Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp

docx 111 trang ngocly 40
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxgiao_trinh_phan_tich_tai_chinh_doanh_nghiep.docx

Nội dung text: Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp

  1. Trường đại học kinh doanh và công nghệ hà nội Khoa Kế toán Giáo trình Phân tích Tài chính doanh nghiệp Dành cho SV các khóa học 3 ĐVHT Hà Nội , 2011 Mục lục
  2. Phần thứ nhất Trang Chương 1:Những vấn đề chung của phân tích tài chính doanh nghiệp 3 1.1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp. 3 1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. 5 1.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp. 6 1.4.Tổ chức công tác phân tích các loại phân tích 15 Chương 2:phân tích kết quả hoạt động kinh doanh 17 2.1. Phân tích môi trường kinh doanh và tác động của nó đến các quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 19 2.2. Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến nó 22 2.3. Phân tích lợi nhuận bán hàng 62 Chương 3:phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp 70 3.1. Phân tích đánh giá thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu chủ yếu của bảng cân đối kế toán 71 3.2. Phân tích tình hình tổ chức huy động vốn của doanh nghiệp 102 3.3. Phân tích đánh giá kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn của 104 doanh nghiệp 3.4. Đắc điểm phân tích, đánh giá kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp cổ phần 111
  3. Phân tích tài chính doanh nghiệp Chương 1 Những vấn đề chung của phân tích tài chính doanh nghiệp 1.1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp được quan niệm như là một tổng thể các phương pháp được sử dụng để đánh giá được thực trạng tình hình tài chính hiện tại và quá khứ của Doanh nghiệp, thông qua đó cung cấp những thông tin cần thiết cho những đối tác khác nhau để họ có nhưng quyết định phục vụ cho những mục tiêu và lợi ích khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, phân tích tài chính không còn bị giới hạn ở các dữ liệu tài chính nữa mà đã có thêm các dữ liệu kinh tế và thị trường chứng khoán, do vậy số đối tác quan tâm, sử dụng các báo cáo tài chính và thông tin từ kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp cũng ngày càng mở rộng và tăng lên. Ngoài đối tượng quan trọng là chủ doanh nghiệp, họ bao gồm. - Các cơ quan chức năng của nhà nước, cơ quan thuế; - Các nhà cho vay, như các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính, những người mua tín phiếu, các doanh nghiệp khác, các công ty mẹ v.v ; - Các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai; - Những người tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả những người làm công ăn lương; - Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp v.v * Phân tích tài chính đối với các chủ doanh nghiệp. Là chủ doanh nghiệp, hơn ai hết họ là người rất quan tâm đến những thông tin được cung cấp thông qua kết quả của phân tích tài chính doanh nghiệp (được gọi là phân tích tài chính nội bộ), như kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh, kết quả của việc quản lý và
  4. sử dụng vốn, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, rủi ro tài chính doanh nghiệp v.v Những thông tin nói trên sẽ là cơ sở để các chủ doanh nghiệp lựa chọn, cân nhắc để đưa ra các quyết định đúng đắn về quản lý trong tương lai, như quyết định về đầu tư, về tài trợ, về phân bổ vốn và sử dụng vốn, về giải quyết tình hình công nợ, về phân chia và sử dụng lợi nhuận, điều chỉnh cơ cấu sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, liên doanh liên kết v.v * Phân tích tài chính đối với các cơ quan chức năng của nhà nước, cơ quan thuế: Theo chế độ tài chính hiện hành, các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp liên doanh, cổ phần có vốn của nhà nước đều quản lý và sử dụng một lượng tài sản và tiền vốn nhất định thuộc sở hữu nhà nước, do đó các cơ quan chức năng của nhà nước, như cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản đều quan tâm đến những thông tin về tình hình phân bổ và sử dụng vốn, tình hình đầu tư, khả năng tạo vốn, khả năng sinh lời, tình hình bảo toàn vốn v.v ; Với cơ quan thuế, vấn đề quan tâm với họ còn rộng hơn, cụ thể như kết quả hoạt động kinh doanh, việc thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước, như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập, thuế vốn, thuế đất, thuế tài nguyên và các khoản phải nộp khác * Phân tích tài chính đối với các nhà cho vay, các chủ nợ của doanh nghiệp, các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai: Hiện nay, vốn vay và nợ phải trả chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp. Do vậy các nhà cho vay, như các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính, những người mua tín phiếu, trái phiếu, các nhà bán chịu cho doanh nghiệp đều rất quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, khả năng trả nợ vay, hiệu quả sử dụng vốn, thu nhập của cổ phiếu, tỉ suất lợi nhuận trên vốn cổ đông, tỉ lệ trả lãi cổ phần, tỉ giá thị trường trên thu nhập của mỗi cổ phiếuv.v * Phân tích tài chính doanh nghiệp đối với những người tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả những người làm công ăn lương: Là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, do đó quyền lợi của họ gắn liền và tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Họ quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, tình hình đầu tư, khả năng thanh toán (đặc biệt là thanh toán nhanh) v.v Đối với các doanh nghiệp cổ phần, người hưởng lương cũng quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn cổ đông cũng giống với sự quan tâm của cổ đông của doanh nghiệp.
