Luận văn Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN

pdf 114 trang ngocly 190
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_bien_phap_to_chuc_hoat_dong_tu_hoc_cho_sinh_vien_kh.pdf

Nội dung text: Luận văn Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LÊ THÀNH THẾ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Thái Nguyên 2009
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LÊ THÀNH THẾ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN Chuyên ngành: Giáo dục học Mã số: 60.14.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH: NGUYỄN VĂN HỘ Thái Nguyên 2009
  3. PHẦN MỘT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Tính cấp thiết của đề tài Để nâng cao chất lượng dạy học, thực hiện phương châm “dạy học lấy người học làm trung tâm” cần phải tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên và coi đó là một hình thức tổ chức dạy học ở Đại học. Tuy nhiên trong thực tế việc nâng cao năng lực tự học cho sinh viên chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế việc tìm ra các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên đã trở thành một yêu cầu cấp bách trong các trường đại học nói chung và khoa Ngoại ngữ nói riêng. Trong những năm qua có nhiều công trình nghiên cứu đã xác định các phương hướng, những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học khác nhau, các tư tưởng tập trung vào việc phát huy năng lực tự học, tự rèn luyện của người học, chuyển dần từ hệ phương pháp “tập trung vào người dạy” sang hệ phương pháp “tập trung vào người học”, chuyển dần từ phương pháp dạy học sang phương pháp nghiên cứu. Tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên trở thành một nội dung đổi mới trong nhà trường sư phạm, nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở đại học hiện nay. Vì vậy, trong quá trình học tập đòi hỏi sinh viên phải tự giác, tích cực, chủ động, năng động sáng tạo để có thể lĩnh hội được hệ thống những tri thức khoa học qua đó rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo tương ứng. Để đạt được những yêu cầu đó đòi hỏi sinh viên phải có khả năng tự học, tự rèn luyện cao. Thực tế việc dạy học trong các trường sư phạm nói chung và khoa Ngoại ngữ nói riêng còn nhiều điểm tồn tại, việc dạy học chủ yếu nhằm cung cấp một khối lượng kiến thức xác định trong các giờ lên lớp, chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên, chưa thực sự quan tâm đến việc rèn luyện hệ thống kĩ năng sư phạm cho sinh viên. Trong lý luận dạy học, tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên được coi là một hình thức tổ chức dạy học ở đại học, việc tìm kiếm các biện pháp tổ chức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
  4. hoạt động tự học cho sinh viên đã trở thành một yêu cầu cấp bách trong các trường đại học nói chung và trường sư phạm nói riêng. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN” 2. Mục đích nghiên cứu Xây dựng các biện pháp hướng dẫn, tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN, nhằm nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên trong quá trình đào tạo. 3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động dạy và học của giảng viên và sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học, các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN. 4. Gỉa thuyết khoa học Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả dạy - học ở các trường sư phạm nói chung và khoa Ngoại Ngữ nói riêng, một trong những nguyên nhân đó là do hoạt động tự học của sinh viên chưa được tổ chức một cách hợp lý. Nếu đề ra được các biện pháp tổ chức hoạt động tự học ở trên lớp, kết hợp với hoạt động tự học ở nhà và hoạt động ngoại khoá cho sinh viên theo hướng tích cực hoá hoạt động người học, thì sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ nói riêng và chất lượng đào tạo nói chung. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề tự học và tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
  5. 5.2. Xây dựng hệ thống các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ và tiến hành thực nghiệm các biện pháp (áp dụng trên phần Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm). 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ trong mối quan hệ với hoạt động dạy học. - Phương pháp điều tra bằng ankét về thực trạng tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ trong giai đoạn hiện nay. - Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến góp ý của các chuyên gia về cách xử lý kết quả điều tra, các biện pháp tổ chức, cách thực nghiệm - Phương pháp thực nghiệm khoa học: Tiến hành thực nghiệm các biện pháp tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lý học ở trên lớp cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ. 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá các tài liệu lý luận về tự học. Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu lịch sử của vấn đề nghiên cứu, phát hiện và khai thác những khía cạnh mà các công trình nghiên cứu trước đây đã đề cập tới vấn đề về tự học và tổ chức tự học, làm cơ sở cho việc tiến hành các hoạt động nghiên cứu tiếp theo. 6.3. Phương pháp toán học Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm để xử lý số liệu về thực trạng tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ. 7. Phạm vi giới hạn của đề tài Nghiên cứu hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ và tiến hành thực nghiệm một số biện pháp tổ chức hoạt động tự học (áp dụng trên phần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
  6. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học dạy học) cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN. 8. Những luận điểm mang tính chất phƣơng pháp luận của đề tài Nghiên cứu vấn đề tự học trong sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên một cách toàn diện. Nghiên cứu vấn đề tự học trong mối quan hệ với các hoạt động khác: hoạt động chính khoá, hoạt động ngoại khoá, các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Nghiên cứu hoạt động tự học trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với hoạt động dạy học. Nghiên cứu hoạt động tự học theo quan điểm tiếp cận tâm lý học hoạt động. Nghiên cứu hoạt động tự học trên quan điểm tiếp cận công nghệ dạy học. Nghiên cứu hoạt động tự học trên quan điểm phát triển dựa vào yếu tố nội lực là cơ bản (yếu tố người học giữ vai trò quyết định). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
  7. PHẦN HAI: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Vấn đề tự học và tổ chức tự học trong các nghiên cứu ở nước ngoài. Tìm hiểu các tư tưởng trên thế giới nghiên cứu về tự học và tổ chức hoạt động tự học, chúng tôi có một số nhận xét sau: Tự học, tổ chức hoạt động tự học không phải là mảnh đất mới chưa được “cày xới” mà tự học là một vấn đề đã được nhiều nhà giáo dục học trên thế giới quan tâm đến dưới các góc độ khác nhau: phát huy tính tích cực, tính độc lập, tính tự giác, tính sáng tạo của người học như các nhà khoa học giáo dục Xôcơrat, Khổng Tử, Cômenxki, Đixtecvec, Usinxki. Ngay từ những năm công nguyên, XôCơRát (469 – 339 TCN) đã đưa ra quan niệm rất nổi tiếng: Giáo dục phải giúp con người tự khẳng định chính mình. Vận dụng quan điểm đó vào dạy học, ông cho rằng cần phải để cho người học tự suy nghĩ, tự tìm tòi, cần giúp người học tự phát hiện thấy sai lầm của mình và tự khắc phục những sai lầm đó. Đến thế kỉ 17 J.A.Cômenxki (1592-1670) đã tìm ra phương pháp cho phép giáo viên giảng viên giảng ít hơn, học sinh học nhiều hơn. Ông đề ra một số nguyên tắc dạy học mà cho đến nay vẫn còn nguyên tác dụng nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh: Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan trong dạy học, nguyên tắc đi từ cái chung đến cái riêng, nguyên tắc tôn trọng đặc điểm đối tượng. Đến thế kỉ thứ XIX Conxtantin Đmitrêvic Usinxki (1824-1870) đã nghiên cứu về tính tích cực, tính độc lập của học sinh. Theo ông tính tích cực, tính độc lập là cơ sở duy nhất để cho sự học có hiệu quả. Ông cho rằng cần giáo dục cho học sinh biết định hướng trong môi trường xung quanh, biết hành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
  8. động một cách sáng tạo, biết tự mình nâng cao vốn học vấn và tự phát triển bản thân. Trong dạy học không nên dồn tất cả tính tích cực vào công tác dạy của người giáo viên, còn học sinh thì lại thụ động mà cần phải làm sao cho học sinh tích cực ở mức độ cao nhất. Đầu thế kỉ XX những thành tựu về lý luận dạy học của nhà nước Xô Viết ra đời gắn liền với tên tuổi của một số nhà giáo dục học nổi tiếng như: V.V.Đavưdov, L.V.Zankov[41], I.Ia.lecne[47], Iu.K.Babanski[13], R.A.Nhizamov [51]. Khi nghiên cứu về lý luận dạy học ở đại học, các tác giả đã vạch rõ sự khác biệt giữa dạy học ở đại học với dạy học ở phổ thông: Các tác giả cho rằng dạy học ở đại học không phải chỉ trả lời câu hỏi dạy như thế nào? Mà còn phải trả lời câu hỏi: sinh viên độc lập học tập như thế nào? Độc lập nghiên cứu khoa học ra sao? Tìm tòi sáng tạo như thế nào? Có thể nói ngay từ đầu thế kỉ XX, vấn đề tự học ở đại học đã được rất nhiều các tác giả quan tâm dưới góc độ phương pháp dạy và phương pháp học. Vấn đề này cho đến nay vẫn tiếp tục được nghiên cứu. Còn I.F. Kharlamop đã nghiên cứu tự học dưới góc độ tìm ra những biện pháp để phát huy tính tích cực học tập của học sinh bằng cách: Tăng cường việc nghiên cứu làm việc với sách giáo khoa, với tài liệu học tập, dạy học nêu vấn đề, cải tiến công tác tự lực học tập, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá Cùng với xu thế phát triển của thời đại I.U.K.Babanxki nghiên cứu tự học gắn liền với việc tìm ra các biện pháp tối ưu hoá việc học theo hai hướng: Phát huy tính tích cực, tính tự giác của học sinh trong học tập dưới sự hướng dẫn, điều khiển trực tiếp của thầy, kết hợp với quản lý và tự quản lý hoạt động học tập của học sinh. Với ý tưởng trên trong dạy học người ta đã đề ra các phương pháp dạy học mới, đó là phương pháp dạy học chương trình hoá. Đáp ứng với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng với những yêu cầu đổi mới của các quốc gia trên thế giới, các nhà giáo dục học ở các nước phát triển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
  9. đã đi sâu nghiên cứu để tối ưu hoá việc học, hình thành, phát triển năng lực tự học để người học có thể học thường xuyên, học suốt đời. Makiguchi [70], B.P.Exipov [24], khi nghiên cứu bản chất tự học của sinh viên. Các tác giả đã chỉ ra rằng: bản chất tự học của sinh viên là hoạt động nhận thức bằng hành động tìm tòi, nghiên cứu, khám phá. Đây chính là cơ sở lý luận của vấn đề tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên. Cuối thế kỉ XX ảnh hưởng của sự phát triển khoa học kĩ thuật, đặc biệt là ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ, phần lớn các nhà giáo dục học đã nghiên cứu tự học theo hai hướng chính: Hướng thứ nhất nghiên cứu áp dụng công nghệ dạy học, nhằm thay đổi vị trí của thầy và trò trong quá trình dạy học, từ chuyên gia về việc dạy, giáo viên phải chuyển sang chuyên gia về việc học của người học; Hướng thứ hai là dạy học phân hoá, dạy học tiến hành theo nhịp độ cá nhân người học để đạt tới năng suất và hiệu quả cao nhất trong việc học, dạy học cần phải được tổ chức hướng vào người học. Tiêu biểu cho các hướng nghiên cứu trên là Raja Roy Singh. Ông đã nghiên cứu vai trò của năng lực tự học trong việc học tập thường xuyên và học tập suốt đời, đề cao vai trò chuyên gia cố vấn của người thầy trong việc học tập thường xuyên, học tập suốt đời, trong việc hình thành phát triển năng lực tự học của người học. Năm 1986 Sharma và R. Ahmed [63] đã nghiên cứu hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức dạy học bằng cách dạy phương pháp cho người học. Theo tác giả, người ta có thể dạy phương pháp cho sinh viên bằng nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, tuỳ theo tính chất đặc thù môn học và nội dung yêu cầu của bài học. Nhưng theo ông dù tuân theo hình thức nào thì cũng phải thực hiện theo các giai đoạn sau: - Giai đoạn 1: Giáo viên thiết kế bài tập và cung cấp nguồn tài liệu cần thiết cho bài tập và chỉ dẫn cụ thể những gì sinh viên phải làm để hoàn thành bài tập. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
