Luận án Thực trạng môi trường, sức khỏe, bệnh tật ở công nhân may Thái Nguyên và hiệu quả một số giải pháp can thiệp
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Thực trạng môi trường, sức khỏe, bệnh tật ở công nhân may Thái Nguyên và hiệu quả một số giải pháp can thiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
luan_an_thuc_trang_moi_truong_suc_khoe_benh_tat_o_cong_nhan.pdf
Nội dung text: Luận án Thực trạng môi trường, sức khỏe, bệnh tật ở công nhân may Thái Nguyên và hiệu quả một số giải pháp can thiệp
- i BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HOÀNG THỊ THÚY HÀ THỰC TRẠNG MÔI TRƢỜNG, SỨC KHỎE, BỆNH TẬT Ở CÔNG NHÂN MAY THÁI NGUYÊN VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CAN THIỆP Chuyên ngành: Vệ sinh Xã hội học và Tổ chức Y tế Mã số: 62.72.01.64 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN SƠN 2. GS.TS. ĐỖ VĂN HÀM THÁI NGUYÊN, NĂM 2015
- ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 08 năm 2015 Hoàng Thị Thúy Hà
- iii LỜI CẢM ƠN Để có được những kết quả như ngày hôm nay, tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, các Phòng, Bộ môn và các thầy giáo, cô giáo, cán bộ Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên đã trang bị cho tôi kiến thức, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS. Nguyễn Văn Sơn - Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược, Đại học Thái Nguyên; GS.TS. Đỗ Văn Hàm - Chủ tịch Hội Y học lao động tỉnh Thái Nguyên, là những người thầy đã dành nhiều thời gian hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và định hướng cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận án. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm, các nhà khoa học, các cán bộ và nhân viên Khoa Y tế công cộng, các thầy thuốc Bệnh viện Đa khoa TW Thái Nguyên, Hội Y học lao động Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu đề tài Luận án. Tôi xin trân trọng cảm ơn Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thái Nguyên, Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tỉnh Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện để tôi tham gia chương trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Ban lãnh đạo công đoàn và các Ban ngành, đơn vị thuộc các Công ty, xí nghiệp may TNG, TĐT, Chiến Thắng tại Thái Nguyên đã nhiệt tình hợp tác, giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu hoàn thành Luận án, tôi đã nhận được sự động viên, chia sẻ, giúp đỡ của gia đình, anh em, bạn bè, đồng nghiệp, những người thân. Tôi xin phép được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc. Xin trân trọng cảm ơn. Thái Nguyên, tháng 08 năm 2015 Hoàng Thị Thúy Hà
- iv NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ đầy đủ ATVSLĐ An toàn vệ sinh lao động BHLĐ Bảo hộ lao động BPB Bụi phổi bông BNN Bệnh nghề nghiệp BYT Bộ Y tế CBCNV Cán bộ công nhân viên CN Công nhân CNHH Chức năng hô hấp CS Cộng sự CSSK Chăm sóc sức khỏe CSSKND Chăm sóc sức khỏe nhân dân HQCT Hiệu quả can thiệp ILO International Labor Organization (Tổ chức lao động Quốc tế) KAP Knowledge-Attitude- Practice (KiÕn thøc, th¸i ®é, thùc hµnh) KHKT Khoa học kỹ thuật KHMT & PTBV Khoa học Môi trường và Phát triển bền vững MTLĐ Môi trường lao động NC Nghiên cứu NLĐ Người lao động RHM Răng hàm mặt SCT Sau can thiệp SGCNHH Suy giảm chức năng hô hấp SL Số lượng SNC Sau nghiên cứu STT Số thứ tự SS So sánh TCCP Tiêu chuẩn cho phép
- v TCT Trước can thiệp TCVSCP Tiêu chuẩn vệ sinh cho phép TMH Tai mũi họng TNG Thai Nguyen Garment/Công ty may Thái Nguyên TNLĐ Tai nạn lao động TP Thành phố TX Tiếp xúc TW Trung ương WHO World Health Organization/Tổ chức Y tế Thế giới
- vi MỤC LỤC STT Nội dung Trang LỜI CAM ĐOAN ii LỜI CẢM ƠN iii NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT iv MỤC LỤC vi DANH MỤC BẢNG viii DANH MỤC BIỂU ĐỒ x DANH MỤC HỘP xi ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN 3 1.1 Môi trường, sức khỏe và bệnh tật ở người lao động 3 1.2 Công nghiệp dệt may và môi trường, sức khỏe, bệnh tật ở người lao động 10 1.3 Yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật ở người lao động 20 1.4 Nghiên cứu can thiệp nhằm giảm thiểu tác hại, bảo vệ và tăng cường 24 sức khỏe và phòng chống tai nạn, bệnh nghề nghiệp 1.5. Các công ty may tại Thái Nguyên và một số đặc thù liên quan đến 28 ATVSLĐ và CSSK công nhân Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30 2.1 Đối tượng nghiên cứu 30 2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu 31 2.3 Phương pháp nghiên cứu 32 2.4 Nội dung và các nhóm chỉ số nghiên cứu 43 2.5 Phương pháp thu thập và xử lý số liệu 45 2.6 Phương pháp khống chế sai số 47 2.7 Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 48 Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 49 3.1 Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 49
- vii 3.2 Thực trạng môi trường lao động, Kiến thức, Thái độ, Thực hành về 51 ATVSLĐ của công nhân may 3.3 Thực trạng sức khỏe, bệnh tật và các yếu tố liên quan của công nhân 60 may Thái Nguyên 3.4 Hiệu quả của một số giải pháp can thiệp đảm bảo ATVSLĐ và chăm 69 sóc sức khỏe công nhân may Thái Nguyên Chƣơng 4. BÀN LUẬN 78 4.1 Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 78 4.2 Thực trạng môi trường, sức khỏe, bệnh tật của công nhân may tại 79 Thái Nguyên 4.3 Một số yếu tố liên quan đến sức khỏe và bệnh tật của công nhân may 89 4.4 Hiệu quả của các giải pháp can thiệp đảm bảo ATVSLĐ và giảm 92 thiểu bệnh hô hấp trong công nhân may Thái Nguyên KẾT LUẬN 98 KHUYẾN NGHỊ 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO 101 PHỤ LỤC
- viii DANH MỤC BẢNG STT Nội dung Trang Bảng 3.1. Đặc điểm về giới tính của đối tượng nghiên cứu 49 Bảng 3.2. Đặc điểm tuổi đời của đối tượng nghiên cứu 49 Bảng 3.3. Đặc điểm tuổi nghề của đối tượng nghiên cứu 50 Bảng 3.4. Trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu 50 Bảng 3.5. Chỉ số nhiệt độ môi trường lao động 51 Bảng 3.6. Nhiệt độ môi trường lao động không đạt TCCP 51 Bảng 3.7. Độ ẩm môi trường lao động không đạt TCCP 52 Bảng 3.8. Tốc độ gió môi trường lao động không đạt TCCP 52 Bảng 3.9. Chỉ số nhiệt độ hiệu dụng không đạt TCCP 53 Bảng 3.10. Ánh sáng môi trường lao động không đạt TCCP 53 Bảng 3.11. Tiếng ồn môi trường lao động không đạt TCCP 54 Bảng 3.12. Bụi môi trường lao động không đạt TCCP 54 Bảng 3.13. Tập huấn về ATVSLĐ của công nhân 56 Bảng 3.14. Phân loại sức khỏe công nhân 60 Bảng 3.15. Tỷ lệ một số bệnh thường gặp trong công nhân 61 Bảng 3.16. Cơ cấu các bệnh ở mũi trong công nhân may 62 Bảng 3.17. Cơ cấu các bệnh ở họng trong công nhân may 62 Bảng 3.18. Tỷ lệ bệnh viêm mũi dị ứng theo tuổi nghề 63 Bảng 3.19. Tỷ lệ các bệnh phế quản, phổi theo tuổi nghề (Năm) 63 Bảng 3.20. Thông khí phổi của công nhân may theo tuổi đời 64 Bảng 3.21. Tỷ lệ có biểu hiện SGCNHH trong công nhân may 60 Bảng 3.22. Phân loại SGCNHH trong công nhân may 65 Bảng 3.23. Tỷ lệ SGCNHH theo tuổi đời 65 Bảng 2.24. Tỷ lệ có SGCNHH theo tuổi nghề 65 Bảng 3.25. Mối liên quan giữa SGCNHH và thực hành đảm bảo ATVSLĐ 65
- ix Bảng 3.26. Mối liên quan giữa sử dụng khẩu trang hợp cách với các bệnh 66 viêm mũi họng Bảng 3.27. Mối liên quan giữa sử dụng khẩu trang hợp cách với các bệnh 66 phế quản, phổi Bảng 3.28. Mối liên quan giữa thực hành đảm bảo ATVSLĐ với tỷ lệ các 66 bệnh viêm mũi họng Bảng 3.29. Mối liên quan giữa thực hành đảm bảo ATVSLĐ với tỷ lệ các 67 bệnh phế quản, phổi Bảng 3.30. Mối liên quan giữa ô nhiễm bụi MTLĐ với tỷ lệ các bệnh viêm 67 mũi họng Bảng 3.31. Mối liên quan giữa ô nhiễm bụi MTLĐ với tỷ lệ các bệnh phế 67 quản, phổi Bảng 3.32. Hoạt động truyền thông về ATVSLĐ (TT) 69 Bảng 3.33. Hoạt động giám sát hệ thống ATVSLĐ 69 Bảng 3.34. Hiệu quả can thiệp đối với bệnh viêm mũi cấp tính 73 Bảng 3.35. Hiệu quả can thiệp đối với tỷ lệ mắc mới bệnh viêm mũi cấp tính 74 Bảng 3.36. Hiệu quả can thiệp đối với bệnh viêm phế quản 75 Bảng 3.37. Hiệu quả giảm số đợt cấp bệnh viêm phế quản mạn tính 75 Bảng 3.38. Hiệu quả can thiệp đối với bệnh bụi phổi bông 76
- x DANH MỤC BIỂU ĐỒ STT Nội dung Trang Biểu đồ 3.1. Kiến thức về ATVSLĐ của công nhân 57 Biểu đồ 3.2. Thái độ về đảm bảo ATVSLĐ của công nhân 59 Biểu đồ 3.3. Thực hành đảm bảo ATVSLĐ của công nhân 60 Biểu đồ 3.4. Kiến thức về ATVSLĐ sau nghiên cứu, can thiệp 71 Biểu đồ 3.5. Thái độ đảm bảo ATVSLĐ sau nghiên cứu, can thiệp 71 Biểu đồ 3.6. Thực hành đảm bảo ATVSLĐ sau nghiên cứu, can thiệp 75 Biểu đồ 3.7. Hiệu quả đối với bệnh mũi mạn tính 74
- xi DANH MỤC HỘP STT Nội dung Trang Hộp 3.1. Nhận xét về môi trường lao động và công tác CSSK NLĐ của 55 tổ chức Công đoàn Hộp 3.2. Ý kiến của lãnh đạo Công ty về ô nhiễm môi trường lao động 56 và công tác tập huấn, truyền thông đảm bảo ATVSLĐ và CSSK công nhân Hộp 3.3. Vai trò của các cán bộ an toàn và y tế về ATVSLĐ và chăm 58 sóc sức khỏe, phòng chống bệnh tật trong công nhân Hộp 3.4. Vai trò và trách nhiệm của người lao động về vấn đề ATVSLĐ 68 và các giải pháp phòng chống các bệnh đường hô hấp Hộp 3.5 Hiệu quả các giải pháp đảm bảo ATVSLĐ và phòng chống các 70 bệnh đường hô hấp trong công nhân qua ý kiến của tổ chức công đoàn Hộp 3.6. Thảo luận nhóm các cán bộ an toàn và y tế về các giải pháp 72 đảm bảo ATVSLĐ và phòng chống bệnh tật trong công nhân Hộp 3.7. Thảo luận nhóm người lao động về ATVSLĐ và các giải pháp 76 phòng chống các bệnh đường hô hấp
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Dệt may được hình thành và phát triển từ thời thượng cổ. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, điều kiện lao động của công nhân ngành công nghiệp này tại nhiều nước vẫn tồn tại nhiều yếu tố nguy cơ bất lợi đối với sức khỏe. Ở nước ta ngành công nghiệp dệt may đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, song vẫn còn nhiều vấn đề về môi trường và sức khỏe chưa được giải quyết thỏa đáng. Cũng như nhiều nước đang phát triển, do đặc điểm ngành nghề, công việc, đặc thù của ngành may ở nước ta là lao động nữ, chiếm khoảng 80-90% lực lượng sản xuất, thời gian làm việc trung bình thường trên 8giờ/ngày, nhiều khi công nhân phải làm việc tăng ca tới 10-12 giờ/ngày. Môi trường lao động của ngành may ở nước ta thường bị ô nhiễm do bụi kết hợp với vi khí hậu bất lợi Tất cả các yếu tố trên đều có thể ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động. Nếu phơi nhiễm lâu ngày, người lao động dễ mắc các rối loạn bệnh lý nghề nghiệp, đặc biệt là các bệnh hô hấp nghề nghiệp [17], [48]. Nhiều nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã cho thấy môi trường lao động và sức khỏe công nhân dệt may mang những đặc thù riêng so với các ngành công nghiệp khác. Trong các nghiên cứu về môi trường và sức khỏe công nhân dệt may tại Bangladesh và Pennsylvania, Philadelphia (USA), những năm gần đây các tác giả Bianna D., Ganer A., Boha S. (2013) [80], Denis Hadjiliadis, David Zieve (2014) [86], đã ghi nhận về điều kiện lao động còn nhiều bất cập, các tồn tại về môi trường và điều kiện lao động là rất khó cải thiện như vi khí hậu không thuận lợi, ô nhiễm bụi Các tác giả cũng chỉ ra rằng có sự gia tăng tỷ lệ một số bệnh ở người lao động dệt may, đặc biệt là các bệnh hô hấp là do ảnh hưởng của các yếu tố nguy cơ đặc thù. Để góp phần chăm sóc, bảo vệ môi trường và sức khoẻ người lao động dệt may, phòng chống các bệnh liên quan đến nghề nghiệp, cũng đã có nhiều nghiên cứu của các tác giả trong nước được tiến hành từ nhiều năm nay. Các nghiên cứu đã cho thấy có nhiều yếu tố nguy cơ, ảnh hưởng đến sức khỏe, làm gia tăng nhiều bệnh nghề nghiệp, đặc biệt là gia tăng các bệnh đường hô hấp [39]. Tuy nhiên, còn ít các
- 2 nghiên cứu đầy đủ mang tính hệ thống, đặc biệt là thiếu các nghiên cứu can thiệp chăm sóc sức khỏe người lao động. Thái Nguyên là một tỉnh có nhiều nhà máy, xí nghiệp và được coi là tỉnh công nghiệp phát triển cả về quy mô sản xuất cũng như y tế lao động từ những năm 60 của thế kỷ XX. Ngành công nghiệp dệt may cũng được hình thành và phát triển từ rất sớm. Hiện nay trên địa bàn có khoảng 20 Công ty, xí nghiệp may mặc lớn với khoảng 2 vạn lao động. Tuy nhiên, công tác y tế lao động của ngành công nghiệp này lại đang tồn tại nhiều bất cập cả về nguồn nhân lực và chất lượng dịch vụ. Cho đến nay, chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào về môi trường, sức khỏe, bệnh tật cũng như các yếu tố ảnh hưởng đối với sức khỏe người lao động được tiến hành. Chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: “Thực trạng môi trƣờng, sức khỏe, bệnh tật ở công nhân may Thái Nguyên và hiệu quả một số giải pháp can thiệp”, với 3 mục tiêu sau: 1. Mô tả thực trạng môi trường, sức khỏe, bệnh tật của công nhân may Thái Nguyên năm 2012. 2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến sức khỏe, bệnh tật của công nhân may Thái Nguyên. 3. Đánh giá hiệu quả của một số giải pháp can thiệp đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và chăm sóc sức khỏe của công nhân may Thái Nguyên.
