Luận án Biện pháp bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở Đại học quân sự theo tư tưởng lấy tự học làm cốt của Hồ Chí Minh

pdf 190 trang ngocly 40
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Biện pháp bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở Đại học quân sự theo tư tưởng lấy tự học làm cốt của Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_bien_phap_boi_duong_phuong_phap_hoc_tap_cho_hoc_vien.pdf

Nội dung text: Luận án Biện pháp bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở Đại học quân sự theo tư tưởng lấy tự học làm cốt của Hồ Chí Minh

  1. ______ BIÖN PH¸P BåI D¦ìNG PH¦¥NG PH¸P HäC TËP CHO HäC VI£N ë §¹I HäC QU¢N Sù THEO T¦ T¦ëNG “LÊY Tù HäC LµM CèT” CñA Hå CHÝ MINH - 2013
  2. ______ BIÖN PH¸P BåI D¦ìNG PH¦¥NG PH¸P HäC TËP CHO HäC VI£N ë §¹I HäC QU¢N Sù THEO T¦ T¦ëNG “LÊY Tù HäC LµM CèT” CñA Hå CHÝ MINH nh: : 62 14 01 02 dẫn : - 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, kÕt qu¶ nªu trong luËn ¸n lµ trung thùc, cã nguån gèc xuÊt xø râ rµng. Tác giả luận án
  4. MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ MỞ ĐẦU 7 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 12 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI DƢỠNG PHƢƠNG PHÁP HỌC TẬP CHO HỌC VIÊN Ở ĐẠI HỌC QUÂN SỰ THEO TƢ TƢỞNG “LẤY TỰ HỌC LÀM CỐT” CỦA HỒ CHÍ MINH 35 1.1. Nội dung tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh 35 1.2. Quan niệm và giá trị sư phạm của việc bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh 46 Chƣơng 2 NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VỀ BỒI DƢỠNG PHƢƠNG PHÁP HỌC TẬP CHO HỌC VIÊN Ở ĐẠI HỌC QUÂN SỰ THEO TƢ TƢỞNG “LẤY TỰ HỌC LÀM CỐT” CỦA HỒ CHÍ MINH 64 2.1. Quá trình vận dụng tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh trong lịch sử dạy học và tự học ở các học viện, nhà trường quân đội 64 2.2. Thực trạng phương pháp học tập, tự học và bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự hiện nay 72 Chƣơng 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP BỒI DƢỠNG PHƢƠNG PHÁP HỌC TẬP CHO HỌC VIÊN Ở ĐẠI HỌC QUÂN SỰ THEO TƢ TƢỞNG “LẤY TỰ HỌC LÀM CỐT” CỦA HỒ CHÍ MINH 98 3.1. Yêu cầu xây dựng biện pháp bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh 98 3.2. Biện pháp bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh 101 Chƣơng 4 THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 128 4.1. Những vấn đề chung về quá trình thực nghiệm 137 4.2. Tiến trình và phân tích kết quả thực nghiệm 134 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 150 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ 152 CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153 PHỤ LỤC 163
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT 01 Cơ sở thực nghiệm CSTN 02 Đảng Cộng sản ĐCS 03 Đối chứng ĐC 04 Học viên HV 05 Học viện Hậu cần HVHC 06 Học viện Quân y HVQY 07 Phương pháp học tập PPHT 08 Nhà xuất bản Nxb 09 Thực nghiệm TN 10 Trung bình TB 11 Trung bình khá TBK 12 Trường Sĩ quan Chính trị TSQCT 13 Trường Sĩ quan Lục quân 1 TSQLQ1 14 Trường Sĩ quan Lục quân 2 TSQLQ2
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ Tên bảng, TT biểu, đồ Nội dung Trang thị, sơ đồ Bảng khái quát phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy 01 1.2 tự học làm cốt” và phương pháp học tập thụ động 54 02 2.1 Bảng tổng hợp đối tượng và số lượng điều tra 75 Bảng tổng hợp kết quả điều tra nhận thức của học 03 2.3 viên về phương pháp học tập lấy hoạt động tự học làm chủ yếu 84 04 2.4 Bảng tổng hợp kết quả học tập năm học 2010 – 2011 85 Bảng tổng hợp số lượng hình thức bồi dưỡng phương 05 2.5 pháp học tâp cho học viên ở đại học quân sự 86 Bảng lượng hoá các tiêu chí đánh giá về kết quả 06 4.1 thực nghiệm 132 07 4.2 Bảng chất lượng của các đơn vị tham gia thực nghiệm 135 08 4.3 Bảng tổng hợp kết quả kiểm tra trước thực nghiệm 136 Bảng thống kê kết quả kiểm tra về sự tiến bộ 09 4.4 phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của học viên 139 Bảng phân phối tần xuất kết quả kiểm tra sự tiến bộ về 10 4.5 phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của học viên qua thực nghiệm 139 Bảng phân phối tần xuất luỹ tích kết quả kiểm tra sự 11 4.6 tiến bộ về phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của học viên 140 12 4.9 Bảng phân phối các tham số đặc trưng kết quả tiến bộ
  7. Tên bảng, TT biểu, đồ Nội dung Trang thị, sơ đồ về phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm 142 cốt” của học viên qua thực nghiệm Bảng phân phối các tham số đặc trưng kết quả tiến bộ 13 4.12 về phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của học viên qua thực nghiệm 144 Bảng so sánh kết quả đánh giá sự tiến bộ về phương 14 4.13 pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của học viên các lớp thực nghiệm và đối chứng 147 Bảng so sánh kết quả đánh giá sự tiến bộ về kết quả học 15 4.14 tập của học viên các lớp thực nghiệm và đối chứng 148 Biểu đồ nhận thức của học viên ở đại học quân sự về 2.2. 16 phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” 78 Biểu đồ so sánh kết quả tiến bộ về phương phá học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của học viên giữa lớp 17 4.8 thực nghiệm và đối chứng qua thực nghiệm môn Giáo dục học quân sự 141 Biểu đồ so sánh kết quả tiến bộ về phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của học viên 18 4.11 giữa lớp thực nghiệm và đối chứng qua môn Giáo dục học quân sự 143 Đồ thị biểu diễn tần xuất luỹ tích điểm kết quả tiến bộ về phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” 19 4.7 của học viên qua môn Giáo dục học quân sự ở cơ sở thực nghiệm 1 140 20 4.10 Đồ thị biểu diễn tần xuất luỹ tích điểm kết quả tiến bộ
  8. Tên bảng, TT biểu, đồ Nội dung Trang thị, sơ đồ về phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của học viên qua môn Giáo dục học quân sự ở cơ sở thực nghiệm 2 143 Sơ đồ và mối quan hệ giữa “tự học” – “chỉ đạo” và 20 1.1 “thảo luận” theo tư tưởng Hồ Chí Minh 46 Các biện pháp bồi dưỡng phương pháp học tập cho học 21 3.1 viên ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” 126
  9. 9 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu Đề tài luận án “Bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh” được nghiên cứu sinh quan tâm nghiên cứu từ khi còn được đào tạo giáo viên chuyên ngành Giáo dục học ở Học viện Chính trị. Các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh đều tập trung vào tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, dạy học nói riêng. Khung lý thuyết của vấn đề nghiên cứu được dựa trên cơ sở làm rõ giá trị và tính đúng đắn của luận điểm về cách học tập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra. Theo Người, trong quá trình học tập, người học muốn dành kết quả cao phải nâng cao về PPHT, đặc biệt phải coi trọng vai trò của tự học, lấy tự học làm hoạt động cốt lõi trong quá trình nhận thức của mình. Luận điểm đó đã được Hồ Chí Minh chứng minh bằng thực tiễn quá trình tự học kiên trì và bền bỉ với ý chí, quyết tâm cao của chính bản thân Người. Học với cốt lõi là tự học sẽ giúp cho người học chủ động, tích cực, sáng tạo và đạt hiệu quả cao trong quá trình học tập. HV ở đại học quân sự cần phải có được PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh để vận dụng vào quá trình học tập và công tác sau này. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án được trình bày trong 151 trang và sử dụng 122 tài liệu tham khảo (112 tài liệu tiếng Việt, 10 tài liệu tiếng Anh). Kết cấu của luận án gồm: Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 4 chương (8 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục công trình khoa học của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 2. Lý do lựa chọn đề tài luận án Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tự học. Thông qua tự học và bằng con đường tự học, Người đã tự trang bị cho mình kiến thức,
  10. 10 phương pháp luận và phương pháp trong hoạt động cách mạng. Trong quá trình học tập, phương pháp học tập coi trọng tự học luôn được Người vận dụng và xác định là yếu tố chủ yếu trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Theo Hồ Chí Minh, để tiếp thu, lĩnh hội những kiến thức phong phú của nhân loại, người học phải có những cách thức tiếp nhận, lĩnh hội phù hợp với nhận thức và khả năng của mỗi người. Chính vì vậy, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Người chỉ rõ: “Cách học: Phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [48, tr.273]. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học, Đảng ta luôn coi trọng bồi dưỡng phương pháp học tập chủ động, tích cực và sáng tạo. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI chỉ rõ: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học” [19, tr.216]. Luật giáo dục năm 2005, sửa đổi và bổ sung năm 2009 đã xác định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [73, tr.34]. Lý luận dạy học hiện đại đã chỉ rõ, bản chất của quá trình dạy học ở đại học là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của người học dưới sự chỉ đạo của người dạy. Tự học có vai trò quan trọng trong quá trình lĩnh hội kiến thức, trở thành phẩm chất quan trọng và học tập suốt đời là triết lý sống của con người trong xã hội bùng nổ thông tin, xã hội học tập. Thông qua tự học, người học tích lũy được kiến thức, nâng cao khả năng tư duy, kỹ năng nhận thức [42, tr.187]. Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu chiếm lĩnh lượng thông tin lớn như hiện nay, người học không chỉ học tập trên giảng đường hay tự mình tìm kiếm thông tin trên các phương tiện kỹ thuật hiện đại, mà họ phải tích cực nâng cao năng lực tự học, kể cả khi nghe giảng trên lớp. Điều đó đòi hỏi người học phải tìm cho mình một PPHT chủ động, coi hoạt động học tập của mình là hoạt động chủ yếu
  11. 11 trong việc chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo. Học ở đại học là học phương pháp. Vì vậy, trong dạy học các trường đại học cần chú trọng bồi dưỡng PPHT cho người học. Nằm trong hệ thống các trường đại học trong cả nước, cùng với xu thế đổi mới giáo dục, các học viện, nhà trường đào tạo bậc đại học trong Quân đội nhân dân Việt Nam (sau đây gọi tắt là đại học quân sự) đã và đang tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học. Các trường đại học quân sự đã thực hiện đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy, gắn học tập với nghiên cứu khoa học và rèn luyện các kĩ năng nghề nghiệp cho HV để thực hiện tốt mục tiêu đào tạo theo hướng kết hợp đào tạo trình độ với đào tạo chức vụ, đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ cho quân đội. Tuy nhiên, các trường đại học quân sự ít chú ý đến việc bồi dưỡng, rèn luyện PPHT mà chủ yếu là tự học cho HV. Còn HV ở đại học quân sự, việc học tập chủ yếu ở trạng thái thụ động, chưa phát huy được tính chủ động thông qua tự học để lĩnh hội tri thức. Trong khi đó, quá trình dạy học ở đại học là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của người học dưới sự hướng dẫn tổ chức của người dạy. Việc bồi dưỡng PPHT chưa được quan tâm và khái quát thành hệ thống, thống nhất, còn mang tính cá thể ở từng học viện, nhà trường và từng cá nhân HV. Để khắc phục những hạn chế trên đây, cần phải bồi dưỡng cho HV ở đại học quân sự PPHT phù hợp. PPHT đó phải phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập, sáng tạo, phát triển năng lực nội sinh; có tác dụng cổ vũ, động viên, khích lệ người học. Dù học ở giảng đường hay tự học ở những nơi khác, dù có sự điều khiển, chỉ đạo trực tiếp của giảng viên hay không, HV cần phải luôn tích cực học tập. Việc bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh cho HV ở đại học quân sự có thể đáp ứng được những yêu cầu đó.
  12. 12 Xuất phát từ những lý do cơ bản nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu của luận án. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Bồi dưỡng PPHT cho HV ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh nhằm giúp cho HV ở đại học quân sự có cách học chủ động, tích cực đạt kết quả vững chắc; góp phần vào việc chỉ đạo sư phạm, nâng cao chất lượng dạy học nói riêng, chất lượng giáo dục, đào tạo ở các trường đại học quân sự nói chung trong bối cảnh đổi mới giáo dục, đào tạo của nhà trường quân đội hiện nay. 4. Khách thể, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học ở đại học quân sự. * Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh cho HV ở đại học quân sự. * Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi về nội dung: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu là hoạt động học tập, trong đó đi sâu nghiên cứu PPHT của HV đào tạo sĩ quan cấp phân đội bậc đại học hiện nay; nghiên cứu thực chất và giá trị tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh để từ đó bồi dưỡng PPHT cho HV ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh. - Phạm vi khảo sát: Luận án tập trung khảo sát, tọa đàm, trao đổi với HV các học viện, nhà trường quân đội đào tạo sĩ quan cấp phân đội bậc đại học, điển hình chủ yếu các học viện, nhà trường đào tạo từng loại hình cán bộ: Sĩ quan Lục quân 1, Sĩ quan Lục quân 2, Sĩ quan Chính trị,
  13. 13 Học viện Hậu cần, Học viện Quân Y. Thực nghiệm sư phạm tại 2 trường: Sĩ quan Lục quân 1 và Sĩ quan Chính trị. - Phạm vi về thời gian: Các số liệu điều tra, tổng kết sử dụng trong luận án từ năm 2007 đến nay. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài * Những đóng góp mới của luận án: - Góp phần làm sáng tỏ thực chất và giá trị thực tiễn của quan điểm “lấy tự học làm cốt” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình bồi dưỡng PPHT cho HV ở đại học quân sự hiện nay. - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn bồi dưỡng PPHT cho HV . - Đề xuất những biện pháp bồi dưỡng PPHT cho HV theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh. * Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án: - Về mặt lý luận: Luận án đã luận giải cơ sở khoa học cho việc bồi dưỡng PPHT “lấy tự học làm cốt” của HV ở đại học quân sự, góp phần nâng cao chất lượng quá trình dạy học trong quân đội. Đặc biệt là xây dựng quy trình bồi dưỡng PPHT “lấy tự học làm cốt” cho HV quân sự hiện nay PPHT trong môi trường dạy học ở đại học quân sự. - Về mặt thực tiễn: Luận án có thể là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các học viện, nhà trường quân đội hiện nay, đặc biệt là tài liệu trong bồi dưỡng PPHT, bồi dưỡng khả năng tự học, tự nghiên cứu nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của HV trong quá trình học tập tại trường.
