Giáo trình Quản lý công nghệ trong doanh nghiệp
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Quản lý công nghệ trong doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
giao_trinh_quan_ly_cong_nghe_trong_doanh_nghiep.pdf
Nội dung text: Giáo trình Quản lý công nghệ trong doanh nghiệp
- Giáo trình QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ TRONG DOANH NGHIỆP
- LỜI NÓI ĐẦU Quản lý công nghệ là một nội dung quan trọng trong chương trình đào tạo cử nhân quản lý kinh doanh. Mục tiêu của giáo trình là cung cấp kiến thức về quản lý công nghệ cho các nhà quản lý kinh doanh. Vì vậy, giáo trình này không đề cấp đến các vấn đề về quản lý công nghệ ở tầm vĩ mô, mà chỉ đề cấp đến các nội dung của quản lý công nghệ trong doanh nghiệp. Đối tượng phục vụ trực tiếp của giáo trình là sinh viên chuyên ngành quản lý kinh doanh. Đồng thời, giáo trình cũng là tài liệu bổ ích cho các doanh nhân, đặc biệt là các doanh nhân đang trực tiếp điều hành các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Giáo trình Quản lý công nghệ trong doanh nghiệp đã kế thừa có chọn lọc nhiều nội dung trong quản lý công nghệ phù hợp với mục tiêu đã đề ra trên đây. Khác với các tài liệu về công nghệ khác, giáo trình này nhấn mạnh thành phần tổ chức của công nghệ. Trong doanh nghiệp, đó là tổ chức quá trình công nghệ. Giáo trình Quản lý công nghệ trong doanh nghiệp gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về công nghệ. Chương II: Tổ chức quá trình công nghệ trong doanh nghiệp. Chương III: Quản lý công nghệ trong doanh nghiệp. Để tiện cho việc theo dõi, học tập của sinh viên và những người nghiên cứu, sau mỗi chương đều có tóm tắt nội dung, các câu hỏi ôn tập cũng như các bài tập. Mặc dù đã rất cố gắng trong việc hoàn thành giáo trình, nhưng do nội dung khoa học của vấn đề rộng lớn và phức tạp, lại phải chọn lựa để phù hợp với đối tượng phục vụ nên giáo trình Quản lý công nghệ trong doanh nghiệp lần này không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Mong nhận được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của các đồng nghiệp, các sinh viên và các bạn đọc để sửa chữa, bổ sung cho các lần tái bản sau này được hoàn thiện hơn. Hà Nội tháng 5 năm 2009 3
- Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHỆ I.Khái niệm công nghệ. 1.Các cách hiểu về công nghệ. Có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghệ. Các tổ chức quốc tế đã cố gắng đưa ra một định nghĩa về công nghệ có thể dung hòa các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hòa nhập của các quốc gia trong từng khu vực và trên toàn thế giới. Tuy nhiên, cố gắng này vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa duy nhất. Có những định nghĩa sau đây vẵn đang song song tồn tại và bổ sung cho nhau: -Công nghệ là hệ thống các kiến thức về quy trình kỹ thuật để chế biến vật liệu và thông tin. -Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp. -Công nghệ là cách thức sản xuất theo phương pháp xác định do con người sáng tạo ra và vận dụng nó vào quá trình sản xuất. Mặc dù khác nhau về ngôn từ, các định nghĩa trên đều bao quát bốn khía cạnh. Đó là: Khía cạnh “công nghệ là máy biến đổi”. Khía cạnh “công nghệ là một công cụ”. Khía cạnh “công nghệ là kiến thức”. Khía cạnh “công nghệ hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó”. 4
- Khía cạnh thứ nhất nói đến khả năng làm ra đồ vật. Đồng thời đáp ứng được mục tiêu sử dụng và thỏa mãn được yêu cầu về kinh tế thì mới được áp dụng trong thực tế. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa khoa học và công nghệ. Khía cạnh thứ hai nhấn mạnh công nghệ là sản phẩm của con người. Vì vậy nó có quan hệ chặt chẽ với con người và cơ cấu tổ chức. Khía cạnh thứ ba bác bỏ quan điểm công nghệ phải là vật thể, phải nhìn thấy được. Đặc trưng kiền thức khẳng định vai trò dẫn đường của khoa học đối với công nghệ. Nó cũng nhấn mạnh: không phải ở các quốc gia khác nhau có cùng công nghệ như nhau sẽ có kết quả như nhau. Con người phải được đào tạo kỹ năng, trang bị kiến thức và phải luôn cập nhật kiến thức thì mới sử dụng tốt một công nghệ nào đó. Khía cạnh thứ tư nhấn mạnh: dù là kiến thức, công nghệ vẫn có thể được mua, được bán. Vì nó nằm trong các vật thể tạo nên nó. Xuất phát từ bốn khía cạnh trên, Ủy ban Kinh tế và xã hội khu vực châu Á-Thái bình dương (Economic and Social Commission for Asia and the Pacific - ESCAP) đưa ra khái niệm: Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Đây được coi là bước ngoặt trong quan niệm về công nghệ. Theo định nghĩa này, không chỉ sản xuất vật chất mới dùng công nghệ, mà tất cả các lĩnh vực khác, kể cả hoạt động xã hội đều dùng công nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng, công nghệ du lịch, công nghệ văn phòng ). Ở Việt Nam, Luật khoa học và công nghệ định nghĩa: “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”. 5
- 2.Các bộ phận cấu thành của một công nghệ Bất cứ công nghệ nào, dù đơn giản đến mấy cũng bao gồm 4 thành phần: a.Thành phần kỹ thuật của công nghệ (Thechnoware- ký hiệu T). Là phần công nghệ hàm chứa trong vật thể như: các công cụ, thiết bị, máy móc, phương tiện Trong sản xuất, các vật thể này thường được bố trí theo một trình tự ứng với một quy trình nhất định để chế tạo sản phẩm. Đây là phần cốt lõi của công nghệ. Nhờ máy móc, thiết bị, phương tiện, con người tăng được sức mạnh cơ bắp và trí tuệ. Máy móc đạt được kết quả cao hơn con người như: nhanh hơn, mạnh hơn, phức tạp hơn và chính xác hơn. Để dây chuyền công nghệ có thể hoạt động được, cần có sự liên kết giữa phần kỹ thuật, phần con người và phần thông tin. Trong mối tương quan giữa phần kỹ thuật, con người, thông tin, khi phần kỹ thuật được nâng cấp thì phần con người và phần thông tin cũng phải được nâng cấp tương ứng. b.Thành phần con người của công nghệ (Humanwere - ký hiệu H). Đó là kỹ năng của con người làm việc trong công nghệ. Bao gồm: kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng tích lũy được trong quá trình làm việc. Cũng bao gồm cả những tố chất của con người như: tính sáng tạo, sự khôn ngoan, khả năng phối hợp, đạo đức lao động Con người làm cho máy móc hoạt động và còn có thể cải tiến, mở rộng các tính năng của nó. Con người quyết định mức độ hiệu quả của phần kỹ thuật. Trong bất cứ công nghệ nào, con người đóng vai trò chủ động . Trong công nghệ sản xuất, con người có hai chức năng: Điều hành và hỗ trợ. -Chức năng điều hành gồm: Vận hành máy móc, giám sát máy móc hoạt động. 6
- -Chức năng hỗ trợ gồm: bảo dưỡng, bảo đảm chất lượng, quản lý sản xuất. Sự phức tạp của con người không chỉ phụ thuộc vào kỹ năng làm việc mà còn phụ thuộc vào thái độ của từng cá nhân đối với công việc. Con người quyết định hiệu quả của phần kỹ thuật. Điều này liên quan đến thông tin mà con người được trang bị và hành vi (thái độ) của họ dưới sự điều hành của tổ chức. c.Thành phần thông tin của công nghệ (Inforware – ký hiệu I). Đó là các dữ liệu đã được tư liệu hóa, được sử dụng trong công nghệ. Chẳng hạn: Các thông số về đặc tính của thiết bị, các số liệu về vận hành thiết bị, số liệu về duy trì, bảo dưỡng, các dữ liệu để thiết kế các bộ phận của phần kỹ thuật, các công thức và bí quyết để chế tạo sản phẩm Đây là phần biểu hiện các tri thức được tích lũy trong công nghệ. Nó giúp trả lời câu hỏi “Làm gì?” và “Làm như thế nào?”. Nhờ các tri thức áp dụng trong công nghệ mà sản phẩm của nó có những đặc trưng không có ở các sản phẩm cùng loại được chế tạo bởi công nghệ khác. Do đó, phần thông tin được gọi là “sức mạnh” của một công nghệ. Tuy nhiên, sức mạnh đó lại phụ thuộc vào con người. Trong quá trình sử dụng công nghệ, con người sẽ bổ sung, cập nhật các thông tin của công nghệ. Sự cập nhật thông tin như vậy cũng đáp ứng được sự tiến bộ không ngừng của khoa học. d.Thành phần tổ chức của công nghệ (Orgaware – ký hiệu O). Đó là những quy định về quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ, sự phối hợp của các cá nhận hoạt động trong công nghệ, quy trình đào tạo công nhân, bố trí và sắp xếp thiết bị nhằm sử dụng tốt phần kỹ thuật và phần con người. Phần tổ chức đóng vai trò điều hòa cả ba thành phần trên của công nghệ. Nó là công cụ để quản lý: lập kế hoach, tổ chức bộ máy, bố trí nhân sự, động viên thúc đẩy và kiểm soát mọi hoạt động trong công nghệ. 7
- Những thành phần trên là không thể thiếu thành phần nào. Nhưng chúng tác động qua lại và ảnh hưởng nhau rất rõ nét. Điều này đòi hỏi phải giải quyết vấn đề công nghệ một cách đồng bộ. Chẳng hạn: nếu máy móc thiết bị hiện đại mà yếu tố khác của công nghệ không đồng bộ thì không thể phát huy hết tính năng của những máy móc thiết bị hiện đại đó. Theo nghĩa hẹp, công nghệ được hiểu gồm hai nội dung chủ yếu sau: - Các kiến thức được tổ chức một cách khoa học (các khái niệm, phương pháp, thông số, công thức, bí quyết ) - Các yếu tố vật chất gắn với công nghệ (thiết bị, máy móc, công cụ, vật liệu ) 3.Phân loại công nghệ: Tuỳ theo mục đích, có thể phân loại công nghệ theo các tiêu chí khác nhau. Cụ thể: +Phân loại theo lĩnh vực, có: Công nghệ sản xuất, công nghệ dịch vụ, công nghệ thông tin, công nghệ giáo dục đào tạo +Phân loại theo ngành nghề, có: công nghệ công nghiệp, nông nghiệp, công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng, công nghệ vật liệu +Phân loại theo sản phẩm, có: Công nghệ thép, công nghệ xi măng, công nghệ ô tô +Phân loại theo đặc tính công nghệ, có: Công nghệ đơn chiếc, công nghệ hàng loạt, công nghệ liên tục Trong phạm vi quản lý công nghệ, công nghệ còn được phân chia theo các tiêu chí khác: +Theo trình độ công nghệ: Có công nghệ truyền thống, công nghệ hiện đại, công nghệ trung gian. 8
- Các công nghệ truyền thống thường là công nghệ thủ công, có tính độc đáo, độ tinh xảo cao, song năng suất không cao và chất lượng không đồng đều. Các công nghệ truyền thống có ba đặc trưng cơ bản: Tính cộng đồng, tính ổn định vầ tính lưu truyền. Các công nghệ tiên tiến là thành quả của khoa học hiện đại. Những công nghệ này cho năng suất cao, chất lượng tốt và đồng đều, giá thành sản phẩm hạ. Công nghệ trung gian nằm giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại xét về trình độ công nghệ. +Theo mục tiêu phát triển công nghệ có công nghệ phát triển, công nghệ dẫn dắt, công nghệ thúc đẩy. Các công nghệ phát triển bao gồm các công nghệ bảo đảm cung cấp các nhu cầu thiết yếu cho xã hôi như: ăn, mặc, ở, đi lại Các công nghệ dẫn dắt là các công nghệ có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các công nghệ thúc đẩy bao gồm các công nghệ tạo nên sự tăng trưởng kinh tế quốc gia. +Theo góc độ môi trường có công nghệ ô nhiễm và công nghệ sạch. Công nghệ sạch là công nghệ mà quá trình sản xuất tuân theo điều kiện giảm ảnh hưởng ô nhiễm đến môi trường, sử dụng các nguồn nguyên liệu thô và năng lượng với chi phí hợp lý, kinh tế (Còn gọi là công nghệ thân môi trường). +Theo đặc thù của công nghệ có thể chia công nghệ thành các loại: công nghệ cứng và công nghệ mềm. Bốn thành phần của công nghệ chia thành 2 nhóm: Phần kỹ thuật là phần cứng, ba phần còn lại là phần mềm. Một công nghệ mà phần cứng của nó được coi là chủ yếu được gọi là công nghệ cứng, và ngược lại. 9
- Cũng có thể coi công nghệ cứng là công nghệ khó thay đổi, công nghệ mềm là công nghệ có chu kỳ sống ngắn, phát triển nhanh. +Theo đầu ra của công nghệ có công nghệ sản phẩm và công nghệ quá trình. Công nghệ sản phẩm thường liên quan đến thiết kế sản phẩm (thường bao gồm các phần mềm thiết kế sản phẩm) và việc sử dụng, bảo dưỡng sản phẩm. Còn công nghệ quá trình là để chế tạo các sản phẩm đã được thiết kế (liên quan đến bốn thành phần công nghệ). Một loại công nghệ mới xuất hiện làm đảo lộn căn bản cách phân loại truyền thống: công nghệ cao. Theo quan niệm của một số tổ chức quốc tế, là công nghệ cao phải có các đặc điểm sau: - Chứa đựng nỗ lực quan trọng về nghiên cứu triển khai (NC&TK- R&D). - Có giá trị chiến lược đối với quốc gia. - Sản phẩm được đổi mới nhanh chóng. - Đầu tư lớn cùng độ rủi ro cao. - Thúc đẩy được sức cạnh tranh và hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, triển khai, sản xuất và tìm kiếm thị trường trên quy mô toàn quốc. Như vậy, công nghệ cao là công nghệ có khả năng mở rộng phạm vi, nâng cao hiệu quả của các công nghệ hiện có nhờ tích hợp các thành tựu khoa học-công nghệ tiên tiến. Tiêu chuẩn quan trọng nhất của công nghệ cao là hàm lượng nghiên cứu- triển khai phải cao hơn mức trung bình. (Chi phí cho nghiên cứu-triển khai trong 10