- 3 Chƣơng 1. TỔNG QUAN 1.1. Môi trƣờng, sức khỏe và bệnh tật ở ngƣời lao động 1.1.1. Một số khái niệm về môi trường, điều kiện lao động và sức khỏe trong lao động Đã có nhiều nghiên cứu vể chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người lao động từ thời thượng cổ, dẫn từ [26]. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại vấn đề phát triển bền vững của doanh nghiệp và đảm bảo an toàn và sức khoẻ đã được đề cập tại tất cả mọi Quốc gia, tại những nơi làm việc. Môi trường, điều kiện lao động và sức khỏe nghề nghiệp là một lĩnh vực có phạm vi rộng bao gồm nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau nhằm mục đích: - Phát triển và duy trì tới mức tối đa tình trạng thể chất, tinh thần, và xã hội cuả người lao động trong mọi ngành nghề; - Phòng ngừa cho tất cả mọi người lao động không phải chịu hậu quả có hại do điều kiện lao động gây ra; - Bảo vệ người lao động trong khi làm việc tránh được các yếu tố nguy cơ bắt nguồn từ các yếu tố có haị cho sức khỏe; - Tạo ra và duy trì một môi trường lao động phù hợp đối với nhu cầu thể chất và tinh thần của người lao động. Nói một cách khác, đảm bảo an toàn và sức khỏe nghề nghiệp bao hàm tình trạng thể chất, tinh thần và xã hội của người lao động, tức là “toàn bộ con người”. Thực hành đảm bảo an toàn và sức khỏe nghề nghiệp thành công đòi hỏi cần có sự phối hợp và tham gia của cả người sử dụng lao động và người lao động trong các chương trình an toàn và sức khỏe. Điều đó bao gồm việc cân nhắc các vấn đề có liên quan tới y tế nghề nghiệp, vệ sinh công nghiệp, độc hại, giáo dục, an toàn công nghệ, khoa học lao động, tâm lý, Các vấn đề Sức khỏe nghề nghiệp (như phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp, bệnh lý nghề nghiệp ) chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều so với các vấn đề an toàn nghề nghiệp bởi lẽ nói chung, các vấn đề sức khỏe thường là khó hơn rất nhiều.
- 4 Tuy nhiên, khi nhắc tới sức khỏe, thì vấn đề môi trường lao động đảm bảo an toàn cũng được đề cập, bởi vì một sơ sở sản xuất lành mạnh cũng được định nghĩa là một cơ sở sản xuất an toàn. Thế nhưng, định nghĩa ngược có thể không đúng, vì một nơi sản xuất được gọi là đảm bảo an toàn không nhất thiết đồng thời là nơi sản xuất lành mạnh. Điều quan trọng là các vấn đề về sức khoẻ và đảm bảo an toàn lao động đều phải được đề cập tại tất cả mọi nơi làm việc. Bất cứ nghề nghiệp, khu vực sản xuất nào, định nghĩa về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp đã được đề cập đều bao hàm cả hai vấn đề đảm bảo an toàn và sức khỏe nghề nghiệp với sự đầy đủ ý nghĩa. Môi trường lao động là tập hợp các điều kiện và hiện tượng bên trong và bên ngoài tại nơi sản xuất có ảnh hưởng tới sức khỏe và khả năng lao động, sản xuất. Theo nghĩa rộng: “Môi trường lao động” là tổng hợp tất cả các nhân tố như không khí, đất, nước, ánh sáng, âm thanh, nhà xưởng, máy móc, phương tiện, cảnh quan, các yếu tố xã hội có ảnh hưởng đến chất lượng lao động và cuộc sống của con người cũng như tài nguyên cần thiết cho sinh sống, sản xuất của con người. Đặc thù của ngành dệt may là chịu nhiều tác động của các yếu tố như bụi, rác thải, tiếng ồn, độ ẩm, ánh sáng, và dễ cháy nổ Vì vậy, để hạn chế ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người lao động với quan điểm xuyên suốt: Đảm bảo sức khỏe cho người lao động luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu. Điều kiện lao động được hiểu là tổng thể các yếu tố tự nhiên, xã hội, kinh tế, kỹ thuật được biểu hiện thông qua các công cụ và phương tiện lao động, đối tượng lao động, quá trình công nghệ, môi trường lao động và sự sắp xếp bố trí chúng trong không gian, sự tác động qua lại của chúng trong mối quan hệ với người lao động tại nơi làm việc, tạo nên một điều kiện nhất định cho con người trong quá trình lao động. Việc đẩy mạnh, cải tiến điều kiện làm việc cho lao động là yêu cầu quan trọng giúp cho Công ty, Xí nghiệp duy trì và nâng cao chất lượng lao động, từ đó ổn định sản xuất và bảo đảm sự phát triển bền vững. Điều kiện lao động không tốt dưới bất kỳ dạng nào cũng đều có khả năng tiềm tàng gây ảnh hưởng tới an toàn và sức khỏe của người lao động. Điều kiện làm việc không lành mạnh và không an toàn không chỉ hạn chế ở nhà máy, mà có thể thấy ở tất cả mọi nơi, cho dù điều kiện làm việc trong nhà hay
- 5 ngoài trời. Đối với nhiều người lao động, ví dụ công nhân nông nghiệp hay thợ mỏ, nơi làm việc là “ngoài trời” và có thể gây nhiều nguy hại về an toàn và sức khỏe. Điều kiện lao động tồi còn gây ảnh hưởng tới môi trường sống cuả người lao động, bởi vì đối với nhiều người lao động, môi trường làm việc và môi trường sống là giống nhau. Điều này có nghĩa là nguy cơ nghề nghiệp có thể tác động xấu tới người lao động, gia đình họ, và những người khác trong cộng đồng, cũng như ảnh hưởng tới môi trường vật chất chung quanh nơi làm việc. Một ví dụ có tính kinh điển là việc sử dụng thuốc trừ sâu trong công việc trồng bông. Người lao động bị phơi nhiễm với hóa chất độc hại theo nhiều cách khác nhau khi phun thuốc sâu: họ có thể hít thở phải hóa chất trong và sau khi phun thuốc, hóa chất có thể bị thẩm thấu qua da, và người lao động có thể tiêu hóa hóa chất này nếu họ ăn, uống, hoặc hút thuốc mà không rửa tay, hoặc nước uống đã bị ô nhiễm với hóa chất này. Người trong gia đình của người lao động cũng có thể phơi nhiễm theo một số phương thức: họ có thể hít phải thuốc trừ sâu còn bay trong không khí, họ có thể uống nước đã bị ô nhiễm, hoặc họ có thể bị phơi nhiễm với thuốc trừ sâu còn tồn đọng trên quần áo của người lao động chăm sóc cây và các sản phẩm từ bông. Những người khác trong cộng đồng cũng có thể bị phơi nhiễm theo các cách trên. Khi hóa chất thấm vào lòng đất hoặc ngấm vào nguồn nước dưới lòng đất, thì hậu quả tai hại của nó đôí với môi trường có thể tồn tại lâu dài. Các yếu tố tác hại nghề nghiệp nói chung là khái niệm chỉ những yếu tố vật chất hoặc phi vật chất có ảnh hưởng xấu, có hại và nguy hiểm, có nguy cơ gây nên tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Tai nạn lao động là tai nạn xẩy ra trong quá trình trực tiếp lao động hoặc liên quan đến lao động, công tác do tác động đột ngột của các yếu tố nguy hiểm từ bên ngoài làm chết người hoặc làm tổn thương hay hủy hoại chức năng hoạt động bình thường của một bộ phận nào đó của cơ thể. Tai nạn lao động dược chia ra làm 03 loại: chết người, nặng và nhẹ. Bệnh nghề nghiệp là loại bệnh lý phát sinh do các yếu tố tác hại nghề nghiệp. Bệnh nghề nghiệp là một khái niệm chỉ thực trạng bệnh lý mang tính đặc trưng nghề
- 6 nghiệp hoặc liên quan đến nghề nghiệp mà nguyên nhân sinh bệnh là do các tác hại thường xuyên, kéo dài của điều kiện lao động xấu, các yếu tố tác hại nghề nghiệp. Bảo hộ lao động (BHLĐ) là thuật ngữ chỉ việc đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động, chăm lo cải thiện điều kiện lao động, phòng chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bảo vệ sức khỏe cho người lao động, là một chính sách kinh tế - xã hội lớn của Đảng và Nhà nước ta, là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động bảo hộ lao động bao gồm các hoạt động trên các mặt luật pháp, tổ chức quản lý, khoa học kỹ thuật, kinh tế - xã hội hướng vào việc đảm bảo ATVSLĐ, cải thiện điều kiện làm việc, nhằm cải thiện điều kiện làm việc, phòng chống TNLĐ và BNN cho người lao động. Do vậy có thể nói hoạt động BHLĐ với các mục tiêu cơ bản nhằm đảm bảo sức khỏe, quyền lợi và sự an toàn cho đối tượng người lao động cũng như các vấn đề có liên quan luôn là vấn đề hết sức cấp thiết. Phân loại sức khỏe: Hiện nay việc phân loại sức khỏe người lao động đã được Bộ Y tế quy định tại hai Thông tư số 1613 năm 1997 [9] và Thông tư số 36/ TTLT-BYT- BQP năm 2011 [11]. Nguyên tắc phân loại dựa trên các chỉ số thể lực và tất cả các bệnh mà người lao đông bị mắc được phát hiện. Theo các bảng phân loại này, sức khỏe loại tốt là loại I và II; Sức khỏe kém là loại IV và V; Sức khỏe trung bình là loại III). Phân nhóm bệnh tật: Trong nghiên cứu, các tác giả trong ngành thường xếp nhóm các bệnh theo hệ thống cơ quan của cơ thể bị mắc bệnh để dễ cho việc đánh giá mối liên quan đến lao động và môi trường [11]. Khái niệm về nhóm bệnh hô hấp: nhóm bệnh hô hấp bao gồm tất cả các chứng, bệnh xẩy ra trên đường hô hấp đến nhu mô phổi: mũi, họng, thanh quản, phế quản và phổi [25]. Khái niệm về chức năng hô hấp: là khái niệm chỉ tình trạng hoạt động thông khí và trao đổi khí của cơ thể [84]. Trong nghiên cứu chúng tôi chỉ đánh giá chức năng thông khí. Chức năng thông khí có giá trị cao trong việc đánh giá sự ảnh hưởng của các bệnh lý trên đường hô hấp là chính như: Viêm phế quản; Bụi phổi bông; các viêm nhiễm trên đường hô hấp
- 7 Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (Chronic Obstructive Pulmonary Disease/COPD). Từ năm 1968, các nhà nghiên cứu, đặc biệt là trong lĩnh vực Y học lâm sàng đã đưa ra khái niệm này. Đây là một khái niệm chỉ tình trạng bệnh lý gây giảm lượng không khí lưu thông qua phổi, thường do viêm nhiễm mạn tính, tiến triển nặng dần, phổi dần mất đi tính đàn hồi, gây giảm áp suất trong phế nang cần thiết khi thở ra, thán khí khó được đào thải ra ngoài, dưỡng khí không được hấp thu đủ nên bệnh nhân sẽ có cảm giác khó thở, đoản khí, hụt hơi, đặc biệt khi gắng sức. Nếu bệnh tiến triển nặng, bệnh nhân khó thở thường xuyên, ngay cả trong những hoạt động bình thường, hàng ngày. Bệnh viêm phế quản mạn tính nghề nghiệp (Hiện đang sử dụng trong Y học lao động): được định nghĩa là tình trạng tăng tiết dịch nhầy mạn tính của niêm mạc phế quản, gây ho và khạc đờm liên tục, tái phát từng đợt (khoảng 3 tuần lễ) ít nhất là 3 tháng trong 1 năm và ít nhất là 2 năm liền do tác động của yếu tố căn nguyên hoặc nguy cơ nghề nghiệp. Bệnh bụi phổi bông (Bysinosis): là tình trạng bệnh lý ở phổi, biểu hiện khó thở ở người tiếp xúc với bụi bông, vải sợi ở những người thợ dệt vải, đay, gai và may mặc. Đây một bệnh mạn tính ở đường hô hấp. Về đại thể, đặc điểm của bệnh bụi phổi bông về bệnh lý lâm sàng là tình trạng tức ngực và khó thở khi lao động, sau ngày nghỉ cuối tuần hoặc những ngày nghỉ khác. Ở giai đoạn muộn, sau nhiều năm tiếp xúc với bụi, bệnh nhân giảm khả năng lao động nghiêm trọng, với các triệu chứng viêm phế quản mãn và giãn phế nang. Về bệnh cảnh cận lâm sàng thì các biểu hiện rối loạn chức năng thông khí kiểu tắc nghẽn là thước đo bệnh lý được coi trọng nhất. 1.1.2. Các nghiên cứu về môi trường, điều kiện lao động và sức khỏe trong lao động Sức khỏe và bệnh tật của con người trong điều kiện lao động đã được các nhà khoa học, đặc biệt là các thầy thuốc quan tâm từ thời thượng cổ. Vào những năm 400 - 360 trước Công nguyên, Hyppocrate đã mô tả nhiều bệnh lý như đau lưng, khó thở hoặc nhiễm độc có liên quan đến công việc của những người thợ. Hyppocrate cho rằng cơn khó thở về già là căn bệnh đặc trưng của thợ mỏ. Đau lưng là đặc trưng bệnh lý của công nhân luyện kim. Khoa học và công nghệ càng phát triển, các nghiên cứu về môi trường, điều kiện lao động có liên quan đến sức
- 8 khỏe càng nhiều. Những năm giữa thế kỷ XX, khi nền công nghiệp nặng đã phát triển mạnh, các vấn đề sức khỏe của người lao động, các vấn đề mới cũng nảy sinh nên sự quan tâm đã rõ nét và có định hướng theo chuyên ngành nhiều hơn. Trong các mối quan tâm đặc biệt thì các tác hại nghề nghiệp, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp của công nghệ mới đã được nhiều người nghiên cứu [2], [44], [49], [98]. Tuy nhiên với sự phát triển, thay đổi rất nhanh của nhiều loại hình công nghệ thì vấn đề sức khỏe trong lao động cũng đã nảy sinh thêm nhiều vấn đề [18], [85]. Bước vào thế kỷ 21, đặc biệt là thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập Quốc tế các nghiên cứu về vấn đề môi trường và sức khỏe người lao động ở nước ta cho thấy có những đặc điểm sau đây: - Sự chuyển dịch Quốc tế về nghề nghiệp, sản phẩm và kỹ thuật từ các nước vào Việt Nam, trong đó vẫn có những dây chuyền công nghệ sán xuất lạc hậu, quá cũ. - Sự phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, đặc biệt là công nghiệp vừa và nhỏ, sản xuất hộ gia đình phát triển mạnh liên quan đến những người dễ bị tổn thương như lao động trẻ em, phụ nữ mang thai, người già và lao động di cư từ nông thôn đến. - Đã có nhiều chủ trương, chính sách của chính phủ quan tâm đến sức khỏe người lao động nhưng các cơ quan quản lý chưa quán xuyến được hết tất cả các đối tượng lao động. Hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe người lao động còn thiếu hoặc còn nhiều người lao động chưa tiếp cận được các dịch vụ y tế lao động. - Sự phối hợp liên ngành trong chăm sóc sức khỏe người lao động chưa chặt chẽ. Một số hoạt động còn trùng chéo giữa trung ương và địa phương, giữa các ngành với địa phương. - Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm nhiều đến trách nhiệm xã hội, chưa chú ý giải quyết khó khăn cho người lao động và gia đình của họ trong cuộc sống và sinh hoạt ở xã hội. Các điều kiện vật chất, tinh thần, vấn đề nhà ở, sinh hoạt văn hóa cộng đồng ngoài giờ làm việc còn thiếu thốn. Đặc biệt vấn đề lao động nhập cư, lao động từ nông thôn ra đô thị, lao động phổ thông có tính thời vụ ngắn hạn. - Môi trường lao động tại các cơ sở sản xuất còn ô nhiễm. Các bệnh nghề nghiệp cũ như bệnh bụi phổi Silic nghề nghiệp, điếc nghề nghiệp, nhiễm độc hóa
- 9 chất vẫn tồn tại ở mức đáng lưu ý. Tại các đơn vị đã được giám sát, số mẫu giám sát môi trường vượt giới hạn tiêu chuẩn cho phép vẫn cao. Theo Nguyễn Duy Bảo (2008), tỷ lệ này là 14,42%. - Hiện nay, do nguồn nhân lực y tế cả nước nói chung còn thiếu nên nhân lực cho công tác chăm sóc sức khỏe người lao động càng đặc biệt gặp khó khăn. Qua báo cáo của các cơ quan y tế ngành, phần lớn các cơ sở sản xuất không có Bác sỹ làm công tác chăm sóc sức khỏe công nhân. Các cơ sở sản xuất thường chỉ có các cán bộ có trình độ trung cấp như điều dưỡng trung học, thậm trí là dược sỹ trung sơ cấp làm công tác y tế cơ quan nên thường bị ghép vào các phòng ban khác của doanh nghiệp. Điều này dẫn tới các hoạt động y tế không hiệu quả như mong muốn của người lao động. - Kinh phí dành cho các hoạt động chuyên ngành còn ít ở hầu hết các ngành nghề trong cả nước nên hiệu quả chăm sóc sức khỏe người lao động cũng vì thế chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay cả nước có 200.000 doanh nghiệp được quản lý với hàng triệu người lao động sản xuất. Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp, ngành nghề sản xuất phần nhiều là công nghệ chắp vá, nhà xưởng chật chội, cùng với việc phân bố các cơ sở sản xuất thiếu quy hoạch. Đặc biệt trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế hiện nay, để chạy đua tranh giành thị phần với giá thành rẻ, nhiều doanh nghiệp sử dụng các nguyên liệu bẩn với công nghệ sản xuất lạc hậu càng làm cho môi trường và điều kiện làm việc của người lao động thêm nghiêm trọng [24]. Hiện nay, do môi trường và điều kiện làm việc không đảm bảo, trong 5 năm gần đây có khoảng 30 nghìn tai nạn xảy ra, gần 30% người lao động mắc các bệnh về đường hô hấp, mắt, cơ, xương, khớp, tai, tim mạch. Đến hết năm 2012 có hơn 20 nghìn người lao động được cơ quan giám định y khoa và bảo hiểm xã hội xác định là mắc các bệnh nghề nghiệp và cho hưởng chế độ đền bù. Tỷ lệ cao nhất được giám định là bệnh bụi phổi do làm việc trong môi trường lao động bị ô nhiễm bụi. Thực tế số người mắc bệnh nghề nghiệp có thể nhiều hơn cả chục lần con số đã báo cáo do nhiều nguyên nhân [5].