  10. - Giai đoạn 2: Giáo viên tổ chức cho sinh viên tự nghiên cứu, tự làm bài tập với sự hỗ trợ của những thông tin có sẵn. - Giai đoạn 3: Giáo viên làm việc với sinh viên trên lớp theo hình thức cá nhân hay tập thể thông qua những hình thức khác nhau: Thảo luận, xêmina, củng cố ôn tập, xây dựng bài giảng, kiểm tra đánh giá, tự kiểm tra, tự đánh giá. Đây là lí thuyết mới về tổ chức tự học dưới góc độ nhìn nhận tự học như là một phương pháp dạy học. Tóm lại, qua nghiên cứu các tư tưởng, quan điểm, bàn về dạy học và tự học, tổ chức hoạt động tự học của các tác giả trên thế giới, chúng tôi có một số nhận xét sau: Tự học là cần thiết đối với tất cả mọi người, vấn đề tự học của học sinh nói chung và của sinh viên đại học nói riêng được các tác giả trên thế giới quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau như phát huy tính tích cực học tập của người học, tối ưu hoá việc học bằng dạy học chương trình hoá, áp dụng công nghệ dạy học, tổ chức dạy học phân hoá, dạy học theo nhịp độ cá nhân, dạy phương pháp học cho người học để đạt được hiệu quả cao nhất ở người học. 1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam về tự học và tổ chức tự học Thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ Tịch: Học phải suốt đời ngay cả khi đã đi làm việc [101]. Với phương châm “Về cách học phải lấy tự học làm gốc”; “Về cách dạy thì phải tránh lối dạy nhồi sọ Về học tập tránh lối học vẹt” [33 – tr 444,319] Đáp ứng yêu cầu cấp bách của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, các nhà giáo dục học Việt Nam quan tâm đến vấn đề tự học, tổ chức hoạt động tự học và đã đi sâu nghiên cứu tự học dưới nhiều góc độ. Tự học là một hoạt động độc lập diễn ra không hoặc ít có sự điều khiển của thầy (Tác gả Nguyễn Cảnh Toàn [55] và một số nhóm tác giả khác nữa). Tự học là hoạt động tích cực, chủ động, tự giác của người học dưới vai trò chủ đạo (tổ chức, hướng dẫn, điều khiển) của thầy (Các tác giả: Nguyễn Ngọc Quang [53] [56] Đặng Vũ Hoạt [29], Nguyễn Ngọc Bảo [10]. Trịnh Quang Từ [71], ). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
  11. Hướng thứ ba nghiên cứu tự học như là một hình thức tổ chức ngoài giờ lên lớp, phối hợp các hình thức tổ chức dạy học khác (Phạm Hồng Quang [57] và một số luận văn thạc sỹ khác ) Hầu hết các công trình nghiên cứu đều khẳng định tự học có một ý nghĩa và vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người, là nhân tố trọng yếu nâng cao chất lượng dạy và học, là yếu tố cơ bản để người học lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hình thành thái độ mới. Trong một số công trình nghiên cứu về tự học và tổ chức hoạt động tự học thì tính tích cực, tính độc lập, động cơ học tập của người học giữ một vai trò rất quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học (Nguyễn Ngọc Bảo, Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức). Kiểm tra đánh giá là khâu then chốt nhằm giúp người thầy điều chỉnh, điều khiển hoạt động dạy của mình, điều khiển, điều chỉnh hoạt động học của trò, đồng thời giúp người học tự điều khiển, tự điều chỉnh hoạt động học tập nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy học. Bên cạnh đó, kiểm tra đánh giá còn là một nhân tố phát huy tính tích cực của người học trong quá trình tự học và hình thành kĩ năng tự đánh giá ở sinh viên. Kĩ năng tự học được các tác giả xem xét như là nhân tố bên trong, rất quan trọng để người học hoàn thành nhiệm vụ học tập. Kĩ năng tự học của sinh viên được hình thành thông qua hoạt động học tập, rèn luyện, qua phương pháp dạy của thày và phương pháp học của trò. Những tư tưởng này được phản ánh qua các công trình nghiên cứu của các tác giả Trịnh Quang Từ, Trần Văn Hiếu: Tác giả Trần Văn Hiếu đã nghiên cứu về các kỹ năng đọc sách của sinh viên và đã xây dựng thành công quy trình đọc sách cho sinh viên. 1.2. Lý luận về tự học 1.2.1. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
  12. Trong thực tế, người ta có thể có nhiều cách học khác nhau: Học một cách ngẫu nhiên. Qua kiểu học này, nó đưa lại cho người học những tri thức tiền khoa học, những năng lực thực tiễn trực tiếp, do kinh nghiệm hàng ngày mang lại. Cách học thứ hai là học có chủ định, là việc học diễn ra theo phương thức đặc thù ở nhà trường, qua đó hình thành ở người học những tri thức khoa học, những năng lực mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn nghĩa là nhằm lĩnh hội các tri thức mới, kĩ năng, kĩ xảo mới trong nhà trường. Như vậy, hoạt động học là hoạt động của người học nhằm tổ chức các điều kiện bên trong và bên ngoài đảm bảo cho việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có hiệu quả. Nghiên cứu hoạt động tự học với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học ở đại học dựa trên quan điểm tiếp cận công nghệ dạy học và tiếp cận hoạt động, theo Lê Khánh Bằng: Học - về bản chất là quá trình tiếp thu và xử lý thông tin bằng các hành động trí tuệ và chân tay, dựa vào vốn sinh học và vốn đạt được của cá nhân, từ đó mà có được tri thức, kĩ năng, thái độ mới [6 - tr8]. Từ quan niệm trên chúng tôi có thể đi đến khái niệm về học tập như sau: Học là quá trình người học tự giác, tích cực, độc lập tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện, và dù trong tình huống nào thì trong bản thân sự học cũng hàm chứa sự tự học. Tự học là học với sự tự giác và tích cực ở mức độ cao. Khi quan niệm về tự học, có rất nhiều quan niệm khác nhau. Đứng dưới góc độ nghiên cứu hoạt động tự học như là hoạt động nghiên cứu, với sự giúp đỡ gián tiếp của giáo viên, thực nghiệm trên mô hình đào tạo giáo viên, tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp ) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
  13. nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, ý chí tiến thủ không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học ) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó”. [66-tr59,60]. Nghiên cứu hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức hoạt động dạy học ở đại học, tác giả Lưu Xuân Mới cho rằng: “Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính sinh viên tiến hành ở trên lớp, ở ngoài lớp theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được quy định. Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học [48-tr276]. Nhìn chung, các tác giả đều quan niệm rằng tự học là học với sự độc lập và tích cực, tự giác ở mức độ cao, tự học là quá trình mà trong đó, chủ thể người học tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng các thao tác trí tuệ hoặc chân tay nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá nhân. Tự học có thể diễn ra ở trên lớp hoặc ngoài giờ lên lớp, chẳng hạn như giải bài tập trên lớp, nảy sinh những thắc mắc khi nghe giáo viên giảng bài, tự sắp xếp những lời giảng của giáo viên để ghi vào vở, tự phân tích, nhận xét câu trả lời của bạn trong quá trình thảo luận Theo chúng tôi, tự học là một quá trình, trong đó dưới vai trò chủ đạo của giáo viên, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thông qua các hoạt động trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh,phán đoán ) và cả các hoạt động thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị đồ dùng học tập). Tự học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí của người học để vượt qua chướng ngại vật hay vật cản trong học tập nhằm tích luỹ kiến thức cho bản thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm này thành kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân người học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
  14. - Giữa học và tự học có mối quan hệ với nhau, học chỉ có hiệu quả khi có sự tự học, tự học là kết quả cuối cùng của học. - Tự học có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giáo viên và ngay cả khi không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Tự học được thực hiện qua nhiều bước khác nhau: tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh thông tin khác nhau, xử lý thông tin dựa vào vốn kinh nghiệm hiểu biết của mình, tự kiểm tra, tự đánh giá những thông tin đã thu được, vận dụng thông tin để giải quyết vấn đề do nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn đặt ra Tự học có thể hiểu là quá trình người học tự tìm ra ý nghĩa của việc học, làm chủ các hành động học tập của mình, tạo ra các cầu nối nhận thức trong tình huống học. Bản chất của tự học là quá trình chủ thể người học cá nhân hoá việc học nhằm thoả mãn các nhu cầu học tập, tự giác tiến hành các hành động học tập (nhận thức, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, các hoạt động giao tiếp, các hoạt động thực hành, các hoạt động kiểm tra, đánh giá ) để thực hiện có hiệu quả mục đích và nhiệm vụ học tập đề ra. Hay nói một cách khác là tự học là học với sự tự giác cao và tích cực ở mức độ cao. - Tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi: + Người học phải thực sự có nhu cầu muốn học + Tự học chỉ diễn ra khi người học tiến hành giải quyết vấn đề, giải quyết tình huống, giải quyết các nhiệm vụ học tập + Tự học chỉ được thực hiện thông qua làm việc nghĩa là người học phải có được những cơ hội để thể nghiệm những gì mà họ đã tiếp thu được trước đó. + Tự học của sinh viên là một mặt hoạt động trong quá trình dạy học nó không thể tách rời với hoạt động dạy của GV, vì vậy tự học chỉ có thể đạt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
  15. hiệu quả cao khi nó được diễn ra trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với hoạt động dạy của thầy. Nghĩa là, tự học có hiệu quả cao khi có sự hướng dẫn tổ chức của thầy. Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả của hoạt động tự học của SV đòi hỏi người thầy giáo ngoài chức năng tổ chức, hướng dẫn, truyền đạt cần phải dạy cách thao tác với đối tượng, cách chiếm lĩnh đối tượng cho SV, hay nói cách khác là hướng dẫn phương pháp học, cách học cho SV. + Tự học có hiệu quả cao khi tạo được môi trường học tập cho người học, khi người học không ngừng rèn luyện cho mình một hệ thống kĩ năng tự học. Muốn tự học có kết quả cao đòi hỏi chủ thể tự học phải có động cơ và thái độ học tập đúng đắn, phải có nhu cầu và hứng thú học tập, phải có sự say mê khoa học, phải nhận thức rõ được mục đích của hoạt động học tập và ý thức một cách đầy đủ về việc học của mình. Để hoàn thành nội dung học tập đòi hỏi chủ thể tự học phải có ý chí vượt khó để vượt qua vật cản hay chướng ngại vật trong quá trình tự học nhằm đạt được các mục tiêu học tập đã đề ra. Bên cạnh đó, hoạt động tự học của SV được thực hiện bởi hệ thống kĩ năng, kĩ xảo nhất định vì vậy muốn hoạt động tự học đạt hiệu quả cao đòi hỏi người học phải có hệ thống kĩ năng tự học, cụ thể: Kĩ năng sắp xếp thời gian tự học, kĩ năng đọc sách, kỹ năng nghe và ghi chép bài trên lớp, kĩ năng nghiên cứu khoa học và kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập. + Tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi người học có đầy đủ các phương tiện hỗ trợ cho hoạt động tự học, phương tiện đầu tiên phải kể đến là tài liệu giáo trình, các tài liệu hướng dẫn tự học và các tài liệu tham khảo khác. Ngoài ra còn các phương tiện hỗ trợ như đèn chiếu, băng hình, máy vi tính, các phương tiện nghe nhìn khác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
  16. Phải có địa điểm để tự học với các điều kiện cần thiết về vệ sinh học đường để hoạt động tự học của SV có hiệu quả. Phải có đủ điều kiện về cơ sở vật chất cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày của SV. 1.3. Tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên 1.3.1. Tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên Trong hoạt động dạy, tổ chức hoạt động là một công việc cần thiết ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy - học. Khi quan niệm về tổ chức quá trình dạy học, có rất nhiều quan niệm khác nhau, số đông các tác giả đều cho rằng tổ chức dạy học là sự sắp xếp các thao tác, các hành động dạy học. Khi nghiên cứu các quan điểm đó để vận dụng vào việc tổ chức hoạt động tự học cho SV chúng tôi cho rằng: Tổ chức hoạt động tự học cho SV là quá trình thiết kế, sắp xếp các biện pháp tổ chức giảng dạy của thầy nhằm tiến hành hướng dẫn điều khiển, chỉ đạo cách tự thiết kế, tự sắp xếp các biện pháp hoạt động tự học, tự nghiên cứu của SV, giúp SV phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học, tự nghiên cứu của mình, thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ học tập đề ra. Bản chất của việc tổ chức hoạt động tự học cho SV là sắp xếp và tiến hành các biện pháp dạy học sao cho phát huy được tính tích cực, tính tự giác của người học ở mức độ cao nhất. Vì vậy có thể nói rằng tổ chức hoạt động tự học cho SV là quá trình tiến hành các biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của SV trong quá trình lĩnh hội tri thức ở trên lớp, ở nhà và trong hoạt động thực hành, ngoại khoá. Biện pháp dạy học là cách thức sử dụng hay áp dụng riêng biệt hoặc phối hợp các yếu tố trong quá trình dạy học như phương pháp, phương tiện, tài liệu, tình huống, môi trường, thời gian, công nghệ, giáo viên, SV để tiến hành hoạt động dạy học nhằm giải quyết có hiệu quả mục đích, nhiệm vụ dạy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