  14. 14 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài 1.1. Các công trình nghiên cứu về phương pháp học tập và bồi dưỡng phương pháp học tập của các tác giả ngoài nước Phương pháp học tập của người học thường gắn với tính tự giác, tích cực, độc lập của họ trong quá trình học tập và gắn với quá trình dạy học. Đây là một yếu tố quan trọng, là cơ sở để người học phát huy tối đa năng lực và cách thức lĩnh hội kiến thức. Từ xa xưa các nhà giáo dục đã nhận thấy tầm quan trọng của PPHT và bồi dưỡng, chỉ dẫn PPHT và coi đây là điều kiện cơ bản nhất để người học đạt được kết quả cao trong quá trình học tập. Những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này thường gắn liền với các nhà giáo dục học nổi tiếng mà đến nay những tư tưởng ấy vẫn mang nhiều giá trị thực tiễn to lớn. Khổng Tử (551 - 479 TCN) là nhà giáo dục vĩ đại Trung Hoa cổ đại, được người đời suy tôn là “Vạn thế sư biểu”. Ông luôn quan tâm đến cách học và bồi dưỡng PPHT cho người học. Theo Ông, trong quá trình học tập, thầy chỉ dẫn gợi ra phương pháp, giải đáp những điều trò còn lúng túng, nghi hoặc; người học phải tích cực, độc lập, sáng tạo và phải có sự suy luận; người học phải biết kết hợp học với suy nghĩ “Học tư kết hợp”. “Người tự mình tu tập cần làm năm điều lành: Học cho rộng, hỏi cho cùng, nghĩ cho kỹ, biện cho rành, làm cho siêng” [83, tr.71 - 77]. Khổng Tử nhấn mạnh: “Học mà chẳng chịu suy nghĩ thì chẳng được thông minh. Suy nghĩ mà chẳng chịu học thì lòng dạ chẳng yên ổn” [83, tr.83] đã phản ánh tư tưởng về PPHT và chỉ dẫn PPHT cho người học thời bấy giờ. Ông coi trọng cách thức học tập cẩn trọng, tích cực, kiên trì và tư duy linh hoạt để đi đến thấu hiểu chân lý. Khổng Tử đòi hỏi người học phải có suy luận những kiến thức mới từ kiến thức người dạy đã trang bị: “Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa” [83, tr.95]. Như vậy, Ông luôn yêu cầu PPHT của người học phải tích cực, chủ động, độc lập và sáng tạo.
  15. 15 Xôcơrát (469 – 339 TCN) nhà triết học, nhà giáo dục Hy Lạp cổ đại, đã đề cập đến phương pháp dạy học nhằm bồi dưỡng PPHT cho người học mà Ông gọi là “thuật đỡ đẻ”. Dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt của người dạy mà người học tìm ra chân lý chứ không phải người học có được chân lý do người dạy chỉ ra. Làm như vậy sẽ “gợi lên những gì vốn đang tiềm ẩn trong trí tuệ và tâm hồn học sinh” [77, tr.36]. Chính “thuật đỡ đẻ” đó đã trau dồi, phát triển ở học sinh PPHT nắm thực chất, sâu sắc nội dung các vấn đề học tập. Đánh giá về phương pháp này, các tác giả Hà Nhật Thăng - Đào Thanh Âm viết: “Phương pháp dạy học đàm thoại của Xôcơrát đã đi vào lịch sử như là một trong những phương pháp dạy học truyền thống” [83, tr.41]. Rabơle (1490 - 1553), nhà giáo dục người Pháp quan niệm rằng: “phương pháp học tập diễn ra theo một quá trình: Nghe, đọc, suy nghĩ, liên hệ, ôn tập, sau đó kiến thức thu lượm được sàng lọc rồi thâm nhập tâm trí” [83, tr.81]. Theo Ông, học sinh muốn thu thập, tích luỹ kiến thức thì “phải học hỏi ở nhiều người khác” và “đọc mới là phương pháp học tập kiến hiệu” [83, tr.80]. Như vậy, Rabơle đã yêu cầu người học muốn có PPHT tốt phải rèn luyện các kỹ năng nghe, đọc và các kỹ năng khác giúp cho quá trình học tập có hiệu quả. Monteno (1576 – 1636), nhà giáo dục Hà Lan lại coi PPHT là “học qua hành, hành để học” và tư tưởng “hướng dẫn” PPHT đã được ông nhắc đến “người thầy không phải là có nhiệm vụ chuyển kiến thức của mình sang trò mà chỉ là huấn luyện viên hướng dẫn trò, làm cho trò tự mình rèn luyện trí xét đoán của mình” [83, tr.129]. Trong tác phẩm “Phép dạy học vĩ đại” của Jan Amos Komensky (1592 - 1670), nhà sư phạm, nhà lý luận giáo dục vĩ đại người Séc, Ông đã bàn về việc trang bị lý luận có tác dụng bồi dưỡng phương pháp dạy học. Ông đã có những tư tưởng về nguyên tắc, phương pháp sư phạm mới của việc dạy học
  16. 16 nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, phản đối phương pháp giảng dạy kinh viện giáo điều. Ông khẳng định: “Tôi thường xuyên bồi dưỡng cho học sinh của tôi tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc ứng dụng vào thực tiễn” [13, tr.84]. Như vậy, theo Komensky, bồi dưỡng cho người học phương pháp quan sát, khả năng trình bày vấn đề và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn học tập. Trong tác phẩm “Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên”, V.I. Lênin khi đặt nhiệm vụ cho thanh niên Xô Viết là học tập, Người đã nhấn mạnh vấn đề chủ yếu và quan trọng nhất là “học gì và học như thế nào”. Ông khẳng định: “Nhà trường của chúng ta phải đem lại cho thanh niên những kiến thức cơ bản, dạy cho họ biết tự tạo ra những quan điểm cộng sản và phải đào tạo họ thành những người có học thức” [70, tr.354]. V.I. Lênin đã quan tâm nhiều đến cách học, PPHT của thanh niên và truyền bá nó trong đội ngũ của họ. Người còn trăn trở “Tôi cũng sẽ cố gắng giải đáp vấn đề phải học cái đó như thế nào” [71, tr.374]. Như vậy, theo Lênin, người học muốn có kết quả tốt phải có cách học. Và Người đã bàn đến việc chỉ dẫn, định hướng về cách học, PPHT cho người học. Các nhà giáo dục Liên Xô cũ đã có nhiều công trình nghiên cứu về PPHT và hướng dẫn, chỉ đạo cho người học những cách thức học tập hiệu quả. Tiêu biểu là những công trình của L.X Vưgôtxki, xuất phát từ nghiên cứu về tâm lý nhận thức, nguồn gốc xã hội, Ông đề cao vai trò của giáo viên trong định hướng cho trẻ nhưng kỹ năng học tập độc lập sáng tạo. Ông khẳng định: “Những gì hôm nay trẻ làm được nhờ sự giúp đỡ của người lớn thì ngày mai nó có thể thực hiện độc lập” [28, tr.214]. Những nghiên cứu của L.X. Vưgôtxki về PPHT và hướng dẫn về PPHT là một trong những đóng góp to lớ của ông vào sự phát triển của lý luận dạy học hiện đại. A.X. Macarenco trong tác phẩm “Giáo dục trong thực tiễn” đã khái quát những cách thức chỉ dẫn
  17. 17 cho trẻ em cách làm việc, đặc biệt là trẻ em cá biệt và trẻ em không gia đình trong trại giáo dục của ông. Ông quan niệm: “dạy cho học sinh cách tương tác để học sinh tự chiếm lính kiến thức thông qua môi trường học tập” [74, tr.45]. Tác phẩm “Tổ chức công việc tự học của sinh viên đại học” của A.A. Gorokopxki và M.I. Lubixơna bàn về quá trình tổ chức hoạt động tự học. Đây là một công trình nghiên cứu những kỹ năng tự học và cách thức chỉ dẫn, định hướng tự học cho sinh viên đại học. Các tác giả khẳng định: “Chỉ có tự học và thông qua tự học mới giúp cho sinh viên cách thức khai thác, tìm kiếm thông tin và khả năng học tập suốt đời” [27, tr.96]. Trong tác phẩm “Nền giáo dục cho thế kỷ 21: Những triển vọng của châu Á - Thái Bình Dương”, Raija Roysingh (Ấn Độ) đã đề cao vai trò và PPHT của người học: “Việc công nhận người học là lực lượng tích cực, đúng ra là lực lượng chủ đạo trong quá trình kiến thức - học và việc họ tự nhận ra các tiềm năng của bản thân trong quá trình đó là điểm tựa chủ yếu cho việc định hướng lại giáo dục” [114, tr.123]. Ông đã chú trọng đến việc bồi dưỡng PPHT và tự học cho người học, giúp cho người học nhận thức được đúng tiềm năng của mình trong quá trình học tập. Tác phẩm “Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo” của Tsunesaburo Makiguchi đã đề cập nhiều vấn đề về giáo dục, trong đó Ông khẳng định: “Mục đích của giáo dục phải trùng làm một với mục đích bao quát hơn của đời sống người được giáo dục” [111, tr.13]. Ông đã khái quát bản chất quá trình học tập “hướng dẫn quá trình học tập và đặt trách nhiệm học tập vào trong tay mỗi học sinh, là quá trình hướng dẫn học sinh tự học” [111, tr.19]. Ông đề cập đến nhiều cách thức học tập và luôn coi trọng tự học. Tác phẩm “Tự học để dạy học” của Patrice Pelpel đã khái quát sự cần thiết phải nâng cao hoạt động tự học của đội ngũ giáo viên để đáp ứng với nhiệm vụ giảng dạy. Ông đã đề cập quan niệm, hình thức và điều kiện tổ chức tự học của giáo viên. Ông chỉ rõ: “Tự học là phương tiện để người dạy tự làm giàu kiến thức của bản thân” [117, tr.55].
