoạt động của học viên đều được tổ chức, quản lý duy trì chặt chẽ theo điều lệnh, điều lệ. Các tập thể quân nhân dựa trên sự đồng điệu về lứa tuổi, mục đích hoạt động học tập, rèn luyện. Tập thể học viên không chỉ mang lại sức mạnh đoàn kết thống nhất mà còn tạo ra những ảnh hưởng giáo dục to lớn. Học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội ở các tiểu đoàn được biên chế thành các đại đội, trong từng đại đội lại được biên chế thành các lớp theo từng chuyên ngành đào tạo. Mục đích chung của tập thể học viên ở các tiểu đoàn là học tập, rèn luyện để trở thành những người sỹ quan, cán bộ hậu cần trong quân đội, người đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Đó là mục tiêu về chức danh chỉ huy, lãnh đạo và về học vấn. Mục tiêu này chi phối mạnh mẽ đến cách thức tổ chức và quản lý của tập thể học viên . Sự hình thành KNTGD của học viên còn chịu tác động không nhỏ của dư luận tập thể, nó thể hiện ở sự khen chê của tập thể đối với mỗi thành viên. Dư luận có thể là đúng hay sai, tích cực hoặc tiêu cực. Dư luận đúng và tích cực góp phần củng cố khích lệ sự vươn lên của từng thành viên. Ngược lại, dư luận sai hoặc tiêu cực thường làm cho thành viên của tập thể bị cô lập, tìm cách thu mình trong vỏ bọc nào đó, từ đó làm thủ tiêu TTC TGD của học viên. Vì vây, trong quá trình giáo dục, chủ thể giáo dục cần khuyến khích, tạo điều kiện cho những dư luận tập thể tích cực, khắc phục những dư luận tiêu cực, tạo điều kiện cho học viên vươn lên. Đây cũng chính là sự phản ánh của nguyên tắc giáo dục “Kết hợp giữa yêu cầu cao với tôn trọng nhân cách người học”. Vai trò của tập thể còn được thể hiện ở mối quan hệ qua lại trong tập thể. Trong một tập thể nếu mối quan hệ qua lại (cán bộ-học viên; học viên - học viên) trở nên lành mạnh mọi người thương yêu nhau, đòi hỏi cao ở nhau, tình đồng chí đồng độ gắn bó, đặc biệt là sự thừa nhận lẫn nhau giữa các học viên thì từng thành viên sẽ cảm thấy mình có chỗ dựa về tinh thần đáng tin cậy, tạo cơ sở cho học viên yên tâm học tập, rèn luyện tại trường. 15
- * Môi trường Văn hoá sư phạm với sự hình thành kỹ năng tự giáo dục của học viên Con người sống và hoạt động luôn gắn với một môi trường nhất định. Trong mối quan hệ với môi trường sống, con người vừa là chủ thể, đồng thời là sản phẩm của môi trường sống, Mác khẳng định: “hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh”[1,35]. Có thể hiểu MTVHSP là toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội được các lực lượng giáo dục xây dựng một cách khoa học và sử dụng nó như một nhân tố quan trọng góp phần tích cực vào phát triển nhân cách người cán bộ hậu cần, có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành KNTGD của học viên. MTVHSP ở các tiểu đoàn quản lý học viên gắn bó mật thiết với MTVHSP của HVHC và chịu sự tác động trực tiếp của môi trường chính trị, xã hội rộng lớn của đất nước. Những tác động tích cực từ môi trường đến học viên là những thành tựu cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của hơn 20 năm đổi mới, vị thế vai trò của quân đội và nghề nghiệp hậu cần ngày càng tăng lên, truyền thống TGD, rèn luyện và NCKH ở các tiểu đoàn; điều kiện ăn ở, sinh hoạt học tập của học viên ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội cũng chịu tác không nhỏ của môi trường sư phạm xung quanh. Đó là mặt trái của nền kinh tế thị trường đang từng ngày, từng giờ xâm nhập vào mọi mặt của đời sống, hoạt động của người học viên như lối sống thực dụng, ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân .Điều đó cũng ảnh hưởng lớn đến niềm tin, nhu cầu, động cơ TGD của học viên. Tóm lại, việc hình thành KNTGD của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội chịu sự ảnh hưởng và chi phối của nhiều nhân tố khác nhau. Các nhân tố này giữ vị trí, vai trò không ngang bằng nhau, song có quan hệ chặt chẽ tác động qua lại và phụ thuộc vào nhau. 1.1.3. Bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần * Quan niệm về bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội trình độ đại học Theo từ điển tiếng việt, bồi dưỡng được hiểu là quá trình “làm cho tăng thêm năng lực và phẩm chất” [30,79]. Như vậy, hiểu bồi dưỡng chính là quá trình hoạt động của chủ thể tác động vào đối tượng nhằm làm cho phẩm chất, năng lực, thái độ trách nhiệm của đối tượng được tăng lên và đạt trình độ cao hơn. 16
- Từ cách hiểu trên tác giả quan niệm: Bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội trình độ đại học là quá trình có mục đích, có hệ thống, có kế hoạch của các lực lượng nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức và rèn luyện kỹ năng còn thiếu và mới để tăng cường năng lực, phẩm chất nghề nghiệp hậu cần quân sự, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả tự giáo dục, rèn luyện thực hiện thắng lợi mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện. Quan niệm trên chỉ rõ thực chất của công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội là tìm ra các giải pháp tối ưu để biến quá trình giáo dục thành quá trình TGD. Mục đích bồi dưỡng KNTGD là nhằm làm cho học viên ngày càng hoàn thiện hơn về tri thức và KN của mình trong học tập, rèn luyện, khắc phục những hạn chế thiếu sót của bản thân về kiến thức, KN và thái độ trong quá trình giáo dục đào tạo tại Học viện. Việc bồi dưỡng KNTGD cho học viên không chỉ dừng lại ở các thói quen, hành vi cụ thể mà còn tạo cho học viên có KN tự nhận thức đúng đắn về bản thân mình, có những hiểu biết cần thiết để tự mình xác định giá trị, biến những điều kiện chủ quan và khách quan của quá trình giáo dục thành phương tiện để TGD và rèn luyện đạt kết quả cao. Chủ thể tiến hành công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội là các tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy, các cơ quan, khoa giáo viên và các tổ chức quần chúng. Trong đó đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, chỉ huy là chủ thể của các hoạt động sư phạm, đóng vai trò quyết định đến chất lượng bồi dưỡng KNTGD. Các tập thể quân sự như tiểu đoàn, đại đội, lớp học có vai trò quan trọng, tạo ra những ảnh hưởng giáo dục to lớn, trực tiếp giáo dục, rèn luyện và tổ chức các hoạt động cho học viên Đối tượng bồi dưỡng KNTGD là học viên và tập thể học viên trong suốt quá trình đào tạo, tập trung đối với học viên những năm đầu, những học viên có kết quả học tập, rèn luyện còn hạn chế. Chú trọng bồi dưỡng cả đầu yếu và đầu khá. Việc phân định đối tượng bồi dưỡng được xem xét cụ thể trong mối quan hệ tác động giữa chủ thể bồi dưỡng và đối tượng bồi dưỡng. Bởi vì, học viên vừa là đối tượng bồi dưỡng, đồng thời là chủ thể của quá trình tự bồi dưỡng. Trong quá trình bồi dưỡng KNTGD cho học viên, đòi hỏi các chủ thể tiến hành công tác bồi dưỡng không chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực và trách nhiệm cao, mà còn phải có nhiều biện pháp, hình thức phát huy được TTC, tự tu dưỡng của học viên trong quá trình bồi dưỡng. 17
- Nội dung bồi dưỡng KNTGD. KNTGD là một trong những KN cơ bản và cần thiết của người học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường. Đây vừa là mục tiêu, vừa là sản phẩm của quá trình đào tạo, kết quả sự nỗ lực, phấn đấu tự tu dưỡng, rèn luyện của bản thân mỗi học viên. Vì vậy nội dung bồi dưỡng KNTGD cho học viên phải toàn diện, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đào tạo, phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của học viên, thực sự là công cụ giúp học viên nâng cao chất lượng học, rèn ở tại trường cũng như công tác sau này. Bồi dưỡng KNTGD cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau: Một là, bồi dưỡng nâng cao trình độ tự ý thức và ý chí cho học viên, xây dựng động cơ TGD và rèn luyện đúng đắn cho học viên. Đây là yếu tố trước tiên tạo nhu cầu TGD cho học viên. Trên cơ sở học viên tự nhận thức được điểm mạnh và hạn chế của bản thân so với mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường mà phát huy nội lực của bản thân, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực rèn luyện và có ý thức lập kế hoạch tự tu dưỡng, tự rèn luyện cho bản thân hoàn thành nhiệm vụ được giao Hai là, bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của TGD, làm cho mỗi học viên nhận thấy sự cần thiết phải tiến hành TGD Ba là, bồi dưỡng KN lập và thực hiện kế hoạch TGD, rèn luyện. Thông qua lịch huấn luyện, công tác và yêu cầu tiến độ cần đạt được và về phẩm chất, kiến thức và năng lực tổ chức thực hiện Bốn là, bồi dưỡng các nhóm KNTGD cơ bản: KN nhận thức, KN tự xác định giá trị, KN sống, KN học tập, KN giao tiếp, thực hành chức trách Trong mỗi nhóm KN lại có các KN cụ thể Năm là, bồi dưỡng kinh nghiệm TGD, tự bồi dưỡng; KN tự kiểm tra, đánh giá và bổ sung nội dung TGD Hình thức, phương pháp bồi dưỡng KNTGD cho học viên Với đặc điểm học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội trình độ đại học ở HVHC hầu hết còn trẻ, trình độ nhận thức, tự nhận thức, tự ý chí của học viên ở mỗi đại đội, lớp, mỗi khoá học có sự chênh lệch nhất định, đòi hỏi hình thức, phương pháp bồi dưỡng phải phong phú, đa dạng, linh hoạt, sát đối tượng, sát với đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, cần phải có sự phối hợp thống nhất chặt chẽ giữa các tổ chức, các lực lượng tham gia bồi dưỡng. 18