- giá bán sản phẩm của công nghệ cao hiện nay là 11,% so với mức trung bình là 4%). Hiện nay có 6 ngành công nghệ cao là: - Công nghệ hàng không vũ trụ. - Tin học và thiết bị văn phòng. - Điện tử và cấu kiện điện tử. - Dược phẩm. - Chế tạo khí cụ đo lường. - Chế tao thiết bị điện. II.Các đặc trưng của công nghệ. Muốn quản lý tốt công nghệ cần nắm vững những đặc trưng cơ bản của nó. Nhiều nước đang phát triển đã không thành công trong việc dựa vào phát triển công nghệ để xây dựng đất nước do không nắm vững các đặc trưng cơ bản này. Công nghệ là một loại hàng hóa nhưng là hàng hóa đặc biệt. Do vậy, ngoài những đặc trưng như các sản phẩm thông thường, công nghệ có những đặc trưng mà chỉ nó (yếu tố sản sinh ra sản phẩm) mới có. Công nghệ có các đặc trưng sau: - Chuỗi phát triển của các thành phần công nghệ. - Độ phức tạp (mức độ tinh vi) của các thành phần công nghệ. - Độ hiện đại của các thành phần công nghệ. - Chu trình sống của công nghệ. 11
- 1.Chuỗi phát triển của các thành phần công nghệ. a.Chuỗi phát triển kỹ thuật: Khởi đầu của phần cứng công nghệ là nghiên cứu nhu cầu, thiết kế, chế tạo thử, trình diễn, sản xuất hàng loạt, truyền bá, phổ biến và bị thay thế bởi trang thiết bị mới. Các nước nhập khẩu công nghệ không phải trải qua trình tự trên để có công nghệ nên thường khó nắm vững, khó làm chủ được công nghệ. b.Chuỗi phát triển kỹ năng công nghệ của con người hình thành từ khi được nuôi dưỡng, dạy dỗ trong nhà trẻ, lớp mẫu giáo cho đến những bậc học cao hơn trong hệ thống đào tạo của quốc gia. Với các kiến thức được trang bị trong các nhà trường, con người tham gia vào các quá trình công nghệ sẽ tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng. Qua đó kỹ năng của họ được nâng cấp và phát triển. Không trải qua trình tự trên, khả năng phát triển kỹ năng sẽ bị hạn chế nhiều. Ở các nước đang phát triển, do hạn chế về tài chính nên thường không thực hiện được đầy đủ các giai đoạn đầu, đặc biệt giai đoạn nuôi dưỡng đến giáo dục tiểu học. Vì vậy, các nước này gặp khó khăn nhiều trong việc đáp ứng nguồn lực con người có trình độ cao. Chuỗi phát triển kỹ năng của con người không có kết thúc. Kỹ năng, đóng góp của con người tích lũy được trong quá trình hoạt động. c.Chuỗi phát triển của thông tin công nghệ bắt đầu từ thu thập dữ liệu cần thiết, sàng lọc, phân loại, kết hợp, phân tích tổng hợp và cập nhật. Chuỗi phát triển thông tin không có kết thúc vì các thông tin có thể được sử dụng đồng thởi trong nhiều công nghệ. d.Chuỗi phát triển của phần tổ chức khởi đầu từ việc nhận nhiệm vụ của hoạt động, trên cơ sở đó tiến hành bước chuẩn bị, thiết kế khung tổ chức, bố trí nhân sự, sau đó tổ chức bắt đầu hoạt động theo chức năng đã đề cập ở trên. 12
- Trong quá trình điều hành hoạt động, tổ chức được theo dõi, phản hồi để điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thay đổi bên trong và bên ngoài Các giai đoạn phát triển của các thành phần công nghệ được mô tả trong hình 1 sau đây: Chuỗi phát triển của phần kỹ thuật (Các phương tiện) Nghiên Thiết kế Chế Trình Sản Truyền Loại bỏ cứu tạo thử diễn xuất bá (phổ bị thay biến) thế Chọn lọc Thích nghi Chuỗi phát triển của phần con người (Các kỹ năng công nghệ) Nuôi Chỉ bảo Dạy Giáo Đào Truyền Nâng dưỡng dỗ dục tạo bá (phổ cấp biến) Chuỗi phát triển của phần thông tin (Các dữ liệu) Thu thập Sàng lọc Phân Kết Phân Tổng Cập loại hợp tích hợp nhật Chuỗi phát triển của phần tổ chức(Cơ cấu) Nhận Chuẩn Thiết kế Thiết Hoạt Kiểm Cải tổ thức bị lập (bố động tra (điều trí) chỉnh) Hình 1: Chuỗi phát triển của các thành phần công nghệ 13
- 2.Mức độ phức tạp (độ tinh vi) của các thành phần công nghệ. a.Mức độ phức tạp của phần kỹ thuật. Mức độ phức tạp của phần kỹ thuật được đánh giá theo các cấp sau: 1) Các phương tiện thủ công sử dụng năng lượng cơ bắp con người hay súc vật là chủ yếu. 2) Các phương tiện có động lực, nguồn năng lượng là các loại động cơ nhiệt, điện thay thế cơ bắp. 3) Các phương tiện vạn năng, có thể thực hiện trên hai công việc. 4) Các phương tiện chuyên dùng, chỉ thực hiện một hay một phần công việc. Do đó sản phẩm có độ chính xác cao. 5) Các phương tiện tự động, có thể thực hiện một dãy hay toàn bộ các thao tác, không cần tác động trực tiếp của con người. 6) Các phương tiện máy tính hóa, điều khiển quá trình làm việc bằng máy tính. 7) Các phương tiện tích hợp: thao tác toàn bộ nhờ máy, được tích hợp nhờ sự trợ giúp của máy tính. b.Mức độ phức tạp của kỹ năng con người. Kỹ năng công nghệ của con người thể hiện qua học vấn (thông qua giáo dục tiểu học, trung học), kỹ năng công nghệ (thông qua các trường dạy nghề, trường chuyên nghiệp, trường đại học), trí lực (độ thông minh). Theo mức độ cao dần, kỹ năng của con người được xếp theo các cấp sau: 1) Khả năng vận hành. 2) Khả năng lắp đặt. 14
- 3) Khả năng sửa chữa. 4) Khả năng sao chép. 5) Khả năng thích nghi. 6) Khả năng cải tiến. 7) Khả năng đổi mới c.Mức độ phức tạp của thông tin . Độ phức tạp của phần thông tin được đánh giá theo các mức: -Dữ liệu thông báo (báo hiệu): Thể hiện bằng hình ảnh, mô hình, tham số cơ bản (như các thông số ghi trên nhãn thiết bị ). -Dữ liệu mô tả: Biểu thị các nguyên tắc cơ bản về cách sử dụng hay phương thức vận hành của phần kỹ thuật (như các catalo kèm theo các thiết bị). -Dữ liệu để lắp đặt: Gồm các dữ liệu về đặc tính của thiết bị, nguyên vật liệu, chế tạo chi tiết. -Dữ liệu để sử dụng: Nằm trong các tài liệu kèm theo thiết bị giúp cho người sử dụng thiết bị một cách an toàn và hiệu quả. -Dữ liệu để thiết kế: Gồm các tài liệu thiết kế chế tạo. -Dữ liệu để mở rộng: Gồm những tài liệu cho phép tiến hành những cải tiến, thay thế các linh kiện hay mở rộng tính năng thiết bị. -Dữ liệu để đánh giá: Là các thông tin mới nhất về các thành phần công nghệ, các xu thế phát triển và các thành tựu liên quan ở phạm vi thế giới. Ba dữ liệu cuối được coi là bí quyết của công nghệ. d.Mức độ phức tạp của phần tổ chức: 15
- Các chỉ tiêu đặc trưng cho độ phức tạp của phần tổ chức là: Quy mô thị trường, đặc điểm quá trình sản xuất, tình trạng nhân lực, tình hình tài chính và mức lợi nhuận. Các cơ cấu tổ chức được xếp theo các cấp sau: 1)Cơ cấu đứng được: Chủ sở hữu tự quản lý, đầu tư thấp, lao động ít, phương tiện thông thường, lợi nhuận không đáng kể. 2)Cơ cấu đứng vững: Làm chủ được phương tiện, có khả năng nhận hợp đồng từ các tổ chức cao hơn, cơ cấu sản xuất ổn định, có khả năng giảm chi phí để tăng lợi nhuận. 3)Cơ cấu mở mang: Có kinh nghiệm chuyên môn, quản lý có nề nếp, có chuyên gia trong từng lĩnh vực, lợi nhuận trung bình. 4)Cơ cấu bảo toàn: Có khả năng tìm kiếm sản phẩm mới, thị trường mới, sử dụng được các phần kỹ thuật cao cấp. Lọi nhuận trung bình. 5)Cơ cấu ổn định: Liên tục cải tiến chất lượng và chủng loại sản phẩm. Liên tục năng cấp phần kỹ thuật. 6)Cơ cấu nhìn xa: Thường xuyên cải tiến và đổi mới sản phẩm, sử dụng các phương tiện tiên tiến. Lợi nhuận cao.Có thể chuyển phần lớn lợi nhuận vào hoạt động nghiên cứu-triển khai. 7)Cơ cấu dẫn đầu: Có thể tiến đến giới hạn công nghệ liên quan. Có khả năng chuyển giao công nghệ theo chiều dọc. Chú trọng nghiên cứu khoa học cơ bản. Lợi nhuận cao. Việc phân định ranh giới các cấp phức tạp của các thành phần công nghệ đôi khi khó phân định rõ ràng. Tên gọi các cấp phức tạp có thể không thống nhất ở những tài liệu khác nhau. Song có điều rất rõ ràng là: khi chuyển sang các cấp cao hơn thì mức phức tạp tăng rõ rệt. Hình 2 cho thấy điều này. 16
- Khả năng đổi mới Thiết bị tích hợp Khả năng cải tiến Thiết bị máy tính hóa Khả năng thích nghi Thiết bị tự động Khả năng sao chép Thiết bị chuyên dụng Khả năng sửa chữa Thiết bị vạn năng Khả năng lắp đặt Thiết bị có động lực Khả nằng vận hành Thiết bị thủ công NĂNG LỰC CON NGƯỜI PHƯƠNG TIỆN KỸ THUẬT CƠ CẤU TỔ CHỨC DỮ KIỆN, TƯ LIỆU Tổ chức đứng được Thông tin báo hiệu Tổ chức đứng vững Thông tin mô tả Tổ chức mở rộng Thông tin chi tiết Tổ chức bảo toàn Thông tin sử dụng Tổ chức ổn định Thông tin để thiết kế Tổ chức nhìn xa Thông tin mở rộng Tổ chức dẫn đầu Thông tin đánh giá Hình 2: Các cấp công nghệ, mức độ phức tạp tăng dần 3.Độ hiện đại của các thành phần công nghệ. Khác với độ phức tạp của các thành phần công nghệ, độ hiện đại không thể chia thành “cấp” mà phải so sánh chúng với thành phần tương ứng được coi là “tốt nhất thế giới” vào thời điểm đánh giá. Công việc này đòi hỏi những chuyên gia kỹ thuật thành thạo trong việc sử dụng công nghệ đó. 17
- Có một só tiêu chuẩn chung để đánh giá mức độ hiện đại của các thành phần công nghệ. a.Độ hiện đại của phần kỹ thuật. Chỉ tiêu đánh giá là hiệu năng kỹ thuật (P). Năm tiêu chuẩn đánh giá là: - Phạm vi của các thao tác của con người. - Độ chính xác cần có của thiết bị. - Khả năng vận chuyển cần có. - Quy mô kiểm tra cần có. - Giá trị của phần kỹ thuật xét về mặt ứng dụng khoa học và bí quyết công nghệ. b.Độ hiện đại của phần con người. Đánh giá bằng các chỉ tiêu khả năng công nghệ (C). Có các tiêu chuẩn đánh giá: - Tiềm năng sáng tạo. - Mong muốn thành đạt. - Khả năng phối hợp. - Tính hiệu quả trong công việc. - Khả năng chịu đựng rủi ro. - Nhận thức về thời gian. c.Độ hiện đại của phần thông tin. Đánh giá bằng các chỉ tiêu tính thích hợp của thông tin (A). Các tiêu chuẩn đánh giá: 18
- - Khả năng dễ dàng tìm kiếm. - Số lượng mối liên kết. - Khả năng cập nhật. - Khả năng giao lưu. d.Độ hiện đại của phần tổ chức. Đánh giá bằng chỉ tiêu: tính hiệu quả của tổ chức (E). Các chỉ tiêu đánh giá: - Khả năng lãnh đạo của tổ chức. - Mức độ tự quản của các thành viên. - Sự nhạy cảm trong định hướng. - Mức độ quan tâm của các thành viên đối với mục tiêu của tổ chức. Các tiêu chuẩn trên phải được chi tiết hóa đối với công nghệ cụ thể. 4.Chu trình sống của công nghệ. Sự phát triển của một công nghệ có quy luật biến đổi theo thời gian, tạo nên chu trình sống của công nghệ. Chu trình sống của công nghệ liên quan đến hai yếu tố cơ bản: giới hạn của tiến bộ công nghệ và chu trình sống của sản phẩm. a.Giới hạn của tiến bộ công nghệ. Sự tiến bộ của một loại công nghệ nào đó không phải là vô cùng. Nó có giới hạn trên, không thể vượt quá (giới hạn vật lý). Mỗi công nghệ có các tham số đặc trưng của nó. Chẳng hạn: với động cơ hơi nước, tham số là hiệu suất chu trình của nhiệt; với ô tô là tốc độ tính theo km/h Sự nâng cao các tham số của một công nghệ từ tối thiếu đến tối đa là biểu hiện tiến bộ công nghệ. 19
- Có thể mô phỏng sự tiến bộ công nghệ theo thời gian bằng đường cong sau: (hình 3) Đường cong có hình chữ S có thể chia làm ba giai đoạn: giai đoạn phôi thai, giai đoạn tăng trưởng và giai đoạn bão hòa. Tham số kỹ thuật Giới hạn vật lý Tăng trưởng Phôi thai Bão hòa Thời gian Hình 3 Đường cong của tiến bộ công nghệ Trong giai đoạn phôi thai, các tham số thực hiện tăng chậm. Do có các cải tiến, các tham số thực hiện được cải thiện nhanh là giai đoạn tăng trưởng. Khi công nghệ đạt được mức tiệm cận với giới hạn vật lý của nó là giai đoạn bão hòa. Các sáng chế mới, tiến bộ hơn sẽ thay thế công nghệ cũ. Chẳng hạn: Động cơ đốt trong ra đồi thay cho động cơ hơi nước; công nghệ vật lý chất rắn tạo ra transito thay thế cho đèn điện tử chận không. Đặc trưng chữ S dẫn đến một nhận thức quan trọng: “Khi một công nghệ đạt tới giới hạn tự nhiên của nó, nó trở thành công nghệ bão hòa và có khả năng bị thay thế hoặc loại bỏ”. 20
- b.Chu trình sống của sản phẩm. Quy luật biến đổi của khối lượng một sản phẩm bán ra trên thị trường theo thời gian được gọi là chu trình sống của sản phẩm. Công nghệ, bản thân nó chính là một loại sản phẩm. Nó cũng có chu trình sống như một sản phẩm thông thường. Đường biểu diễn chu trình sống của sản phẩm thể hiện trong sơ đồ sau: (hình 4) Số lượng bán A B C D E F Thời gian Hình 4 Chu trình sống của sản phẩm Giai đoạn A là giai đoạn hình thành sản phẩm: Ý tưởng thiết kế, triển khai, sản phẩm chưa có trên thị trường, không mang lại lợi nhuận cho công ty. Giai đoạn B: Bắt đầu giới thiệu sản phẩm trên thị trường, sản lượng bán chậm. Giai đoạn C: lượng bán tăng nhanh. Sau đó lượng bán giảm dần (D), xuất hiện sản phẩm mới ưu việt hơn nó (E) và nó bị thay thế (F). Có thể thấy: Giai đoạn A là giai đoạn công nghệ đang được triển khai, thị trường chưa có công nghệ. Các giai đoạn B, C, D khối lượng công nghệ bán được trên thị trường tuân theo đường cong chữ S của tiến bộ công nghệ. Nó đặc trưng bởi sự tăng chậm lúc đầu, sau đó tăng nhanh rồi bão hòa. 21