  17. học đề ra. Như vậy, biện pháp tổ chức dạy học là quá trình thiết kế, sắp xếp các biện pháp giảng dạy của giáo viên nhằm tiến hành tổ chức điều khiển các biện pháp tự học của sinh viên để thực hiện một cách có hiệu quả mục đích, nhiệm vụ dạy học đề ra. 1.3.2. Hoạt động của giảng viên và sinh viên trong tổ chức hoạt động tự học Hoạt động của giảng viên là hoạt động dạy, dạy sao cho người học biết cách tự học vì vậy đòi hỏi người thầy giáo phải dạy tốt. Để dạy tốt ở bậc đại học đòi hỏi người cán bộ giảng dạy cùng một lúc phải thực hiện tốt ba nhiệm vụ của dạy học: - Dạy nghề cho SV: Thông qua nội dung tri thức bài giảng và phương pháp giảng dạy của thầy, giúp SV nắm vững hệ thống những tri thức khoa học cơ bản trên cơ sở đó hình thành ở họ hệ thống kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp tương ứng, để sau khi ra trường họ có khả năng lập nghiệp. - Dạy phương pháp tự học cho SV: Thông qua các biện pháp tổ chức hoạt động giảng dạy của thầy nhằm phát triển các năng lực và phẩm chất hoạt động trí tuệ của SV, giúp SV hình thành phương pháp tự học, tự nghiên cứu. - Dạy thái độ cho SV: Thông qua phương pháp dạy của thầy, thông qua các biện pháp tổ chức hoạt động dạy học của thầy, nhằm bồi dưỡng cho SV ý thức cá nhân đối với nghề nghiệp tương lai, đồng thời hình thành ở họ niềm tin cách mạng và niềm tin sư phạm, giáo dục cho SV những phẩm chất nhân cách của người giáo viên. Đó là lòng yêu nước, yêu nghề, mến trẻ, có tình cảm trong sáng và cao thượng, phấn đấu hết mình vì học sinh thân yếu, vì sự nghiệp giáo dục chung của đất nước Tuy nhiên nếu chỉ thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ nêu trên trong quá trình dạy học thì chưa đủ, để dạy tốt giảng viên cần phải thực hiện sao cho với sự chi phí ít nhất về thời gian, kinh phí, sức lực của giáo viên, SV, của nhà trường và cha mẹ SV nhưng lại đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi do nghề Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
  18. nghiệp và xã hội đặt ra ở mức độ cao. Muốn giải quyết được vấn đề trên, việc giảng dạy cần phải được tiến hành theo các phương hướng sau: - Giảng viên cần tiến hành các biện pháp dạy học nhằm phát huy cao độ tính tự giác, tính tích cực, tính độc lập sáng tạo của SV, phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học, tự nghiên cứu của SV. - Tăng cường rèn luyện kỹ năng thực hành, kỹ năng nghề nghiệp cho SV bằng việc giải các bài tập tình huống, bài tập thực hành, đi thực tế phổ thông và tổ chức hoạt động ngoại khoá cho SV. - Chuyển từ phương pháp học tập sang phương pháp tự học, tự nghiên cứu. - Chuyển dần từ phương pháp diễn giảng ở đại học sang phương pháp dạy học nêu vấn đề, kết hợp với làm việc theo nhóm, hoặc tổ chức thảo luận xêmina. Tận dụng tới mức cao nhất vốn tri thức, vốn kinh nghiệm mà SV đã tích luỹ được để giải quyết các nhiệm vụ học tập - Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng khách quan hoá, công khai hoá và hình thành năng lực tự đánh giá cho SV. - Đổi mới cơ sở vật chất và các phương tiện kĩ thuật dạy học theo hướng sử dụng công nghệ thông tin. Xây dựng các giáo án điện tử để giảng dạy cho SV hoặc sử dụng trình chiếu trong dạy học Bên cạnh đó, để giảng dạy tốt ở bậc đại học người giảng viên cần phải thiết kế quá trình dạy học theo các công đoạn sau: * Xác định mục tiêu môn học (Xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của từng chương học, từng bài học) gồm: Mục tiêu về tri thức, mục tiêu về kĩ năng, mục tiêu thái độ mà SV cần phải đạt được. * Giảng viên cần nắm vững trình độ hiện có của SV. Nghĩa là phải nắm được trình độ tối thiểu đã có ở SV để tiếp thu bài học mới, so sánh đối chiếu với mục tiêu môn học, chương học, bài học cần phải thực hiện. Trên cơ sở đó, GV có thể lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
  19. * Giảng viên cần khai thác động lực bên ngoài và động lực bên trong của quá trình dạy học nhằm thúc đẩy quá trình học tập của SV: Khai thác động lực bên ngoài của quá trình dạy học là tạo ra những ảnh hưởng tốt của các phương tiện kĩ thuật dạy học, của môi trường lớp học và toàn bộ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập của SV như những ảnh hưởng của GV, những ảnh hưởng của SV khác trong lớp, những ảnh hưởng của môi trường kinh tế, chính trị xã hội Khai thác động lực bên trong của quá trình dạy học bằng cách tạo ra những mâu thuẫn nhận thức trong bản thân SV khi tiến hành chiếm lĩnh nội dung tri thức, thông qua việc xây dựng những tình huống có vấn đề, các bài tập nhận thức ở nhiều mức độ khác nhau. * Giảng viên cần thủ tiêu hoặc hạn chế các tác nhân gây nhiễu tác động đến SV và quá trình học tập của SV, GV cần nắm vững bản chất của quá trình dạy học để có thể hướng dẫn SV học tập bằng nhiều cách khác nhau theo con đường algôrit và ơritstic. * Giảng viên cần thường xuyên thông tin phản hồi nhanh kết quả học tập của SV để thu mối liên hệ ngược trên cơ sở đó điều chỉnh hoạt động dạy của mình và điều khiển hoạt động học của SV. * Giảng viên cần phải vận dụng quy trình công nghệ trong giảng dạy ở bậc đại học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
  20. Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN 2.1. Thực trạng tự học của sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN 2.1.1. Thực trạng tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN Để đánh giá một cách khách quan thực trạng tổ chức hoạt động tự học cho SV khoa Ngoại ngữ - ĐHTN, chúng tôi đã tiến hành điều tra bằng ankét, quan sát các giờ học, tự học của sinh viên và trao đổi trực tiếp với SV, giáo viên giảng dạy bộ môn và cán bộ quản lý của khoa Ngoại ngữ - ĐHTN. Mục đích khảo sát nhằm đánh giá đúng về nhận thức của SV khoa Ngoại ngữ đối với vấn đề tự học, cách thức tổ chức hoạt động tự học của giảng viên và SV, những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động dạy và tự học của giảng viên và SV. Trên cơ sở đó, tìm ra những biện pháp tổ chức có hiệu quả hoạt động tự học cho SV. Trước khi tiến hành khảo sát chúng tôi đã nghiên cứu nắm đặc điểm tình hình của SV, cơ sở vật chất của khoa Ngoại ngữ - ĐHTN và hoạt động giảng dạy của giáo viên. Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành thiết kế hai mẫu phiếu A1 và A2. Mẫu phiếu A1 dành cho SV và mẫu phiếu A2 dành cho cán bộ giảng dạy. Chúng tôi tiến hành việc điều tra được thực hiện trên 118 SV năm thứ nhất và 3 giảng viên giảng dạy bộ môn Tâm lý học của khoa Ngoại ngữ - ĐHTN kết hợp với trò chuyện, phỏng vấn, đàm thoại với giảng viên, cán bộ quản lý, sinh viên và thu được các kết quả sau: 2.1.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN về vấn đề tự học. Để đánh giá thực trạng nhận thức của SV khoa Ngoại ngữ, chúng tôi sử dụng câu hỏi sau: Bạn đánh giá thế nào về vai trò của hoạt động tự học: a) Rất quan trọng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
  21. b) Quan trọng c) Bình thường d) Không quan trọng Chúng tôi thu được kết quả ở bảng sau: Bảng 1.1: Thực trạng nhận thức của SV khoa Ngoại ngữ về tự học STT Vai trò của hoạt động tự học Ý kiến của SV 1 Rất quan trọng 79,7 % 2 Quan trọng 19,5 % 3 Bình thường 0,8% 4 Không quan trọng 0% Qua kết quả thu được ở bảng trên chúng tôi nhận thấy rằng đa số SV đều có nhận thức đúng về vai trò của hoạt động tự học. Cụ thể: Có 94 SV chiếm 79,7% cho rằng hoạt động tự học có vai trò rất quan trọng; 23 SV chiếm 19,5% cho rằng hoạt động tự học có vai trò quan trọng và chỉ có 1 SV chiếm 0,8% là bình thường; 0% là không quan trọng. Để đánh giá về thực trạng nhận thức của SV khoa Ngoại ngữ - ĐHTN về vấn đề tự học chúng tôi còn sử dụng câu hỏi: Theo bạn tự học có ý nghĩa như thế nào? a) Giúp người học tiếp thu tri thức b) Tự học giúp người học vận dụng những tri thức đã học vào những tình huống cụ thể c) Tự học giúp người học có thêm tri thức để hình thành và phát triển nhân cách của bản thân d) Tự học là để kiểm tra và thi có kết quả cao e) Tự học là để làm phong phú thêm hiểu biết của mình Kết quả thu được như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
  22. - Tự học là để người học tiếp thu tri thức 45,8% - Tự học giúp người học vận dụng những tri thức đã học vào những tình huống cụ thể 6,8% - Tự học giúp người học có thêm tri thức để hình thành và phát triển nhân cách của bản thân 33,9% - Tự học là để kiểm tra và thi có kết quả cao 12,7% - Tự học là để làm phong phú thêm hiểu biết của mình 0,8% Qua kết quả trên chúng tôi thấy: Số đông SV đã có nhận thức một cách khá đầy đủ, sâu sắc về ý nghĩa của hoạt động tự học (có 45,8% số đông SV cho rằng tự học là để người học tiếp thu tri thức; 33,9% có quan niệm cho rằng tự học giúp người học có thêm tri thức để hình thành và phát triển nhân cách của bản thân). Tuy nhiên, nhận thức về tự học của SV giữa các chuyên ngành cũng có sự khác nhau. Nguyên nhân dẫn tới sự khác nhau đó có thể do rất nhiều nguyên nhân tạo thành, như: - Do trình độ SV được tuyển đầu vào khác nhau - Do điều kiện học tập và môi trường học tập khác nhau - Do phương pháp giảng dạy và cách thức tổ chức hoạt động dạy học khác nhau của giảng viên. 2.1.2.1 Thực trạng sử dụng các biện pháp tổ chức hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN * Thực trạng về việc sử dụng thời gian tự học thường xuyên của SV khoa Ngoại ngữ Khi được hỏi: Bạn tự học như thế nào? Kết quả thu được như sau: - Chỉ khi giáo viên yêu cầu: 29,66% - Khi chuẩn bị thi và kiểm tra: 53,38% - Thường xuyên vào các buổi hàng ngày: 16,96% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
  23. Qua kết quả trên chúng tôi nhận thấy rằng ý thức tự giác, tích cực tự học của SV là chưa cao (tự học thường xuyên vào các buổi hàng ngày chỉ chiếm 16,96%). Chính vì lí do này mà kết quả chọc tập của một số SV chưa đạt yêu cầu trong quá trình đào tạo. Để tìm hiểu thực trạng hoạt động tự học của SV chúng tôi sử dụng câu hỏi số 4: Khi tự học bạn thường sử dụng những biện pháp nào sau đây? Với câu hỏi trên chúng tôi thu được những kết quả rất khác nhau, cụ thể: - Đọc qua bài cũ: 19,5% - Đọc kĩ và tái hiện lại tri thức đã học bằng ngôn ngữ nói và viết: 16,9% - Đọc và nghiên cứu bài mới trước khi nghe giảng: 10,1% - Nghiên cứu bài mới trước khi nghe giảng và xây dựng đề cương nghiên cứu: 15% - Tổ chức trao đổi về nội dung nghiên cứu: 1,7% - So sánh đối chiếu về kết quả nhận thức của mình với bài giảng của thầy: 5% - Vận dụng tri thức để giải quyết các vấn đề khác nhau: 6,7% Ngoài ra kết quả điều tra cho thấy SV còn sử dụng phối hợp nhiều biện pháp tự học khác nhau như: - Đọc qua bài cũ, đọc kĩ và tái hiện lại tri thức đã học bằng ngôn ngữ nói và viết: 3,3% - Đọc qua bài cũ, đọc và nghiên cứu bài mới trước khi nghe giảng với tổ chức trao đổi về nội dung nghiên cứu: 1,7% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21
  24. - Đọc qua bài cũ, đọc kĩ và tái hiện lại tri thức đã học bằng ngôn ngữ nói và viết với nghiên cứu bài mới trước khi nghe giảng và xây dựng đề cương nghiên cứu: 7,5% - Vận dụng phối hợp các biện pháp nói trên: 10,9% Bảng 1.2: Các biện pháp tự học được sinh viên khoa Ngoại ngữ áp dụng thường xuyên STT Biện pháp áp dụng thƣờng xuyên Tỷ lệ % 1 Đọc qua bài cũ 19,5 % Đọc kĩ và tái hiện lại tri thức đã học bằng ngôn ngữ nói 16,9% 2 và viết 3 Đọc và nghiên cứu bài mới trước khi nghe giảng 10,1% Nghiên cứu bài mới trước khi nghe giảng và xây dựng 15% 4 đề cương nghiên cứu 10,9% 5 Vận dụng phối hợp tất cả các biện pháp nói trên Qua kết quả trên chúng tôi thấy biện pháp tổ chức hoạt động tự học được SV khoa Ngoại ngữ áp dụng thường xuyên nhất đó là học bài cũ, tái hiện lại tri thức đã nghe giảng, nghiên cứu bài mới trước khi nghe giảng và xây dựng đề cương nghiên cứu. Điều này là hoàn toàn phù hợp với nhận thức của SV về vấn đề tự học. Biện pháp tổ chức hoạt động tự học ít được SV áp dụng nhất đó là các biện pháp so sánh đối chiếu về kết quả nhận thức của mình với bài giảng của thầy, tổ chức trao đổi, thảo luận nội dung tự nghiên cứu với bạn, với thầy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22