  5. * Phân tích tài chính đối với các đối thủ cạnh tranh: Hoạt động trong điều kiện của kinh tế thị trường, đặc biệt trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá, cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt. Trên cùng một thị trường, nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh mặt hàng (sản phẩm) giống nhau, ví dụ xe máy, ôtô, bia, đồ dùng gia dụng v.v , do đó các đối thủ cạnh tranh rất muốn biết những thông tin liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp khác, như kết quả sản xuất kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tình hình đầu tư, tình hình và khả năng tạo vốn thông qua phát hành tín phiếu, trái phiếuv.v Từ những vấn đề phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận rằng, có rất nhiều đối tượng quan tâm đến các báo cáo tài chính và những thông tin được rút ra từ phân tích tài chính của doanh nghiệp. Những thông tin có được qua phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để họ sử dụng trong việc đưa ra các quyết định có liên quan tới những mục đích khác nhau, như: - Quyết định có liên quan đến yêu cầu quản lý doanh nghiệp; - Quyết định chấp nhận hay từ chối cho vay, bán chịu; - Quyết định mua hay bán tín phiếu của doanh nghiệp; - Quyết định chuyển đổi quyền sở hữu doanh nghiệp (sát nhập, cổ phần, liên doanh, giải thể v.v ) v.v Chính vì những ý nghĩa tác dụng nói trên nó đã khẳng định sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp Để thực hiện được mục đích của việc phân tích tài chính doanh nghiệp, nội dung chủ yếu của nó bao gồm: - Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh; - Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp; 1.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp. Để thực hiện được các mục đích, phân tích tài chính thường sử dụng một hệ thống các phương pháp khác nhau, như phương pháp đánh giá các kết quả kinh tế, phương pháp tính (xác định) mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế, phương pháp tương quanv.v
  6. 1.3.1. Phương pháp đánh giá các kết quả kinh tế Để đánh giá các kết quả kinh tế cũng như kết quả của việc thực hiện các mục tiêu do chính doanh nghiệp đặt ra, phân tích có thể sử dụng phương pháp phân chia các hiện tượng và kết quả kinh tế, phương pháp so sánh, phương pháp đồ biểu, đồ thịv.v trong đó chủ yếu là phương pháp so sánh. * Về phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp so sánh, người ta sẽ đạt được các mục đích sau đây: - Thứ nhất, qua so sánh, người ta biết được mức độ (kết quả) của việc thực hiện các mục tiêu do chính doanh nghiệp đặt ra. Muốn vậy, cần tiến hành so sánh giữa kết quả thực tế đạt được với mục tiêu hay kế hoạch đặt ra. - Thứ hai, qua so sánh, người ta biết được tốc độ, xu hướng phát triển của các hiện tượng và kết quả kinh tế; Muốn vậy cần so sánh giữa kết quả của kì này với kết quả của các kì trước. - Thứ ba, qua so sánh sẽ biết được mức độ tiên tiến hay lạc hậu của từng đơn vị trong quá trình thực hiện mục tiêu của mình. Để đạt được mục đích này, cần tiến hành so sánh giữa kết quả của đơn vị này với kết quả của đơn vị khác có cùng loại hình và qui mô hoạt động, đồng thời so sánh giữa kết quả của từng đơn vị với kết quả trung bình của tổng thể. Tiến hành việc so sánh nói trên, có thể so sánh bằng số tuyệt đối, có thể so sánh bằng số tương đối (thông qua các tỉ lệ), đồng thời phải có hai điều kiện: - Một là phải có (tồn tại) ít nhất hai chỉ tiêu hoặc hai đại lượng thì mới có thể so sánh được; - Hai là các chỉ tiêu, các đại lượng khi so sánh với nhau phải có cùng một nội dung kinh tế và cùng một tiêu chuẩn biểu hiện. 1.3.2. Phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế. Như người ta biết, các hiện tượng và kết quả kinh tế thường chịu tác động bởi rất nhiều các nhân tố khác nhau. Các nhân tố có thể làm tăng, có thể làm giảm các kết quả kinh tế; nó có thể là nhân tố khách quan, có thể là nhân tố chủ quan; có thể là nhân