- * Tiêu chí đánh giá hoạt động bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục Chất lượng, hiệu quả bồi dưỡng KNTGD cho học viên là tổng hoà các yếu tố, các hoạt động cấu thành toàn bộ quá trình bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Nó được biểu hiện tập trung ở chất lượng sản phẩm của quá trình đào tạo, đó là sự trưởng thành về nhân cách của học viên cả về kiến thức, KN, thái độ sau quá trình bồi dưỡng, đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đào tạo đặt ra Để đánh giá hoạt động bồi dưỡng KNTGD cho học viên phải dựa trên những tiêu chí nhất đinh. Đề tài xác định 2 nhóm tiêu chí cơ bản sau: Thứ nhất, nhóm tiêu chí đối với chủ thể tiến hành bồi dưỡng KNTGD - Có trình độ, phẩm chất, năng lực: Nắm chắc mục tiêu yêu cầu đào tạo, các chỉ thị Nghị quyết của cấp trên, biết kết hợp nhuần nhuyễn, vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức bồi dưỡng cụ thể để đem lại kết quả như mong muốn - Xác định mục tiêu, yêu cầu bồi dưỡng phải: Cụ thể, rõ ràng, phù hợp với từng đối tượng, hình thành được các KNTGD cho học viên - Xác định nội dung bồi dưỡng phải toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; Phương thức, hình thức bồi dưỡng khoa học, hợp lý, bám sát vào đặc điểm của đối tượng - Có ý thức trách nhiệm cao trong quán triệt thực hiện mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bồi dưỡng KNTGD Thứ hai, nhóm tiêu chí đối với đối tượng của hoạt động bồi dưỡng KNTGD - Chuyển biến về nhận thức và tư tưởng của học viên khi được bồi dưỡng: Có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về hoạt động TGD và KNTGD; có nhu cầu và niềm tin vào khả năng TGD. - Chuyển biến trên hành vi, thói quen: Tích cực, chủ động, sáng tạo trong TGD và rèn luyện; thực hiện tốt các yêu cầu về TGD; vận dụng thành thục các KN thực hiện các nhiệm vụ TGD và rèn luyện cụ thể - KNTGD đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện, được biểu hiện bằng các kết quả thực tế đạt được 1.2. Thực trạng bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay 1.2.1 Thực trạng * Những ưu điểm - Đối với chủ thể bồi dưỡng KNTGD cho học viên 19
- Thứ nhất, công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên đã được cấp uỷ, chỉ huy các đơn vị và đội ngũ giáo viên thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất cả về nhận thức và tổ chức thực hiện. Qua học tập nghiên cứu quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của trên về công tác giáo dục đào tạo, nhất là Nghị quyết 86 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về giáo dục đào tạo trong tình hình mới; phương châm giáo dục đào tạo của Học viện; các công cuộc vận động: “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” Về cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý, các cơ quan, khoa giáo viên đều có nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giáo dục, rèn luyện về mọi mặt đối với học viên, trong đó có quan tâm đến việc bồi dưỡng KNTGD cho học viên, nhằm biến quá trình giáo dục của nhà trường thành quá trình TGD của học viên, trong những năm qua cấp uỷ và chỉ huy các đơn vị quản lý học viên luôn đề cao vai trò trách nhiệm trong lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện, luôn coi đó là một trong những nội dung quan trong trong công tác quản lý rèn luyện toàn diện học viên, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trung tâm của đơn vị. Trong tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên các khoa cũng đã có nhiều biện pháp cụ thể như: Xác định mục tiêu; xây dựng nội dung chương trình kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng KNTGD. Nội dung, hình thức phương pháp bồi dưỡng cũng từng bước được đổi mới. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý đã tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng xây dựng động cơ học tập rèn luyện đúng đắn cho học viên ngay từ đầu khoá, đầu năm học và trong từng học kỳ, đã kết hợp chặt chẽ giữa học và rèn, chú ý rèn luyện về bản lĩnh phương pháp, tác phong cho học viên thông qua các hoạt động khác nhau. Đối với đội ngũ giáo viên các khoa cũng đã tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, kết hợp dạy chữ, dạy nghề và dạy người, khơi dậy ở học viên niềm đam mê, tìm tòi, sáng tạo trong học tập. Thứ hai, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đã thường xuyên có sự đổi mới về nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng KNTGD, chính vì vậy chất lượng giáo dục, rèn luyện toàn diện cho học viên ngày càng được nâng lên Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đã có những biện pháp phù hợp để bồi dưỡng KNTGD cho học viên như: thông qua mở các lớp tập huấn bồi dưỡng các KN do cơ quan chính trị, phòng đào tạo quy định trong chương trình học tập ngoại khoá, bồi dưỡng thông qua sinh hoạt các tổ chức trong đơn 20
- vị (sinh hoạt Đảng, lớp, đại đội, chi đoàn ); bồi dưỡng thông qua hoạt động rèn luyện ngoại khoá ở đơn vị; tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức và KN hoạt động cho học viên, tổ chức các buổi văn hoá, văn nghệ, toạ đàm, tổ chức các buổi thi tìm hiểu kiến thức, đẩy mạnh hoạt động của tổ phương pháp Các KN mà đội ngũ cán bộ chú ý rèn luyện cho học viên như: KN tự nhận thức, KN xác định giá trị, KN giao tiếp, KN lập và thực hiện kế hoạch, KN sống Đối với khoa giáo viên đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đề cao TTC của học viên, dạy cho học viên là dạy cách tự học và dạy cách sáng tạo vì vậy trong mỗi bài giảng đã tăng tính hướng dẫn, định hướng cho học viên, kết hợp giữa trang bị kiến thức với việc bồi dưỡng KN phương pháp học tập cho học viên, các KN mà đội ngũ giáo viên thường xuyên quan tâm rèn luyện cho học viên là KN làm việc với tài liệu học tập, KN nhận thức, KN định hướng, KN xác định giá trị; KN kiểm tra đánh giá KN làm bài thi, kiểm tra Chính vì vậy KNTGD của học viên trong những năm qua ngày một nâng lên. Kết quả khảo sát đánh giá công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên cho thấy 76% số người được hỏi trả lời đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đã quan tâm và tổ chức công tác bồi dưỡng KNTGD một cách thường xuyên và đem lại những kết quả tích cực; 73 % học viên được hỏi đánh giá về mức độ, tính hiệu quả, nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng KNTGD là phù hợp ở tất cả các khoá học (Bảng 5- phụ lục 3). Qua khảo sát những phương thức rèn luyện KNTGD cho học viên mà giáo viên thường sử dụng ở trên lớp, học viên đánh giá ở thường xuyên các phương thức đó là: chú ý xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học viên (76%); cho câu hỏi ôn tập, nhấn mạnh lý thuyết và bài tập cơ bản (70 %); hướng dẫn học viên cách đọc tài liệu (56%) (bảng 4a- phụ lục 3) Đối với đội ngũ cán bộ quản lý, qua khảo sát về các phương thức rèn luyện KNTGD cho học viên tại đơn vị, những phương thức mà đội ngũ cán bộ quản lý sử dụng tại đơn vị được học viên đánh giá ở mức độ và thường xuyên đó là: chú ý tới công tác giáo dục chính trị tư tưởng (98,5 %); giáo dục và rèn luyện KN sống cho học viên thông qua các hoạt động (86 %); tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá văn nghệ cho học viên (96 %) số người được hỏi (Bảng 4b- phụ lục 3).Trong công tác tổ chức, quản lý chỉ huy điều hành đơn vị, qua trao đổi, các cán bộ quản lý đều cho rằng, một số biện pháp sau đây đã được thực hiện ở mức độ thường xuyên: quán triệt mục tiêu yêu cầu đào tạo, tổ chức cho học viên học tập các chỉ thị nghị quyết của cấp trên; xây dựng và phổ biến kế hoạch cho học viên; duy trì 21
- nghiêm túc các chế độ nền nếp theo quy định; kiểm tra đôn đốc học viên trong TGD và rèn luyện. Ngoài ra, họ cũng thừa nhận các biện pháp khác ít được quan tâm thường xuyên đó là: bồi dưỡng cho học viên các KNTGD cụ thể, tổ chức hoạt động tự quản của tập thể học viên; định hướng giá trị xã hội cho học viên Thứ ba, đã phát huy được vai trò của các cơ quan, khoa giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý các cấp trong giáo dục, bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Kết quả bồi dưỡng KNTGD cho học viên là tổng hợp kết quả các hoạt động thiết thực, cụ thể của các lực lượng có liên quan trong toàn Học viện. Nhận thức được vai trò quan trọng đó, trong những năm qua cấp uỷ chỉ huy các đơn vị quản lý học viên và đội ngũ giáo viên các khoa luôn phát huy vai trò là chủ thể bồi dưỡng các KNTGD cho học viên; các lực lượng khác có liên quan như phòng, ban, các tổ chức đoàn thanh niên, hội đồng quân nhân cũng đã tích cực tham gia công tác bồi dưỡng theo vị trí, chức năng của mình. Các cơ quan, trước hết là cơ quan chính trị với chức năng là cơ quan tham mưu cho Đảng uỷ, chỉ huy Học viện về công tác bồi dưỡng, quản lý, rèn luyện toàn diện đối với học viên đã thực sự quan chỉ đạo sâu sát công tác giáo dục rèn luyện học viên ở các đơn vị quản lý học viên, được thể hiện thông qua các hướng dẫn, quy định, và trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức, giáo dục kỷ luật về nội dung cũng như phương pháp tiến hành, nhờ đó mà đội ngũ cán bộ quản lý học viên có nhiều thuận lợi để tiến hành công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Đội ngũ cán bộ quản lý học viên nhất là cán bộ đại đội, tiểu đoàn vừa là người chỉ huy vừa là người thầy thứ hai giữ vai trò quan trọng trong bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Họ đã phát huy vai trò trách nhiệm của mình trong tổ chức, định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn cho học viên. Đồng thời duy trì chặt chặt chẽ các chế độ theo quy định, quản lý giáo dục toàn diện học viên. Người chỉ huy trưởng, chính trị viên các cấp đã thực sự tiêu biểu về phẩm chất, năng lực và tấm gương sáng về mọi mặt cho học viên noi theo, góp phần quan trọng vào việc định hướng nhận thức, thái độ, động cơ TGD và rèn luyện; kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng bản lĩnh phương pháp, tác phong công tác với phẩm chất đạo đức lối sống cho học viên. Các khoa giáo viên có vai trò rất quan trọng trong truyền thụ kiến thức khoa học, định hướng chính trị, xây dựng động cơ thái độ, trách nhiệm trong TGD và rèn luyện, trong quá trình dạy học đã chú ý kết hợp giữa truyền thụ 22