  25. * Thực trạng sử dụng các biện pháp tổ chức hoạt động tự học ở trên lớp cho sinh viên khoa Ngoại ngữ Bảng 1.3: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học ở trên lớp cho SV: Không Không Thƣờng STT Mức độ thƣờng áp dụng xuyên Biện pháp xuyên Thông báo trước nội dung sắp học cho 1 66,67% 33,33% SV trước một tuần Cho SV nghiên cứu trước nội dung bài 2 66,67% 33,33% giảng trước khi nghe giảng Hướng dẫn SV nội dung cần đọc, cần 3 66,67% 33,33% nghiên cứu Hướng dẫn cách đọc, cách tự nghiên 4 33,33% 66,67% cứu cho SV Tổ chức thảo luận nhóm về vấn đề tự 5 100% nghiên cứu Sử dụng mô hình, sơ đồ để hệ thống 6 100% hoá tri thức bài học cho sv Tổ chức sv làm việc theo nhóm, thảo 7 100% luận các vấn đề đã nghiên cứu Tổ chức thông tin phản hồi nhanh, 8 hướng dẫn sv cách tự kiểm tra, tự đánh 33,33% 66,67% giá kết quả tự nghiên cứu Hướng dẫn sv giải các bài tập thực 9 66,67% 33,33% hành của chuyên ngành đào tạo 10 Tổ chức câu lạc bộ môn học cho sv 66,67% 33,33% Kết quả thu được ở trên là kết quả thu được qua điều tra đối với 3 giáo viên dạy bộ môn Tâm lý học. Ngoài ra chúng tôi còn tiến hành trò chuyện đối Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
  26. với một số giáo viên của từng chuyên ngành và kết quả thu được cũng tương đối như kết quả trên. * Thực trạng về việc chấp hành các biện pháp tổ chức tự học của sinh viên trước yêu cầu của giáo viên Để tìm hiểu thực trạng trên chúng tôi sử dụng câu hỏi số 5 trong phiếu điều tra A1, kết quả thu được thể hiện ở bảng sau: Bảng 1.4: Việc chấp hành các biện pháp tổ chức tự học của sinh viên trước yêu cầu của giáo viên: STT Nội dung yêu cầu Ý kiến sv (%) 1 Đọc qua nội dung giáo viên yêu cầu 18,6% 2 Đọc kĩ không ghi chép 16,1% 3 Nghiên cứu kĩ, xây dựng đề cương 21,2% 4 Nghiên cứu, tóm tắt nội dung nghiên cứu 33,1% 5 Nghiên cứu và nảy sinh thắc mắc 11% 6 Không chuẩn bị 0% * Nhận xét đánh giá của sinh viên về các biện pháp của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên Để có được những thông tin ngược từ phía SV đối với các biện pháp của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động tự học chúng tôi sử dụng câu hỏi sau: Theo bạn những biện pháp sau đây của giáo viên có mức độ ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động tự học của bạn? Kết quả thu được như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
  27. Bảng 1.5: Nhận xét đánh giá của sinh viên về các biện pháp của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên Mức độ ảnh hƣởng Rất Tốt Không Ảnh STT % tốt ảnh hƣởng Các hoạt động hƣởng xấu Thông báo trước nội dung sắp học 1 55,94 44,06 cho SV 2 Cho SV biết yêu cầu của bài mới 65,25 25,42 9,33 Cho SV biết ý nghĩa của bài học đối 3 44,06 40,68 15,26 với nghề nghiệp tương lai Yêu cầu SV tự nghiên cứu trước nội 4 dung sắp học và xây dựng đề cương 29,66 55,93 14,41 nghiên cứu Giới thiệu tài liệu giáo trình và 0,86 5 50 44,91 4,23 hướng dẫn cách đọc cho SV Hướng dẫn cách đọc và tóm tắt nội 6 33,89 56,78 9,33 dung nghiên cứu Tổ chức cho SV làm việc theo 7 nhóm, thảo luận về vấn đề đã tự 47,45 46,61 5,94 nghiên cứu Hướng dẫn giải các bài tập thực 8 22,88 65,26 11,86 hành Thông tin phản hồi về kết quả 9 nghiên cứu và lĩnh hội của SV sau 28,81 58,48 12,71 mỗi bài học Tổ chức câu lạc bộ theo môn học 10 44,91 38,14 16,95 cho SV * Thực trạng về kĩ năng tự học của sinh viên. Bảng 1.6: Thực trạng tự đánh giá của sinh viên về kĩ năng tự học của sinh viên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
  28. TT Điểm, tỷ lệ % 1 2 3 4 5 Các kỹ năng % % % % % 1 Kỹ năng đọc sách 9,9 8,5 16,2 17 48,4 2 Kỹ năng nắm bắt nội dung bài trên lớp 16,2 10,1 22 35,5 16,2 3 Kỹ năng xây dựng đề cương nghiên 46,4 16,2 16,2 7,6 13,6 cứu 4 Kỹ năng tham gia thảo luận 63,8 5,9 10,1 10,1 10,1 5 Kỹ năng sắp xếp thời gian tự học 17,2 5,9 12,7 25,4 38,8 6 Kỹ năng khái quát hoá nội dung tri thức 73,8 3,4 7,6 7,6 7,6 đã học 7 Kỹ năng giải các bài tập thực hành 68,8 12,7 7,6 9,3 1,6 8 Kỹ năng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm 80,7 13,5 4,2 0,8 0,8 thường xuyên 9 Kỹ năng khắc phục khó khăn trong học 39,9 33,9 16,9 5,9 3,4 tập 10 Kỹ năng đặt vấn đề nảy sinh thắc mắc 17,8 47,5 20,4 12,7 1,6 Từ nhận thức về tự học và thực trạng tổ chức tự học cho SV đã dẫn tới thực trạng về kỹ năng tự học của SV như sau: Tự đánh giá của SV về kỹ năng tự học (kỹ năng tự học được SV đánh giá cho điểm từ cao nhất đến thấp nhất). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26
  29. Từ kết quả trên chúng tôi nhận thấy: SV khoa Ngoại ngữ còn yếu về kỹ năng đặt vấn đề, nảy sinh thắc mắc, xây dựng đề cương nghiên cứu, kỹ năng vận dụng, kỹ năng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên, kỹ năng khái quát hoá nội dung tri thức đã học, kỹ năng thảo luận. * Nhận xét chung về thực trạng các biện pháp tự tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ. Chúng tôi có nhận xét như sau: Các biện pháp tổ chức hoạt động tự học của SV khoa Ngoại ngữ là chưa hợp lý, chưa phù hợp với yêu cầu của hoạt động học tập ở trường đại học. Hoạt động tự học của SV còn mang nặng hình thức ghi nhớ và tái hiện, chưa chú ý đến hoạt động tự nghiên cứu, chưa chú ý đến hoạt động thực hành rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên. Từ các biện pháp tổ chức tự học như trên đã dẫn tới việc SV chấp hành các biện pháp tổ chức hoạt động tự học do giảng viên đề ra một cách miễn cưỡng, không tự giác. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do SV chưa có thói quen tự học thường xuyên, chưa có phương pháp tự học, chưa có kỹ năng tự học. Cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý của khoa chưa thực sự quan tâm tới việc tổ chức hoạt động tự học cho SV, giảng viên còn gặp khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động tự học và quản lý SV. 2.1.2.2. Nguyên nhân của thực trạng sử dụng các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN. Để biết được nguyên nhân của thực trạng sử dụng các biện pháp tổ chức hoạt động tự học chúng tôi sử dụng các câu hỏi sau: * Những nguyên nhân về phía SV khi tự tổ chức hoạt động tự học: Khi được hỏi: Bạn có những khó khăn nào trong những khó khăn sau đây khi tự tổ chức hoạt động tự học của mình? Kết quả thu được như sau; - Thiếu địa điểm tự học: 10,16% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27
  30. - Thiếu thời gian tự học: 3,38% - Thiếu tài liệu giáo trình: 35,59% - Chưa biết cách học: 38,98% - Thiếu môi trường tự học: 0,84% - Không có tính tích cực và ý chí vượt khó của bản thân: 11,05% Kết quả trên cho chúng ta thấy, nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiệu quả của việc tổ chức tự học chưa cao là do SV chưa biết cách học, chưa có kỹ năng tự học và thiếu tài liệu giáo trình. * Những nguyên nhân về phía giảng viên khi tiến hành tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên. - Do SV chưa tích cực trong học tập: 82% - Thiếu tài liệu, giáo trình và các phương tiện hỗ trợ hoạt động dạy học: 78% - Chưa có những biện pháp để quản lý quá trình tự học của SV: 85% Từ những kết quả khảo sát nêu trên, chúng tôi có nhận xét chung như sau: Nguyên nhân của thực trạng trên là do quỹ thời gian dành cho môn học còn ít, do SV chưa thực sự tích cực trong học tập, do thiếu tài liệu giáo trình và các phương tiện hỗ trợ cho hoạt động dạy học 2.2. Nhận xét chung về thực trạng tự học và tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN Nhìn chung, SV khoa Ngoại ngữ chưa có nhận thức đầy đủ về bản chất, vai trò, ý nghĩa của hoạt động tự học, vì thế mà việc sử dụng thời gian và các biện pháp tổ chức hoạt động tự học của SV chưa được hợp lý và khoa học. SV tự học không thường xuyên mà mới chỉ tập trung học khi chuẩn bị kiểm tra và thi. Một trong những nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên là do SV chưa có kỹ năng tự học, chưa biết cách học, chưa có đủ tài liệu giáo trình và các phương tiện hỗ trợ cho hoạt động tự học. Đặc biệt là do giảng viên chưa thực sự quan tâm đến các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho SV, chưa phát huy hết vai trò tích cực, độc lập sáng tạo của SV trong quá trình dạy học. Chính vì vậy mà hoạt động tự học của SV ở khoa Ngoại ngữ chưa được đẩy mạnh, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28
  31. chưa được tổ chức một cách khoa học, hợp lý. Nhiệm vụ đặt ra đối với các nhà quản lý, những người làm công tác giảng dạy là phải tổ chức hoạt động tự học cho SV, đặc biệt là phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học nhằm phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học và tự nghiên cứu của SV, để đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá ở các trường ĐHSP nói chung và khoa Ngoại ngữ nói riêng. Kết luận chƣơng 2 Tự học là học với sự tự giác và tích cực ở mức độ cao. Tự học là quá trình tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng , kỹ xảo, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên và hình thành tình cảm, thái độ nghề nghiệp của SV dưới vai trò chủ đạo của người dạy. Tự học có thể diễn ra ở trên lớp hoặc trong quá trình tự học ở nhà và trong các hoạt động ngoại khoá. Ba khâu này có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau không thể tách rời. Nó bổ sung kết quả cho nhau. Tổ chức hoạt động tự học cho SV là quá trình tiến hành các biện pháp dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của SV trong mọi hoạt động chính khoá, ngoại khoá nhằm góp phần hình thành năng lực sư phạm của người thầy giáo tương lai cho SV khoa Ngoại ngữ. Nhưng trong thực tế vấn đề này chưa được cán bộ giảng dạy trong khoa quan tâm một cách triệt để, đặc biệt là vấn đề tự học ở nhà của SV và vấn đề tổ chức hoạt động ngoại khoá để rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV, vì vậy mà SV chưa hiểu hết được ý nghĩa của môn học, chưa biết cách tổ chức hoạt động tự học. Chƣơng 3: CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN 3.1. Một số định hƣớng để đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho SV khoa Ngoại ngữ - ĐHTN 3.1.1. Tiếp cận quan điểm công nghệ dạy học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29
  32. Công nghệ dạy học là lý luận dạy học ứng dụng, chuyên nghiên cứu việc xibecnetic hoá quá trình dạy học theo hướng phân hoá - cá thể hoá. Quá trình này cho phép người học tiến theo nhịp độ cá nhân, nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học. Tiếp cận công nghệ dạy học vào việc tổ chức hoạt động tự học cần phải thực hiện tốt hai nhiệm vụ: - Chuyển hoá vào thực tiễn dạy học những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật, của khoa học giáo dục, của lý luận dạy học nói chung và lý luận dạy học bộ môn nói riêng nhắm thiết kế được công nghệ dạy học để tối ưu hoá năng lực tự học của SV. - Sử dụng tối đa và tối ưu các phương pháp, phương tiện, các hình thức tổ chức dạy học bộ môn vận hành theo nguyên lý mới, theo cơ chế tự học có hướng dẫn (Assisted slefleaning) tiến lên theo nhịp độ cá nhân, đánh giá trên quan điểm tiếp cận mục tiêu. Theo quan điểm tiếp cận trên, quá trình dạy học được thực hiện như một quy trình công nghệ đặc biệt mà ở đó, nguyên vật liệu là người học, họ là chủ thể có ý thức tự giác tích cực và chủ động. Trong công nghệ dạy học, giáo viên vừa là người thiết kế quy trình dạy, vừa là người thi công hoạt động dạy, vừa là người thiết kế quá trình học tập của SV. Còn người học, không chỉ học đi theo con đường thẳng nhờ sự chỉ dẫn của thầy, mà còn đi theo con đường tự nhận thức, tự nghiên cứu - con đường ơristic (tức là mày mò sáng tạo). Vận dụng công nghệ dạy học, công nghệ giáo dục vào giảng dạy bộ môn, nhằm tổ chức tốt hoạt động dạy - học bộ môn cần phải chú ý các điều kiện sau: Xác định mục tiêu dạy học cho toàn bộ chương trình học, cho từng chương học, từng phần, từng chủ đề xêmina, trong việc giải quyết các bài tập thực hành và trong hình thức tổ chức giảng dạy bộ môn. Trên cơ sở xác định đúng mục tiêu của chương trình, giảng viên giảng dạy bộ môn có thể thiết kế các quy trình dạy học bộ môn. Quy trình đó bao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30