  18. 18 Tác phẩm “Bản đồ tư duy trong công việc” của Tony Buzan đã đưa ra cách thức lập và sử dụng bản đồ kiến thức. Ông quan niệm: “Người học muốn nhớ lâu tri thức phải khái quát nội dung học tập và tự lập bản đồ tư duy, một cách thức ghi nhớ kiến thức rất nhanh và bền vững” [119, tr.78]. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra những biện pháp cụ thể để khái quát hóa lượng kiến thức cho bản đồ tư duy. Tác phẩm “Kỹ năng ngôn ngữ - Kỹ năng nâng cao hiệu quả học tập” của Lưu Kim Tinh (Trung Quốc) đã đưa ra vấn đề bồi dưỡng dạy học kiểu tác hợp nhằm tạo cho người học nắm được đặc trưng, nguyên tắc và lợi hình nâng cao hiệu quả học tập [108, tr.117- 126]. Ông cho rằng, thông qua kỹ năng ngôn ngữ, người học sẽ hình thành cách thức học tập phù hợp, hiệu quả cao. và công trình nghiên cứu PPHT và bồi dưỡng PPHT ã PPHT, song các tư tưởng và công trình đã một số vấn đề: nhấn mạnh cách học của sinh viên với tư cách là chủ thể học, khẳng định tầm quan trọng của việc hướng dẫn cách học cho sinh viên và sự cần thiết phải thay đổi cách dạy mà chưa đi sâu nghiên cứu hình thức, biện pháp cụ thể để bồi dưỡng cách học nói chung, PPHT nói riêng cho sinh viên. ng tư tưởng và và bồi dưỡng PPHT . 1.2. Các công trình nghiên cứu về phương pháp học tập và bồi dưỡng phương pháp học tập của các tác giả trong nước Sử sách viết về Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên ở nước ta có nói đến cách học tập của giám sinh. Theo đó phương pháp học của giám sinh
  19. 19 chủ yếu là tự học, tự nghiên cứu. Mỗi tháng nghe thầy giảng kinh truyện 2 kỳ, tập làm văn 4 kỳ. Bài tập có loại làm ngay tại lớp trong ngày phải xong, có loại đem về nhà làm. Có thể coi đây là một ví dụ về rèn cách học, cách tự học cho học sinh bậc đại học ngay từ thời đó, mà thời nay chúng ta đã và đang phát huy trong thực tiễn dạy học. Cùng với sự khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tháng 8/1945 là sự ra đời của nền giáo dục cách mạng “hoàn toàn Việt Nam”. Ở các trường đại học, các khoá học, lớp học thường tổ chức các hội nghị "Học tốt" để cùng nhau trao đổi, rút kinh nghiệm về PPHT. Nhằm hưởng ứng phong trào thi đua “Dạy tốt - học tốt”, nhiều cuộc vận động xây dựng phong cách học tập mới được sinh viên hưởng ứng sôi nổi nhằm xác định đúng đắn “động cơ, thái độ và phương pháp học tập mới” [40, tr.496], tự học đã trở thành phong trào rộng khắp trong sinh viên các trường đại học. Để kịp thời khái quát lý luận về PPHT và bồi dưỡng PPHT cho sinh viên, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã xuất bản tài liệu “Làm thế nào để học tốt”, “Muốn thành công trong học tập” cho sinh viên tham khảo. Đây là những tài liệu lý luận đầu tiên về bồi dưỡng PPHT cho sinh viên nhằm nâng cao kết quả học tập, giúp sinh viên “nắm bắt được những cách thức học tập tốt” [92, tr.35] trên cơ sở “được trang bị những kiến thức và được thực hành về cách học tập có hiệu quả” [93, tr.67]. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX trở lại đây, trong các giáo trình, tài liệu về lý luận dạy học đại học và giáo dục học đã viết về tự học nhằm bồi dưỡng lý luận cơ bản về tự học cho người học, giúp sinh viên vận dụng có hiệu quả vào hoạt động học tập của mình. Ngoài ra, có nhiều bài báo khoa học của các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục, nhà khoa học viết về vấn đề tự học của người học được đăng tải chủ yếu ở các tạp chí giáo dục. Tự học phải có cơ sở khoa học mà then chốt là có PPHT sáng tạo và chỉ dẫn, phổ
  20. 20 biến nó cho nhiều người áp dụng. Từ đòi hỏi này của thực tiễn, Trung tâm Nghiên cứu phát triển tự học ra đời (tháng 5/1997) với mục tiêu đúng như tên gọi của nó và cho ra mắt tạp chí “Tự học” từ năm 1999 (nay là tạp chí Dạy và học ngày nay). Tạp chí “Tự học” là nơi công bố các kết quả nghiên cứu, là diễn đàn trao đổi phổ biến kinh nghiệm tự học, PPHT. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã coi việc bồi dưỡng PPHT cho sinh viên đại học là việc làm cần thiết, là điều quan trọng: “ điều chủ yếu nhất là rèn luyện cho học sinh biết dùng cái thông minh, cái trí tuệ của mình, biết phát huy cái sáng tạo của họ. Muốn vậy, phải rèn luyện cho họ có PPHT, phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp đọc sách, phương pháp trình bày và rèn luyện thành nếp, thành thói quen. Ở trường đại học, điều chủ yếu là học phương pháp” [25, tr.25]. Theo Ông, điều quan trọng của bậc học đại học là giảng viên bồi dưỡng cho sinh viên PPHT, tức là những cách thức học tập để sinh viên tiếp cận chiếm lĩnh tri thức. Ông nhấn mạnh: “ không phải là nhồi nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn độn, tuy rằng kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho học trò phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp diễn tả, rồi đến phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề” [25, tr.34]. Tác giả Phạm Trung Thanh với cuốn sách “Phương pháp học tập - nghiên cứu của sinh viên cao đẳng, đại học” (1999) quan niệm “phương pháp học tập - nghiên cứu vừa mang ý nghĩa là một công cụ, một phương tiện để tiến hành hoạt động đào tạo, vừa là một bộ phận nằm trong chương trình đào tạo nghề cho sinh viên” [79, tr.3-4] từ đó xác lập mô hình về PPHT - nghiên cứu của sinh viên. Theo tác giả, sau khi xác lập những nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng và những nội dung cơ bản của PPHT - nghiên cứu của sinh viên đã vạch ra mô hình PPHT - nghiên cứu gồm các thành phần: Xác định mục đích, động cơ, thái độ, gắn lý luận với thực tiễn, việc học ở trên lớp, việc
  21. 21 học tập nghiên cứu ở nhà, việc học tập, nghiên cứu tập thể, việc học tập, nghiên cứu qua kiểm tra thi, việc tập dượt nghiên cứu khoa học [81, tr.14-77]. Tác giả đã có những ý tưởng cần thiết bồi dưỡng PPHT cho sinh viên để họ sử dụng thành thạo chúng mang lại “hiệu quả tiếp thu” kiến thức và “hình thành được hệ thống kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp”. Vì vậy, “phương pháp học tập - nghiên cứu cần được mọi sinh viên quán triệt ngay từ những năm đầu mới bước vào trường cao đẳng, đại học” và nhấn mạnh “cần đặc biệt chú ý đến việc học tập phương pháp, tính chất hợp lý khoa học của việc tổ chức, xây dựng các kế hoạch học tập nghiên cứu” [81, tr.82]. Tác giả Thái Duy Tuyên đã có nhiều công trình bàn đến phương pháp dạy và học. Cuốn sách “Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới” đã bàn nhiều đến PPHT của người học. Trong đó, tác giả đã cho rằng quá trình tự học ngoài giờ lên lớp của sinh viên là hướng cốt lõi trong quá trình chiếm lĩnh tri thức của người học [107, tr.145]. Muốn vậy, các trường đại học cần nâng cao hiệu quả chỉ dẫn về phương pháp và kỹ năng tự học thông qua hình thức tổ chức và phương pháp dạy học. Theo tác giả, sinh viên có được PPHT và khả năng tự học là do sự chỉ dẫn, định hướng của người dạy. Người dạy thông qua phương pháp dạy học của mình để bồi dưỡng cho sinh viên cách tự học, tự nghiên cứu. Tác giả Lê Khánh Bằng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tự học và PPHT. Theo ông: “Để tạo ra sự chuyển biến từ lối học tập thụ động sang tự học chủ động, cần làm cho sinh viên có ý thức chủ động học tập; cần phải bồi dưỡng cho họ năng lực chủ động học tập bằng cách rèn luyện 4 kỹ năng cơ bản: Kỹ năng định hướng trong học tập; kỹ năng thiết kế kế hoạch học tập; kỹ năng thực hiện kế hoạch đã vạch ra; kỹ năng tự kiểm tra quá trình học tập của bản thân ” [3, tr.69]. Để có được các kỹ năng đó, các cơ sở giáo dục cần phải làm tốt chức năng định hướng, chỉ dẫn về PPHT, tạo cho sinh viên sự
  22. 22 hiểu biết và vận dụng các PPHT có hiệu quả để từ đó hình thành được những kỹ năng cơ bản trong học tập. Theo hướng đó, tác giả Hà Thị Đức coi tự học trên lớp là một PPHT tích cực nhằm “nảy sinh các thắc mắc khi nghe giảng, tự sắp xếp những lời giảng của thầy để ghi vào vở, thảo luận nhóm, giải bài tập ” [26, tr.98]. Thông qua giờ trên lớp, người dạy phải tạo lập mối liên hệ ngược để chỉ dẫn, định hướng cho người học các cách thức học tập hiệu quả, đảm bảo vừa phù hợp với lôgic môn học, vừa phù hợp với trình độ nhận thức. Tác giả Trần Bá Hoành cho rằng: “Vấn đề phương pháp học tập của sinh viên đã bước đầu được quan tâm nghiên cứu, tập trung ở các khía cạnh tạo động lực học tập tích cực, xây dựng phương pháp học tập chủ động, xây dựng kỹ năng tự quản lý điều khiển quá trình học tập đó, tổ chức sinh viên tập dượt tham gia nghiên cứu khoa học” [36, tr.33]. Các khía cạnh đó phụ thuộc vào sự thống nhất nhận thức và chủ trương chỉ đạo của các cơ sở giáo dục đại học. Muốn chất lượng giáo dục đại học đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, các cơ sở giáo dục đại học cần đưa ra và hiện thực hóa chủ trương bồi dưỡng cách tự học, tự nghiên cứu cho người học. Các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo trong cuốn sách “Học và dạy cách học” đã bàn về mối quan hệ giữa dạy và học, làm thế nào để bồi dưỡng cho người học PPHT hiệu quả nhất Các tác giả cho rằng: “Mục đích của dạy là làm cho người học học đúng cách, làm cho người học biết cách học và cách đó là khả thi; đó là làm thay đổi cách hiểu của người học sao cho học sinh, sinh viên bắt đầu quan niệm về hiện tượng và ý tưởng theo cách mà các nhà khoa học, toán học, sử học, lý học , có nghĩa là làm cho học sinh, sinh viên hiểu được các nhà khoa học đó” [85, tr.221]. Muốn làm cho người học biết học đúng cách, giảng viên cần định hướng, chỉ dẫn cho họ về cách học. Khi người học đã nắm rõ lý thuyết về
  23. 23 cách học, họ sẽ lựa chọn và vận dụng vào thực tiễn quá trình học tập, so sánh, đối chiếu và sử dụng PPHT phù hợp với chính bản thân mình. Nhóm tác giả Đoàn Văn Khái, Nguyễn Anh Tuấn, Dư Đình Phúc trong sách “Lôgic học và phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học” đã chỉ rõ đặc điểm, yêu cầu của các PPHT cơ bản. Trong đó, các tác giả yêu cầu người học chủ yếu phải hình thành PPHT chủ động, tích cực, sáng tạo thông qua các hình thức dạy học. Các tác giả khẳng định, người học muốn học hiệu quả phải tự nghiên cứu cá nhân để khám phá, tìm tòi kiến thức mới, sau đó phải hợp tác với bạn để học bạn và hợp tác với thầy để học thầy và tự điều chỉnh” [64, tr.148, 149]. Quá trình người học hợp tác với thầy, thầy phải làm tốt vai trò định hướng, chỉ dẫn về cách thức học tập, không nên bày cỗ sẵn làm cho người học không rèn luyện khả năng sáng tạo và tư duy độc lập. Tổng quan các công trình nghiên cứu về PPHT ở trong nước cho thấy, ngay từ những ngày đầu tiên của nền giáo dục “hoàn toàn Việt Nam”, một nền giáo dục dân tộc, đại chúng và khoa học, các nhà giáo dục đã chú ý đến PPHT của người học và chú trọng đổi mới cách dạy cho người học tích cực, chủ động. Như vậy, các tác giả đã tập trung nghiên cứu PPHT và bồi dưỡng PPHT chủ động, tích cực và sáng tạo của người học. Từ đó, các tác giả đều coi trọng vấn đề muốn nâng cao chất lượng học tập, muốn đổi mới phương pháp dạy và học ở đại học hiện nay, ngoài việc chú ý đến đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy của giáo viên, phải coi trọng bồi dưỡng, chỉ dẫn PPHT cho người học. Nhận thức được vai trò có ý nghĩa quan trọng của tự học và PPHT trong đào tạo bậc đại học ở các nhà trường quân sự, các học viện, trường sĩ quan luôn quan tâm chỉ đạo việc bồi dưỡng PPHT cho HV. Bằng các hoạt động như: tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm phương pháp huấn luyện, phương pháp dạy học; trao đổi, toạ đàm, nói chuyện giữa các học sinh giỏi của các khoá trước với
  24. 24 những HV mới nhập học; giao lưu học hỏi kinh nghiệm học tập tốt giữa các học viện, nhà trường. Có nhiều bài báo khoa học bàn về PPHT, cách học của HV được đăng tải trên các tạp chí, các tờ thông tin của Bộ, các tổng cục, quân, binh chủng, học viện, trường sĩ quan. Tác giả Trịnh Quang Từ tập trung nghiên cứu: “Những phương hướng tổ chức hoạt động tự học của sinh viên các trường quân sự”. Theo tác giả, chất lượng giáo dục đào tạo ở các nhà trường quân sự muốn có hiệu quả cần phải tổ chức tốt hoạt động tự học cho HV, cần tập trung vào các phương hướng: hình thành cho HV hệ thống kỹ năng tự học; tổ chức cho HV thực hiện một hệ thống bài tập nhận thức tăng dần mức độ khó; khuyến khích HV tự kiểm tra – đánh giá kết quả hoạt động tự học của mình [108, tr.35]. Trong cuốn “Phương pháp tự học”, tác giả tập trung phân tích những kỹ năng tự học cơ bản, coi hoạt động tự học không chỉ là phương pháp hay hình thức tổ chức dạy học, mà con đường để người học không ngừng nâng cao học vấn, tiếp cận nghề nghiệp mới [109, tr.56]. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu nghiên cứu PPHT nói chung của HV, mới chỉ nghiên cứu tự học ngoài giờ lên lớp, chưa bàn sâu về mối quan hệ giữa tự học ngoài giờ lên lớp với tự học trên lớp. Tác giả Mai Văn Hoá với luận án tiến sĩ: “Những giải pháp cơ bản bồi dưỡng phương pháp tự học cho học viên đào tạo sĩ quan ở các trường Đại học Quân sự” (2003) cho rằng “Học cái gì rất cần, nhưng học như thế nào còn cần hơn. Học để biết là cần nhưng học cách để biết còn quan trọng hơn nhiều” [33, tr.5]. Tác giả đã tập trung nghiên cứu về quá trình bồi dưỡng cho học viên phương pháp tự học. Theo tác giả, HV muốn tự học tốt phải có mục đích, động cơ học tập đúng. Từ đó họ nảy sinh lòng ham học, tính tự giác tích cực, tự lực say mê tìm tòi nghiên cứu, là động lực bên trong của sự tự học. Không có hoặc thiếu mục đích, động cơ tự học mạnh mẽ thì HV không thể có hoạt động tự học đích thực. Học là quá trình phát triển nội tại và tự thể hiện, tự biến đổi mình.