- Công nghệ đạt tới đỉnh sau đó bắt đầu giảm (E) và bị thay thế khi có công nghệ mới xuất hiện (F). Nghiên cứu chu trình sống của công nghệ có những ý nghĩa rất quan trọng cần chú ý: -Trong thời gian tồn tại của một công nghệ, nó luôn biến đổi: về tham số thực hiện của công nghệ, về quan hệ với thị trường. -Để duy trì vị thế cạnh tranh cuả mình, các công ty phải tiến hành đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình sản xuất và thay thế công nghệ đang sử dụng đúng lúc, khi có những thay đổi trong khoa học công nghệ, trong nhu cầu thị trường. -Doanh nghiệp cần biết công nghệ đang được sử dụng đang ở trong giai đoạn nào của chu trình sống để có thể xác định được giá trị của công nghệ, xác định được thời điểm thay đổi công nghệ. TÓM TẮT NỘI DUNG CHÍNH: 1. Có nhiều định nghĩa khác nhau về công nghệ. Các định nghĩa đều bao hàm 4 khía cạch: - Công nghệ là máy biến đổi. - Công nghệ là một công cụ. - Công nghệ là kiến thức. - Công nghệ hàm chứa các dạng hiện thân của nó. Cả 4 khía cạch trên đều được thể hiện trong khái niệm về công nghệ của Ủy ban Kinh tế và xã hội khu vực châu Á – Thái bình dương (Economission for Asia and the Pacific – ESCAP): 22
- “Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dich vụ.” Đây là bước ngoặt trong quan niệm về công nghệ. 2. Từng công nghệ bao gồm 4 thành phần: - Thành phần kỹ thuật (T). - Thành phần con người (H). - Thành phần thông tin (I). - Thành phần tổ chức (O). 3. Có thể phân loại công nghệ theo các tiêu chí khác nhau, tùy theo mục đích nghiên cứu. Gần đây, hình thành loại công nghệ làm đảo lộn các cách phân loại công nghệ theo truyền thống: “Công nghệ cao”. Công nghệ cao có các đặc điểm: - Chứa đựng nỗ lực quan trọng về nghiên cứu và triển khai (NC & TK – R & D). - Có giá trị chiến lược đối với quốc gia. - Sản phẩm được đổi mới nhanh chóng. - Đầu tư lớn và độ rủi ro cao. Thúc đẩy được sức mạnh và hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, triển khai, sản xuất và tìm kiếm thị trường trên quy mô toàn quốc. 4. Công nghệ có các đặc trưng: - Chuỗi phát triển của các thành phần công nghệ. - Độ phức tạp (mức độ tinh vi) của các thành phần công nghệ. - Độ hiện đại của các thành phần công nghệ. - Chu trình sống của công nghệ. 23
- Muốn quả lý tốt công nghệ, phải nắm vững các đặc trưng này của nó. Đối với các quốc gia đang phát triển, điều này càng có ý nghĩa quan trọng. CÂU HỎI ÔN TẬP: 1. Trình bày các quan niệm khác nhau về công nghệ. Ý nghĩa của việc đưa ra khái niệm mới về công nghệ. 2. Các thành phần của công nghệ và mối quan hệ giữa chúng với nhau. 3. Các khía cạnh cơ bản của công nghệ là gì? Nội dung biểu hiện của từng khía cạnh? 4. Trình bày một số cách phân loại công nghệ. Công nghệ cao có những đặc trưng gì? 5. Thế nào là chuỗi phát triển của công nghệ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu chuỗi phát triển phần con người trong quá trình tích lũy kiến thức về công nghệ. 24
- Chương II: TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH CÔNG NGHỆ TRONG DOANH NGHIỆP Phần trên, khi nói về phần kỹ thuật của công nghệ, đã đề cập đến việc các máy móc, thiêt bị, công cụ được bố trí theo một trình tự ứng với một quy trình nhất định để chế tạo sản phẩm. Việc bố trí máy móc thiết bị như thế là việc tổ chức quá trình công nghệ trong doanh nghiệp. Khoa học tổ chức quá trình công nghệ chỉ ra các phương pháp tổ chức khác nhau, ưu, nhược điểm của chúng và phạm vi áp dụng của từng phương pháp. Vận dụng phù hợp cách tổ chức quá trình sản xuất cho từng doanh nghiệp sẽ đem lại hiệu quả của công nghệ và hiệu quả cho doanh nghiệp. I. Quá trình công nghệ, một bộ phận quan trọng của quá trình sản xuất. Hình 5 sau đây mô phỏng các bộ phận cấu tạo của quá trình sản xuất. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT QUÁ TRÌNHTRÌNH LAO ĐỘNG QUÁ TRÌNH TỰ NHIÊN Quá trình công nghệ Quá trình vận chuyển Quá trình kiểm tra Các giai đoạn công nghệ Các bước công việc Hình 5 Quá trình sản xuất, các bộ phận cấu thành 25
- Bất cứ quá trình sản xuất nào cũng bao gồm quá trình lao động và quá trình tự nhiên. Quá trình tự nhiên là quá trình người lao động không cần tác động vào đối tượng lao động. Sự chuyển hóa tự nhiên sẽ làm phần việc của mình trong quá trình sản xuất: Quá trình lên men trong công nghiệp hóa thực phẩm, quá trình thường hóa vật đúc, vật rèn trong công nghiệp cơ khí, quá trình đông cứng bê tông trong xây dựng Quá trình lao động là quá trình người lao động sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động. Đây là bộ phận lớn nhất của quá trình sản xuất. Quá trình này lại bao gồm 3 quá trình nhỏ: Quá trình công nghệ, quá trình vận chuyển và quá trình kiểm tra.Trong đó, quá trình công nghệ là quan trọng hơn cả và thường chiếm khoảng thời gian nhiều nhất trong cơ cấu thời gian của quá trình sản xuất nói chung. Quá trình công nghệ, bản thân nó lại được chia thành các giai đoạn công nghệ và mỗi giai đoạn công nghệ được chia thành các bước công việc (còn gọi là nguyên công) khác nhau. Ví dụ1: Trong cơ khí, quá trình công nghệ được chia thành 3 giai đoạn công nghệ là giai đoạn tạo phôi, giai đoạn gia công cắt gọt (còn gọi là gia công cơ khí) và giai đoạn lắp ráp. Ví dụ 2 : Để chế tạo một trục có bậc và có rãnh cần phải: lấy tâm; tiện; phay rãnh; mài; sửa nhẵn. Những công việc đó gọi là các bước công việc. Bước công việc là đơn vị cơ bản của quá trình sản xuất được thực hiện trên một nơi làm việc, do một hoặc một nhóm công nhân cùng tiến hành trên một đối tượng lao động nhất định. Khi xét bước công việc cần căn cứ vào cả 3 yếu tố: nơi làm việc, công nhân và đối tượng lao động. Nếu một trong 3 yếu tố đó thay đổi thì bước công việc thay đổi. Vì vậy: 26
- - Sản phẩm chuyển qua nơi làm việc khác là đã chuyển sang bước công việc khác. Thí dụ: Muốn tiện một bulon phải lần lượt tiện phá, tiên trơn, tiện răng. Nếu được tiến hành trên một máy tiện do một công nhân làm thì được coi là một bước công việc. Nếu làm trên hai hay ba nơi làm việc thì là hai hoặc ba bước công việc. - Trên cùng một đối tượng lao động, nếu thay đổi công nhân thì bước công việc cũng đã thay đổi. Thí dụ: Trong quá trình lắp máy tiện, công nhân thứ nhất lắp thân máy, công nhân thứ hai lắp ụ trước, như vậy là bước công việc đã thay đổi. - Trên một nơi làm việc, nếu đối tượng lao động thay đổi thì bước công việc cũng đã thay đổi. Thí dụ: Trên một máy phay, công nhân phay một bánh xe răng, sau đó điều chỉnh máy để phay một chi tiết khác. Bước công việc đã thay đổi. Phân chia bước công việc càng nhỏ, càng có ý nghĩa trong việc nâng cao trình độ chuyên môn hóa công nhân, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, sử dụng hợp lý máy móc thiết bị. Tuy nhiên, thời gian gián đoạn trong sản xuất lại tăng do phải dừng lại ở nhiều nơi làm việc và chuyển nhiều lần từ nơi làm việc này đến nơi làm việc khác. Nói chung, việc phân chia thành nhiều bước công việc nhỏ chỉ phù hợp với trình độ sản xuất thủ công và giai đoạn đầu của sản xuất cơ khí hóa. Cùng với việc phát triển các loại máy móc liên động và hệ thống tự động hóa, một xu hướng chung là gộp những bước công việc nhỏ thành những bước công việc lớn. 27
- II. Những nguyên tắc tổ chức quá trình công nghệ: 1. Những nguyên tắc: Tổ chức quá trình công nghệ phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: a. Tổ chức quá trình công nghệ trong doanh nghiệp theo hướng kết hợp chuyên môn hóa với kinh doanh tổng hợp. Chuyên môn hóa là hình thức phân công lao động xã hội nhằm làm cho doanh nghiệp nói chung, các bộ phận sản xuất và các nơi làm việc nói riêng có nhiệm vụ chỉ chế tạo một hoặc một số rất ít loại sản phẩm, bộ phận chi tiết của sản phẩm, hoặc chỉ tiến hành một hoặc một số rất ít bước công việc. Sản xuất chuyên môn hóa được coi là nhân tố quan trọng để: - Nâng cao loại hình sản xuất, tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm. - Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tiêu chuẩn hóa, thống nhất hóa. - Ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. - Tổ chức mua sắm vật tư, tổ chức lao động khoa học, tổ chức tiêu thu sản phẩm và công tác quản lý doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần căn cứ vào điều kiện cụ thể về công nghệ, thiết bị máy móc, nguyên vật liệu mà quyết định mức độ chuyên môn hóa thích hợp. Kinh doanh tổng hợp là hoạt động kinh tế bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau, từ sản xuất công nghiệp đến phi công nghiệp, từ sản xuất đến lưu thông phân phối và dịch vụ. Giữa các lĩnh vực này có thể có hoặc không có mối liên hệ với nhau. Phạm vi kinh doanh tổng hợp trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: khả năng về nguồn lực, năng lực quản lý khả năng sinh lợi của từng yếu tố trong mỗi lĩnh vực dự định kinh doanh. 28
- Chuyên môn hóa và kinh doanh tổng hợp là hai vấn đề khác nhau, kiềm chế lẫn nhau. Xét ở phạm vi toàn doanh nghiêp, nếu mở rộng kinh doanh tổng hợp thì chuyên môn hóa bị co hẹp lại. Điều đó không có nghĩa là không thể nâng cao trình độ chuyên môn hóa của từng bộ phận sản xuất, từng nơi làm việc trong doanh nghiệp. Chỉ có như vậy mới phù hợp với xu hướng hiện nay là mỗi doanh nghiệp vừa thực hiện chuyên môn hóa, vừa thực hiện đa dạng hóa sản phẩm và kinh doanh tổng hợp trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. b. Tổ chức quá trình công nghệ trong doanh nghiệp phải đảm bảo tính cân đối. Tính cân đối trong sản xuất của doanh nghiệp thể hiện ở một tỷ lệ thích hợp giữa công suất thiết bị, máy móc; khả năng lao động và số lượng, chất lượng nguyên vật liệu đưa vào chế biến. Đó là mối quan hệ tỷ lệ giữa ba yếu tố của quá trình sản xuất. Quan hệ tỷ lệ này rất động. Nếu một trong ba yếu tố đó thay đổi thì tất yếu phải xác định lại quan hệ tỷ lệ mới. Đó là quá trình phá vỡ thế cân đối cũ, xác lập thế cân đối mới nhằm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao hiệu quả của sản xuất. Tính cân đối trong sản xuất còn thể hiện ở mối quan hệ hợp lý giữa các bộ phận sản xuất chính, các bộ phận sản xuất phụ, các bộ phận sản xuất phù trợ và các bộ phận phục vụ sản xuất. Trong suốt quá trình sản xuất ,duy trì hợp lý mối quan hệ này là tiền đề để đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả cao của sản xuất. Đây chính là một trong những chỉ tiêu chủ yếu phản ánh mức độ hợp lý của công tác tổ chức quá trình công nghệ. c. Tổ chức quá trình công nghệ phải đảm bảo tính nhịp nhàng Sản xuất được coi là nhịp nhàng khi số lượng sản phẩm sản xuất ra trong những khoảng thời gian như nhau (giờ, ca, ngày đêm ) phải bằng nhau. Nói cách khác sự nhịp nhàng của sản xuất thể hiện sự lặp lại của quá trình sản xuất 29
- trong khoảng thời gian như cũ ở mỗi nơi làm việc, mỗi ngành, mỗi phân xưởng và toàn doanh nghiệp với số lượng sản phẩm bằng nhau. Sự nhịp nhàng của sản xuất chịu sự tác động của nhiều nhân tố: công tác chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất; kế hoạch hóa sản xuất; bảo dưỡng và sửa chữa máy móc, thiết bị; cung ứng vật tư kỹ thuật; bố trí ca làm việc; trình độ thao tác của công nhân Phối, kết hợp các nhân tố này tốt sẽ đảm bảo cao yêu cầu về tính nhịp nhàng của việc tổ chức quá trình công nghệ. d. Tổ chức quá trình công nghệ phải đảm bảo sản xuất liên tục. Sản xuất được coi là liên tục khi bước công việc sau được thực hiện ngay, sau khi bước công việc trước kết thúc, không có bất kỳ sự gián đoạn nào về thời gian trong quá trình khai thác và chế tạo sản phẩm. Sản xuất liên tục thể hiện ở trình độ liên tục trong quá trình vận động của đối tượng lao động từ nơi làm việc này đến nơi làm việc khác, từ khi còn là nguyên liệu đến khi trở thành sản phẩm. Để đảm bảo sản xuất liên tục, cần áp dụng các biện pháp sau đây: - Đối với nguyên vật liệu, cần đảm bảo cung ứng liên tục hoặc theo đúng thời hạn quy định cho nơi làm việc. - Đối với tư liệu lao động, phải xây dựng kế hoạch cụ thể về sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị. - Đối với lực lương lao động, phải xây dựng kế hoạch tận dụng toàn bộ thời gian lao động, bố trí hợp lý ca làm việc, tổ chức tốt việc đứng nhiều máy. Do kỹ thuật ngày càng phát triển, tính liên tục của sản xuất ngày càng có khuynh hướng tăng lên. Tuy nhiên, không nên coi nhẹ các biện pháp tổ chức để nâng cao tính liên tục của sản xuất như: sắp xếp, bố trí các phân xưởng, các bộ phận sản xuất một cách hợp lý; tổ chức vận chuyển đối tượng lao động nhanh chóng; tiến hành song song các giai đoạn của quá trình sản xuất; cải tiến tổ chức lao động và phục vụ sản xuất nhằm khắc phục tình trạng việc chờ người hoặc người chờ việc 30
- 2. Những chỉ tiêu đánh giá trình độ tổ chức quá trình công nghệ trong doanh nghiệp. Để phân tích, đánh giá trình độ tổ chức quá trình công nhệ trong doanh nghiệp, thường dùng các chỉ tiêu sau đây: a. Hệ số thời gian hoạt động của quá trình sản xuất (Ht). Hệ số này được tính bằng công thức: Tl Tt Ht (1) C Trong đó: - Ht: Hệ số thời gian hoạt động của quá trình sản xuất - Tl: Thời gian lao động (h) - Tt: Thời gian tự nhiên (h) - C: Độ dài của chu kỳ sản xuất (h) Hệ số này càng gần đến 1 càng thể hiện tính liên tục cao của sản xuất. b. Hệ số sản xuất đồng bộ (Hđb): Tltp Gtp Hđb = (2) Hoặc (3) Tl Gtsl Trong đó: - Hđb: Hệ số sản xuất đồng bộ - Tltp: Thời gian lao động để chế tạo tổng số thành phẩm trong kỳ - Tl: Thời gian lao động trong kỳ - Gtp: Giá trị các thành phẩm được chế tạo trong kỳ - Gtsl: Giá trị tổng sản lượng Hệ số này càng tiến đến 1 càng chứng tỏ sản xuất của doanh nghiệp diễn ra cân đối, đồng bộ. 31