  33. gồm những thao tác, những hành động, gộp thành những công đoạn, những khâu theo một trình tự hợp lý, chặt chẽ. Trong các quy trình dạy học bộ môn, phải có sự kết hợp hài hoà giữa các nhân tố: thầy giáo, nội dung dạy học, phương pháp dạy học, nhân tố trò, các phương tiện kỹ thuật dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và kết quả của quá trình dạy học. Trong các quy trình dạy học bộ môn lại bao gồm nhiều loại quy trình như: Quy trình dạy của thầy, quy trình học của trò, quy trình kiểm tra đánh giá Khi tổ chức hoạt động tự học cho SV cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản: 3.1.1.1. Đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò chủ đạo của thầy với vai trò tích cực chủ động của sinh viên. Dạy và học là hai mặt hoạt động cơ bản của quá trình dạy học, luôn luôn có sự thống nhất biện chứng với nhau. Trong đó giáo viên đóng vai trò chủ đạo (là người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển, chỉ đạo hoạt động nhận thức của SV) còn SV là người chịu sự hướng dẫn, chịu sự điều khiển của giáo viên nhưng đồng thời cũng là chủ thể của hoạt động nhận thức, học là nhân tố quyết định hiệu quả của quá trình dạy học ở đại học. Hoạt động dạy học chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi ngươi thầy phát huy được tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu của SV. Vì vậy trong quá trình dạy học, người thầy giáo cần nghiên cứu các biện pháp tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tính chủ động độc lập, sáng tạo của SV, hình thành và phát triển ở họ hệ thống những kĩ năng tự học, tự tổ chức, tự thiết kế hoạt động tự học có hiệu quả nhằm biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, tự nghiên cứu của SV. Điều đó có nghĩa là hoạt động dạy học chỉ đạt được kết quả thực sự khi có sự kết hợp hữu cơ giữa hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. 3.1.1.2. Đảm bảo tính thực tiễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31
  34. Các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho SV phải có khả năng thực thi, phù hợp với mục tiêu đào tạo của khoa Ngoại ngữ, phù hợp với đặc điểm, nội dung, phương pháp giảng dạy bộ môn ở khoa, phù hợp với năng lực sư phạm của giảng viên. Các biện pháp tổ chức dạy học phải phù hợp với cơ sở vật chất phương tiện dạy học của khoa, với đặc điểm và trình độ nhận thức của SV đồng thời phù hợp với xu thế đổi mới phương pháp dạy học ở đại học trong giai đoạn hiện nay. 3.1.1.3. Đảm bảo tính toàn diện Các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho SV phải tạo ra kết quả cao trên nhiều phương diện: Giúp SV nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tốt hơn, nhanh hơn, sâu sắc hơn, đồng thời góp phần giáo dục động cơ, thái độ học tập đúng đắn cho SV Hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu và thói quen tự học, tự nghiên cứu cho SV. Giúp SV có khả năng tự học thường xuyên, tự học suốt đời để có thể tự đào tạo và đào tạo lại sau này Trên cơ sở quán triệt các định hướng trên, chúng tôi xây dựng hệ thống các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho SV như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32
  35. 3.2. Các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho SV. 3.2.1. Biện pháp tổ chức hoạt động tự học ở trên lớp Để tổ chức hoạt động tự học ở trên lớp cho SV, giảng viên có thể tiến hành một loạt các biện pháp như tạo môi trường học tập, tổ chức SV làm việc theo nhóm, kết hợp với thảo luận toàn lớp, tăng cường việc giải các bài tập thực hành, sử dụng mô hình hoá, thông tin phản hồi nhanh nhằm tích cực hoá hoạt động của SV trong quá trình tự học. Tích cực hoá hoạt động học tập của SV là sử dụng các biện pháp dạy học gây ảnh hưởng đến quá trình học tập của SV, làm thay đổi vị thế của SV trong quá trình học tập, từ chỗ là chủ thể tiếp nhận tri thức một cách thụ động, chuyển thành chủ thể tích cực, tự giác, tự lực và năng động tiến hành quá trình học tập của mình. Hay nói cách khác, tích cực hoá hoạt động học tập của SV là quá trình giảng viên sử dụng các biện pháp dạy học bộ môn làm chuyển biến việc học bộ môn từ chỗ là sự học, sự bắt chước, sự tái hiện, sự ghi nhớ, sao chép, ôn luyện máy móc trở thành hoạt động học tập, có động cơ, có mục đích xác định với hệ thống những hành động cụ thể, được tiến hành với những phương pháp, phương tiện thích hợp, có kỹ năng, có kế hoạch dựa trên cơ sở tự giác, tích cực, chủ động tiến hành các nhiệm vụ học tập của SV. Như vậy bản chất của tính tích cực hoá hoạt động học tập ở SV là quá trình cán bộ giảng dạy tiến hành các biện pháp giảng dạy bộ môn nhằm phát huy tới mức cao nhất tính tự giác, tính tích cực học tập của SV, thông qua việc giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ học tập nhằm đạt được các mục tiêu học tập đề ra. Để tích cực hoá hoạt động học tập ở trên lớp của SV người cán bộ giảng dạy phải thực hiện tốt các biện pháp sau: 3.2.1.1. Tạo môi trường học tập cho sinh viên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33
  36. Môi trường học tập là toàn bộ những điều kiện vật chất và tinh thần diễn ra xung quanh người học, là nơi mà hoạt động học tập của SV được thực hiện. Môi trường học tập tốt là môi trường mà ở đó SV được nghe, được làm việc, được xem người khác làm, cùng làm và bảo ban người khác cùng làm Môi trường học tập bao gồm cả môi trường vật chất và môi trường tinh thần do giáo viên tạo ra trong đó môi trường tinh thần giữ vị trí vai trò hết sức quan trọng vì nó góp phần tạo nên động cơ, mục đích, hứng thú học tập cho SV đồng thời nó là tác nhân kích thích tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của SV đạt hiệu quả cao. Như tạo điều kiện về mặt phương tiện và kỹ thuật để tiến hành hoạt động học tập, gây hứng thú học tập cho SV, tạo ra các mối quan hệ nhiều mặt của SV, để họ có thể tiếp thu thông tin đa chiều từ nhiều kênh thông tin khác nhau * Các biện pháp tạo môi trường học tập cho sinh viên Trong quá trình dạy học trên lớp giảng viên có thể tạo môi trường tinh thần học tập cho SV như sau: - Thông báo cho SV kế hoạch của bài học, chương học, tiết học. - Thiết lập các định hướng bài học, chương học, tiết học. - Thông báo đề cương bài học một cách rõ ràng, và cách thức tiến hành bài học, chương học, tiết học, những nội dung sẽ được đề cập, những biện pháp cần tiến hành, các quy tắc cơ bản cần phải tuân theo. - Tạo ra sự gần gũi giữa SV với SV, giữa SV với GV - Sử dụng các biện pháp như “tấn công não”, giải quyết các bài tập thực hành, sử dụng một mẩu chuyện nào đó trong thực tiễn giáo dục hay hệ thống những câu hỏi mang tính vấn đề nhằm kích thích hứng thú học tập của SV. * Điều kiện để thực hiện biện pháp trên - GV nắm rõ đặc điểm của SV Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34
  37. - GV phải có nghệ thuật trong việc tạo hứng thú học tập cho SV - GV phải có kinh nghiệm trong thực tiễn giáo dục phổ thông - GV phải có kỹ năng xây dựng kế hoạch bài học - Phải giúp SV nhận thức rõ về ý nghĩa của bài học, chương học, học phần đối với nghề nghiệp trong tương lai - SV phải có động cơ và thái độ học tập đúng đắn. 3.2.1.2. Tổ chức cho sinh viên làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận toàn lớp Tổ chức SV làm việc theo nhóm để giải quyết các vấn đề học tập, thực hiện các mục tiêu học tập đề ra, rồi di chuyển vị trí để thảo luận chung toàn lớp, trao đổi, rút kinh nghiệm và lại có thể tiếp tục quay lại làm việc theo nhóm đó là mô hình đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Tổ chức dạy học theo nhóm kết hợp với thảo luận là giải pháp về tổ chức nhằm đảm bảo quá trình học tập diễn ra tích cực và hiệu quả. Thông qua làm việc theo nhóm kết hợp với tổ chức thảo luận làm cho việc học của SV trở nên mềm mại, linh hoạt không cứng nhắc dập khuôn máy móc. Đồng thời sử dụng tối đa các nguồn lực dạy học và tạo không gian hoạt động đa dạng, dễ thay đổi, nâng cao khả năng tương tác giữa SV với giảng viên và giữa SV với SV. Với các biện pháp tổ chức dạy học này có tác dụng tạo ra môi trường học tập đa thông tin cho SV. Tạo cơ hội giúp SV có thể tự nghiên cứu, tự bộc lộ để thể hiện năng lực và kết quả nghiên cứu của cá nhân, tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập và nghiên cứu, đồng thời có tác dụng giúp họ phát triển hài hoà nhân cách của mình. Thông qua môi trường học tập hợp tác, SV không chỉ học được tri thức, kinh nghiệm, thái độ mà còn học được các kỹ năng thực hành, kỹ năng hợp tác. Ngoài ra học tập theo nhóm kết hợp với thảo luận toàn lớp còn giúp SV phát triển ý thức làm việc tập thể, phát huy trí Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35
  38. tuệ tập thể, phát huy tính tích cực học tập, năng lực tự học của SV, năng lực tổ chức, quản lý, tự quản của SV, tạo điều kiện cho mỗi SV có cơ hội để trải nghiệm sự thành công hay thất bại của mình. * Biện pháp tiến hành tổ chức dạy học theo nhóm Bước 1: Phân nhóm (mỗi nhóm từ 15 đến 20 người có năng lực không đồng đều) Bước 2: GV lựa chọn các vấn đề thích hợp với các mục tiêu, nội dung học tập nhằm làm xuất hiện tình huống có vấn đề ở SV. Bước 3: GV trình bày các mục tiêu học tập như là các mục tiêu của nhóm sau đó giao nhiệm vụ cho từng nhóm. Bước 4: Tổ chức SV làm việc theo nhóm để giải quyết các nhiệm vụ học tập đề ra. Bước 5: Tổ chức đại diện các nhóm trình bày vấn đề đã chuẩn bị và tổ chức thảo luận trước toàn lớp. Bước 6: GV nhận xét đánh giá kết quả của từng nhóm, nhận xét, phê bình hoặc khen thưởng. Sau đó hệ thống hoá, khái quát hoá tri thức bài học. * Điều kiện để thực hiện quy trình: - Thảo luận theo nhóm phải có chủ đề, mục tiêu, nội dung rõ ràng vì vậy mỗi bài học cần được xây dựng theo những chủ đề. - Khi thảo luận GV phải nhắc lại chủ đề, mục tiêu, nội dung thảo luận. - SV phải có sự chuẩn bị trước ít nhất là 3 - 5 ngày hay một tuần nhằm xây dựng đề cương thảo luận. - GV cần phát huy tính tích cực nhận thức của SV trong quá trình thảo luận, tận dụng một cách triệt để vốn kinh nghiệm mà SV đã tích luỹ được. - GV phải là người có năng lực chuyên môn sâu, có năng lực, tổ chức, điều khiển, chỉ đạo lớp học và phải đóng vai trò là trọng tài khoa học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36
  39. - GV phải có năng lực tổ chức giảng dạy, năng lực thiết kế bài học. - GV cần nắm vững trình độ nhận thức của SV để phân nhóm cho hợp lý. - GV trình bày mục tiêu của tiết học như là mục tiêu của nhóm, đồng thời phải tạo được sự liên thông giữa các thành viên trong nhóm. - Khuyến khích sự phân công lao động, kỹ năng cộng tác, tính tích cực tham gia để giải quyết công việc chung của nhóm. - Cung cấp nguồn tài liệu đa dạng phong phú, tạo điều kiện để SV phát huy tới mức cao nhất năng lực làm việc theo nhóm và năng lực tự học của mình. - Khuyến khích sv đặt vấn đề và giải quyết vấn đề bằng lời nói trước tập thể. - GV phải giám sát quá trình làm việc của các thành viên trong các nhóm và sự cộng tác giữa các thành viên. - GV cần thay hình thức giảng giải trên lớp bằng hình thức đặt vấn đề, nêu vấn đề, hướng dẫn và tổ chức SV giải quyết vấn đề. - GV phải có những nhận xét đánh giá chung và kết quả làm việc của các nhóm và cá nhân, đồng thời có thể tổ chức khen ngợi nhóm hoặc cá nhân. 3.2.1.3. Thông tin phản hồi nhanh * Vai trò của thông tin phản hồi nhanh: Thông tin phản hồi nhanh nhằm giúp người dạy và người học tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả dạy và học của mình. Phản hồi có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì học tập của SV sẽ đạt được hiệu quả cao hơn khi SV nhận được ý kiến phản hồi phù hợp hoặc SV biết tự phản hồi về kết quả học tập của mình. * Những yêu cầu khi phản hồi: - GV và SV phản hồi phải làm rõ các vấn đề sau: + Cái gì đã làm tốt + Cái gì cần cải tiến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37
  40. + Các hành động cần cải tiến - Khi đưa thông tin phản hồi GV cần chú ý: + Khuyến khích SV đặt câu hỏi + Cho phép SV có thời gian để thực hành + Thảo luận những sai sót, những vấn đề theo hướng tích cực, không nên đưa ra những lời phê phán khắt khe. + Cần kịp thời đưa ra những ý kiến phản hồi tích cực + Phản hồi được tiến hành một cách thường xuyên liên tục + GV cần hướng dẫn SV tự phản hồi * Điều kiện để thực hiện thông tin phản hồi - GV phải biên soạn tài liệu hướng dẫn tự học cho SV, giúp SV xác định các mục tiêu học tập, nội dung cần học và cách thức hoàn thành các mục tiêu đó, trên cơ sở đó hướng dẫn SV cách tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả tự học của mình. - Trong các giờ học trên lớp GV cần công bố rõ kế hoạch bài học và đặt ra hệ thống những câu hỏi trong quá trình lĩnh hội tri thức mới của SV. - Khi sử dụng câu hỏi để thông tin phản hồi GV nên sử dụng câu hỏi phân kì, có tính vấn dề, với một phương án khó và một phương án dễ kết hợp với nhau. Cách hỏi này có tác dụng kích thích và thu hút được nhiều loại đối tượng. - GV cần có những biện pháp kịp thời để đáp ứng lại câu trả lời của SV theo từng tình huống khác nhau. - GV cần có những định hướng để SV có thể phản hồi lẫn nhau và tự phản hồi mình, bằng cách xây dựng những mục tiêu cụ thể mà SV cần đạt được, lấy đó làm tiêu chí để phản hồi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38