- 10 Hàng năm, theo báo cáo của các tỉnh, chỉ có hơn 4000 cơ sở được đo giám sát môi trường lao động. Mặc dù việc giám sát môi trường chỉ làm theo kế hoạch, mỗi năm 1 đến 2 lần song tổng số mẫu đo kiểm tra môi trường vượt tiêu chuẩn cho phép đã có khoảng 50 nghìn mẫu, chủ yếu là các yếu tố rung, ồn, ánh sáng, bụi và vi khí hậu [69]. Thực tiễn về ATVSLĐ hiện nay vẫn đang là vấn đề cần được các ngành các cấp lưu tâm nhiều hơn nữa trong điều kiện kinh tế, xã hội của nhiều Quốc gia đang phát triển, trong đó có nước ta. Điều này đòi hỏi nhiều cấp, nhiều ngành phải phối hợp, cùng nhau giải quyết theo phương châm vì mục tiêu sức khoẻ cho người lao động mới của đất nước [43], [75]. 1.2. Công nghiệp dệt may và môi trƣờng, sức khỏe, bệnh tật ở ngƣời lao động 1.2.1. Môi trường, điều kiện lao động trong công nghiệp dệt may Ngành công nghiệp dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nhiều nước trên thế giới. Công nghệ dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển, các nước chậm phát triển vì lợi thế về nguồn nhân lực. Sự chuyển dịch của công nghệ dệt may sang các nước nghèo, đầu tư cơ sở hạ tầng, máy lạc hậu sẽ là nguy cơ ô nhiễm môi trường, điều kiện lao động không đảm bảo tại các nước nghèo gia tăng. Ngay tại nước Mỹ, một nước công nghiệp tiến bộ vào loại bậc nhất thế giới, ô nhiễm bụi môi trường lao động và các điều kiện khác của môi trường lao động cũng vẫn tồn tại nhiều vấn đề [83], [86]. Khi nghiên cứu về môi trường lao động của công nhân dệt may tại các nước châu Á, nhiều tác giả cho rằng vấn đề ô nhiễm bụi hỗn hợp hữu cơ, vô cơ và vi khí hậu bất lợi đang là vấn đề có nguy cơ cao đối với sức khỏe [80], [91], [106]. Cũng từ những nghiên cứu này đã ghi nhận môi trường vi khí hậu bất lợi đang là rất phổ biến góp phần gây hậu quả xấu cho sức khỏe người lao động. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng điều kiện lao động không tốt, tư thế gò bó gặp trên 60% người lao động phải chịu đựng trong công nghệ may mặc đang là nguy cơ cao đối với nhiều bệnh ở hệ thống cơ, xương, khớp của công nhân. Ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất có tiềm lực phát triển khá mạnh. Hàng dệt may của chúng ta đã chiếm lĩnh nhiều thị trường may mặc trên thế giới do nhiều ưu thế về nhân lực, có sự tham gia của nhiều thành
- 11 phần kinh tế khác nhau và kỹ thuật phù hợp. Cũng như trên thế giới, công nghệ dệt may Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời. Dệt may là mặt hàng mũi nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng và xuất khẩu ngày càng tăng. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu là làm gia công. Trong quá trình hội nhập, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, cũng như nhiều ngành công nghiệp khác, công nghệ dệt may phát triển đi đôi với số người phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ của nghề này tăng lên. Chính vì vậy, người lao động dệt may cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề bức xúc về môi trường và điều kiện lao động. Theo nhiều tác giả, các nguy cơ không đảm bảo an toàn, nguy cơ tai nạn và bệnh nghề nghiệp trong ngành công nghiệp dệt may nước ta còn khá phổ biến [40], [44], [46]. Nguyên nhân của các vấn đề về sức khỏe là do nhiều doanh nghiệp vẫn sử dụng các công nghệ sản xuất lạc hậu dẫn đến ô nhiễm môi trường và điều kiện làm việc của người lao động không đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Nhiều nghiên cứu cho thấy, ô nhiễm môi trường đã ảnh hưởng tới sức khỏe, xuất hiện nhiều bệnh lạ và nguy hiểm đối với người lao động [12], [16], [18]. Mặc dù lao động may mặc không quá nặng nhọc nhưng môi trường lao động ở đây đang là những yếu tố cơ bản, thường xuyên ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động, dẫn đến mắc các bệnh nghề nghiệp, bệnh liên quan đến nghề nghiệp. Môi trường lao động không đạt TCVSCP tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, làm giảm khả năng và năng suất lao động. Các yếu tố môi trường độc hại do công nghệ dệt may có thể tác động cơ thể do tiếp xúc qua nhiều con đường, đặc biệt là đường hô hấp. Tùy thuộc vào đặc thù của dây chuyền sản xuất mà các yếu tố độc hại có trong môi trường lao động dệt may có khác nhau. Theo báo cáo của Cục Y tế dự phòng và môi trường, do môi trường ô nhiễm bụi nên các bệnh phổ biến ở người lao động dệt may là các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp. Kết quả điều tra của Lê Văn Thành và CS (2000) cho thấy ở những cơ sở sản xuất, nhà máy, công ty may như TNG Thái Nguyên và Phú Lâm (Bắc Ninh) là nơi có nguồn chất thải độc hại khá nghiêm trọng gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ cộng
- 12 đồng (chất tẩy, chất nhuộm). Trong nước thải thường chứa các loại hoá chất như: xút, thuốc tẩy, phèn kép, nhựa thông, phẩm màu. Nước thải không qua xử lí chảy thẳng vào nguồn nước làm cho toàn bộ khu vực này bị ô nhiễm trầm trọng. Trước đây ở nước ta công nghệ kéo sợi còn rất lạc hậu vì vậy điều kiện lao động rất xấu, tình trạng bụi vượt quá tiêu chuẩn vệ sinh cho phép (TCVSCP) lên tới hàng chục, hàng trăm lần, càng ở đầu dây chuyền nồng độ bụi càng cao, nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp càng lớn. Hiện nay do chính sách mở cửa của nhà nước nên dây chuyền công nghệ đã được cải thiện và đầu tư nhiều nhưng vẫn chưa thỏa mãn, đáp ứng được các yêu cầu vệ sinh cho phép. Các khảo sát vào những năm 80; 90 của thế kỷ trước cho thấy kết quả nồng độ bụi giảm rất nhiều. Nồng độ bụi trọng lượng tại các vị trí đều thấp hơn TCVSCP. Nghiên cứu của Bùi Thị Tuyết Mai năm1983, dẫn từ [25] cho thấy hàm lượng bụi tổng hợp đo đạc được là 12mg/m3 không khí. Nghiên cứu của Nguyễn Huy Đản (1988) cho thấy hàm lượng bụi môi trường lao động thường là dao dộng từ 2,2 đến 56 mg/m3. Nồng độ bụi cao nên nguy cơ gây bệnh bụi phổi bông, viêm phế quản cấp, viêm phế quản mãn tính nghề nghiệp luôn hiện hữu. Theo Nguyễn Huy Đản, Nguyễn Duy Bảo - Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường (1989) [7], cho thấy tình hình ô nhiễm bụi bông luôn là điều đáng lo ngại cho công nhân và khu vực xung quanh. Để giải quyết vấn đề này, cần có các giải pháp pháp chống bụi (trang bị phòng hộ cá nhân) để làm giảm thấp nồng độ bụi trong môi trường sản xuất xuống dưới nồng độ tối đa cho phép, nhằm bảo vệ tốt nhất sức khỏe công nhân và đề phòng mắc bệnh bụi phổi bông [3]. Nghiên cứu của Khúc Xuyền và CS (1997) [51], trong các nhà máy dệt sợi tốc độ lưu chuyển không khí trong nhà ở mức thấp, không đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép, do điều kiện sản xuất trong nhà kín. Việc kém lưu thông khí sẽ tăng nguy cơ tiếp xúc của công nhân với bụi bông và các loại bụi khác, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe người công nhân. Về nồng độ bụi, hơi khí độc trong không khí làm việc, nghiên cứu cho thấy trong các nhà máy dệt sợi, nồng độ bụi rất cao, có nơi cao gấp 33 lần Tiêu chuẩn vệ sinh cho phép kèm theo một số hơi khí độc [54].
- 13 Theo Phạm Văn Dịu năm 2006, dẫn từ [20], “Tìm hiểu môi trường lao động và sức khỏe công nhân ở 2 doanh nghiệp may tại Thành phố Thái Bình”, cho thấy tốc độ gió <1,5m/s, độ ẩm không khí <80%, nồng độ bụi dao động từ 0,2 - 0,8mg/m3 không khí. Khảo sát của Viện Nghiên cứu Khoa học kỹ thuật Bảo hộ Lao động năm 2003 cho thấy: điều kiện chiếu sáng tại một số xưởng sản xuất của các cơ sở sản xuất công nghiệp thuộc các công ty May Hữu Nghị, May Việt Tiến, May Sài Gòn, Nhà Bè, Bình Minh, Minh Phụng: ánh sáng đều có độ rọi thấp, chỉ đạt 200 đến 280 lux. Nguyễn Thị Bích Liên (2003) [41], khi nghiên cứu về môi trường lao động và sức khỏe của công nhân Công Ty Dệt 8/3, đã cho kết quả: Tại một số khu như khu máy cung bông, khu máy kéo sợi thụ nhiệt độ cao hơn bên ngoài từ 2-5 độ, trong những ngày nóng, nhiệt độ trong những nơi này có thể lên tới 37- 40 độ. Tốc độ gió tại hầu hết các điểm sản xuất được nghiên cứu đều thấp hơn Tiêu chuẩn vệ sinh cho phép, những yếu tố này đều có ảnh hưởng tới sức khỏe công nhân. Theo Dự án “Điều tra đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe con người trong một số ngành nghề tập trung nhiều lao động và đề xuất các giải pháp hạn chế nhằm bảo vệ nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập” của Viện Nghiên cứu KHKT Bảo hộ lao động, Trung tâm Khoa học Môi trường và Phát triển bền vững (KHMT&PTBV) đã tổ chức điều tra, đánh giá về hiện trạng môi trường và điều kiện làm việc trong một số ngành sản xuất hàng tiêu dùng như dệt may, da giày, sản xuất xà phòng và chất tẩy rửa ở một số tỉnh phía Bắc. Các kết quả điều tra trong năm 2005-2007 tại một số nhà máy dệt may, như: Công ty Dệt may Hà Nội, Công ty May Việt Vương, Công ty cổ phần Dệt Hòa Khánh (Đà Nẵng) cho thấy môi trường lao động tại các nhà máy, xí nghiệp này bị ô nhiễm về nhiệt ẩm, tiếng ồn, bụi và hơi khí độc. Tại Thái Nguyên, công nghiệp dệt may cũng là một ngành sản xuất phát triển. Trên địa bàn tỉnh có khoảng 20 Công ty, xí nghiệp may mặc lớn với khoảng 2 vạn lao động kiếm sống. Thực trạng môi trường lao động của công nhân may nhìn chung chưa được đánh giá đầy đủ. Cho đến nay chúng tôi mới ghi nhận được một số báo cáo về môi trường lao động của một số doanh nghiệp may mặc trên địa bàn.
- 14 1.2.2. Sức khỏe, bệnh tật ở người lao động ngành công nghiệp dệt may 1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Nhiều nghiên cứu của các tác giả nước ngoài cho thấy công nhân dệt may thường bị nhiều các chứng bệnh đặc thù so với các ngành, nghề khác. Barry S. (2003) [78], Bianna D., Ganer A. (2014) [80], khi nghiên cứu về các bệnh nghề nghiệp liên quan đến công việc đều cho rằng công nhân may mặc dễ mắc nhiều chứng bệnh trong đó có các bệnh đường hô hấp. Raymond D. Park V. (1965-1980) cho thấy công nhân dệt may dễ bị các rối loạn sinh lý cấp và mạn tính (18-35%). Tác giả giải thích là nguyên nhân do tiếng ồn và lao động gò bó thường xuyên tạo ra các stress nghề nghiệp. Raymond D ParkV cũng nhận thấy có một tỷ lệ cao của người lao động may mặc ở các nước Đông Âu có hiện tượng suy giảm chức năng hô hấp kiểu tắc nghẽn (15-20% trong tổng số những công nhân có từ 10 năm trở lên). Ông cho rằng ngoài các tiền triệu của bệnh Bysinoses thì hiện tượng viêm nhiễm khí, phế quản cũng làm suy giảm chức năng hô hấp. Nghiên cứu Artamonova, Satalop (Nga) vào những năm 1960-1990, Trích từ [25], cho thấy 12% công nhân may ở Liên hiệp dệt may Kanilin grad bị bệnh Bysinose, 38% bị viêm phế quản cấp và mãn tính. Các tác giả giải thích hiện tượng kích thích tăng tiết và gây mất nước, rối loạn chuyển ho¸ bề mặt tế bào niêm mạc đường hô hấp cùng với sự hiện diện thường xuyên của các vi sinh vật gây bệnh ở mũi họng và phế quản là nguyên nhân gây nên các rối loạn bệnh lý đã được phát hiện. Nghiên cứu của De Jong FM, De Snoo GR, LooriJ TP (2001), Trích từ [26], cho thấy có tới 10-20% người lao động dệt may ở Phần Lan bị stress nghề nghiệp ngay từ khi mới lao động ở ngành này trong những năm đầu (dưới 5 năm). Khi nghiên cứu về các bệnh phổi mạn tính thường gặp, theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đến năm 1997, trên thế giới có khoảng 300 triệu người mắc bệnh viêm nhiễm phế quản trong đó viêm phế quản mạn tính nghề nghiệp thường chiếm khoảng hơn 1/3. Bệnh Bụi phổi bông cũng có một tỷ lệ đáng lưu ý trong số này. Thông thường người lao động trong ngành dệt may có thể bị một số rối loạn bệnh lý nghề nghiệp đặc thù hoặc gia tăng một số bệnh thông thường so với các
- 15 cộng đồng khác. Theo Artamonova (1975-1995), công nhân may thường bị các bệnh mũi họng và hô hấp nhiều hơn 2 đến 3 lần so với các đối tượng khác đặc biệt là các bệnh dị ứng ở mũi họng. Kết quả kiểm tra sức khỏe định kỳ của công nhân dệt may thuộc liên hiệp dệt may Sinpeterbug các năm 1980-1990 cho thấy tỷ lệ bệnh mũi họng ở đối tượng này thường xung quanh 75-85% trong khi các ngành khác thường chỉ từ 30-50%. Người công nhân dệt may có thể bị bệnh viêm phế quản với tỷ lệ cao hơn bình thường từ 1,2 -1,5 lần. Theo Megg (2004) tỷ lệ viêm phế quản trong công nhân may ở Israel trong những năm 90 của thế kỷ 20 là 28 đến 40%. Thông thường có tỷ lệ xung quanh 10% những người tiếp xúc với bụi bông mắc bệnh bụi phổi bông nghề nghiệp (Occupational Bysinosis). Bysinosis là một bệnh nghề nghiệp thường gặp với các biểu hiện chính là khó thở, suy giảm chức năng hô hấp. Bysinosis được Leondrobert, Artamonova, Letavet, Raymond D ParkV nghiên cứu trong những năm 1970 đến 2000, mô tả là bệnh có cơn khó thở đầu tuần. Các nghiên cứu, quan sát của các nhà khoa học cho thấy những người dễ cảm nhiễm với bụi bông và mắc bệnh này thường có chức năng hô hấp tương đối bình thường trong 2 ngày nghỉ [83], [90]. Ngày thứ 2 (đầu tuần), người lao động mới đi làm, mới tiếp xúc với bụi sợi, bông sẽ xuất hiện hiện tượng co thắt khí phế quản, khó thở. Ngày thứ ba và những ngày tiếp theo các biểu hiện khó thở có xu hướng giảm dần cho đến ngày cuối của tuần làm việc (05 ngày). Hai ngày nghỉ các dấu hiệu bệnh lý gần như không còn. Ngày đi làm đầu tuần tiếp theo hiện tượng khó thở lại lặp lại. Cứ như vậy bệnh lý dần dần chuyển thành mạn tính, gây nên hiện tượng khó thở liên tục không theo quy luật như trước. Ở Việt Nam và một số nước đang phát triển Bysinosis thường không điển hình. Các dấu hiệu bệnh lý của Bysinosis thường giống như hen liên tục và nặng dần do họ phải lao động liên tục và không có ngày nghỉ [86]. Cơ chế bệnh sinh của bệnh bụi phổi bông hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau, vì chưa có tác giả nào giải thích hoặc chứng minh được một cách có thuyết phục. Các nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới thường đề cập đến một số giả thuyết mà chúng ta đang quan tâm nghiên cứu [83], [86].