- kiến thức với xây dựng phương pháp và rèn luyện KN tự học cho học viên. Thông qua đó học viên có nhiều thuận lợi trong nắm vững nội dung, chiếm lĩnh được phương pháp và KN học tập, kết quả và chất lượng học tập ngày càng được nâng lên. Đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành ở HVHC là những người giàu kinh nghiệm, đa phần có trình độ sau đại học, có phẩm chất đạo đức lối sống mẫu mực, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, đây là điều kiện thuận lợi để học viên nâng cao tri thức học vấn, rèn luyện KN, kỹ xảo nghề nghiệp và hình thành ý thức, xu hướng nghề nghiệp Hậu cần vững chắc. Quán triệt nghị quyết 86 của Đảng ủy Quân sự Trung ương, trong thời gian qua Học viện đã tiến hành đổi mới đồng bộ toàn diện công tác giáo dục đào tạo, trong đó chú trọng đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và coi đây là một trong những khâu đột phá. Nội dung chương trình đào tạo được xây dựng phù hợp với từng đối tượng, thời gian tự học, thực hành, thực tập được nâng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho học viên tự TGD và rèn luyện. Là trung tâm nghiên cứu khoa học hậu cần quân sự và đào tạo cán bộ hậu cần cho toàn quân, quá trình giáo dục đào tạo của HVHC luôn luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung chương trình luôn bám sát thực tiễn nhiệm vụ của quân đội, của ngành hậu cần nói chung, của khoa học hậu cần nói riêng. Tính tư tưởng và tính khoa học luôn được các giáo viên coi là tiêu chí quan trọng hàng đầu trong các bài giảng góp phần hình thành bản lĩnh chính trị, định hướng giá trị ở người học viên. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên cũng đã chú trọng đến giáo dục và phát huy TTC của học viên trong tự bồi dưỡng KNTGD. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị về công tác giáo dục đào tạo của trên về cơ bản học viên đã nhận thức được vai trò của tự bồi dưỡng, tự rèn luyện để nâng cao trình độ nhận thực, hoàn thiện các KNTGD cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ TGD và rèn luyện tại trường. Từ đó mỗi học viên đều xây dựng được kế hoạch tự tu dưỡng rèn luyện cho mình trong từng tháng, từng quý và năm học, phát huy tương đối tốt tinh thần tự giác trong TGD và rèn luyện. - Đối với đối tượng của hoạt động bồi dưỡng KNTGD Qua kết quả điều tra bằng phiếu với 200 học viên (thuộc tiểu đoàn 1,2) và những thông tin thu được từ kết quả của những cuộc trao đổi với giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý ở các tiểu đoàn 1,2, các bản tổng kết năm học của các 23
- khoá học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội trình độ đại học cho thấy những biểu hiện cụ thể về hoạt động TGD của học viên như sau: Học viên có sự chuyển biến tích cực về trình độ nhận thức sau khi được bồi dưỡng KNTGD, đặc biệt đã hình thành được nhu cầu giáo dục, có niềm tin vào khả năng TGD của bản thân, KN thực hiện nhiệm vụ TGD và rèn luyện ngày càng được nâng lên Thực tế ở các đơn vị quản lý học viên hiện nay, về cơ bản học viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, an tâm học tập công tác, có thái độ động cơ đúng đắn trong TGD và rèn luyện, có xu hướng nghề nghiệp rõ ràng, nhận thức được tầm quan trọng của các KNTGD đối với kết quả TGD và rèn luyện. Qua khảo sát động cơ theo học tại HVHC có 81% số người được hỏi cho rằng bản thân vinh dự tự hào được là sỹ quan, cán bộ hậu cần quân đội; 70% số người được hỏi cho rằng nghề nghiệp Hậu cần phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản thân bản thân.( bảng 1- phụ lục 3) Trong quá trình học tập, rèn luyện về cơ bản học viên đã phát huy được tính tích cực tự giác, nỗ lực phấn đấu vươn lên, thể hiện ở 90% học viên được hỏi đều đánh giá rất cao vai trò các KNTGD, đặc biệt là các KN cần thiết như KN làm việc với tài liệu học tập, KN lập kế hoạch trong học tập, KN sống, KN tự nhận thức, tự xác định giá trị, tự kiểm tra đánh giá (Bảng 2- phụ lục 3) Điều đó cho thấy học viên có nhận thức đúng về các KN đó, tự nhận biết trình độ và KN của bản thân so với yêu cầu TGD và rèn luyện đặt ra, đó là cơ sở để nảy sinh nhu cầu TGD cho bản thân. Qua khảo sát hầu hết học viên có nhu cầu và niềm tin vào khả năng TGD của bản thân chiếm 95% số người được hỏi (Phụ lục 3) Để tìm hiểu các KNTGD cần thiết để TGD và rèn luyện có kết quả, tác giả đưa ra 20 KN thành phần, thăm dò ý kiến của học viên nhằm đánh giá mức độ cần thiết của các KN đó. Kết quả thăm dò được thể hiện ở bảng (Bảng 2- phụ lục 3). Điều dễ nhận thấy là các KNTGD được đưa ra để đánh giá đều được học viên đánh giá là cần thiết. Xét chi tiết ta thấy trong số 20 KN có một số KN được đánh giá là cần thiết và một số khác ở mức ít cần thiết hơn. Cụ thể các KN: lập kế hoạch TGD và rèn luyện; KN làm việc với tài liệu học tập; KN sống; KN phân tích và giải quyết vấn đề; KN sắp xếp công việc để thực hiện theo kế hoạch được đánh giá là cần thiết ở mức độ cao. Tiếp theo là các KN: KN tìm kiếm và tra tài liệu trên Internet; KN tự nhận thức; KN tự đánh giá rút kinh nghiệm thực hiện kế hoạch cá nhân; KN tự động viên mình khi gặp khó khăn; KN thích ứng với sự phức tạp của thực tế. Các KN được coi là ít cần 24
- thiết hơn bao gồm: KN diễn đạt ý kiến trong các buổi thảo luận; KN tự quan sát thái độ và hành vi của bản thân; KN tự tranh luận để tìm ra chân lý. Đặc biệt học viên đánh giá KN lập kế hoạch TGD và rèn luyện cá nhân ở mức độ cần thiết cao chiếm 78,5% số người được hỏi; KN sắp xếp công việc để hoàn thành kế hoạch cũng được học viên đánh giá ở mức độ rất cao chiếm 94,5%. Điều này cho thấy học viên đã biết được tầm quan trọng của KN trong hoạt động và thấy được sự cần thiết của việc lập và thực hiện kế hoạch. Ngoài ra, KN sống, KN tự đánh giá cũng được học viên đánh giá ở mức độ cần thiết cao tương ứng là 51% và 71%. Từ bảng khảo sát nhận định của học viên về các KNTGD cần thiết để TGD và rèn luyện có hiệu quả ta thấy, các nhận định của học viên đã phản ánh đúng bản chất và vai trò của các KNTGD. Tỷ lệ đánh giá các KNTGD cần thiết của học viên năm thứ tư luôn cao hơn năm thứ hai. Ví dụ: Học viên năm thứ hai lựa chọn các KN lập kế họach học tập, rèn luyện là 66%; KN tự nhận thức là 70%; KN sống là 38,5% trong khi học viên năm thứ tư đánh giá KN cần thiết này cao hơn 10% với tỷ lệ tương ứng là 78,5%; 85% và 53,5% (Bảng 1- phụ lục 5). Điều này cho thấy quá trình giáo dục, bồi dưỡng đã góp phần nâng cao nhận thức cho học viên về vai trò của các KNTGD. Đây cũng chính là cơ sở, động lực thúc đẩy học viên tích cực, tự giác, tự giáo dục vươn lên trong học tập và rèn luyện. Bên cạnh đó, có sự đánh giá khác nhau giữa giáo viên, cán bộ quản lý với học viên về một số KN, chẳng hạn, các KN tự nhận thức, KN tự quan sát thái độ hành vi, KN thích ứng với sự phức tạp của thực tế được học viên đánh giá là rất cần thiết, nhưng những KN này lại không được giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý đánh giá cao. Ngược lại, các KN tự đánh giá kết quả học tập, rèn luyện; KN tự xác định mục tiêu học tập; KN tìm kiếm và tra cứu tài liệu trên Internet, Intranet; KN phân tích và giải quyết cấn đề được giáo viên và cán bộ quản lý đánh giá cao hơn học viên (Bảng 1- phụ lục 4). Tuy có sự đánh giá khác nhau giữa học viên năm đầu và năm về cuối nhưng nhìn chung cả giáo viên, cán bộ quản lý, học viên đều đánh giá các KNTGD nêu trên là cần thiết để TGD và rèn luyện có hiệu quả. Về mức độ vận dụng các KNTGD, cơ bản học viên đã vận dụng những KN cần thiết được bồi dưỡng vào trong quá trình tự giáo dục, rèn luyện, tự xác định được tốt mục tiêu học tập, rèn luyện cho bản thân, từ đó tự xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện mục tiêu đã đặt ra, chính vì vậy kết quả học rèn của học viên trong thời gian gần đây có những chuyển biến tích cực, đơn cử ở tiểu đoàn 2, số lượng học viên phân loại học tập đạt loại giỏi năm học trong những 25
- năm gần đây không ngừng được nâng lên, nếu như năm học 2005- 2006 số học viên giỏi là 7đ/c (chiếm 1,43%) thì đến năm học 2007- 2008 số học viên giỏi tăng lên 29đ/c (chiếm 4,5%) (Phụ lục 1), bên cạnh đó, kết quả rèn luyện cũng phản ánh sự nỗ lực phấn đấu rèn luyện của học viên tiểu đoàn 2, nếu năm học 2005- 2006 có 299 học viên (chiếm 46,92%) phân loại rèn luyện tốt thì đến năm 2007- 2008 tăng lên 511 học viên (chiếm 79,35%) phân loại rèn luyện tốt (Phụ lục 1). Mức độ thành thục các KNTGD ở học viên năm thứ tư hơn hẳn học viên năm thứ hai, điều này hoàn toàn hợp với quy luật giáo dục, bồi dưỡng. Nhìn chung ở các tiểu đoàn hiện nay đều duy trì và phát huy khá tốt hoạt động của các tổ chức như tổ chức đoàn thanh niên, hội đồng quân nhân, hoạt động của tổ phương pháp, tổ trung trung tâm hướng vào việc bồi dưỡng tri thức và rèn luyện KN về mọi mặt cho học viên, sau khi được bồi dưỡng học viên không những tiếp thu được kiến thức mà còn biến kiến thức đó thành các KN cho riêng mình để rèn luyện và vận dụng, thực tế hiện nay các KN như: KN làm việc với tài liệu học tập, KN giao tiếp, KN tự động viên mình khi gặp khó khăn, KN ứng xử, KN tự đánh giá được học viên vận dụng khá thành thục trong cuộc sống và hoạt động (Bảng 3- phụ lục 3). Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cũng đánh giá ở mức độ khá thành thục các KN của học viên như: KN sắp xếp công việc để thực hiện kế hoạch (49,5%); KN tự quan sát thái độ hành vi (45,1%); KN tự phê bình (61,1%); KN tự xác định giá trị (44%) (Bảng 2- phụ lục 4). Đây là những kết quả đáng khích lệ và cần được phát huy hơn nữa trong thời gian tới. * Những mặt còn hạn chế - Đối với chủ thể bồi dưỡng KNTGD cho học viên Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý mặc dù đã nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của các KNTGD, tuy nhiên nhìn chung, ở một số bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý công tác bồi dưỡng KNTGD vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức; quá trình bồi dưỡng KNTGD còn thiếu tính chủ động tích cực, chưa hình thành được chương trình, kế hoạch riêng bồi dưỡng nhóm KNTGD cụ thể nào đó; hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng KNTGD còn hạn chế. Đối với đội ngũ giáo viên, đã thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học phát huy TTC tự giác của học viên trong học tập. Tuy nhiên việc chuyển đổi phương pháp dạy học còn chậm, tình trạng dạy chay, học chay, phương pháp truyền đạt một 26