  41. 3.2.1.4. Quy trình các biện pháp tổ chức hoạt động tự học ở trên lớp cho sinh viên Bước 1: Tạo môi trường học tập cho SV Bước 2: Tổ chức SV làm việc theo nhóm và thảo luận toàn lớp Bước 3: Đại diện các nhóm trình bày sản phẩm Bước 4: Khái quát hoá, hệ thống hoá tri thức bài học Bước 5: Thu phiếu học tập của SV Bước 6: Thông tin phản hồi Bước 7: Hướng dẫn tự học ở nhà và nghiên cứu bài mới * Điều kiện để thực hiện quy trình - GV phải biên soạn tài liệu hướng dẫn tự học cho SV, giúp SV xác định các mục tiêu học tập, nội dung cần học và cách thức hoàn thành các mục tiêu đó, hướng dẫn SV cách tự kiểm tra, tự đánh giá. - GV phải có năng lực tổ chức giảng dạy, năng lực thiết kế bài học theo quy trình công nghệ dạy học. - GV cần nắm vững trình độ nhận thức của SV để phân nhóm hợp lý. - GV trình bày mục tiêu của tiết học như là mục tiêu của nhóm, đồng thời phải tạo được sự liên thông giữa các thành viên trong nhóm. - Khuyến khích sự phân công lao động, kỹ năng cộng tác, tính tích cực tham gia để giải quyết công việc chung của nhóm - Khuyến khích SV chia sẻ những ý tưởng, tài liệu, nguồn thông tin cho nhau, GV chỉ là người cố vấn, người tổ chức, người điều khiển. - GV cần tăng cường các hình thức thảo luận trong quá trình dạy học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39
  42. - Cung cấp nguồn tài liệu đa dạng, phong phú, tạo điều kiện để SV phát huy tới mức cao nhất năng lực làm việc theo nhóm và năng lực tự học. 3.2.2. Nhóm các biện pháp tổ chức hoạt động tự học ở nhà cho SV 3.2.2.1. Hướng dẫn sinh viên lập kế hoạch bài học Để hướng dẫn SV lập kế hoạch cho bài học GV cần hướng dẫn SV xác định mục tiêu bài học, ý nghĩa của bài học đối với nghề nghiệp tương lai, những nội dung tri thức cơ bản của bài học, các hoạt động mà SV cần tiến hành, cần thực hiện để hoàn thành mục tiêu học tập. * Quy trình lập kế hoạch bài học Bước 1: Giúp SV nhận thức ý nghĩa của bài học, của môn học, của chương học. Bước 2: Giúp SV xác định mục tiêu bài học Bước 3: SV xác định các nhiệm vụ học tập cần hoàn thành. Bước 4: SV tự kiểm tra, tự đánh giá về mức độ hoàn thành các mục tiêu học tập. * Điều kiện để thực hiện quy trình - GV cần kết hợp với tổ chuyên môn, biên soạn các mục tiêu học tập cho SV, đồng thời phải hướng dẫn SV cách thức hoàn thành các mục tiêu đó. Các mục tiêu học tập của SV phải được thể hiện ngay trong đề cương bài giảng của SV, trong các tài liệu hướng dẫn tự học cho SV, trong hệ thống câu hỏi để kiểm tra đánh giá và tự kiểm tra đánh giá. - GV cần chỉ rõ những nội dung tri thức mà SV cần nghiên cứu và thể hiện ngay trong đề cương bài giảng của mình, nhằm hướng dẫn SV tự học - GV cần biên soạn hệ thống những câu hỏi nhằm hướng dẫn SV cách tự kiểm tra, tự đánh giá. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40
  43. - SV cần nhận thức rõ về vai trò, trách nhiệm của mình trong quá trình học tập, đồng thời chấp hành một cách tự giác, tích cực theo sự hướng dẫn của GV. 3.2.2.2. Bồi dưỡng một số các kỹ năng tự học cho sinh viên Kỹ năng tự học là năng lực sử dụng hệ thống những tri thức, những kinh nghiệm mà chủ thể tự học đã tích luỹ được, nhằm tiến hành các hành động học tập để thực hiện một cách có hiệu quả mục đích và nhiệm vụ dạy học đề ra. Một số kỹ năng tự học cơ bản: - Kỹ năng sắp xếp thời gian tự học, kỹ năng đọc sách, kỹ năng giải các bài tập thực hành. - Kỹ năng nghe và ghi chép bài giảng, kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng vận dụng, kỹ năng rèn kuyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên - Kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá và xác nhận kết quả tự học của SV. * Hình thành kỹ năng xây dựng kế hoạch tự học * Vai trò của việc lập kế hoạch Việc lập kế hoạch tự học đòi hỏi SV phải có tính tự giác, tích cực, tính độc lập sáng tạo. Muốn nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học và hiệu quả của hoạt động tự học, đòi hỏi người thầy giáo cần hướng dẫn tri thức cơ bản về kế hoạc hoá hoạt động tự học cho SV, giúp họ phát huy hết năng lực tự học của mình. Tuy nhiên, kế hoạch tự học của SV chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó đảm bảo được những yêu cầu sau: - Yêu cầu đối với việc lập kế hoạch tự học + Kế hoạch tự học phải có sự kết hợp giữa những điều kiện chủ quan và điều kiện khách quan ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41
  44. + Kế hoạch phải đảm bảo thực hiện được mối liên hệ ngược thường xuyên, kịp thời để có những biện pháp điều chỉnh hợp lý. Kết quả thu được từ mối liên hệ ngược sẽ là cơ sở cho hoạt động điều khiển, điều chỉnh kế hoạch, đồng thời giúp cho khâu tự đánh giá của SV trong quá trình tự học được chuẩn xác. + Khi lập kế hoạch tự học, SV phải lưu ý phối hợp hài hoà, hợp lý giữa các công việc, đảm bảo luân phiên giữa học tập và nghỉ ngơi. + Kế hoạch tự học phải đảm bảo tỉ lệ 1 giờ học trên lớp phải có ít nhất 1 giờ tự học ở nhà tương ứng. * Quy trình hướng dẫn SV hình thành kỹ năng lập kế hoạch tự học Bước 1: Hướng dẫn SV liệt kê những việc phải làm trong ngày và hiểu rõ sự cần thiết phải làm việc có kế hoạch. Bước 2: SV dự định và phân chia thời gian cho từng công việc sao cho khoa học, hợp lý. Bước 3: SV lập kế hoạch hành động với từng việc (Học bài cũ như thế nào? Tự kiểm tra mức độ nắm tri thức ra sao? Tự nghiên cứu bài mới như thế nào? ). Bước 4: Thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề ra Khi thực hiện kế hoạch đòi hỏi SV phải có tính kiên trì, nhẫn nại, khắc phục khó khăn và phải có ý chí vượt khó, phải có bản lĩnh vững vàng và nguyên tắc hoạt động tuân theo kế hoạch đã đề ra. Việc thực hiện kế hoạch đòi hỏi SV phải có tính linh hoạt và tính sáng tạo khi hoàn cảnh thay đổi, đồng thời cần có thời gian dự trữ để khắc phục khó khăn. Bước 5: Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch * Điều kiện để thực hiện quy trình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42
  45. - GV giảng dạy và cán bộ quản lý khoa cần giúp SV nắm được kế hoạch tổng thể chung của khoa. - Kế hoạch học tập bộ môn phải nằm trong kế hoạch tự học của SV. - SV phải lượng giá được khối lượng công việc trong học tập và thời gian tiến hành. - SV phải có tính tự giác, tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình thực hiện kế hoạch, đặc biệt là SV phải có ý chí vượt khó nhằm khắc phục khó khăn trong tự học. - SV phải có kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả việc thực hiện kế hoạch của mình. * Hình thành kỹ năng đọc sách cho SV * Vai trò của kỹ năng đọc sách Đọc sách có một vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của SV. Đọc sách được coi như là một bộ phận của quá trình học tập, nó luôn gắn liền với hoạt động dạy của GV. Kỹ năng đọc sách giúp cho SV nắm vững, hệ thống tri thức, mở rộng, đào sâu tri thức, làm tăng thêm sự hiểu biết của bản thân. Đọc sách giúp cho SV có thể phát triển nhận thức, phát triển trí tuệ, phát triển và trau dồi vốn ngôn ngữ * Quy trình đọc sách Bước 1: SV xác định mục đích yêu cầu, nhiệm vụ học tập do GV đề ra và ý nghĩa của việc hoàn thành các nhiệm vụ đó. Bước 2: Chọn sách và tài liệu phù hợp với sự hướng dẫn của GV. Sắp xếp sách và tài liệu theo thứ tự ưu tiên. Bước 3: Nghiên cứu kỹ tài liệu bắt buộc và các tài liệu khác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43
  46. Bước 4: Đọc, phân tích những nội dung cơ bản cần đọc, xác định kiến thức cơ bản của vấn đề, khái quát hoá, hệ thống hoá nội dung đã đọc Bước 5: Ghi chép những thông tin đã xác định, đã khái quát được Bước 6: Ghi nhớ những điều quan trọng và tái hiện lại bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Bước 7: Xác định khả năng ứng dụng của tri thức đã nghiên cứu vào thực tiễn giáo dục và dạy học. Bước 8: Vận dụng tri thức đã nghiên cứu để giải quyết các bài tập thực hành. * Điều kiện để thực hiện quy trình đọc sách của sinh viên - Đối với giảng viên Giúp SV xác định rõ mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của việc đọc sách. Giới thiệu cho SV những nội dung mà SV cần phải đọc, cần nắm vững, những tài liệu tham khảo cần tìm đọc. Giảng viên cần giúp SV phân loại tài liệu bắt buộc cần phải đọc và những tài liệu hỗ trợ khác để việc đọc sách của SV có sự tập trung, tránh dàn trải. GV có những chỉ dẫn cụ thể cho SV về cách đọc sách, ghi chép, xây dựng đề cương nghiên cứu, viết tóm tắt nội dung nghiên cứu và cách vận dụng tri thức tự nghiên cứu vào thực tiễn giáo dục và dạy học. GV cần có biện pháp kiểm tra việc đọc sách của SV và hướng dẫn họ cách tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả đọc sách của mình. - Đối với sinh viên + SV cần lập kế hoạch cho việc đọc sách + SV cần có nhận thức rõ về vai trò, ý nghĩa của việc đọc sách. + SV phải thực sự độc lập, tích cực, tự giác trong quá trình đọc sách. Và để đọc sách có hiệu quả SV phải hình thành cho mình hàng loạt kĩ năng đọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44
  47. sách: Kỹ năng chọn sách, xác định mục đích chọn sách, đọc nhanh, chậm, kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng, khái quát + SV phải biết tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả nghiên cứu của mình. * Về phía khoa - Tạo điều kiện về địa điểm cho SV để SV có thể đọc sách - Khoa cần phải có hệ thống thư viện với đầy đủ tiện nghi để phục vụ cho việc đọc sách của SV - Cung cấp đầy đủ sách và tài liệu giáo trình cho SV. * Hình thành kỹ năng nghiên cứu khoa học cho SV Nghiên cứu khoa học là hoạt động trí tuệ nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới, nó có ba chức năng: khám phá mọi bí mật hay bản chất của sự vật hiện tượng, phát hiện ra tính quy luật của sự vật hiện tượng, xây dựng nên các lý thuyết mới nhằm cải tạo thực trạng. Nghiên cứu khoa học là hoạt động tạo ra môi trường giúp SV thể hiện sự tự học ở mức độ cao của bản thân. Muốn nghiên cứu khoa học, SV phải có các kỹ năng: xác định vấn đề nghiên cứu, xây dựng đề cương nghiên cứu, kỹ năng đọc sách, kỹ năng giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, kỹ năng viết công trình nghiên cứu * Quy trình hình thành kỹ năng nghiên cứu khoa học Bước 1: Chọn đề tài nghiên cứu Bước 2: Tiến hành xây dựng đề cương nghiên cứu Bước 3: Tiến hành nghiên cứu khoa học - Nghiên cứu lí thuyết - Nghiên cứu thực tiễn - Xin ý kiến chuyên gia Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45
  48. - Xây dựng lý thuyết khoa học mới và đề xuất các biện pháp cải tạo thực trạng. Bước 4: Viết công trình nghiên cứu Công trình nghiên cứu phải được trình bày khoa học, lôgíc giữa các phần, khối lượng thông tin giữa các phần phải tương xứng với nhau. * Điều kiện để thực hiện quy trình - SV phải có năng lực làm việc độc lập với sách, phải có năng lực quan sát các hiện tượng giáo dục, dạy học. - Phương pháp giảng dạy cần đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực tự học, tự nghiên cứu của SV, phải bồi dưỡng năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề cho SV. - GV cần tăng cường việc đề ra các nhiệm vụ nhận thức cho SV: hoạt động tự học của SV được xác định bởi các bài tập mà GV giao cho. Chính việc đề ra các bài tập nhận thức sẽ giúp cho SV định hướng được nội dung tự nghiên cứu và sắp xếp thời gian tự nghiên cứu. Việc đề ra các nhiệm vụ nhận thức cho SV có ý nghĩa rất quan trọng, có tác dụng trong việc định hướng cho hoạt động tự học của SV. - GV phải là người có năng lực nghiên cứu khoa học và biết cách hướng dẫn SV cách thức tiến hành nghiên cứu khoa học. * Hình thành kĩ năng tự kiểm tra, tự đánh giá cho SV Kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá có vai trò rất quan trọng trong quá trình học tập ở đại học của SV, nó giúp SV tự điều chỉnh hoạt động học của mình để đi tới mục tiêu học tập đã đề ra. Kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá của SV không hình thành một cách tự phát mà nó được hình thành thông qua quá trình dạy học ở đại học: thông qua phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra, đánh giá của GV, thông qua các biện pháp tổ chức học phối hợp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46
