Kỹ thuật gieo trồng các giống đậu tương mới - Mai Quang Vinh

pdf 126 trang ngocly 3420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kỹ thuật gieo trồng các giống đậu tương mới - Mai Quang Vinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfky_thuat_gieo_trong_cac_giong_dau_tuong_moi_mai_quang_vinh.pdf

Nội dung text: Kỹ thuật gieo trồng các giống đậu tương mới - Mai Quang Vinh

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA Chủ biên: PGS.TS. Mai Quang Vinh Biên soạn: ThS. Phạm Thị Bảo Chung, KS. Nguyễn Văn Mạnh, KS. Lê Thị Ánh Hồng KỸ THUẬT GIEO TRỒNG CÁC GIỐNG ĐẬU TƯƠNG MỚI Ảnh: Cây đậu tương DT84 tại Mèo Vạc - Hà Giang (Báo Hà Giang) Hà Nội - 2012 1
  2. Lời nói đầu Đậu tương hay còn gọi Đậu nành (Glycine max. L. Merr.) là cây trồng đứng thứ 3 về tầm quan trọng sau các cây lúa và ngô, cung cấp protein và dầu thực vật chủ lực của thế giới là cây ngắn ngày có giá trị đặc biệt trong cơ cấu luân canh, tăng vụ, cải tạo đất, góp phần cắt đứt dây chuyền sâu bệnh, cỏ dại trên các loại đất lúa, ngô, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả . Đậu tương là cây trồng của người nghèo, chỉ cần bỏ vốn ít, nhưng có lợi nhuận cao hơn so với các loại cây lương thực khác, rất phù hợp với một đất nước có diện tích canh tác trên đầu người thấp như ở nước ta, trở thành tập quán canh tác không thể thiếu trong kinh tế hộ ở nhiều vùng sinh thái. Nhu cầu đậu tương của Việt Nam hàng năm vào khoảng trên 3 triệu tấn, trong khi sản xuất trong nước mới chỉ đạt gần 0,3 triệu tấn. Dự kiến tới năm 2015 - 2020, theo đà tăng dân số, phát triển nhanh chóng của ngành chăn nuôi, thủy sản, Việt Nam sẽ thiếu hụt tới 4 - 6 triệu tấn/năm, trở thành một nước nhập khẩu đậu tương lớn với kim ngạch từ 2 - 3 tỷ USD/năm, vượt cả kim ngạch xuất khẩu gạo hiện nay. Như vậy, Đậu tương là cây có thị trường nội tiêu rộng lớn ở Việt Nam, tuy có tiềm năng diện tích và điều kiện trồng được 3 vụ/năm, nhưng do năng suất thấp 15 tạ/ha, chỉ bằng 60% năng suất bình quân thế giới, hiệu quả kinh tế chưa cạnh tranh được với các cây trồng khác và đậu tương ngoại nhập. Để đóng góp giải pháp phát triển cây đậu tương, phát triển cơ cấu cây trồng bền vững, tạo công ăn việc làm cho 3
  3. nông dân, giảm phụ thuộc vào đậu tương nhập khẩu, trong nhiều năm qua các nhà khoa học cùng với bà con nông dân đã có các đóng góp đáng kể trong nghiên cứu, phát triển đậu tương ở Việt Nam. Nhằm mục tiêu đưa năng suất đậu tương Việt Nam lên 20 - 30 tạ/ha, cần phải phổ biến rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật về giống, quy trình canh tác, bố trí cây trồng hợp lý trên các vùng sinh thái, tạo điều kiện cho nông dân thu được hiệu quả kinh tế bền vững trên 1 đơn vị canh tác, tác giả đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia biên tập và xuất bản cuốn sách: “Kỹ thuật gieo trồng các giống đậu tương” Cuốn sách này là công trình nghiên cứu 30 năm của chính tác giả và tập thể, là tổng kết kinh nghiệm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống mới, kỹ thuật canh tác tiến bộ cây đậu tương trên các vùng sinh thái. Hy vọng rằng nó sẽ giúp ích cho bà con nông dân, cán bộ khuyến nông, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý có thêm tài liệu để ứng dụng kỹ thuật canh tác cây đậu tương thu được hiệu quả cao trong sản xuất. Tác giả chân thành cảm ơn Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ hoàn thiện cuốn sách nhỏ này! TÁC GIẢ 4
  4. Chương I NGUỒN GỐC PHÂN BỐ VÀ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG CỦA CÂY ĐẬU TƯƠNG 1. Lịch sử và nguồn gốc phân bố Đậu tương (Glicine max. L. Merr) thuộc loại cây họ đậu (Fabacea), bộ Fabales, có nguồn gốc từ Đông Bắc Á (Trung Quốc), được biết đến từ 5.000 năm nay. Đậu tương được gieo trồng từ 1.100 năm trước công nguyên. Đậu tương phân bố rộng, từ 480 vĩ Bắc đến 300 vĩ Nam, phản ứng chặt chẽ với độ dài ngày và là cây ngày ngắn điển hình. Từ phía Bắc Trung Quốc đậu tương đã phát triển sang Nhật Bản, Hàn Quốc, xuống miền Đông và Nam Trung Quốc, các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, Thế kỷ 17 đậu tương được đưa vào Châu Âu Theo sách “Vân Đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn, Việt Nam có lịch sử trồng đậu tương từ Thế kỷ thứ VI, lúc đầu được trồng ở miền núi phía Bắc là Cao Bằng, Lạng Sơn. Đậu tương được sử dụng để làm đậu phụ, tương, chao, dầu, sữa và bột trong một số loại thực phẩm và bánh kẹo. Trước 5
  5. Cách mạng tháng Tám, diện tích đậu tương đạt 30 ngàn hécta, năng suất đạt 4,1 tạ/ha. Sau 1973, nước ta mới có bước phát triển đáng kể về sản xuất đậu tương, đến năm 1983, diện tích đậu tương đã tăng lên 106 ngàn hécta, năng suất 5 - 9 tạ/ha, năm 2010 có 192 ngàn hécta, năng suất đã đạt 15 tạ/ha. 2. Giá trị sử dụng 2.1. Giá trị dinh dưỡng Đậu tương (Đậu nành) là cây trồng được loài người biết đến và sử dụng từ lâu đời, thế giới thường gọi là “Cây vàng mọc trên đất”, “Cây trồng kỳ lạ” hay “Vua của các loại đậu” vì hạt đậu tương chứa hầu hết là các chất dinh dưỡng như nhiều đạm hơn thịt, nhiều can xi hơn sữa bò, nhiều lecithin và phosphatid hơn trứng với hàm lượng Protein từ 38 - 47%, lipit từ 18 - 22%, hyđrat cacbon từ 36 - 40%, các loại axit amin không thay thế như Lizin, Triptophan rất cần thiết cho quá trình phát triển của tế bào. Thành phần lipit đậu tương có hàm lượng cao các loại axit béo không no như axit Oleic từ 30 - 35%, axit Linoleic từ 45 - 55% rất có lợi cho sức khỏe con người. Chất đường bột hòa tan nhóm oligose trong hạt đậu tương được tăng lên khoảng 25% khi nấu chín có tác dụng lên hệ vi sinh vật đường ruột - làm sạch và tăng cường chức năng ruột, giúp cơ thể tăng sức đề kháng các bệnh ung thư, hạ huyết áp, bảo vệ gan, không gây béo phì, phù hợp với người tiểu đường. Hạt đậu tương cũng rất giàu các loại vitamin tan trong nước như B1, B2, C và tan trong dầu như A, E, K , hạt 6
  6. nảy mầm rất giàu vitamin E, thích tố isoflavon, saponin có tác dụng ngăn ngừa ung thư, tim mạch, làm trẻ hóa tế bào. Phosphatid trong hạt đậu tương từ 1,5 - 3,0%, là chất thiết yếu để cấu tạo tế bào đại não và tế bào thần kinh, có tác dụng nhũ hóa, phân giải chất béo cholesterol, giải trừ độc tố, làm trẻ hóa tế bào nên Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo hàng ngày nên bổ sung 23 - 83g phosphatid từ đậu tương để làm giảm cholesterol trong huyết thanh. Xơ hạt đậu tương được đánh giá cao như loại “dinh dưỡng thứ 7” của nhân loại Thế kỷ 21 đứng sau protein, chất béo, chất đường bột, vitamin, chất khoáng và nước. Xơ thực phẩm đậu tương chiếm khoảng 50% trong bã đậu còn vỏ, 30% trong bã đậu đã đãi vỏ, có tác dụng to lớn trong tiêu hóa, chống ung thư đường ruột, giảm hấp thu cholesterol có tác dụng ngăn ngừa bệnh tim mạch, chống béo phì, sỏi bàng quang, phòng chống ung thư, chống táo bón. Hiện nay, đậu tương được chế biến tới 600 loại sản phẩm khác nhau, trong đó có 300 sản phẩm quen thuộc, cổ truyền của con người phương Đông dưới dạng tươi, khô, lên men như: tương, đậu phụ, đậu hũ, xì dầu, sữa đậu nành, cho đến các sản phẩm cao cấp như cafe đậu tương, thịt chay nhân tạo, sô cô la, bánh kẹo, sơn dầu, keo tổng hợp, mỹ phẩm 2.2. Giá trị tăng vụ, cải tạo môi trường nông nghiệp Cây đậu tương có khả năng cố định đạm từ khí trời thông qua hệ thống nốt sần ở rễ, rễ đậu tương phân nhánh nhiều làm cho đất tơi xốp, có tác dụng cải tạo đất, thân lá đậu tương có tác dụng làm phân xanh tốt. Ước tính mỗi 7
  7. hécta, sau khi trồng đậu tương còn để lại trong đất khoảng 30kg quy ra đạm urê và 5 - 8 tấn chất hữu cơ. Trong những năm gần đây, các nhà trồng cây ăn quả, cây cảnh cao cấp sử dụng nhiều đậu tương hạt, khô dầu đậu tương vào chăm sóc, tưới bón cây đạt kết quả cao. Luân canh đậu tương với các cây trồng khác có tác dụng cân bằng dinh dưỡng cho đất, góp phần cắt đứt dây chuyền sâu bệnh trong luân canh, giảm thiểu sử dụng các hóa chất bảo vệ thực vật có hại cho môi trường, để lại dư lượng chất độc hại cho nông sản. Người nông dân có kinh nghiệm đều nhận thấy, sau cây trồng sau mỗi vụ đậu tương đều cho năng suất cao hơn, đỡ sâu bệnh hơn, tiết kiệm 30% phân bón. Một ví dụ rất rõ tại vùng đất bạc màu tỉnh Bắc Giang, nhờ luân canh 1 vụ đậu tương hè giữa 2 vụ lúa, thực hiện công thức 4 vụ: 2 lúa + 2 màu (lúa xuân + đậu tương hè + lúa mùa muộn + khoai tây hoặc rau đông), hoặc với công thức 2 vụ lúa + 1 đậu tương đông ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, năng suất lúa ở đây tăng hơn hẳn so với các công thức cây trồng 2 vụ lúa + 1 vụ ngô đông, chất đất được cải thiện rõ hơn. 3. Tình hình phát triển 3.1. Cây đậu tương trên thế giới Trong 3 nguồn thực phẩm cho con người và gia súc: tinh bột, đạm protein và dầu béo, đậu tương là nguồn đạm thực vật rẻ tiền và quan trọng nhất hiện được trồng ở khắp các châu lục - tại 80 nước, năm 2010 diện tích diện tích đậu tương thế giới 102,3 triệu hécta, sản lượng 261,5 triệu tấn, năng suất 25,5 tạ/ha. Nước có diện tích trồng đậu tương lớn nhất là Mỹ (31,1 triệu ha, năng suất 29,2 tạ/ha). Châu Á 8
  8. chiếm vị trí thứ hai về diện tích 19,7 triệu hécta, năng suất thấp 14,1 tạ/ha, trong đó Trung Quốc có 8,5 triệu hécta, năng suất 17,7 tạ/ha; Ấn Độ 9,2 triệu hécta, năng suất thấp 10,6 tạ/ha. Nước nhập khẩu nhiều đậu tương nhất là Trung Quốc đến năm 2010 khoảng gần 50 triệu tấn. Nhu cầu đậu tương trên thế giới tăng bình quân 4 - 5%, riêng Trung Quốc tăng 8%, bình quân tiêu dùng đậu tương tại TQ là 36kg/người/năm. Đáng chú ý là giá buôn bán đậu tương trên thị trường ngày một tăng do mặt bằng chung của giá cả mặt hàng tăng theo xăng dầu, do nguồn cung từ các nước xuất khẩu có xu hướng giảm, các nước châu Mỹ vốn là “vựa” đậu tương của thế giới đang chuyển hướng giảm diện tích đậu tương, ưu tiên trồng các loại cây cho tinh bột, đường (ngô, sắn, mía) để cung cấp nguyên liệu sản xuất nhiên liệu sinh học thay xăng dầu, do xuất hiện nhiều nước có nhu cầu nhập khẩu đậu tương ngày càng tăng như Trung Quốc - từ nước xuất khẩu hiện đang nhập khẩu với số lượng lớn, nguyên nhân cuối cùng giá tăng là do chi phí vận chuyển tăng. Thiếu hụt đậu tương làm cho giá thực phẩm cho người, thức ăn cho gia súc, thủy sản tăng nhanh và hiện đang trở thành vấn đề chính trị - xã hội gay gắt ở nhiều nước đang phát triển và cả ở Việt Nam. Nước ta có điều kiện trồng cây đậu tương nhiều vụ trong 1 năm, cần có chính sách đúng đắn để phát triển loại cây trồng quan trọng này nhằm bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm của đất nước. 3.2. Cây đậu tương ở Việt Nam Tại Việt Nam, đậu tương là cây có thị trường nội tiêu rộng lớn, tuy có tiềm năng diện tích và điều kiện trồng được 9
  9. 3 vụ/năm, nhưng diện tích sản xuất có chiều hướng suy giảm trong các năm gần đây, diện tích hàng năm khoảng 200 ngàn ha, năng suất thấp 15 tạ/ha, sản lượng 300 ngàn tấn. Hàng năm phải nhập khẩu khoảng trên 3 triệu tấn đậu tương (quy hạt) cho nhu cầu thực phẩm cho người, thức ăn cho chăn nuôi, thủy sản, như vậy sản xuất trong nước mới chỉ đủ cung cấp cho khoảng 8 - 10% nhu cầu. Dự báo trong 5 - 10 năm tới, Việt Nam thiếu hụt khoảng 4 - 6 triệu tấn với kim ngạch 2 - 3 tỷ USD vượt cả kim ngạch xuất khẩu gạo hiện nay và trở thành một nước nhập khẩu đậu tương lớn. Nguyên nhân chủ yếu do đậu tương Việt Nam năng suất thấp, hiệu quả kinh tế chưa cạnh tranh được với các cây trồng khác, với đậu tương thế giới. Hiện nay, Việt Nam đang có chiến lược phát triển sản xuất đậu tương 350 - 700 ngàn hécta (năng suất 20 tạ/ha) nhằm mục tiêu tăng hiệu quả sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, giảm nhập khẩu, phấn đấu đạt 0,7 triệu tấn đậu tương/năm, tự túc được 20-30% lượng tiêu dùng hàng năm, tạo việc làm trong nước, cải tạo đất, bảo vệ môi trường. Như vậy, đậu tương là sản phẩm có đầu ra lớn, phát triển đậu tương trở thành nhiệm vụ cấp bách nhằm giải quyết an ninh lương thực, thực phẩm tại Việt Nam, thâm canh để tăng năng suất, tăng vụ bằng đậu tương là giải pháp tích cực nhằm giảm bớt sự phụ thuộc nguồn đậu tương nhập khẩu ngày càng đắt đỏ, sản xuất đậu tương sẽ mang lại nguồn thu lớn cho nông dân, nâng cao hiệu quả sử dụng và cải tạo đất trong giai đoạn hội nhập hiện nay ở Việt Nam. Tồn tại 5 nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả sản xuất, khó khăn khi mở rộng diện tích đậu tương của Việt Nam: 10