- 16 Một số tác giả cho rằng trong bụi bông, đay, lanh có chứa các chất có khả năng giải phóng Histamin, làm co thắt cơ trơn phế quản và phù nề niêm mạc phế quản và làm cho bệnh rất mệt mỏi [81], [97]. Như vậy là quan điểm về các yếu tố căn nguyên có mang tính kháng nguyên đã được quan tâm nghiên cứu [100], [101], [106]. Trên cơ sở này các tác giả cũng đã nghiên cứu kháng thể chống lại những kháng nguyên có trong bụi bông. Tuy nhiên hiệu giá kháng thể này cao ở công nhân tiếp xúc với bụi bông so với người bình thường, nhưng không đủ khả năng dự phòng hoặc điều trị. Cũng nhờ các nghiên cứu theo hướng này mà các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy một tỷ lệ cao các phản ứng kháng nguyên (trong bụi bông) và kháng thể xảy ra ở thành các tiểu phế quản đã gây ra tình trạng giải phóng Histamin và gây ra co thắt và dẫn tới khó thở. Trong quá trình của 1 tuần lao động, kháng thể có thể giảm đi do phản ứng kháng nguyên - kháng thể, do vậy những ngày tiếp theo sau ngày đầu tuần, sự co thắt phế quản giảm dần và khó thở cũng giảm đi. Sau 1-2 ngày nghỉ cuối tuần, sự tích luỹ nồng độ kháng thể tăng lên, do đó ở ngày làm việc đầu tuần sự tiếp xúc trở lại với kháng nguyên có trong bụi bông làm cho phản ứng kháng nguyên - kháng thể mạnh lên và bệnh nhân thường biểu hiện khó thở ở ngày đầu của tuần làm việc. Một số tác giả khác thì nêu lên vai trò của nội độc tố vi khuẩn có trong bụi bông, đay, lanh là yếu tố có tác dụng gây giải phóng Histamin và Serotonin gây co thắt phế quản và dẫn tới khó thở [90], [102]. Khi nghiên cứu về các triệu chứng bệnh lý của bệnh bụi phổi bông trong công nhân may mặc tại các cơ sở sản xuất có quy mô vừa và nhỏ, Carmella Wint, Elizabeth Boskey, George Krucik, MD [83], cho rằng bệnh được xếp vào nhóm bệnh mạn tính đường hô hấp. Về đại thể, các tác giả cho rằng đặc trưng của bệnh là tức ngực và khó thở khi lao động vào ngày đầu tuần, sau ngày nghỉ cuối tuần hoặc những ngày nghỉ khác. Ở giai đoạn muộn, sau nhiều năm tiếp xúc với bụi, bệnh nhân giảm khả năng lao động nghiêm trọng, với các triệu chứng viêm phế quản mạn và giãn phế nang, suy giảm chức năng hô hấp [84]. Nếu người lao động làm việc dưới 06 ngày/tuần thì các dấu hiệu bệnh lý của bệnh bụi phổi bông ở giai đoạn sớm khá đặc trưng. Biểu hiện tức ngực vào ngày lao
- 17 động đầu tiên sau ngày nghỉ cuối tuần là khá rõ ràng. Các tác giả đã ghi nhận rất rõ tại các nước phát triển (Người lao động nghỉ 1 - 2 ngày cuối tuần), triệu chứng tức ngực xuất hiện vào ngày thứ hai và kéo dài cho đến hết ca lao động và triệu chứng hết ngay sau khi rời vị trí lao động [101], [103]. Vào những ngày thứ ba và những ngày tiếp theo, các triệu chứng giảm đi dần dần. Trong quá trình bệnh phát triển, tức ngực kèm theo khó thở ngày càng kéo dài và lan sang ngày thứ ba rồi ngày thứ tư và các ngày khác nữa. Ở giai đoạn này, các triệu chứng kéo dài nhưng nhẹ dần vào các ngày cuối tuần. Cuối cùng, biểu hiện bệnh lý rõ rệt ở người bệnh trong tất cả các ngày làm việc và ngay cả khi chuyển nghề không tiếp xúc với bụi bông nữa, bệnh cũng khó có thể khỏi hẳn, thông thường chỉ có thể là không tiến triển nặng thêm hoặc có thể giảm thiểu một số triệu chứng [86]. Nhiều nghiên cứu về lâm sàng bệnh hô hấp mạn tính gặp trong công nhân phơi nhiễm với bụi thực vật của các tác giả đều cho thấy là khó có thể phân biệt được các bệnh với nhau: viêm phế quản mạn tính, giãn phế nang, bụi phổi bông. Thậm trí là khó phân biệt với cả các bệnh không có nguyên nhân nghề nghiệp, trừ khi khai thác tiền sử thấy có triệu chứng tức ngực xuất hiện một cách đặc trưng vào ngày lao động đầu tiên của bụi bông. Thông thường trong những trường hợp này, bệnh nhân đã quên những triệu chứng sớm của mình. Như vậy, thầy thuốc sẽ không có căn cứ và thường chẩn đoán là bệnh mạn tính đường hố hấp không phải nguyên nhân nghề nghiệp. Phim X quang phổi cũng không phải là xét nghiệm đặc hiệu trong nghiên cứu bệnh bụi phổi bông. Các nhà chuyên môn thường không thấy biến đổi đặc hiệu của bệnh bụi phổi bông và cũng không xác định được một hình ảnh bệnh lý nào đặc hiệu có thể thấy ở phổi bệnh nhân tử vong do bệnh này. 1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước Nguy cơ dị ứng với bụi bông là rất cao. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Huy Đản, Bùi Thị Tuyết Mai năm 1983, dẫn từ [25] là 15,9% trong số người tiếp xúc. Kết quả nghiên cứu của Tạ Tuyết Bình, Nguyễn Năng An năm 2003, dẫn từ [25] tại Công ty Dệt 8/3, tỷ lệ bệnh hô hấp mạn tính là 32,8%. Nghiên cứu của Nguyễn Đình Dũng và cộng sự - 1999 [20], [21], số công nhân mắc các
- 18 bệnh mạn tính là 34%. Theo tác giả Nguyễn Đình Dũng thì bệnh đường hô hấp trong công nhân may mặc luôn chiếm tỷ lệ cao và rõ rệt nhất. Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả ở Tập đoàn dệt may do Nguyễn Đình Dũng chủ trì về các bệnh phế quản tại các doanh nghiệp dệt may ở Hà Nội năm 2005 được thống kê là 42,4%. Kết quả nghiên cứu về sức khỏe công nhân dệt may, của Nguyễn Thị Bích Liên cho thấy, có hơn 97% công nhân đạt sức khỏe từ trung bình trở lên, đủ sức khỏe để lao động, vẫn còn gần 3% công nhân chưa đủ sức khỏe để lao động. Các nhóm bệnh tật mà công nhân dệt may hay mắc phải là hô hấp, phụ khoa, thần kinh (công nhân dệt may phần lớn là nữ) [40], [41]. Theo tác giả Nguyễn Thị Bích Liên và Nguyễn Đình Dũng (2003) [40], khi nghiên cứu về “Thực trạng gánh nặng lao động của công nhân là hơi Công ty may Đức Giang - Gia Lâm - Hà Nội” nhận thấy 97,5% công nhân có sức khỏe loại I và II, chỉ có 2,5% công nhân có sức khỏe loại III, không có công nhân nào có sức khỏe loại IV và V. Điều này phản ánh sức khỏe của công nhân là hơi công ty may Đức Giang khá tốt [40]. Nghiên cứu của Khúc Xuyền và CS (2003 - 2005) đã đưa ra số liệu về một số bệnh tật của công nhân các ngành sản xuất có tiếp xúc với bụi hữu cơ tại một số nhà máy, cụ thể: các bệnh tai mũi họng, mắt, bệnh xương khớp có tỷ lệ cao [73], [74], và của Khúc Xuyền và CS (2005) [74]. Tác giả cho rằng công tác chăm sóc sức khỏe công nhân cần được xã hội hóa. Với nguy cơ tiếp xúc với bụi bông, sợi, tỷ lệ bị bệnh ngoài da cao hơn các nhóm nghề khác và cần lưu ý (23,23%). Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Dũng (2008) [19], trên 1139 công nhân của năm loại hình, công đoạn dệt may khác nhau cho thấy tỷ lệ giảm sức nghe là 35,5 ± 1,42%. Tác giả cũng cho thấy biểu hiện thường gặp sớm do tác hại của tiếng ồn thường thấy ở hệ thần kinh và tim mạch. Các dấu hiệu ban đầu ở cơ quan thính giác là ù tai, sau đó sẽ xuất hiện các chứng bệnh kèm theo tại các cơ quan khác như đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi, khả năng nhậy cảm về thần kinh giảm, ngủ không ngon giấc, có dấu hiệu hưng phấn cơ quan tiền đình. Cũng theo tác giả này khi nghiên cứu trên 403 công nhân tiếp xúc với bụi bông cho thấy số lượng mẫu bụi vượt TCVSCP chiếm 7,1%, sức khoẻ công nhân tại dây chuyền sợi loại I, II, III
- 19 chiếm 96,77%. Tuổi đời công nhân rất trẻ, chủ yếu từ 30-39 (tỷ lệ 54,1%), tuổi nghề từ 11-20 năm (tỷ lệ 60,6%). Tỷ lệ bệnh bụi phổi bông giai đoạn I: 24,8% (tăng theo tuổi nghề), giai đoạn II: 13,6%, giai đoạn III: 5,4% (trong đó 3,23% có hồi phục, 2,23% không hồi phục). Tỷ lệ bệnh viêm phế quản mạn tính ở công nhân phân theo các giai đoạn: giai đoạn I: 31,7%, giai đoạn II: 10,7%, tỷ lệ giảm từ đầu đến cuối dây chuyền công nghệ. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bình, dẫn từ [40] tại ba làng nghề Đa Hội, Minh Khai và Phong Khê thì các bệnh về hô hấp, tai mũi họng, da liễu và thần kinh là phổ biến nhất. Ở các nhà máy may là nơi có tỷ lệ công nhân giảm thính lực cao (56.97%). Tuỳ theo từng loại hình lao động với các yếu tố độc hại khác nhau mà sức khoẻ của người lao động tại các nhà máy bị ảnh hưởng khác nhau. Kết quả điều tra của Lê Văn Thành và CS năm 2000, dẫn từ [20] cho thấy trong nước thải của sản xuất ngành dệt may thường chứa các loại hoá chất như: xút, thuốc tẩy, phèn kép, nhựa thông, phẩm màu. Nước thải không qua xử lí chảy thẳng vào nguồn nước làm ô nhiễm khu vực xung quanh, dấn đến tỷ lệ công nhân trong nhà máy và người dân ở xung quanh đó bị mắc các bệnh đau mắt hột, nhiễm khuẩn cao hơn hẳn các nơi khác. Lượng khí thải và bụi hữu cơ độc hại lơ lửng phát tán khắp khu vực dân cư, bám lên cây, trần nhà, mái ngói, hàng năm lớp bụi có thể dày lên tới 20cm. Bệnh về đường hô hấp ở các khu vực sản xuất này chiếm 44.4%, bệnh da liễu 13,15% trong tổng số người được điều tra (năm 1999). Tình hình bệnh tật ở nhóm người lao động trực tiếp có tỷ lệ mắc cao hơn so với các nhóm khác. Chủ yếu là dị ứng 20%, hô hấp 18,57% và các bệnh còn lại có tỷ lệ 1,5%-3,5%. Qua nghiên cứu của Đan Thị Lan Hương (2002) cho thấy tỉ lệ người mắc bệnh/triệu chứng cấp tính là 35,2%, những bệnh hay gặp ở công nhân may này là các bệnh hô hấp và tai mũi họng 18,7%, tiêu hoá 6,9%, các bệnh phụ khoa 4,8%, bệnh mắt 4,5%. Trong nghiên cứu của Vũ Minh Phượng (2003) 80,8% người lao động bị đau mỏi sau ngày làm việc, 16,8% mắc bệnh cấp tính, 28,7% mắc bệnh mãn tính và 42,2% tai nạn lao động.