  49. giữa GV và SV, thông qua quá trình thảo luận nhóm và thảo luận toàn lớp Kiểm tra, đánh giá là quá trình giúp SV xác định thực trạng học tập của mình, so sánh đối chiếu với yêu cầu của các nhiệm vụ học tập đề ra trên cơ sở đó tự điều khiển, tự điều chỉnh hoạt động học tập của mình nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tự học. Để tự kiểm tra, tự đánh giá, đòi hỏi SV phải có kỹ năng nhận thức, kỹ năng xác định các mục tiêu của bài học, kỹ năng tham gia thảo luận, tranh luận, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tái hiện nội dung tri thức đã học bằng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết * Quy trình hình thành kỹ năng tự kiểm tra Bước 1: SV xác định được mục tiêu bài học theo chỉ dẫn của GV Bước 2: SV tự nghiên cứu hoặc hợp tác với thầy, với bạn bè để hoàn thành các mục tiêu học tập Bước 3: SV trả lời các câu hỏi trắc nghiệm trong tài liệu hướng dẫn tự học bằng ngôn nói hoặc viết Bước 4: So sánh kết quả tự học với đáp án, nếu đúng SV có thể chuyển sang nghiên cứu nội dung khác, nếu sai SV quay lại nghiên cứu lại những nội dung chưa nắm vững hoặc có thể trao đổi thông tin với bạn, với thầy tìm ra cách trả lời đúng nhất. * Điều kiện để thực hiện quy trình - GV cần biên soạn tài liệu hướng dẫn tự học cho SV và hướng dẫn SV cách tự kiểm tra, tự đánh giá về mức độ hoàn thành hay chưa hoàn thành. - SV phải nắm vững các mục tiêu học tập cần hoàn thành và phải có ý thức hoàn thành các mục tiêu đó - SV phải có kỹ năng phân tích, đánh giá kết quả bài trắc nghiệm của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47
  50. 3.2.3. Tăng cƣờng tổ chức câu lạc bộ môn học nhằm rèn luyện nghiệp vụ sƣ phạm cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN Tổ chức câu lạc bộ theo môn học là một trong những hình thức tổ chức dạy học, đồng thời cũng là một trong những hình thức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV. Thông qua hình thức tổ chức câu lạc bộ theo môn học nhằm rèn luyện hệ thống kĩ năng tự học và kĩ năng sư phạm cho SV. Tổ chức câu lạc bộ theo môn học giúp SV nắm vững, hiểu sâu, nhớ lâu hơn những tri thức đã học, và qua đó giúp SV hình thành và phát triển năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ nói. Tổ chức câu lạc bộ theo môn học còn tạo ra môi trường học tập hợp tác giữa SV khá giỏi với SV trung bình hay yếu, giữa SV với GV. Câu lạc bộ tạo cơ hội cho SV xâm nhập thực tế giáo dục, dạy học ở trường phổ thông, giúp SV hình thành năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập và nghiên cứu của mình. Đồng thời giúp SV có thể đánh giá được mức độ nắm tri thức, rèn kỹ năng sư phạm của SV từ đó có những biện pháp tổ chức điều khiển quá trình dạy học và quá trình tự học, tự nghiên cứu của SV. 3.2.3.1. Những nguyên tắc tổ chức câu lạc bộ cho sinh viên Xuất phát từ quy luật nhận thức chung của loài người đi từ trực quan sinh động tới tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn đó là con đường nhận thức và chân lý. Xuất phát từ nguyên lý giáo dục của Đảng: Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội. Xuất phát từ quy luật hình thành hành vi và thói quen của con người là được hình thành theo cơ chế chuyển từ ngoài vào trong và được tiến hành thông qua hoạt động và bằng hoạt động. 3.2.3.2. Những yêu cầu cơ bản đối với việc tổ chức câu lạc bộ theo môn học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48
  51. Tên gọi câu lạc bộ theo môn học phải tạo được hứng thú học tập và nghiên cứu của SV, đồng thời phải kích thích được tính tích cực, độc lập, sáng tạo, sự say mê nghiên cứu học tập và rèn luyện NVSP của SV. Câu lạc bộ phải có chủ đề rõ ràng, chủ đề câu lạc bộ phải phù hợp với nội dung tri thức của môn học. Mục tiêu phải toàn diện, nội dung phong phú, hấp dẫn, thu hút được sự quan tâm chú ý của SV. SV cần có nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò và ý nghĩa của việc tham gia câu lạc bộ. SV có chuẩn bị trước về nội dung, đồng thời phải hiểu rõ mục tiêu hoạt động của câu lạc bộ. GV cần phải có trình độ chuyên môn sâu, rộng, phải có năng lực tổ chức, điều khiển các hoạt động tự học của SV. Câu lạc bộ có thể được tổ chức theo đơn vị lớp học, theo các lớp cùng khoá, có thể tổ chức theo từng chương hoặc từng phần của chương học 3.2.3.3. Quy trình tổ chức câu lạc bộ theo môn học Bước 1: Chuẩn bị - GV xác định chủ đề câu lạc bộ, đặt tên cho câu lạc bộ - Xác định mục tiêu của câu lạc bộ - Xác định những nội dung cơ bản của câu lạc bộ - Biên soạn hệ thống các câu hỏi theo chủ đề mục tiêu và nội dung tổ chức câu lạc bộ cho SV - GV trao câu hỏi cho SV để SV chuẩn bị trước Bước 2: Tỏ chức câu lạc bộ Câu lạc bộ cần được tổ chức dưới hình thức thi tìm hiểu giữa các tổ, các nhóm hoặc giữa các lớp nhằm tạo môi trường hợp tác và cạnh tranh lẫn nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49
  52. Mở đầu buổi tổ chức câu lạc bộ GV với tư cách là trọng tài khoa học nhắc lại chủ đề, mục tiêu, nội dung thảo luận, khuyến khích động viên tinh thần ý thức tham gia của các đội. Nội dung tổ chức câu lạc bộ gồm có ba phần: - Phần thi hiểu biết - Phần thi ứng xử - Phần thi diễn thuyết về một vấn đề nào đó xoay quanh vấn đề đã học. Bước 3: GV tổng kết nhận xét đánh giá cho điểm tổng hợp Nhận xét tinh thần ý thức thái độ tham gia của SV và ý nghĩa thực tiễn của việc tổ chức câu lạc bộ. Trao phần thưởng cho từng nhóm, từng đội. 3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp tổ chức hoạt động tự học Tự học của SV là quá trình SV tự giác, chủ động, tích cực tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin, xác nhận thông tin và vận dụng thông tin trong các tình huống giáo dục, dạy học khác nhau. Quá trình tiếp nhận thông tin của SV được tiến hành ở cả ba hình thức tự học: ở trên lớp, ở nhà, trong hoạt động ngoại khoá. Trong các nguồn thông tin thì nguồn thông tin từ phía giáo viên có một ý nghĩa vô cùng quan trọng và nó được diễn ra chủ yếu ở trên lớp nhưng lại có vai trò định hướng chỉ đạo cho cả ba hình thức tự học ở trên lớp, ở nhà và trong hoạt động ngoại khoá. Chính điều này đã làm cho các biện pháp tổ chức hoạt động tự học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau. Ở giai đoạn xử lý thông tin, SV phải căn cứ vào những định hướng, những chỉ dẫn của GV để lựa chọn, phân tích, tổng hợp các nguồn thông tin, khái quát hoá, hệ thống hoá thành những khái niệm, định luật, đặc điểm, nguyên tắc, phương pháp Ở nhà SV phải tiến hành xây dựng đề cương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50
  53. nghiên cứu, tóm tắt nội dung tự nghiên cứu, tự đặt vấn đề và tự giải quyết vấn đề. Ở trên lớp SV phân tích, tổng hợp những thông tin do GV cung cấp, tự nêu vấn đề với bài giảng của GV, tự giải quyết vấn đề trong tham gia thảo luận nhóm, thảo luận toàn lớp. Như vậy, thay đổi hoạt động trên lớp, tổ chức tốt hoạt động tự học ở nhà cho SV là cơ sở để tiến hành tham gia có hiệu quả câu lạc bộ theo môn học. Ngược lại chính việc tham gia có hiệu quả câu lạc bộ sẽ giúp SV nắm vững tri thức của môn học, hình thành được thái độ tích cực đối với việc nắm tri thức ở trên lớp và ở nhà. Như vậy biện pháp thứ ba vừa là kết quả của việc thực hiện tốt nhóm biện pháp một và hai thực hiện tốt hơn. Từ mối quan hệ này chúng tôi có thể hiểu tổ chức hoạt động tự học cho SV là quá trình thiết kế các biện pháp tổ chức hành động, sắp xếp việc thực hiện các biện pháp đó, để SV biết cách tự tổ chức thu nhận thông tin từ nhiều kênh khác nhau và biết xử lý thông tin, xác nhận thông tin, vận dụng thông tin vào giải quyết các tình huống có vấn đề trong quá trình học tập. 3.4. Điều kiện để thực hiện có hiệu quả các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ. Để tổ chức có hiệu quả quá trình tự học cho SV đòi hỏi GV phải có trình độ chuyên môn sâu, có năng lực thiết kế, tổ chức và hướng dẫn SV tự tổ chức hoạt động tự học: - Tổ chức bài học theo tình huống có vấn đề - Tổ chức SV làm việc theo nhóm và toàn lớp - Tổ chức SV thu nhận thông tin - Tổ chức SV tự kiểm tra, tự đánh giá thông tin - Tổ chức SV vận dụng thông tin Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51
  54. - SV phải nhận thức đúng về vai trò, ý nghĩa của việc học tập bộ môn và tự giác, tích cực, chủ động trong học tập bộ môn đồng thời phải trang bị cho mình một hệ thống kỹ năng tự học, có động cơ, ý chí vượt khó trong quá trình tự học Kết luận chƣơng 3 Tổ chức hoạt động tự học là một loại hình thức tổ chức dạy học hướng vào người học. Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho SV là quá trình GV thiết kế, sắp xếp cách thức, quy trình, các biện pháp dạy học, nhằm sử dụng hoặc phối hợp các yếu tố, nguồn lực trong quá trình tự học của SV nhằm hình thành và phát triển hành động học tập ở SV, làm cho họ trở thành chủ thể tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tự học Các biện pháp để tổ chức hoạt động tự học cho SV phải có sự thống nhất với nhau, hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau, không thể tách rời nhau Điều kiện để tổ chức có hiệu quả hoạt động tự học cho SV là SV phải có động cơ, thái độ học tập đúng đắn, phải hình thành được hệ thống kỹ năng tự học, phải có thời gian và các phương tiện hỗ trợ hoạt động tự học. Giảng viên phải có nhận thức đầy đủ về vai trò của hoạt động tự học của SV, GV phải thay đổi hoạt động dạy học trên lớp theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của người học, bằng nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau: Nêu vấn đề, tạo môi trường học tập, tổ chức SV làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận, giải các bài tập thực hành, tổ chức câu lạc bộ theo môn học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52
  55. Chƣơng 4: THỰC NGHIỆM CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC MÔN TÂM LÝ HỌC CHO SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN 4.1. Những vấn đề chung về thực nghiệm. 4.1.1. Mục đích thực nghiệm Thực nghiệm sư phạm được tiến hành nhằm mục đích thẩm định về hiệu quả và tính khả thi của các biện tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lý học ở trên lớp, ở nhà cho SV khoa Ngoại ngữ - ĐHTN. Khẳng định ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của các biện pháp đó. 4.1.2. Cơ sở và đối tượng thực nghiệm * Cơ sở thực nghiệm: Cơ sở thực nghiệm được chúng tôi lựa chọn đảm bảo tính đại diện cho các loại hình trường sư phạm. * Đại diện cho các chuyên ngành đào tạo. Cụ thể chúng tôi lựa chọn 118 SV khoá 1 khoa Ngoại ngữ - ĐHTN (Giảng viên giảng dạy các lớp thực nghiệm là những giảng viên trẻ, có trình độ chuyên môn, có năng lực giảng dạy). 4.1.3. Phương pháp thực nghiệm Thực nghiệm sư phạm được tiến hành trong năm học 2008 - 2009 với SV khoa Ngoại ngữ - ĐHTN. Chúng tôi tiến hành thực nghiệm theo hình thức thực nghiệm song song, trong đó tương ứng với phương án thực nghiệm (các bài thực nghiệm) có phương án đối chứng (các bài học theo phương pháp bình thường). Chúng tôi chia làm hai khối lớp, lớp thực nghiệm học theo phương án thực nghiệm, lớp đối chứng giảng viên giảng dạy theo phương pháp thông thường. Kết thúc mỗi bài thực nghiệm, chúng tôi tổ chức kiểm tra ở cả hai nhóm thực nghiệm và đối chứng với cùng một đề, trong cùng một thời gian. Kết quả các bài kiểm tra được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53
  56. phân tích và xử lý bằng phương pháp thống kê toán học. Sau mỗi giai đoạn thực nghiệm chúng tôi có tổ chức lấy ý kiến đóng góp của sinh viên và giảng viên để rút kinh nghiệm. Một tháng sau khi thực nghiệm chúng tôi tiến hành kiểm tra lần hai, để khẳng định độ tin cậy của các giá trị thực nghiệm. 4.1.4. Nội dung thực nghiệm Đối với nhóm thực nghiệm, chúng tôi tiến hành giảng dạy phần tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm trong chương trình dạy học môn Tâm lý học bằng nhóm các biện pháp tổ chức hoạt động tự học ở trên lớp, nhóm các biện pháp tổ chức hoạt động tự học ở nhà nhằm tích cực hoá hoạt động tự học môn Tâm lý học của SV. Còn lại với nhóm đối chứng, chúng tôi tiến hành giảng dạy theo cách thông thường. Sau mỗi lần thực nghiệm chúng tôi đều tiến hành kiểm tra ở cả hai nhóm thực nghiệm và đối chứng, đề kiểm tra được xây dựng dựa theo mục tiêu và nội dung cơ bản của chương trình môn học và chung cho cả hai nhóm. Các nội dung cơ bản của thực nghiệm đã được trình bày rõ ở phần phụ lục. 4.1.5. Quy trình thực nghiệm Giai đoạn 1: Chuẩn bị thực nghiệm Bước 1: Biên soạn các phiếu học tập hướng dẫn tự học nhằm hình thành các kỹ năng tự học cho SV. Bước 2: Soạn giáo án thực nghiệm Bước 3: Lựa chọn lớp đối chứng và lớp thực nghiệm Giai đoạn 2: Triển khai thực nghiệm Bước 1: Kiểm tra sự chuẩn bị cho quá trình thực nghiệm Bước 2: Tiến hành thực nghiệm Bước 3: Kiểm tra đánh giá kết quả thực nghiệm ở cả hai lần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54