  10. - Nông dân vẫn coi cây đậu tương là cây trồng phụ, ít quan tâm đầu tư thâm canh như các cây trồng chính, khả năng cạnh tranh về hiệu quả sản xuất chưa cao; - Thời tiết khó khăn gây ra nhiều rủi ro cho canh tác đậu tương như nhiệt độ cực đoan (rét, nắng nóng), hạn, úng, gió bão gây trở ngại khi gieo hạt, ảnh hưởng quá trình sinh trưởng phát triển. - Sâu bệnh, đặc biệt các loại sâu như sâu khoang, sâu cuốn lá, sâu đục quả, giòi đục thân, bọ xít phá hoại thường xuyên trên các diện tích đậu tương gây thiệt hại nặng hơn các cây trồng khác. - Nông dân thiếu giống tốt, giống cung ứng cho nông dân thường xuyên có tỷ lệ nảy mầm thấp, giá bán chưa hợp lý, - Thiếu vốn mua giống, vật tư đặc biệt là thuốc sâu, phân bón cân đối. 3.3. Thực trạng và giải pháp cho cây đậu tương Việt Nam Như vậy, đậu tương của ta chưa được phát triển là do quan niệm Việt Nam là nước kém có lợi thế trồng cây đậu tương, năng suất thấp, giá thành cao thì phải đi nhập, người nông dân thì vẫn coi cây đậu tương là cây trồng phụ “cây ăn theo”, ít đầu tư, chăm sóc nên năng suất, hiệu quả sản xuất càng giảm. Nhưng trên thực tế, từ nhiều năm nay, tuy Việt Nam đã cho chủ trương khuyến khích nhập khẩu đậu tương với mức thuế 0% nhằm đáp ứng nhu cầu chăn nuôi, thực phẩm cho người, cây đậu tương Việt Nam đã hội nhập quốc tế, trồng đậu tương vẫn có lãi so với các cây trồng khác, đậu tương Việt Nam vẫn cạnh tranh tốt khi hội nhập WTO. 11
  11. Với lợi thế tiêu dùng tại chỗ, giảm chi phí vận chuyển, tăng vụ với thời gian choán đất dưới 100 ngày, năng suất trung bình đậu tương Việt Nam vẫn đạt 15,0 tạ/ha, cao 20 - 35 tạ/ha, với chi phí giá thành vào thời điểm năm 2011 vào khoảng 6.000 đ/kg (giống, vật tư: 5.000.000 đ/ha, công lao động 4.000.000 đ/ha), nếu năng suất 20 tạ/ha giá thành chỉ còn 4.500 đ/kg, với giá bán 12.000 đ/kg, mỗi hécta vẫn còn lãi từ 9 - 15 triệu đ/ha (lúa chỉ đạt 1 - 2 triệu đ/ha). Như vậy, kể cả hiệu quả tăng việc làm cho nông thôn, cải tạo đất (1 hécta làm lợi cho đất tương đương 3 - 5 tấn phân chuồng giàu đạm hữu cơ), làm giảm thiểu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật chống sâu bệnh, góp phần cắt đứt dây chuyền sâu bệnh trong luân canh giữa các loại cây lương thực (lúa, ngô ) với cây đậu tương, lợi ích tổng hợp do loại cây này mang lại là rất đáng kể, chắc chắn bà con nông dân sẽ lựa chọn giải pháp tăng vụ bằng cây đậu tương luân canh với cây lúa và cây ngô. 3.4. Định hướng phát triển cây đậu tương trên các vùng sinh thái + Cây đậu tương có thể bố trí gieo trồng trên các loại đất mà khó có loại cây trồng nào cho hiệu quả cao hơn: - Đất 1 vụ ở các tỉnh miền núi với công thức 1 ngô xuân hè + 1 đậu hè thu trên đất nương rẫy hoặc 1 đậu xuân hè + 1 lúa mùa trên đất ruộng, đậu tương đạt năng suất 18 - 20 tạ/ha. - Đất trồng lúa kém hiệu quả tại các vùng thiếu nước tưới vụ xuân ở trung du và đồng bằng, đậu tương đạt năng suất 20 - 30 tạ/ha. 12
  12. - Đất màu ngô, rau màu khác ở vụ Xuân hè, hè và hè thu trồng đậu tương thâm canh đạt 30 - 40 tạ/ha. - Đất lúa mùa trồng đậu tương đông (ở miền Bắc, Tây Nguyên), trồng đậu tương xuân hè (ở phía Nam) đạt năng suất 20 - 30 tạ/ha. - Trồng đậu tương rau lấy hạt già dùng hầm nấu, ăn tươi (quả non) sử dụng chế biến thực phẩm, xuất khẩu trong cả 3 mùa vụ. Việt Nam có 9,5 triệu hécta đất nông nghiệp, chỉ cần luân canh, tăng thêm 1 vụ đậu tương trên 3,8 triệu hécta đất lúa, 1 triệu hécta ngô và các loại cây trồng khác với tỷ lệ luân canh từ 10 - 30% diện tích, áp dụng đồng bộ các giống mới năng suất cao, chống chịu tốt và các kỹ thuật canh tác tiến bộ, ta có thể phát triển diện tích đậu tương ít nhất lên 350 - 700 ngàn hécta với năng suất bình quân 20 tạ/ha, giá thành tương đương đậu tương nước ngoài (khoảng 200 USD/tấn, 4.500 đ/kg), Việt Nam sẽ tự túc được 20-30% lượng đậu tương tiêu dùng trên cơ sở sử dụng các quỹ đất sau đây (B.1) : + Giải pháp phát triển đậu tương ở nước ta Để thực hiện được kế hoạch năm 2020 tăng trên ít nhất 150% với diện tích 350 ngàn ha, cần phải thực thi đồng bộ các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh của đậu tương nội địa trên các khía cạnh: 1) Nâng cao năng suất từ 15 tạ/ha lên 20 tạ/ha, các vùng thâm canh 25 - 35 tạ/ha. 2) Bố trí đậu tương trong các cơ cấu cây trồng tăng vụ, luân canh khoa học: 13
  13. - Ở đồng bằng: 2 lúa + 1 đậu tương đông, đông xuân; 2 ngô + 1 đậu. - Ở trung du, miền núi: 1 ngô + 1 đậu; hoặc 1 đậu + 1 lúa. 3) Sử dụng giống mới năng suất cao 30 - 40 tạ/ha, chống chịu cao với bệnh và các điều kiện bất lợi, chất lượng tốt. 4) Đẩy mạnh công tác khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật. 5) Áp dụng đồng bộ các chính sách hỗ trợ sản xuất và cung ứng giống, vốn, vật tư, thị trường, giải pháp đầu ra, chế biến sản phẩm. Bảng 1. Khả năng mở rộng diện tích đậu tương trên các vùng sinh thái (ngàn hécta) Diện tích 2010 Tiềm năng phát triển Quỹ đất (ha) (ha) 1. Đồng bằng Bắc bộ 81,4 160 2. Miền núi - Trung du 59,8 150 Bắc bộ 3. Bắc Trung bộ 6,0 30 4. Duyên hải Nam Trung - 30 bộ 5. Tây Nguyên 23,4 110 6. Đông Nam bộ 1,6 85 7. Đồng bằng Sông Cửu 5,3 135 Long Cả nước : 197,8 700 14
  14. Chương II. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ CÂY ĐẬU TƯƠNG 1. Cấu tạo rễ cây đậu tương có gì đáng chú ý? Rễ đậu tương gồm có rễ cái và nhiều rễ con, rễ cái do phôi phát triển thành và có thể ăn sâu tới 150cm, thông thường chỉ ăn sâu 20 - 30cm. Từ rễ cái mọc ra nhiều rễ con. Rễ đậu tương phát triển nhanh hơn thân trong thời kì sinh trưởng dinh dưỡng, tiếp tục phát triển cho tới khi quả mẩy và ngừng phát triển ở thời kì quả chín sinh lí. 15
  15. Sự phát triển của rễ đậu tương phụ thuộc vào giống, đất trồng, kĩ thuật làm đất, độ ẩm đất, các giống chịu hạn bộ rễ thường phát triển mạnh, rễ ăn sâu và phát triển rậm rạp. Điều quan trọng là ở bộ rễ đậu tương có sự hình thành nốt sần. Trong nốt sần chứa vi khuẩn Rhizobium japonicum, có khả năng tổng hợp nitơ từ khí trời. Nốt sần cắt ngang có màu đỏ hồng thì có khả năng cố định nitơ mạnh, nếu nốt sần cắt ngang có màu đen là không còn khả năng cố định nitơ. 2. Thân, cành, lá Thân cây đậu tương thuộc loại thân thảo, trên thân mang nhiều đốt, lá mọc từ các đốt, cành mọc từ nách lá. Thân cây đậu tương có màu xanh, xanh nhạt, tím nhạt, màu sắc hoa trắng thì thân trắng, hoa tím. Chiều cao thân dao động từ 20 - 50cm, có thể lên tới 150cm và được chia làm nhiều loại như thân đứng, bán đứng, leo, dựa vào sự sinh trưởng của thân chia thành các loại là sinh trưởng hữu hạn (thân ngừng phát triển khi quả chín, bán hữu hạn (quả sắp chín thân vẫn tiếp tục dài ra) và loại hình trung gian lá bán hữu hạn. Lá: Đậu tương có 3 loại lá đó là lá mầm (tử diệp) xuất hiện đầu tiên, hai lá đơn mọc đối và lá kép có 3 lá chét. Lá có thể có 16
  16. hình quả xoan, ngọn giáo, trứng. Màu xanh của lá có ảnh hưởng đến sản lượng quả, lá nằm cạnh hoa nào thì có quyết định đến chính chùm hoa, quả đó. Độ góc sắp xếp lá trên cây có ý nghĩa quan trọng, độ góc hẹp lá sắp xếp thẳng góc với tia sáng thì có khả năng tận dụng được nhiều năng lượng mặt trời và có thể trồng dày để thu năng suất cao. Số lá nhiều, có kích thước lớn, khỏe vào thời kì hoa rộ, phiến lá mỏng, phẳng rộng, màu xanh là cây sinh trưởng khỏe. Cành: Số cành trên thân thay đổi tùy theo giống, thời vụ và điều kiện canh tác. Cành mọc từ đốt thứ nhất tới đốt thứ 12, nhưng thường mọc khỏe từ đốt thứ 5 - 6. Giống chín sớm vụ Xuân có thể không có cành hoặc chỉ có từ 1 - 2 cành, các giống chín muộn vụ hè có từ 4 - 6 cành. Trong chọn tạo giống mục tiêu chọn ra các giống có số cành cấp 1 trên cây nhiều, nên là số quả trên cây tăng dẫn đến tăng năng suất. Một số vùng trồng đậu tương áp dụng biện pháp ngắt ngọn khi cây có 4-5 lá để tăng khả năng phân cành. 3. Hoa - Quả - Hạt. Hoa đậu tương thường có màu tím, tím nhạt, trắng, hoa thường mọc ở nách lá, đầu cành, ngọn thân. Hoa đậu tương rất bé, có chiều dài 6 -7mm và mọc thành chùm. Hoa có cấu tạo dạng cánh bướm đặc trưng với ống đài 5 cánh không bằng nhau và tràng hoa bao gồm cánh cờ phía sau, 2 cánh bên và 2 cánh phía trước tiếp xúc nhau nhưng không dính vào nhau. Bộ nhị hoa gồm 10 nhị chia thành 2 nhóm, nhóm 1 gồm 9 nhị với cuống đính với nhau thành một khối và nhóm 2 nhị chỉ có 1 nhụy hoa, nhụy hoa có 1 lá noãn và từ 1 đến 4 lá noãn đính. Thời kì cây bắt đầu ra hoa tuỳ thuộc vào giống và thời vụ gieo trồng, giống chín sớm vụ hè chỉ khoảng 30 ngày sau trồng đã ra hoa, còn các giống chín muộn thì phải sau 40 - 45 ngày sau trồng thì bắt đầu ra hoa. Thông thường các giống ra hoa sớm thì quả chín tập trung nhưng nếu gặp điều kiện bất thuận thì có thể 17
  17. gây thất thu nặng, các giống ra hoa kéo dài, quả chín không tập trung nhưng nếu bị rụng một đợt thì các đợt hoa tiếp sau sẽ bổ sung vào đó và vẫn có thể cho năng suất khá. Hoa đậu tương thường nở vào lúc 8 giờ sáng vào vụ hè thời tiết nóng hơn, còn vào vụ đông hoa thường nở muộn hơn vào lúc 9 giờ sáng, thời tiết thuận lợi cho hoa nở là nhiệt độ ngoài trời 250 - 280C, độ ẩm không khí khoảng 75 - 85%. Quả: Quả đậu tương thuộc loại quả giáp, số quả trên cây tuỳ thuộc vào giống và điều kiện ngoại cảnh, số quả trên cây dao động từ 10 - 20 quả với các giống chín sớm, các giống chín trung bình và chín muộn thì số quả trên cây nhiều hơn, có thể lên tới 150 quả/cây. Mỗi quả có từ 1 - 4 hạt nhưng chủ yếu là 2 - 3 hạt. Quả đậu tương thường hơi cong, có chiều dài từ 2 - 7cm. Độ dài lớn nhất của quả đạt được sau khi nở hoa 20 - 25 ngày, khoảng 30 ngày sau nở hoa thì quả đạt được kích thước lớn nhất, sau khi quả đạt được kích thước tối đa thì hạt cũng mới đạt được kích thước tối đa. Khi quả chín có thể có màu vàng tro hoặc vàng xám, có giống khi chín khô quả sẽ tự nứt làm mất hạt dẫn đến giảm năng suất. Hạt: Hạt đậu tương thường có dạng hình tròn, dẹt, bầu dục, màu sắc hạt có thể màu vàng, vàng rơm, xanh, đặc biệt có màu đen như một số giống nhập nội. Rốn hạt có màu vàng, trắng, nâu, đen, các giống có rốn hạt màu trắng được ưa chuộng trên thị trường hơn các giống có rốn hạt màu đen, nâu. Khối lượng 1000 hạt thay đổi tuỳ theo giống và điều kiện canh tác, có thể dao động từ 50 - 400g. 4. Nhu cầu sinh lí của cây đậu tương 4.1. Nhu cầu về đất đai Cây đậu tương có thể thích nghi được trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng tốt nhất là đất thịt nhẹ, đất pha cát, đất thoát nước tốt, sạch cỏ dại, không thích hợp với đất cát, sỏi đá, đất 18
  18. chua phèn, thoát nước kém. Độ pH từ 5,2 - 6,5 là phù hợp nhất cho đậu tương phát triển. 4.2. Nhu cầu về độ ẩm Nhu cầu nước của đậu tương thay đổi tuỳ theo điều kiện khí hậu, kĩ thuật canh tác và thời gian sinh trưởng của đậu tương. Thời kì mọc yêu cầu độ ẩm cao 75 - 85% độ ẩm đất, nếu khô hạn kéo dài thì hạt không nảy mầm được dẫn đến bị thối, gây khuyết mật độ, trong thời kì nảy mầm hạt cần hút một lượng nước bằng 100 - 150% khối lượng hạt, nhu cầu nước của đậu tương tăng dần khi cây lớn. Thời kì đậu tương ra hoa và thời kì quả vào chắc là thời kì mà đậu tương cần nhiều nước nhất. Nếu hạn vào thời kì này rụng hoa, rụng quả, trọng lượng hạt giảm. làm năng suất giảm rõ rệt, Đậu tượng chỉ chịu được úng trong thời kì cây con trước khi ra hoa, bị ngập nước hoàn toàn trong một thời gian ngắn dưới 12 giờ, ngập ngang cây 2 - 3 ngày thì cây vẫn có khả năng phục hồi. 4.3. Nhu cầu phân bón và dinh dưỡng Phân chuồng: Có tác dụng làm đất tơi xốp, cân đối dinh dưỡng, hấp thụ dinh dưỡng, chống trôi rửa, chậm tan phân, duy trì cho cây có bộ lá bền, quả hạt vào mẩy cho tới khi thu hoạch. Phân đạm: Dinh dưỡng thiết yếu cho cây sinh trưởng, phát triển. Đạm đặc biệt có tác dụng trong 20 ngày đầu sau gieo, khi cây chưa tự túc được đạm và giai đoạn cuối khi làm hạt. Cần bón bổ sung 110kg đạm urê/ha (4kg/sào BB) vào vụ lạnh, bón lót 1/3, bón thúc 2/3 vào lúc 5-6 lá, kết hợp vun gốc. Vụ nóng, lượng đạm giảm 1/2, tập trung cho bón lót. Phân lân: Giúp cây sinh trưởng cân đối, tập trung chất dinh dưỡng nuôi quả. Tập trung cho bón lót, lượng bón 300 - 460 kg lân nung chảy hoặc lân super/ ha, đất chua nên dùng 100% phân lân nung chảy Văn Điển hoặc Ninh Bình (1kg loại phân này có tác dụng khử chua tương đương 0,5kg vôi bột), các đất khác nên 19
  19. dùng hỗn hợp 1/3 phân lân super + 2/3 phân lân nung chảy để phối hợp các đặc điểm tốt của 2 loại lân này. Phân Kali: Có tác dụng hơn cả đạm và lân, kali làm cho cây tăng sức đề kháng chống bệnh, chống rét, hạn, tập trung dinh dưỡng làm quả và hạt. Lượng bón 120 - 150kg kali clorua/ha. Bón lót 1/3, số còn lại bón thúc vào lúc vun đợt 2. Các trung, vi lượng cần thiết: Cây đậu tương rất cần các trung lượng như MgO, CaO, SiO2, ngoài ra rất cần các vi lượng như Bo, Mo, Cu, Zn các vi lượng này trên đất dốc thường bị thiếu nghiêm trọng do bị trôi rửa, các chất này rất có sẵn trong phân lân nung chảy hoặc bổ sung qua phân bón lá như Amino Tam nông, KH, Humix, Atonix Phân bón lá: Cây trồng có thể hấp thu dinh dưỡng khoáng qua toàn bộ biểu bì bên ngoài cơ thể trong đó lá cũng có vai trò như rễ cây. Có nhiều loại phân bón lá, loại phân kích thích sinh trưởng tạo rễ, cành, lá chứa nhiều chất N, P, K và hoóc môn sinh trưởng GA3 (Giberelline Acid), Auxin, Kinetin , có loại chuyên kích thích hoa trái chứa nhiều vi lượng cần thiết cho cây trồng, đối với cây đậu tương các loại vi lượng như Bo, Mo, Mg, Zn rất cần thiết đối với tạo ra năng suất và chất lượng hạt. Nếu đất thiếu kali, cây khó tích lũy vật chất vào hạt và quả, khi đó lá đậu biểu hiện rõ màu sắc xanh đậm là thừa đạm, lân mà lại thiếu kali, lúc đó quả chậm vào chắc, chỉ cần phun thêm phân Multi-K (bà con quen gọi là phân siêu kali) lá cây chuyển màu vàng, quả chóng vào chắc hơn, năng suất tăng rõ rệt và rút ngắn thời gian sinh trưởng. Phân chuyên dụng cho đậu tương: Phân bón đa yếu tố thuộc nhóm phân tổng hợp do Công ty CP Phân lân nung chảy Văn Điển sản xuất, phân có nhiều đặc điểm ưu việt phù hợp với cây đậu tương do mang nhiều chất hữu ích hơn các loại phân tổng hợp khác: 20