- 20 Nghiên cứu của Bùi Quốc Khánh và cộng sự (giai đoạn 2000 - 2006) ở công nhân ngành Dệt sợi cho thấy sức khoẻ công nhân dây chuyền sợi có tỷ lệ, phân loại như sau: loại I, II, III chiếm 96,8% (theo bảng phân loại năm 1997). Cũng theo tác giả này thì sức khỏe của công nhân đã tốt hơn so với giai đoạn 1996 - 2000. Giai đoạn này tỷ lệ sức khoẻ loại I, II chiếm 50%, sức khoẻ loại V vẫn ở tỷ lệ cao (phân loại sức khoẻ năm 1995). Theo kết quả nghiên cứu của Trương Việt Dũng, dẫn từ [26] tỷ lệ công nhân mắc bệnh bụi phổi bông là tương đối cao (27,6%), cao hơn của Tạ Tuyết Bình và cộng sự là 19%, của Bùi Quốc Khánh, là 18,2%, dẫn từ [25]. Đối tượng mắc bệnh có tỷ lệ cao nhất là công nhân Bông chải, ghép thô. Bệnh BPB giai đoạn II: 13,6% gặp nhiều ở đối tượng công nhân có tuổi nghề cao (trên 20 năm). Làm việc tại bộ phận đầu và giữa dây chuyền. Bệnh BPB giai đoạn III: Chiếm 5,46% (trong đó 3,23% giai đoạn III còn hồi phục, 2,23% giai đoạn 3 không hồi phục). 1.3. Yếu tố ảnh hƣởng đến sức khỏe và bệnh tật ở ngƣời lao động Ngay từ thế kỷ XVII, khi nền công nghiệp nhẹ bắt đầu phát triển mạnh ở Châu Âu, các vấn đề sức khỏe của người lao động đã được quan tâm. Trong các mối quan tâm đặc biệt thì cường độ và thời gian phơi nhiễm với các tác hại nghề nghiệp và bệnh nghề nghiệp của công nghệ dệt may ở nước Anh đã được nhiều người nghiên cứu [19], [70]. Tuy nhiên, với sự phát triển của y học lao động còn chưa mạnh, trong khi công nghệ luôn thay đổi nên vấn đề chăm sóc sức khỏe người lao động cũng chưa theo kịp. Vào thời điểm này các nhà y học mới chỉ biết chứng khó thở của công nhân dệt may có thể có liên quan đến điều kiện lao động. Khi công nghệ phát triển, đặc biệt là vào nửa sau của thế kỷ XX, nhiều yếu tố nguy cơ nghề nghiệp, nhiều vấn đề liên quan có thể tác động, ảnh hưởng lên sức khỏe người lao động đã được phát hiện. Lúc này y học lao động cũng dần dần phát triển theo đà chung của y học thế giới. Hàng trăm nghìn các hoá chất và dung môi độc hại được đưa vào sản xuất và phục vụ đời sống cũng như hàng trăm các yếu tố tác hại vật lý, sinh học tồn tại trong các môi trường sống và lao động, hàng ngày tác động đơn lẻ hoặc đa chiều lên sức khoẻ con người, có khả năng gây nên những rối loạn bệnh lý hoặc làm mất cân bằng các phản ứng sinh lý, sinh hoá của cơ thể trong
- 21 thời kỳ mới tiếp xúc đã được nghiên cứu. Các tác giả Ramazzini, Letavet, Izmerop, Aptamonova, Satalop, Zekin, Paracelus, Policard là những người có nhiều nghiên cứu đóng góp về những vấn đề này từ giữa thế kỷ XX. Tuy nhiên trên thực tế cũng còn nhiều điều về mặt khoa học và thực tiễn của y học lao động, người ta vẫn chưa giải thích được và cần phải tiếp tục nghiên cứu. Trong thực tế do những bí mật về nghề nghiệp, kinh doanh hoặc người ta chưa đủ khả năng nghiên cứu nên còn nhiều tác hại nghề nghiệp, bệnh nghề nghiệp chưa được nghiên cứu và giải quyết một cách thỏa đáng [22], [25]. Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, các tác giả trong và ngoài nước đã có những nghiên cứu về tác động môi trường lao động, sinh lý, sinh hoá lao động, lâm sàng bệnh nghề nghiệp. Các nghiên cứu theo nhiều lĩnh vực liên quan cũng phát triển, song chưa đồng bộ nên các biện pháp dự phòng, bảo vệ công nhân, nâng cao năng suất lao động và phòng chống các bệnh nghề nghiệp ở nhiều Quốc gia chưa có hiệu quả cao. Qua các nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã cho thấy các yếu tố liên quan hàng đầu đối với sức khỏe chính là tác động tổng hợp của các tác hại nghề nghiệp. Trong sản xuất dệt may, các tác hại nghề nghiệp thường gặp có thể nói là khá nhiều và thường kết hợp với nhau: lao động nặng nhọc, bụi các loại, ồn, hóa chất độc và vi khí hậu bất lợi [26], [93]. Lao động của ngành dệt may nhìn chung là loại lao động có nhiều yếu tố bất lợi cho sức khỏe. Công nghệ sợi đòi hỏi người lao động phải tiêu tốn sức lực rất nhiều trong thu hoạch và sơ chế nguyên liệu. Các loại sợi bông, sợi đay thường được thu hoạch theo mùa. Người lao động thường phải gấp rút thu hái các loại quả bông và các nguyên liệu khác nhằm tránh những ảnh hưởng bất lợi thời tiết làm hỏng hoặc làm giảm những giá trị của nguyên liệu. Ở các nước nghèo các nước đang phát triển đa số thu hoạch nguyên liệu là lao động thủ công, lao động ngoài trời, các yếu tố khí hậu và thời tiết như nóng, mưa ẩm, gió bụi thường gây tác động xấu nên sức khỏe của họ. Thông thường trong sản xuất các nguyên liệu người ta thường phải sử dụng nhiều loại hóa chất như phân bón, hóa chất trừ sâu, hóa chất làm trắng nên cũng có thể bị hóa chất độc hóa học này gây tác động xấu đến sức
- 22 khỏe. Nghiên cứu sức khỏe người trồng bông ở Keenya (Parkmyad.V-2002) cho thấy có tới 19,3% số người lao động trồng bông bị giảm hoạt tính của men Cholinesterase, 24,6% người nông dân bị các rối loạn do thời tiết ở mũi họng. Công nghệ sản xuất sợi từ các nguyên liệu thô phục vụ cho dây chuyền dệt may, cũng là một công đoạn có nhiều yếu tố độc hại. Theo kết quả nghiên cứu của Satalop, Artamonova, Izmerop (1985-1995) cho thấy có tới 23,8% công nhân ngành sợi có sự gia tăng các bệnh thường gặp ở hô hấp và mũi họng so với cộng đồng, 6,3 -8,4% người lao động bị các ảnh hưởng của hóa chất mạn hoặc cấp tính. Người lao động ngành dệt thường phải tiếp xúc với môi trường vi khí hậu xấu đặc biệt là nhiệt độ cao và độ ẩm cao. Thông thường ở các nước Châu Âu về mùa đông độ ẩm thường dưới 50%, trong khi ở các phân xưởng dệt, nhuộm độ ẩm luôn luôn ở mức trên 90%. Do vậy sự gia tăng độ ẩm trong môi trường lao động sẽ là tác hại rất lớn đối với các tế bào niêm mạc ở mũi họng và hô hấp thậm chí toàn bộ da của người lao động cũng dễ bị tổn thương. Ở các nước khu vực nhiệt đới, sự kết hợp với độ ẩm cao cũng là trở ngại rất lớn cho quá trình điều nhiệt của cơ thể. Độ ẩm cao sẽ làm khả năng thoát nhiệt khó khăn, gây nên tình trạng tích nhiệt dẫn đến rối loạn các quá trình điều hòa sinh lý, bài tiết của cơ thể. Thông thường nhiệt độ trong các phân xưởng cao sẽ tác động lên quá trình điều hòa nhiệt độ, cụ thể là quá trình thải nhiệt. Nếu nhiệt độ cao, độ ẩm cao trong điều kiện không thông thoáng thì sự trao đổi nhiệt sẽ bị cản trở rất nhiều. Nghiên cứu của Galanina, Andreieva, Izmerop (1978- 1995) cho thấy có tới 19,34% người lao động trong các công đoạn có vi khí hậu nóng của môi trường tẩy nhuộm có rối loạn điều hòa thân nhiệt ở mức độ có thể phát hiện thông qua các phản ứng sinh lý sinh hóa. Vì các yếu tố môi trường bất lợi và khó giải quyết lao động ở các công đoạn may mặc, nên công nghệ này đang có xu hướng chuyển dần sang các nước nghèo. Công nghiệp dệt may ở Châu Âu phát triển từ thế kỷ 17, về sau công nghệ này dần được chuyển sang các nước nghèo, các nước đang phát triển khu vực Á, Phi vào thế kỷ 20. Người công nhân dệt may thường phải lao động theo dây chuyền đơn điệu với thời gian làm việc nhiều hơn 8 giờ/ngày và ít khi là 5 ngày trong tuần. Sự đòi hỏi của yếu tố điều kiện người lao động sẽ ép buộc người công nhân thường xuyên
- 23 chịu đựng ở tư thế gò bó và mệt mỏi trường diễn. Thời gian lao động và nghỉ ngơi không hợp lý sẽ gây nên sự sáo trộn các hoạt động tâm, sinh lý của người lao động gây nên các rối loạn bệnh lý, stress nghề nghiệp. Tiếng ồn là một đặc trưng của nghề may, tiếng ồn thường không cao (70-90 db) song tác động thường xuyên liên tục nên thường gây nên khá nhiều các rối loạn sinh lý cấp hoặc mạn tính đối với người tiếp xúc. Nghiên cứu của Polycard, Raymond.D Park, Satalop (1960-1990) cho thấy có tới 1/3 số công nhân phải chịu áp lực của tiếng ồn trong môi trường lao động dệt may và trong số đó có tới 50% bị các rối loạn sinh lý cấp và mạn tính từ nhẹ đến nặng. Ô nhiễm bụi, bao gồm các loại bụi có nguồn gốc hữu cơ hoặc vô cơ, là một đặc trưng nghề nghiệp khá quan trọng đối với công nghệ dệt may. Hầu hết các công đoạn của dây chuyền trong công nghệ may, bụi đều vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP). Mặc dù bụi hữu cơ có thể ngăn được bằng khẩu trang tới trên 80% song chỉ cần một lượng nhỏ hít phải ở những người dễ cảm nhiễm cũng có thể gây nên những rối loạn bệnh lý. Trong giai đoạn phát triển kinh tế kỹ thuật hiện nay, các loại sợi nguyên liệu dùng trong ngành dệt may đã có sự pha trộn của nhiều tác nhân hóa học khác do vậy tính độc hại cũng có những thay đổi. Theo nghiên cứu của các tác giả Mỹ, người lao động ở Ấn độ, Pakistan có hiện tượng co thắt khí, phế quản với tỷ lệ cao hơn ở những công nhân tiếp xúc với bụi tổng hợp [79], [86]. Nhiều nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành đảm bảo ATVSLĐ ảnh hưởng đến sức khỏe đã được tiến hành. John Birchall và cộng sự khi nghiên cứu về hành vi đảm bảo ATVSLĐ ở công nhân dệt may Ấn độ cũng cho thấy vai trò này khá quan trọng trong dự phòng các bệnh nghề nghiệp ở công nhân dệt may [94]. Ở nước ta, khi đất nước chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang phương thức thị trường hoá trên cơ sở các phương tiện và điều kiện sản xuất lạc hậu, không đồng bộ, đồng thời với nhịp độ sản xuất không ngừng tăng nhanh thì vấn đề ATVSLĐ càng trở nên quan trọng. Có thể nói, cả người sử dụng lao động và người lao động đều chưa có hành vi đảm bảo an toàn vệ sinh lao động tốt, do vậy các rối loạn bệnh lý nghề nghiệp vẫn không ngừng tăng lên. Hậu quả của nó là các bệnh lý thông thường
- 24 bị thay đổi cơ cấu, mô hình, các rối loạn bệnh lý có liên quan đến môi trường, công việc, điều kiện lao động, các bệnh nghề nghiệp ngày càng gia tăng. Người lao động dệt may ở nước ta có nguồn gốc xuất thân chủ yếu từ nông thôn nên việc thích nghi với dây chuyền công nghiệp chậm. Vấn đề này cũng liên quan và có thể làm gia tăng tỷ lệ các rối loạn bệnh lý nghề nghiệp. Khi nghiên cứu vấn đề này các tác giả trong và ngoài nước đều đã nhấn mạnh rất rõ, và thường coi đây là nguy cơ cao cần chú ý giải quyết [22], [23], [52], [55]. Có rất nhiều yếu tố chủ quan, khách quan có thể gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và bệnh tật ở người lao động dệt may. Các yếu tố liên quan, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe công nhân cần được chú ý giải quyết đầy đủ trong công tác chăm sóc sức khỏe người lao động. Tùy thuộc vào điều kiện lao động, dây chuyền sản xuất của mỗi nước mà các yếu tố ảnh hưởng nào có vai trò, mức độ khác nhau. Ở nước ta, những vấn đề này đang tồn tại nhiều bất cập và chưa giải quyết, cải thiện được nhiều. Có nhiều yếu tố liên quan, ảnh hưởng nên cần thiết phải có sự tham gia của nhiều cấp, nhiều ngành. Tất cả các nhà khoa học, các doanh nghiệp phải cùng nhau phối hợp nghiên cứu, giải quyết theo phương châm: tất cả vì mục tiêu sức khoẻ cho người lao động mới của đất nước. 1.4. Nghiên cứu can thiệp nhằm giảm thiểu tác hại, bảo vệ và tăng cƣờng sức khỏe và phòng chống tai nạn, bệnh nghề nghiệp Từ cuối thế kỷ XX, các nhà khoa học trên Thế giới đã chủ yếu tập trung nghiên cứu theo hai hướng: đánh giá tác động của môi trường lao động với sức khỏe và can thiệp bảo vệ môi trường và sức khỏe. Định hướng của tổ chức An toàn vệ sinh lao động khu vực Châu Á Thái Bình Dương (APOSHO) về công tác chăm sóc sức khỏe người lao động trong khu vực trong nửa đầu của thế kỷ XXI là bằng mọi cách đảm bảo ATVSLĐ, dự phòng tai nạn và bệnh nghề nghiệp, tăng cường sức khỏe sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi Quốc gia (Nghị quyết của Hội đồng APOSHO 23, năm 2007 tại Singapore). Các hội nghị khoa học gần đây của APOSHO đã tập trung vào các vấn đề kết hợp các giải pháp kỹ thuật với các nội dung hoàn chỉnh chính sách với sự
- 25 tham gia của các tổ chức Chính phủ, phi Chính phủ và lãnh đạo doanh nghiệp trong việc đảm bảo ATVSLĐ. Tại Hội nghị lần thứ 28 của APOSHO diễn ra tại Trung tâm JIEXPO, Jakarta, Indonesia từ 8 đến 12/10/2013, tổ chức này đã đưa ra chủ đề là “Tăng cường văn hóa an toàn, nỗ lực vì sự bền vững”. Như vậy, có thể nói vấn đề can thiệp ATVSLĐ trong chăm sóc sức khỏe người lao động khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã được nâng lên một mức độ cao hơn trong mối liên quan với nhiều vấn đề khoa học xã hội khác. Trong trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và các ý tưởng khoa học về công tác chăm sóc sức khỏe người lao động, giữa các tổ chức thành viên chuyên trách, các nhà khoa học, kỹ sư, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các học viện nghiên cứu các thành viên đã tập trung, hướng nhiều các yếu tố con người và hành vi ứng xử đảm bảo ATVSLĐ. Có rất nhiều các báo cáo khoa học về công tác quản lý ATVSLĐ cải thiện môi trường và điều kiện lao động, cộng đồng tham gia đảm bảo ATVSLĐ, các khía cạnh về môi trường và an toàn đối lập với sự phát triển bền vững đã được trao đổi. Trong các báo cáo khoa học được trình bày tại hội nghị Quốc tế về an toàn và vệ sinh lao động khu vực lần thứ 28 này có liên quan đến về môi trường lao động, các yếu tố nguy cơ và an toàn vệ sinh lao động thì có 3 báo cáo thuộc về cách thức giảm thiểu tác hại và đảm bảo an toàn vệ sinh lao động trong ngành công nghiệp dệt may được các tác giả trình bày. Có thể nói các nghiên cứu can thiệp đảm bảo an toàn vệ sinh lao động vẫn luôn nhận được sự ưu tiên và ủng hộ của các tác giả trong và ngoài nước. Mặc dù về mặt kỹ thuật đã có rất nhiều tiến bộ, song các nghiên cứu can thiệp truyền thông về an toàn vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe, dự phòng bệnh nghề nghiệp ở người lao động dệt may vẫn luôn được các tác giả trên thế giới coi trọng [80], [88], [99]. John Birchall (2007), khi nghiên cứu về cải thiện hành vi đảm bảo an toàn vệ sinh lao động [94], Hadi S., Topobroto (2012) [88], khi nghiên cứu về truyền thông, giáo dục văn hóa, đảm bảo ATVSLĐ cho công nhân, đã nhấn mạnh yếu tố chủ thể cần có tác động nhiều nhất là người lao động. Các tác giả này đều cho rằng nếu không chuyển đổi được hành vi có lợi cho an toàn và sức khỏe ở người lao động thì khó có thể giảm thiểu tai nạn và bệnh nghề nghiệp. Bramber DH, Biganling P. D. and Doford W. (2013) [82], khi nghiên cứu về công tác chăm sóc
- 26 sức khỏe công nhân may mặc ở Căm Pu Chia đã ghi nhận rằng vấn đề thu nhập, tiền lương cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo năng xuất và ATVSLĐ, ông cho rằng cần có sự tác động đồng bộ trên hầu hết các vấn đề có liên quan như thời gian lao động, quan tâm của giới chủ và chế độ lương. ME Huq, Rahman M. R. và cộng sự (2013) [100] khi nghiên cứu về lao động và chăm sóc sức khỏe công nhân may mặc ở Bangladesh, cho rằng có tới 93% công nhân trong các xí nghiệp may mặc bị mệt mỏi đến mức như bị kiệt sức sau một ca lao động. Nghiên cứu cũng ghi nhận về thời gian lao động từ 9 đến 9,5 giờ mỗi ngày của công nhân. Trong nghiên cứu này các tác giả đã khuyến cáo về các giải pháp cải thiện môi trường và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người lao động, đặc biệt là các giải pháp bù đắp và phục hồi năng lượng sau thời gian lao động quá dài của mỗi ngày. Ở nước ta, mặc dù các nghiên cứu can thiệp chăm sóc sức khỏe công nhân đối với các ngành nghề khác, đặc biệt là công nhân lao động công nghiệp nặng, hầm mỏ đã được tiến hành rất nhiều [1], [4], [15], [37]. Tuy nhiên các đề tài nghiên cứu về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe người lao động ngành may mặc còn ít được quan tâm, đặc biệt là các nghiên cứu can thiệp. Tổng kết các đề tài nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe người lao động trong ngành dệt may của nước ta trong giai đoạn gần đây cho thấy con số luôn dưới con số 5 trong mỗi hội nghị. Như vậy có thể nói đây là tỷ trọng rất thấp so với các nghiên cứu ở các ngành khác. Thực trạng thiếu hụt, bất cập trong nghiên cứu có thể do nhiều nguyên nhân về mặt kinh tế xã hội. Thực chất về mặt chiến lược, thì đối tượng người lao động trong công nghiệp dệt may nước ta chưa được quan tâm nhiều so với người lao động tại các ngành công nghiệp khác nên các nghiên cứu can thiệp ít là đương nhiên. Công tác chăm sóc sức khỏe tại các Công ty may ở hầu hết các tỉnh thành trong nước nói chung, khu vực phía bắc nói riêng (Thái Nguyên, Bắc Ninh, Phú Thọ ) cũng nằm trong bối cảnh chung là mang tính sự vụ và khuyến cáo. Như vậy, nghiên cứu đánh giá những tồn tại và áp dụng các giải pháp can thiệp phải được tiến hành nhiều hơn mới có thể đáp ứng được thực tiễn. Trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe người lao động nói chung, công nhân may nói riêng, các nhà
- 27 quản lý và các nhà khoa học đều thống nhất về sự kết hợp các giải pháp đồng bộ, bao gồm truyền thông giáo dục sức khỏe, các giải pháp chăm sóc y tế và kỹ thuật giảm thiểu tác hại nghề nghiệp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động [8], [12], [56], [58]. Trong báo cáo của Nguyễn Duy Bảo (2012) [5], về định hướng hoạt động của viện Y học lao động và vệ sinh môi trường nước ta trong giai đoạn tới đã đề cập nhiều về vấn đề nghiên cứu, đề xuất các giải pháp bảo vệ sức khỏe người lao động. Các ứng dụng kỹ thuật bảo vệ môi trường dự phòng bệnh tật ở người lao động đã được đưa vào hướng ưu tiên. Trong báo cáo của Bộ Lao động thương binh & Xã hội về thực trạng điều kiện lao động và sức khỏe công nhân may [8], các nhà chức trách cũng khuyến cáo về các giải pháp quản lý sức khỏe cải thiện môi trường bền vững. Sự kết hợp thực hiện ATVSLĐ với thanh kiểm tra phải luôn được cán bộ an toàn và y tế doanh nghiệp quan tâm thực hiện đầy đủ và đồng bộ [59]. Các giải pháp kỹ thuật trong chăm sóc sức khỏe, dự phòng tai nạn và bệnh nghề nghiệp cũng được nhiều tác giả quan tâm như: khẩu trang phòng chống bụi của Nguyễn Duy Bảo [3]; Đề xuất các giải pháp Ergonomie cải thiện điều kiện làm việc tại làng nghề dệt của Đào Phú Cường [16], năm 2008; Nghiên cứu đề xuất các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường dệt may thông qua các giải pháp kỹ thuật của Trịnh Hồng Lân [39], năm 2003; Khuyến cáo về xây dựng môi trường lao động an toàn, đảm bảo sức khỏe cho người lao động của Minh Trang [62] năm 2014. Về vấn đề khẩu trang phòng chống bụi trong công nhân may mặc đã được các nhà nghiên cứu đề cập, khuyến cáo rất nhiều trong thời gian gần đây [3], [19], [71]. Đa số các tác giả cho rằng việc ngăn cản bụi phát sinh do sản xuất của ngành may mặc xâm nhập vào bộ máy hô hấp không phải là vấn đề khó về kỹ thuật, bởi bụi từ bông vải, sợi vừa nhẹ lại dài. Người lao động chỉ cần sử dụng loại khẩu trang thưa và thoáng vừa đủ là có thể cản được bụi mà vẫn đảm bảo thông thoáng đường hô hấp. Như vậy vấn đề chính ở đây là khẩu trang đảm bảo kỹ thuật, an toàn và sử dụng thường xuyên trong lao động. Chúng tôi cho rằng đây cũng là một lưu ý quan trọng trong quá trình hình thành các giải pháp can thiệp chăm sóc sức khỏe công nhân may Thái Nguyên.