  25. 25 Học phải biết cách học, tự mình tìm lấy kiến thức theo cách riêng mình và biết tự kiểm tra, điều chỉnh việc học của mình. Tác giả nhấn mạnh : “học để biết cách học, muốn tự học tốt thì phải có phương pháp tự học tốt” [33, tr.21]. Tuy nhiên, tác giả chưa bàn đến PPHT của HV khi trên lớp có giảng viên hướng dẫn, chỉ đạo, mới tập trung đến những cách thức học tập tự lực của HV khi không có giảng viên. Do vậy, vấn đề PPHT coi trọng tự học chưa được đề cập đến. Công trình nghiên cứu: “Những phương hướng cơ bản của việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học viên trong quá trình nghiên cứu các môn khoa học xã hội” của tác giả Đặng Đức Thắng đã khái quát việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của HV nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo; đưa ra đặc điểm học các môn khoa học xã hội nhân văn quân sự; đề xuất các giải pháp để thực hiện việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học viên khi học các môn khoa học xã hội nhân văn quân sự. Trong đó, tác giả cũng đã đưa ra việc tổ chức tốt hoạt động tự học và từng bước bồi dưỡng kỹ năng tự học cho học viên các nhà trường quân sự. Tác giả cho rằng : “Tự học là hình thức học tập độc lập, sáng tạo của người học, nhằm lĩnh hội, củng cố và vận dụng các kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng ” [84, tr.75]. Tác giả Trần Đình Tuấn trong nghiên cứu “Nâng cao chất lượng, hiệu quả bài giảng các môn khoa học xã hội và nhân văn ở các trường đại học quân sự”đã chú ý đến tác động kép của bài giảng các môn khoa học xã hội và nhân văn đối với HV ở đại học quân sự. Tác giả đã đi sâu phân tích hiệu quả bài giảng không chỉ dừng lại ở việc trang bị kiến thức, mà còn chú trọng đến cách học tập và chỉ dẫn cách học tập cho HV. Tác giả khẳng định : Thông qua phương pháp giảng của người dạy mà người học hình thành khả năng độc lập, sáng tạo. Chính người dạy đã định hướng, chỉ dẫn về PPHT cho người học thông qua giờ lên lớp của mình [104, tr.35]. Tác giả khái quát những cách thức cụ thể của giảng viên trong quá trình giảng bài trên lớp để giúp HV tích cực hóa hoạt động nhận thức, chủ động, sáng tạo. Tuy nhiên, tác giả ít bàn
  26. 26 đến việc giảng bài định hướng tự học, tự nghiên cứu cho HV. Tác giả Nguyễn Chính Trung trong bài viết: “Về việc xây dựng phương pháp học tập chủ động ở các học viện, nhà trường quân đội” đã khái quát các PPHT chủ động của HV ở các học viện, nhà trường quân đội, trong đó chú trọng cả cá cách thức học trên lớp và các cách thức học ở nhà (tự học) [91, tr.15]. Tác giả Phan Văn Tỵ với nghiên cứu: “Vận dụng dạy học hợp tác trong dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn ở đại học quân sự” đã khẳng định: “Trong dạy học hợp tác, người học luôn được coi là chủ thể tích cực của quá trình dạy học, có vai trò tự tổ chức, tự chỉ đạo quá trình học tập của mình thông qua tương tác nhóm” [110, tr.36]. Thông qua hợp tác, tác giả đã chú trọng đến việc bồi dưỡng những kỹ năng tự học, tự nghiên cứu cho HV ở đại học quân sự theo một quy trình cụ thể. Đồng thời, tác giả đã đề xuất những cách thức cụ thể để HV hợp tác trong học tập thông qua bài giảng và xêmina. Tuy nhiên, đề tài chưa đi sâu bàn kỹ việc định hướng, chỉ dẫn những cách thức học tập sáng tạo khác cho HV ở đại học quân sự. Nhìn chung, các tác giả trong quân đội đã tập trung nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp, bồi dưỡng phương pháp tự học. Như vậy, trong quân đội, có nhiều công trình của các tác giả nghiên cứu về tự học, bồi dưỡng phương pháp tự học; tuy nhiên, các tác giả trong quân đội mới tập trung nghiên cứu nhiều đến quá trình đổi mới phương pháp dạy học và quá trình tự học, trang bị phương pháp tự học cho HV các trường đại học quân sự nói chung, chưa có công trình nào bàn đến PPHT và việc bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” cho HV ở đại học quân sự. 1.3. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng tự học của Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói riêng đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm và nghiên
  27. 27 cứu một cách sâu sắc, đa dạng và phong phú. Đối với tư tưởng tự học của Hồ Chí Minh có một số tác giả trong và ngoài quân đội đã tập trung nghiên cứu, làm rõ tư tưởng và thực tiễn tự học của Hồ Chí Minh. Nghiên cứu về phương pháp nói chung, phương pháp học tập Hồ Chí Minh phải kể đến là cuốn “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” của tác giả Đặng Xuân Kỳ. Đây là một trong số ít những tài liệu đầu tiên nghiên cứu về phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh một cách khái quát và hệ thống, đã đưa việc nghiên cứu về phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh lên một tầm cao mới [67]. Tác giả cũng đã đề cập đến PPHT và tự học của Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng, chỉ rõ những tư tưởng Cuốn sách “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh” của tác giả Hoàng Chí Bảo là một công trình công phu đã tìm hiểu và trình bày tổng quan những nghiên cứu về phương pháp Hồ Chí Minh của một số công trình, cũng như nhận định trước đó của các tác giả khác về phương pháp và phương pháp luận Hồ Chí Minh [2]. Từ những khái quát chung về phương pháp, tác giả đã xác định những phương pháp cụ thể như: Phương pháp làm việc, phương pháp học, tự học, phương pháp nghiên cứu lý luận . Tác giả Phạm Đức Chấn với cuốn sách: “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác quản lý, giáo dục và cải tạo phạm nhân”. Thông qua các bài viết, bài nói, các văn bản do Người ký, cũng như cuộc đời hoạt động thực tiễn phong phú không mệt mỏi của Người, tác giả đã chỉ rõ: “Những tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh là sự khẳng định một quan điểm mới, hướng đi mới, nguyên tắc và phương pháp mới trong giáo dục cải tạo những người phạm tội” [10]. Nghiên cứu về quá trình dạy học theo tư tưởng dạy học của Hồ Chí Minh đã có nhiều tác giả nghiên cứu trên một số khía cạnh như mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy và học và vai trò, phẩm chất của người thầy giáo.
  28. 28 Tác giả Phan Trọng Luận với bài viết: “Bước đầu tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về dạy học” đã khái quát những quan điểm cơ bản của Người về dạy học. Tác giả đã khái quát những giá trị thực tiễn và sức sống trong chỉ đạo lý luận dạy học hiện nay [72, tr.25]. Tác giả Bùi Minh Hiền và Lê Xuân Phán có bài “Bước đầu tìm hiểu quan điểm Hồ Chí Minh về dạy và học” đưa ra những luận điểm sư phạm về dạy và học theo tư tưởng Hồ Chí minh và vận dụng trong quá trình dạy và học của sinh viên Đại học Sư phạm hiện nay [32]. Nghiên cứu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự học đã có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu và khái quát những giá trị cả về lý luận và thực tiễn . Tiêu biểu có bài viết “Hồ Chí Minh với vấn đề tự học” của tác giả Đặng Quốc Bảo đã khái quát quá trình tự học của Hồ Chí Minh và rút ra kết luận tự học chính là quá trình nỗ lực của bản thân người học trên tinh thần tự động học tập và kết hợp chặt chẽ với môi trường học tập [1]. Tác giả Nguyễn Hoàng Yến đã khẳng định tư tưởng của Người về tự học có giá trị lý luận và thực tiễn, là cơ sở để người học ở bất kỳ trình độ nào cũng vận dụng được trong quá trình học tập của mình. Tác giả đã khái quát những vấn đề nhằm bảo đảm chất lượng và hiệu quả hoạt động tự học là: có mục đích tự học; lao động nghiêm túc; bảo đảm điều kiện cho tự học; tích cực luyện tập và thực hành [112]. Tác giả Phạm Khắc Chương với bài viết “Hồ Chí Minh - Tấm gương sư phạm sáng ngời” đã khắc họa quá trình tự học, tự rèn luyện của Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng. Tác giả đã phân tích những cách thức học tập và tự rèn luyện của Người để trở thành một nhân cách vĩ đại và tấm gương sư phạm sáng ngời [14]. Luận án tiến sĩ “Tư tưởng tự học Hồ Chí Minh và biện pháp nâng cao việc tự học cho sinh viên Đại học Sư phạm” của tác giả Vũ Văn Nam đã chỉ
  29. 29 ra hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh về tự học. Từ việc khái quát tư tưởng tự học Hồ Chí Minh, tác giả so sánh giữa tư tưởng tự học với quan niệm truyền thống và quan niệm hiện đại, chỉ ra tự học là vấn đề cốt lõi của sinh viên đại học hiện nay [74]. Trong quân đội, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng huấn luyện quân sự nói riêng. Các nghiên cứu đều chỉ ra công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng quân đội, với giáo dục, huấn luyện và sự trưởng thành lớn mạnh của quân đội. Tiêu biểu là tập thể các nhà sư phạm quân sự với “Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục quân sự” đã tập trung đi sâu nghiên cứu và phân tích tư tưởng giáo dục, huấn luyện quân sự của Hồ Chí Minh, giá trị và sự vận dụng trong giáo dục đào tạo, huấn luyện quân sự ở các nhà trường quân sự và các đơn vị trong giai đoạn mới [79]. Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong lĩnh vực quân sự” tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, lãnh đạo, chỉ huy của các cơ quan, đơn vị, học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội. Trong đó, các tác giả đã khái quát tư tưởng của Người về học tập: “Học tập phải có ý thức “phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ ” [88, tr.112]. Tác giả Đặng Nam Điền với bài viết: “Tấm gương tự học Hồ Chí Minh - giá trị nhân văn giữa học và hành đối với mọi cán bộ đảng viên” đã khẳng định cuộc đời của Người là quá trình vừa học tập vừa hoạt động cách mạng nhằm đạt được mục tiêu lý tưởng cách mạng. Sâu xa hơn, đó là quá trình tự học, tự giáo dục của Người để hoàn thiện năng lực và nhân cách của mình phù hợp với mục tiêu, lý tưởng đó [23].
  30. 30 Tác giả Nguyễn Văn Chung với luận án tiến sĩ: “Vận dụng tư tưởng “huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào quá trình đào tạo ở đại học quân sự” đã phân tích làm rõ giá trị một luận điểm trong hệ thống tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, khảo cứu quá trình hình thành luận điểm và sự vận dụng trong giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội hiện nay [11]. Tác giả Trần Đình Tuấn với sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” đã khái quát tính toàn diện, phong phú về những tư tưởng, quan điểm và mong ước của Người về nền giáo dục dân tộc, dân chủ và nhân dân, về mục đích, nguyên lý giáo dục, phương pháp giáo dục. Tác giả đã dành 1 chương viết về tự học, tự giáo dục và khẳng định: “Theo cách giải thích của Hồ Chí Minh về luận điểm “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học” thì tự học không phải là một phương pháp học tập cụ thể mà là một quan điểm mới của lý luận dạy học” [102, tr.155]. Ngoài ra, còn nhiều luận văn thạc sĩ, bài báo khoa học viết về các khía cạnh khác nhau về tự học, PPHT chủ động, tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập và tự học . Nhìn chung, có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về tư tưởng tự học của Hồ Chí Minh và việc vận dụng tư tưởng đó trong bồi dưỡng tự học cho sinh viên đại học nói chung. Các công trình đã khẳng định tư tưởng tự học của Hồ Chí Minh có giá trị thực tiễn bởi được minh chứng sinh động bằng chính tấm gương tự học bền bỉ của Người. Tự học có vai trò cốt lõi trong quá trình chiếm lĩnh tri thức và quá trình công tác trên cương vị của mỗi người. Muốn quá trình công tác đạt hiệu quả cao, đòi hỏi người cán bộ phải tự học và nâng cao hướng dẫn tự học. Tuy nhiên, các công trình mới tập trung nghiên cứu tự học là hình thức học tập ngoài giờ, chưa coi tự học là phương pháp chủ đạo trong hệ thống PPHT của người học.