  20. Thành phần phân bón: ngoài các chất đa lượng N (đạm), P (lân), K (kali) còn có các chất trung lượng S, CaO, MgO, SiO2 và hàng chục loại chất vi lượng như Mn, B, Zn, Cu, Co bảo đảm cho cây sinh trưởng phát triển cân đối, đề kháng tốt với sâu bệnh, đổ ngã, đạt năng suất và chất lượng cao trên các loại đất chua, đất bạc màu. Với thành phần cơ bản là Lân nung chảy, đây là phân tan chậm, giảm thiểu trôi rửa, tiết kiệm phân bón, giúp cân đối dinh dưỡng, cải thiện chất đất, 1kg lân nung chảy có tác dụng giảm độ chua tương đương 0,5kg vôi. Phân cho cây đậu lạc được sản xuất chuyên cho bón lót có công thức 4%N : 12P205 : 5K20: 2S : 10MgO : 20CaO : 15SiO2 và các vi lượng. Lượng bón 15 - 20kg/sào BB (350 - 560kg/ha), bón thúc 90 - 112kg kali clorua/ha (3 - 4kg/sào BB) là đạt năng suất trên 2 tấn/ha (70kg/sào) 4.4. Yêu cầu về điều kiện sinh thái Cây đậu tương cần một số điều kiện môi trường nhất định để sinh trưởng phát triển gọi là môi trường sinh thái như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm đất, độ ẩm không khí, quan hệ với các cây trồng sung quanh, với sâu, bệnh hại Các thông số khí hậu, thời tiết rất cần thiết khi xác định thời vụ trồng các đậu tương 3 vụ một cách khoa học. Điều kiện thời tiết khí hậu ở mỗi vùng, mỗi địa phương là một trong những nhân tố tác động quyết định tới sự sinh trưởng, phát triển và hình thành năng suất của cây trồng nói chung, cây đậu tương nói riêng. Vậy nên, rất cần đầu tư nghiên cứu mức độ thích nghi của từng loại cây trồng ở từng vùng, từng địa phương để từ đó có thể quy hoạch các vùng trồng chuyên canh, xen canh hoặc thâm canh, đồng thời giúp người nông dân bố trí hợp lý thời vụ gieo trồng, phân định thời gian và mức độ chăm sóc phù 21
  21. hợp với đặc điểm thời kỳ sinh trưởng của cây và biến động của thời tiết. Mục tiêu lớn hơn của việc nghiên cứu các điều kiện thích nghi của cây đậu tương là góp phần đẩy nhanh công tác chuyển cơ cấu cây trồng theo hướng phù hợp hơn với tài nguyên thiên nhiên, góp phần giảm thiểu những thiệt hại do thiên tai gây ra. 4.4.1. Nhu cầu nhiệt độ Tổng kết trên nhiều công trình nghiên cứu về cây đậu tương nhiệt đới, đậu tương là cây ưa khí hậu nóng ẩm. Thời gian sinh trưởng 70 - 120 ngày cần tổng tích ôn 1.800 - 3.0000C. Cây sinh trưởng bình thường ở 10 - 380C, trên và dưới giới hạn đó cây phát triển không tốt. Nhiệt độ thích hợp 18 - 250C. Lúc ra hoa, sợ rét và gió khô nóng. Cây đậu tương cần độ ẩm cao trong suốt thời kỳ sinh trưởng phát triển với độ ẩm trung bình: 70 - 75%, cần lượng nước 400 - 500 mm. Thời kỳ sinh trưởng độ ẩm 60 - 65% ảnh hưởng xấu đến sản lượng. Cây đậu tương có khả năng chịu hạn nhưng sợ ngập úng, lúc ra hoa cần tránh hạn lẫn úng, độ ẩm trong đất 70 - 75% là tốt nhất. Nhiệt độ tốt nhất cho sự nảy mầm là khoảng 180C - 260C. Trên 300 C hạt nảy mầm nhanh nhưng mầm yếu. Thời kì cây con từ khi có lá đơn đến khi có lá kép, đậu tương chịu rét khá hơn ngô. Thời kì lá đơn có thể chịu được nhiệt độ trên dưới 00C, thời kì lá kép phát triển được ở nhiệt độ >120C. Nhiệt độ tốt nhất cho đậu tương phát triển là 220 - 270C. Nhiệt độ thấp ảnh hưởng xấu đến ra hoa kết quả, nhiệt độ khoảng 100C ngăn cản sự phân hóa mầm hoa, nhiệt độ dưới 180C, tỷ lệ đậu quả thấp, nếu nhiệt độ cao hơn 390C ảnh hưởng xấu đến sự hình thành đốt, phát triển lóng và phân hóa hoa. 22
  22. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sự quang hợp là 250- 400C. Trong các thời kì phát triển cuối cùng nếu nhiệt độ thấp, hạt khó chín, chín không đều, tỷ lệ nước cao, chất lượng hạt kém (B.2) Bảng 2. Nhu cầu nhiệt độ của cây đậu tương Nhiệt độ Nhiệt độ Nhiệt độ Giai đoạn Tổng tích thích hợp giới hạn giới hạn sinh trưởng ôn0C nhất thấp nhất cao nhất Toàn giai 18 - 26 >10 6 - 8 8 - 10 15 15 15 <38 4.4.2. Nhu cầu ánh sáng Ánh sáng là yếu tố ảnh hưởng khá sâu sắc tới hình thái cây đậu tương. Các giống đậu tương trồng ở Việt Nam ưa ánh sáng ngày ngắn dưới 12 giờ, nếu gặp ngày dài trên 12,5 giờ sẽ ra hoa chậm, kéo dài thời gian sinh trưởng, vụ đông có ngày ngắn dưới 11,5 giờ sẽ ra hoa sớm. Cây đậu tương ưa ánh sáng tán xạ, với lượng mây khoảng 6 - 7 phần bầu trời là rất thích hợp cho cây đậu tương phát triển. Ánh sáng quyết định sự quang hợp của lá, sự cố định nốt sần của rễ từ đó ảnh hưởng đến thời gian nở hoa, thời gian quả chín, đến chiều cao của cây, diện tích lá và nhiều đặc tính khác của cây bao gồm cả sản lượng chất khô và năng suất hạt. 23
  23. Đậu tương là cây ngắn ngày điển hình nên độ dài của thời gian chiếu sáng chính là yếu tố quyết định sự ra hoa. Đậu tương rất mẫn cảm với độ dài của ngày, tác động của ánh sáng ngày ngắn mạnh nhất vào thời kỳ cây mới có hai lá kép, thời gian sinh trưởng đến trước khi ra hoa, ánh sáng ngày ngắn vào thời kì này làm cho cây rút ngắn thời gian sinh trưởng, chiều cao cây giảm, số đốt ít và độ dài đốt giảm. Độ dài của ngày cũng tác động tới tỷ lệ đậu quả, tốc độ lớn của quả. Đậu tương cũng rất nhạy cảm với cường độ ánh sáng. Nếu cường độ ánh sáng giảm từ 50% trở lên so với bình thường thì cây sẽ bị giảm số cành, số đốt, quả, năng suất hạt có thể giảm 60%; ở mức độ 5000lux thì quả rụng nhiều. Cây đậu tương cần nhiều ánh sáng để quang hợp nhất là thời kỳ ra hoa và hình thành quả, đây là điều kiện để đạt năng suất cao. Yêu cầu số giờ nắng trung bình cho các thời kỳ sinh trưởng của cây đậu tương như sau: Gieo hạt - mọc mầm: 5,0 - 5,5 giờ/ngày; mọc mầm - ra hoa 4,5 - 5,0 giờ/ngày; ra hoa - chín quả: 4,0 - 5,0 giờ/ngày. Số giờ nắng ít hơn những giá trị này là bất lợi. Điều kiện này cho thấy ở các địa điểm vùng núi cao, nắng sớm muộn, nắng chiều chóng tắt, cây đậu tương thường bị rút ngắn thời gian sinh trưởng nên năng suất thấp, kinh nghiệm nên chọn giống có thời gian sinh trưởng dài >90 ngày để đạt năng suất cao. Trong điều kiện độ dài ngày thích hợp, đậu tương chỉ cần 30% cường độ bức xạ mặt trời vì vậy đậu tương có thể trồng xen các cây trồng khác ( như ngô ), đây là một yếu tố quan trọng để tăng vụ, tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích. Nhưng yêu cầu là đậu tương cần chín trước khi cây trồng chính khép tán. Áp dụng giống chống chịu: Trong hoàn cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt như hiện nay để có năng suất ổn định cần thiết phải chọn tạo và áp dụng các giống chống chịu cao với các điều kiện sản xuất khó khăn như hạn, úng, nóng lạnh cực đoan, sâu bệnh. Viện DTNN hiện đã và sẽ đưa ra sản xuất trong thời gian tới các giống chống chịu thế hệ mới như DT2008 có 24
  24. khả năng thích ứng rộng với các thời vụ, vùng sinh thái, chống chịu với các điều kiện hạn, mưa úng, bệnh, đất nghèo dinh dưỡng, cho thu hoạch ổn định hơn trong các điều kiện sản xuất khó khăn. 5. Chu kì phát triển của cây đậu tương Chia ra hai giai đoạn: sinh trưởng dinh dưỡng (V) và sinh trưởng sinh thực (R). Trong giai đoạn thứ nhất là quá trình sinh trưởng của cơ quan dinh dưỡng (rễ, thân, lá); ở giai đoạn thứ hai chuyển sang hình thành cơ quan sinh sản và dự trữ như hoa, quả, hạt 5.1. Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng Tóm tắt các giai đoạn : VE: Nảy mầm; VC: Ra lá mầm; V1: Ra lá đơn và xuất hiện mầm lá thật (lá 3 thùy) V2: Ra lá đơn và 2 lá thật đầu tiên phát triển đủ kích thước V3: Lá đơn và 3 lá thật đầu tiên phát triển đủ kích thước V(n): Lá đơn và các (n) lá thật phát triển đủ kích thước 5.5.1. Thời kì từ gieo đến mọc (VE - VC): 25
  25. Thời kì này bắt đầu từ khi hạt giống được hút nước trương ra cho tới khi cây có hai lá mầm. Thời gian này tùy thuộc vào điều kiện ngoại cảnh như nhiệt độ, độ ẩm đất, phẩm chất hạt. Vụ hè thời kì này khoảng 4 - 5 ngày trong điều kiện độ ẩm thích hợp. Nếu nhiệt độ thấp thì làm cho thời gian này kéo dài hơn có thể lên tới 7 - 10 ngày. Nhiệt độ phù hợp cho giai đoạn này là 260 - 300C. Nếu nhiệt độ cao hơn 400 thì ảnh hưởng đến cây con và nếu nhiệt độ thấp hơn 80 làm cho hạt lâu mọc mầm. Thời kì mọc phải đủ ẩm, yêu cầu độ ẩm trong thời kì này từ 75% - 80%. Đây là thời kì quyết định mật độ cây trên đơn vị diện tích và sức khỏe cây con. 5.1.2. Thời kì mọc đến ra hoa (V1 - Vn). Đây là thời kì sinh trưởng dinh dưỡng. Giai đoạn đầu cây sinh trưởng chậm và chịu ảnh hưởng lớn của nhiệt độ, độ ẩm, đến lúc sắp ra nụ, hoa tốc độ sinh trưởng tăng nhanh. Đây là thời kì mấu chốt để thân to, đốt ngắn, rễ ăn sâu. Thời kì này cây chịu hạn tốt nhất, thời gian sinh trưởng của giai đoạn này phụ thuộc vào đặc tính di truyền của giống. 5.2. Sinh trưởng sinh thực (R): Có 8 giai đoạn nhỏ R1 - R8 26
  26. 5.2.1. Tóm tắt R1 - Ra hoa: Bắt đầu nở 1 hoa trên bất kỳ 1 đốt cây nào. R2 - Ra hoa rộ: Hoa nở ở một trong hai đốt cao nhất trên thân chính có lá phát triển đầy đủ. R3 - Bắt đầu ra quả: Quả có chiều dài khoảng 0,5cm ở trên 1 trong 4 đốt cao nhất trên thân chính với lá phát triển đầy đủ. R4- Quả đầy đủ: Quả có chiều dài khoảng 2cm ở trên một trong 4 đốt cao nhất trên thân chính với lá phát triển đầy đủ. R5 - Bắt đầu làm hạt: Hạt có chiều dài 0,3cm trong quả của một trong 4 đốt cao nhất trên thân chính với lá phát triển đầy đủ. R6 - Chắc già: Quả chứa hạt màu xanh chứa đầy trong khoang quả ở một trong 4 đốt cao nhất trên thân chính với lá phát triển đầy đủ. R7 - Bắt đầu chín: Một quả bình thường trên thân chính chuyển sang màu vàng hoặc vàng nâu. R8 - Chín hoàn toàn: 95% số quả chuyển sang màu vàng đặc trưng của quả chín. 5.2.2. Mô tả Lúc ra hoa đậu tương vẫn tiếp tục phát triển cả thân, lá, rễ. Thời kì này yêu cầu dinh dưỡng lớn. Hoa đậu tương thường nở vào buổi sáng, nhưng nếu trong điều kiện trời âm u, nhiệt độ thấp, thì thời gian nở hoa muộn hơn. Sau khi thụ phấn hình thành quả (5-7 ngày), khi quả phát triển tối đa thì hạt mới phát triển. Tốc độ tích lũy chất khô của hạt tăng nhanh cho đến khi hạt vào chắc. Độ ẩm trong thời kì này có ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát triển của quả và hạt. Hạt đạt độ chín sinh lý là khi hạt đã rắn, vỏ hạt có màu sắc của giống, vỏ quả chuyển màu vàng tro hay đen xám, lá úa vàng và rụng bớt. 27
  27. Đặc biệt trong giai đoạn này đậu tương thường bị sâu, bọ xít phá hại, nếu nặng làm giảm năng suất. Do vậy cần phải có biện pháp phòng trừ (sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để diệt trừ với liều lượng thích hợp khi sâu mới phát triển). 28
  28. Chương III CÁC LOẠI BỆNH HẠI VÀ CÁCH PHÒNG TRỪ Việt Nam ở vùng nhiệt đới nóng ẩm, thuận lợi cho nhiều loại sâu bệnh phát triển, phá hoại đặc biệt trên cây đậu tương, trong các bộ phận của cây chứa nhiều chất dinh dưỡng đặc biệt chất đạm nên là đối tượng hấp dẫn của nhiều loại sâu bệnh hại. Điều kiện nhiệt đới nóng ẩm làm cho vòng đời của sâu bệnh tương đối ngắn, các lứa sâu bệnh kế tiếp nhau, tăng trưởng nhanh, mức độ phá hoại rất nghiêm trọng nếu như không bố trí cây trồng và thời vụ hợp lý. Sâu bệnh là yếu tố hạn chế chủ yếu gây hại, làm giảm năng suất, chất lượng đậu tương ở nước ta. Nguyên tắc cơ bản là nên phòng trừ bằng biện pháp canh tác, phòng trừ dịch hại tổng hợp IPM trên cây đậu tương như điều chỉnh thời vụ, bố trí luân canh và cơ cấu cây trồng hợp lý để cắt vòng đời của sâu bệnh hại, đồng thời áp dụng các biện pháp chủ động diệt nhộng và sâu non, làm vệ sinh đồng ruộng, kết hợp vừa dự tính dự báo khoa học, kết hợp sử dụng giống đề kháng sâu bệnh, phát hiện sâu bệnh kịp thời dùng các biện pháp thủ công và cơ giới để phòng trừ hiệu quả. Bệnh hại đậu tương thường phá hại từ rễ, lá, thân, quả và hạt v.v thường gây ra các thiệt hại về năng suất, tại Việt Nam thường xảy ra các loại bệnh sau: 29