- 28 1.5. Các công ty may tại Thái Nguyên và một số đặc thù liên quan đến ATVSLĐ và công tác chăm sóc sức khỏe công nhân Tại Thái Nguyên, công nghiệp may đã hình thành và phát triển từ những năm 70 của thế kỷ XX. Công nghiệp may mặc tại Thái Nguyên được xếp vào nhóm có quy mô phát triển mạnh của cả nước. Chỉ tính riêng các nhà máy, xí nghiệp may mặc có qui mô hàng trăm đến hàng nghìn công nhân lao động đang hoạt động, sản xuất ổn định. Cho đến những năm 90, tại Thái Nguyên mới chỉ có 03 công ty, xí nghiệp may có quy mô hàng trăm công nhân. Tuy nhiên từ năm 2000 trở lại đây số các doanh nghiệp có quy mô như vậy tăng lên nhanh chóng. Giai đoạn đầu là mở rộng công ty TNG thành nhiều đơn vị thành viên với hàng nghìn công nhân. Sau năm 2004 hàng loạt các công ty, xí nghiệp mới được thành lập đưa con số người lao động lên tới hàng vạn người. Nền công nghiệp ở Thái Nguyên phát triển sớm với hàng vạn công nhân nên công tác y tế lao động cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe người lao động. Công tác Y tế lao động tại Thái Nguyên đã được quan tâm nghiên cứu, cung ứng dịch vụ từ những năm 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên định hướng một cách đầy đủ, phù hợp đối với công tác y tế lao động nói chung, cho công nghệ may mặc thì còn nhiều thiếu hụt. Vấn đề bảo vệ và chăm sóc sức khỏe người lao động, trong đó có người lao động may mặc đã được Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ 18 ghi nhận và đưa vào nghị quyết. Theo các số liệu báo cáo của các Ban, Ngành có liên quan, trong những năm qua công tác chăm sóc sức khoẻ, dự phòng bệnh tật nói chung tại các công ty may ở Thái Nguyên chưa được quan tâm đúng mức. Tại hầu hết công ty, nhà máy, xí nghiệp may mặc chưa có Bác sĩ làm nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người lao động. Công tác chăm sóc sức khỏe người lao động nghề may mặc ở Thái Nguyên thường được giao phó cho 1 đến 3 cán bộ y tế với trình độ điều dưỡng trung học nên họ chỉ làm được những việc ở trình độ sơ cấp của thầy thuốc nói chung như khám, chữa các bệnh thông thường và viết giấy chuyển đi khám ở tuyến trên. Kết quả xét nghiệm môi trường lao động định kỳ hàng năm của các cơ quan chủ quản đã cho thấy còn nhiều yếu tố bất lợi đối với sức khỏe công nhân như: ô nhiễm bụi, vi khí hậu không phù hợp với sức khỏe. Tỷ lệ các mẫu đo môi trường
- 29 vượt tiêu chuẩn cho phép còn cao ở khá nhiều cơ sở. Kết quả báo cáo hàng năm về sức khỏe, bệnh thường gặp của công nhân Công ty may Việt Đức (2008-2010), cho thấy có nhiều bệnh của công nhân mắc với tỷ lệ cao hơn ở các ngành, cộng đồng khác. Theo phản ánh của lãnh đạo và y tế đơn vị thì Công nhân công ty May Chiến Thắng, Công ty may TĐT và Công ty may TNG Thái Nguyên có tỷ lệ mắc các bệnh mũi họng và đường hô hấp mạn tính khác thường ở mức trên 70%. Vấn đề còn ở chỗ tỷ lệ mắc cao của các bệnh này xuất hiện ngay từ khi tuổi nghề còn rất thấp. Các số liệu đo kiểm của trung tâm y tế ngành dệt may cũng cho thấy có nhiều yếu tố đặc thù ảnh hưởng đến công tác chăm sóc sức khỏe công nhân may mặc ở Thái Nguyên. Ngoài các điều kiện, đặc thù chung của ngành may mặc cả nước thì ở Thái Nguyên cũng có nhiều vấn đề riêng. Sự gia tăng về quy mô sản xuất may mặc tại Thái Nguyên nhiều và nhanh hơn các tỉnh lân cận nên lực lượng lao động có sức khỏe yếu vẫn có cơ hội làm việc. Cơ sở vật chất của nhiều doanh nghiệp không đảm bảo yêu cầu sản xuất cũng như an toàn vệ sinh lao động cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác chăm sóc sức khỏe công nhân. Các số liệu của doanh nghiệp và cơ quan quản lý sức khỏe ngành dệt may cho thấy vấn đề cải thiện sức khỏe, tăng năng xuất lao động và khả năng kéo dài tuổi nghề ở các đối tượng công nhân may đang gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân. Các bệnh mũi họng sẽ là mở đường cho các bệnh đường hô hấp phía dưới và là nguyên nhân của việc suy giảm sức khoẻ và tăng thời gian nghỉ việc ở các đối tượng lao động này. Nhiều thầy thuốc cho rằng sự tồn tại của nhiều yếu tố nguy cơ đối với các bệnh đường hô hấp ở các cơ sở dệt may ở Thái Nguyên nên đã có nhiều công nhân mắc bệnh ngay từ khi mới vào nghề. Vì vậy, tổ chức điều tra và nghiên cứu về môi trường, sức khỏe, bệnh tật ở công nhân may Thái Nguyên và đặc biệt là tiến hành can thiệp có thể góp phần tích cực vào công tác bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của công nhân may là rất cần thiết. Nghiên cứu sẽ có thể thu được những giải pháp và kế hoạch chăm sóc sức khoẻ người lao động ngành dệt may một cách cụ thể, phù hợp với thực tiễn dựa trên những tồn tại của các yếu tố nguy cơ liên quan đến sức khỏe và cơ cấu các rối loạn bệnh lý, các bệnh thường gặp.
- 30 Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 2.1.1. Cơ sở sản xuất Nghiên cứu mô tả về môi trường lao động: Chủ động chọn 03 công ty, xí nghiệp may có dây chuyền công nghệ có thể đại diện cho may mặc Thái Nguyên, đó là: Công ty cổ phần đầu tư và phát triển TĐT, xí nghiệp may Chiến Thắng, Xí nghiệp may Việt Thái, thuộc công ty cổ phần TNG Thái Nguyên. Tại các doanh nghiệp này, sẽ tiến hành chủ động chọn tiếp các công đoạn (các khu vực) trong dây chuyền công nghệ có nhiều người lao động trực tiếp phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp. Các công đoạn chủ yếu được chọn kiểm tra là khu vực dây chuyền may, cắt và hoàn thiện. Đặc điểm chung của các mặt hàng sản xuất tại các doanh nghiệp may là có tỷ lệ cao các nguyên liệu tổng hợp (Hỗn hợp cotton có hàm lượng từ 10% đến 30% polyeste). 2.1.2. Cán bộ viên chức và người lao động: nghiên cứu mô tả về sức khỏe, bệnh tật và KAP về ATVSLĐ của người lao động Người lao động trực tiếp tại các công ty, xí nghiệp may đã được chọn. Các đối tượng công nhân được chọn theo nhóm trên cơ sở công việc và đặc biệt là đặc thù về môi trường và các yếu tố ảnh hưởng của nghề may mặc. Tiêu chuẩn loại trừ trong nghiên cứu mô tả: những công nhân đã di chuyển và làm việc ở nhiều đơn vị may mặc, tâm lý không ổn định; Những công nhân không đồng ý hợp tác chắc chắn trong toàn bộ quá trình theo dõi, nghiên cứu. Để tương đồng mẫu nghiên cứu giữa các cơ sở may mặc, chúng tôi loại trừ những công nhân có tuổi nghề dưới 02 năm. Cơ sở của lựa chọn này là do số công nhân có tuổi nghề dưới 02 năm chưa chịu nhiều ảnh hưởng của các tác hại nghề nghiệp, số công nhân có tuổi nghề trên 07 năm của các doanh nghiệp có ít và không giống nhau. (Công ty TĐT chỉ có khoảng 40 người, các doanh nghiệp khác có khoảng 50 đến 70 người). Trong nghiên cứu chúng tôi cũng loại trừ những công nhân có tuổi đời dưới 20 và trên 50 tuổi do số lượng của nhóm công nhân này cũng quá ít. Đối với nghiên cứu can thiệp và đối chứng Đối tượng được chọn là công nhân các phân xưởng có tiếp xúc nhiều với bụi bông và được chia thành 2 nhóm:
- 31 + Nhóm can thiệp: người lao động trực tiếp tại công đoạn may dây chuyền thuộc Công ty cổ phần đầu tư và phát triển TĐT. + Nhóm đối chứng (không can thiệp): người lao động trực tiếp tại công đoạn may dây chuyền tại xí nghiệp may Chiến Thắng. Hai đơn vị này được chọn vì cùng có những điểm tương đồng với nhau về quy mô sản xuất, tuổi nghề trung bình của công nhân, môi trường và điều kiện lao động. Quy mô và hoạt động của hai doanh nghiệp này cũng mang đặc điểm chung của các công ty, xí nghiệp may ở Thái Nguyên. Tiêu chuẩn loại trừ trong nghiên cứu can thiệp: tương tự như đối với nghiên cứu mô tả, những công nhân có tuổi nghề dưới 2 năm hoặc thường hay di chuyển đơn vị công tác (Về sức khỏe chưa chịu nhiều ảnh hưởng bởi các yếu tố nguy cơ, môi trường và điều kiện lao động). Tuy nhiên để tránh nhiễu, chúng tôi loại trừ các đối tượng mắc các bệnh mạn tính khó hồi phục: Lao tiến triển mới hồi phục; Mắc các bệnh tim, thận, gan ở mức độ phải nghỉ việc trong năm. Đối với nghiên cứu thu thập số liệu định tính Đối tượng được chọn để phỏng vấn là lãnh đạo chính quyền (Giám đốc) và công đoàn Công ty (Chủ tịch công đoàn). Đối tượng được chọn vào nhóm thảo luận là hai nhóm: - Nhóm các cán bộ chuyên môn về y tế và an toàn vệ sinh lao động của Công ty TĐT - Nhóm những công nhân có tuổi nghề cao, hiểu biết nhiều về những vấn đề liên quan đến môi trường lao động và sức khỏe, bệnh tật. 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 2.2.1. Địa điểm - Xí nghiệp may Chiến Thắng nằm ở P. Gia Sàng - TP Thái Nguyên. Xí nghiệp may Chiến Thắng là đơn vị thành viên của Tổng công ty may và dệt kim có trụ sở tại Hà Nội, có gần 500 công nhân đang trực tiếp sản xuất. Đây là một xí nghiệp đã có bề dày hoạt động nhiều năm nay trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên song hiện nay đang tồn tại nhiều vấn đề trong chăm sóc sức khỏe người lao động. - Xí nghiệp may Việt Thái cũng nằm ở P. Gia Sàng - TP Thái Nguyên, thuộc công ty cổ phần TNG Thái Nguyên thuộc khu vực Thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Đây là một trong những cơ sở may hiện đại của Thái Nguyên với số lượng công nhân đang làm việc khoảng trên 800 người. Tuy nhiên công tác chăm sóc sức khỏe người lao động hiện nay cũng chưa được quan tâm đúng mức.