- III. Tổ chức quá trình công nghệ: Tổ chức quá trình công nghệ gồm hai nội dung chủ yếu: tổ chức quá trình công nghệ về không gian và về thời gian. Về không gian, nội dung của tổ chức quá trình công nghệ bao gồm việc lựa chọn hình thức tổ chức quá trình công nghệ bảo đảm sự cân đối giữa các bộ phận sản suất và bố trí mặt bằng của doanh nghiệp. Về thời gian, nội dung của tổ chức quá trình công nghệ bao gồm việc tính toán, quy định độ dài của chu kỳ sản xuất và lựa chọn phương thức phối hợp các bước công việc. A. Tổ chức quá trình công nghệ về không gian: 1. Lựa chọn đúng đắn nguyên tắc xây dựng phân xưởng và bộ phận sản xuất. Các phân xưởng và các bộ phận sản xuất thường được xây dựng theo các nguyên tắc: công nghệ; đối tượng; hỗn hợp. Mỗi nguyên tắc có ưu, nhược và phạm vi áp dụng riêng. Tùy hoàn cảnh và điều kiện của doanh nghiệp, lựa chọn một nguyên tắc phù hợp cho doanh nghiệp có ý nghĩa tốt cho việc phát huy hiệu quả sản xuất. a. Xây dựng phân xưởng và bộ phận sản xuất theo nguyên tắc công nghệ: Theo nguyên tắc này: - Mỗi phân xưởng hay bộ phận sản xuất chỉ thực hiện một loại công nghệ nhất định. - Ở đây, người ta bố trí máy móc cùng loại. - Tên của phân xưởng hay bộ phận sản xuất được gọi theo tên của máy móc, thiết bị hoặc phương pháp công nghệ. Nguyên tắc này được minh họa bằng hình 4 sau đây: 32
- Thí dụ trong phân xưởng gia công cơ khí. Theo nguyên tắc công nghệ, trong mỗi bộ phận sản xuất chỉ tiến hành một loại công nghệ, chỉ bố trí máy móc cùng loại. Vì vậy, việc quản lý chuyên môn chắc chắn sẽ có nhiều thuận lợi: người đứng đầu từng bộ phận sẽ là người giỏi nhất về chuyên môn của bộ phận đó và vì chỉ có một chuyên môn nên dễ quản lý hơn. Tuy nhiên, sơ đồ của nguyên tắc tổ chức này cũng cho thấy đường đi của sản phẩm khá phức tạp, đôi khi đan chéo nhau. Khi sản xuất nhiều loại sản phẩm trong cùng một thời điểm (mà trong sản xuất lại thường như thế) thì đường đi của các chế phẩm trong các bộ phận sản xuất đó sẽ rất phức tạp. Do vậy, phải sử dụng nhiều phường tiện vận chuyển, nhiều kho trung gian, gây tốn nhiều diện tích sản xuất. N G U Y Ê N T Ắ C C Ô N G N G H Ệ (S ơ đồ) T iện T iện T iện T iện N gành tiện P hay P hay P hay P hay N gành phay B ào B ào B ào B ào N gành bào M ài M ài M ài M ài N gành m ài Lò tôi Lò tôi Lò tôi Đ ư ờ ng đi của chế phẩm 11 Hình 6: Nguyên tắc công nghệ trong xây dựng phân xưởng và các bộ phận sản xuất Những ưu, nhược điểm như thế khiến nguyên tắc này thường được áp dụng trong các loại hình sản xuất đơn chiếc hoặc hàng loạt nhỏ (nhiệm vụ sản xuất không nhiều, không ổn định, thường xuyên thay đổi). 33
- b. Xây dựng phân xưởng và bộ phận sản xuất theo nguyên tắc đối tượng: Theo nguyên tắc này, mỗi phân xưởng hay bộ phận sản xuất : - Chỉ chế tạo một loại sản phẩm hay một loại chi tiết nhất định. - Quá trình chế biến, từ khi đưa nguyên vật liệu vào cho đến khi ra sản phẩm đều ở trong phân xưởng hay bộ phận sản xuất đó. - Trong mỗi phân xưởng, bộ phận sản xuất phải được trang bị nhiều loại thiết bị, máy móc khác nhau và được bố trí theo trình tự chế biến sản phẩm (theo quy trình công nghệ). - Tên của phân xưởng hay bộ phận sản xuất được gọi theo tên của sản phẩm mà nó chế tạo. Nguyên tắc đối tượng được minh họa bằng hình 7 sau đây: N G U Y Ê N T Ắ C Đ Ố I T Ư Ợ N G ( S ơ đ ồ ) N g à n h tr ụ c T iệ n T iệ n P h a y K h o a n N h iệ t M à i lu y ệ n T iệ n P h a y X ọ c X ọ c N h iệ t M à i lu y ệ n N g à n h b á n h x e r ă n g 1 4 Hình 7: Nguyên tắc đối tượng trong xây dựng phân xưởng và các bộ phận sản xuất Tổ chức sản xuất theo nguyên tắc đối tượng có nhiều ưu điểm so với nguyên tắc công nghệ: mỗi loại sản phẩm hay chi tiết được chế biến gọn trong môt phân xưởng hay một bộ phận sản xuất; đương đi của sản phẩm ngắn, sử dụng ít phương tiện vận chuyển, ít kho tàng, ít diện tích sản xuất. Khi đó, chu kỳ 34
- sản xuất ngắn, vốn lưu động luân chuyển nhanh, công tác kế hoạch và điều độ sản xuất thuận lợi. Có nhiều ưu điểm như vậy nhưng không phải bao giờ cũng áp dụng được. Nguyên tắc đối tượng chỉ phù hợp khi nhiệm vụ của doanh nghiệp ổn định, sản lượng của mỗi loại sản phẩm hay chi tiết lớn. Nếu nhiệm vụ của doanh nghiệp thường xuyên thay đổi, sản lượng sản phẩm hay chi tiết không lớn thì nguyên tắc công nghệ lại tỏ ra hợp lý hơn. Tận dụng ưu và hạn chế nhược điểm của cả hai nguyên tắc trên, có thể áp dụng nguyên tắc hỗn hợp để tổ chức các phân xưởng và các bộ phận sản xuất. c. Xây dựng phân xưởng và các bộ phận sản xuất theo nguyên tắc hỗn hợp: Theo nguyên tắc này, trong một doanh nghiệp, một phân xưởng hay bộ phận sản xuất vừa được xây dựng theo nguyên tắc công nghệ, vừa được xây dựng theo nguyên tắc đối tượng. Thí dụ: Trong doanh nghiệp chế tạo máy công cụ có các phân xưởng đúc, rèn, nhiệt luyện (được xây dựng theo nguyên tắc công nghệ) và trong phân xưởng cơ khí, lắp ráp, mỗi phân xưởng có nhiệm vụ sản xuất hoặc lắp ráp một loại sản phẩm (được xây dựng theo nguyên tắc đối tượng) Nguyên tắc hỗn hợp được minh họa bằng hình 8 sau đây: N G U Y Ê N T Ắ C H Ỗ N H Ợ P ( S ơ đ ồ ) N g à n h t r ụ c T iệ n T iệ n P h a y K h o a n M à i N g à n h b á n h x e r ă n g T iệ n P h a y X ọ c X ọ c M à i N h iệ t lu y ệ n N g à n h n h iệ t lu y ệ n 1 7 Hình 8: Nguyên tắc hỗn hợp trong xây dựng phân xưởng và bộ phận sản xuất 35
- Nhìn chung, nguyên tắc hỗn hợp vẫn áp dụng về cơ bản nguyên tắc đối tượng. Riêng những thiết bị có công suất lớn hơn nhiều so với máy móc, thiết bị đứng trước hoặc sau nó thì thường được tách riêng (nguyên tắc công nghệ) để không lãng phí công suất của những máy móc, thiết bị đó. 2. Bảo đảm sự cân đối giữa sản xuất chính, sản xuất phù trợ và phục vụ sản xuất. Bảo đảm sự cân đối giữa các phân xưởng sản xuất chính với các bộ phận sản xuất phù trợ và phục vụ sản xuất làm cho sản xuất của doanh nghiệp diễn ra bình thường với hiệu quả cao. Một doanh nghiệp muốn sản xuất được sản phẩm, chủ yếu là dựa vào các phân xưởng sản xuất chính. Nhưng như thế không có nghĩa là có thể coi thường các phân xưởng sản xuất phù trợ và phục vụ sản xuất khác. Các phân xưởng này, nếu được tổ chức tốt sẽ đảm bảo cho phân xưởng sản xuất chính hoạt động liên tục và thuận lợi. Sự cân đối giữa các phân xưởng sản xuất chính và các phân xưởng, bộ phận sản xuất phù trợ, phục vụ sản xuất là một tỷ lệ rất động. Nó phụ thuộc vào trình độ trang bị kỹ thuật của các phân xưởng và các bộ phận đó. Trong điều kiện trình độ cơ giới hóa và chuyên môn hóa của các bộ phận sản xuất phù trợ và phục vụ còn thấp, thì các bộ phận này còn phải chiếm một tỷ trọng lớn (trong tổng số công nhân viên và trong tổng số diện tích mặt bằng sản xuất), và ngược lại. Cho nên, khi xây dựng một doanh nghiệp mới hay mở rộng, cải tạo một doanh nghiệp đang hoạt động, cần xét đến các vấn đề sau đây: - Cần có những bộ phận sản xuất phù trợ và phuc vụ sản xuất nào? - Khối lượng sản xuất của những bộ phận đó chiếm tỷ trọng bao nhiêu? - Các bộ phận sản xuất phù trợ và phục vụ sẽ được cơ giới hóa, tự động hóa ở trình độ nào? 36
- - Diện tích chiếm chỗ của các bộ phận sản xuất phù trợ và phục vụ sẽ là bao nhiêu? - Có cần thiết phải xây dựng các bộ phận sản xuất phù trợ và phục vụ trong doanh nghiệp không, hay có thể hiệp tác với doanh nghiệp khác? Các doanh nghiệp hiện đại rất coi trọng việc nâng cao năng lực của các bộ phận sản xuất phù trợ và phục vụ. Chỉ có trên cơ sở đó mới đẩy mạnh được sản xuất chính. Mỗi doanh nghiệp cần coi trọng những vấn đề sau trong quá trình đảm bảo sự cân đối giữa sản xuất chính sản xuất phù trợ và phụ vụ sản xuất để đạt hiệu quả cao: - Xu hướng chung là tăng tỷ trọng của sản xuất chính về mặt năng lực sản xuất so với toàn bộ năng lực sản xuất của doanh nghiệp. - Nâng cao trình độ cơ giới hóa của sản xuất phù trợ và phụ vụ sản xuất. Nhờ đó có tác động tích cực đến năng suất, hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị và nâng cao chất lượng sản phẩm của sản xuất chính. - Trong tình hình có sự thay đổi cơ cấu mặt hàng thì phải hết sức coi trọng việc cải tiến, hoàn thiện các nguyên tắc xây dựng các bộ phận sản xuất. 3. Coi trọng việc bố trí mặt bằng của doanh nghiệp. Việc sắp xếp, bố trí các phân xường và các bộ phận sản xuất phải thích ứng với yêu cầu của quá trình sản xuất, bảo đảm tính liên tục và làm cho các bộ phận sản xuất có liên quan với nhau được bố trí tuần tự theo trình tự công nghệ. Thường thì các phân xưởng, bộ phận sản xuất phù trợ và phục vụ được bố trí ngay cạnh các bộ phận sản xuất chính mà nó phục vụ. Tuy vậy, các bộ phận cần có khoảng cách thích đáng để tiện lợi cho sản xuất. Khoảng cách đó càng ngắn càng tốt. Đồng thời phải chú ý đến phòng, chữa 37
- cháy, ngăn bụi, ngăn tiếng ồn, và hơi độc lan ra từ phân xưởng này sang phân xưởng khác. Cũng cần chú ý đến các vấn đề khác như: thoát nước, vệ sinh môi trường, hướng gió, vị trí trong mạng lười giao thông của khu vực và toàn quốc. Chú ý đến việc bố trí nơi ăn, nghỉ của công nhân viên, bố trí các công trình phúc lợi, văn hóa B. Tổ chức quá trình công nghệ về thời gian. 1. Chu kỳ sản xuất: Chu kỳ sản xuất là khoảng thời gian kể từ lúc đưa nguyên liệu vào sản xuất đến khi chế tạo xong, kiểm tra và nhập kho thành phẩm. Chu kỳ sản xuất có thể được xác định cho từng chi tiết, từng bộ phận hoặc cho một sản phẩm hoàn chỉnh. Nói chung, chu kỳ sản xuất được tính theo thời gian theo lịch, kể cả những ngày doanh nghiệp làm việc theo chế độ và những ngày nghỉ theo quy định. Chu kỳ sản xuất được coi là chỉ tiêu để đánh giá trình độ tổ chức và trình độ kỹ thuật của doanh nghiệp. Chu kỳ sản xuất bao gồm các loại thời gian sau đây: - Thời gian hoàn thành các bước công việc theo quá trình công nghệ. - Thời gian kiểm tra kỹ thuật. - Thời gian vận chuyển. - Thời gian gián đoạn do sản phẩm dở dang ngừng vận động, dừng lại tại các nơi làm việc, tại kho trung gian, trong những ngày và ca không làm việc. 38
- - Thời gian quá trình tự nhiên tác động vào đối tượng lao động. Có thể biểu thị chu kỳ sản xuất bằng công thức: Tck Tcn Ttn Tvc Tkt Tdc Tdk Trong đó: Tck: Thời gian chu kỳ sản xuất (ngày đêm hoặc giờ) Tcn: Tổng số thời gian của quá trình công nghệ Ttn: Tổng số thời gian của quá trình tự nhiên Tvc: Tổng số thời gian của quá trình vận chuyển Tkt: Tổng số thời gian kiểm tra kỹ thuật Tdc: Tổng số thời gian dừng trong ca và các ca không làm việc Tdk: Tổng số thời gian dừng trong các kho bán thành phẩm Chu kỳ sản xuất được tính bằng thời gian theo lịch. Tuy nhiên, việc phân chia ra các loại thời gian như trên có ý nghĩa quan trọng cho việc tìm giải pháp rút ngắn chu kỳ sản xuất. Nó trả lời câu hỏi: Muốn rút ngắn chu kỳ sản xuất thì cần tác động vào những giai đoạn nào và bằng những biện pháp cụ thể nào? Giảm độ dài của chu kỳ sản xuất là mục tiêu phấn đấu của công tác tổ chức quá trình sản xuất. Nó ảnh hưởng đến khối lượng sản phẩm dở dang, đến việc lợi dụng năng suất máy móc, thiết bị và diện tích sản xuất, đến tình hình luân chuyển vốn lưu động, đến việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất Rút ngắn chu kỳ sản xuất có thể được thực hiện theo hai phương hướng hoăc hai nhóm biện pháp sau đây: Một là cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện quy trình công nghệ hay phương pháp công nghệ, áp dụng kỹ thuật tiên tiến nhằm giảm thời gian quá trình công nghệ và thay thế quá trình tự nhiên bằng quá trình nhân tạo có thời gian ngắn 39
- hơn. Việc giảm thời gian quá trình công nghệ còn được thực hiện bằng nhiều cách như: thực hiện chuyên môn hóa các bộ phận sản xuất và các nơi làm việc; tăng cường công tác tiêu chuẩn hóa và trang bị máy móc có năng suất cao, áp dụng công nghệ hiện đại và phương pháp tổ chức sản xuất tiên tiến. Hai là nâng cao trình độ tổ chức sản xuất, hạn chế và xóa bỏ thời gian gián đoạn, tăng cường công tác kiểm tra, tiến hành sửa chữa thiết bị, máy móc trong những ca không sản xuất, tăng cường công tác điều độ sản xuất nhằm xóa bỏ thời gian ngừng việc do thiếu nguyên vật liệu hoặc do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận sản xuất. Sự trình bày trên đây cho phép rút ra: Thời gian công nghệ là quan trọng nhất trong tổng thời gian chu kỳ sản xuất. Vì vậy, rút ngắn thời gian công nghệ có ý nghĩa quan trọng trong việc rút ngắn thời gian chu kỳ sản xuất. Biện pháp đặc biệt quan trọng nhằm rút ngắn thời gian công nghệ là lựa chọn hợp lý phương thức phối hợp các bước công việc. 2. Những phương thức phối hợp các bước công việc Chu kỳ sản xuất dài hay ngắn tùy thuộc vào việc: trong quá trình công nghệ, một loại sản phẩm được đồng thời chế biến trên tất cả các nơi làm việc hay chế biến xong cả loạt ở nơi làm việc này rồi mới chuyển sang nơi làm việc khác. Các phương thức phối hợp các bước công việc tương ứng với các hình thức vận động của đối tượng lao động trong quá trình sản xuất. Thực tế, các doanh nghiệp thường phối hợp các bước công việc theo các phương thức tuần tự, song song và hỗn hợp. a. Phối hợp các bước công việc theo phương thức tuần tự. Theo phương thức này, từng chi tiết trong mỗi đợt chế biến chờ cho toàn bộ chi tiết của đợt được chế biến xong ở bước công việc trước rồi mới chuyển toàn bộ sang bước công việc sau. Như vậy, các bước công việc được tiến hành một cách tuần tự, kế tiếp nhau. Có thể tính thời gian quá trình công nghệ theo phương thức tuần tự bằng công thức sau: 40