  29. 1. Bệnh gỉ sắt (Phakopsora pachyrhizi Sydow) a) Nguồn gốc, triệu chứng Do 1 loại nấm gây nên, phá hại nặng ở đậu tương xuân, các vụ Xuân hè ở miền núi. Biểu hiện bệnh thường xuất hiện ở mặt dưới lá, cuống lá và thân xuất hiện đốm vàng và đốm nâu - đó là bào tử phát triển trong vết bệnh làm ảnh hưởng tới sự quang hợp của lá. Bệnh xuất hiện ở tầng lá dưới rồi lan dần lên trên. Bệnh biểu hiện nặng nhất khi trời lạnh âm u, ít nắng, độ ẩm không khí cao, khi có nắng và mưa rào thì bệnh lại giảm. b) Biện pháp phòng trừ - Sử dụng giống chống chịu với gỉ sắt (DT2008, DT95, ĐT2000, DT90, DT96, Vàng Mường Khương ), ở ta chưa có giống kháng hoàn toàn được loại bệnh này. - Vụ Xuân không nên gieo sớm trước 20/2 dương lịch để tránh thời tiết âm u độ ẩm cao. Riêng với DT2008 có thể gieo sớm 1 tháng vẫn không bị gỉ sắt phá hại. - Phun các chế phẩm chống gỉ sắt hữu hiệu và rẻ tiền là: Zinép, Oxyclorua đồng, Boocđô sử dụng theo hướng dẫn trên bao bì. - Luân canh với các cây trồng không thuộc họ đậu, tốt nhất là luân canh với lúa nước. Làm đất kỹ, vệ sinh đồng ruộng, thu dọn tàn dư cây vụ trước, nhất là cây bị bệnh. 30
  30. 2. Bệnh đốm nâu (Septoria Glycine) a) Nguồn gốc, triệu trứng Bệnh do nấm Septoria glycine Hemi gây ra. Bào tử nấm sống qua đông trên thân và lá. Nấm xâm nhập qua lỗ khí khổng và sinh trưởng ở giữa các tế bào. Nấm cũng truyền qua hạt. Nó xâm nhập vào hạt qua khí khổng hoặc qua mô lá và cuống noãn. Dấu hiệu đầu tiên của bệnh là những đốm nâu không hình dạng xuất hiện trên lá mầm. Tiếp theo là những đốm đỏ có góc cạnh, với đường kính 1-5mm xuất hiện trên 2 lá đơn. Những lá này nhanh chóng chuyển sang màu vàng và rụng. Các vết tổn thương hoà lẫn với nhau nên khó phân biệt từng vết riêng biệt. Bệnh này thường xuất hiện ở vụ nóng (vụ hè) trên các giống chuyên vụ lạnh, làm rụng hoa, lá, quả, làm giảm năng suất đáng kể. b) Phòng trừ - Dùng giống kháng bệnh, không đưa các giống chuyên vụ lạnh trồng sang vụ nóng. - Vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch cây bị bệnh. - Dùng hạt giống sạch bệnh, xử lý hạt giống với thuốc trừ nấm. 31
  31. - Luân canh cây trồng, ít nhất một năm với cây trồng không nhiễm bệnh đốm nâu. - Phun thuốc trừ nấm trong giai đoạn từ ra hoa đến đậu quả có tác dụng phòng trừ tốt. 3. Bệnh sương mai - Bệnh đốm phấn (Peronospora manshurica) a) Nguồn gốc, triệu chứng Bệnh do nấm Peronospora manshurica gây ra, nấm thích hợp với điều kiện ẩm độ cao, nhiệt độ khoảng 20-2200C, lớp nấm màu xám hoặc phớt tím. Trên bề mặt lá có vết màu xanh vàng lợt. Những vết này về sau có màu nâu xám hoặc nâu đậm khi các mô bị hoại tử và sung quanh vết thương thường có đường viền màu xanh vàng. Nếu không có đường viền đó thì mép ngoài vết bệnh sẫm hơn phần giữa. Những ngày ẩm độ cao, vào sáng sớm ở mặt dưới lá nơi vết bệnh có phủ một. Đây là đặc trưng của bệnh sương mai. Trường hợp bệnh nặng lá bị khô, mép ngoài rụng sớm, làm hạt lép, có thể giảm năng suất tới 10%. Một số cây bị bệnh biểu hiện toàn thân: cây nhỏ, lá nhỏ hơn bình thường. b) Phòng trừ - Sử dụng giống chống bệnh. - Không nên trồng với mật độ quá dày, nếu trồng dày sẽ làm ẩm độ trong ruộng cao tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm nhập của bệnh. Không nên tưới vào buổi chiều tối. - Bón phân cân đối, tăng cường bón Kali. 32
  32. - Khi bệnh chớm xuất hiện, cần phun sớm bằng các loại thuốc thông dụng như: Ridomil 72MZ, Score 250 EC, Topcin M để hạn chế sự phát triển của bệnh. - Luân canh đậu tương với lúa hoặc cây trồng khác không thuộc họ Đậu. - Xử lý hạt bằng thuốc trừ nấm. 4. Bệnh phấn trắng (Diffusa microsphaera) Bệnh phấn trắng là một bệnh phổ biến trên lá của cây trồng và cây cảnh trong đó có đậu tương. Nấm phấn trắng ở đậu tương là do nấm Diffusa microsphaera gây ra. Bệnh thường xảy ra khi thời tiết lạnh (10 - 18°C), ẩm độ cao vào vụ xuân và vụ đông khi cây bắt đầu ra hoa tới khi đậu quả. Làm giảm năng suất rõ rệt nếu phát sinh vào giai đoạn hoa và vào quả, ít giảm năng suất nếu bệnh xảy ra khi quả vào chắc. Bệnh thường đi kèm với gỉ sắt, sương mai vào các vụ lạnh, hoặc đậu tương trồng tại các vùng núi cao nhiều sương ẩm ban đêm. Bệnh sẽ tiêu biến dần nếu có mưa rào và thời tiết nắng ráo. DT2008 Giống nhiễm Giống kháng (trái), Nhiễm (phải) 33
  33. Để tránh bệnh này nên sử dụng các giống kháng cao như DT2008, DT95, giống đề kháng khá là DT90, ĐT2000, DT96. 5. Bệnh khảm lá đậu tương (Soybean mosaic virus (SMV) a) Triệu chứng Khi bị bệnh lá cây có những phần xanh nhạt, đậm và biến vàng xen kẽ, cây chậm phát triển. Lá non ở ngọn khảm lá mạnh và biến dạng. Quả thường lép. Cây bị bệnh đọt non xoăn lại, các đốt thân co ngắn, cây chùn lại, phát triển chậm, quả ít và biến dạng, sần sùi, có vị đắng. b) Tác nhân gây bệnh Bệnh do virus SMV (Soybean mosaic virus ) gây nên. c) Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh Virus lan truyền do rệp, bọ trĩ làm môi giới. Sự lan truyền cây bệnh sang cây khoẻ do rệp muội ở ngoài đồng vẫn là chủ yếu, bệnh còn truyền qua hạt. Bọ trĩ, rệp càng nhiều tỉ lệ nhiễm bệnh càng lớn. d) Biện pháp phòng trừ - Chọn lọc cây sạch bệnh để làm giống. Trồng cách ly ruộng làm giống với ruộng đậu thương phẩm. - Vệ sinh đồng ruộng, luân canh cây trồng, thu dọn tàn dư cây bệnh trên đồng ruộng. 34
  34. - Nhổ bỏ những cây bị bệnh trên ruộng, tránh lây lan từ cây bệnh sang cây khỏe. - Diệt trừ côn trùng truyền bệnh (rệp, bọ trĩ) bằng các loại thuốc hoá học. - Bệnh do virus gây nên, chưa có thuốc trị. 6. Bệnh lở cổ rễ (Rhizoctonia solani) Bệnh lở cổ rễ do nấm Rhizoctonia solani gây nên. Tuy không xảy ra thành dịch nhưng tỷ lệ cây chết trong thời kỳ mới mọc hoặc cây con nhỏ rất cao. a) Triệu chứng Nấm phát triển và phá hại ở gốc cây, làm chết rễ và vỏ ở phần cổ rễ tiếp giáp với mặt đất. Cây bị thối gốc, héo và chết. Bệnh thường phát sinh và gây hại trên những vùng đất thấp, đất ẩm ướt, đặc biệt trên những ruộng đã từng trồng đậu đỗ, ngô trước đó dễ bị lây nhiễm nấm của bệnh lở cổ rễ từ các cây này sang hoặc trên các ruộng đó từng trồng lúa mà bị bệnh khô vằn b) Biện pháp phòng trừ Xử lý hạt giống bằng thuốc trừ nấm trước khi gieo như RORAL 35
  35. 7. Bệnh héo rũ a) Triệu chứng Biểu hiện ở cây con, cây bị héo, lá rũ, lá mầm vàng và rụng sớm. khi cây trưởng thành, bệnh làm lép hạt, rễ và gốc bị thối nhũn. Bệnh gây hại chủ yếu ở gốc thân và rễ, làm cho hệ thống dẫn nhựa của rễ, gốc thân bị thối đen hoặc nâu, nếu cắt ngang phía trên phần mô bị bệnh sẽ thấy bó mạch có màu nâu đen, làm cho khả năng dẫn nước, dinh dưỡng từ dưới đất lên để nuôi cây bị ảnh hưởng. Nếu gặp điều kiện ẩm độ không khí cao phía trên chỗ bị bệnh có thể thấy lớp khuẩn ty nấm màu trắng hoặc đỏ hồng. Cây bị bệnh thì bộ lá sẽ héo dần và rụng sớm. Nếu bị bệnh từ lúc cây con, thường làm cho chồi ngọn của cây con bị héo, lá bị rủ xuống, lá sò bị vàng và rụng sớm, hệ thống rễ có thể bị hư hại. Khi rễ chính bị hư cây thường mọc ra nhiều rễ con trên cổ rễ chính, tạo thành hệ thống rễ chùm (đây có thể được coi là một triệu chứng đặc trưng của bệnh), cây bị lùn, yếu ớt, tốc độ phát triển chậm lại. Nếu bệnh tấn công muộn khi cây đã lớn thì không làm cho cây bị chết, nhưng thường làm cho quả và hạt bị lép lửng, năng suất giảm trầm trọng. Ngoài gốc, rễ bệnh còn hại trên cả quả đậu, trên quả vết bệnh ban đầu nhỏ ở đầu quả, sau lan dần vào bên trong làm cho quả chuyển dần sang màu nâu đen, hạt bị lép lửng, nếu bệnh gây hại sớm, và nặng thì quả đó không tạo hạt. 36
  36. b) Nguyên nhân Bệnh do nấm Fusarium oxysporum gây ra. Ở nước ta bệnh thường gây hại khá nhiều cho đậu tương, nhất là ở những ruộng gieo trồng dày, làm cho ruộng bị bít bùng, tạo ẩm thấp trong ruộng ở những tháng mùa mưa. Bệnh thường xuất hiện và gây hại nhiều từ giai đoạn giữa vụ trở đi, khi mà cây đậu đã giao tán, làm cho ẩm độ trong ruộng cao, lại gặp điều kiện thời tiết nóng ẩm. Nguồn bệnh tồn tại chủ yếu trong đất ruộng và truyền từ vụ này qua vụ khác bằng bào tử hoặc khuẩn ty nấm. Nấm xâm nhập vào bên trong cây chủ yếu qua khí khổng, qua vết thương cơ giới do tuyến trùng, côn trùng hoặc do con người trong quá trình chăm sóc cây đậu đã vô ý tạo ra, hoặc trực tiếp qua biểu bì. c) Phòng trị Không nên lấy hạt đậu từ những ruộng đã bị bệnh để làm giống cho vụ sau. Khi làm đất phải thu dọn sạch sẽ tàn dư của cây đậu ở vụ trước đem ra khỏi ruộng, dọn sạch rơm, rạ những ruộng vụ trước đó trồng lúa mà bị bệnh khô vằn; cây họ cà (khoai tây, cà chua) bị bệnh, ngô bị bệnh lở cổ rễ từ vụ trước và đây là nguồn nấm gây nên bệnh héo rũ trên cây đậu tương. Khi trồng không nên lấp đất quá dày, cây mọc chậm và yếu sẽ dễ bị bệnh lở cổ rễ. Tuyệt đối không được sử dụng phân chuồng tươi để bón, tưới. Đảm bảo độ ẩm đồng ruộng thích hợp, khi mưa to cần tháo kiệt nước không để ruộng bị ngập úng. Trong quá trình xới xáo, làm cỏ chăm sóc cho ruộng đậu tránh tạo vết xây xát cho cây đậu, nhất là ở phần gốc rễ của cây. Khi bệnh xuất hiện có thể sử dụng một trong những loại thuốc sau đây để phòng trừ: Ridomil MZ 72WP; Topsin M 50WP hoặc 70WP; Rovral 50BTN Nếu đã áp dụng nhiều biện pháp mà bệnh vẫn không thuyên giảm nhiều thì nên luân canh một vài vụ với cây trồng khác như bắp, hoặc một vài loại rau trồng cạn khác. 37
  37. d) Biện pháp phòng trừ Với các bệnh do virus gây nên như bệnh khảm và héo rũ do vi khuẩn hiện chưa có loại thuốc hóa học nào khả dĩ có thể phòng trị được một cách hữu hiệu, do đó các biện pháp phòng bệnh là tốt nhất: Sử dụng các hạt giống sạch bệnh, luân canh hợp lý tốt nhất với cây lúa nước nhằm hạn chế nguồn bệnh lưu lại trong đất. Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để phát hiện và phun thuốc diệt trừ các loại côn trùng chích hút bằng các loại thuốc trừ sâu để tránh lây lan. 8. Bệnh thán thư đậu tương (Colletotrichum truncatum (Schw.) Andrus & Moore) Bệnh thán thư đậu tương là bệnh phổ biến ở khắp các vùng trồng đậu tương trên thế giới. Nấm gây bệnh có phổ ký chủ rộng, gây hại trên các cây trồng thuộc họ Đậu như đậu xanh, đậu đen, lạc, đậu trạch, làm giảm chất lượng hạt, hạt bị nhiễm bệnh hàm lượng các axit amin giảm a) Triệu chứng Cây có thể nhiễm bệnh từ giai đoạn cây con đến khi thu hoạch. Nấm gây hại ở các bộ phận của cây như lá, thân, cành, quả và hạt. Giai đoạn cây con vết bệnh là các vết đốm màu nâu ướt, hơi lõm trên lá mầm và phát triển xuống thân, lá mầm bị bệnh thường rụng sớm. Bệnh nặng thường gây chết cây con. Vết bệnh trên lá thường biểu hiện các vết chết hoại tử có màu nâu đỏ trên gân lá, gây thối gân. Bệnh có thể gây hại trên phiến lá là các vết bệnh hình bầu dục, màu nâu, hơi lõm, sung quanh có viền nâu đỏ, trên bề mặt vết bệnh có các chấm đen nhỏ là các đĩa cành của nấm gây bệnh. Lá bị bệnh thường quăn lại dễ bị rụng. 38
  38. Trên thân cành, cuống lá và vỏ quả vết bệnh có màu nâu, vết bệnh thường bị bao phủ bởi các đĩa cành có màu nâu. Hạt nhiễm bệnh thường nhỏ, nhăn nheo, trên bề mặt hạt có các vết xám, sau chuyển sang màu nâu hoặc nâu đen. Cây bệnh phát triển kém, nếu nhiễm ở giai đoạn sớm cây đậu không có khả năng phát triển quả. Một số cây bệnh trên thân và hạt có thể không mang triệu chứng nhưng nấm nhiễm hệ thống ở bên trong. b) Đặc điểm phát sinh phát triển Bệnh thán thư đậu tương phát triển mạnh trong điều kiện ẩm độ cao, nhiệt độ khoảng 280C. Ẩm độ không khí dưới 80%, nhiệt độ dưới 130C bệnh có thể ngừng phát triển. Ở điều kiện miền Bắc nước ta, bệnh thường phát triển từ tháng 4 đến tháng 6, gây hại mạnh trên cây đậu tương đang ở giai đoạn phát triển quả cho đến khi thu hoạch. Sợi nấm trên hạt giống có thể lan truyền gây bệnh cho cây con mới mọc. Bào tử phát sinh lan truyền qua gió, mưa, nước tưới và côn trùng gây hại trên đồng ruộng. Bệnh phát triển mạnh trên những ruộng đậu tương trồng với mật độ dày, trồng liên tiếp nhiều vụ. Tỷ lệ nhiễm bệnh trên đồng ruộng phụ thuộc vào mức độ nhiễm bệnh của hạt giống và ôn, ẩm độ trên đồng ruộng. Bệnh phát triển mạnh ở những vùng trồng đậu tương có mưa nhiều, úng trũng, bón phân không hợp lý. c) Nguyên nhân gây bệnh Bệnh hại do nấm Colletotrichum truncatum. Tản nấm hầu như không xuất hiện, nếu có thường rất mỏng màu sáng hoặc 39
  39. trắng hồng. Sợi nấm đa bào, không màu. Đĩa cành mọc đơn lẻ hoặc tập trung thành từng đám. Lông bám trên đĩa cành màu nâu hoặc màu đen, thường dài hơn cụm bào tử phân sinh. Bào tử phân sinh tập trung thành cụm, có màu trắng, trắng đục hoặc vàng nhạt đến vàng da cam. Bào tử phân sinh không màu, thon dài hơi cong và nhọn ở hai đầu, kích thước 15 - 27 x 2 - 5 µm. Lông của đĩa cành màu nâu hoặc màu đen, có từ 0 - 9 ngăn ngang, kích thước 50 - 468 x 2 - 7 µm. Nấm gây bệnh có thể nhiễm hệ thống và biểu hiện triệu chứng sau khi cây đã thuần thục. Sợi nấm có thể tồn tại trong nội nhũ và phôi hạt. Bào tử nấm nảy mầm hình thành 1- 2 ống mầm ngắn, từ đó sinh ra các giác bám xâm nhập qua biểu bì của cây. Gặp điều kiện thuận lợi nhiệt độ 20 - 250C, có giọt nước, nấm có thể nảy mầm và hình thành giác bám trong vòng 6 giờ, thời kỳ tiềm dục 60 - 65 giờ. Nguồn bệnh tồn tại chủ yếu ở dạng sợi nấm trên hạt giống và tàn dư cây bệnh. Trên hạt giống, sợi nấm giữ được mức sống từ 1 - 2 năm. d) Biện pháp phòng trừ - Trồng các giống chống bệnh - Gieo hạt ở vị trí cao ráo, thoát nước tốt, vun gốc cao, tránh ứ đọng nước vào mùa mưa. - Chỉ lấy hạt ở những cây, ruộng không bị bệnh để làm hạt giống cho vụ sau. - Xử lý hạt giống bằng các loại thuốc hoá học có khả năng thấm sâu để diệt sợi nấm. - Sau thu hoạch thu gọn sạch tàn dư cây, quả bị bệnh đem đốt kết hợp cày sâu để vùi lấp tàn dư. - Bón phân cân đối giữa N, P, K. - Thực hiện luân canh với cây trồng nước. - Khi bệnh chớm xuất hiện có thể phun thuốc phòng trừ kịp thời : dùng Zinep 80WP; Baycor 25WP; Score 250 ND; Daconil 50WP. 40