  31. 31 2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết Qua tổng quan các công trình nghiên cứu về PPHT và tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học, nhìn chung các công trình đã tập trung nghiên cứu các khía cạnh của quan điểm dạy học hiện đại là dạy cách học. Tuy nhiên, đối với PPHT và bồi dưỡng PPHT coi trọng tự học, các sau đây cần được tiếp tục nghiên cứu sâu: Về tư tưởng tự học của Hồ Chí Minh, các nghiên cứu nhìn chung mới khái quát và khẳng định tấm gương tự học, tự học suốt đời và các yếu tố của quá trình tự học từ trải nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp bách hiện nay của mỗi cơ sở giáo dục và mỗi cá nhân. Tuy nhiên, vận dụng quan điểm “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [48, tr.273] vào việc bồi dưỡng PPHT cho người học cả chính khóa, ngoài giờ, cả trong quá trình đào tạo và quá trình học tập suốt đời là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, giúp cho người học có khả năng tự học tập suốt đời chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống. Về phương pháp học tập, các công trình chủ yếu hướng người học đến tự học, nhưng chưa nhiều nghiên cứu sâu về cách học theo hướng tự học khi nghe giảng bài trên lớp hoặc có sự giúp đỡ, định hướng của giáo viên. Vì thế, người học vẫn cho rằng giờ trên lớp phải phụ thuộc thầy, tự học là phát huy khả năng nhận thức khi không có giáo viên. Vì vậy, quá trình nghe giảng, đọc tài liệu, người học chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo. Các nghiên cứu về tự học của các tác giả phần nào bàn về hình thức, hoặc phương pháp tự học mang sắc thái cá nhân, chủ yếu nghiên cứu tự học ngoài giờ. Ít có công trình nào bàn về việc bồi dưỡng PPHT coi trọng tự học cho HV các nhà trường quân đội. Tự học trong PPHT này được xác định là phần chính, phần chủ yếu, cốt lõi trong tổng thể phương pháp của người học,
  32. 32 và người học cũng chỉ coi tự học là nội dung chủ yếu trong cách thức học tập của mình. Tất cả các nhân tố khác của quá trình học tập đều phải xuất phát từ tự học của người học. Do đó, phải có nghiên cứu tiếp cận theo hướng này để làm rõ hơn vai trò chủ đạo của người học trong tất cả các khâu, các bước của quá trình dạy học. Cùng với nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, nghiên cứu quá trình dạy học, PPHT và bồi dưỡng PPHT cho người học đã được nhiều tác giả trên thế giới, trong nước và ở lĩnh vực quân sự bàn đến. Qua tổng quan vấn đề nghiên cứu trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, về nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, đã có nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài, trong nước và trong quân đội quan tâm nghiên cứu, khai thác ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Các công trình đó đã góp phần làm sáng tỏ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, huấn luyện. Tuy nhiên, các tác giả mới tập trung nghiên cứu tư tưởng giáo dục nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học để vận dụng ở các trường đại học, nhà trường quân đội. Việc nghiên cứu quan điểm “lấy tự học làm cốt” một cách sâu sắc và vận dụng vào việc bồi dưỡng cho người học phương pháp học tập coi tự học làm chính chưa có tác giả nào khai thác, nghiên cứu, đặc biệt là đối với học viên ở đại học quân sự. Thứ hai, về vấn đề phương pháp học tập nói chung, phương pháp học tập độc lập nói riêng trong lịch sử giáo dục thế giới, đã được các nhà giáo dục nói tới từ thời cổ đại. Dù ở thời kỳ nào, người dạy vẫn luôn tìm cách dạy cho người học tính tích cực tư duy, tự tìm tòi, phát hiện ra vấn đề học tập. Qua nghiên cứu các luận điểm, tư tưởng sư phạm, có thể thấy rằng dù ở phương Tây hay phương Đông, thời kỳ cổ đại hay trung đại, hiện đại, người dạy luôn có mong muốn trò của mình có những kiến thức thực tế. Tuy nhiên, qua tổng quan, có thể thấy rằng người dạy vẫn chiếm vị trí chủ đạo, kiểu áp đặt tuyệt đối trong cung cấp kiến thức, cho nên họ xem nhẹ việc bồi dưỡng
  33. 33 cách học cho người học. Vì vậy, việc bồi dưỡng PPHT, tự học nói chung chưa được quan tâm nghiên cứu sâu. Thứ ba, vấn đề bồi dưỡng phương pháp học tập, tự học cho sinh viên đại học nói chung và học viên ở đại học quân sự. Ở Việt Nam đã có những công trình chuyên khảo, đề tài nghiên cứu với các khía cạnh khác nhau như: học tập - tự học như thế nào, phương thức học, các PPHT, phương pháp tự học cụ thể và những ý tưởng về bồi dưỡng PPHT, phương pháp tự học cho sinh viên như: cách dạy hướng vào người học, hướng dẫn quá trình học tập, hướng dẫn cách học, học tập phương pháp. Nhưng làm thế nào (con đường, biện pháp) để bồi dưỡng được PPHT người học lấy tự học làm chính cho sinh viên, và vấn đề đó được viết thành lý luận để định hướng cho việc thực hiện bồi dưỡng thì chưa được các tác giả quan tâm nghiên cứu, trong khi đó thực tiễn lại đang cần những nghiên cứu như vậy. Trong quân đội, đã có một số luận án tiến sĩ và công trình nghiên cứu các phương hướng tổ chức hoạt động tự học và bồi dưỡng phương pháp tự học cho học viên các trường quân sự. Song vấn đề bồi dưỡng PPHT theo hướng lấy tự học làm chủ yếu trong quá trình đào tạo sĩ quan là vấn đề ít được nghiên cứu có hệ thống, cơ bản. Không chỉ tự học ở nhà, mà trong quá trình nghe giảng trên giảng đường, thực hành, tập luyện trên thao trường, HV cũng cần lấy tự học làm chính, không dựa vào giảng viên. Do vậy, cần có những công trình nghiên cứu về vấn đề này, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn đào tạo cán bộ quân đội trong xu thế đổi mới giáo dục, đào tạo hiện nay. Trong quá trình đào tạo, HV ở đại học quân sự phải chú ý đến việc phát huy tự học, lấy tự học là hoạt động cốt lõi trong quá trình học tập của mình. Vấn đề bồi dưỡng PPHT theo hướng “lấy tự học làm cốt” cho HV đòi hỏi phải trở thành một tư tưởng sư phạm rõ ràng nhất quán, một mục tiêu và nhiệm vụ dạy học cần đạt tới chứ không phải chỉ là biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học ở đại
  34. 34 học quân sự. Cần phải đưa vấn đề tự học trở thành cách thức chủ yếu, cốt lõi trong PPHT của HV. HV với tư cách là chủ thể của phương pháp đó, có cách thức tác động riêng đến nội dung kiến thức của xã hội và của nhà trường, lấy yếu tố tự chủ, tự lực là chủ yếu trong quá trình chiếm lĩnh nội dung học tập. Do đó, PPHT và bồi dưỡng PPHT “lấy tự học làm cốt” cho HV là vấn đề cần có sự nghiên cứu sâu, đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp có tính khả thi để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đáp ứng nhu cầu tự học, tự nghiên cứu của đội ngũ cán bộ quân đội hiện nay. 3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án Làm rõ cơ sở khoa học và thực chất tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh; đưa ra quan niệm và ý nghĩa của việc bồi dưỡng PPHT cho HV theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh; khảo cứu và đánh giá thực trạng để đề xuất yêu cầu, biện pháp bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh cho HV ở đại học quân sự nhằm nâng cao hiệu quả học tập của họ, đáp ứng yêu cầu dạy học hiện đại và từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội trong tình hình mới. 4. Nội dung nghiên cứu của đề tài luận án - Phân tích, luận giải, làm rõ thực chất tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh và những vấn đề lý luận về PPHT và bồi dưỡng PPHT cho HV ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh. - Đánh giá thực trạng và rút ra những vấn đề trong vận dụng tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh vào việc bồi dưỡng PPHT cho HV ở đại học quân sự. - Xác định yêu cầu và đề xuất các biện pháp bồi dưỡng PPHT cho HV ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh hiện nay.
  35. 35 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài luận án * Cơ sở phương pháp luận chung: Đề tài luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về giáo dục - đào tạo, nhất là những chủ trương đổi mới về phương pháp dạy và học trong thời CNH - HĐH đất nước. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án tiếp cận vấn đề theo quan điểm hệ thống - cấu trúc; quan điểm phức hợp: hoạt động - giá trị - nhân cách; quan điểm lịch sử - lô gíc; quan điểm thực tiễn để phân tích rõ hoàn cảnh lịch sử, điều kiện hình thành và quá trình vận dụng tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh trong lịch sử dạy học, tự học ở đại học quân sự; làm sáng tỏ cơ sở khoa học và thực chất tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Người. * Các phương pháp nghiên cứu: Đề tài luận án vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học giáo dục và các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác, bao gồm: - Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống hoá các vấn đề qua nghiên cứu hệ thống tài liệu lý luận, chuyên khảo, các bài báo khoa học thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. - Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tổng kết kinh nghiệm: Nghiên cứu các văn bản, báo cáo tổng kết giáo dục đào tạo của cơ quan đào tạo các học viện, nhà trường quân đội và các cơ quan quản lý thuộc Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị. Quan sát sư phạm: Tiến hành quan sát quá trình và các sản phẩm giáo dục đào tạo trong các học viện, nhà trường quân đội. Điều tra xã hội học: Xây dựng 2 mẫu phiếu điều tra với 03 đối tượng là giáo viên, HV và cán bộ quản lý ở 5 học viện và trường sĩ quan đào tạo trình độ
  36. 36 đại học: Học viện Hậu cần, Học viện Quân y, Sĩ quan Lục quân 1, Sĩ quan Chính trị, Sĩ quan Lục quân 2. Phương pháp tọa đàm: Xây dựng mẫu hỏi và tổ chức trao đổi với 100 HV ở 3 trường: Học viện Hậu cần, Sĩ quan Chính trị, Sĩ quan Lục quân 1. Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của các nhà khoa học trong và ngoài Quân đội về một số vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực nghiệm tại Trường Sĩ quan Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1. - Phương pháp hỗ trợ: Sử dụng phương pháp toán thống kê để xử lí các số liệu điều tra. * Giả thuyết khoa học: “Lấy tự học làm cốt” là một luận điểm quan trọng trong toàn bộ hệ thống tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh, trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động giáo dục - đào tạo của nước nhà nói chung và giáo dục - đào tạo trong quân đội nói riêng. Nếu đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ thực chất tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh; đồng thời biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng đó vào bồi dưỡng PPHT cho HV ở đại học quân sự bằng các biện pháp: Giáo dục và xây dựng động cơ, thái độ học tập cho HV; bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” thông qua các hình thức tổ chức dạy học; xây dựng quy trình bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” cho HV; tăng cường hoạt động theo nhóm để bồi dưỡng và tự bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” cho HV thì chất lượng học tập của HV ở đại học quân sự có thể sẽ được nâng lên.
  37. 37 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI DƢỠNG PHƢƠNG PHÁP HỌC TẬP CHO HỌC VIÊN Ở ĐẠI HỌC QUÂN SỰ THEO TƢ TƢỞNG “LẤY TỰ HỌC LÀM CỐT” CỦA HỒ CHÍ MINH 1.1. Nội dung tƣ tƣởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh 1.1.1. Cơ sở khoa học của tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành quả của sự chắt lọc tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại, vừa gắn với thực tiễn cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Nghiên cứu tư tưởng giáo dục nói chung và tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh nói riêng đều có nguồn gốc, điều kiện hình thành và xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn. Tư tưởng về cách học: “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [48, tr.273] không những có giá trị ở thời điểm lúc bấy giờ, mà còn có những giá trị to lớn trong công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay. Nghiên cứu về nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh nói riêng là kết quả vận dụng sáng tạo của nhiều yếu tố. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng phương pháp luận cơ bản để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Người tiếp thu triệt để chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư tưởng giáo dục Mác - Lênin nói riêng theo quan điểm “học tinh thần xử trí công việc”. Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống coi trọng việc dạy quân, luyện quân trong cả thời bình cũng như thời chiến của cha ông ta theo phương châm: “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn”; “dùng đoản binh chế trường trận”. Trong đó tinh thần tự lực tự cường được Người coi trọng hàng đầu bởi lẽ Người xác định “lấy sức ta giải phóng cho ta”. Một dân tộc muốn phát triển được “phải coi trọng
  38. 38 nguồn lực nội sinh, phải đề cao tinh thần tự lực, tự cường, phải tự mình đứng lên để giải phóng cho mình” [102, tr.149]. Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc tạo nên những giá trị văn hóa độc đáo của người Việt Nam. Những tư tưởng của cha ông ta như: “học ăn, học nói, học gói, học mở”, “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, “học thầy không tầy học bạn” đã thấm sâu vào mỗi người Việt Nam. Đây chính là cơ sở phương pháp luận để Hồ Chí Minh nhận thấy vai trò của tự học và Người luôn hướng dẫn đội ngũ cán bộ tích cực tự học để nâng cao trình độ, phục vụ cách mạng. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những giá trị tiến bộ của tư tưởng giáo dục của Khổng Tử. Người còn tiếp thu kế thừa những tư tưởng tiến bộ của các nhà giáo dục thời kỳ phục hưng; các kinh nghiệm trong đánh du kích của Pháp, Trung Quốc; tư tưởng giáo dục, dạy học tiên tiến của các nước trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô (cũ). Các nhà sư phạm, giáo dục Xô Viết đã chỉ rõ đặc điểm quá trình dạy học, các nhân tố, quy luật, nguyên tắc của quá trình dạy học; trong đó, nhân tố người học đóng vai trò trung tâm của quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tự học vừa là phương pháp, vừa là hình thức dạy học quan trọng trong quá trình dạy học. Giáo dục động cơ học tập đúng đắn là điều kiện để cho học sinh tích cực, chủ động trong học tập; đồng thời, bồi dưỡng kỹ năng tự học cho học sinh là trách nhiệm của giáo viên và nhà trường [111]. Từ những nguồn gốc hình thành về mặt lý luận trên, tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh được xuất phát từ những cơ sở khoa học sau: Cơ sở triết học của tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học là triết lý phát triển và vai trò của chủ thể con người trong quá trình phát triển đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định, mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động và biến đổi không ngừng theo chiều hướng phát triển. Nguồn gốc của sự phát triển chính là quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập, giải quyết mâu thuẫn nội tại, tạo nên động lực bên trong của sự vật, hiện tượng. V.I. Lênin đã nói:
  39. 39 “Nếu không tự mình bỏ ra một công phu nào đó thì không thể tìm ra sự thật trong bất cứ một vấn đề hệ trọng nào cả” [71, tr. 153]. Triết lý về sự phát triển của thế giới tự nhiên và xã hội đã được Hồ Chí Minh vận dụng vào quá trình giáo dục, phát triển con người. Hồ Chí Minh khẳng định, quá trình xã hội phát triển liên tục, mỗi cá nhân không phát huy vai trò chủ thể, không tự vươn lên chiếm lĩnh tri thức mà bỏ qua cơ hội, thiếu tính chủ động, tích cực, thì sự phát triển của các nhân đó sẽ không theo kịp sự phát triển của xã hội. Cơ sở tâm lý học của tư tưởng tự học Hồ Chí Minh là hoạt động nhận thức của con người. Đây chính là hoạt động lĩnh hội các tri thức, kinh nghiệm, văn hóa, xã hội - lịch sử của loài người một cách sáng tạo có tính chất nghiên cứu dưới sự tổ chức, điều khiển của người dạy nhằm phát triển tâm lý, các phẩm chất nhân cách. Hoạt động nhận thức của con người vừa mang tính sáng tạo lại vừa mang tính tái tạo, phản ánh những đặc điểm nhân cách của họ. Quá trình và kết quả của hoạt động này phụ thuộc vào nhu cầu, động cơ, tính cách, khí chất, kinh nghiệm sống của mỗi con người, phụ thuộc vào trình độ phát triển của tập thể lớp học và đội ngũ giáo viên. Vì vậy, tự học được Hồ Chí Minh tiếp cận theo hoạt động nhận thức sáng tạo, độc lập. Cơ sở giáo dục học của tư tưởng tự học là sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Giáo dục học chỉ ra rằng sự hình thành và phát triển nhân cách con người chịu sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó có nhân tố sinh học (di truyền, hoạt động của cá nhân) và nhân tố xã hội (môi trường, giáo dục). Các nhân tố này tác động đến con người không phải song song với nhau, có giá trị như nhau và độc lập với nhau. Trong các nhân tố đó, hoạt động của con người là nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển của nhân cách. Cá nhân vừa là một thành viên của xã hội, vừa là chủ thể lại vừa là đối tượng của các mối quan hệ xã hội. Hoạt động của cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, hoạt động chính là cơ sở, là nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển của nhân cách.