- Tcntt Tct n (4) Trong đó: Tcntt: Thời gian quá trình công nghệ theo phương thức tuần tự Tct : Tổng thời gian các bước công việc của một chi tiết n : Số lượng chi tiết chế biến trong mỗi đợt Ví dụ: Có một chi tiết được chế tạo qua 5 bước công việc với thời gian của từng bước công việc như bảng sau: Bước cv I Bước cv II Bước cv III Bước cv IV Bước cv V 7 phút 4 phút 8 phút 5 phút 6 phút Với số liệu trên, nếu mỗi đợt chế biến 4 chi tiết (n=4), phương thức tuần tự được minh họa qua biểu đồ sau đây: Phối hợp các bước công việc theo phương thức tuần tự (sơ đồ) BCV T Phối hợp tuần tự (n = 4) I 7 II 4 III 8 IV 5 V 6 Tcntt =120’ Tct 30' 23 Hình 9: Phối hợp các bước công việc theo phương thức tuần tự 41
- Áp dung công thức, tính được thời gian quá trình công nghệ theo phương thức tuần tự như sau: Tcntt = 30’ x 4 = 120’ Phương thức tuần tự thường được áp dụng ở những bộ phận sản xuất được phân công chế biến nhiều loại sản phẩm có quá trình công nghệ khác nhau. Nó được sử dụng rộng rãi trong loại hình sản xuất đơn chiếc và hàng loạt nhỏ. Trong loại hình sản xuất khối lượng lớn và hàng loạt cũng sử dụng phương thức này, khi công suất của một máy nào đó lớn hơn công suất của các máy sau nó mà do các điều kiện kỹ thuật và tổ chức, không thể bố trí thêm máy được. b. Phối hợp các bước công việc theo phương thức song song. Theo phương thức này, mỗi chi tiết, sau khi được chế biến ở bước công việc này, được chuyển ngay sang bước công việc sau, không chờ các chi tiết khác trong cùng loạt. Như vậy, việc sản xuất sản phẩm được thực hiện đồng thời trên tất cả các nơi làm việc. Nói cách khác, trong cùng một thời điểm, loạt sản phẩm được chế biến trên tất cả các nơi làm việc. Thời gian quá trình công nghệ theo phương thức song song được tính theo công thức sau: Tcnss Tct (n 1)Tdn (5) Trong đó: Tcnss: Thời gian quá trình công nghệ theo phương thức song song Tdn: Thời gian của bước công việc dài nhất Cũng ví dụ trên, phương thức song song được minh họa bằng sơ đồ sau: 42
- Phối hợp các bước công việc theo phương thức song song (sơ đồ) BCV T Phối hợp song song (n = 4) I 7 II 4 III 8 IV 5 V 6 Tct 30' Tcnss = 54' 26 Hình 10: Phối hợp các bước công việc theo phương thức song song Áp dụng công thức, tính được: Tcnss = 30’ + (4 – 1) x 8 = 54’ Phương thức song song có thời gian quá trình công nghệ ngắn, thích hợp với loại hình sản xuất khối lượng lớn và hàng loạt lớn. Đặc biệt, trong trường hợp thời gian các bước công việc bằng nhau thì phương thức này có hiệu quả rất lớn. Trong trường hợp thời gian các bước công việc không bằng nhau, nhất là có chênh lệch đáng kể thì phương thức này bộc lộ nhược điểm: có những khoảng thời gian phải ngừng sản xuất để chờ chi tiết được chuyển từ bước công việc trước xuống (xem trong sơ đồ hình 8). 43
- Áp dụng phương thức này, máy móc, thiết bị phải được bố trí theo nguyên tắc đối tượng. c. Phối hợp các bước công việc theo phương thức hỗn hợp. Phương thức hỗn hợp còn được gọi là phương thức song song-tuần tự vì nó kết hợp cả hai phương thức nêu trên. Theo phương thức này, khi chuyển đối tượng lao động từ bước công việc trước sang bước công việc sau, nếu: - Thời gian của bước công việc trước ngắn hơn hoặc bằng thời gian của bước công việc sau thì chuyển từng chi tiết một (theo phương thức song song). - Thời gian của bước công việc trước dài hơn thời gian của bước công việc sau thì chuyển từng đợt chi tiết trong số n chi tiết của loạt chế biến. Số lượng của đợt chi tiết chuyển được tính bằng công thức: n Tbcvt (n 1) Tbcvs Lctc (6) Tbcvt Trong đó: Lctc: Lượng chi tiết chuyển từng đợt (lấy chẵn) n: Số lượng chi tiết trong loạt chế biến (ví dụ trên, n = 4) Tbcvt: Thời gian của bước công việc trước (ví dụ trên, bcv thứ ba là 8) Tbcvs: Thời gian của bước công việc sau (ví dụ trên, bcv thứ tư là 5) Bằng công thức trên, có thể tính lượng chi tiết chuyển theo đợt từ bước công việc thứ ba sang bước công việc thứ tư (từ bước công việc có thời gian chế biến dài hơn sang bước công việc có thời gian ngắn hơn) là: 4 8 (4 1) 5 Lctc 8 = 2 chi tiết lẻ 1’ 44
- Tử số của công thức trên chỉ ra thời điểm bắt đầu của bước công việc sau so với thời điểm bắt đầu của bước công việc trước (trong ví dụ trên, bước công việc thứ tư bắt đầu sau bước công việc thứ ba 17’). Cách bố trí này khiến cho công nhân không phải vừa làm vừa nghỉ chờ việc. Những thời gian nghỉ như vậy nếu theo phương thức song song, bây giờ được dồn về một mảng (17’) và có thể giao nhiệm vụ khác cho công nhân trong khoảng thời gian đó. Xác định thời điểm bắt đầu của bước công việc sau như thế sẽ luôn đảm bảo: khi bước công việc sau vừa kết thúc chi tiết thứ n-1 thì bước công việc trước cũng vừa kết thúc chi tiết thứ n để bước công việc sau tiếp tục chế biến. Không có hiện tượng người chờ việc hoặc việc chờ người. Thời gian quá trình công nghệ theo phương thức hỗn hợp được tính theo công thức sau: Tcnhh Tct (n 1)(Tdh Tnh) (7) Trong đó: Tcnhh: Thời gian quá trình công nghệ theo phương thức hỗn hợp Tdh :Tổng thời gian của các bước công việc có thời gian chế biến dài hơn Tnh :Tổng thời gian của các bước công việc có thời gian chế biến ngắn hơn Chú ý: - Gọi là bước công việc có thời gian chế biến dài hơn khi nó nằm giữa hai bước công việc có thời gian chế biến ngắn hơn nó. - Gọi là bước công việc có thời gian chế biến ngắn hơn khi nó nằm giữa hai bước công việc có thời gian chế biến dài hơn nó 45
- - Nếu có một bước công việc nào đó nằm giữa một bước công việc có thời gian chế biến dài hơn và một bước công việc khác có thời gian chế biến ngắn hơn thì khi tính theo công thức trên không tính đến nó (bỏ đi). - Trước bước công việc đầu tiên và sau bước công việc cuối cùng là hai bước công việc giả định với thời gian chế biến bằng không (=0). Theo ví dụ trên, có: 0’ 4’ 5’ 0’ Các bước công việc I, III, V là các bước công việc có thời gian chế biến dài hơn. Các bước công việc II, IV là các bước công việc có thời gian chế biến ngắn hơn. Với số liệu của ví dụ trong hai phương thức trên, phối hợp các bước công việc theo phương thức hỗn hợp được minh họa bởi sơ đồ sau: P h ố i h ợ p cá c b ư ớ c c ô n g v iệ c theo phương th ứ c h ỗ n h ợ p (sơ đ ồ ) BCV T P h ố i h ợ p h ỗ n h ợ p ( n = 4 ) I 7 II 4 III 8 IV 5 V 6 Tct 30' T c n h h = 6 6 ’ 2 9 Hình 11: Phối hợp các bước công việc theo phương thức hỗn hợp 46
- Theo công thức, có thể tính được: Tcnhh = 30’ + (4 – 1)(7+8+6 – 4 – 5) = 66’ Tóm lại, ba phương thức phối hợp các bước công việc có những ưu, nhược và phạm vi áp dụng khác nhau. Chúng cũng cho những kết quả khác nhau: Tcnss < Tcnhh < Tcntt 54’ 66’ 120’ Các con số trên cho thấy: - Chỉ bằng biện pháp tổ chức, không cần đầu tư, có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất một cách đáng kể. - Khi thời gian các bước công việc không bằng nhau, phương thức song song tuy có thời gian chu kỳ sản xuất ngắn nhất nhưng không phù hợp với yêu cầu của tổ chức lao động có khoa học (Không thể để công nhân luôn luôn có những thời gian vừa làm vừa nghỉ chờ việc). Vấn đề là: khi tổ chức quá trình công nghệ phải biết lựa chọn phương thức phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định, người ta có thể tạo ra những điều kiện để có thể áp dụng phương thức có lợi nhất. Các kỹ sư công nghệ có thể điều chỉnh thời gian các bước công việc bằng cách chuyển các tiểu tác của bước công việc này cho bước công việc khác để chúng bằng nhau hoặc có quan hệ bội số với nhau. Khi đó, có thể áp dụng phương thức phối hợp các bước công việc theo phương thức song song và tổ chức sản xuất theo phương pháp dây chuyền. Để làm được điều này, nghiên cứu loại hình sản xuất và các phương pháp tổ chức sản xuất có tác dụng khá lớn. 47
- IV. Loại hình sản xuất và các phương pháp tổ chức quá trình sản xuất. A. Loại hình sản xuất 1.Khái niệm: Loại hình sản xuất là dấu hiệu biểu thị trình độ chuyên môn hóa của nơi làm việc. Loại hình sản xuất, theo định nghĩa trên, là một đơn vị đo lường. Nếu các đơn vị đo chiều dài là dấu hiệu biểu thị độ dài của một vật; các đơn vị đo nhiệt độ là dấu hiệu biểu thị độ nóng, lạnh của một vật; các đơn vị đo trọng lượng là dấu hiệu biểu thị lực hút của trái đất đặt vào một vật thì loại hình sản xuất là dấu hiệu biểu thị trình độ chuyên môn hóa của nơi làm việc. Nó đo trình độ chuyên môn hóa của nơi làm việc. Loại hình sản xuất được xác định cho từng nơi làm việc. Vì vậy, trong doanh nghiệp có thể có nhiều loại hình sản xuất khác nhau (trong doanh nghiệp có nhiều nơi làm việc khác nhau). Cũng có thể gọi một doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất nào đó khi loại hình sản xuất đó chiếm tỷ lệ lớn trong doanh nghiệp. Để đo lường được, các đơn vị đo lường đều được chia nhỏ thành các đợn vị nhỏ hơn (1m chia thành 100cm, phần cơ bản của nhiệt kế chia ra 100 đoạn, mỗi đoạn là 1 độ C ). Thước đo trình độ chuyên môn hóa của nơi làm việc (loại hình sản xuất) cũng vậy và được chia thành 3 mức: - Mức cao nhất (nơi làm việc có trình độ chuyên môn hóa cao nhất được áp vào mức đo này) được gọi là loại hình sản xuất khối lượng lớn. Các nơi làm việc thuộc loại hình sản xuất khối lượng lớn chỉ chế biến một loại chi tiết, hoặc chỉ tiến hành một bước công việc nhất định. 48
- - Mức trung bình được gọi là loại hình sản xuất hàng loạt. Những nơi làm việc thuộc loại hình này được phân công chế biến một số loại chi tiết khác nhau. Các chi tiết khác nhau được thay nhau chế biến lần lượt theo định kỳ. Căn cứ vào số lượng của mỗi loại chi tiết, mức này lại được chia ra ba (3) mức khác: Loại hình sản xuất hàng loạt lớn, hàng loạt vừa và hàng loạt nhỏ. - Mức thấp nhất được gọi là loại hình sản xuất đơn chiếc. Nơi làm việc thuộc loại hình này chế biến nhiều loại chi tiết khác nhau hoặc tiến hành nhiều bước công việc khác nhau. Mỗi loại chi tiết được chế biến theo số lượng rất ít, thậm chí chỉ một chiếc. 2. Những đặc điểm chủ yếu của các loại hình sản xuất + Ở loại hình sản xuất khối lượng lớn, nơi làm việc có trình độ chuyên môn hóa rất cao. Đây là loại hình sản xuất tiên tiến, có nhiều ưu điểm. Với loại hình này có thể: - Quy định tỷ mỷ quy trình công nghệ, xác định trình tự các bước công việc một cách hợp lý, chính xác. Sử dụng máy móc, dụng cụ, thiết bị chuyên dùng; các nơi làm việc được sắp xếp theo nguyên tắc đối tượng; cơ giới hóa vận chuyển nội bộ. Vì vậy, giảm bớt thời gian phụ, rút ngắn đường đi của đối tượng lao động. - Chuyên môn hóa công nhân, tạo điều kiện nâng cao trình độ thành thạo của công nhân một cách nhanh chóng, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu. - Công tác kế hoạch hóa có nhiều thuận lợi. + Trong loại hình sản xuất hàng loạt, sản xuất diễn ra liên tục khi đang chế biến một loại chi tiết nào đó. Và sản xuất sẽ gián đoạn để điều chỉnh máy móc, thay đổi dụng cụ khi chuyển sang loại chế phẩm khác. Thường thì thời gian gián đoạn này chiếm tỷ lệ đáng kể trong toàn bộ thời gian sản xuất. 49
- + Loại hình sản xuất đơn chiếc đòi hỏi nơi làm việc có tính vạn năng, thời gian gián đoạn trong sản xuất rất lớn. Với loại hình này, thường sử dụng thiết bị máy móc vạn năng, công nhân thạo một nghề, biết nhiều nghề. Loại hình sản xuất đơn chiếc thường có năng suất lao động thấp. Nhưng nó vẫn tồn tại ngay cả khi công tác tổ chức quá trình sản xuất đã đạt đến trình độ cao. Bởi lẽ nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng mà sản xuất luôn luôn phải đáp ứng. Chẳng hạn: Việc sản xuất và lắp ráp xe hơi ở nhiều quốc gia được tổ chức rất tiên tiến, hiện đại. Ở đó, các nơi làm việc thường có loại hình sản xuất khối lượng lớn hoặc hàng loạt lớn. Nhưng do nhu cầu tiêu dùng đa dạng, nhiều người đặt hàng 1 chiếc cho cá nhân với những tính năng riêng biệt. Khi đó chỉ có thể tổ chức sản xuất đơn chiếc và các nơi làm việc sẽ thuộc loại hình sản xuất đơn chiếc. Hình 12 mô phỏng việc phân chia các loại hình sản xuất. LO Ạ I H ÌN H S Ả N X U Ấ T L o ạ i h ìn h s ả n xu ấ t k h ố i lư ợ n g lớ n C á c H à n g lo ạ t lớ n lo ạ i L o ạ i h ìn h h ìn h s ả n xu ấ t H à n g lo ạ t vừ a s ả n h à n g lo ạ t xu ấ t H à n g lo ạ t n h ỏ L o ạ i h ìn h s ả n xu ấ t đ ơ n c h iế c 3 5 Hình 12: Các loại hình sản xuất 50