- 32 - Công ty cổ phần đầu tư và phát triển TĐT có địa chỉ tại xã Điềm Thụy huyện Phú Bình. Công ty có hơn 600 công nhân đang trực tiếp sản xuất. Công nhân lao động tại công ty phần nhiều là từ các công ty, xí nghiệp may khác chuyển đến nên có tuổi nghề và tuổi đời tương tự như ở Xí nghiệp may Chiến Thắng. Đây là một công ty mới thành lập nên chưa có kinh nghiệm trong công tác chăm sóc sức khỏe người lao động. 2.2.2. Thời gian nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 2/2012 đến tháng 10/2014. 2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp, thiết kế nghiên cứu Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng hai phương pháp [27], [28]: - Nghiên cứu mô tả, thiết kế cắt ngang để xác định thực trạng môi trường lao động, sức khỏe, bệnh tật, KAP về ATVSLĐ và một số yếu tố liên quan (Đáp ứng mục tiêu 1 và mục tiêu 2). - Nghiên cứu can thiệp: can thiệp cộng đồng theo thiết kế can thiệp trước sau có đối chứng (Đáp ứng mục tiêu 3). Trong quá trình nghiên cứu, thu thập số liệu, chúng tôi kết hợp cả nghiên cứu định tính và định lượng trong các trường hợp cụ thể. Phương pháp, thiết kế nghiên cứu định tính: Nghiên cứu định tính được tiến hành với hai loại hình là phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. 2.3.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu 2.3.2.1. Cỡ mẫu và chọn mẫu cho nghiên cứu mô tả * Cỡ mẫu cho nghiên cứu sức khỏe, bệnh tật và KAP được tính theo công thức: 2 p.q n (1 / 2) 2 d Trong đó: : Xác xuất sai lầm loại 1, chọn = 0,05 Z1 - /2 = 1,96 Ấn định p = 0,3 (Tỷ lệ mắc các bệnh viêm mũi họng cấp tính trong công nhân may theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Dũng là 31,7 %.) [19]. q = 1 - p = 0,7
- 33 d: sai số mong muốn sẽ là = 0,03 Thay vào công thức ta có: 2 0,3(1 0,3) n 1,96 2 897 0,03 Cỡ mẫu trên đây được ứng dụng cho tất cả các nghiên cứu sức khỏe, bệnh tật, KAP và một số yếu tố liên quan. Để tránh thất thoát và dự phòng bỏ cuộc, chúng tôi lấy thêm 10%, thành 1000 người. Kỹ thuật chọn mẫu: chọn chủ đích 03 cơ sở. Sau đó chọn một số phân xưởng sản xuất chính trong 3 cơ sở đã chọn. Tiến hành chọn cá thể theo tỷ lệ công nhân của Công ty, sao cho đủ cỡ mẫu tương ứng. Cách chọn như vậy là để công nhân trong cùng các phân xưởng đó đều có quyền lợi như nhau. Để có sự tương đồng, chúng tôi dựa vào tỷ lệ công nhân có tuổi nghề từ 2 đến 7 năm trong các phân xưởng chính của 3 cơ sở để chọn mẫu. Trên cơ sở danh sách công nhân có tuổi nghề từ 2 đến 7 năm của các cơ sở, chúng tôi ước lượng theo tỷ lệ một cách tương đối và chọn ra được mẫu nghiên cứu theo phương pháp ngẫu nhiên đơn và được số liệu cụ thể như sau: - Công ty may TNG có 784 công nhân từ 2 đến 7 năm: chọn lấy 500 công nhân. - Xí nghiệp may Chiến Thắng có 377 công nhân từ 2 đến 7 năm: chọn lấy 240 công nhân. - Công ty may TĐT có 488 công nhân từ 2 đến 7 năm: chọn lấy 260 công nhân. * Cỡ mẫu cho nghiên cứu xét nghiệm chức năng hô hấp Cỡ mẫu mô tả CNHH được tính theo công thức sau: s2 nZ 2 1 2 2 ( X ) Trong đó: n: cỡ mẫu nghiên cứu. Z1-α/2: giá trị Z tại mức ý nghĩa α = 0,05 (Z1-α/2 = 1,96). S: độ lệch chuẩn: chọn theo Đỗ Trung Toàn: 0,27 lít. X : giá trị trung bình cũng trong nghiên cứu trên là 2,75 lít. Nghiên cứu của Đỗ Trung Toàn về dung tích sống (VC) ở công nhân than nội địa năm 2008, là 2,75 ± 0,27 lít, dẫn từ [31]. ε: mức sai lệch tương đối giữa các tham số mẫu và tham số quần thể, chọn mức ε = 0,07.
- 34 Thay vào công thức, ta tính được cỡ mẫu xét nghiệm chức năng hô hấp (n) cho nghiên cứu là 76. Để kết hợp với nghiên cứu can thiệp, khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi chọn và nghiên cứu toàn bộ công nhân của hai phân xưởng may dây chuyền của hai cơ sở (Đối chứng và can thiệp). Đây cũng là tạo điều kiện để đảm bảo tính tương đồng cho nghiên cứu can thiệp và dự phòng các trường hợp bỏ khám trong quá trình theo dõi, nghiên cứu can thiệp về sau này. Như vậy tại phân xưởng 2 thuộc Công ty may Chiến Thắng (Thuộc Tổng công ty dệt may Hà Nội đóng ở Thái Nguyên) có 144 người được xét nghiệm; Tại phân xưởng 5, thuộc Công ty may TĐT Thái Nguyên có 137 người được xét nghiệm. Cách chọn mẫu chủ đích như vậy là để đáp ứng tính phổ biến chung cho công nghệ may ở Thái Nguyên trên cơ sở đặc điểm môi trường và công việc có nhiều người tham gia. * Cỡ mẫu cho nghiên cứu xét nghiệm môi trường Do đặc điểm sản xuất của các cơ sở may thường theo dây chuyền, tập trung đông người, nhiều máy trên một khu vực nhà xưởng rộng nên các yếu tố môi trường có sự lan tỏa trên diện rộng. Vì vậy để xác định vị trí đo, số mẫu đo tại các cơ sở này chúng tôi thực hiện đúng thường quy kỹ thuật đánh giá môi trường lao động và kết hợp chọn mẫu theo công thức, vị trí đặc trưng cho phơi nhiễm. Ứng dụng theo công thức: 2 2 s n= Z 1-α/2 ( X )2 Trong đó: n: cỡ mẫu nghiên cứu. Z1-α/2: giá trị Z tại mức ý nghĩa α = 0,05; Z1-α/2 = 1,96. X : giá trị trung bình trong nghiên cứu về bụi môi trường của Nguyễn Đình Dũng = 15 mg/m3 không khí. S: độ lệch chuẩn cũng trong nghiên cứu này s = 6. ε: mức sai lệch tương đối giữa các tham số mẫu và tham số quần thể. Ấn định ε = 0,15. Thay vào công thức, tính được cỡ mẫu xét nghiệm bụi (n) cho nghiên cứu của chúng tôi tại ngành may Thái Nguyên là 28 mẫu. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã đo được 30 mẫu của mỗi chỉ số của mỗi doanh nghiệp (Một cơ sở can thiệp và một cơ sở làm đối chứng).
- 35 Để có đủ cơ sở đánh giá đồng bộ, chúng tôi cũng dùng cỡ mẫu này cho tất cả các loại xét nghiệm khác. (Các cơ sở can thiệp và đối chứng đều có cỡ mẫu 30). Kỹ thuật chọn mẫu: do có nhiều phân xưởng trong mỗi xí nghiệp, công ty nên chúng tôi chủ đích chọn mẫu và xét nghiệm tại các phân xưởng có nhiều công nhân lao động trực tiếp là các phân xưởng cắt, may và hoàn thiện. Phân xưởng cắt/02 mẫu. Các phân xưởng may dây chuyền/18 mẫu. Các phân xưởng hoàn thiện/10 mẫu. Cách chọn này dựa trên độ tập trung với số lượng nhiều của người lao động trong bộ phận sản xuất. Mỗi đơn vị mẫu xét nghiệm (Đơn vị tính) được tính cụ thể như sau: - Đo vi khí hậu: Do điều kiện môi trường lao động của công nhân may không có bức xạ nên chúng tôi chỉ xác định 03 chỉ số: nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió, sau đó tính chỉ số Webb theo quy định. Cách xác định mỗi mẫu đo vi khí hậu được thực hiện như sau: đo 05 vị trí (04 góc và 01 ở trung tâm) sau đó tính ra trị số trung bình. Cụ thể: 30 mẫu (30 x 5 = 150 mẫu thực đo). Các chỉ số Nhiệt độ; Độ ẩm; Tốc độ gió đều được đo theo quy trình tương tự như nhau. Mỗi mẫu đo vi khí hậu được đo và tính theo quy định như sau: đo 05 vị trí (04 góc và 01 ở trung tâm) sau đó tính ra trị số trung bình. Cụ thể: 30 mẫu (30 x 5 = 150 mẫu thực đo). Các chỉ số Nhiệt độ; Độ ẩm; Tốc độ gió đều được đo theo quy trình tương tự như nhau. - Đo độ ồn: mỗi mẫu đo độ ồn được đo ở 03 vị trí quanh tai của công nhân, cách xa tai 30 cm. Một mẫu đo theo phương trực diện của nguồn phát sinh ồn với lỗ tai. Hai mẫu còn lại cách tai 30 cm nhưng lệch 30O - 45O so với trục thẳng của nguồn phát sinh ồn và lỗ tai sau đó tính ra trị số trung bình. Cụ thể: 30 mẫu (30 x 3 = 90 mẫu thực đo). - Xét nghiệm bụi: mỗi mẫu được đo ở 01 vị trí chọn lọc theo quy định (Thường quy kỹ thuật 2002). Như vậy, tổng số mẫu xét nghiệm cho mỗi đơn vị (Doanh nghiệp) là 30 mẫu. - Ánh sáng: 30 mẫu tại các vị trí có nhiều công nhân làm việc (Theo thường quy kỹ thuật 2002). 2.3.3.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu cho nghiên cứu can thiệp Can thiệp và đánh giá chung về cải thiện KAP về ATVSLĐ, dự phòng và tỷ lệ giảm thiểu bệnh tật cho người lao động dựa theo công thức:
- 36 2 p1 q 1 p 2 q 2 n = (Z1- /2+ Z1-) 2 ()pp12 Lấy Z1- /2 = 1,96 Z1- = 0,84 (lực mẫu thường được lựa chọn là 80%) p1 = 0,32. (Tỷ lệ mắc các bệnh viêm mũi họng cấp tính trong công nhân may theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Dũng (2008) là 31,7 %.). p2: Ước lượng sau can thiệp/mong muốn tỷ lệ viêm mũi họng cấp tính cấp sẽ giảm xuống còn 15% (0,15). Cỡ mẫu này chúng tôi cũng ứng dụng chọn mẫu cho nghiên cứu can thiệp cải thiện KAP về an toàn vệ sinh lao động và các bệnh khác. Thay các số liệu trên vào công thức, kết quả tính được n = 94 người. Để tránh một số trường hợp bỏ cuộc hoặc thực hiện không đầy đủ theo yêu cầu của nhóm nghiên cứu trong quá trình can thiệp, chúng tôi cộng thêm 5% và làm tròn số là 100. Cụ thể: - Nhóm nghiên cứu (can thiệp/Công ty TĐT): 100 người. - Nhóm đối chứng (không can thiệp/XN may Chiến Thắng): 100 người. Chọn mẫu Chọn chủ đích 2 phân xưởng có trên 100 công nhân (01 phân xưởng làm đối chứng và 01 phân xưởng can thiệp/Thuộc 2 xí nghiệp, công ty may trên). Mẫu can thiệp: can thiệp toàn bộ phân xưởng 5 (Công ty TĐT) nhưng chỉ chọn ngẫu nhiên (Bốc thăm bỏ ngẫu nhiên sao cho số còn lại đủ 100 người để đánh giá sau can thiệp). Những người này phải có đủ điều kiện theo tiêu chuẩn chọn mẫu, được theo dõi, huấn luyện và giám sát thường xuyên về sức khỏe cũng như các yếu tố liên quan trong suốt thời gian 2 năm nghiên cứu. Mẫu đối chứng, không can thiệp là toàn bộ phân xưởng 2 (XN may Chiến Thắng): tiến hành chọn đối tượng nghiên cứu sao cho đảm bảo sự tương đồng của các cá thể theo các tiêu chí tuổi đời, giới tính, tuổi nghề và môi trường lao động. Số công nhân này cũng được theo dõi trong thời gian 2 năm nghiên cứu như nhóm can thiệp. 2.3.3.3. Cỡ mẫu và chọn mẫu cho nghiên cứu định tính Mục tiêu của việc thu thập các số liệu nghiên cứu định tính là nhằm xác định những cảm nhận, đánh giá về môi trường, an toàn vệ sinh lao động và các giải pháp
- 37 trong chăm sóc sức khỏe người lao động của lãnh đạo doanh nghiệp, tổ chức công đoàn và người lao động. * Cỡ mẫu phỏng vấn sâu được ấn định là 03 cuộc: 02 cuộc trước can thiệp và 01 cuộc sau can thiệp. Chọn mẫu phỏng vấn sâu chủ động, theo kinh nghiệm. Theo kinh nghiệm của các nhà y học lao động, lãnh đạo công đoàn và giám đốc các doanh nghiệp nói chung là những người có vai trò quyết định trong công tác chăm sóc sức khỏe người lao động. Tại đa số các doanh nghiệp, giám đốc thường kiêm chủ tịch Hội đồng bảo hộ lao động của doanh nghiệp. Chính vì vậy chúng tôi chọn và tác động vào hai đối tượng này là chính trong suốt quá trình nghiên cứu và can thiệp. * Cỡ mẫu thảo luận nhóm được ấn định là 04 cuộc: 02 cuộc trước can thiệp và 02 cuộc sau can thiệp. Mỗi nhóm 14 người. Chọn mẫu thảo luận nhóm chủ động, theo kinh nghiệm. Chúng tôi nhận thấy vấn đề can thiệp thành công hay không phải được đánh giá trên cơ sở hưởng ứng và tham gia của những người làm công tác chuyên môn và đặc biệt là người lao động trực tiếp. Chính vì vậy chúng tôi chọn thảo luận với nhóm các bộ ATVSLĐ, cán bộ y tế và nhóm công nhân lao động trực tiếp như sau: - Nhóm các bộ ATVSLĐ, cán bộ y tế: do tổng số cán bộ thuộc 2 nhóm này là 14 nên chúng tôi lấy mẫu toàn bộ. - Nhóm công nhân lao động trực tiếp: Ở Công ty TĐT có 06 phân xưởng chính, chúng tôi bốc thăm chọn ngẫu nhiên 2 trong số 6 phân xưởng may dây chuyền (Công nghệ chủ yếu của doanh nghiệp). Tiếp tục chúng tôi chọn mỗi phân xưởng 07 người, bằng cách chọn những công nhân có tuổi nghề trên 5 năm, nhanh nhẹn, nhiệt tình và có trách nhiệm cao với công việc và đồng nghiệp của mỗi phân xưởng để đưa vào thảo luận nhóm. Cách chọn mẫu thảo luận nhóm này được ứng dụng cho cả thảo luận đầu vào và đầu ra.
- 38 NGHIÊN CỨU MÔ TẢ (Điều tra, đánh giá, trƣớc can thiệp) KHÁM SỨC KHỎE/ ĐÁNH GIÁ MTLĐ ĐIỀU TRA KAP/ATVSLĐ Lƣu ý các bệnh HH Bụi, ồn, ánh sáng và vi và các yếu tố liên quan khí hậu TỔNG HỢP VÀ PHÂN TÍCH/ Chọn các vấn đề ƣu tiên để can thiệp Giảm thiểu Cải thiện KAP Sử dụng khẩu bệnh hô hấp về ATVSLĐ trang đạt chuẩn TỔNG HỢP VÀ ĐÁNH GIÁ SAU CAN THIỆP Sơ đồ 2.1. Tổng hợp quá trình nghiên cứu
- 39 2.3.4. Nội dung, sơ đồ can thiệp 2.3.4.1. Các nội dung và tổ chức can thiệp, bao gồm: * Công tác tổ chức Tổ chức, xây dựng Ban chỉ đạo đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và phòng chống bệnh hô hấp. Ban chỉ đạo trực thuộc và được Ban giám đốc chủ trì, Trưởng ban Y tế và Trưởng ban an toàn làm nòng cốt. Giám đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng bảo hộ lao động làm trưởng ban, Trưởng ban Y tế làm Phó ban thường trực có trách nhiệm tham mưu cho Ban giám đốc về mọi mặt trong công tác đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và phòng chống bệnh tật cho người lao động. Các thành viên phụ trách công tác an toàn vệ sinh viên của các phân xưởng đều được tham gia với tư cách chính thức. Ban chỉ đạo chăm sóc sức khỏe công nhân cũng có sự tham gia của lãnh đạo các phân xưởng. - Ban chỉ đạo họp hoặc hội ý mỗi tháng 01 lần để kiểm tra lại công việc đã thực hiện tháng trước, rút kinh nghiệm và bàn kế hoạch hoạt động, phân công công việc của tháng sau. Trong quá trình thực hiện có vấn đề gì khúc mắc thì xin ý kiến Trưởng ban và các chuyên gia để giải quyết. - Nhóm cán bộ giám sát có 01 đại diện của y tế và 01 an toàn vệ sinh viên của mỗi phân xưởng. Trưởng nhóm là Phó chủ tịch Hội đồng bảo hộ lao động (Cũng là một thành viên của Ban chỉ đạo). Hoạt động của nhóm là thường xuyên và trực tiếp trên cơ sở các nội dung liên quan đến công tác đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và phòng chống bệnh hô hấp. - Trên thực tế các thành viên trong Ban chỉ đạo đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và phòng chống bệnh hô hấp đều là kiêm nhiệm nên họ đã có lương và các khoản phụ cấp khác do doanh nghiệp chi trả. Tuy nhiên trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi có hỗ trợ kinh phí cho mỗi buổi tập huấn hoặc thanh kiểm tra. Như vậy sau khi đề tài kết thúc, các nhiệm vụ sẽ được duy trì bình thường và sẽ không gặp bất kỳ một trở ngại nào về mặt kinh phí.