- chiều vẫn tồn tại ở một bộ phận giáo viên. Việc truyền đạt phương pháp học tập của môn học ở một số giáo viên chưa được quan tâm thật sự, trong thi và kiểm tra thường nặng về đánh giá thuộc bài hơn là yêu cầu sự sáng tạo của học viên.“ý thức, trách nhiệm trong chuẩn bị bài giảng của một số nhà giáo chưa tốt, nội dung còn sơ sài, chưa sâu, ít thông tin, đặc biệt là những thông tin mới ít kiến thức thực tế, chưa gắn sát với từng đối tượng đào tạo ”[14,3]. “Một số giáo viên chưa thể hiện được lòng yêu nghề, nhiệt tình trong giảng dạy” [12,6], điều này ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng nghề nghiệp, TTC cũng như các KNTGD của học viên. Vai trò của giáo viên trong hướng dẫn học viên lập kế hoạch cho môn học và hướng dẫn học viên học một chủ đề nào đó được học viên đánh giá ở mức độ chưa thường xuyên, tương ứng là (41 % và 52,5 %), khi lên lớp giáo viên chỉ cố gắng truyền đạt hết nội dung giảng dạy trong bài, ít có sự hướng dẫn, gợi mở Điều này thường xảy ra đối với giáo viên mới, trẻ, ít kinh nghiệm, chưa trải qua công tác quản lý, chỉ huy bộ đội. Vì vậy, quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy của một bộ phận giáo viên diễn còn chậm, chưa phát huy được TTC, tư duy sáng tạo của học viên, học viên chưa hình thành được các KN cần thiết trong học tập. Ngoài ra, việc tập cho học viên phát biểu khi thảo luận nhằm rèn luyện KN nói cho học viên còn ít được quan tâm (44% số người được hỏi cho rằng việc tập cho học viên phát biểu trong thảo luận còn chưa thường xuyên). Bên cạnh đó việc rút kinh nghiệm cho học viên sau mỗi lần thi, kiểm tra cũng được học viên đánh giá là chưa thường xuyên (40% số người được hỏi). Điều này ảnh hưởng tới KN đánh giá của học viên trong quá trình học tập (Bảng 4a- phụ lục 3). Vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý trong hướng dẫn học viên phương pháp tự học, rút kinh nghiệm sau mỗi lần thi, kiểm tra, được học viên đánh giá ở mức độ ít thường xuyên tương ứng ở các tỉ lệ 40%; 50% số người được hỏi; đặc biệt trong hướng dẫn học viên lập và thực hiện kế hoạch tự TGD và rèn luyện được học viên đánh giá ở mức độ chưa thường xuyên cao là 42% và không có là 48,4%.(Bảng 4b- phụ lục 3). Điều này ảnh hưởng đến TTC chủ động của học viên trong quá trình TGD và rèn luyện. Kết quả trên cho thấy thực tế hiện nay, vẫn còn một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý chưa nhận thức sâu sắc ý nghĩa, vai trò quan trọng và trách nhiệm của mình trong bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Qua khảo sát có 13,5% số người được hỏi trả lời công tác bồi dưỡng đã được giáo viên và cán bộ quản lý tiến hành nhưng 27
- chưa thường xuyên, 4,5% số người được hỏi cho rằng việc bồi dưỡng còn bị xem nhẹ, đôi khi mang tính hình thức, chất lượng thấp (Bảng 6-phụ lục 3). Việc xác định nội dung, hình thức biện pháp bồi dưỡng KNTGD có thời điểm còn chưa phù hợp, chưa bám sát vào thực hiện chính trị trung tâm để rèn luyện các KN cần thiết cho người học viên. - Đối với đối tượng của hoạt động bồi dưỡng Về nhận thức, mặc dù các tổ chức, các lực lượng đã có nhiều cố gắng trong đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng KNTGD. Tuy nhiên, sau quá trình bồi dưỡng, một bộ phận học viên còn chưa xác định tốt thái độ động cơ trong học tập, rèn luyện; chưa nhận thức được đầy đủ đúng đắn về vai trò, sự cần thiết của các KNTGD đối với kết quả học tập, rèn luyện, TTC chủ động trong TGD và rèn luyện còn hạn chế; một số học viên chưa có mục đích học tập, rèn luyện rõ ràng, bị ảnh hưởng bởi việc phân công công tác sau khi ra trường. Không ít học viên chỉ thực sự tích cực học tập, rèn luyện vào các kỳ kết nạp Đảng mà chưa nhận thức được yêu cầu khách quan của mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Mức độ ổn định của động cơ xu hướng nghề nghiệp là không cao, dễ thay đổi trước hoàn cảnh. Đặc biệt còn có hiện tượng: “đứng núi này trông núi nọ”, điều này diễn ra đối với cả những học viên năm cuối. Trước tác động của cơ chế thị trường, dễ nảy sinh tâm lý so sánh ở học viên. Ngoài ra tâm lý thoả mãn, trung bình chủ nghĩa sau khi thi đỗ vào Học viện cũng là những nguyên nhân khiến họ thiếu tích cực trong TGD và rèn luyện, giảm sút nghị lực trước những yêu cầu ngày càng cao của quá trình đào tạo, cũng như nghề nghiệp hậu cần đòi hỏi. Về mức độ biểu hiện của TTC chủ động và sáng tạo trong TGD và rèn luyện của học viên. Tìm hiểu hoạt động học tập của học viên hiện nay tác giả nhận thấy tình trạng học viên làm việc qua loa đại khái với tài liệu học tập, hoặc học thuộc lòng, thuộc vẹt tài liệu học tập, chưa biết phân tích, tổng hợp, khái quát hoá rút ra những điều cần thiết. Nói cách khác học viên còn thụ động khi làm việc với tài liệu học tập, mà tâm lý thụ động sẽ dẫn tới hệ quả tất yếu là thiếu hứng thú và do đó không hiểu, không nắm vững tài liệu học tập, học viên còn thiếu các KN làm việc với tài liệu học tập. Qua trao đổi với đội ngũ cán bộ quản lý ở tiểu đoàn 1, 2 và trực tiếp quan sát tác giả nhận thấy: với học viên cấp phân đội tình trạng học mùa vụ, 28
- xả hơi sau khi thi diễn ra khá phổ biến. Trong học tập đa số học viên cho rằng chủ yếu là nắm đủ nội dung ghi chép được ở trên lớp, ít đọc thêm tài liệu tham khảo. Đặc biệt những môn không phải chuyên ngành học viên chủ yếu học theo giáo trình gần đến ngày thi mới học. Số học viên có ý thức xây dựng đề cương ôn tập sau mỗi bài học chiếm tỷ lệ nhỏ (dưới 10%). Việc xây dựng kế hoạch TGD và rèn luyện và thực hiện theo kế hoạch ít được quan tâm, qua điều tra có đến 39% số người được hỏi cho rằng việc lập kế hoạch còn khó khăn lúng túng và 12,5% ở mức yếu (Bảng 3- phụ lục 3); đa số học viên bị động thực hiện kế hoạch đã ghi trên bảng theo tuần tháng của chỉ huy đại đội mà ít có sự cụ thể hoá vào kế hoạch của riêng mình, nhiều học viên cho rằng, có kế hoạch chung trên bảng thì không cần lập kế hoạch thực hiện cho bản thân mình nữa. Qua trao đổi, một số đồng chí cán bộ quản lý ở đại đội đều có chung nhận xét: Có rất ít học viên lập kế hoạch TGD và rèn luyện cho riêng mình. Trong quá trình học tập, rèn luyện và tham gia xây dựng đơn vị học viên thường chỉ cố gắng thực hiện đủ các yêu cầu mà cấp trên đề ra, ít có đề xuất hay thắc mắc gì thêm. Nếu có thắc mắc cũng chỉ tập trung vào những vấn đề vụn vặt liên quan đến lợi ích cá nhân, mà các lợi ích cá nhân này đôi khi trái với quy định của Học viện. Một số học viên ít tham gia vào các hoạt động chung của tập thể, thường chỉ tập trung vào một số đồng chí có năng khiếu về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Không ít học viên chỉ tỏ ra tích cực khi có sự quản lý và kiểm tra của cấp trên, khi vắng mặt cán bộ là họ có biểu hiện tự do, tuỳ tiện. Trong thảo luận các giáo viên đều cho rằng, quá trình chuẩn bị đề cương thảo luận của học viên còn sơ sài, học viên ngại phát biểu trong thảo luận, các ý kiến phát biểu chủ yếu là nhắc lại kiến thức, ít có sự mở rộng, học viên ít đọc tài liệu tham khảo, thậm chí đó là tài liệu của những môn chuyên ngành, học viên thường chấp nhận lĩnh hội kiến thức một chiều, ít thắc mắc hay đề nghị các giải pháp về vấn đề học tập Qua quan sát và trao đổi với học viên tác giả nhận thấy: Đa số học viên ngại đọc tài liệu quy định bắt buộc, chủ yếu là xem giáo trình, nhiều giáo trình mượn về nhưng ít khi đọc, thậm chí có quyển mượn về nhưng chưa hề đọc cho tới khi trả thư viện. Những số liệu và kết quả khảo sát trên đây cho thấy khá nhiều học viên chưa thực sự chủ động và sáng tạo trong TGD và rèn luyện. Hiện tượng trung 29
- bình chủ nghĩa, chưa cố gắng hết mình, dựa dẫm ỷ lại vào người khác, vào các mối quan hệ và những lý do khách quan còn tồn tại ở không ít học viên Về mức độ hiện có của các KNTGD cụ thể ở học viên Tác giả tiến hành khảo sát mức độ hiện có của các KNTGD đó ở học viên bằng cách thăm dò ý kiến đánh giá của giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý (qua trao đổi) và khảo sát điều tra bằng phiếu đối với chính học viên (Bảng 3 - phụ lục 3), đồng thời quan sát quá trình TGD và rèn luyện của học viên trên lớp và tại đơn vị. Có thể chia mức độ hiện có các KNTGD của học viên thành 3 nhóm: - Nhóm 1 (mức khá thành thạo) bao gồm các KN: KN sắp xếp công việc để thực hiện theo kế hoạch; KN tự nhận thức; KN tự xác đinh giá trị; KN tự kiềm chế trong các mối quan hệ; KN làm việc theo nhóm; KN tự phê bình khi có khuyết điểm - Nhóm 2 (mức trung bình) gồm các KN: KN làm việc với tài liệu học tập; KN phân tích và giải quyết vấn đề; KN tự đánh giá kết quả học tập của bản thân so với nhu cầu; KN làm việc độc lập. Đây chính là điểm còn hạn chế của học viên cấp phân đội ở HVHC hiện nay, qua thực tế quan sát hoạt động TGD và rèn luyện của học viên tại đơn vị, học viên chỉ sử dụng giáo trình bắt buộc phải đọc trong môn học, rất ít học viên tìm kiếm, tra cứu thêm các tài liệu khác, học viên rất ít đặt câu hỏi hoặc nêu ra ý kiến của mình về nội dung các vấn đề học tập ở trên lớp, khi yêu cầu được trình bày một vấn đề nào đó học viên thường lúng túng và diễn đạt ý kiến còn yếu. - Nhóm 3 (mức hạn chế): KN tìm kiếm, tra cứu tài liệu trên internet; KN sử dụng máy vi tính phục vụ học tập; KN lập kế hoạch TGD và rèn luyện cá nhân; KN thích ứng với sự phức tạp của thực tế. Điều này ảnh hưởng lớn đến quá trình thu nhận thông tin, sự chủ động của học viên trong hoạt động, nhất là trong điều kiện mở rộng giao lưu hội nhập với bên ngoài So sánh tương quan năm học dễ nhận thấy rằng, ở học viên năm thứ hai mức độ khó khăn, lúng túng trong thực hiện một số KN như: KN lập kế hoạch (56.5%); KN tự đánh giá (48,6%); KN sống (59%); KN tìm kiếm, tra cứu tài liệu trên internet (65%); KN phân tích và giải quyết vấn (37,5%) đề cao hơn hẳn so với học viên năm thứ tư tương ứng ở các tỷ lệ 22,5%; 34,6%; 41%; 47% và 6,5%. (Bảng 2- phụ lục 5). Điều này phù hợp với quá trình nhận thức, tuy nhiên mức độ khó khăn lúng túng trong thực hiện các KN kể trên vẫn còn ở mức cao, ngay cả đối với học viên năm thứ tư. Đây là vấn đề cần 30