- \Trong thực tế, người ta thường dùng “hệ số loạt” để phân biệt các loại hình sản xuất khác nhau. Hệ số loạt là số loạt sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm đi qua và được nơi làm việc nào đó chế biến. Hệ số loạt của nơi làm việc nào đó bằng 1 thì chắc chắn nơi làm việc đó thuộc loại hình sản xuất khối lượng lớn. Nơi làm việc có hệ số loạt lớn (theo quan niệm hiện nay, từ 40 trở lên) sẽ thuộc loại hình sản xuất đơn chiếc. Các hệ số trung gian (từ 1 đến 40) là thuộc các loại hình sản xuất hàng loạt lớn, vừa và nhỏ. Nhìn chung, nơi làm việc có hệ số loạt là bao nhiêu sẽ thuộc loại hình sản xuất nào là vấn đề rất động, không cố định. Duy nhất chắc chắn là nơi làm việc có hệ số loạt bằng 1 thuộc loại hình sản xuất khối lượng lớn. Còn hệ số loạt của các loại hình khác hoàn toàn có thể biến động theo nhiều yếu tố, tùy từng giai đoạn phát triển công nghệ và kỹ thuật mà nền kinh tế đạt được. 3. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến loại hình sản xuất. Có ba yếu tố ảnh hưởng đến loại hình sản xuất: a. Trình độ chuyên môn hóa và hiệp tác hóa của doanh nghiệp: Nếu trình độ chuyên môn hóa của doanh nghiệp cao, trình độ hiệp tác hóa rộng thì số loại sản phẩm doanh nghiệp cần chế biến sẽ ít, sản lượng từng loại sản phẩm lớn. Khi đó có điều kiện tổ chức quá trình công nghệ theo loại hình sản xuất khối lượng lớn hoặc hàng loạt lớn. b. Mức độ phức tạp của kết cấu sản phẩm: Sản phẩm có kết cấu phức tạp là sản phẩm gồm nhiều chi tiết hợp thành, có yêu cầu kỹ thuật cao và nhiều dạng gia công khác nhau trong quá trình chế biến. Nếu kết cấu sản phẩm phức tạp thì khó tổ chức quá trình công nghệ theo loại hình khối lượng lớn hoặc hàng loạt lớn. Ngược lại, nếu kết cấu sản phẩm đơn giản sẽ dễ tổ chức theo loại hình khối lượng lớn hay hàng loạt lớn. 51
- c. Quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Quy mô là độ lớn của doanh nghiệp. Nó được biểu thị bằng sản lượng, số lượng thiết bị, máy móc, số lượng công nhân của doanh nghiệp. Những yếu tố này ảnh hưởng quyết định đến loại hình sản xuất của doanh nghiệp. Trong điều kiện trình độ chuyên môn hóa và hiệp tác hóa, cũng như độ phức tạp của kết cấu sản phẩm không đổi, quy mô của doanh nghiệp lớn sẽ dễ tổ chức quá trình công nghệ theo loại hình sản xuất khối lượng lớn hay hàng loạt lớn. Chẳng hạn: để chế tạo một sản phẩm, sau khi đã phân công chuyên môn hóa và xác định quan hệ hiệp tác giữa các doanh nghiệp, doanh nghiệp A cần chế tạo 1.000 chi tiết. Nếu doanh nghiệp A có quy mô 100 nơi làm việc thì bình quân mỗi nơi làm việc phải chế tạo 10 chi tiết. Tức là trình độ chuyên môn hóa của nơi làm việc không cao, không phải loại hình sản xuất khối lượng lớn. Nhưng nếu doanh nghiệp A có quy mô 1.000 nơi làm việc thì bình quân, mỗi nơi làm việc chỉ chế tạo một (1) chi tiết. Đó là loại hình sản xuất khối lượng lớn. Những nhân tố ảnh hưởng đến loại hình sản xuất nêu trên có tính khách quan. Nhưng không có nghĩa là loại hình sản xuất trong một doanh nghiệp nào đó luôn luôn cố định, vĩnh viễn. Trong một chừng mực nhất định, nếu cải tiến công tác kế hoạch hóa trong doanh nghiệp, có thể nâng cao loại hình sản xuất. Cần áp dụng những biện pháp sau đây: - Mở rộng hiệp tác với các doanh nghiệp khác nhằm giảm bớt số loại chi tiết hay số bước công việc mà doanh nghiệp cần đảm nhận. - Thực hiện rộng rãi công tác tiêu chẩn hóa, thống nhất hóa, nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến. 52
- - Cải tiến công tác kế hoạch hóa sản xuất nhằm giảm bớt số mặt hàng cần sản xuất trong từng tháng, từng quý đến mức thấp nhất. Tăng cường công tác điều độ sản xuất, thực hiện 3 ổn định: ổn định người, ổn định máy, ổn định việc. B. Các phương pháp tổ chức sản xuất. Có nhiều phương pháp tổ chức sản xuất khác nhau. Mỗi phương pháp phải thích ứng với những đặc điểm, trình độ tổ chức và kỹ thuật, với từng loại hình sản xuất của doanh nghiệp. Phần này sẽ nghiên cứu 3 phương pháp tổ chức sản xuất chủ yếu: sản xuất theo dây chuyền, sản xuất theo nhóm, sản xuất đơn chiếc. 1. Phương pháp tổ chức sản xuất theo dây chuyền. a. Khái niệm và đặc điểm. Sản xuất theo dây chuyền là phương pháp tổ chức sản xuất mà ở đấy: - Quá trình công nghệ được phân chia thành những bước công việc có thời gian lao động bằng nhau hoặc lập thành quan hệ bội số với nhau. - Các nơi làm việc được sắp xếp theo nguyên tắc đối tượng và được chuyên môn hóa. - Đối tượng lao động được vận chuyển liên tục theo một hướng nhất định và trong cùng một thời điểm được đồng thời chế biến trên tất cả các nơi làm việc của dây chuyền. Từ định nghĩa trên, có thể thấy sản xuất theo dây chuyền có những đặc điểm chủ yếu sau: + Sản xuất theo dây chuyền là việc chuyển đối tượng lao động từ nơi làm việc này sang nơi làm việc khác theo phương thức song song (chuyển từng chiếc một). Nếu thời gian các bước công vệc không bằng nhau, sẽ có hiện tượng 53
- một số nơi làm việc phải vừa làm vừa chờ việc. Hiện tượng này chỉ được khắc phục nếu thời gian các bước công việc bằng nhau (xem lại phần về phương thức phối hợp các bước công việc) hoặc lập thành quan hệ bội số với nhau. Nếu thời gian các bước công việc lập thành quan hệ bội số với nhau thì bội số là bao nhiêu sẽ bố trí bấy nhiêu nơi làm việc cùng thực hiện bước công việc đó. Như vậy sẽ không có hiện tượng chờ việc, cũng không bị ùn tắc bán thành phẩm của các nơi làm việc trước chuyển xuống. Các kỹ sư, nhất là các kỹ sư công nghệ là những người làm việc này bằng cách chuyển những tiểu tác từ bước công việc này sang bước công việc khác. + Nơi làm việc được chuyên môn hóa cao và được tổ chức theo nguyên tắc đối tượng, tạo thành đường dây chuyền. Trong sản xuất dây chuyền, nơi làm việc được phân công chuyên trách một bước công việc nhất định. Do đó, nơi làm việc được trang bị máy móc, thiết bi, dụng cụ chuyên dùng, hoạt động theo một chế độ hợp lý và có trình độ tổ chức lao động cao. Các nơi làm việc được tổ chức theo nguyên tắc đối tượng, nói cách khác là theo trình tự chế biến sản phẩm và tạo thành đường dây chuyền. Đối tượng lao động được vận động theo một hướng cố định với đường đi ngắn nhất. + Đối tượng lao động được chế biến đồng thời trên tất cả các nơi làm việc của dây chuyền. + Trong một thời điểm nào đó, nếu quan sát tất cả các nơi làm việc của dây chuyền, sẽ thấy, đối tượng lao động được chế biến đồng thời (song song) ở tất cả các bước công việc và được chuyển từ nơi làm việc này sang nơi làm việc khác bằng phương tiện vận chuyển đặc biệt (băng tải chẳng hạn). Những đặc điểm nêu trên vừa đảm bảo thực hiện tốt các nguyên tắc của tổ chức sản xuất, vừa tiêu biểu cho phương pháp tổ chức sản xuất theo dây chuyền. 54
- b. Phân loại sản xuất dây chuyền. Có nhiều tiêu chí phân loại khác nhau: + Căn cứ vào trình độ cố định của việc chế biến sản phẩm có thể chia ra: - Dây chuyền cố định: Chỉ sản xuất một loại sản phẩm nhất định, quá trình công nghệ không thay đổi, khối lượng sản phẩm lớn. Trên dây chuyền cố định, mỗi nơi làm việc chỉ hoàn thành một bước công việc nhất định. Dây chuyền cố định phù hợp với loại hình sản xuất khối lượng lớn. - Dây chuyền không cố định: Chế tạo vài loại sản phẩm có kết cấu gần giống nhau, trình tự chế biến giống nhau. Sau khi sản xuất xong một loại sản phẩm, phải tạm dừng sản xuất, điều chỉnh máy móc thiết bị để chế tạo sản phẩm khác. Loại dây chuyền này ứng dụng rộng rãi trong loại hình sản xuất hàng loạt lớn và vừa. + Căn cứ vào trình độ liên tục của sản xuất có thể chia ra dây chuyền liên tục và dây chuyền không liên tục. - Dây chuyền liên tục: Đối tượng chế biến được chuyển từng cái một một cách liên tục qua các nơi làm việc, không có thời gian ngừng lại chờ đợi. Trên dây chuyền này, đối tượng lao động luôn luôn ở một trong hai trạng thái: đang được chế biến hoặc đang được vận chuyển. Loại dây chuyền này có thể hoạt động theo nhịp điệu bắt buộc hoặc theo nhịp điệu tự do. Dây chuyền có nhịp điệu bắt buộc là loại dây chuyền liên tục nhất. Thời gian các bước công việc trên dây chuyền đều bằng nhau hoặc lập thành quan hệ bội số với nhau. Đối tượng lao động được vận chuyển từ nơi làm việc này sang nơi làm việc khác bằng băng chuyền chuyển động theo một tốc độ nhất định. Dây chuyền có nhịp điệu tự do được sử dụng trong trường hợp thời 55
- gian các bước công việc không hoàn toàn bằng nhau (nhưng chỉ chênh lệch không đáng kể). Đối tượng lao động được công nhân sản xuất hoặc công nhân phụ vận chuyển từ nơi làm việc này sang nơi làm việc khác. Nhịp sản xuất đã quy định được công nhân tự đảm bảo. Giữa các nơi làm việc thường có một số sản phẩm dở dang dự trữ có tính chất bảo hiểm cho công việc được tiến hành liên tục. - Dây chuyền không liên tục: Đối tượng lao động được vận chuyển theo từng loạt và có thời gian tạm ngừng tại nơi làm việc để chờ chế biến. Trên dây chuyền này, công nhân và máy móc làm việc thực sự không đều đặn, liên tục, phải dừng việc theo định kỳ và phải có dự trữ sản phẩm dở dang. + Căn cứ vào phạm vi áp dụng sản xuất dây chuyền có thể chia ra dây chuyền bộ phận, dây chuyền phân xưởng và dây chuyền toàn xưởng. - Dây chuyền bộ phận là dây chuyền ở từng bộ phận sản xuất. - Dây chuyền phân xưởng: Bao gồm quá trình sản xuất trong cả phân xưởng. Các phân xưởng lắp ráp trong các doanh nghiệp cơ khí thường áp dụng dây chuyền này. - Dây chuyền toàn xưởng: Bao gồm toàn bộ quá trình sản xuất của doanh nghiệp, từ việc đưa nguyên liệu vào sản xuất, vận chuyển bán thành phẩm giữa các phân xưởng, cho đến việc đưa thành phẩm nhập kho. Tất cả đều được tiến hành theo một nhịp điệu chung đã quy định. + Hình thức cao nhất, hoàn thiện nhất của dây chuyền là dây chuyền tự động. Đó là một thể thống nhất và hoàn chỉnh bao gồm tất cả máy móc, thiết bị chính, phụ, phương tiện vận chuyển, trung tâm điều khiển quá trình sản xuất. Tất cả đều được phối hợp khéo léo, chính xác và hoạt động theo một nhịp điệu thống nhất. 56
- c. Các thông số của dây chuyền Muốn thiết kế một dây chuyền, cần tính toán, xác định nhiều thông số phức tạp. + Nhịp dây chuyền (r): Là khoảng thời gian tuần tự chế biến xong hai sản phẩm kế tiếp nhau ở bước công việc cuối cùng. Trong dây chuyền cố định và liên tục, nhịp dây chuyền là khoảng thời gian cần thiết để chuyển sản phẩm từ nơi làm việc trước sang nơi làm việc kế tiếp sau. Nhịp dây chuyền được tính bằng công thức sau: T r (8) Q Trong đó: r: Nhịp dây chuyền (phút, giờ) T: Tổng số thời gian làm việc trong kỳ (phút, giờ) Q: Số lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ (cái) Chú ý: Nhịp dây chuyền với thời gian chế biến ở từng nơi làm việc không phải lúc nào cũng giống nhau. Khi định mức thời gian của các bước công việc đều bằng nhịp dây chuyền hoặc bằng bội số của nhịp dây chuyền thì có điều kiện để tổ chức dây chuyền liên tục. + Bước dây chuyền (B): Là khoảng cách giữa trung tâm hai nơi làm việc kề liền nhau. Bước dây chuyền phụ thuộc vào kích thước của sản phẩm, của máy móc thiết bị bố trí trên nơi làm việc. 57
- + Số nơi làm việc trên dây chuyền (n): Tổng số nơi làm việc trên dây chuyền phụ thuộc hai nhân tố: số bước công việc chế biến và số nơi làm việc của từng bước công việc. Nếu thời gian chế biến của bước công việc nào đó lớn gấp 2 hoặc 3 hay 4 lần nhịp dây chuyền thì phải bố trí 2, hoặc 3 hay 4 nơi làm việc cùng đảm nhiệm bước công việc đó. Tất nhiên, sản phẩm chỉ đi qua một trong số những nơi làm việc có cùng nhiệm vụ. + Độ dài của băng chuyền (L): Phụ thuộc vào số nơi làm việc trên cùng một phía của băng chuyền và bước dây chuyền. Độ dài của băng chuyền được tính theo công thức sau: L = B x n (9) Trong đó: L: Độ dài của băng chuyền B: Bước dây chuyền n: Số nơi làm việc trên cùng một phía của băng chuyền + Tốc độ chuyển động của băng chuyền (V): Trên băng chuyền của dây chuyền liên tục, sản phẩm chế biến được vận chuyển theo một tốc độ đều, không thay đổi. Tốc độ này được tính theo công thức: B V (10) r Trong đó: V: Tốc độ chuyển động của băng chuyền (m/phút) B: Bước dây chuyền (m) 58