  40. 40 Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, muốn tiếp cận được nền tri thức của nhân loại, cần phải phát huy hoạt động tích cực của con người. Chỉ thông qua tự học, mới có thể khẳng định hoạt động của mỗi người tích cực hay không tích cực trong quá trình chiếm lĩnh tri thức và làm giàu có kiến thức của mỗi người. Cơ sở thực tiễn của tư tưởng tự học Hồ Chí Minh chính từ thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú và thực tiễn tự học của Hồ Chí Minh. Tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh là một phần kết quả của thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú, sinh động của bản thân Người. Đây là một quá trình liên tục, bền bỉ, kiên trì và cũng là quá trình dày công học tập, suy nghĩ, vừa học tập lý luận, vừa công tác thực tế của Người. Từ thực tiễn hoạt động cách mạng, đã giúp Người đưa ra nhận định đúng đắn: muốn đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng dành thắng lợi thì phải giải quyết hàng loạt vấn đề. Trong đó, việc giáo dục - huấn luyện, giác ngộ cho lực lượng cách mạng và đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng là vấn đề quan trọng cơ bản hàng đầu. Để làm tròn nhiệm vụ cách mạng, người chiến sĩ cách mạng phải biết tự học, tự rèn luyện để vượt qua những khó khăn thử thách “gian nan rèn luyện mới thành công”. Bằng trải nghiệm tự học bền bỉ, nghiêm túc và hiệu quả, Hồ Chí Minh đã tư duy tới vấn đề bồi dưỡng, chỉ dẫn cho đội ngũ cán bộ cách mạng cách học tập chủ động, tự lực, làm cơ sở để họ tự hình thành PPHT phù hợp với từng người. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cuộc đời của một con người tích cực, liên tục, kiên trì, và tiêu biểu cho việc tự học, tự giáo dục. Người đã tự rèn luyện cho mình một nghị lực phi thường, một đức tính kiên trì, cầu tiến bộ, một mục đích và động cơ, thái độ học tập đúng đắn và luôn luôn tự học, tự rèn luyện trong bất kỳ hoàn cảnh, khó khăn của cách mạng. Người không chỉ áp dụng cho riêng mình, mà còn định hướng, chỉ dẫn cho đội ngũ cán bộ cách
  41. 41 mạng, động viên họ tích cực học tập, tự học tập, tự rèn luyện một cách nghiêm túc, kiên trì, nhẫn lại, liên tục phấn đấu vươn lên để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Như vậy, thông qua quá trình hoạt động cách mạng, quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân cũng như tham gia trực tiếp vào các hoạt động giáo dục của nước nhà đã tạo thành một cơ sở thực tiễn vững chắc để Hồ Chí Minh khẳng định tư tưởng về cách học: “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [48, tr.273]. Đây là một trong những tư tưởng nổi bật, có giá trị thiết thực trong đào tạo cán bộ đáp ứng nhu cầu của thời kỳ kháng chiến lúc bấy giờ, thể hiện tinh thần tự lực, tự cường của quân đội và có ý nghĩa to lớn trong giáo dục đào tạo ở các trường đại học nói chung và đại học quân sự hiện nay. Hoàn cảnh ra đời tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh Luận điểm “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh được Người nêu lên trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, viết xong tháng 10 năm 1947, bút danh là X.Y.Z, nhà xuất bản Sự Thật xuất bản lần đầu tiên năm 1948, xuất bản lần thứ 7 năm 1959, trong bối cảnh tình hình cách mạng và tình hình giáo dục nước ta có những bước phát triển mới. Vào giữa năm 1947, cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ của nhân dân ta chống thực dân Pháp vừa bắt đầu. Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền được hơn hai năm, cách mạng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Đội ngũ cán bộ cách mạng đã sớm bộc lộ những nhược điểm, sai sót trong phương thức, lề lối làm việc qua thực tiễn đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ. Nếu chậm khắc phục sẽ ảnh hưởng tới uy tín của Đảng và sự nghiệp cách mạng. Để tập trung chuẩn bị chiến dịch Thu Đông, quyết tâm đánh bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân
  42. 42 Pháp, nhằm vạch ra những sai lầm khuyết điểm, lệch lạc; chấn chỉnh lại nhận thức tư tưởng, nâng cao trình độ chính trị, lý luận, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Đây là một tác phẩm rất quan trọng, đề cập nhiều vấn đề lớn, vừa có tính lý luận, nguyên tắc, vừa có tính chỉ đạo thực tiễn sâu sắc về xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Trong tác phẩm, Hồ Chí Minh khẳng định “Sửa đổi lối làm việc” của Đảng là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng; là nhiệm vụ thường xuyên, vừa lâu dài, vừa cấp bách của một Đảng chân chính. Theo Người, sửa đổi lối làm việc là để nâng cao sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giúp cho mọi tổ chức và cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình. Nội dung tác phẩm đề cập đến các lĩnh vực về tư tưởng, tổ chức, phương thức, phương pháp lãnh đạo, công tác quần chúng của Đảng trong điều kiện đặc thù của đất nước vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Nội dung cuốn sách gồm 6 phần: Phê bình và sửa chữa; Mấy điều kinh nghiệm; Tư cách và đạo đức cách mạng; Vấn đề cán bộ; Cách lãnh đạo; Chống thói ba hoa. Phần 1: Phê bình và sửa chữa. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ và đảng viên ta, vì bận việc hành chính hoặc quân sự mà xao nhãng việc học tập. Đó là một khuyết điểm rất to”. Người đã chỉ ra các bước tổ chức học tập; phải sửa đổi lối làm việc của Đảng; chỉ rõ các khuyết điểm mà cán bộ, đảng viên mắc phải và được Người gọi là bệnh nguy hiểm. Phần 2: Mấy điều kinh nghiệm. Hồ Chí Minh đã đề cập đến vai trò của cán bộ, cách thức tiến hành công tác cán bộ và các vấn đề cán bộ, đảng viên cần thực hiện. Người yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải nghiên cứu kinh nghiệm đến gốc; phải
  43. 43 nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái; phải hỏi vì ai mà làm và sát quần chúng, hợp quần chúng. Phần 3: Tư cách và đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ ra tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Người phân tích kỹ về tư cách của Đảng thông qua 12 điều. Người còn chỉ ra phận sự của đảng viên và cán bộ; tư cách và bổn phận của đảng viên. Phần 4: Vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh đã đề cập đến các nội dung: Huấn luyện cán bộ; dạy cán bộ và dùng cán bộ; lựa chọn cán bộ; cách đối với cán bộ; mấy điểm lớn trong chính sách cán bộ. Người tập trung vào nội dung huấn luyện cán bộ. Hồ Chí Minh khẳng định: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Người chỉ ra nội dung huấn luyện bao gồm: huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hóa và huấn luyện lý luận. Trong phần huấn luyện lý luận, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguyên tắc học tập và đặc biệt là cách học tập. Người khẳng định: “Học tập - Khuôn khổ học tập, chia ra khoa học chính trị, khoa học kinh tế, khoa học lịch sử, v.v., mà học dần dần. Học tập thì theo nguyên tắc: kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau” “Cách học tập: Tổ chức từng ban cao cấp hoặc trung cấp. Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [48, tr.273]. Phần 5: Cách lãnh đạo. Hồ Chí Minh chỉ ra các cách lãnh đạo như: lãnh đạo đúng nghĩa; chọn người và thay người; liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng; liên hợp giữa lãnh đạo với quần chúng. Phần 6: Chống thói ba hoa. Hồ Chí Minh chỉ rõ thói ba hoa chính là khi nói, khi viết dùng từ dài dòng mà khó hiểu, khó nghe. Vì vậy, Người khẳng định phải chống thói ba hoa như chống thói chủ quan và hẹp hòi.
  44. 44 Như vậy, tư tưởng về cách học: “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [48, tr.273] được Hồ Chí Minh chỉ ra trong phần 4, phần nói về công tác cán bộ. Với quan điểm thẳng thắn, Người đã chỉ rõ cho cán bộ về cách học trong tổng thể quá trình huấn luyện cán bộ, một nội dung quan trọng của nhiệm vụ cách mạng. Người yêu cầu, đối với cán bộ, đảng viên, cách học tập đúng đắn phải “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” thì mới đảm bảo được yêu cầu nắm vững kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. 1.1.2. Thực chất tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách học lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào được Người chỉ ra trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là tư tưởng quan trọng chỉ dẫn về cách thức học tập cho đội ngũ cán bộ cách mạng trong kháng chiến và có giá trị sư phạm trong lý luận dạy học hiện đại. Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về cách học lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây: Thứ nhất, Hồ Chí Minh yêu cầu trong học tập phải lấy tự học làm chính. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lấy tự học làm cốt”. Tự học theo Hồ Chí Minh là học tập một cách hoàn toàn chủ động, tự giác, tự chủ, tích cực, độc lập, không đợi ai nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ. Như vậy, tự học chính là yếu tố cốt yếu, là chủ chốt, là nòng cốt, là cái cốt lõi trong toàn bộ PPHT, là nội lực quyết định chất lượng học tập của người học. Học tập mà thiếu tự học thì chỉ là một cơ thể thiếu xương cốt. Để thực hiện được vai trò quan trọng như vậy, tự học phải xuất phát từ một mục đích học để làm việc, với những mục tiêu cụ thể là chiếm lĩnh kiến thức. Tự học chính là yếu tố nội lực để giải quyết những nhiệm vụ học tập, có vai trò trực tiếp đối với sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của con người.
  45. 45 Quán triệt tư tưởng này trong dạy học ở đại học quân sự, HV cần xác định vai trò của chính bản thân trong quá trình lĩnh hội tri thức. Trong tất cả các cách học tập, cần phải coi trọng hoạt động tự học. Tự học chính là tự quản lý việc học tập của mình, tự mình chủ động vạch kế hoạch học tập cho chính mình, tự mình khai triển, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra, đánh giá việc học của mình. Người học tự thiết kế, tự tổ chức thực hiện quá trình học tập của mình một cách tự giác, chủ động, tích cực, tránh tình trạng làm qua loa, chống đối. Thứ hai, Hồ Chí Minh nhấn mạnh . Chí Minh đã chỉ ra “Do thảo luận giúp vào”. Theo Hồ Chí Minh, thảo luận là môi trường giáo dục, tập thể lớp học, những người học xung quanh. Để có được kiến thức, người học có thể tự học để chiếm lĩnh; nhưng để hiểu thực chất và nắm chắc nội dung học tập, người học cần đem những kiến thức mà mình “tự” lĩnh hội để trao đổi, thảo luận với giảng viên, đồng đội, với nhóm học tập và với tập thể lớp học. Thông qua thảo luận, trao đổi, người học từ chỗ biết ít, biết đơn giản đến biết nhiều, nắm sâu sắc vấn đề. Người học trao đổi, thảo luận với người dạy và những người học xung quanh sẽ giúp cho họ nắm chắc kiến thức, điều chỉnh những lệch lạc, hiểu chưa đúng vấn đề, nội dung học tập. Thông qua thảo luận sẽ có tác dụng huy động trí tuệ tập thể, qua đó mà mỗi người học mở mang trí tuệ, nâng tầm tư duy. Mỗi cá nhân người học muốn tham dự thảo luận, trao đổi tốt phải có sự gia công chuẩn bị trước. Người học muốn có nội dung để đóng góp tích cực cho thảo luận, trao đổi phải tích cực nâng cao tự học của cá nhân, xem tự học thực sự là yếu tố “cốt lõi” của quá trình học tập. Người học không thụ động trong quá trình hợp tác với người dạy và tập thể lớp học mà tích cực tiếp thu, học hỏi những ý tưởng, tranh thủ học tập thông qua ý kiến của người khác.
  46. 46 Học viên ở đại học quân sự khác với sinh viên ở các trường đại học dân sự là môi trường sư phạm, môi trường tập thể quân sự. Ngoài việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức trên giảng đường, học viên còn phải thực hiện các hoạt động giao lưu, hoạt động rèn luyện, xây dựng đơn vị. Tập thể đơn vị cũng là tập thể lớp học gắn bó, gần gũi, đoàn kết. Do đó, HV ở đại học quân sự muốn có kết quả và chất lượng học tập cao, cần phải hình thành được PPHT theo hướng lấy tự học là chủ đạo thông qua môi trường hoạt động tập thể lớp học và sự bổ sung kiến thức thông qua học hỏi đồng đội. Thứ ba, Hồ Chí Minh chỉ ra tự học cần có sự định hướng, chỉ đạo của người dạy. Hồ Chí Minh khẳng định: “chỉ đạo giúp vào”. Chỉ đạo theo Hồ Chí Minh chính là vai trò của giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục. Nhưng vai trò chỉ đạo chỉ là “giúp vào” chứ không là yếu tố quyết định đến PPHT. Tự học là hoạt động mang đậm sắc thái cá nhân, nhưng phải dựa trên cơ sở sự chỉ đạo giúp đỡ của người dạy, sự lãnh đạo của các cấp giáo dục. Tác động sư phạm thông qua dạy học của người dạy sẽ giúp cho người học tự học một cách hiệu quả bởi giáo viên sẽ chỉ đạo, định hướng, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá cả mục đích, nội dung PPHT và kết quả tự học của người học. Người học dù có thông minh đến đâu, ý thức tự giác thế nào thì vẫn cần có sự chỉ bảo, hướng dẫn của người dạy. Tự học mới chỉ là yếu tố nội lực vì thế nó cần có sự định hướng, dẫn dắt của yếu tố ngoại lực thì mới có thể thực hiện được mục tiêu giáo dục đào tạo. Hồ Chí Minh dùng từ “chỉ đạo” ở đây có hàm ý là định hướng, dẫn dắt, giúp đỡ chứ không phải “làm thay”. Chỉ đạo là sự hướng dẫn, chỉ đạo của người dạy và có mục tiêu sư phạm. Cho nên, để tự học có hiệu quả, cần phải tự học theo một mục tiêu xác định và có sự hướng dẫn của người dạy. Vì vậy, người dạy đóng vai trò định hướng, chỉ đạo, cố vấn của quá trình học, tự học.