- nhận diện sớm và quan tâm bồi dưỡng hơn nữa nhằm khắc phục các KN còn yếu kể trên. Tóm lại, qua kết quả khảo sát về thực trạng KNTGD của học viên chúng tôi có một số nhận xét sau: - Học viên đánh giá mức độ cần thiết và mức độ hiện có của các KNTGD kể trên là xấp xỉ nhau. Tuy học viên nhận thức được sự cần thiết của các KNTGD nhưng trên thực tế quá trình rèn luyện, vận dụng các KN đó lại có nhiều hạn chế. Điều đó cho thấy sự mâu thuẫn giữa nhận thức và hành vi. Đây là khâu yếu trong tổ chức rèn luyện các KNTGD trên thực tế. - KNTGD cần thiết cho học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội mới chỉ ở mức trung bình và thấp - Các KN sử dụng công cụ phương tiện học tập hiện đại như máy vi tính, internet còn yếu, thậm chí chưa biết cách sử dụng. Đây là vấn đề cần được lưu tâm trong đào tạo học viên sỹ quan hậu cần cấp phân đội, trình độ đại học trong điều kiện phát triển công nghệ thông tin hiện nay. Từ kết quả khảo sát trên cho thấy, trong hoạt động TGD phần lớn học viên tích cực trong học tập, rèn luyện. Đa số học viên đã xác định được mục đích, thấy được sự cần thiết phải chủ động, tự giác trong chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ xảo, KN, biết khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ, tuy nhiên không ít học viên chưa thực sự tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập, rèn luyện; nhận thức về các KNTGD còn chưa đầy đủ; KNTGD bắt đầu được hình thành nhưng chưa vững chắc, chưa mang tính hệ thống. 1.2.2. Nguyên nhân * Nguyên nhân ưu điểm Có được những ưu điểm trong bồi dưỡng KNTGD cho học viên trong thời gian vừa qua, trước hết là do có sự lãnh đạo chỉ đạo, đúng đắn kịp thời của Đảng uỷ, chỉ huy Học viên; sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của cấp uỷ, chỉ huy các đơn vị và khoa giáo viên. Đây là nguyên nhân cơ bản bao trùm nhất, có tính định hướng và quyết định nhất đến chất lượng của công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Thực tế, Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã thường xuyên quán triệt sâu sắc chỉ thị nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 86 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về giáo dục đào tạo trong tình hình mới, đã và đang thực hiện có hiệu quả các công cuộc vận động: “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” Lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã “chú trọng và 31
- thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, xây dựng động cơ, ý thức thái độ, trách nhiệm trong học tập và rèn luyện đối với học viên. Gắn kết quả học tập rèn luyện của học viên với bình xét thi đua khen thưởng và đánh giá chất lượng đảng viên”[14,5]; đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng, khơi dậy được ý thức tự học, tự rèn luyện của cán bộ, nhà giáo và học viên, có chủ trương biện pháp lãnh đạo cụ thể nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của Học viên; đặc biệt nâng cao chất lượng quản lý, giáo dục, rèn luyện toàn diện học viên. Đội ngũ cán bộ quản lý ở các đơn vị và đội ngũ giáo viên thường xuyên quán triệt sâu sắc chỉ thị nghị quyết của cấp trên về công tác giáo dục đào tạo, giáo dục, rèn luyện học viên nói chung và bồi dưỡng KNTGD cho học viên nói riêng, nên “đã tích cực chủ động triển khai nhiều biện pháp nâng cao chất lượng dạy- học, có nhiều cố gắng trong sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, nâng cao chất lượng giảng dạy, kịp thời rút kinh nghiệm về phương pháp dạy học bậc đại học Các tiểu đoàn đã tích cực chỉ đạo việc rút kinh nghiệm phương pháp học tập của học viên cho phù hợp với từng môn học, duy trì thường xuyên hoạt động của câu lạc bộ môn học. Việc quản lý kết quả học tập, rèn luyện của học viên được chú trọng hơn”[14,3]; luôn nắm vững mục tiêu yêu cầu đào tạo để đề ra yêu cầu, nội dung biện pháp phù hợp trong bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Đồng thời, đã duy trì có nền nếp và không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động TGD của học viên. Có sự kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, các lực lượng tạo sức mạnh tổng hợp trong bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Đây là nguyên nhân quan trọng và bài học sâu sắc trong bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Các tổ chức, các lực lượng, đặc biệt là cơ quan Phòng Chính trị, Phòng Đào tạo, đội ngũ giáo viên các khoa, đội ngũ cán bộ quản lý ở các đơn vị hầu hết đều nhận thức được vai trò trách nhiệm của mình trong bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Đây là điều kiện thuận lợi để tạo ra sức mạnh trong đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp, do vậy kết quả bồi dưỡng KNTGD cho học viên không ngừng được nâng lên. Học viên đã có ý thức tự giác, chủ động tích cực trong tự bồi dưỡng, tự rèn luyện. Đây là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp quyết định đến chất lượng và hiệu quả của công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Thực tế cho thấy, học viên cơ bản đã xác định tốt thái độ động cơ, có nhận thức đúng về vai trò và sự cần thiết của các KNTGD với kết quả TGD và rèn 32
- luyện của bản thân; có nhu cầu và niềm tin TGD đúng đắn. Do vậy đã không ngừng nỗ lực cố gắng rèn luyện các KNTGD để nâng cao chất lượng TGD và rèn luyện của bản thân. * Nguyên nhân hạn chế Mặt trái kinh tế thị trường và sự chống phá của các thế lực thù địch gây ra những tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội nói chung và đời sống sinh hoạt của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần nói riêng. Đó là lối sống tự do hưởng thụ, lối sống thực dụng, chạy theo thành tích cá nhân, hạ thấp những giá trị truyền thống, bất chấp kỷ cương phép nước, kỷ luật của quân đội. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Trong nhận thức và tổ chức thực hiện công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên ở một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý còn hạn chế. Đối với đội ngũ giáo viên, ở một bộ phận giáo viên việc chuyển đổi phương pháp diễn ra còn chậm, chưa kết hợp giữa trang bị kiến thức với rèn luyện phương pháp, KN cho người học. Trong những năm gần đây Học viện đã có nhiều cố gắng trong đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học theo hướng phát huy TTC tự giác chủ động của người học, tuy nhiên ở một số ít giáo viên, việc đổi mới phương pháp còn chưa kịp thời, khi lên lớp thời gian dành cho việc rèn luyện, bồi dưỡng KN cho học viên không nhiều; bên cạnh đó nội dung phương pháp thi, kiểm tra còn nặng về trí nhớ, nhẹ về tư duy, các câu hỏi thường thiên về mức độ tái hiện, khả năng học thuộc lòng mà ít có sự sáng tạo, vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống và hoạt động quân sự. Nội dung bồi dưỡng KN của giáo viên khi lên lớp chưa được tách ra thành chương trình, kế hoạch riêng mà lồng ghép trong các bài giảng. Do đó, các KN mà giáo viên bồi dưỡng cho học viên chưa phong phú đa dạng, chương trình hoạt động ngoại khoá để bồi dưỡng KN cho học viên còn ít được quan tâm. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý, chưa gắn giữa việc giáo dục với tổ chức các hoạt động và rèn luyện các KNTGD, học viên còn thụ động trong lập kế hoạch, xây dựng chương trình bồi dưỡng, nội dung bồi dưỡng KN cũng chưa được tách riêng ra thành chương trình riêng mà được lồng ghép trong các hoạt động, nên nội dung, phương pháp hình thức bồi dưỡng các KN còn hạn chế. Ngoài ra, phương pháp quản lý của một số đồng chí cán bộ chưa hợp lý nhất là những cán bộ trẻ, giải quyết chưa hài hoà mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, áp dụng máy móc các quy định dẫn đến tình trạng bầu không khí tâm lý ở một số đơn vị còn căng thẳng, định hướng dư luận tập thể chưa tốt, điều này ảnh 33