- r: Nhịp dây chuyền (phút) Theo kinh nghiệm, tốc độ này thường giao động trong khoảng từ 0,1 đến 4,0 m/phút. Tốc độ cao quá sẽ ảnh hưởng đến an toàn lao động. Ngoài những thông số nêu trên, việc bố trí một cách hợp lý mặt bằng của dây chuyền có ý nghĩa quan trọng. Việc này phụ thuộc vào số lượng nơi làm việc, khoảng cách giữa các nơi làm việc, loại phương tiên vận chuyển và diện tích sản xuất. Có thể chọn một trong những phương án bố trí mặt bằng của dây chuyền sản xuất dưới đây: d. Hiệu quả kinh tế của sản xuất dây chuyền Ngay trong quá trình chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất, hiệu quả kinh tế của sản xuất dây chuyền đã được đảm bảo nhờ sản phẩm được thiết kế theo một kết cấu hợp lý, đảm bảo yêu cầu thống nhất hóa và tiêu chuẩn hóa, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian lao động. Trong quá trình hoạt động, hiệu quả kinh tế của sản xuất dây chuyền còn thể hiện trên những măt sau đây: - Tăng sản lượng sản phẩm tính cho một đơn vị máy móc và đơn vị diện tích do sử dụng máy móc, thiết bị và dụng cụ chuyên dùng, giảm thời gian gián đoạn trong sản xuất. 59
- - Rút ngắn chu kỳ sản xuất, giảm bớt lượng sản phẩm dở dang, do đó làm tăng tốc độ chu chuyển vốn lưu động. - Nâng cao năng suất lao động nhờ chuyên môn hóa công nhân, xóa bỏ thời gian ngừng sản xuất để điều chỉnh thiết bị, máy móc. - Nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ quá trình sản xuất được chuẩn bị chu đáo. Không có hoặc rất ít sản phẩm dở dang nên tránh được hiện tượng biến chất, hư hỏng. - Hạ giá thành sản phẩm là kết quả tất nhiên của việc tổ chức sản xuất hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm chi phí tiền lương trên một đơn vị sản phẩm, giảm bớt chi phí quản lý, loại trừ phế liệu, phế phẩm. Bên cạnh những ưu điển trên, sản xuất dây chuyền cũng bộc lộ những nhược điểm: Phân công lao động quá sâu, mỗi công nhân chỉ thực hiện một vài động tác (hoặc thao tác) đơn giản, trạng thái lao động quá đơn điệu, buồn tẻ. Mặc dù có hiệu quả kinh tế cao, sản xuất dây chuyền đòi hỏi những điều kiện tương đối khắt khe: - Nhiệm vụ sản xuất phải tương đối ổn định, sản lượng phải lớn. - Sản phẩm phải có kết cấu tương đối ổn định, bảo đảm tính công nghệ cao. - Các chi tiết sản phẩm phải đạt độ dung sai quy định để có thể lắp lẫn. e. Công tác quản lý dây chuyền. Muốn đạt hiệu quả cao, công tác quản lý dây chuyền phải tập trung giải quyết những vấn đề sau: - Cung cấp nguyên vật liệu và dụng cụ đúng quy cách, đúng số lượng và tuân theo nhịp điệu đã quy định. 60
- - Giữ gìn, bảo quản và sửa chữa dự phòng tốt các thiết bị, máy móc và phương tiện vận chuyển tránh những hư hỏng bất thường. - Bố trí công nhân đúng tiêu chuẩn nghề nghiệp. - Giữ gìn nơi làm việc luôn sạch sẽ, có trật tự. 2. Phương pháp tổ chức sản xuất theo nhóm. Trong nhiều trường hợp, khó có thể tổ chức sản xuất theo dây chuyền, mặc dù đó là phương pháp tổ chức sản xuất có hiệu quả. Sản xuất cơ khí là một điển hình như thế. Trong doanh nghiệp cơ khí, thường sản xuất nhiều loại sản phẩm mà mỗi sản phẩm lại được cấu tạo bởi những chi tiết giống nhau hoặc có cách chế tạo giống nhau. Chẳng hạn, để sản xuất ra chiếc máy tiện, cần chế tạo những chiếc trục, những bánh xe răng và thân máy ; để sản xuất chiếc mấy bào cũng cần chế tạo những trục, những bánh xe răng và thân máy ; để sản xuất chiếc máy phay cũng cần như vậy. Những chiếc trục của máy tiện sẽ không giống những chiếc trục của máy bào, của máy phay, thậm chí những chiếc trục trong một máy tiện cũng không giống nhau. Tuy nhiên, những chiếc trục, nói chung, có cách chế tạo gần giống nhau. Vì vậy, nếu bố trí một quá trình công nghệ để chế tạo một chiếc trục này thì quá trình công nghệ đó sẽ có thể chế tạo những chiếc trục khác. Tương tự như vậy, nếu có một quá trình công nghệ chế tạo bánh xe răng này thì quá trình đó cũng có thể chế tạo các bánh xe răng khác. Phương pháp tổ chức sản xuất theo nhóm là phương pháp tận dụng đặc điểm này của sản xuất, nhất là trong sản xuất cơ khí. Phương pháp tổ chức sản xuất theo nhóm có đặc điểm: không thiết kế quy trình công nghệ, bố trí thiết bị, máy móc, dụng cụ để chế tạo từng loại chi tiết cá biệt mà làm chung cho cả nhóm, dựa vào chi tiết tổng hợp đã lựa chọn. Các chi tiết trong cùng nhóm được gia công trong cùng một lần điều chỉnh máy. 61
- + Nội dung của phương pháp tổ chức sản xuất theo nhóm bao gồm những công việc sau đây: - Tất cả các chi tiết của các loại sản phẩm cần chế tạo trong doanh nghiệp, sau khi được tiêu chuẩn hóa, được phân thành từng nhóm, căn cứ vào kết cấu, phương pháp công nghệ giống nhau, hoặc yêu cầu máy móc, đồ gá lắp cùng loại. Trong ví dụ trên, có thể chia ra: nhóm trục, nhóm bánh xe răng, nhóm đồ lớn ( nhóm thân máy) - Trong từng nhóm, lựa chọn ra chi tiết điển hình (chi tiết tổng hợp) của nhóm. Chi tiết tổng hợp là chi tiết phức tạp hơn cả trong chế tạo và tổng hợp được tất cả các yếu tố của các chi tiết khác trong nhóm. Nếu trong thực tế không có chi tiết nào của nhóm đủ tiêu chuẩn là chi tiết tổng hợp thì phải thiết kế một chi tiết giả định có đủ những tiêu chuẩn đó để làm căn cứ cho việc tổ chức sản xuất theo nhóm. Ví dụ: Trong nhóm trục có 3 loại trục (thực tế thường nhiều hơn 3 rất nhiều, nhưng để giản đơn, chỉ giả định có 3 loại trục), mỗi trục có quy trình công nghệ như sau: Bước Tiện Tiện Tiện Phay Bào Nhiệt Mài CV thô tinh ren rãnh luyện Trục I + + + + + + Trục II + + + + + + Trục III + + + + + + + Có thể thấy, trục III sẽ là chi tiết tổng hợp của nhóm trục vì nó bao gồm tất cả các yếu tố của các chi tiết khác trong cùng nhóm. - Bố trí quá trình công nghệ cho nhóm. Đúng hơn là cho chi tiết tổng hợp. Một quá trình công nghệ đủ sức chế tạo chi tiết tổng hợp của nhóm sẽ chế 62
- tạo được tất cả các chi tiết khác trong nhóm, bởi chi tiết tổng hợp bao gồm tất cả các yếu tố của các chi tiết khác. - Tiến hành xây dựng định mức thời gian cho các bước công việc của chi tiết tổng hợp, dùng phương pháp so sánh để quy định hệ số cho các bước công việc tương ứng của các chi tiết khác trong nhóm. Vẫn theo ví dụ trên, kết quả của công việc này sẽ là một bảng số như sau: Bước Tiện Tiện Tiện Phay Bào Nhiệt Mài CV thô tinh ren rãnh luyện Trục I + + + + + + 1,0 0,8 0,5 0,8 1,3 0,7 Trục II + + + + + + 0,7 0,4 1,2 0,9 1,1 0,7 Trục III + + + + + + + (T ổng 5’ 7’ 8’ 11’ 6’ 4’ 7’ hợp) Bảng này cho phép tính nhanh định mức thời gian cho các bước công việc của các chi tiết trong nhóm, tiết kiệm rất nhiều thời gian cho công tác định mức thời gian lao động. Trong ví dụ trên, chỉ là 3 chi tiết trong nhóm mà thay vì phải định mức thời gian cho 19 bước công việc, chỉ còn phải làm định mức cho 7 bước công việc mà thôi. (Chẳng hạn, có thể biết ngay định mức thời gian cho bước công việc tiện thô cho trục thứ hai là 5’ x 0,7 =3,5’). Trong thực tế, số chi tiết trong nhóm nhiều hơn sẽ cho hiệu quả lớn hơn nhiều. - Thiết kế, chuẩn bị dụng cụ, đồ gá lắp cho cả nhóm và bố trí thiết bị máy móc để sản xuất. 63
- + Hiệu quả kinh tế của phương pháp tổ chức sản xuất theo nhóm. Ở Liên Xô cũ, phương pháp tổ chức sản xuất theo nhóm là sáng kiến của X.P. Mitrophanop. Ban đầu, phương pháp này được ứng dụng rộng rãi ở Leningrat, sau đó đã trở thành phương pháp có tính phổ biến, có giá trị lớn về lý thuyết và kinh tế.Tác giả đã được thưởng huân chương Lê –nin. Hiệu quả của phương pháp là: - Giảm bớt thời gian chuẩn bị về kỹ thuật. (Thay vì phải chuẩn bị kỹ thuật cho tất cả các chi tiết, giờ đây chỉ chuẩn bị kỹ thuật cho nhóm mà chủ yếu là cho chi tiết tổng hợp). - Giảm nhẹ công tác định mức kinh tế kỹ thuật, công tác kế hoạch và điều độ sản xuất. - Tạo điều kiện nâng cao loại hình sản xuất. - Tạo điều kiện cải tiến tổ chức lao động, nâng cao hệ số sử dụng đồ gá lắp và nhờ đó giảm được chi phí hao mòn máy móc, dụng cụ cho một đơn vị sản phẩm, làm cho giá thành ngày càng hạ. 3. Phương pháp tổ chức sản xuất đơn chiếc. Tổ chức sản xuất đơn chiếc là tổ chức chế biến sản phẩm từng chiếc một hay theo từng đơn đặt hàng nhỏ. Sản phẩm chỉ được sản xuất một lần, không lặp lại, hoặc có lặp lại thì cũng không có chu kỳ nhất định, không dự tính được trước. Phương pháp tổ chức sản xuất đơn chiếc thường được áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất máy móc hạng nặng (đóng tàu thủy, sản xuất tuyêc bin lớn, sản xuất máy cán thép ), ở các doanh nghiệp sửa chữa và trong trường hợp chế thử sản phẩm mới trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất khối lượng lớn và hàng loạt lớn. 64
- Theo phương pháp này: -Không lập quy trình công nghệ tỷ mỷ cho từng sản phẩm, mà chỉ quy định những bước công việc chung (ví dụ: tiện, phay, bào ). - Tùy theo công việc từng lúc mà giao nhiệm vụ cho các nơi làm việc. Như vậy, nơi làm việc không được chuyên môn hóa, mà có trách nhiệm tiến hành nhiều bước công việc khác nhau của nhiều loại sản phẩm khác nhau. - Máy móc thiết bị được bố trí theo nguyên tắc công nghệ. Do đó đường đi của sản phẩm thường dài và quanh co, sản phẩm dở dang nhiều và cần thiết phải để ngay tại nơi làm việc. - Để đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, thường phải để độ dung sai gia công khá lớn. Chế phẩm sẽ được sửa chữa chính xác, đúng yêu cầu kỹ thuật ở khâu sản xuất cuối cùng. - Khi tiến hành sản xuất cũng như kiểm tra kỹ thuật phải dựa vào bản vẽ riêng cho từng chế phẩm một. - Thường sử dụng công nhân có trình độ kỹ thuật cao và biết nhiều nghề để có thể tự lựa chọn phương pháp thao tác hợp lý, cũng như để phù hợp với yêu cầu thường xuyên thay đổi nhiệm vụ sản xuất. Áp dụng các phương pháp tổ chức quá trình sản xuất đã trình bày trên phụ thuộc vào trình độ chuyên môn hóa của nơi làm việc và do đó vào trình độ chuyên môn hóa của doanh nghiệp. Có thể thấy mối quan hệ này một cách tương đối qua hình 11 như sau: Hình 13 cho thấy phạm vi áp dụng này không hoàn toàn là một ranh giới cứng. Nó có một khoảng áp dụng rất linh hoạt cho phép nhà tổ chức chọn lựa phương pháp tổ chức sản xuất cho doanh nghiệp một cách mềm dẻo. Song điều đó cũng tạo nên khó khăn cho nhà tổ chức, đòi hỏi sự chính xác nhưng lại mềm dẻo. 65
- LOẠI HÌNH SẢN XUẤT KHỐI Sản xuất CÁC LƯỢNG LỚN theo dây chuy CÁC ền PHƯƠNG HÀNG LOẠT LỚN LOẠI LOẠI PHÁP HÌNH Sản xuất HÌNH SẢN HÀNG LO ẠT VƯÀ theo nhóm XUẤT TỔ CHỨC SẢN HÀNG LOẠT HÀNG LOẠT NHỎ N XUẤT SẢ Sản xuất LOẠI HÌNH SẢN XUẤT ĐƠN đơn chiếc XUẤT CHIẾC Hình 13 Phạm vi áp dụng các phương pháp tổ chức sản xuất theo các loại hình sản xuất TÓM TẮT NỘI DUNG CHÍNH Trong doanh nghiệp, quá trình công nghệ chiếm vị trí quan trọng cả về tính chất, cả về thời gian trong toàn bộ quá trình sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Vì vậy, tổ chức hợp lý quá trình công nghệ có ý nghĩa đặc biệt. Các nguyên tắc của việc tổ chức quá trình công nghệ (Tổ chức quá trình công nghệ phải đảm bảo phát triển chuyên môn hóa kết hợp kinh doanh tổng hợp; đảm bảo tính cân đối của sản xuất; đảm bảo tính nhịp nhàng của sản xuất; đảm bảo cho sản xuất diễn ra liên tục) là cơ sở để tổ chức quá trình công nghệ trong doanh nghiệp. Thước đo các mức độ thỏa mãn khác nhau đối với những nguyên tắc này là các chỉ tiêu “Hệ số sử dụng thời gian sản xuất” và “Hệ số sản xuất đồng bộ”. 66
- Hệ số sử dụng thời gian sản xuất là chỉ tiêu so sánh giữa thời gian quá trình sản xuất với độ dài của chu kỳ sản xuất. Nó càng gần 1 càng chứng tỏ sự liên tục cao của quá trình sản xuất. Hệ số sản xuất đồng bộ được tính trên cơ sở so sánh giữa thời gian sản xuất ra thành phẩm (hoặc giá trị thành phẩm) với tổng thời gian sản xuất (hoặc giá trị tổng sản lượng). Hệ số này càng tiến tới 1 càng chứng tỏ tính đồng bộ cao của sản xuất. Nội dung của tổ chức quá trình công nghệ gồm: - Tổ chức quá trình công nghệ về không gian. - Tổ chức quá trình công nghệ về thời gian. - Lựa chọn các phương pháp tổ chức quá trình sản xuất. Về không gian, có 3 nguyên tắc tổ chức các phân xưởng và bộ phận sản xuất để lựa chọn: - Nguyên tắc công nghệ: Trong phân xưởng hay bộ phận sản xuất chỉ tiến hành một loại công nghệ nhất định, chỉ có máy móc cùng loại. - Nguyên tắc đối tượng: Trong phận xưởng hay bộ phận sản xuất chế biến hoàn chỉnh một loại sản phẩm hay chi tiết nhất định. Máy móc gồm nhiều loại khác nhau và được bố trí theo trình tự chế biến - Nguyên tắc hỗn hợp: Kết hợp cả hai nguyên tắc trên Tổ chức quá trình công nghệ về không gian cũng cần đảm bảo tính cân đối giữa các bộ phận sản xuất chính với các bộ phận phục vụ và phù trợ; đồng thời, việc bố trí mặt bằng của doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố hướng gió, hơi độc, chấn động Lựa chọn đúng cho doanh nghiệp phương thức phối hợp các bước công việc là nội dung chủ yếu của công tác tổ chức quá trình công nghệ về thời gian. 67