  40. - Có thể sử dụng biện pháp sinh học, dùng các chế phẩm từ loài nấm đối kháng như Gliocladium roseum, Trichoderma viridae, Penicillium thomi để xử lý hạt giống cũng làm giảm tỷ lệ bệnh. 9. Bệnh tím hạt (Cercospora) a) Triệu chứng, nguyên nhân Bệnh có thể do nhiều loại nấm Cercospora gây ra. Phá hại hạt là chủ yếu nhưng còn phá hoại cả lá, thân, quả. Lá nhiễm bệnh thường bị nhăn rồi khô và rụng sớm. Quả bị bệnh có những đốm nhỏ, vỏ quả và đặc biệt vỏ hạt có những vết màu nâu tím. b) Biện pháp phòng trừ - Chọn giống với tính kháng cao, nguồn vật liệu với tính kháng cao hầu như là miễn dịch với bệnh này. Kết quả nghiên cứu cho thấy tính kháng có thể do 1 hoặc 2 gen lặn quyết định. - Dùng hạt giống tốt, sạch bệnh, xử lý hạt với thuốc trừ nấm. - Luân canh với cây trồng khác họ đậu. 10. Bệnh u bướu rễ (Meloidogyne spp.) a) Triệu chứng Đây là một trong vài bệnh nghiêm trọng do tuyến trùng gây ra trên đậu tương. Trồng đậu liên tục trên những ruộng đã bị nhiễm bệnh này thì bệnh càng gia tăng và bệnh trở nên yếu tố chính làm giới hạn năng suất. Đậu trồng trên đất cát sẽ dễ bị nhiễm bệnh hơn trên các loại đất khác. Rễ cây bệnh có những bướu to (galls) sưng phồng lên, trông dễ nhầm với các nốt sần (nodules) ở rễ, bướu thường có màu trắng và dạng thon dài, giữa bướu phình to đều ra hai bên rễ. Các bướu thường tập trung ở gần các chóp rễ, trong khi các nốt sần thường tập trung ở phần rễ gần gốc cây. 41
  41. Cây có thể bị lùn, lá phát triển kém và mất màu, thay đổi màu sắc tùy theo mức độ bệnh: có màu xanh nhạt, vàng nhạt, vàng sậm rồi héo nâu và rụng sớm. Mật độ tuyến trùng trong đất và đặc tính nhiễm bệnh của cây là hai yếu tố quyết định các mức độ nhiễm bệnh. Ngoài ra, các yếu tố môi trường như đất cằn và khô hạn cũng làm tăng triệu chứng bệnh ở các bộ phận trên mặt đất. Bệnh nặng, các giống dễ nhiễm có thể chết trước khi quả chín. b) Nguyên nhân Bệnh do tuyến trùng Meloidogyne spp. Trứng và ấu trùng tiền ký sinh của tuyến trùng M. incognita được tìm thấy trong đất. Ấu trùng rất nhỏ, dài khoảng 0,4mm, là động vật có dạng dài như con lươn. Mầm bệnh thuộc nhóm nội ký sinh. Khi có ký chủ, ấu trùng chui vào rễ và phát triển thành con trưởng thành. Con trưởng thành cái có dạng quả chanh núm và to. Cách chích hút của chúng sẽ kích thích các tế bào rễ lớn bất thường, gọi là các “tế bào khổng lồ” tạo thành những u bướu. Các tế bào khổng lồ này biểu hiện sự phát triển rối loạn của cây, làm cản trở sự vận chuyển nước và dưỡng chất trong hệ thống rễ. c) Phòng trừ Trong sản xuất, biện pháp tốt nhất là luân canh với cây màu khác, với lúa nước hoặc bỏ hóa 1 vụ nhằm làm giảm mật độ tuyến trùng trong đất. Hiện nay áp dụng có hiệu quả là sử dụng các chế phẩm vi sinh vật đối kháng như Trichoderma rắc vào rạch trước khi gieo hoặc trộn lẫn phân chuồng 42
  42. 11. Bệnh lùn rụt Phytoplasma Phytoplasmas là sinh vật thô sơ có tế bào không nhân, không vách ngăn, gây ra hơn 600 bệnh ở các loài cây trồng ngắn ngày . Các triệu chứng biểu hiện ở cây đậu tương là: lá chuyển xanh thẫm, lóng cây ngắn lại, tăng trưởng còi cọc, lá nhỏ hơn, ra nhiều chồi như cái chổi, hoa không đậu quả, mô vỏ cây bị hoại tử, lan ra cành và cây chết dần, không cho thu hoạch. Phytoplasmas được truyền từ cây này sang cây khác bởi môi giới côn trùng, chủ yếu là rầy và kiến. Cần phòng trị bằng luân canh khoa học giữa các loại cây trồng không cùng loài, diệt côn trùng môi giới truyền bệnh bằng thuốc trừ sâu ngay từ khi cây mọc mầm. Tóm tắt chương 3.1 Với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm như nước ta, bệnh hại đậu tương là nguyên nhân gây thiệt hại đáng kể tới năng suất đậu tương, các biện pháp phòng trị hữu hiệu là: Sử dụng giống kháng bệnh; bố trí thời vụ thích hợp, luân canh hợp lý để phòng tránh bệnh phát sinh, bón phân cân đối dinh dưỡng, tránh bón nhiều đạm, sử dụng các biện pháp sinh học xử lý mầm bệnh trong đất. 43
  43. Chương IV CÁC LOẠI SÂU HẠI VÀ CÁCH PHÒNG TRỪ Nước ta có khoảng 35 loại sâu hại phổ biến thuộc về 3 nhóm sâu hại lá, sâu hại thân quả, sâu chích hút: 1. Sâu hại lá Nguy hiểm nhất là sâu khoang, sâu xanh da láng, sau đó là các loại sâu cuốn lá phá hoại từ lúc cây non 2 - 6 lá kép, ra hoa, hình thành quả và hạt và đến cả khi quả vào chắc, làm ảnh hưởng đến sự tổng hợp vật chất trên lá, vận chuyển chất từ lá về hạt. 1.1. Sâu cuốn lá đậu tương (Lamprosema indicata) a) Đặc điểm và hình thái Bướm là 1 loài ngài sáng giống sâu cuốn lá như trên lúa, kích thước nhỏ hơn dìa cánh không đen, cánh trước có 3 đường vân dài cắt ngang cánh, cánh sau có 2 đường vân. Trứng màu hồng nhạt, đẻ rời rạc trên các phần thân của cây. Ấu trùng màu nâu nhạt, đầu màu nâu. Bướm hoạt động mạnh vào chiều tối, thích ánh sáng đèn, có thể lợi dụng tập tính này dùng bả chua ngọt để diệt trừ hoặc làm giảm mật độ. Thông thường đẻ trứng ở mặt dưới lá non. Ấu trùng mới đẻ ra nhả tơ kéo mép lá lại, ăn và phá. Thông thường tuổi nhỏ, sâu ăn phần mềm của lá (biểu mô) chừa gân lớn. Khi tuổi lớn, sâu ăn từng mảng chừa gân chính. Trong 1 cuốn lá có 1 con sâu. 44
  44. b) Đặc điểm gây hại Gây hại chủ yếu giai đoạn 3 - 8, lây nhiễm sâu cuốn lá sẽ làm cây chậm phát triển giảm năng suất. Sâu non nhả tơ cuốn tròn lá nằm bên trong phá hại, ăn chất xanh còn trừ lại biểu bì, gây cho lá đậu co rụt khô chết. c) Biện pháp phòng trừ Luân canh đậu tương với lúa hoặc các cây họ hòa thảo, bông v v có tác dụng hạn chế sâu hại rõ rệt. Bảo vệ và tăng cường hoạt động của thiên dịch bằng cách trồng xen đậu tương với cây trồng khác. Thời kỳ sâu thường gây hại nặng là đậu từ 3 - 4 lá kép đến quả non. Sử dụng biện pháp làm bả chua ngọt để diệt trừ ngài đẻ trứng (như Mục 1.2), khi cần thiết dùng các loại thuốc có hiệu quả diệt sâu cao như Bulldock 25 EC (Beta - Cyflutlirin) 0,8 - 1 lít/ha, Forvin 85 WP (Carbaryl) 0,75 - 1kg/ha, Karate 25 EC (Lambda - Cyhalothrin) 0,3 - 0,5 lít/ha; Baythroid 50 EC. 5 SL (Cyfluthrin) 0,6 - 0,8 lít/ha, Lanate 1.2. Sâu khoang (Prodenia litura) a) Phân bố và ký chủ Xuất hiện nhiều nước trên thế giới, vùng nhiệt đới, Đông Nam Á, Đông Âu, Úc. Ở nước ta sâu khoang là loài ăn tạp, phá hại nhiều loại cây trồng (200 loại cây trồng). 45
  45. b) Đặc điểm và hình thái Thành trùng (a) là 1 loài ngài đêm màu nâu đen, cánh trước có những hình dáng rất phức tạp. Ở 1/3 kể từ gốc cánh có 1 vệt trắng từ mép cánh trước đến giữa cánh. Khi đậu cánh xếp hình mái nhà, vệt sáng tạo trên cánh giống hình chữ V. Cánh sau màu trắng bóng có ánh tím. Trứng hình bán cầu (b), có khoảng 36-39 đường gân từ đỉnh trứng đến đáy trứng cắt những đường gân ngang quanh trứng tạo những ô nhỏ quanh trứng và có lông bao phủ. Ấu trùng mới nở màu xanh nhạt đến tối, có 3 vệt (vệt giữa lưng và 2 vệt phụ lưng) chạy dài từ đầu đến cuối bụng. Trên vạch phụ lưng mỗi đốt xuất hiện 1 vệt đen hình bán nguyệt. Riêng đốt bụng thứ 1 và 8 vệt đen hình bán nguyệt lớn dính liền với phần phụ kia của thân tạo thành đốm đen gọi là sâu khoang (loang lỗ) - (c). Nhộng màu nâu bóng, cuối bụng có 1 cặp gai ngắn. (a) Thành trùng (ngài) (b) Ổ trứng (c) Sâu trưởng thành c) Tập quán hoạt động Sâu trưởng thành hoạt động vào chiều tối, ban ngày trong bụi rậm, cành cây, thường đẻ trứng vào mặt trên của lá. Sâu non mới nở sống tập trung và gặm những biểu mô của lá. Sang tuổi 2 sâu phân tán, xuất hiện 2 đốm đen, chưa có phản ứng với ánh sáng. Tuổi 3 xuất hiện 3 vạch chính, màu sắc sâu non thay đổi và có 46
  46. phản ứng với ánh sáng, phần lớn chúng hoạt động mạnh vào sáng sớm hoặc chiều mát. Khi có ánh sáng mặt trời sâu ẩn ở phía dưới lá hoặc trốn vào đất. Ở tuổi 2 - 3 sâu có thể ăn thủng lá đục thành những lỗ nhỏ. Tuổi 4 - 5 có khả năng phá hại mạnh ăn những mảng lá lớn, chừa lại gân chính, đôi khi chừa lại cuống lá, có phản ứng với ánh sáng rất mạnh. Tuổi 6 sâu hoạt động ít, ăn ít, cơ thể ngắn lại. Cuối tuổi 6 sâu không ăn, chui xuống đất, tạo thành nôi và hoá nhộng, đôi khi trong lá khô hoặc tàn dư thực vật. d) Biện pháp phòng trị - Vệ sinh đồng ruộng trước và sau khi trồng, cày ải phơi đất. - Dẫn nước ngập ruộng trước khi làm đất. - Diệt ổ trứng và sâu non bằng tay. - Hạn chế phun thuốc để bảo tồn các loài thiên địch thường xuất hiện trên ruộng như nhện, bọ rùa, ong kí sinh - Dùng bẫy bả pheromone hoặc bẫy chua ngọt có hiệu quả bằng bả chua ngọt bẫy ngài (bướm đêm): khi đậu bắt đầu ra hoa cần phòng chống các loại sâu này, cứ 1hécta dùng 1kg mật mía pha loãng với 5 lít nước đổ vào xô nhựa, để nguội, trộn với 1 lít dấm chua, 3kg chuối tiêu chín kỹ, 0,5kg bã rượu nghiền nhỏ, 1 gói thuốc trừ sâu Peran 50 EC + 2 g Dipterex, trộn đều thành hỗn hợp đặc sệt. Lấy 1 nắm rơm khô, buộc lên đầu cọc dài 1m thành bùi nhùi, nhúng phần rơm vào hỗn hợp thuốc, 1 hécta dùng 200 cọc, 6 - 8 cọc/sào BB cắm bả vào chiều tối không mưa, cứ 3 - 5 ngày nhúng lại hỗn hợp thuốc, lặp lại 3 lần. Con ngài sâu khoang hoạt động đẻ trứng buổi tối, gặp bả thơm bị hấp dẫn trúng độc thuốc sẽ chết trước khi đẻ trứng. Nếu thực hiện tốt sẽ giảm số lần phun thuốc hóa học chỉ còn 1 - 2 lần trong 1 vụ. - Có thể dùng thuốc có gốc Pyrethroid như Sherpa, Polytrin. Dùng các loại chế phẩm vi sinh như NPV, Vi-BT, hoặc thảo mộc như Rotenone hoặc Neem có hiệu quả cao. Phun khi sâu non nhỏ tuổi (1 - 2). 47
  47. 1.3. Sâu xanh da láng (Spodoptera oxigua) a) Triệu chứng Sâu xanh da láng gây hại trên nhiều loại rau khác như hành, cà chua, đậu phộng, đậu bắp, đậu đỗ Sâu non ăn lá, lúc nhỏ chừa lại biểu bì, sâu tuổi lớn ăn thủng lỗ trên lá. b) Đặc điểm sinh học và hình thái Thành trùng là loại bướm đêm (ngài) màu trắng xám hơi ngả nâu, Trứng để thành ổ, có lớp lông trắng vàng phủ. Sâu non có màu xanh nhạt, da bóng láng trên lưng có năm sọc, 2 sọc ở mỗi bên hông rất to và đậm, sọc giữa lưng có màu đen xen kẽ màu trắng. Nhộng màu nâu sẫm hay đỏ sẫm thường ở trong đất (H. a, b). Vòng đời: 30-35 ngày (Trứng: 2-5 ngày, Sâu non: 14-16 ngày, Nhộng: 10-12 ngày, trưởng thành: 2-3 ngày). Sâu non mới nở tập trung cùng nhau ăn lá, nhưng sau đó chúng nhanh chóng di tản sang cây khác Sâu non có 6 tuổi, sâu non ăn rất mạnh, cắn phá thành từng lỗ không hình dạng trên lá mật độ cao có thể làm ruộng bắp cải, bông cải xơ xác. Trưởng thành chủ yếu hoạt động vào ban đêm, trứng được đẻ thành ổ trên mặt lá a b 48
  48. c) Biện pháp phòng trừ + Biện pháp canh tác: - Trước khi trồng cần đưa nước làm ngập ruộng để diệt nhộng. - Cày ải phơi ruộng để diệt sâu và nhộng. - Vệ sinh đồng ruộng hủy bỏ tàn dư cây trồng. - Mật độ trồng thích hợp. - Bón phân cân đối hợp lý cũng là biện pháp hạn chế bớt sâu bệnh phát triển. + Sinh học, thiên địch: - Dùng bả chua ngọt bẫy ngài đẻ trứng (Như Mục 1.2) - Nhóm ký sinh có hai loài ong kén nhỏ thuộc họ Braconidae. - Loài ruồi thuộc họ Tachinidae. - Nhóm vi sinh vật có vi khuẩn tấn công. + Biện pháp cơ học: Ở những thửa ruộng nhỏ có thể ngắt ổ trứng và thu sâu non khi sâu non đang sống tập trung quanh ổ. + Biện pháp hóa học: Dùng chế phẩm NPV đặc hiệu trừ sâu xanh da láng có hiệu quả cao. Nên kết hợp dùng thuốc thảo mộc Rotenone hay Azadirachtin. Ngoài ra có thể dùng các loại thuốc nhóm Pyrethroid, Abamectin lưu ý dùng luân phiên thuốc. 2. Sâu đục quả (trái) (Etiella zinckenella Treitschke) Sâu đục quả hại đậu là một loài côn trùng thuộc họ Pyralidae, bộ Lepidoptera (Cánh Vảy). Loài này xuất hiện ở hầu hết các vùng trồng đậu nành trên thế giới như châu Á, châu Phi, châu Mỹ Ở Việt Nam, sâu gây hại ở các nơi và trên hầu hết các loại đậu. 49
  49. a) Đặc điểm hình thái và sinh học Bướm có chiều dài thân từ 10-13mm, sải cánh rộng từ 20-22mm, toàn thân màu xám nâu. Cánh trước màu xám tro, dài và hẹp, dọc theo cạnh ngoài cánh có 1 đường viền màu trắng, khoảng 1/3 cánh kể từ chân cánh có 1 vệt màu vàng nằm ngang cánh, kế đó là 1 đường màu nâu đậm. Cạnh ngoài cánh có 1 đường màu trắng xám dọc theo bìa cánh. Cánh sau màu trắng vàng, dọc cạnh ngoài có đường viền màu đen. Thời gian sống của bướm khoảng 7 ngày và một bướm cái đẻ khoảng từ 100- 200 trứng. Trứng hình bầu dục, dài từ 0,40-0,50mm, ngang từ 0,35- 0,40mm, màu trắng khi mới đẻ, sắp nở chuyển sang màu hồng. Thời gian ủ trứng từ 4 - 7 ngày. Sâu có từ 4 - 5 tuổi, phát triển trong thời gian từ 9 - 15 ngày. Sâu có 4 cặp chân giả. Tuổi 1 sâu có đầu đen, thân màu vàng, dài khoảng 1,4mm. Tuổi 2 thân trắng hơi ngả vàng, dài từ 2,5 - 3mm. Ở tuổi 3 sâu có màu xanh nhạt với 5 sọc đỏ trên lưng, cơ thể dài từ 5 - 6mm. Tuổi 4 - 5 trên lưng sâu không còn các sọc đỏ mà toàn thân thành màu hồng, dài từ 10 - 15mm. Nhộng màu nâu, phát triển từ 5 - 7 ngày. 50