- hưởng không nhỏ đến tính tích cực, gây ra tâm lý thụ động trung bình chủ nghĩa ở không ít học viên. Các lực lượng tham gia bồi dưỡng KNTGD cho học viên còn thiếu sự chỉ đạo thống nhất về nội dung, hình thức và biện pháp tiến hành. Công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên tuy đã có sự tham gia của nhiều tổ chức, nhiều lực lượng, nhưng thực tế trong những năm qua cho thấy “Sự phối hợp, hiệp đồng giữa các cơ quan, khoa và đơn vị trong thực hiện công tác quản lý, giáo dục còn hạn chế Có việc còn chưa tốt Có lúc, có nơi chưa chặt chẽ”[15,7], hoạt động của một số tổ chức như: Hội đồng quân nhân, tổ chức Đoàn trong rèn luyện KN cho học viên chưa đem lại hiệu quả, ở một số đơn vị còn mang tính hình thức. Nguyên nhân chủ yếu là ý thức TGD ở một số học viên chưa cao, trong quá trình học tập, rèn luyện một số học viên chưa xác định tốt thái độ động cơ trong học tập, chưa nhận thức sâu sắc và phát huy vai trò của tự bồi dưỡng; chưa tự khép mình vào trong tổ chức, coi nhẹ TGD Cho nên thường vi phạm kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị, hoặc có tư tưởng phấn đấu cầm chừng, thoả mãn với kết quả đã đạt được hoặc ngại khó khăn gian khổ, lười rèn luyện, tu dưỡng bản thân, hoặc thông qua các mối quan hệ, nhờ cậy, nâng đỡ, chiếu cố trong học tập, rèn luyện. Đây là nguyên nhân bên trong xuyên suốt quá trình bồi dưỡng KNTGD. 1.3. Một số kết quả thực nghiệm về bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở Học viện Hậu cần Để kiểm nghiệm lại những đánh giá trên, làm cơ sở đề ra giải pháp bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC hiện nay chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm và cho được kết quả như sau: Mục đích thực nghiệm: Đánh giá kết quả, kiểm nghiệm những đánh giá trên của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và học viên. Đối tượng thực nghiệm: là 4 lớp học viên Học viện Hậu cần cấp phân đội khoá 13: Lớp S313, S 513, S113a và S113b trong giảng dạy môn Công tác đảng, công tác chính trị và môn học Hậu cần thường xuyên trong học kỳ 1 năm học 2008-2009. 34
- Nội dung thực nghiệm Đối với giáo viên: Giảng dạy một số bài trong chương trình môn học Công tác đảng, công tác chính trị và Hậu cần Thường xuyên theo hướng phát huy tính tích cực tự học, tự nghiên cứu của học viên bằng các hình thức tổ chức dạy học và các quy trình, yêu cầu đã xác định. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý: Xây dựng chương trình bồi dưỡng với các nội dung: Quy định việc lập và thực hiện kế hoạch tự giáo dục đối với học viên; duy trì có hiệu quả hoạt động của tổ phương pháp và tổ trung tâm; rút kinh nghiệm sau mỗi lần thi, kiểm tra; tổ chức các hoạt động của đơn vị hướng tới việc rèn luyện các KN: KN nhận thức, KN tự xác định giá trị, KN nói, KN sống, KN tự đánh giá cho học viên. Thời gian thực nghiệm: từ tháng 8/ 2008 đến hết tháng 12/ 2008 (học kỳ 1- năm học 2008- 2009) Quy trình thực nghiệm Chuẩn bị thực nghiệm Đối với giáo viên: Biên soạn giáo án thực nghiệm, soạn mỗi bài tiến hành thực nghiệm 2 giáo án: Một giáo án soạn theo phương pháp giảng dạy mới (có thể sử dụng PTTQ), nội dung giảng dạy không phải là các kết cấu, kết luận có sẵn mà được thiết kế dàn dựng thành các tình huống dưới dạng bài tập nhận thức, hướng vào việc phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho học viên, kết hợp giữa truyền thụ kiến thức bài học với việc bồi dưỡng các KN theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức cho lớp làm thực nghiệm; một giáo án soạn theo cách giảng dạy bình thường cho lớp đối chứng. Mỗi loại phù hợp với mục đích của các biện pháp và tuân theo yêu cầu của quy trình sử dụng các biện pháp đã xác định. Đối với cán bộ quản lý: Duy trì thực hiện nghiêm túc chương trình, nội dung bồi dưỡng đối với lớp thực nghiệm; duy trì hoạt động bình thường đối với lớp đối chứng Yêu cầu lựa chọn thực nghiệm Lựa chọn lớp thực nghiệm và đối chứng: Lớp thực nghiệm là S313, S513; lớp đối chứng là lớp S113a, S113b và các lớp còn lại trong khoá. Hai lớp thực nghiệm và lớp đối chứng có kết quả học tập và rèn luyện tương đối đồng đều trước quá trình bồi dưỡng. 35
- Giáo viên thực nghiệm: Nguyên tắc lựa chọn đội ngũ giáo viên thực nghiệm là những giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy, có thể độc lập thực hiện được phương án giảng dạy mới. Hai lớp thực nghiệm và đối chứng đều cùng một giáo viên giảng dạy. Đội ngũ cán bộ quản lý làm thực nghiệm: Lựa chọn cán bộ đại đội có kinh nghiệm đang trực tiếp quản lý 2 lớp thực nghiệm, có năng lực tổ chức và điều khiển các hoạt động tại đơn vị, linh hoat trong sử dụng các hình thức và phương pháp giáo dục Các giáo viên và cán bộ quản lý được tập huấn chu đáo và thống nhất về yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung thực nghiệm; thống nhất về phương pháp giảng dạy, phương pháp tổ chức hoạt động; cách thức tiến hành thực nghiệm, các phương tiện vật chất đảm bảo. Giai đoạn triển khai thực nghiệm: Bước 1: Kiểm tra sự chuẩn bị các điều kiện cho quá trình thực nghiệm (Giáo án, quy trình, điều kiện cơ sở vật chất, tình hình lớp thực nghiệm và lớp đối chứng). Bước 2: Tiến hành giảng dạy và tổ chức hoạt động bồi dưỡng theo phương án, kế hoạch thực nghiệm (biện pháp, quy trình) đã được thiết kế ở lớp thực nghiệm và tổ chức giảng dạy, hoạt động bồi dưỡng bình thường ở lớp đối chứng. Trong giảng dạy của giáo viên, chúng tôi trực tiếp dự giờ ở các lớp thực nghiệm và đối chứng để khảo sát đánh giá quá trình triển khai thực nghiệm của giáo viên. Trong tổ chức các hoạt động ở đơn vị, chúng tôi cũng trực tiếp quan sát theo dõi một số hoạt động bồi dưỡng KNTGD tại các lớp thực nghiệm và đối chứng Bước 3: Kiểm tra, đánh giá kết quả thực nghiệm: Đánh giá mức độ vận dụng và thành thục các KNTGD của học viên thông qua kết quả học tập (2 môn học ) ở trên lớp và rèn luyên tại đơn vị Sau khi học xong chương trình, chúng tôi tiến hành kiểm tra dưới hình thức thi viết môn Hậu cần thường xuyên, thi vấn đáp môn Công tác đảng, công tác chính trị cho lớp thực nghiệm và lớp đối chứng (Tiết 1-2 ngày 03/12 và tiết 1-6 ngày 18/12/ 2008). Kết quả thể hiện ở Bảng 3- phụ lục 5. Sau quá trình bồi dưỡng cho lớp thực nghiệm tỷ lệ học viên đạt khá, giỏi trở lên tăng gần 20% so 36
- với hai lớp đối chứng và các lớp khác trong cùng khóa học, cụ thể môn Hậu cần thường xuyên: Lớp thực nghiệm 86,4% K,G - lớp đối chứng 65,5% K,G; môn Công tác đảng, công tác chính trị : Lớp thực nghiệm 89,8% K,G – Lớp đối chứng 72,2% K,G trở lên. Sau quá trình bồi dưỡng thực nghiệm tại đơn vị, chúng tôi tiến hành đánh giá kết quả nhận thức của học viên thông qua tổ chức buổi diễn đàn thanh niên với chủ đề: “Kỹ năng sống- Sống có kỹ năng đối với người học viên sỹ quan” (tối 27/12/ 2008) và thông qua số liệu kết quả rèn luyện trên các mặt của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Qua kết quả thể hiện ở bảng và các thông tin thu được cho thấy, trong giảng dạy nếu giáo viên kết hợp giữa việc truyền đạt kiến thức với bồi dưỡng KN cho học viên, đổi mới cách soạn giáo án và phương pháp giảng dạy thì kết quả học tập của học viên sẽ cao hơn so với cách giảng dạy thông thường; qua quan sát buổi học tại lớp thực nghiệm chúng tôi thấy học viên đã tạo sự hứng thú cho lớp học, mức độ hoạt động của học viên tích cực hơn, học viên tập trung chú ý cao hơn và duy trì trạng thái tích cực trong thời gian tương đối dài. Do có lập kế hoạch tự giáo dục nên học viên chủ động tích cực hơn trong học tập, về cơ bản học viên đã có KN và phương pháp làm việc với tài liệu học tâp, biết tự kiểm tra và đánh giá đúng bản thân; qua quan sát buổi thi vấn đáp chúng tôi thấy học viên có sự chững chạc tự tin, KN lập luận và trình bày vấn đề logic chặt chẽ hơn, học viên không những nắm chắc được nội dung cơ bản mà còn biết cách liên hệ vận dụng vào thực tiễn kết quả này hơn hẳn so với học viên các lớp đối chứng trong cùng khoá học, so với các môn học khác cùng kỳ năm trước. Kết quả tại đơn vị đối với 2 lớp thực nghiệm cũng cho những kết quả khả quan, tỷ lệ phân loại rèn luyện khá tốt của lớp thực nghiệm là 93,6% so với lớp đối chứng là 82,4% và cao hơn các lớp trong cùng khoá. Học viên lớp thực nghiệm có kế hoạch tự giáo dục và rèn luyện nên chủ động đặt ra mục tiêu và thực hiện mục tiêu học tập, rèn luyện trong từng tuần, từng tháng. Thông qua buổi diễn đàn của lớp thực nghiệm chúng tôi nhận thấy học viên đã nhận thức đúng vai trò của các KNTGD nói chung và KN sống nói riêng, đánh giá được đúng thực trạng chỉ ra được con đường và các biện pháp cần thiết để rèn luyện các KNTGD. Học viên có ý thức hơn trong tự tu dưỡng, tự rèn luyện các KN còn thiếu và yêú như KN làm việc với tài liệu 37
- học tâp, KN định hướng giá trị, KN xác định mục tiêu, KN tự đánh giá, KN làm việc độc lập qua buổi diễn đàn chúng tôi thấy có khá nhiều học viên lớp thực nghiệm có khả năng lập luận, trình bày trước tập thể, khả năng định hướng giá trị tương đối tốt. Những kết quả về nhận thức và chuyển biến trên hành vi thói quên trên cho thấy hiệu quả của hoạt động bồi dưỡng KNTGD tại đơn vị, điều này hơn hẳn so với lớp đối chứng và các lớp khác trong cùng khoá học. Qua kết quả thực nghiệm và sự quan sát thực tế trên càng khẳng định vai trò và sự cần thiết của việc bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay. Kết luận chương I Cùng với giáo dục, TGD là yếu tố quyết định đến hình thành, hoàn thiện các phẩm chất nhân cách của mỗi học viên. Để TGD đạt kết quả tốt, đòi hỏi mỗi học viên phải có các KNTGD tương ứng. Để nhận biết các KNTGD và bồi dưỡng KNTGD cho học viên, đề tài đã xây dựng được bộ khái niệm làm công cụ nghiên cứu vấn đề bồi dưỡng KNTGD; hệ thống các tiêu chí đánh giá hoạt động bồi dưỡng KNTGD. Trên cơ sở các tiêu chí tác giả đã phân tích thực trạng, nguyên nhân và chỉ ra việc bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC hiện nay là việc làm cần thiết và cấp bách. Những vấn đề lý luận và thực tiễn trên là cơ sở để tác giả đề ra những biện pháp bồi dưỡng KNTGD cho học viên ở chương 2. 38