  47. 47 Các nhà quản lý giáo dục, giảng viên trong các học viện, nhà trường quân đội vừa là người lãnh đạo, chỉ đạo, người quản lý, chỉ huy, vừa là người thầy trực tiếp, người đồng chí, đồng đội. Vì vậy, đội ngũ này cần tổ chức, tạo điều kiện và chỉ dẫn người học tự quản, tự học; phải dạy cho HV cách học, cách làm việc, phương pháp tư duy, cách tiếp cận và giải quyết vấn đề. Như vậy, để có được PPHT tích cực, Hồ Chí Minh chỉ ra cho đội ngũ cán bộ cách mạng về cách học phải “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [48, tr.273]. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh chỉ rõ muốn học tập tốt phải kết hợp chặt chẽ nội lực - môi trường - và sự chỉ đạo, quản lý. Trong đó, yếu tố nội lực được Hồ Chí Minh quan tâm và coi trọng trong cách học của người cán bộ cách mạng. Có thể nói, PPHT “lấy tự học làm cốt” là một PPHT khoa học, tiếp cận gần với phương pháp nghiên cứu khoa học. Bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh sẽ góp phần tích cực vào việc giải quyết có hiệu quả mâu thuẫn giữa nội dung dạy học ngày càng tăng về khối lượng, hiện đại về trình độ khoa học với thời gian tự học được giới hạn. Đồng thời, bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh sẽ giúp cho HV ở đại học quân sự có phương pháp tốt để tự học suốt đời đáp ứng sự phát triển của nghề nghiệp quân sự và thực tiễn xã hội và quân đội.
  48. 48 Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa “tự học” - “chỉ đạo” và “thảo luận” theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh Tóm lại, theo PPHT của Hồ Chí Minh (Người dùng từ cách học), người học muốn lĩnh hội kiến thức, phải phát huy sức mạnh nội tại của mình bằng cách phát huy tiềm năng trí tuệ, thái độ, động cơ và tính cách của mình, coi hoạt động tự học của bản thân là yếu tố cốt lõi. Đồng thời, phải phát huy vai trò hướng dẫn, gợi ý và định hướng của người dạy và tạo ra một môi trường học tập tích cực, cởi mở, tin cậy và luôn luôn hợp tác, giúp đỡ nhau. Cả 3 nội dung này đều phản ánh đúng bản chất, qui luật, động lực của quá trình dạy học theo lý luận dạy học hiện đại hiện nay. Người học luôn là chủ thể của quá trình lĩnh hội kiến thức. 1.2. Quan niệm và giá trị sƣ phạm của việc bồi dƣỡng phƣơng pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự theo tƣ tƣởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh 1.2.1. Quan niệm về bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh 1.2.1.1. Phương pháp học tập Theo Từ điển tiếng Việt: “Học là thu nhận kiến thức, luyện tập kỹ năng do người khác truyền lại” [94, tr.453]. “Học tập là học và luyện tập để hiểu biết, để có
  49. 49 kỹ năng” [94, tr.454]. “Phương pháp là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó” [94, tr.793]. Theo tác giả Lê Khánh Bằng: “Phương pháp học tập là cách thức hoạt động nhận thức của người học trong quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cũng như tìm tòi tri thức mới” [3, tr.177]. Tiếp cận PPHT theo thông tin, nhóm tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo cho rằng “Học là thu nhận, ghi nhớ, tích luỹ số lượng thông tin càng nhiều càng tốt để sử dụng khi cần” và “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức biên trong con người mình” [85, tr.71]. Có rất nhiều PPHT, nhưng học thế nào để có kết quả tốt là điều mà người học phải quan tâm và rèn luyện để trở thành thói quen. Dạy và học phải theo tiêu chí rèn luyện có phương pháp và phát huy năng lực tự học của học sinh. Rèn luyện có phương pháp và phát huy năng lực tự học không chỉ là biện pháp nâng cao hiệu quả mà còn là mục tiêu của việc dạy và học. Việc dạy và học ngày nay phải hướng tới giúp cho người học chủ động, tích cực, tự giác, chống lại thói quen thụ động. Theo tác giả Nguyễn Kỳ, PPHT là một cấu trúc phức hợp đa mặt, đa thành tố. Đó là tổ hợp những phẩm chất, nét nhân cách, năng lực, kỹ năng thể hiện được cái riêng, có tính ổn định về các chiến lược học, thái độ, động cơ, hứng thú học, phương pháp giảng dạy được ưa thích của người học, nhằm đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức, tương tác và thoả mãn các yêu cầu của môi trường học tập. Theo tác giả, để có được PPHT tốt, người học phải có chiến lược học tập tức là xác định mục tiêu học tập, thái độ và động cơ đúng đắn, có hứng thú ngay với phương pháp dạy học, bài giảng của người
  50. 50 dạy. Với nhận thức học là quá trình tiếp thu và xử lý thông tin bằng các hành động trí tuệ và chân tay [68, tr.10]. Từ những khái quát trên, dựa trên những thành tựu của lý luận dạy học, có thể quan niệm về PPHT như sau: Phương pháp học tập là cách thức, biện pháp tiếp thu, xử lý, vận dụng nội dung học tập vào hoạt động thực tiễn theo cách riêng của người học. Thực chất PPHT là cách thức tác động của chủ thể đến đối tượng học, hay là cách thực hiện hoạt động học. Hoạt động học bao gồm nhiều thao tác, nhiều hành động cho nên PPHT cũng muôn màu muôn vẻ. Trong quá trình học tập, người học có thể vận dụng các PPHT cơ bản như: PPHT cá nhân (tự nghiên cứu, tự học); PPHT hợp tác (học ở thầy, học bạn) và PPHT từ thông tin phản hồi (tự kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh). 1.2.1.2. Phương pháp học tập của học viên ở đại học quân sự Từ quan niệm về PPHT nói chung, có thể quan niệm về PPHT của HV ở đại học quân sự như sau: Phương pháp học tập của học viên ở đại học quân sự là cách thức, biện pháp chủ động, sáng tạo tiếp thu, xử lý, vận dụng nội dung học tập có tính chất nghiên cứu vào quá trình học tập của bản thân, nhằm nâng cao chất lượng học tập, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường. Về mặt lý luận dạy học, tiếp cận hoạt động học theo lí thuyết thông tin thì hoạt động học là quá trình thu và nhận thông tin [38, tr.25], theo đó PPHT của HV ở đại học quân sự bao gồm các cách thức: Các cách thức thu nhận thông tin: HV thu nhận thông tin qua các kênh giác quan (nghe, nhìn, đọc, xúc giác) khi tiếp xúc với các nguồn thông tin trong học tập: nghe giảng, đọc sách, tài liệu, hỏi bạn bè, sử dụng từ điển. Ở cách thức này người học sẽ có các PPHT như: phương pháp nghe giảng,
  51. 51 phương pháp ghi chép, phương pháp đọc sách và ghi nhớ, phương pháp hỏi, phương pháp nhớ, phương pháp sử dụng từ điển. Thông qua các cách thức này, HV thu nhận được kiến thức và nội dung học tập ở dạng nhận biết ban đầu và được ghi nhớ tạm thời có mục đích. Các cách thức xử lý thông tin: HV sử dụng các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá và nâng cao sự hiểu biết về những kiến thức đã được học, hình thành khái niệm mới. Các cách thức sử dụng để xử lý thông tin gồm: diễn đạt ý kiến, tiếp cận thệ thống, đặt câu hỏi, nghiên cứu theo nhóm, lập sơ đồ khái niệm, viết đoạn văn, sắp xếp khái niệm, viết tóm tắt từ các bản ghi chép. Trong quá trình xử lý thông tin đòi hỏi HV phải nhớ lại và biết sử dụng thông tin, tập trung vào những ý chính, tổ chức thông tin và liên hệ những điều đã biết. Từ các cách thức xử lý thông tin giúp HV tìm ra những chỗ thiếu, chỗ chưa hợp lý, chỗ mâu thuẩn để bổ sung, hoàn thiện. Các cách thức vận dụng thông tin: Những kiến thức mà HV thu nhận được, thông qua quá trình xử lý được áp dụng vào thực tiễn nghề nghiệp đang được đào tạo, thực tiễn cuộc sống và cả thực tiễn học tập thông qua các cách thức: đối chiếu so sánh, liên hệ lý giải, chứng minh thực tiễn, phát triển lý luận. HV đưa kiến thức của mình tiếp thu được, qua các cách thức của mình để phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết và giải quyết vấn đề trong nội dung học tập. Những cách thức thu nhận, xử lý và vận dụng thông tin do mỗi HV tiến hành thông qua việc nghe giảng, ghi chép, nghiên cứu và chuẩn bị cho các nội dung học tập theo những cách riêng của mình. Vì vậy, PPHT của HV không hoàn toàn giống nhau, nhưng điểm chung là cùng một nội dung học tập, bằng những cách thức riêng có của mình, HV thu được trình độ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo thông qua kết quả học tập.
  52. 52 Đặc trưng PPHT của HV ở đại học quân sự được biểu hiện qua những dấu hiệu cơ bản sau: Phương pháp học tập là hoạt động nhận thức của học viên có tính chất nghiên cứu, được rèn luyện trong quá trình học tập mà có. Hoạt động học tập của HV ở đại học quân sự là hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu của người học ở bậc đại học. Do mục tiêu yêu cầu và tính chất dạy học ở bậc đại học, hoạt động học tập của HV là một bộ phận của quá trình dạy học, mang đậm dấu ấn “nghiên cứu”. Học ở bậc đại học chính là học cách “nghiên cứu”. Do đó, các cách thức học tập ở bậc đại học cũng mang đậm dấu ấn nghiên cứu riêng, phản ánh vốn kiến thức, tư duy, kinh nghiệm của từng HV. Ở đây, PPHT phụ thuộc vào thái độ học tập của mỗi HV. Nếu HV có thái độ thụ động, hành vi của họ sẽ tiếp thu một chiều, phương pháp học của họ sẽ là học kiến thức, học thụ động. Nếu HV có thái độ tích cực, chủ động, hành vi của họ sẽ tiếp thu hợp tác hai chiều, phương pháp của họ sẽ là học tích cực, luôn gắn chặt chẽ với quá trình tự học. Phương pháp học tập của học viên đại học quân sự có nét độc đáo riêng so với phương pháp học tập của sinh viên đại học. Đây là dấu hiệu đặc trưng nổi trội do tính đặc thù của quân sự qui định. Cũng giống như sinh viên đại học, HV vào học tập tại đại học quân sự luôn xác định là học phương pháp. Song do tính chất đặc thù của môi trường quân sự, học viên đại học quân sự luôn học tập trong môi trường quản lý chặt chẽ, sinh hoạt theo chế độ, nề nếp qui định của quân đội. Quá trình học tập tại trường, học viên phải sinh hoạt tập trung, ăn, ở, sinh hoạt theo phân cấp tổ (tiểu đội), lớp (đại đội), khoá (tiểu đoàn) nên việc cọ xát, trao đổi về PPHT cho nhau dễ hình thành. PPHT của HV ở đại học quân sự bị chi phối bởi mục tiêu, nội dung dạy học ở đại học quân sự. PPHT của HV ở đại học quân sự có yêu cầu và nét riêng chính là ở đặc thù chuyên ngành đào tạo,
  53. 53 gắn với giải quyết những nhiệm vụ, nội dung hoạt động quân sự đặt ra. Cho nên, việc hình thành một PPHT tốt cho HV là một biện pháp chính để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở đại học quân sự hiện nay. 1.2.1.3. Phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” Phương pháp học tập là cách thức học riêng có của mỗi con người, chi phối trực tiếp đến kết quả học tập. Vì vậy ngoài tính tự chủ, độc lập, sáng tạo, người học phải tăng cường đẩy mạnh hoạt động tự học. Có nhiều cách thức học tập giúp người học chiếm lĩnh được kết quả học tập như: học trên lớp, học thầy, học bạn, tự học, học trên mạng internet Mỗi cách thức có những ưu và hạn chế nhất định, trong đó PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” sẽ giúp người học chiếm lĩnh kiến thức chủ động và hiệu quả hơn. Vì vậy, có thể quan niệm về Phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” là những cách thức, biện pháp người học tự mình tìm kiếm, khám phá nội dung học tập một cách chủ động, sáng tạo dưới sự chỉ đạo, giúp đỡ của người dạy, sự hợp tác trong học tập của người học. Từ quan niệm trên chúng ta thấy, PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh là PPHT chủ động, tích cực của người học. Trước hết, nó là PPHT thông thường, nhưng PPHT này khác với PPHT khác ở chỗ người học lấy hoạt động tự học làm cốt lõi. PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” khác với phương pháp tự học. Phương pháp tự học là những cách thức của cá nhân người học theo kế hoạch tự học ngoài giờ lên lớp. Nhưng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt”, người học không chỉ tự mình học tập ở nhà, ngoài giờ lên lớp mà người học phải tự học ngay trong giờ lên lớp. Người học tự mình làm chủ các nội dung trong từng giai đoạn của quá trình học tập. Người học phải tích cực, nỗ lực cao để tiếp thu, chiếm lĩnh tri thức mà người dạy trang bị đồng thời làm chủ khi trong giờ lên lớp người học đang giữ vai trò là khách thể, đối tượng của quá trình dạy học. Người học phải chủ động ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi nhiệm vụ học tập.