  57. - Kiểm tra đầu ra được tiến hành ngay sau thực nghiệm, nhằm xác định kết quả học tập của SV ở cả hai nhóm thực nghiệm và đối chứng. - Kiểm tra tính vững chắc của tri thức được tiến hành sau khi kết thúc học phần. Giai đoạn 3: Xử lý kết quả thực nghiệm Bước 1: Xây dựng chuẩn và thang đánh giá (Chúng tôi căn cứ vào mức độ lĩnh hội tri thức và kĩ năng của sinh viên để xây dựng thang đánh giá) * Các trình độ tri thức - Mức độ tái hiện: thông báo lại toàn bộ nội dung tri thức đã học theo trí nhớ. - Mức độ biết và hiểu: nhận biết, phân biệt, có khả năng khái quát. - Mức độ vận dụng: Vận dụng tri thức lí luận vào giải quyết các vấn đề về tâm lý học, đồng thời vận dụng lí luận vào giải quyết các bài tập thực hành trong những tình huống quen thuộc. - Mức độ sáng tạo: Vận dụng tri thức vào giải quyết các vấn đề lý luận có tính chất phức tạp, đòi hỏi người học phải có khả năng trừu tượng hoá, khái quát hoá đồng thời phải linh hoạt, sáng tạo trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ nhận thức hoặc giải quyết các bài tập thực hành tâm lý học trong tình huống mới lạ. * Các mức độ kỹ năng: - Mức độ kỹ năng trình bày bài kiểm tra một cách lôgíc khoa học. - Mức độ kỹ năng biết vận dụng lí thuyết để lý giải, đánh giá các quan điểm tâm lý học và các tình huống dạy học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55
  58. - Mức độ kỹ năng biết vận dụng tri thức để xác định đúng đắn cơ sở khoa học của vấn đề trình bày và biết xác định cách thức tác động sư phạm, xác định các tình huống dạy học. - Mức độ kỹ năng vận dụng tri thức để giải quyết các bài tập nhận thức và các bài tập tình huống hoàn toàn độc lập theo suy nghĩ của cá nhân, có cơ sở khoa học, có lập luận chặt chẽ, lô gíc, có tính sáng tạo trong cách giải quyết vấn đề. Bước 2: Xử lý kết quả thực nghiệm 4.2. Phân tích kết quả thực nghiệm 4.2.1. Phân tích kết quả trước khi thực nghiệm Trước khi tiến hành tác động sư phạm theo mục đích thực nghiệm, chúng tôi tiến hành khảo sát trình độ ban đầu của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng thông qua tiến hành bài kiểm tra. Trong bài kiểm tra đó, sinh viên phải thể hiện được những yêu cầu cơ bản của môn học cả về tri thức và kỹ năng. Sau khi xử lý kết quả bài làm kiểm tra của SV, chúng tôi thấy trình độ ban đầu của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng là tương đương nhau, chúng tôi tiến hành triển khai kế hoạch thực nghiệm. 4.2.2. Phân tích kết quả sau khi tác động sư phạm * Đối với nhóm thực nghiệm, chúng tôi tiến hành các công việc cụ thể sau: - Phát phiếu hướng dẫn tự học ở nhà nhằm rèn luyện các kỹ năng tự học cho SV, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tự học ở nhà của SV, hướng dẫn để SV tự phản hồi kết quả tự học. - Tạo môi trường học tập trên lớp - Tổ chức SV làm việc theo nhóm kết hợp với tổ chức thảo luận chung trong toàn lớp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56
  59. - GV hệ thống hoá, khái quát hoá toàn bộ nội dung tri thức của bài học - GV thu phiếu học tập của SV - Tiến hành thông tin phản hồi nhanh bằng trắc nghiệm sau bài học chương học. * Nhóm đối chứng chúng tôi giảng dạy một cách thông thường Sau khi tác động sư phạm chúng tôi thu được kết quả như ở bảng sau: 4.2.2.1. Kết quả thực nghiệm lần 1: Bảng 4.1: Kết quả thực nghiệm lần một về tri thức Điểm 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Khối lớp 2 4 6 8 15 20 3 1 TN 3,3% 6,8% 10,1% 13,6% 25,4% 32,9% 5,1% 2,8% 6 13 15 3 7 12 2 1 ĐC 10,1% 22% 25,4% 5,1% 10,9% 20,3% 3,3% 2,8% Qua phân tích kết quả thực nghiệm lần 1 chúng tôi thấy tỷ lệ % số SV đạt điểm khá giỏi của lớp thực nghiệm (66,2%) cao hơn so với nhóm đối chứng (26,5%) là 39,7%. Tỷ lệ % số sinh viên đạt loại khá của nhóm thực nghiệm (25,4%) cao hơn so với nhóm đối chứng (20,3%) là 5,1%. Ngược lại, tỷ lệ % sinh viên đạt điểm trung bình của nhóm đối chứng (41,4%) cao hơn nhóm thực nghiệm (30,5%) là 10,9%. Đặc biệt số sinh viên đạt điểm yếu kém ở nhóm đối chứng còn chiếm tỷ lệ cao với 32,1% trong khi đó, ở nhóm thực nghiệm số sinh viên này chỉ còn có 3,3%. * Kết quả thực nghiệm lần 1 về kỹ năng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57
  60. Kết quả thu được từ bảng 4.2 cho chúng tôi nhận xét: Kết quả sinh viên đạt điểm kỹ năng ở nhóm thực nghiệm đạt loại giỏi chiếm tỷ lệ (31,5%) cao hơn nhóm đối chứng (5,6%) là 25,9% . Số sinh viên đạt loại khá về kỹ năng ở nhóm thực nghiệm (32,9%) cao hơn nhóm đối chứng (6,8%) là 26,1%. Bảng 4.2: Kết quả thực nghiệm lần 1 về kỹ năng Điểm 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Khối lớp % % % % % % % % % % 2 4 10 5 20 15 2 1 TN 3,3 6,8 16,9 8,4 32,9 25,4 3,3 2,8 2 4 10 19 8 10 4 1 1 ĐC 3,3 6,8 16,9 32,2 13,6 16,9 6,8 2,8 2,8 Số sinh viên đạt loại trung bình ở nhóm thực nghiệm (32,1%) thấp hơn nhóm đối chứng (62,7) là 30,6%. Đặc biệt tỷ lệ sinh viên đạt kỹ năng loại yếu ở nhóm thực nghiệm (3,3%) ít hơn nhóm đối chứng (27%) là 23,7%. Từ cách phân tích số liệu trên chúng tôi có thể kết luận phương án thực nghiệm có ưu thế hơn phương án cũ. Kết quả thu được ở bảng (4.3) chứng tỏ rằng điểm trung bình của nhóm thực nghiệm biểu hiện ở kết quả nắm tri thức và kết quả nắm kỹ năng đều cao hơn nhóm đối chứng, điều đó chứng tỏ phương án thực nghiệm tốt hơn phương án cũ. Bảng 4.3: Bảng phân phối kết quả thực nghiệm lần 1 Điểm Yếu % TB % Khá % Giỏi % Nhóm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58
  61. TT 3,3 30,5 25,4 66,2 TN KN 3,3 32,1 32,9 31,5 TT 32,1 41,4 20,3 26,5 ĐC KN 27 62,7 6,8 5,6 4.2.2.2. Kết quả thực nghiệm lần 2: Bảng 4.4: Kết quả thực nghiệm lần 2 về tri thức. Điểm% 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Khối lớp 1 3 2 6 18 25 3 1 TN 2,8 5,1 3,3 10,1 30,5 40,3 5,1 2,8 4 12 14 5 7 13 3 1 ĐC 6,8 20,3 23,7 8,7 10,9 21,7 5,1 2,8 Qua kết quả thực nghiệm ở bảng 4.4 chúng tôi có nhận xét như sau: Tỷ lệ sinh viên đạt loại giỏi của lớp thực nghiệm là (48,2%) cao hơn lớp đối chứng (7,9%) là 40,3%. Tỷ lệ sinh viên đạt điểm khá lớp thực nghiệm (30,5%) cao hơn lớp đối chứng (21,7%%) là 8,8%. Ngược lại, tỷ lệ sinh viên đạt điểm trung bình ở lớp thực nghiệm (18,5%) thấp hơn so với lớp đối chứng (43,3%) là 24,8%. Đặc biệt tỷ lệ sinh viên yếu kém ở lớp thực nghiệm chỉ còn có 2,8%, trong khi đó ở lớp đối chứng là 27,1%. * Kết quả thực nghiệm lần 2 về kỹ năng. Bảng 4.5: Kết quả thực nghiệm lần 2 về kỹ năng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59
  62. Điểm % 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Khối lớp 2 4 5 8 20 17 2 1 TN 3,3 6,8 8,4 13,6 32,9 28,9 3,3 2,8 3 5 8 14 11 7 9 1 1 ĐC 5,1 8,4 13,6 23,7 18,6 10,9 14,1 2,8 2,8 Qua kết quả thu được ở bảng trên chúng tôi có nhận xét như sau: Số sinh viên đạt điểm kỹ năng loại giỏi ở nhóm thực nghiệm lần 2 (35%) cao hơn nhóm đối chứng (5,6%) là 29,4%. Số sinh viên đạt điểm kỹ năng loại khá ở nhóm thực nghiệm lần 2 (32,9%) cao hơn nhóm đối chứng (14,9%) là 18%. Số sinh viên đạt loại trung bình về kỹ năng ở nhóm thực nghiệm (28,8%) thấp hơn nhóm đối chứng (53,2%) là 24,4%. Số sinh viên đạt loại yếu về kỹ năng ở nhóm thực nghiệm (3,3%) thấp hơn nhóm đối chứng (27,1%) là 23,8%. Qua phân tích kết quả thực nghiệm trên, chúng tôi có thể kết luận rằng phương án thực nghiệm có kết quả tốt hơn phương án cũ, kết quả thực nghiệm lần hai cao hơn kết quả thực nghiệm lần một. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60
  63. 4.2.2.3. Kết quả sau thực nghiệm một tháng. Bảng 4.6: Kết quả sau thực nghiệm lần 1 một tháng Điểm % 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Nhóm % % % % % % % % % % TT 4 2 3 15 28 4 3 6,8 3,3 5,1 25,4 47,5 6,8 5,1 TN KN 5 4 7 21 18 3 1 8,4 6,8 10,9 35,6 30,4 5,1 2,8 TT 5 10 12 4 3 19 5 1 8,4 16,9 20,3 6,8 5,1 32,2 8,4 2,8 ĐC KN 2 3 7 15 9 12 7 3 1 3,3 5,1 10,9 25,5 14,3 20,4 10,9 5,1 2,8 Bảng 4.7: Bảng phân phối kết quả sau thực nghiệm lần 1 một tháng Điểm % Yếu TB Khá Giỏi Nhóm TT 15,2% 25,4% 59,4% TN KN 26,1% 35,6% 38,3% TT 25,3% 32,2% 32,2% 11,2% ĐC KN 19,3% 60,2% 10,9% 7,9% Qua phân tích kết quả bảng 4.7, chúng tôi nhận thấy sau một tháng thực nghiệm lần 1 tỷ lệ sinh viên đạt điểm tri thức giỏi ở nhóm TN (59,4%) cao hơn nhóm ĐC (11,2%) là 48,2%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61
  64. Tỷ lệ sinh viên đạt điểm tri thức khá ở lớp thực nghiệm (25,4%) thấp hơn nhóm đối chứng (35,6%) là 10,2%. Tỷ lệ sinh viên đạt điểm tri thức trung bình nhóm TN (15,2%) thấp hơn nhóm đối chứng (32,2%) là 17%. Đặc biệt tỷ lệ sinh viên đạt điểm tri thức loại yếu của nhóm thực nghiệm chỉ là 0% trong khi đó nhóm ĐC là 25,3%. * Về kỹ năng, Tỷ lệ sv đạt điểm giỏi và điểm khá ở nhóm TN cao hơn nhóm ĐC và tỷ lệ SV đạt điểm TB và yếu của nhóm TN đều thấp hơn nhóm ĐC. Qua phân tích kết quả trên, chúng tôi thấy kết quả thực nghiệm có kết quả cao hơn kết quả của nhóm đối chứng và có tính vững chắc. * Kết quả sau thực nghiệm lần 2 một tháng. Bảng 4.8: Kết quả về nắm tri thức và kỹ năng của SV sau thực nghiệm lần 2 một tháng Điểm % 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Nhóm % % % % % % % % % % TN TT 3 2 2 17 28 5 2 5,1 3,3 3,3 28,8 47,5 8,4 3,3 KN 4 4 5 24 18 3 1 6,8 6,8 8,4 39,7 30,4 5,1 2,8 ĐC TT 4 10 12 5 3 19 5 1 6,8 16,9 20,3 8,4 5,1 32,2 8,4 2,8 KN 2 2 6 15 9 12 9 3 1 3,3 3,3 10,1 25,4 14,3 20,4 14,3 5,1 2,8 Bảng 4.9: Bảng phân phối kết quả sau thực nghiệm lần 2 một tháng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62
  65. Điểm % Trung Yếu Khá Giỏi Nhóm bình TT 11,7 28,8 59,2 TN KN 22 39,7 38,3 TT 23,7 33,8 32,2 11,2 ĐC KN 16.7 60,1 14,3 7,9 Qua kết quả thu được ở bảng 4.8 và 4.9 chúng tôi có nhận xét như sau: * Về kết quả nắm tri thức của SV sau thực nghiệm lần 2 một tháng: - Tỷ lệ SV đạt loại giỏi của nhóm TN (59,2%) cao hơn nhóm ĐC (11,2%) là 48%. - Tỷ lệ SV đạt loại khá của nhóm TN (28,8%) thấp hơn nhóm ĐC (32,2%) là 3,4%. - Tỷ lệ SV đạt kết quả trung bình của nhóm TN (11,7%) thấp hơn nhóm ĐC (33,8%) là 22,1%. - Tỷ lệ SV đạt kết quả yếu của nhóm TN là 0% trong khi đó nhóm đối chứng là 23,7. Qua phân tích kết quả chúng tôi có thể kết luận phương án thực nghiệm giúp SV nắm vững tri thức hơn phương án cũ. * Kết quả nắm kỹ năng của SV sau thực nghiệm lần 2 một tháng. Qua kết quả ở bảng 4.9 chúng tôi thấy kết quả như sau: Tỷ lệ SV đạt kết quả loại giỏi và khá của nhóm thực nghiệm đều cao hơn nhóm đối chứng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63
  66. Ngược lại tỷ lệ SV đạt loại trung bình và loại yếu ở nhóm TN lại thấp hơn so với nhóm ĐC. 4.2.3. Phân tích kết quả bài kiểm tra của sinh viên. Phân tích bài làm của SV nhóm TN và ĐC chúng tôi có nhận xét sau: Tri thức được trình bày trong bài kiểm tra của SV lớp thực nghiệm có tính đầy đủ hơn, ít sai sót, không nhầm lẫn, cách trình bày rõ ràng, mạch lạc. Các vấn đề trình bày của SV lớp thực nghiệm được xem xét dưới các góc độ khác nhau và có lập luận khoa học chặt chẽ, việc giải quyết các vấn đề trong bài kiểm tra được tiến hành linh hoạt không lệ thuộc vào nội dung bài giảng của thầy. Khả năng tổng hợp, khái quát hoá của SV lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng. 4.3. Đánh giá và nhận xét của cán bộ giảng dạy theo phƣơng án thực nghiệm Cán bộ giảng dạy theo phương án thực nghiệm đều nhận xét: Tổ chức giảng dạy và học tập theo phương án mới có tác dụng phát huy được tính tích cực, tính chủ động của SV trong quá trình học tập, tạo môi trường học tập hợp tác, làm việc khẩn trương giữa thầy và trò. Thông qua các biện pháp tổ chức giảng dạy mới, SV biết cách học, biết cách khai thác tri thức từ các tài liệu học tập và giáo trình. Với phương án học mới có tác dụng hình thành được kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá cho SV. Với phương pháp học mới SV nắm được bài tốt hơn. Tuy nhiên với phương pháp giảng dạy mới người thầy phải làm việc vất vả hơn đặc biệt là khâu biên soạn các tài liệu hướng dẫn tự học cho sinh viên và khâu dẫn dắt tổ chức thảo luận, khâu xây dựng các phiếu kiểm tra đánh giá nhằm thông tin phản hồi nhanh cho sinh viên. Giảng dạy theo phương án mới đòi hỏi người thầy phải có trình độ chuyên môn sâu, phải có năng lực tổ chức, điều khiển và thiết kế bài học nhằm tạo ra một môi trường học tập tốt đối với sinh viên, đồng thời phát huy được tính năng động sáng tạo trong hoạt động giảng dạy của GV. Tuy nhiên với phương án giảng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64