- Chương 2 YÊU CẦU VÀ NHỮNG BIỆN PHÁP CƠ BẢN BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG TỰ GIÁO DỤC CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SỸ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN HIỆN NAY 2.1. Yêu cầu bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục của học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay Công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên cấp phân đội ở HVHC hiện nay cần quán triệt và thực hiện tốt các yêu cầu cơ bản sau đây: Một là, bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ của Học viện và đơn vị; yêu cầu của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên Đây là yêu cầu quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Chỉ có trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng của quân đội, nhiệm vụ của Học viện, hoạt động bồi dưỡng KNTGD ở các đơn vị quản lý học viên mới có phương hướng chính trị tư tưởng và hành động đúng đắn; mới có nền tảng chính trị vững chắc để nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao nhận thức về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và ngành đào tạo, có ý chí quyết tâm rèn luyện các KN cần thiết phục vụ trong quá trình học tập rèn luyện tại trường và trên cương vị công tác sau này. Mặt khác có bám sát đường lối chủ trương của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng, quân đội và Học viện, công tác bồi dưỡng KNTGD mới có cơ sở khoa học để tránh những biểu hiện chệch hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho học viên tu dưỡng phấn đấu và trưởng thành. Đây là những yêu cầu trực tiếp quy định nội dung hình thức, biện pháp công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Chỉ có nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những yêu cầu trên vào bồi dưỡng KNTGD thì công tác này mới có nội dung, biện pháp phù hợp để nâng cao chất lượng hiệu quả. Hai là, công tác bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên phải được tiến hành thường xuyên, liên tục; nội dung phải toàn diện nhưng có trọng tâm trọng điểm; hình thức biện pháp phải đa dạng phong phú Yêu cầu có tính nguyên tắc này xuất phát từ quy luật của quá trình nhận thức và logic của quá trình giáo dục. Tiến hành bồi dưỡng KNTGD cho học viên là hoạt động tác động đến nhận thức tình cảm, niềm tin và ý chí của học viên, quá trình hoạt động đó phải tuân thủ theo đúng quy luật của quá trình 39
- nhận thức, đó là từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện để đạt đến mục đích cuối cùng là học viên có đầy đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, học viên thành thạo được các KNTGD cơ bản làm cơ sở cho quá trình sống và hoạt động. Muốn vậy, hoạt động bồi dưỡng KNTGD phải được tiến hành thường xuyên trong mọi điều kiện đảm bảo cho học viên nắm vững được các KN cần thiết trong học tập, rèn luyện, biết vận dụng vào trong thực tiễn hoạt động, thích ứng và sử lý tốt các tình huống nảy sinh. Đặc điểm đó đòi hỏi công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên ở các đơn vị quản lý học viên phải được tiến hành tích cực, chủ động với nhiều hình thức biện pháp phong phú như tổ chức học tập gắn với các mặt hoạt động của đơn vị, hoạt động của các tổ chức; thông qua quá trình giảng dạy của đội ngũ giáo viên; kết hợp TGD và rèn luyện, nghiên cứu khoa học, chấp hành chế độ quy định; sự kèm cặp giúp đỡ của đội ngũ cán bộ quản lý ở đơn vị, đội ngũ giáo viên ở các khoa. Ba là, phát huy vai trò và sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, các lực lượng, đi đôi với việc đề cao tính tích cực, chủ động tự tu dưỡng, tự rèn luyện của học viên trong quá trình TGD và rèn luyện Đây là yêu cầu nhằm phát huy vai trò của các chủ thể trong công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Lý luận giáo dục cũng đã chỉ ra, muốn xây dựng tổ chức, xây dựng con người có hiệu quả cao đều phải phát huy sức mạnh của các tổ chức, các lực lượng tham gia, đồng thời phải đề cao vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện, tự tu dưỡng của bản thân mỗi học viên. Yêu cầu này đặt ra cho mỗi tổ chức, mỗi lực lượng trong toàn trường phải nâng cao nhận thức, phát huy tốt tinh thần trách nhiệm và năng lực của mình trong các hoạt động bồi dưỡng KNTGD, đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các tổ chức, các lực lượng tham gia, tránh mọi biểu hiện không thống nhất, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đặc biệt là giữa đội ngũ cán bộ quản lý ở đơn vị và đội ngũ giáo viên ở các khoa trong định hướng nhận thức, nội dung và hình thức tiến hành bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Phát huy vai trò và sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức, các lực lượng cần phải thực hiện trong mọi lúc, mọi nơi, mọi nhiệm vụ, trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Mặt khác, mỗi học viên cần đề cao tinh thần trách nhiệm, tự tu dưỡng, tự rèn luyện hoàn thiện các KN để đáp ứng tốt với yêu cầu, nhiệm vụ 40
- Bốn là, quá trình bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên phải kết hợp chặt chẽ với việc đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc và các quan điểm sai trái trong nội bộ đơn vị Yêu cầu này chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa “xây” và “chống” trong quá trình bồi dưỡng KNTGD. Đặc điểm quan trọng trong tính cách của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội là sự xuất hiện mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực, mâu thuẫn giữa nhu cầu ngày càng cao và đa dạng với khả năng thực tế để thoả mãn chúng, mâu thuẫn giữa ý muốn cá nhân với những hình thức và phương pháp quy định chặt chẽ trong HVHC, mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin rất lớn cần tiếp nhận với sự thiếu hụt thời gian để chế biến và lĩnh hội chúng. Những mâu thuẫn này nếu được giải quyết tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển những nét tính cách tốt đẹp ở học viên, ngược lại nó cũng trở thành những tác nhân làm xuất hiện ở học viên những nét tính cách tiêu cực như sự giả dối, thiếu trung thực, ỷ lại, lười biếng, đối phó, cơ hội, thực dụng. Yêu cầu này đòi hỏi quá trình bồi dưỡng KNTGD cho học viên phải định hướng và điều chỉnh kịp thời. Kiên quyết tích cực, chủ động đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi các biểu hiện lệch lạc, những thái độ hành vi không đúng trong quá trình bồi dưỡng KNTGD. 2.2. Những biện pháp cơ bản bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay 2.2.1. Phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong nâng cao trình độ tự ý thức và ý chí cho học viên Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, bao trùm, xuyên suốt công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội (kết quả điều tra cho thấy có 88,5 % số giáo viên và cán bộ quản lý được hỏi cho rằng đây là giải pháp cần quan tâm và thực hiện tốt). Cơ sở của giải pháp này xuất phát từ từ quy luật phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân được vận dụng trong quá trình bồi dưỡng KNTGD và từ mối liên hệ khách quan giữa nhận thức thế giới với quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới, trong đó hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người bao giờ cũng phụ thuộc vào trình độ nhận thức, tự nhận thức và ý chí của họ. Nhận thức là cơ sở của hành động, công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên chỉ có thể đạt được hiệu quả tốt khi các tổ chức, các lực lượng mà trực tiếp là cấp uỷ chỉ huy các đơn vị quản lý học viên và đội ngũ giáo 41
- viên ở các khoa nhận thức được đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng KNTGD, đồng thời phát huy tinh thần trách nhiệm trong nâng cao trình độ tự ý thức và ý chí cho học viên. Trình độ tự ý thức và ý chí có vai trò quan trọng với quá trình hình thành KNTGD cho học viên. Trên cơ sở học viên tự nhận thức được điểm mạnh và hạn chế của mình so với mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện mà phát huy nôi lực của bản thân, quyết tâm vượt qua khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Để tự đánh giá chính xác đòi hỏi học viên phải có một hệ thống tri thức khoa học, hệ thống các giá trị chuẩn mực cần đạt tới, có kinh nghiệm nhất định về cuộc sống xã hội và hoạt động nghề nghiệp hậu cần Những điều này thường có được ở những học viên năm cuối của khoá học và sau khi học viên ra trường, còn trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường, học viên với vốn sống ít ỏi, thường chưa xác định được đúng mối quan hệ, vị trí của mình trong tương lai và cả trong hiện tại, nên dễ có biểu hiện ngộ nhận hay thoả mãn dừng lại. Chính vì vậy cần phải phát huy vai trò của các tổ chức các lực lượng trong nâng cao trình độ tự ý thức và ý chí cho học viên. Cụ thể vào các nội dung sau: Thứ nhất, cần bồi dưỡng cho học viên những ĐHGT xã hội quân sự, ĐHGT ngành hậu cần đúng đắn làm cơ sở tiêu chuẩn để học viên tự đánh giá chính mình ĐHGT là một trong những biến đổi rõ nét của đặc trưng xu hướng nhân cách có ý nghĩa hướng dẫn hoạt động của con người. Sự phát triển ĐHGT là dấu hiệu của sự chín muồi về nhân cách. Ngược lại sự kém phát triển về ĐHGT của học viên làm tăng tính kích thích bên ngoài dẫn đến các giá trị nội tại của nhân cách, trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu, trong tình hình hiện nay cần bồi dưỡng và củng cố cho học viên những ĐHGT xã hội quân sự, ĐHGT ngành hậu cần quân sự như sau: - Bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành tuyệt đối với Đảng cộng sản Việt Nam, với Tổ quốc, nhân dân. - Có hiểu biết sâu sắc về Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có trình độ vững chắc về khoa học ngành hậu cần và các khoa học có liên quan 42