  50. b) Tập tính và cách gây hại Bướm hoạt động về ban đêm, bắt cặp ngay sau khi vũ hóa và sau đó bắt đầu đẻ trứng. Trứng được đẻ rời rạc trên mầm non, cuống quả khi cây chưa có quả, trên hoa hay trên quả non. Trên quả, trứng thường được đẻ gần cuống vì có nhiều lông mịn. Thời gian đẻ trứng kéo dài từ 3 - 8 ngày. Sâu thường nở vào buổi sáng, sau khi nở sâu bò lên cây tìm quả để đục vào bên trong hay ngay trên quả được đẻ trứng hoặc nhả tơ chuyển sang cây khác. Trước khi đục vào quả, sâu nhả tơ dệt một túi nhỏ màu trắng, mỏng, dài độ 1mm và ẩn trong đó để ăn dần vỏ quả. Khi miệng đủ cứng, sâu chui vào bên trong quả bằng một lỗ rất nhỏ và để lại túi tơ bên ngoài vỏ quả. Sâu thường ăn 2 bên mép vỏ quả, và ăn dọc theo lớp vỏ hạt xong mới đục vào hạt. Khi lớn, sâu ăn khuyết từng góc hạt hay đục vào hạt, ăn dọc theo rãnh của hai lá mầm. Khi ăn hết hạt trong quả, sâu chui ra ngoài tìm sang quả khác. Một quả đậu có thể có từ 2 - 3 sâu sống bên trong. Sâu vừa ăn vừa thải phân trong quả. Trong suốt giai đoạn phát triển, một sâu có thể gây hại từ 3 - 5 hột đậu và có thể di chuyển gây hại từ 1 - 2 lần, làm cho các loại vi khuẩn xâm nhập quả thối, lên men. Sâu có thể hoá nhộng bên trong quả, nhưng thường sâu chui xuống đất làm nhộng, cách mặt đất độ 3cm, gần gốc cây đậu, chung quanh nhộng có một kén bằng tơ rất dai. Thiệt hại do sâu đục trái có thể tới 70% năng suất. Trên cây đậu tương sâu bắt đầu xuất hiện từ khi trổ hoa đến thu hoạch. Mùa nắng sâu gây hại nhiều hơn mùa mưa. Trong một vụ đậu tương thường có hai lứa sâu: Lứa 1: sâu tấn công lúc quả đậu còn non, hạt vừa phát triển, chủ yếu ăn hạt, lứa này gây hại nhất cho cây đậu và hầu như toàn quả bị hư. 51
  51. Lứa 2: sâu đục vào quả đậu khoảng từ 2 - 3 tuần trước khi thu hoạch và chỉ làm hư những hạt nào bị ăn phá, sâu còn sống trong quả đến khi thu hoạch. c) Biện pháp phòng trừ Cày ải, phơi đất hay cho ruộng ngập nước từ 2 - 3 ngày trước khi trồng vụ đậu tiếp theo. Phơi đậu thật khô để diệt sâu còn sống trong quả. Luân canh đậu tương với lúa hoặc các cây khác không phải là ký chủ của sâu để cắt đứt nguồn thức ăn của sâu. Kiểm tra thường xuyên cây đậu tương, từ lúc bắt đầu hình thành quả tới lúc hạt phát triển đầy đủ. Ngay khi phát hiện thấy ấu trùng cần phải tiến hành phun các thuốc bảo vệ. Kiểm tra thường xuyên cây đậu tương, từ lúc bắt đầu hình thành quả tới lúc hạt phát triển đầy đủ. Ngay khi phát hiện thấy ấu trùng cần phải tiến hành phun các thuốc bảo vệ như Ofatox, Regent với liều lượng 2 phần nghìn, Karphos với lượng 0,5 - 1,0lít/ha hoặc Marshal 2 lít/ha. Việc đánh giá cho thấy phương thức này có thể làm giảm sự phá hại của sâu đục quả tới 60%. 3. Sâu hại thân 3.1. Sâu xám (Agrotis ipsilon) Phá hoại nặng khi cây mới mọc và cây con. a) Phân bố và ký chủ Xuất hiện phần nhiều các nước trên thế giới trừ châu Phi, trung Á. Sâu đa thực, có thể phá hại hàng loạt loại cây trồng. Ở nước ta sâu xám phá hại: bắp, cà chua, đậu, bông vải và các loại họ Bầu bí. 52
  52. b) Đặc điểm và hình thái Thành trùng là một loại ngài đêm, sải cánh 35 - 40cm, thân màu nâu tối, râu con cái hình sợi chỉ, râu con đực hình răng lược kép. Cánh trước có màu nâu thâm hoặc màu nâu đen, cánh trước có 3 vân, gần gốc cánh có một vân hình, giữa hình tròn, cuối cánh hình hạt đậu. Cánh sau màu xám trắng. Trứng hình bán cầu có nhiều gờ nổi, mới đẻ màu trắng sữa chuyển sang hồng nhạt đến tím sẫm. Sâu non mới nở màu xám đất đẫy sức 18cm, càng lớn có màu đất bóng mỡ, phần bụng màu nhạt hơn; trên mỗi đốt phía trên có 4 u lông nhỏ, phía dưới có 4 u lông lớn. Đốt cuối cùng ở mảnh lưng có 2 vệt màu nâu đậm. Nhộng có màu bóng. c) Tập quán sinh hoạt Thông thường ngài vũ hoá buổi tối, hoạt động ban đêm trong đất, cỏ dại, khả năng đẻ trứng của con cái phụ thuộc nhiều vào dinh dưỡng, ít thu hút bởi ánh sáng đèn. Tuổi 1 sống trên cây gặp những mô lá làm thủng lỗ nhỏ. Tuổi 2 chui xuống đất, ban đêm cắn cây con. Tuổi 3 - 4 sống sung quanh gốc cây. Sâu tuổi lớn hơn: ăn phá mạnh hơn. Khi thiếu thức ăn có thể di chuyển từ ruộng này sang ruộng khác. Sâu non có tính giả chết và có khả năng xâu xé lẫn nhau. Khi đẫy sức, sâu non chui xuống đất 3 - 5cm hoá nhộng. d) Biện pháp phòng trị Tiêu diệt cỏ dại. Gieo trồng đúng thời vụ nhanh gọn. Dùng bẫy chua ngọt để bẫy bướm (4 phần đường đen + 4 phần dấm + 1 phần rượu + 1 phần nước + 1% thuốc BHC). Dùng rau ăn lá (cải, bắp cải ) thái nhỏ trộn thuốc sâu peran 0,1% + dấm rượu 53
  53. rải lên luống cày vào chiều tối nhử sâu lên ăn để diệt. Dùng các loại thuốc hạt như Basudin, Furadan rắc vào rạch trước khi gieo. 3. 2. Dòi đục thân (Melanagromyza Sojae) : a) Đặc điểm Dòi đục thân đậu tương do một loài ruồi rất nhỏ (con trưởng thành), màu đen bóng, mắt đỏ H.a), có thể đẻ đến 200 trứng vào nách lá. Trứng rất nhỏ, hình bầu dục, màu trắng bóng, sau nở thành dòi màu trắng sữa (H. b) đục vào trong lõi cây từ gốc lên ngọn, phá hoại cả búp và các bộ phận của cây. Triệu chứng khó phát hiện, chỉ khi thấy cây sinh trưởng phát triển kém, nhổ cây, tước đôi theo chiều dọc mới thấy đường dòi đục màu đen trong lõi, thỉnh thoảng gặp 1 vài con dòi con hoặc kén nhộng màu trắng. Vòng đời của ruồi từ 24 - 29 ngày, có 10 đợt phát sinh trong năm. Trong một vụ đậu thường có 2 - 3 đợt ấu trùng nở rộ. Đợt 1 xuất hiện khi cây đậu vừa ra 1 - 2 lá đơn đầu tiên. Đợt 2 ấu trùng thường nở sau gieo khoảng 1 tháng, khi cây sắp ra hoa. Đợt 3 ấu trùng nở rộ vào thời điểm cây ra quả non. Ruồi đục thân phát triển nhiều nhất vào vụ đông và xuân ở đồng bằng, nơi khí hậu mát <22 - 320C, ở miền núi cao có thể phát sinh quanh năm, tác hại có thể làm giảm đến 50% năng suất của cây. Phát triển mạnh khi đậu còn nhỏ (từ 9 - 20 ngày sau khi gieo). a b 54
  54. b) Phòng trự Để hạn chế tác hại của dòi đục thân, không nên trồng liên tục nhiều vụ đậu tương trên cùng khu ruộng, sau một đến hai vụ đậu tương nên trồng luân canh một vụ bằng loại cây trồng khác, nếu là đất ruộng, tốt nhất nên luân canh với một vụ lúa nước. Không nên trồng quá trễ so với những ruộng đậu tương sung quanh để khỏi “hứng” lấy con trưởng thành từ những ruộng trồng sớm hơn tràn sang tạo ấu trùng gây hại nặng ngay từ khi cây đậu còn nhỏ. Nên vận động nhiều chủ ruộng cùng xuống giống đồng loạt trên diện rộng. Do ấu trùng thường tập trung gây hại nhiều ở giai đoạn cây đậu còn nhỏ nên cần chú ý biện pháp bảo vệ cây đậu ngay từ đầu vụ bằng cách khi gieo hạt nên dùng một số phương pháp phòng trự như sau: - Trước khi trồng, xử lý hạt bằng cách trộn với Marshal 25 ST, theo tỷ lệ 10g/kg hạt. - Dùng thuốc dạng hạt như Basudin, Cazinon, Regent, Padan, Furadan rải trên ruộng trồng đậu. - Phun bắt buộc sau gieo 8 - 10 ngày: Hiệu quả nhất là sử dụng Monokrotofos 15% với lượng 2 lít/ha để giết bất cứ ấu trùng nào còn sống sót. Phương thức này có thể làm giảm bớt những sự phá hại của loài ruồi hại hạt tới 90%. Ngoài ra có thể dùng Bi58 - 40EC, Bian 40EC/50EC, Basudin 40EC/50EC, Diaphos 50EC, Vibasu 40ND, Canthoate 40EC/50EC, Sagothion 50EC, Sumicidin 10EC/20EC Sau khi phun xịt thuốc nên bón bổ sung thêm phân hoặc phun xịt phân bón qua lá và tưới đủ nước để giúp cây nhanh phục hồi. Phòng trừ dòi đục thân bằng tưới, tiêu nước, không để ruộng đậu bị khô hoặc úng ngập nước. 55
  55. 4. Rệp muội hại đậu tương (Aphis medicaginis Koch) a) Đặc điểm nhận biết Gọi là rệp đậu vì đây là loại rầy mềm không cánh, thường thấy bu thành đám quanh đọt hoặc bông và quả non để chích hút làm cho đọt bị quắn, bông bị rụng và quả bị lép. Có 2 loài phổ biến và khác nhau về cây ký chủ: - Aphis craccivora Koch: Rất phổ biến, tấn công đọt và quả non của hầu hết các loại đậu - đặc biệt là đậu xanh, đậu đũa và cô-ve. Rệp đậu còn non có màu tím, khi trưởng thành có màu đen bóng, cũng không có cánh và đẻ thẳng ra con nên mật độ có thể gia tăng rất nhanh, gây hại mau chóng. Chỉ khi nào hết thức ăn, mật độ quá đông hoặc bị thiên địch tấn công nặng chúng mới phát sinh dạng thành trùng có cánh để di chuyển đi tìm nguồn thức ăn mới. - Aphis glycines Matsumura: Cơ thể màu xanh lục vàng, ngực và đầu có màu đen hay xanh lục đậm, bụng màu nhạt, dài từ 1,7 - 2mm, rộng từ 0,7 - 0,9mm. Râu màu trắng bẩn nhưng các đốt roi râu màu nâu đen, ngắn hơn cơ thể. Vòi chích hút kéo dài vượt khỏi đốt chậu chân giữa. Ống bụng màu nâu. Dạng không cánh có cơ thể màu vàng xanh đến vàng tươi, 2 mắt đen, râu ngắn hơn 1/2 thân mình và có màu trắng giống như chân, dài từ 1,5 - 2mm, rộng từ 0,7 - 1,2mm. Các đặc điểm khác đều giống như dạng có cánh. Chúng hút nhựa và thải phân lỏng còn chứa rất nhiều đường nên thường quyến rủ kiến đến ăn và bảo vệ chúng khỏi bị thiên 56
  56. địch tấn công. Điều nguy hiểm là chúng có thể truyền bệnh Khảm Vàng làm cho lá đậu co rúm và cây không ra quả. b) Biện pháp phòng trừ: Thường không phải phòng trừ gì cả vì chúng có rất nhiều thiên địch như các loài bọ rùa, kiến sư tử (Chrysopidae, Neuroptera), các loài dòi thuộc họ Syrphidae (Diptera) Để ngăn ngừa việc truyền bệnh vi rút thì nên trồng sớm hoặc tìm cách loại trừ cây bị bệnh. Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như ACTARA 25WG để phòng trị. 5. Giòi đục lá hại đậu tương ( Phytomyza atricornis) a) Đặc điểm nhận biết - Trưởng thành là một dạng ruồi nhỏ, màu đen (giống ruồi nhà). Ruồi đẻ trứng nhiều nhất vào buổi sáng và chiều mát, trứng rất nhỏ, được đẻ rải rác ở mặt trên lá. - Sâu non dạng dòi, màu trắng sữa. - Sâu hoá nhộng ở cuối đường đục trên lá hoặc ở dưới đất, nhộng màu nâu vàng nhạt. - Vòng đời trung bình 15- 20 ngày, trong đó thời gian dòi 8-10 ngày. b) Đặc điểm phát sinh, gây hại - Sâu non sau khi nở đục dưới lớp biểu bì lá tạo thành các đường hầm ngoằn ngoèo màu trắng nhưng không làm thủng lá. Dòi phá hại ngay từ khi cây mới có lá mầm cho đến khi cây có 57
  57. 3 lá thật cây đậu lớn ít bị hại. Mật độ dòi cao làm phần lớn lá bị hại, cây đậu sinh trưởng kém. c) Biện pháp phòng trừ - Luân canh đậu tương với lúa nước. - Tỉa cây sớm, ngắt bỏ các lá, cây bị ruồi hại, vun gốc, chăm sóc cho cây đậu sinh trưởng tốt. - Phát hiện sớm sự gây hại của ruồi đục lá. Khi mật độ của ruồi lên cao, cây đậu non có triệu chứng bị hại có thể sử dụng thuốc hoá học để phòng trừ: Etofenptox 50 EC, Deltamethrin 10 EC, với nồng độ 0,1%., Dip 80WP. Địch bách trùng 90WP. 6. Nhện đỏ hại đậu đỗ (Tetranychus sp.) a) Đặc điểm nhận biết Con trưởng thành dài khoảng 0,5mm, màu đỏ nâu, có 8 chân. Con non nhỏ hơn, cũng có màu đỏ nâu có 6 chân. Trứng hình tròn, màu vàng nhạt, rất nhỏ, được đẻ dưới mặt lá. b) Đặc điểm phát sinh, gây hại Nhện đỏ phát triển mạnh khi trời nóng, khô hạn, cây được bón nhiều phân đạm. Con trưởng thành và con non chích hút nhựa ở mặt dưới lá, có thể xuất hiện trên những lá già làm cho lá bị nhăn. Nhện chích hút lá tạo ra các vết chích nhỏ li ti, không có hình dạng nhất định. Vết chích lúc đầu có màu trắng nhạt sau đó chuyển sang màu huyết dụ, toàn bộ lá bị vàng. Khi mật độ cao chúng tấn công cả trên lá non và ngọn, tạo nên một lớp tơ dày bao kín toàn bộ ngọn và lá non. Cây bị hại nặng lá héo và rụng, không ra hoa kết quả được. 58
  58. c) Biện pháp phòng trừ - Vệ sinh đồng ruộng; bón phân cân đối; luân canh với cây trồng khác họ. - Dùng các thuốc đặc trị: Comite, Nissorun, Rufast, Supracide - Chú ý: Dùng thuốc hóa học nhiều dễ gây hiện tượng kháng thuốc đối với nhện đỏ, do nhện đỏ có khả năng quen và kháng thuốc cao, đồng thời tiêu diệt thiên địch của nhện đỏ. 7. Bọ xít chích hút a) Đặc điểm phân loại Có nhiều loài Bọ xít dài thuộc họ Alydidae, bộ Cánh nửa cứng (Hemiptera) gây hại cây đậu tương. Tại các vùng trồng đậu tương của cả nước phổ biến 3 loài bọ xít chích hút đậu tương như sau (H.23): - Bọ xít xanh (H.23a): Nezara viridula (Linnaeus) - Bọ xít xanh vai hồng (b): Piezodorus rubrofasciatus (Gmelin) - Nhóm bọ xít dài (c) với các loài: Riptortus pilosus Thunberg, Riptortus linearis (Fabricius), Riptortus sp. a b c 59