- Các phương thức phối hợp các bước công việc tuần tự, song song và hỗn hợp hàm chứa các nội dung rất khác nhau. - Phối hợp các bước công việc theo phương thức tuần tự: Từng chi tiết trong một đợt chế biến, chờ cho tất cả các chi tiết khác trong cùng đợt được chế biến xong ở bước công việc này rồi mới chuyển toàn bộ sang bước công việc sau. - Phối hợp các bước công việc theo phương thức song song: Từng chi tiết trong một đợt chế biến, sau khi được chế biến xong ở bước công việc này, chuyển ngay sang bước công việc sau mà không chờ các chi tiết khác trong cùng đợt. - Phối hợp các bước công việc theo phương thức hỗn hợp: Khi chuyển chi tiết từ bước công việc trước sang bước công việc sau, nếu: thời gian bước công việc trước ngắn hơn thời gian bước công việc sau thì chuyển từng chi tiết một (theo phương thức song song). Còn nếu thời gian bước công việc trước nhỏ hơn thời gian bước công việc sau thì chuyển một lượng chi tiết đủ để nơi làm việc sau không phải chờ đợi. Lượng chi tiết này có công thức tính (theo phương thức tuần tự không nguyên bản). Ứng với từng loại hình sản xuất, có thể áp dụng các phương pháp tổ chức sản xuất phù hợp. Có 3 phương pháp tổ chức sản xuất chủ yếu trong doanh nghiệp: Tổ chức sản xuất theo dây chuyền, tổ chức sản xuất theo nhóm và tổ chức sản xuất đơn chiếc. Trong đó, tổ chức sản xuất theo dây chuyền là phương pháp hiện đại nhưng cũng đòi hỏi những điều kiện khắt khe. Tổ chức sản xuất theo nhóm thường áp dụng trong các doanh nghiệp cơ khí. Còn tổ chức sản xuất đơn chiếc thường áp dụng cho các đơn đặt hàng nhỏ, thậm chí chỉ một chiếc. Phương pháp luận chủ yếu của chương này là giới thiệu các phương án khác nhau và các điều kiện áp dụng của từng phương án cũng như ưu, nhược 68
- điểm của chúng. Trong những hoàn cảnh cụ thể của thực tế, nhà tổ chức phải lựa chọn cho doanh nghiệp phương án phù hợp. (Lựa chọn cho doanh nghiệp nguyên tắc phù hợp để tổ chức các phân xưởng hoặc các bộ phận sản xuất; lựa chọn các phương thức phối hợp các bước công việc; lựa chọn các phương pháp tổ chức quá trình sản xuất ). CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày vị trí của quá trình công nghệ trong quá trình sản xuất. Qua đó chứng minh: quá trình công nghệ là bộ phận chủ yếu của quá trình sản xuất. 2. Các nguyên tắc cần tuân thủ khi tổ chức quá trình công nghệ trong doanh nghiệp. 3. Thế nào là tổ chức phân xưởng và các bộ phận sản xuất theo nguyên tắc công nghệ? Ưu, nhược điểm và phạm vi áp dụng. 4. Thế nào là tổ chức phân xưởng và các bộ phận sản xuất theo nguyên tắc đối tượng? Ưu, nhược điểm và phạm vi áp dụng. 5. Thế nào là tổ chức phân xưởng và các bộ phận sản xuất theo nguyên tắc hỗn hợp? Ưu, nhược điểm và phạm vi áp dụng. 6. Cho một ví dụ về tác động của hướng gió ( hoặc tiếng ồn, chấn động ) cần phải chú ý khi bố trí mặt bằng của doanh nghiệp. 7. Trình bày quan niệm đúng về sự cân đối giữa các bộ phận sản xuất chính với các bộ phận sản xuất phù trợ và phục vụ. 8. Chu kỳ sản xuất và các bộ phận cấu thành chu kỳ sản xuất. 69
- 9. Có các phương thức phối hợp các bước công việc nào? Nội dung của từng phương thức và công thức tính thời gian công nghệ của từng phương thức. 10. Loại hình sản xuất là gì? Có các loại hình sản xuất nào và đặc điểm của từng loại hình? 11. Đặc trưng cơ bản của các phương pháp tổ chức sản xuất và phạm vi áp dụng của từng phương pháp. 12. Tại sao phương pháp tổ chức sản xuất theo dây chuyền lại đòi hỏi các bước công việc phải có thời gian chế biến bằng nhau hoặc có quan hệ bội số với nhịp dây chuyền? 13. Việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất trong dây chuyền có cần theo nhịp dây chuyền không? Tại sao? 14. Cho ví dụ chứng minh sự tiết kiệm thời gian chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất, tiết kiệm thời gian xây dựng định mức kinh tế-kỹ thuật cho sản xuất của phương pháp tổ chức sản xuất theo nhóm. 15. Tại sao tổ chức sản xuất đơn chiếc lại cần công nhân biết nhiều nghề, dụng cụ vạn năng ? 16. Tổ chức sản xuất theo dây chuyền là tiên tiến nhất. Vậy nó có thể loại bỏ hoàn toàn các phương pháp ít tiến tiến hơn không, đặc biệt là phương pháp sản xuất đơn chiếc? Tại sao? 70
- BÀI TẬP Bài 1: Để chế tạo chi tiết A cần qua 8 bước công việc với thời gian của từng bước công việc như sau: BCV I II III IV V VI VII VIII Thời gian (’) 5 7 6 8 7 4 9 6 Yêu cầu: a. Tính thời gian công nghệ cho việc chế tạo chi tiết A theo các phương thức phối hợp các bước công việc: -Tuần tự. -Song song. -Hỗn hợp. (Với n = 45) b. Vẽ sơ đồ phối hợp các bước công việc đã cho theo 3 phương thức ( tuần tự, song song, hỗn hợp), với n = 4. c. Nếu phối hợp các bước công việc trên theo phương thức hỗn hợp, ở những bước công việc nào khi chuyển chi tiết sang bước công sau cần chuyển số nhiều chi tiết? Tại sao? d. Tính lượng chi tiết chuyển ở các bước công việc cần chuyển số nhiều chi tiết sang bước công việc sau theo phương thức hỗn hợp. (Với n = 45). Bài 2: Cần thiết kế dây chuyền có nhịp dây chuyền (r) là bao nhiêu phút để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ sản xuất 202.500 sản phẩm K trong năm? Cho biết: Dây chuyền hoạt động - 300 ngày/ năm. 71
- - 3 ca/ ngày. - 7h 30’/ ca. Bài 3: Bước dây chuyền của một dây chuyền liên tục (vận chuyển bán thành phẩm bằng băng tải) sẽ là bao nhiêu nếu: - Thiết bị của 2 nơi làm việc kề liền nhau có kích thước là 3m và 4m chiều dài, kích thước của sản phẩm là 0,5m. - Thiết bị của 2 nơi làm việc kề liền nhau có kích thước là 3m và 4m chiều dài, kích thước của sản phẩm là 5m. Bài 4: Lần lượt dùng kết quả tính được của tình huống một và hai của bài tập 3 tính độ dài của băng tải khi số nơi làm việc trên cùng một phía của băng tải là 22. Bài 5: Theo phương pháp sản xuất theo nhóm, có một nhóm chi tiết sản phẩm bao gồm các bước công việc để chế biến từng chi tiết thể hiện trong bảng sau: BCV I II III IV V VI VII VIII Chi tiết 1 + + + + + + Chi tiết 2 + + + + + + Chi tiết 3 + + + + + Chi tiết 4 + + + + + + Hãy chỉ ra hoặc thiết kế chi tiết tổng hợp cho nhóm để có thể bố trí quá trình công nghệ cho cả nhóm. 72
- CHƯƠNG III QUẢN LÝ CÔNG NGHỆ TRONG DOANH NGHIỆP Quản lý công nghệ trong doanh nghiệp là tổng hợp các hoạt động nghiên cứu và vận dụng các quy luật khoa học vào việc xác định và tổ chức thực hiện các mục tiêu và biện pháp kỹ thuật nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ, áp dụng công nghệ mới, bảo đảm quá trình sản xuất được tiến hành với hiệu quả cao. Quản lý công nghệ gắn với các chức năng kỹ thuật chủ yếu trong doanh nghiệp. Quản lý công nghệ gồm những nội dung cơ bản sau: -Tổ chức hoạt động nghiên cứu và phát triển. -Lựa chọn và đổi mới công nghệ. -Quản lý quy trình, quy phạm kỹ thuật và công tác tiêu chuẩn hóa. -Tổ chức công tác bảo dưỡng. -Tổ chức công tác đo lường. -Tổ chức hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. -Quản lý hồ sơ, tài liệu kỹ thuật. Trong những nội dung trên, bốn nội dung đầu tiên khá phức tạp và thường xuyên động chạm đến hoạt động của doanh nghiệp. Sau đây sẽ đề cập đến từng nội dung trong 4 nội dung đó 73
- I.Quản lý nghiên cứu và phát triển 1.Các hình thức nghiên cứu Có một số hình thức nghiên cứu sau: - Nghiên cứu cơ bản. - Nghiên cứu ứng dụng. - Nghiên cứu sản phẩm. - Nghiên cứu chế tạo. - Nghiên cứu vật liệu a.Nghiên cứu cơ bản Nghiên cứu cơ bản nhằm khám phá bản chất hoặc phát hiện kiến thức mới dưới dạng nguyên lý, lý thuyết hoặc quy luật có giá trị tổng quát Kết quả của nghiên cứu cơ bản, chẳng hạn: tìm ra nguyên lý tia laze, phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn, phát minh ra điện Những nghiên cứu như thế thường không được xác định trước và thường không có giá trị thương mại (không ai trả tiền cho việc phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn). Tuy nhiên, giá trị to lớn của những kết quả nghiên cứu này trong khoa học và tiếp đến là trong sản xuất thì không thể phủ định được. Vì vậy, các doanh nghiệp thường không tiến hành nghiên cứu cơ bản vì không có thu nhập cho doanh nghiệp. Song tác dụng to lớn của nó đòi hỏi Nhà nước phải tổ chức việc nghiên cứu cơ bản. b.Nghiên cứu ứng dụng Nghiên cứu ứng dụng là việc khai thác kết quả của nghiên cứu cơ bản để vận dụng vào thực tế hoặc tìm ra giải pháp mới để giải quyết một nhiệm vụ nhất định. 74
- Chẳng hạn: nghiên cứu để sử dụng tia laze trong y học, trong xây dựng, hoặc trong chiến tranh Những kết quả nghiên cứu này có triển vọng thu hồi vốn nhanh, thậm chí còn có lãi nhiều.Vì vậy hấp dẫn doanh nghiệp hơn. c.Nghiên cứu sản phẩm Đó là việc tìm ra ý tưởng về sản phẩm mới, hướng vào sản phẩm mới, khác biệt hóa với sản phẩm cũ hoặc sử dụng sản phẩm phụ. Kết quả của nghiên cứu sản phẩm là những sản phẩm mới, hữu ích, có giá trị thương mại. Chính vì vậy, nghiên cứu sản phẩm không những chỉ hấp dẫn doanh nghiệp mà con là mục tiêu theo đuổi của doanh nghiệp trong quá trình tối đa hóa lợi nhuận của mình. Tuy nhiên, các doanh nghiệp phải có một độ lớn (quy mô) nhất định mới có thể có bộ phận nghiên cứu riêng làm nhiệm vụ này. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tổ chức các bộ phận nghiên cứu. d.Nghiên cứu chế tạo Hình thức nghiên cứu này hướng vào việc phát triển dụng cụ, thiết bị, đồ gá lắp, dụng cụ cầm tay và phương pháp chế tạo sản phẩm. Có ý tưởng về sản phẩm mới, khác biệt hóa với sản phẩm cũ sẽ không thực hiện được nếu không có phương pháp, công cụ, đồ gá lắp để chế tạo nó. Vì vậy, nghiên cứu chế tạo có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành sản phẩm mới. Trong nhiều trường hợp, nghiên cứu chế tạo thường diễn ra đồng thời với nghiên cứu sản phẩm. e.Nghiên cứu vật liệu Đó là việc nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên vật liệu mới hoặc phát huy hết tính năng của các loại nguyên vật liệu đang được sử dụng. 75
- Có nhiều nguồn lực vật chất trong thiên nhiên chưa được sử dụng trong sản xuất. Nghiên cứu để có thể sử dụng những nguồn lực đó là công việc có ý nghĩa kinh tế-xã hội rất to lớn. Đồng thời, nghiên cứu để chế tạo ra những sản phẩm mới dùng làm nguyên vật liệu cho sản xuất cũng mở rộng nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Kim cương nhân tạo, gỗ phíp công nghiệp, các loại bóng bán dẫn từng là kết quả của nghiên cứu vật liệu trong nhiều năm qua của quá trình phát triển khoa học công nghệ. Bên cạnh việc nghiên cứu tìm ra các loại nguyên vật liệu mới, việc nghiên cứu để sử dụng hết các tính năng, sử dụng một cách tổng hợp các loại nguyên vật liệu đang được sử dụng là yếu tố rất quan trọng, mang lại hiệu quả kinh tế lớn. Chẳng hạn: trong việc luyện coke từ than mỡ, nếu không sử dụng khí lò coke thì là một lãng phí vô cùng lớn. Khí lò coke đã là nguyên liệu cho ngành khí hóa than, tạo ra nhiều loại sản phẩm có giá trị kinh tế lớn. Còn rất nhiều tính năng của các loại nguyên vật liệu đang được sử dụng chưa được phát hiện và khai thác. Nhiệm vụ của nghiên cứu vật liệu là tìm ra những tính năng này. Cùng với sự phát triển của khoa học, các tính năng của các loại vật liệu ngày càng được phát hiện và sử dụng trong sản xuất và đời sống. Đặc trưng của nghiên cứu vật liệu là như thế nên, về cơ bản, nghiên cứu vật liệu thường gắn liền với nghiên cứu sản phẩm và nghiên cứu chế tạo. 2.Các hình thức phát triển a.Các hình thức: Có hai hình thức phát triển là phát triển sản phẩm và phát triển quy trình +Phát triển sản phẩm: Phần trên đã nêu nội dung của nghiên cứu sản phẩm. Để thực hiện tốt những ý tưởng về sản phẩm mới, khác biệt hóa với sản phẩm cũ, cần có sự quản lý đúng đắn. Quản lý phát triển sản phẩm bao gồm ba nội dung: 76
- -Thiết kế sản phẩm. -Thử nghiệm. -Đánh giá mẫu mã thiết kế. Chỉ trên cơ sở đảm bảo tốt các nội dung của quản lý phát triển sản phẩm như trên mới có thể cung cấp những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường và đảm bảo chất lượng. +Phát triển quy trình: Phát triển quy trình là việc giải quyết máy móc, dụng cụ, phương pháp và bố trí sản xuất, thiết kế dụng cụ, đồ gá lắp. Trong sản xuất, xác định được một quy trình hợp lý là sự đảm bảo thành công. Các nội dung về tổ chức quá trình công nghệ và tổ chức qua trình sản xuất đã được trình bày trong chương II là những kiến thức cần thiết cho việc áp dụng trong công tác phát triển quy trình. b.Kế hoạch hóa nghiên cứu và phát triển +Nội dung công tác kế hoạch hóa nghiên cứu và phát triển bao gồm: -Xác định mục tiêu nghiên cứu và phát triển kỳ kế hoạch. -Xác định nhiệm vụ nghiên cứu và đổi mới. -Xác định ngân quỹ cho đổi mới và phát triển. Ngân quỹ này có thể trích từ lợi nhuận theo một tỷ lệ cố định hoặc không cố định. Ngoài ra cần huy động tối đa các nguồn lực tài chính khác. +Căn cứ để xây dựng kế hoạch nghiên cứu và phát triển ngắn hạn: Để xây dựng kế hoạch nghiên cứu và phát triển cần căn cứ vào các yếu tố sau đây: -Nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển dài hạn: Kế hoạch nghiên cứu và phát triển ngắn hạn là bộ phận của kế hoạch này trong dài hạn. Vì vậy kế hoạch ngắn hạn phải dựa vào kế hoạch dài hạn đẻ làm căn cứ, mặt khác để từng bước làm cho kế hoạch dài hạn được thực hiện. 77