- - Yêu mến, gắn bó với nghề nghiệp hậu cần quân sự - Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, sống trong sạch lành mạnh; khiêm tốn, trung thực, nêu cao tinh thần trách nhiệm tận tâm với bộ đội; gắn bó mật thiết với quần chúng - Có ý chí nỗ lực vươn lên trong mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ - Có kiến thức, năng lực lãnh đạo, chỉ huy quản lý bộ đội trong hoạt động quân sự Quá trình bồi dưỡng và củng cố những ĐHGT đúng đắn cho học viên cần thực hiện một cách chủ động và tích cực ngay từ đầu năm học và trong suốt quá trình TGD và rèn luyện tại trường. Học viên phải nắm vững được các nguyên tắc lựa chọn giá trị, những nội dung giá trị được coi là chuẩn mực. Các hình thức và con đường, để giáo dục giá trị và ĐHGT có thể thông qua dạy học các môn học; qua giao lưu giữa các thế hệ các nhà giáo dục với học viên; qua hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; Qua tự học tập và tự rèn luyện của học viên Thứ hai, để nâng cao trình độ ý thức và ý chí cho học viên cần tạo điều kiện để họ tham gia tích cực vào các hoạt động thực tiễn ở Học viện như NCKH, tập bài, dã ngoại, thực tập nâng cao tay nghề, thực tập chức trách cuối khoá, diễn tập, lái xe Thông qua các hoạt động thực tiễn đa dạng và phong phú ấy mà học viên được tiếp cận gần hơn với nghề nghiệp hậu cần quân sự trong tương lai, từ đó góp phần bồi dưỡng động cơ, củng cố xu hướng nghề nghiệp vững chắc cho học viên. Những tình huống nảy sinh trong thực tiễn các mặt công tác bảo đảm hậu cần là cơ sở để họ tự ý thức về yêu cầu nghề nghiệp, củng cố ý chí lòng quyết tâm vươn lên. Thứ ba, nâng cao chất lượng sinh hoạt trong tập thể học viên, phát huy vai trò của tự phê bình và phê bình, đấu tranh với các quan điểm và hành vi sai trái trong tập thể. Thông qua quá trình tự phê bình và phê bình, đấu tranh với các hành vi sai trái mà học viên nhận thức rõ được vị trí của mình trong tập thể, từ đó có sự điều chỉnh phấn đấu mà vươn lên. Để tự phê bình và phê bình có hiệu quả đòi hỏi học viên phải phát huy cao tinh thần cầu tiến bộ, thực sự mong muốn trưởng thành, phê bình phải thực sự khách quan trung thực vì sự tiến bộ của đồng chí đồng đội mình. Để thực hiện tốt các nội dung nói trên cần phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, nhất là đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, để họ thực 43
- sự là những người thầy “vừa dạy chữ, vừa dạy người và dạy nghề” cho học viên. Để tham gia có hiệu quả hoạt động bồi dưỡng, rèn luyện KNTGD đòi hỏi đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý cần làm tốt một số vấn đề sau: Nhận thức đúng, xác định trách nhiệm cao đối với công tác giáo dục đào tạo của học viện nói chung và công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên nói riêng. Thấy rõ niềm vinh dự tự hào là được đóng góp quan trọng vào quá trình đào tạo những cán bộ, đảng viên ngành hậu cần quân đội. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cần tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực sư phạm, năng lực lãnh đạo quản lý, sự cảm hoá, tính thuyết phục trong giáo dục, bồi dưỡng. Thường xuyên nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu mọi lúc, mọi nơi, thể hiện thực sự là những nhà quản lý, nhà giáo dục, chuẩn mực cả về phẩm chất, năng lực, trình độ cho học viên noi theo. Đối với cơ quan Phòng Chính trị và lãnh đạo chỉ huy các cấp cần xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng KNTGD cho học viên. Căn cứ vào các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của trên và tình hình nhiệm vụ, đặc điểm trình độ nhận thức của học viên ở mỗi đơn vị. Lãnh đạo chỉ huy các cấp và cơ quan chính trị Học viện chủ động lập kế hoạch giáo dục bồi dưỡng, phối hợp với các khoa giáo viên và các tiểu đoàn quản lý học viện đề xuất hình thức, phương pháp giáo dục; đôn đốc kiểm tra, hướng dẫn chỉ đạo công tác giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng các KNTGD. Việc tổ chức thực hiện kế hoạch phải luôn được các cấp uỷ, chính trị viên, chỉ huy các cấp coi trọng như các công tác khác, kế hoạch cần được bổ sung, hoàn thiện theo yêu cầu nhiệm vụ. Thời gian tiến hành bồi dưỡng phải hợp lý không được chồng chéo, không làm ảnh hưởng đến hoạt động chung của đơn vị. Tổ chức Đoàn thanh niên có vai trò quan trong trong tập hợp, lôi kéo các học viên hăng hái tham gia vào các hoạt động của đơn vị. Thông qua hoạt động chung đó học viên có điều kiện gần gũi, tiếp xúc với nhau nên họ hiểu nhau hơn, đồng cảm với nhau cả về tư tưởng, tình cảm, nhu cầu, động cơ. Đây là cơ sở quan trọng để các học viên giúp đỡ nhau tự bồi dưỡng. Cần chăm lo xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ khả năng thu hút đoàn viên thanh niên tham gia sinh sinh hoạt và hoạt động. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, khoa giáo viên, các tổ chức đoàn thể, đơn vị kết nghĩa tổ chức các hoạt động giáo dục lý tưởng, truyền thống, các hoạt động giao lưu văn hóa văn nghệ, thi tìm hiểu, 44
- diễn đàn Qua đó giúp học viên bồi dưỡng và tự bồi dưỡng các KNTGD cần thiết. Phát huy vai trò của Ban chấp hành đoàn cơ sở, chi đoàn thanh niên là cơ sở để giúp lãnh đạo, chỉ huy các cấp quản lý chặt chẽ, nắm chắc từng học viên, đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của học viên để có biện pháp giáo dục, bồi dưỡng phù hợp. 2.2.2. Tổ chức các hoạt động sư phạm trong Học viện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giáo dục và rèn luyện của học viên Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định đến nâng cao tính TTC, tự giác, chủ động rèn luyện KNTGD của học viên. Cớ sở của giải pháp này xuất phát từ chính bản chất của TGD, là quá trình chuyển những nhu cầu khách quan của xã hội, quân đội thành nhu cầu bên trong, là quá trình hoạt động nỗ lực tự giác của học viên nhằm tự phát triển và tự hoàn thiện nhân cách của bản thân mình. Chất lượng TGD phụ thuộc trước hết vào vai trò chủ thể của học viên. Vì vậy TTC TGD và rèn luyện được coi là động lực của TGD. Chỉ khi nào học viên thực sự hứng thú, thực sự tự giác coi việc TGD và rèn luyện là nhu cầu tất yếu không thể thiếu của mình thì khi đó họ mới có quyết tâm và nỗ lực ý chí cao. Tổ chức các hoạt động sư phạm theo hướng phát huy TTC TGD và rèn luyện KNTGD của học viên là tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển vị trí của người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng chịu tác động sư phạm từ nhà giáo dục thành chủ thể quá trình phát triển nhân cách của chính mình. TTC có mặt tự phát và tự giác. Mặt tự phát của TTC là những yếu tố tiềm ẩn bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò hiếu kỳ, linh hoạt và sôi nổi trong hoạt động ước muốn được người khác cho mình là quan trọng. Mặt tự giác của TTC là trạng thái tâm lý TTC có mục đích vào đối tượng rõ rệt chủ thể cần hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó, TTC thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, tính tò mò khoa học. TTC là một phẩm chất nhân cách quan trọng của người học viên. Nó được hình thành và phát triển thông qua hoạt động thực tiễn tích cực của cá nhân người học. Hoạt động sư phạm luôn luôn diễn ra trong mối quan hệ thống nhất với hoạt động của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên. Hiệu quả hoạt động sư phạm của nhà giáo dục được biểu hiện ở mức độ hưởng ứng tích cực từ phía người học đối với các hoạt động sư phạm của họ. Điều này không chỉ phụ thuộc vào nội dung thông tin từ phía nhà giáo dục có mới mẻ và hấp dẫn hay không mà quan trọng là phương pháp sư phạm của họ có kích thích 45
- được TTC của học viên hay không. Như vậy để phát huy tính TTC TGD và rèn luyện KNTGD của học viên thì việc tổ chức khoa học các hoạt động sư phạm có ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động đó cần quán triệt và thực hiện tốt những nội dung, yêu cầu và biện pháp sau: Thứ nhất, để tạo cơ sở cho học viên phát huy TTC, tự giác, chủ động trong học tập và rèn luyện nhà giáo dục cần quy định việc lập và thực hiện kế hoạch tự giáo dục và rèn luyện đối với học viên. Hoạt động của học viên là hoạt động có mục đích, trước khi hoạt động học viên luôn đặt ra mục đích cho riêng mình, vạch ra kế hoạch và thực hiện kế hoạch ấy. Hoạt động đó thường trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị; giai đoạn thực hiện trên thực tế và giai đoạn tổng kết rút kinh nghiệm, trong đó giai đoạn chuẩn bị lập kế hoạch hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hoạt động càng phức tạp thì càng cần có sự chuẩn bị chu đáo, cụ thể tỉ mỉ thì mới đảm bảo cho sự thành công trong hoạt động thực tiễn. Lập và thực hiện kế hoạch là yếu tố then chốt giúp học viên chủ động trong kế hoạch TGD và rèn luyện của mình, một kế hoạch TGD và rèn luyện tốt sẽ giúp cho học viên chủ động trong việc rèn luyện các KNTGD, làm việc theo kế hoạch một cách khoa học và đem lại hiệu quả cao. Mỗi học viên cần có một cuốn sổ ghi kế hoạch TGD, rèn luyện của riêng mình, kế hoạch này được xây dựng theo từng tuần, từng tháng và được cụ thể hoá đến từng ngày, từng giờ. Nó được xây dựng theo tiến trình dạy học nói chung và từng môn học nói riêng, quỹ thời gian và ý định TGD và rèn luyện của từng cá nhân. Xây dựng kế hoạch TGD và rèn luyện là sự sắp xếp, bố trí công việc, phân phối thời gian, xác định mục đích yêu cầu của từng công việc cũng như các điều kiện bảo đảm một cách hợp lý đạt tới đích cuối cùng là thiết kế được một kế hoạch TGD và rèn luyện mang tính khoa học và khả thi. Kế hoạch đó phải đáp ứng được các yêu cầu như sự tương xứng giữa nội dung của từng môn học, các bộ môn khác nhau với thời gian học tập, xen kẽ hợp lý giữa các dạng TGD và rèn luyện, giữa học tập với nghỉ ngơi, đồng thời bảo đảm tính mềm dẻo linh hoạt khả thi của kế hoạch trong cường độ lao động cao, căng thẳng cả về trí lực và thể lực của học viên. Cán bộ quản lý cần theo sát học viên trong khâu lập kế hoạch, sắp xếp và thông báo lịch công tác tháng, tuần cho học viên chủ động xây dựng kế hoạch tránh hiện tượng trùng lắp với các hoạt động khác của đơn vị. Song song với việc theo dõi xây dựng kế hoạch của học viên cán bộ quản lý cần định kỳ kiểm tra việc lập kế hoạch để kịp thời 46