  54. 54 Để có được PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt”, các lực lượng sư phạm phải trang bị cho người học lý luận cơ bản về tự học, để từ đó, người học mới lấy đó làm cốt lõi, chủ yếu trong quá trình học tập của mình. Người học và các lực lượng sư phạm phải thấy được tự học là yếu tố trọng tâm, căn bản, cốt lõi, là yếu tố đi đầu, đi trước trong quá trình trang bị kiến thức. Đồng thời, tự học cũng là nguyên nhân, chi phối trực tiếp các yếu tố khác, là yêu cầu đòi hỏi các yếu tố khác phải thực hiện theo. Người dạy trên cơ sở trang bị cho người học những kiến thức, lý luận về tự học, hình thành cho họ các kỹ năng học tập để họ đưa vào làm cốt, là yếu tố chủ yếu trong cách thức học tập của họ. Như vậy tự học phải có trước các PPHT để chính người học phải lấy đó làm cốt lõi, làm trung tâm để nâng cao quá trình nhận thức của mình. Mục đích của PPHT “lấy tự học làm cốt” là hướng cho người học tự rèn luyện các kỹ năng tự học, hình thành thói quen và nhu cầu học tập suốt đời, đáp ứng với yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội sáng tạo, linh hoạt, tự chủ trong những hoàn cảnh mới. Từ quan niệm về PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt”, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của HV gắn liền với các cách học tích cực, chủ động, nỗ lực nhằm tạo ra sự hứng thú, tính sáng tạo, óc tò mò khoa học. PPHT đó bao gồm các cách thức tiến hành tự học cụ thể hiệu quả như: Biết cách xây dựng kế hoạch và thời gian biểu tự học hợp lý. Biết cách thức làm việc độc lập; biết đọc sách một cách có hệ thống, biết phân chia dung lượng kiến thức hợp lý để tiến hành học tập cho có hiệu quả, biết liên hệ, vận dụng lý thuyết để giải quyết các bài tập trong quá trình học ở trên lớp và trong thực tiễn; biết cách phân tích, tổng hợp, so sánh; biết ôn tập, ghi nhớ kiến thức một cách tự giác, thường xuyên nhằm đánh giá được
  55. 55 sự tiến bộ của trí tuệ; biết tranh luận và biết trình bày quan điểm của mình; biết tập trung tư tưởng, tiết kiệm thời gian học tập; biết tự kiểm tra, tự đánh giá trình độ của bản thân Thứ hai, PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của HV ở đại học quân sự là sự kết hợp chặt chẽ giữa cách thức học tập độc lập, tự lực với sự chỉ đạo của giảng viên và sự tích hợp với đồng chí, đồng đội. Khi vào học ở các trường đại học quân sự, HV được giảng viên trang bị cho hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; được trang bị những kiến thức và hình thành ý thức tự học, động cơ tự học đúng đắn. Khi đã được giảng viên và các lực lượng sư phạm trang bị kiến thức về PPHT, HV sẽ độc lập, tự lực trong tất cả các khâu, các giai đoạn của quá trình học tập. Đồng thời, thông qua hoạt động học tập, họ sẽ tiếp nhận được những cách thức học tập tích cực từ các đồng đội khác. Thứ ba, PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của HV ở đại học quân sự được diễn ra trong môi trường quân sự, có hệ thống tổ chức quản lý chặt chẽ. Quá trình học tập ở đại học quân sự, HV vừa học tập trên giảng đường, vừa học tập trên thao trường, bãi tập, có sự quản lý của cả giảng viên và cán bộ quản lý HV. Mặc dù có điều kiện như nhau, nhưng mỗi nhà trường, mỗi hình thức tổ chức dạy học sẽ yêu cầu một PPHT cụ thể. HV không thể áp dụng một PPHT cho tất cả các môn, các hình thức, các đối tượng. Vì vậy, HV cần phát huy và lấy tự học làm hoạt động chủ yếu, cốt lõi trong quá trình nhận thức mới có thể thực hiện tốt được mục tiêu, yêu cầu đào tạo đề ra, đáp ứng được đòi hỏi về phẩm chất và năng lực cán bộ quân đội khi ra trường. Môi trường quân sự như vậy sẽ là cơ sở để PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của HV hình thành và phát triển. Đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý ở đại học quân sự vừa là lãnh đạo, chỉ huy, vừa với tư cách là nhà sư phạm để định hướng, chỉ dẫn HV trong học tập. Đồng thời,
  56. 56 tập thể lớp học sẽ là môi trường sư phạm, bầu không khí dân chủ, đoàn kết sẽ giúp HV củng cố và lưu giữ những PPHT tích cực, điển hình của nhau, tự cải biến cho phù hợp với trình độ, khả năng của bản thân. Như vậy, có thể khái quát sự khác nhau giữa PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” và PPHT thụ động trên những nét chính như sau: Bảng 1.2. Khái quát phƣơng pháp học tập theo tƣ tƣởng “lấy tự học làm cốt” và phƣơng pháp học tập thụ động Phƣơng pháp học tập Phƣơng pháp học tập Nội dung thụ động “lấy tự học làm cốt” Mục đích Chủ yếu lĩnh hội kiến Coi trọng cả lĩnh hội kiến thức và rèn thức luyện phương pháp Tính chất Trông chờ, thụ động, Lấy tính chủ động, tích cực của HV làm thiếu tích cực, sáng tạo chủ yếu, tương tác giữa GV và HV Cách thức Thầy đọc, trò ghi GV định hướng, HV chủ động tích cực chiếm lĩnh, GV và HV cùng tham gia và ghi chép theo ý hiểu Hiệu quả Kiến thức của thầy trao. Kiến thức tự tìm lấy. Nắm và hiểu bản Nhớ máy móc chất của kiến thức sáng tạo, chủ động 1.2.1.4. Bồi dưỡng phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” cho học viên ở đại học quân sự Theo Từ điển tiếng Việt: “Bồi dưỡng là làm cho tăng thêm năng lực và phẩm chất” [94, tr.82]. Phương pháp học tập theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của HV ở đại học quân sự là cách thức riêng có của mỗi người, nó được hình thành, phát triển thông qua hoạt động học tập, phụ thuộc vào thái độ động cơ của họ. Vì vậy, việc bồi dưỡng PPHT đó phải bao gồm các tác động sư phạm trực tiếp và gián tiếp của chủ thể bồi dưỡng vào HV để làm cho những
  57. 57 phương pháp tốt, phù hợp ở một người được nhân rộng và được mọi HV áp dụng nhiều hơn, tốt hơn. Đây là quá trình diễn ra có tổ chức, có mục đích, thông qua các hoạt động cụ thể, các môn học cụ thể. Trong quá trình bồi dưỡng PPHT cho HV, chủ thể bồi dưỡng giữ vai trò hướng dẫn, điều khiển, còn HV giữ vai trò chủ đạo, tự tổ chức, tự điều khiển, kiểm tra quá trình thành thạo PPHT của mình. Do đó, có thể quan niệm: Bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh là tổng hợp các tác động sư phạm nhằm củng cố, tăng cường và phát triển các cách thức, biện pháp học tập của học viên trên cơ sở lấy hoạt động tự học chủ động làm chính. Từ quan niệm trên, bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh cho HV ở đại học quân sự trên một số vấn đề cụ thể sau: Mục tiêu bồi dưỡng: Giúp cho HV nắm được những tri thức về PPHT, các kỹ năng học tập; từ đó HV sẽ củng cố, tăng cường và phát triển các cách thức học tập chủ động, tích cực của bản thân mình, trong đó lấy hoạt động tự học làm cốt lõi, chủ yếu trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Chủ thể bồi dưỡng: Là giảng viên, học viên tự bồi dưỡng và cán bộ quản lý, tổ phương pháp học tập. Tác động bồi dưỡng: Ở đây chỉ những hành động sư phạm trực tiếp và gián tiếp từ phía chủ thể bồi dưỡng bao gồm: Định hướng, hướng dẫn, thị phạm, nêu ra yêu cầu thực hiện, giao nhiệm vụ học tập, củng cố, phát huy tác dụng và phát triển những cách thức học tập của HV thông qua bài giảng, thảo luận, hướng dẫn HV tự học và kiểm tra đánh giá. Như vậy, tất cả các hành động chỉ cho HV học thế nào cho tốt, hiểu sâu và nhớ lâu, vận dụng tốt. Cụ thể gồm: - Các chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” được xác định trong các văn kiện, nghị quyết lãnh đạo, báo cáo tổng kết
  58. 58 - Các biện pháp bồi dưỡng: Củng cố, phát triển các cách thức học tập thông qua các hình thức dạy học; bồi dưỡng các kỹ năng tự học Nội dung bồi dưỡng: - Về nhận thức, nắm bắt PPHT: HV phải nắm được những tri thức về phương pháp học tập, làm cho HV hiểu được muốn nắm vững kiến thức phải có các cách thức học tập thế nào cho phù hợp với năng lực nhận thức và môn học cụ thể. - Về khả năng nắm và vận dụng những kỹ năng học tập cụ thể như: kỹ năng thu nhận thông tin: nghe giảng, ghi chép, đọc tài liệu; kỹ năng xử lý thông tin: cách tư duy, diễn đạt, hệ thống hoá, khái quát hoá; kỹ năng vận dụng thông tin: so sánh, đối chiếu, phân tích, phát hiện mâu thuẫn lý luận, liên hệ vận dụng thực tiễn Tính chất bồi dưỡng: Đây là quá trình thường xuyên, diễn ra và luôn song hành cùng với quá trình dạy học. Hình thức bồi dưỡng: - Thông qua bài giảng trên lớp và các hình thức sau bài giảng: Người dạy và cán bộ quản lý thông qua thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học để bồi dưỡng phương pháp cho HV; định hướng, chỉ dẫn PPHT cho HV thông qua quá trình dạy học, thông qua nội dung (giáo trình, tài liệu), hình thức (bài giảng, sau bài giảng), phương pháp dạy học các môn học; hướng dẫn HV tự học, tự nghiên cứu nội dung học tập. - Nói chuyện về PPHT: Người dạy và cán bộ quản lý lên lớp PPHT cho HV vào đầu khoá học; lựa chọn các cá nhân điển hình có kết quả học tập tốt của các khoá trước nói chuyện về PPHT. - Hướng dẫn của tổ PPHT: Tổ chức hoạt động của tổ PPHT, nhóm và đôi ạn học tập trong các giờ tự học một cách hiệu quả.
  59. 59 Điều kiện bồi dưỡng: - Lãnh đạo, chỉ huy các trường đại học quân sự cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo bồi dưỡng PPHT cho HV theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt”, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của quá trình đổi mới giáo dục đào tạo của nhà trường. - Các cơ quan chức năng cần tăng cường tham mưu, đề xuất các nội dung bồi dưỡng PPHT cho HV, tích cực kiểm tra, đánh giá và đưa vào quy chế giáo dục đào tạo. - Các khoa giáo viên cần định hướng nội dung bồi dưỡng PPHT theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” cho HV vào các buổi sinh hoạt chuyên môn để các giảng viên nắm được và thống nhất vận dụng trong các hình thức dạy học. - Đội ngũ giảng viên tùy đặc điểm môn học, tùy hình thức tổ chức dạy học mà bồi dưỡng PPHT, chú ý bồi dưỡng tính chủ động, độc lập. - Đội ngũ cán bộ quản lý cần tổ chức tốt các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, hoạt động ngoại khóa, tổ, nhóm PPHT để HV rèn luyện các PPHT theo tư tưởng lấy tự học làm cốt” một cách thành thạo. - Học viên phải nắm bắt được các kỹ năng học tập; kết hợp tốt giữa tự học (làm cốt) với học giảng viên (chỉ đạo) và học bạn (giúp vào). Các tiêu chí đánh giá kết quả bồi dưỡng: HV có được những PPHT phù hợp, có sự trưởng thành, tiến bộ về PPHT và kết quả học tập ngày càng được nâng cao hơn so với trước khi chưa được bồi dưỡng về phương pháp. Kết quả đó được biểu hiện ở các tiêu chí sau : - Học viên nắm bắt được các cách thức học tập: Đây là biểu hiện của trình độ nắm bắt các cách thức học tập mới của bậc học đại học. Các cách thức học tập này luôn có sự biểu hiện khác so với các cách thức của bậc học phổ thông: Kỹ năng tập trung chú ý, quan sát tích cực, phân tích
  60. 60 tổng hợp, ôn luyện và tự học ngày càng được củng cố và nâng lên một cách rõ rệt. - Các kỹ năng học tập của HV được phát triển: Đây là biểu hiện của sự thành thạo về PPHT. Khi HV đã nắm được các cách thức học tập, họ sẽ rèn luyện để có được các kỹ năng học tập theo hướng lấy tự học là hoạt động chủ yếu. Các kỹ năng học tập “lấy tự học làm cốt” bao gồm: Kỹ năng nghe giảng kết hợp ghi theo ý hiểu; kỹ năng tự bổ sung, chỉnh lý nội dung bài giảng; kỹ năng đọc tài liệu kết hợp ghi sổ tay; kỹ năng hệ thống hóa kiến thức đã lĩnh hội; kỹ năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa nội dung học tập; kỹ năng tư duy hệ thống, loogic, sáng tạo; kỹ năng vận dụng lý luận vào thực tiễn - Hiệu quả học tập của HV: Đây là tiêu chí thể hiện rõ sự phát triển về các PPHT của HV. HV có được kết quả học tập bền vững và ngày càng được nâng lên chứng tỏ việc nắm và vận dụng các cách thức học tập có hiệu quả và tiến bộ. 1.2.2. Giá trị sư phạm của việc bồi dưỡng phương pháp học tập cho học viên ở đại học quân sự theo tư tưởng “lấy tự học làm cốt” của Hồ Chí Minh Hiện nay, trước sự tác động của xã hội hiện đại, sự bùng nổ thông tin diễn ra nhanh chóng và xu thế toàn cầu hóa quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, từ đó người học không còn lưu giữ những cách học truyền thống như trước, mà có thể tự mình lĩnh hội kiến thức thông qua hướng dẫn, chỉ đạo của người dạy. Cách học tập “lấy tự học làm cốt” mà Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong ồi dưỡng đội ngũ cách mạng lúc ấy giờ, mà cách học đó còn có giá trị sư phạm quan trọng trong xu thế đổi mới dạy và học ở đại học như hiện nay, phù hợp với lý luận dạy học hiện đại. Việc dạy cách học, học cách học trong đó cốt lõi là bồi dưỡng và tự bồi dưỡng PPHT “lấy tự học làm cốt” có ý nghĩa thiết thực đối với HV ở đại học quân sự hiện nay.