  59. b) Tập quán sinh sống và cách gây hại Ở cả 3 loài bọ xít nêu trên, ấu trùng khi vừa nở ra sống tập trung quanh ổ trứng. Suốt thời gian tuổi 1 bọ xít thường không ăn. Sang tuổi 2 bắt đầu phân tán và tấn công cây chủ. Cả thanh trùng và ấu trùng đều tấn công trên cây đậu bằng cách chích hút dịch cây trồng, chủ yếu ở các bộ phận non của cây như thân, lá chồi, hoa và quả non. Các bộ phận bị Bọ xít gây hại nặng sẽ bị biến dạng, kém phát triển, quả non bị lép. Vết chích hút của bọ xít còn là nơi xâm nhập của các tác nhân gây hại khác làm quả đậu bị hư thối, mất phẩm chất, hạt biến màu, có vị đắng, năng suất giảm. Nhóm bọ xít được ghi nhận thường xuất hiện trên các ruộng đậu ngay từ khi cây đậu mới trổ hoa và hiện diện cho đến khi thu hoạch. Ở các vùng sản xuất các vùng phía Bắc, bọ xít thường xuất hiện chủ yếu vào cuối vụ xuân và cuối vụ hè thu khi trái bắt đầu vào chắc, tại các vùng thuộc ĐBSCL, bọ xít chỉ bắt đầu xuất hiện rải rác trên các ruộng đậu trồng cuối vụ Đông Xuân, thu hoạch vào mùa mưa; sau đó tích lũy mật độ và tập trung nhiều vào vụ Xuân Hè; đến cuối vụ Hè Thu hầu như không còn thấy bọ xít hiện diện trên ruộng đậu tương. Do khả năng đẻ trứng khá cao, thời gian sống tương đối dài và thành phần thiên địch không đáng kể; bọ xít có khả năng phát triển nhanh nếu thời tiết và thức ăn thích hợp. c) Biện pháp phòng trự Có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị; nhưng phải lưu ý là các loài bọ xít dài rất thính, chỉ cần đụng nhẹ vào cây đậu tương thì thành trùng bay vọt lên rất nhanh, còn ấu trùng thì buông mình rơi xuống đất giả chết. 60
  60. Tóm tắt chương 4 Sâu hại là yếu tố chủ yếu làm hạn chế năng suất và hiệu quả trồng đậu tương ở nước ta, các giải pháp phòng trừ sâu hại có hiệu quả là: a) Luân canh hợp lý giữa các loại cây trồng nhằm hạn chế, cắt đứt dây chuyền lây lan côn trùng sâu hại trong luân canh; b) Sử dụng các biện pháp canh tác tổng hợp hạn chế phát triển côn trùng sâu hại: bón phân cân đối, mật độ cây tối ưu, sử dụng giống ít nhiễm sâu hại, dự tính, dự báo chính xác các lứa sâu nở trong vụ để chủ động phòng ngừa. c) Sử dụng phối hợp các biện pháp sinh học để chủ động phòng trự: Dùng bả chua ngọt diệt ngài đẻ trứng sâu cuốn lá, sâu khoang, sâu xanh, sâu xanh da láng kết hợp thuốc trừ sâu sinh học phòng trị côn trùng gây hại ở các giai đoạn trứng nở, lột xác, lột vỏ, giữ gìn hệ côn trùng thiên địch, xử lý ở 3 giai đoạn: 2 - 3 lá (trị sâu cuốn lá), trước hoa và sau hoa. d) Chỉ sử dụng thuốc trừ sâu hóa học nếu xảy ra dịch sâu bùng nổ quá ngưỡng an toàn. 61
  61. Chương V GIỐNG ĐẬU TƯƠNG Để lựa chọn được giống đậu tương phù hợp với vùng gieo trồng, mùa vụ, mục đích sử dụng, rất cần có các hiểu biết về các giống đậu tương hiện nay. 1. Lựa chọn giống theo khả năng thích hợp Giống đậu tương ở Việt Nam hiện nay có nhiều nguồn gốc khác nhau, có giống cũ địa phương, giống nhập nội, giống chọn tạo trong nước bằng các phương pháp di truyền như lai hữu tính, đột biến thực nghiệm, do vậy có những giống thích hợp cho vụ lạnh (thu đông, đông xuân), có những giống thích hợp cho vụ nóng (hè, hè thu), trong các năm gần đây đã chọn tạo được bộ giống thích ứng rộng có thể trồng được 3 vụ/năm. 1.1. Nhóm giống chuyên cho vụ lạnh (vụ Xuân, vụ Đông) Gồm các giống tiến bộ kỹ thuật gồm các giống nhập nội như V74 (ĐT74), AK02, AK03, AK04, AK05, VX92, VX93, giống chọn tạo trong nước: DN42, ĐT92, TLA57, 98-04, ĐT2000, ĐT26, Đ2101 , ngoài ra còn có các giống địa phương như Vàng xanh Hà Giang, Vàng Mường Khương, Xanh Bắc Hà). Nhóm giống TBKT có năng suất cao, nhưng đòi hỏi thời vụ nghiêm ngặt, vụ Xuân nếu trồng muộn, dễ bị phản ứng với ánh sáng ngày ngắn, kéo dài thời gian sinh trưởng, nếu ra hoa vào tháng 4 - 5 gặp nắng nóng, gió Lào sẽ bị rụng hoa, không đậu quả, khó để giống cách vụ, giá thành giống cao. 62
  62. 1.2. Nhóm giống thích hợp vụ nóng Ở các tỉnh phía Bắc gồm có các giống chủ yếu là ĐH4 (ĐT76), M103, ĐT80, Lơ Hà Bắc, Cúc, Đậu Lạng Ở phía Nam có các giống: HL25, MTĐ176, HL92, G87-5, OMON 25- 20, OMDN 16-4, OMDN 22-11, OMDN 21-75, OMDN 16-5-2, VDN 1, TN12, Bông Trắng (Đắk Nông) và CM 60. Các nhóm giống này thích ứng hẹp, thích hợp chuyên cho từng mùa vụ, vùng sinh thái, năng suất cao vào vụ lạnh hoặc vụ nóng nhưng kém ổn định trong điều kiện khí hậu biến đổi cực đoan (nóng, lạnh, hạn, mưa úng, sâu bệnh), ở phía Bắc khó nhân giống, giá thành sản xuất giống cách vụ cao làm tăng giá trị đầu vào nên khó phát triển diện tích đặc biệt nhu cầu giống cho vụ đông trên đất sau 2 vụ lúa. 1.3. Nhóm giống thích hợp 3 vụ Nhóm giống đậu tương trồng được 3 vụ/năm: có khả năng thích ứng rộng, có thể trồng cả trong vụ nóng và vụ lạnh, phản ứng yếu với ánh sáng, thích ứng rộng với nhiều vùng sinh thái từ Bắc vào Nam, cho năng suất cao, ổn định, thời vụ không đòi hỏi nghiêm ngặt, chống chịu sâu bệnh khá, dễ để giống, phù hợp với tập quán tăng vụ, tận dụng đất của nông dân. Các giống thuộc nhóm này là: DT84, DT90, DT94, DT95, DT96, DT99, DT12, DT2001, DT2008, ĐVN6, ĐVN10, AK06, ĐT93 Các giống đậu tương 3 vụ điển hình như DT84, DT96, DT99, ĐT12, DT2001, DT2008 có chung các đặc điểm: thích ứng rộng, năng suất cao khá ổn định tại các vùng sinh thái cả nước: 1) Chống chịu nhiệt (thấp và cao) rộng hơn so với các giống chuyên vụ từ 100C ở đầu vụ xuân và cuối vụ Đông, đến 420C ở vụ Hè, có thể gieo trồng cả 3 vụ/năm, chống chịu các bệnh cơ bản khá và cao, nếu bố trí đúng thời vụ và kỹ thuật không phải sử dụng các biện pháp phòng trừ bệnh hại. 63
  63. 1.4. Đặc điểm kỹ thuật của các nhóm giống đậu tương (B.3) Giống và Giống vụ lạnh Giống vụ nóng Giống 3 vụ đặc điểm Xuân và Đông Hè và Hè thu thích ứng rộng Phía Bắc: ĐH4 (đậu Phía Bắc: V74 DT84, DT90, ĐH4 (ĐT76), M103, (ĐT74), AK02, DT96, DT55 ĐT80, Lơ Hà Bắc, Cúc, AK03, AK04, (AK06), DT99, Đậu Lạng AK05, VX92, ĐT12, DT94, Phía Nam: HL25, Tên VX93, ĐT92, DN42, DT95, DT83, MTD176, HL92, G87-5, giống TLA57, 98-04, DT2001, OMON 25-20, OMDN ĐT26, ĐT2000, DT2008, ĐT22, 16-4, OMDN 22-11, Đ2101 AGS346, ĐVN6, ĐVN10, OMDN 21-75, OMDN AGS398, Kaoshiung Đậu rau: DT02, 16-5-2, VDN 1, TN12, 75 DT08 CM 60. Phía Bắc: Xuân: 20/2 - 15/4 Phía Bắc: Hè: 15/5 - 1/6 Hè và Hè Thu: Hè Thu: 1/6 - 30/7 Thời vụ Phía Bắc: 15/5 - 30/7. Đông: trồng tốt Xuân: 15/2 - 1/3 1/9-5/10 Phía Nam: Vụ I: Xuân nhất Đông: 15/9 - 5/10 Phía Nam: Hè: tháng 4 - 5; Vụ II: Tương tự như các Hè thu tháng 7 - 8. giống khác tại địa phương Tổng tích 1.800 - 2.700 2.500 - 3.000 1.800 - 3.000 ôn Giới hạn chống 10 - 330C 18 - 400C 10 - 400C chịu nhiệt độ Phản ứng Mạnh, chỉ nên trồng Mạnh, chỉ nên trồng Yếu, có thể trồng ánh sáng chuyên vụ lạnh chuyên vụ nóng quanh năm Khả năng Gỉ sắt, sương chống Gỉ sắt, sương mai, lở Đốm nâu vi khuẩn, lở cổ mai, đốm nâu vi chịu cổ rễ rễ, virus khuẩn, lở cổ rễ, bệnh virus Năng 15 - 23 tạ/ha 15 - 32 tạ/ha 18 - 40 tạ/ha suất Khả năng Lưu giống qua vụ, Nhân giống trực Lưu giống qua vụ, giá nhân giá thành giống cao, tiếp từ vụ này qua thành giống cao, giống giống, để giống có tỷ lệ nảy vụ khác, giá thành có tỷ lệ nảy mầm thấp giống mầm thấp giống giảm 40% 64
  64. 2) Các giống thuộc nhóm này đều cho năng suất cao, trung bình ổn định trong cả 3 vụ trong năm, 18 - 28 tạ/ha vào vụ lạnh và đạt 20 - 30 tạ/ha hoặc có thể tới 40 tạ/ha trong vụ nóng, các giống này nếu trong điều kiện thâm canh khá đã có thể cho hiệu quả cạnh tranh với các cây trồng khác như lúa, ngô và giá thành cạnh tranh được với giá đậu tương của Mỹ. Giống DT84 đã chiếm trên 50%, nhiều tỉnh đã chiếm 85 - 90% diện tích đậu tương nhiều tỉnh phía Bắc từ 5 - 7 năm gần đây, hiện đang phát triển ở nhiều tỉnh phía Nam, năng suất cao hơn hoặc không kém so với các giống chuyên cho vụ nóng hoặc vụ lạnh với cùng thời gian sinh trưởng tương đương. 3) Các giống đậu tương 3 vụ không đòi hỏi thời vụ nghiêm ngặt, có thể bố trí trong các cơ cấu cây trồng luân canh, tăng vụ, xen canh, gối vụ trong khung thời gian từ vụ Xuân - Hè - Thu Đông (sớm là DT2008 gieo từ 25/1 - 5/2, các giống khác từ 20/2 - 5/10) với hiệu quả kinh tế tổng hợp cao hơn các cơ cấu cây trồng cũ không có cây đậu tương tham gia. 4) Các giống đậu tương 3 vụ dễ nhân giống và giữ giống, có thể trực tiếp sử dụng giống vụ trước sang trồng vụ sau với giá rẻ giảm được 30 - 50%, không cần phải đầu tư nhiều vốn để giữ giống trong kho, tạo điều kiện phát triển rộng diện tích với chi phí giống thấp nhất. 2. Lựa chọn giống theo thời gian sinh trưởng Để bố trí cơ cấu luân canh, tăng vụ trên đất, cần lựa chọn giống có TGST phù hợp, theo thời gian sinh trưởng, có thể phân biệt 3 nhóm giống sau đây: - Giống ngắn ngày: có thời gian sinh trưởng dưới 75 ngày: DT99, ĐT12, Cúc Lục ngạn. Các giống này thích hợp với các cơ cấu đất tăng vụ, đặc biệt đất 4 vụ như ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc thường hay áp dụng như cơ cấu: lúa Xuân + đậu tương hè 75 ngày + lúa mùa muộn + khoai tây (rau) đông hoặc lúa mùa muộn + đậu tương đông (gieo đến 10/10 ở phía 65
  65. Bắc), các cơ cấu cây trồng tăng vụ né tránh thời tiết bất lợi ở các vùng không có điều kiện thủy lợi. Nhược điểm của nhóm giống này là năng suất không cao chỉ vào khoảng 15 - 23 tạ/ha. - Giống trung ngày: có thời gian sinh trưởng 76 - 100 ngày: DT84, DT90, DT96, DT2001, ĐVN5, ĐVN6, ĐVN9, ĐT26, MTD176, HL02 Các giống này thích hợp cơ cấu cây trồng 2 - 3 vụ/năm như 2 vụ lúa + 1 đậu tương đông (gieo đến 5/10 ở phía Bắc, gieo tháng 1, 2 ở phía Nam), 2 vụ ngô đông và xuân + 1 vụ đậu tương hè, 1 vụ ngô + 1 vụ đậu tương hè thu ở miền núi. Năng suất của nhóm này khá cao 18 - 35 tạ/ha - Giống dài ngày: có thời gian sinh trưởng >100 ngày: DT2008, ĐT2000, Đậu Lạng , các giống này cho năng suất cao phù hợp cơ cấu đất 2 vụ, riêng DT2008 có thể trồng vụ Xuân sớm hơn các giống khác tới 30 ngày do kháng được bệnh, chịu hạn, rét, có thể bố trí trên đất ruộng cao hạn vụ xuân gieo 25/1 - 10/2, vụ Đông sớm trên đất ướt sau lúa (trước 25/9 đạt năng suất cao 20 - 40 tạ/ha). 3. Lựa chọn giống theo mục đích sử dụng Có 4 loại giống đậu tương: - Giống đậu tương ăn hạt: phổ biến có vỏ màu vàng, xanh, được trồng phổ biến để thu hoạch hạt già dùng chế biến các sản phẩm đậu tương thông dụng như tương, đậu phụ, sữa - bột đậu tương, dầu đậu tương, thức ăn gia súc , hạt thường có kích thước nhỏ <300 g/1000 hạt, đặc điểm chính của hạt thuộc nhóm này có tỷ lệ protein, lipit cao, khi hầm nấu hoặc luộc ăn thường dai, không bở. - Giống đậu tương rau (đậu nành lông): trồng để ăn quả xanh (non) thu vào giai đoạn quả chín sữa R6, thường là các giống hạt to 300 - 400 g/1000 hạt, màu hạt khô thường xanh, vàng hoặc đen, hạt sau khi luộc thường bở hơn, ít chất đạm, nhiều chất đường bột, ngoài ra hạt già có thể làm các món hầm, ninh, nấu 66
  66. canh, giá đậu đó là các giống đậu tương rau như DT02, DT08 do Viện Di truyền Nông nghiệp chọn tạo, các giống AGS346, AGS398 do Viện Nghiên cứu Rau quả tuyển chọn, tại các tỉnh phía Nam phổ biến các giống nhập nội như Kaoshung 75, Số 6 , trồng đậu tương rau thường đem lại lợi nhuận cao hơn đậu tương ăn hạt. - Giống đậu tương hạt màu, giàu chất béo Omega - 3: dùng làm thực phẩm chức năng: các giống này có các màu đen, nâu đen, nâu đỏ, kích thước hạt rất khác nhau dao động từ kích thước hạt từ nhỏ đến rất lớn 40 - 350 g/1000 hạt, loại hạt này dùng làm bột đậu tương, thuốc chữa bệnh, rau mầm. - Giống đậu tương để thu hoạch chất xanh dùng cho chăn nuôi, thủy sản, cải tạo đất: Đây là giống đậu tương ăn hạt dài ngày, phát triển khỏe, có lượng chất xanh cao như các giống DT2008, DT95, AK04, Santamaria, Đậu Lạng cho năng suất chất xanh 40 - 60 tấn/ha, phục vụ làm bột dinh dưỡng thức ăn chăn nuôi (thu ở giai đoạn quả chín sữa, sấy khô, nghiền thành bột giàu protein), làm thức ăn xanh ủ chua, hoặc thức ăn trực tiếp cho chăn nuôi, đặc biệt cho bò sữa, thức ăn nổi cho cá. Các giống đậu loại này có thể dùng để ép xanh, cải tạo đất, tạo thêm mùn, chống cỏ dại khe trồng xen với các cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày. 4. Phân biệt giống theo khả năng chống chịu - Giống chống chịu tổng hợp: điển hình là giống DT2008 (được công nhận sản xuất thử cho cả nước năm 2011), giống này chịu hạn, chịu úng cao, đề kháng tốt với các loại bệnh như gỉ sắt, sương mai, phấn trắng, đốm nâu vi khuẩn, năng suất cao 20 - 40 tạ/ha, thích ứng rộng (trồng được 3 vụ Xuân, Hè, Đông trên các vùng sinh thái miền Bắc và Nam), giống này chưa đề kháng được các loại sâu hại. Lưu ý khi sử dụng: do thời gian sinh trưởng dài nên cần tuân thủ nghiêm ngặt thời vụ gieo hạt. 67