- 40 NGHIÊN CỨU Công ty TĐT Xí nghiệp may (Can thiệp) Chiến Thắng (Đối chứng) Can thiệp tổng hợp - TT Giáo dục KAP về ATVSLĐ - Dự phòng và điều trị các bệnh Không can thiệp thường gặp (Bệnh HH) - Hỗ trợ các hoạt động CSSK và đảm bảo ATVSLĐ. - Tác động từ lãnh đạo Chính quyền và Công đoàn là quan trọng (Sau 2 năm (Sau 2 năm nghiên cứu) can thiệp) (Sau) Đánh giá hiệu quả - KAP về ATVSLĐ, - Tỷ lệ mắc bệnh Sơ đồ 2.2. Mô hình nghiên cứu can thiệp có đối chứng
- 41 * Các nội dung can thiệp Có 03 nhóm công việc theo chủ đề trong quá trình can thiệp là: Tập huấn, truyền thông; Tư vấn điều trị và hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát đảm bảo ATVSLĐ. + Tập huấn, truyền thông KAP về đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và chăm sóc sức khỏe, phòng chống các bệnh liên quan đến nghề nghiệp, đặc biệt chú trọng các bệnh hô hấp. Truyền thông cho tất cả các đối tượng theo từng chủ đề. - Tập huấn trước hết cho cán bộ Ban chỉ đạo theo yêu cầu công việc và chuyên môn phụ trách. Chúng tôi đã luôn tập trung hướng dẫn cụ thể những việc trọng tâm, cần làm đối với các cán bộ an toàn vệ sinh viên. Nhóm cán bộ này sẽ là tuyên truyền viên cấp II, tiếp tục các công việc chuyên môn hàng ngày. - Tập huấn cho công nhân một cách đầy đủ nhất về ATVSLĐ phòng chống các bệnh đường hô hấp. Giám sát thực hiện ATVSLĐ phòng chống các bệnh đường hô hấp của công nhân một cách nghiêm ngặt. Lắng nghe các ý kiến phản hồi từ người lao động để điều chỉnh thường xuyên kế hoạch can thiệp. Với định hướng, người lao động là trung tâm trong các hoạt động và kiểm chứng hoạt động của Ban chỉ đạo thông qua hiệu quả đối với người lao động, chúng tôi đã tập trung tiến hành 02 đợt tập huấn (Một đợt 02 buổi về công tác đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và một đợt 01 ngày về các vấn đề chăm sóc sức khỏe, phòng chống các bệnh liên quan đến nghề nghiệp, đặc biệt là các bệnh hô hấp). + Tư vấn, tập huấn cho cán bộ y tế đơn vị về chuyên môn trong khám phát hiện, điều trị bệnh kịp thời cho những người mắc bệnh nói chung, chú trọng vào các bệnh hô hấp nói riêng. (Có kiểm tra và hỗ trợ thường xuyên). Giai đoạn 02 tháng đầu, chúng tôi cử cán bộ trực tiếp khám, điều trị hoặc hướng dẫn cách xử trí các bệnh thường gặp nói chung, các bệnh hô hấp nói riêng khi có công nhân đến khám, mỗi tuần một lần. Sau 02 tháng, khi cán bộ y tế đã tương đối vững vàng về chuyên môn, chúng tôi giảm dần thời gian làm việc tại doanh nghiệp (Mỗi tháng 01 lần) cho đến hết một năm đầu. Chúng tôi đã cung cấp các tài liệu về chuyên môn cho cán bộ y tế nhằm giúp họ trau dồi tiếp tục các kỹ năng khám, phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh thường gặp.
- 42 + Kiểm tra và hướng dẫn công nhân thực hành sử dụng phương tiện bảo hộ lao động đúng, thường xuyên, hiệu quả. Hướng dẫn công nhân tham gia chăm sóc, cải thiện môi trường lao động của chính họ (Các thói quen vệ sinh giảm thiểu bụi rác ngay tại nơi làm việc để tránh bụi tồn đọng ở nền nhà phát tán vào không khí khi quạt gió hoạt động ). - Vấn đề sử dụng khẩu trang đã được đặt lên một vị trí quan trọng và có sự giám sát thường xuyên. Một mặt chúng tôi khuyến cáo doanh nghiệp trang bị cho công nhân loại khẩu trang của các cơ sở sản xuất có thương hiệu, đã được chứng nhận là hiệu quả và đảm bảo an toàn. Chúng tôi đã xin ý kiến tư vấn của các chuyên gia Viện Khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao động. Sau khi được tư vấn, giúp đỡ về mặt chuyên môn, chúng tôi đã chọn nguyên liệu vải sợi bông, có lỗ thủng thưa với kích thước lỗ từ 3 - 8 µm. Kích thước các lỗ mắt vải được chọn là phù hợp yêu cầu chuyên môn đã được các chuyên gia kiểm tra, hướng dẫn. Đây là kích thước vừa đủ, có thể ngăn được các dạng bụi sợi bông, vải (Loại bụi dài và nhẹ) mà không cản trở hô hấp. Trên cơ sở này, chúng tôi tiến hành may đủ cho mỗi công nhân 02 chiếc khẩu trang để họ dùng thử. Sau khi công nhân sử dụng và đánh giá là dễ sử dụng và có hiệu quả, chúng tôi đã yêu cầu doanh nghiệp đặt may theo mẫu để cấp phát đại trà cho công nhân sử dụng lâu dài. *Hoạt động giám sát, hỗ trợ và kiểm tra Trong quá trình nghiên cứu, can thiệp, chúng tôi kết hợp với Khoa Y tế lao động của Trung tâm y tế dự phòng của tỉnh và Trung tâm Y tế địa phương (Huyện Phú Bình) kiểm tra, giám sát và hỗ trợ về công tác y tế lao động nhằm gia tăng hiệu quả can thiệp và duy trì bền vững các kết quả can thiệp sau này. Công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành thường xuyên theo lịch và không theo lịch. Các hoạt động đảm bảo ATVSLĐ phòng chống các bệnh đường hô hấp trong công nhân may đồng thời được đề cập nhằm phát hiện các sai sót và có kế hoạch khắc phục kịp thời. Các cán bộ trong Ban chỉ đạo được phân công thay phiên nhau phụ trách công tác giám sát hàng tháng. Kiểm tra bất kỳ khi thấy có vấn đề về công tác đảm bảo ATVSLĐ phòng chống các bệnh đường hô hấp trong công nhân hoặc chuẩn bị cho một đợt triển khai những vấn đề mới.
- 43 2.4. Nội dung và các nhóm chỉ số nghiên cứu Khái niệm; Cách xác định; STT Nội dung NC Các chỉ số Đơn vị tính 1 Đặc điểm của đối Tuổi đời Được tính theo năm và phân theo tượng nghiên cứu nhóm: 20 – 29; 30 – 39; 40 - 50 Tuổi nghề Được tính theo năm làm nghề và phân theo nhóm: 2 – <3; 3 – <5; 5 - 7 Học vấn Theo các cấp học phổ thông: Tiểu học; Trung học cơ sở; Trung học phổ thông 2 Thực trạng môi trường, ATVSLĐ, sức khỏe, bệnh tật của công nhân may 2.1. Thực trạng Các chỉ số về vi khí hậu: môi trường của Nhiệt độ môi trường Nhiệt độ được đo OC công nhân may không khí (Các chỉ số môi trường được đo Độ ẩm môi trường Tỷ lệ % hơi nước so với mức bão vào hai thời điểm không khí hòa mang đặc tính Tốc độ gió môi trường Tốc độ vận chuyển của không khí, mùa nóng và không khí tính bằng m/s mùa lạnh. Mùa Chỉ số nhiệt độ hiệu Chỉ số tổng hợp, đánh giá sự tác nóng/Đo vào dụng (Webb). động kết hợp của cả 3 chỉ số: nhiệt tháng 6 đến Tiêu chuẩn: từ 23 đến độ, độ ẩm và gió môi trường. tháng 7 của các 25. năm; Mùa lạnh được đo vào Tiếng ồn môi trường Mức áp âm/Dexibel tháng 2 của các lao động năm) Chiếu sáng môi Cường độ ánh sáng được đo bằng trường lao động Luxmete Ô nhiễm bụi môi Hàm lượng bụi toàn phần được trường lao động tính bằng mg/m3 không khí 2.2. Thực trạng an KAP về ATVSLĐ - Hành vi đảm bảo ATVSLĐ toàn vệ sinh lao - Điều tra bằng phiếu hỏi động KAP về bệnh đường - Các chỉ số KAP về phòng chống hô hấp bệnh hô hấp - Điều tra bằng phiếu hỏi 2.3. Thực trạng Phân loại sức khỏe - Khám các chỉ số thể chất kết hợp sức khỏe, bệnh với đánh giá các bệnh tật - Xếp loại theo phân loại của Bộ Y tế
- 44 Khái niệm; Cách xác định; STT Nội dung NC Các chỉ số Đơn vị tính Tỷ lệ mắc một số - Các bệnh đường hô hấp trên như bệnh thường gặp mũi, họng; Các bệnh ở khí phế quản như viêm phế quản, bệnh bụi phổi bông - Khám lâm sàng và xét nghiệm do các BS chuyên khoa Cơ cấu các bệnh Khám lâm sàng và xét nghiệm do đường hô hấp các BS chuyên khoa sâu Thực trạng chức năng - Các chỉ số: Dung tích sống (VC); hô hấp Chỉ số lưu thượng thở ra giây đầu (FEV1 và Tiffeneau) - Được đo bằng máy đo CNHH 3 Một số yếu tố liên quan đến sức khỏe, bệnh tật của công nhân may Một số yếu tố Các bệnh đường hô Tính mối liên quan liên quan, ảnh hấp với ô nhiễm Bụi. hưởng đến tỷ lệ Các bệnh mũi, họng Tính mối liên quan mắc các bệnh với tuổi nghề. đường hô hấp Các bệnh phế quản Tính mối liên quan với tuổi nghề. Sử dụng khẩu trang -Là sử dụng loại khẩu trang của hợp cách với các bệnh các cơ sở sản xuất đã được đánh đường hô hấp giá về hiệu quả và an toàn. Công nhân đeo khẩu trang nghiêm túc, đầy đủ khi làm việc. -Tính mối liên quan với tỷ lệ bệnh Tập huấn đầy đủ với Tính mối liên quan (Chỉ số đầu các bệnh đường hô vào) hấp KAP về ATVSLĐ với Tính mối liên quan (Cả đầu vào và các bệnh đường hô hấp đầu ra) 4 Hiệu quả can thiệp Tổ chức can Thành lập Ban chỉ đạo Đủ các thành phần thiệp Tập huấn theo các nội Tập huấn đầu vào và định kỳ dung Hỗ trợ Cầm tay chỉ việc Giám sát thực hiện Định kỳ theo kế hoạch và không mục tiêu theo kế hoạch
- 45 Khái niệm; Cách xác định; STT Nội dung NC Các chỉ số Đơn vị tính Đánh giá hiệu Cải thiện KAP về Tính CSHQ và HQCT quả can thiệp ATVSLĐ Giảm tỷ lệ mắc mới Tính CSHQ và HQCT các bệnh đường hô hấp Giảm tỷ lệ các đợt tái Tính CSHQ và HQCT phát, cấp của các bệnh mạn tính của các bệnh đường hô hấp Giảm thiểu ảnh hưởng Tính CSHQ và HQCT xấu của bệnh bụi phổi bông Khả năng duy trì và Nghiên cứu định tính nhân rộng mô hình 2.5. Phƣơng pháp thu thập và xử lý số liệu 2.5.1. Phương pháp thu thập số liệu 2.5.1.1. Xét nghiệm môi trường Các xét nghiệm môi trường được tiến hành vào hai thời điểm: - Chọn xét nghiệm vào những ngày nắng của tháng 6 đến 7 hàng năm để đánh giá điều kiện môi trường mang đặc điểm nóng của mùa hè thu. - Chọn xét nghiệm vào những ngày lạnh, không mưa của tháng 2 hàng năm để đánh giá điều kiện môi trường mang đặc điểm lạnh, ẩm của mùa xuân. Không đo vào các ngày mưa vì không mang đặc điểm chung của mùa. * Đo và đánh giá các chỉ số vi khí hậu môi trường, ô nhiễm bụi/Theo “Thường quy kỹ thuật Y học lao động và vệ sinh môi trường - NXB Y học Hà Nội năm 2002”. * Chỉ số và máy đo: - Các máy đo vi khí hậu: Máy đo nhiệt độ Modell: TK 110 - 112; Máy đo tốc độ gió Modell: LV 120-130 của Cộng hòa liên bang Đức sản xuất năm 2011; Máy đo độ ẩm Modell: GOCT 6353-52
- 46 Đo tốc độ gió trong nhà bằng nhiệt kế Catha Modell:TGL 7394 của Cộng hòa liên bang Nga sản xuất năm 2005; - Máy đo cường độ chiếu sáng Modell: M&MPro LMLX101của Mỹ sản xuất năm 2012. - Máy đo nồng độ bụi cầm tay Modell: Nephelometer Sensidyne. Hãng Sensidyne của Mỹ sản xuất năm 2012. - Máy đo tiếng ồn Modell: M&MPro NLSL-5816 do Mỹ sản xuất năm 2012. * Phỏng vấn trực tiếp đối tượng nghiên cứu các thông tin về cá nhân, kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh hô hấp và cách phòng chống bằng bộ câu hỏi (phiếu điều tra) thiết kế sẵn bởi các chuyên gia về Y học lao động. * Khám lâm sàng toàn diện do các thầy thuốc có trình độ Bác sỹ chuyên khoa I hoặc Thạc sỹ trở lên, theo các chuyên khoa sâu bằng các phương tiện và dụng cụ chuyên biệt: Ống nghe; Đèn soi mũi họng; Búa phản xạ. Chẩn đoán xác định mắc bệnh hô hấp dựa vào tiêu chuẩn do Bộ Y tế quy định năm 2003 và ICD 10. Phân loại sức khỏe, bệnh tật chung theo quy định của Bộ Y tế [9], [11]. * Xét nghiệm cận lâm sàng: - Đo chức năng hô hấp bằng máy Vitalograph spirometer do các nước Anh- Mỹ- Tây Đức hợp tác sản xuất. Đánh giá tình trạng suy giảm chức năng hô hấp (SGCNHH) theo qui định của tổ chức Y tế thế giới trên cơ sở đề nghị của Balwil, DavidV Bates(1968), StaufferJ.L(1994) và sự phù hợp với các tác giả Việt Nam [3]. Hai chỉ số đánh giá chính là: Dung tích sống (VC); Thở ra gắng sức giây đầu (FEV1). - Thử nghiệm dị nguyên để đánh giá các bệnh dị ứng/Patch test theo “Thường quy kỹ thuật Y học lao động và vệ sinh môi trường - NXB Y học Hà Nội năm 2002”. - Phương pháp điều chế dị nguyên (Bụi môi trường lao động): Chọn các mẩu vải, sợi của doanh nghiệp đang sử dụng trong sản xuất. Cắt nhỏ và nghiền trong nước cất với nồng độ 5%. Vô trùng bằng đun cách thủy). Đóng lọ vô trùng, để tủ lạnh bảo quản. Khi mang ra sử dụng thì chỉ dụng trong 05 ngày. * Nghiên cứu định tính: - Phỏng vấn sâu: trực tiếp đối tượng nghiên cứu bằng các câu hỏi đã chuẩn bị sẵn theo mục tiêu nghiên cứu.