  67. - Giống chuyển gen chịu thuốc diệt cỏ: phổ biến trồng ở các nước châu Mỹ, loại giống này kháng được các loại thuốc diệt cỏ, tiện cho canh tác, giảm chi phí công làm cỏ, giảm giá thành. Tuy nhiên cho tới nay chưa có giống nào phù hợp với điều kiện Việt Nam. 5. Giới thiệu một số giống đậu tương mới 1) DT - 84: Giống chủ lực của Việt Nam hiện nay, do Viện DTNN chọn tạo bằng phương pháp lai ĐT80x ĐH4 kết hợp đột biến dòng lai D.333 ở F4. Được công nhận giống quốc gia năm 1995. Lá to xanh đậm, lông nâu nhạt, hoa tím, rốn hạt nâu xám, vỏ quả khô vàng rơm, hạt vàng to, cứng cây, chống chịu các bệnh gỉ sắt, sương mai khá, chống chịu tốt với bệnh đốm nâu vi khuẩn, chịu nóng và chịu lạnh tốt, thích hợp với cả 3 vụ Xuân, Hè và Đông, ưu thế năng suất vụ nóng có thể tới 35 tạ/ha, thích hợp cho cả nước. Kỹ thuật canh tác cần lưu ý: cần gieo thưa 25 - 35 cây/m2, vụ lạnh (vụ Đông và Xuân) cần gieo dày 40 - 50 cây/m2. Chất lượng hạt tốt: khối lượng 1000 hạt 180 - 220 g, protein cao 41%, lipid: 18%. 2) MTĐ176: Do Trường Đại học Cần Thơ chọn tạo, hoa tím, hạt to màu vàng, TGST: 80 - 85 ngày, khối lượng 1000 hạt 160g, năng suất khá cao, ổn định, là giống chủ lực cho các tỉnh phía Nam. 3) DT - 90: Do Viện DTNN chọn tạo bằng phương pháp lai đột biến F2 trên tổ hợp lai G.7002 x Cọc chùm. Được công nhận giống quốc gia năm 2002. Lá to trung bình thuôn dài, xanh nhạt, lông nâu, hoa trắng, rốn hạt trắng, vỏ quả khô có màu xám, hạt vàng to, khối lượng 1000 hạt: 180-220g. Cứng cây, chống chịu các bệnh gỉ sắt, sương mai tốt, chống chịu khá với bệnh đốm nâu vi khuẩn, chịu lạnh tốt, chịu nóng khá, thích hợp với cả 3 vụ Xuân, Hè Thu và Đông, ưu thế năng suất vụ lạnh có thể tới 30 tạ/ha, vụ nóng cần gieo thưa 30 - 35 cây/m2, vụ lạnh cần gieo dày 40 - 50 cây/m2. DT-90 có góc lá hẹp thích hợp trồng thuần, 68
  68. trồng xen ngô. DT90 là giống có chất lượng hạt tốt nhất Việt Nam, protein 43 - 47%, lipid: 18-19%, đã được thị trường Nhật Bản chấp nhận nhập khẩu. 4) DT - 96: Do Viện DTNN chọn tạo bằng phương pháp lai DT84 x DT90. Được công nhận giống quốc gia năm 2004. Thân có lông nâu nhạt, lá màu xanh nhạt, hoa tím, vỏ quả xám, hạt màu vàng, rốn hạt màu trắng. TGST: 90 - 95 ngày. Năng suất: 18 - 35 tạ/ha. Chất lượng tốt (protein: 43%, lipid: 18% và gluxit: 29% trọng lượng 1000 hạt: 190 - 220g). Chống chịu sâu bệnh hại: Đề kháng tốt với các bệnh: đốm nâu vi khuẩn, gỉ sắt, sương mai, virus khảm. Chống chịu ngoại cảnh đặc biệt (hạn, úng, phèn, mặn ): là giống chịu hạn chịu lạnh, chịu nóng tốt. 15/7, vụ Thu Đông đến 5/10, đối với các tỉnh phía Nam - áp dụng khung thời vụ như các giống đậu tương trung ngày khác). 5) DT - 99: Do Viện DTNN chọn tạo bằng phương pháp đột biến trên tổ hợp lai IS-011 x Cúc. Được công nhận giống khu vực hóa năm 2000. Lá to trung bình thuôn dài, xanh nhạt, lông nâu nhạt, hoa trắng, rốn hạt nâu nhạt, vỏ quả khô có màu xám, hạt vàng to trung bình, cứng cây. Chống chịu các bệnh gỉ sắt, sương mai, đốm nâu, đây là bệnh vi khuẩn tốt. Chịu lạnh, chịu nóng tốt, thích hợp với cả 3 vụ Xuân, Hè Thu và Đông. Thời gian sinh trưởng thuộc vào nhóm cực ngắn ngày, thích hợp với các cơ cấu tăng vụ ở vùng cao có vụ Xuân lạnh kéo dài, vụ Hè Thu rét sớm. DT - 99 có ưu thế năng suất vụ nóng có thể tới 24 tạ/ha, vụ nóng cần gieo thưa 35 - 40 cây/m2, vụ lạnh cần gieo dày 45 - 55 cây/m2. DT-99 có góc lá hẹp thích hợp trồng thuần, trồng xen ngô. Để cho năng suất cao cần chú ý chăm sóc sớm, chống dòi đục thân ngay từ khi có 2 lá đơn. 6) Giống ĐT26: Do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Đậu đỗ chọn lọc từ tổ hợp lai ĐT2000/ĐT12 từ năm 2002. Được công nhận giống sản xuất thử năm 2008. Giống đậu tương ĐT26 có hoa màu trắng, hạt vàng, rốn nâu đậm, quả chín có màu nâu. 69
  69. Chiều cao cây 45 - 60cm, phân cành khá từ 2-3 cành/cây, tỷ lệ quả 3 hạt cao. Khối lượng 1.000 hạt: 180 - 190g. Thời gian sinh trưởng trung bình 90 - 95 ngày năng suất 21 - 29 tạ/ha, tuỳ thuộc vào mùa vụ và điều kiện thâm canh. Giống thích hợp nhất trong vụ Xuân và vụ Đông ở đồng bằng, vụ xuân và hè Thu ở miền núi. Giống ĐT26 nhiễm nhẹ bệnh gỉ sắt, nhiễm trung bình bệnh phấn trắng, chống đổ khá. 7) Giống ĐVN6: Do Viện Nghiên cứu Ngô chọn tạo từ tổ hợp lai AK 03/DT 96 theo phương pháp lai hữu tính và chọn lọc pha hệ. ĐVN-6 được công nhận cho sản xuất thử năm 2007. Giống đậu tương ĐVN - 6 có thời gian sinh trưởng trung bình, từ 90 - 92 ngày ở vụ Xuân, 84 - 86 ngày trong vụ Hè và vụ Đông. ĐVN - 6 thấp cây (38 - 43,2cm), phân cành mạnh. Trọng lượng 1.000 hạt 170 - 190g hàm lượng protein trong hạt đạt 41,69%. ĐVN - 6 là giống có khả năng chống bệnh tốt, chống đổ khá. Năng suất trung bình ở vụ Xuân đạt 17,5 tạ/ha, vụ Hè 25 - 27 tạ/ha, vụ Đông 18 - 22 tạ/ha. ĐVN - 6 có thể trồng được cả 3 vụ Xuân, Hè và Đông ở các tỉnh miền Bắc trên các chân đất màu, bãi, đặc biệt thích hợp trên đất sau 2 vụ lúa ở vụ Đông tại các tỉnh miền Bắc. Thời vụ gieo, áp dụng cho các tỉnh phía Bắc: vụ Xuân từ 20/2 - 10/3, vụ Hè 25/5 - 20/6, vụ Đông trước 5/10. Mật độ: Vụ Xuân 35 - 40 cây/m2; vụ Hè 20 - 25 cây/m2; vụ đông 40 - 45 cây/m2. 8) Giống ĐVN9: Do Viện Nghiên cứu Ngô lai tạo và chọn lọc từ tổ hợp lai ĐT12/VN20 - 5. ĐVN - 9 là giống đậu tương ngắn ngày: vụ Xuân 88 - 90 ngày, vụ Hè 75 - 77 ngày, vụ Đông 78 - 80 ngày. Năng suất trung bình ở vụ Xuân đạt 17 tạ/ha, vụ Hè 21 tạ/ha. ĐVN - 9 thích hợp trồng trong vụ Xuân muộn, vụ Hè, đặc biệt là cơ cấu sản xuất hạt giống ngô xuân - đậu tương Hè - ngô thu đông và có thể tận dụng diện tích trong vụ Đông ở chân đất hai vụ lúa. Thời vụ gieo: vụ Xuân từ 20/2 - 10/3, vụ Hè từ 15/5 - 15/6, vụ Đông có thể gieo đến 12/10. Mật độ gieo: vụ Xuân 40 - 45 cây/m2, vụ Hè: 25 - 30 cây/m2, vụ Đông 48 - 52 cây/m2. 70
  70. 9) Giống DT2001: Do Viện DTNN chọn tạo bằng phương pháp lai hữu tính giữa DT84 x DT83. Được công nhận giống chính thức năm 2010. Hoa tím, lá hình tim nhọn, màu xanh đậm, lông nâu nhạt. Cây sinh trưởng khỏe, thời gian sinh trưởng phía Bắc 90 - 97 ngày, phía Nam 80 - 85 ngày, phân cành vừa phải, phù hợp trồng thuần, quả chín màu vàng rơm, số quả chắc trên cây 35 - 280 quả. Hạt màu vàng rơm, rốn hạt xám nhạt, trọng lượng 1.000 hạt 165g. Năng suất thực tế 20 - 39 tạ/ha (cao hơn DT84 từ 10 - 15%). Chống đổ khá, chống các bệnh gỉ sắt, sương mai, đốm nâu vi khuẩn, lở cổ rễ khá. Chịu nhiệt tốt, chịu lạnh khá. Tỷ lệ protein cao: 43,1%, dầu béo trung bình: 18,4% và đường bột 26,9%. Giống thâm canh, thích ứng rộng, trồng được 3 vụ/năm, được phép sản xuất trên địa bàn cả nước. 10) Giống DT2008: Do Viện DTNN chọn tạo bằng phương pháp đột biến trên tổ hợp lai HC100 x DT2001. Được công nhận giống SX thử năm 2010. Hoa tím, lông nâu, vỏ quả vàng, hạt vàng to (khối lượng 1000 hạt: 200 - 260 g), rốn hạt màu đen, chất lượng tốt: protein: 40%. Thuộc dạng hình cao cây, phân cành khỏe, số quả chắc trên cây từ 35 - 200 quả, tỷ lệ hạt /quả từ 2,0 - 2,2, năng suất 20 - 40 tạ/ha, có khả năng chống chịu tổng hợp với nhiều yếu tố bất lợi của sản xuất: hạn, úng, nhiệt độ, các loại bệnh, đất nghèo dinh dưỡng, cho năng suất cao 1,5 - 2 lần so với các giống cũ như DT84 trong các điều kiện sản xuất khó khăn của vụ Xuân, vụ Đông, các vùng khô hạn, lạnh. DT2008 có thể sử dụng trong các cơ cấu cây trồng sau đây: Trên đất lúa 3 vụ: Lúa xuân + Lúa mùa trung + Đậu tương đông DT2008 (gieo trước 25/9 Dương lịch ở phía Bắc). Trên ruộng cao hạn: Đậu tương xuân DT2008 (gieo 25/1 - 10/2) + Lúa mùa + Ngô đông (DT2008 đông, rau, hoa đông). Trên đất bỏ hoá 1 vụ ở miền núi, trung du: DT-2008 Xuân (từ 25/1 - 10/2) + lúa mùa hoặc: Ngô xuân hè + DT2008 hè thu (gieo trước lập thu). 71
  71. Tại các tỉnh phía Nam: DT2008 có TGST 95 ngày có thể áp dụng chung lịch thời vụ như các giống đậu tương khác tại các thời vụ: Hè Thu (vụ II - gieo tháng 7 - 8, Thu tháng 10 - 11 vào đầu mùa khô), vụ Đông Xuân trong mùa khô (gieo các tháng 9 - 2, thu tháng 1 - 5) 11) Giống đậu tương rau DT-02: Do Viện DTNN chọn tạo làm thuần từ nguồn gen ngoại nhập. Được công nhận chính thức năm 2011. Chịu nhiệt, hoa tím, lá to hình tim nhọn, lông trắng ngắn, quả khô màu vàng rơm, hạt vàng, rốn hạt nâu nhạt, hạt to gấp đôi đậu tương ăn hạt thường, khối lượng 1.000 hạt khô: 280 - 360 g. Khối lượng 1000 hạt tươi 880g. Kích thước quả 2 hạt 5,9 x 1,5cm. Số lượng quả/500g: <175 quả -bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế quy định về đậu tương rau xuất khẩu. TGST thu quả non R6 - R7: 80 - 85 ngày, thu quả già 90 - 98 ngày. DT-02 là giống đậu tương rau hạt to có khả năng chịu nhiệt (nóng, lạnh tốt), trồng được 3 vụ/năm ở phía Bắc, thích ứng rộng với nhiều vùng sinh thái từ Hà Nội tới An Giang, chống chịu sâu bệnh khá, năng suất khá cao: 8 - 12 tấn quả non/ha, 18 - 26 tạ hạt khô/ha, chất lượng khá, gần tương đương với các giống đậu tương rau nước ngoài. Ngoài ra hạt già nghiên cứu sơ bộ khả năng có thể dùng để hầm nấu súp, cháo, chè, rang, bánh kẹo. Hướng sử dụng: Các sản phẩm từ giống DT02 như quả non, hạt non, hạt khô phục vụ thị trường nội địa và thị trường nước ngoài dễ tính như Trung Quốc. Hạt già sử dụng hầm nấu, bánh kẹo, sữa đậu tương cao cấp. DT02 có thể bố trí vào các cơ cấu cây trồng thâm canh, tăng vụ như: - Trên đất lúa 3 vụ: Lúa lai xuân + Đậu tương rau DT02 + Ngô lai. - Trên đất lúa 3 vụ: Lúa xuân + Lúa mùa trung + Đậu tương rau đông DT02. - Trên đất màu 3 vụ: Ngô xuân (lạc xuân, rau, hoa xuân) + Đậu tương rau hè thu DT02 + Ngô đông (rau, hoa đông). 72
  72. - Trên đất bỏ hoá 1 vụ ở miền núi, trung du: DT02 xuân (từ 1-15/3) + lúa mùa; hoặc: Ngô xuân hè + DT02 hè thu. Tại các tỉnh phía Nam, DT02 có thể tham gia vào các cơ cấu cây trồng tương tự như các giống đậu tương khác. 12) Giống đậu tương rau DT08: Giống do Viện DTNN chọn tạo từ tổ hợp lai DT02 x KaoShiung 75. Được công nhận SX thử năm 2011. Chịu nhiệt, dạng cây và lá gọn, góc phân cành nhỏ, khả năng chống đổ được cải thiện, chống chịu sâu bệnh khá, thích ứng rộng, có thể trồng được 3 vụ/năm (Xuân, Hè, Đông) ở mật độ dày. DT08 có lông trắng, kích thước quả 2 hạt lớn, hạt to, hạt non màu xanh đậm, hạt già màu xanh P.1000 hạt: 300 - 360 g, tỷ lệ quả 2+3 hạt lớn (>75%), số quả tiêu chuẩn/500g < 175 đáp ứng tiêu chuẩn đậu tương rau thương phẩm của thị trường thế giới, thời gian thu hạt non 75 - 80 ngày và thời gian thu hạt khô 90 ngày, năng suất quả xanh thương phẩm cao (8 - 9, cao có thể tới 14 tấn/ha), năng suất hạt khô khá (20,0 - 22,0 tạ/ha). Nhược điểm của giống: chống chịu bệnh đốm nâu ở mức trung bình. Phương hướng sử dụng : Tại các tỉnh phía Bắc: DT08 có thời gian sinh trưởng ngắn 80 - 90 ngày đạt năng suất cao, có thể bố trí vào các cơ cấu cây trồng thâm canh, tăng vụ như giống DT02. 73
  73. Chương VI KỸ THUẬT GIEO TRỒNG VÀ NHÂN GIỐNG ĐẬU TƯƠNG 1. Thời vụ Các giống đậu tương 3 vụ thích ứng rộng có thể trồng quanh năm nhưng để năng suất cao tốt nhất vẫn nên áp dụng chung với khung thời vụ như các giống đậu tương khác hiện đang áp dụng trong vùng. Đối với các giống chống chịu cao như DT2008 cần gieo sớm hơn, sẽ có hướng dẫn lịch gieo trồng riêng (Xem thêm Chương VII). 2. Chọn đất, làm đất trồng đậu tương Đất trồng đậu tương thích hợp nhất là các loại đất phù sa, đất thịt nhẹ, ít sỏi đá, tỷ lệ sét thấp, ít chua, thoát nước, nếu có điều kiện tưới tiêu thuận lợi thì càng có khả năng thâm canh, năng suất càng cao. a) Trên đất màu, đất lúa khô: nên áp dụng lối cày bừa toàn diện sẽ đạt năng suất cao nhất, nhặt sạch cỏ, gốc rễ cây vụ trước, lên luống, đánh rạch thoát nước tùy theo nhu cầu thoát nước khi mưa và tưới khi khô hạn, hợp lý nhất lên luống rộng 1,2 - 1,7m kể cả tâm rãnh, luống cao 15 - 20cm, san phẳng mặt luống, đánh rạch tra hạt theo hàng ngang luống (nếu luống rộng 1,7m), theo hàng dọc nếu luống hẹp 1,2 - 1,5m. Đánh rạch tra hạt với 74
  74. khoảng cách 35 - 45cm, sâu 5cm tùy mùa vụ và tùy giống. Phân bón lót rải vào rạch, lấp nhẹ thành rãnh bên cạnh cách xa phân 5cm để gieo hạt. b) Trên đất ướt sau lúa: dùng cày trâu hoặc cuốc đánh rạch thoát nước quanh bờ ruộng, rạch cách rạch xa nhau 3 - 5m để thoát nước mưa và tưới tràn khi khô hạn, sau khi thoát nước còn bùn trên mặt sử dụng phương pháp gieo vãi hạt đậu hoặc gieo bằng máy rải hạt theo hàng kết hợp phạt rạ, phủ rạ tạo độ ẩm cho hạt mọc mầm. Nếu gieo hạt vào gốc rạ thì phải đợi khi đất khô còn lún chân (Tham khảo thêm tại Mục 7 của Chương này). 3. Gieo hạt, mật độ gieo Cây đậu tương có khả năng điều chỉnh độ khép tán theo các mật độ, ở mật độ dày, cây ít phân cành, cây vóng cao dễ đổ rạp và dễ tích tụ sâu bệnh, ở mật độ thưa cây phân cành nhiều, cây thấp, chống đổ và lá thưa thoáng tạo điều kiện giảm sâu bệnh và dễ phun thuốc trừ sâu bệnh. Để cho cây đậu tương phát triển cân đối, có khả năng chống đổ rạp, chống sâu bệnh tốt, rất cần gieo hạt theo mật độ tối ưu. Nguyên tắc lựa chọn mật độ là phải căn cứ vào mùa vụ, giống, độ phì và mức bón phân: - Mùa vụ gieo: Vụ Xuân và Đông có thời tiết lạnh nên gieo dày hơn, riêng vụ đông có ngày ngắn nên gieo dày hơn vụ Xuân, vụ hè thời tiết nóng, cây phát triển, phân cành mạnh nên gieo thưa. Ví dụ như giống đậu tương DT84, mật độ tối ưu vụ Xuân thường là 30 - 35 cây/ m2 (hàng cách hàng 35cm, cây cách cây 8 - 10cm), vụ hè: 25 - 30 cây (40cm x 10cm), vụ đông 35 - 40 cây/ m2 (35cm x 8cm). - Giống: giống có thời gian sinh trưởng ngắn 70 - 90 ngày nên gieo dày, (35 - 50 cây/m2), giống có TGST từ 90 - 100 ngày: 25 - 40 cây/m2 (cách hàng 40cm, cách cây 10cm), giống trên 100 ngày 75