  7. tố chủ yếu và có thể là nhân tố thứ yếu v.v Việc nhận thức được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ ảnh hưởng và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố là vấn đề bản chất của phân tích. Để xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế, phân tích có thể sử dụng một hệ thống các phương pháp khác nhau, như phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch, phương pháp cân đối, phương pháp chỉ số v.v 1.3.2.1. Phương pháp thay thế liên hoàn. Phương pháp thay thế liên hoàn (còn gọi là phương pháp thay thế kiểu mắt xích) được sử dụng để xác định (tính) mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết qủa kinh tế khi các nhân tố ảnh hưởng này có quan hệ tích số, thương số hoặc kết hợp cả tích và thương với kết quả kinh tế. Nội dung và trình tự của phương pháp này như sau: - Trước hết, phải biết đựơc số lượng các nhân tốt ảnh hưởng, mối quan hệ của chung với chỉ tiêu phân tích, từ đó xác định được công thức tính của chỉ tiêu. - Thứ hai, cần sắp xếp thứ tự các nhân tố theo một trình tự nhất định: Nhân tố số lượng xếp trước, nhân tố chất lượng xếp sau; trường hợp có nhiều nhân tố số lượng cùng ảnh hưởng thì nhân tố chủ yếu xếp trước nhân tố thứ yếu xếp sau và không đảo lộn trình tự này. - Thứ ba, tiến hành lần lượt thay thế từng nhân tố một theo trình tự nói trên - Nhân tố nào được thay thế, nó sẽ lấy giá trị thực tế từ đó, còn các nhân tố chưa được thay thế phải giữ nguyên giá trị ở kỳ gốc hoặc kỳ kế hoạch - Thay thế xong một nhân tố, phải tính ra kết quả cụ thể của lần thay thế đó, lấy kết quả này so với (trừ đi) kết quả của bước trước nó thì chênh lệch tính được chính là kết quả do ảnh hưởng của nhân tố vừa được thay thế. - Cuối cùng, có bao nhiêu nhân tố phải thay thế bấy nhiêu lần và tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố phải bằng với đối tượng cụ thể của phân tích (chính là chênh lệch giữa thực tế với kế hoạch hoặc kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích). Để làm rõ các vấn đề lý luận ở trên, có thể lấy một số ví dụ khái quát như sau:
  8. Ví dụ 1: Giả định chỉ tiêu A cần phân tích; A tuỳ thuộc vào 3 nhân tố ảnh hưởng, theo thứ tự a, b và c; các nhân tố này có quan hệ tích số chỉ tiêu A, từ đó chỉ tiêu A được xác định cụ thể như sau: A = a.b.c Ta quy ước thời kỳ kế hoạch được ký hiệu là số 0 (số không) còn kỳ thực tế được ký hiệu bằng số 1 (số một) - Từ quy ước này, chỉ tiêu A kỳ kế hoạch và kỳ thực tế lần lượt được xác định như sau: A0 = a0 . b0 . c0 và A1 = a1 . b1 . c1 Đối tượng cụ thể của phân tích được xác định là: A1 - A0 = A Chênh lệch nói trên có thể được giải thích bởi ảnh hưởng của ba nhân tố cụ thể là a, b và c; bằng phương pháp thay thế liên hoàn, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt được xác định như sau: - Thay thế lần 1: Thay thế nhân tố a: a1 . b0 . c0 - a0 . b0 . c0 = a a là ảnh hưởng của nhân tố a. - Thay thế lần 2: Thay thế nhân tố b. a1b1c0 - a1b0c0 = b b là kết quả ảnh hưởng của nhân tố b. - Thay thế lần 3: Thay thế nhân tố c. a1 . b1 . c1 - a1b1c0 = c c là nhân tố ảnh hưởng của nhân tố c. - Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố, ta có: a + b + c = A = A1 - A0
  9. Ví dụ 2: Chỉ tiêu B cần phân tích: B tuỳ thuộc vào ba nhân tố, theo thứ tự a, b, c; các nhân tố này có quan hệ kết hợp cả thương và tích với chỉ tiêu B, từ đó B được xác định như sau: a B = . c b Ta cũng quy ước như ví dụ 1, từ đó B0 và B1 lần lượt được xác định như sau: a0 B0 = . c0 và b0 a1 B1 = . c1 b1 Khi so sánh giữa B1 với B0, ta có: B1 - B0 = B B cũng do ảnh hưởng của ba nhân tố a, b, c và bằng phương pháp thay thế liên hoàn, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt xác định được như sau: - Do ảnh hưởng của nhân tố a (thay thế lần 1): a1 a0 . c0 - . c0 = a b0 b0 - Do ảnh hưởng của nhân tố b (thay thế lần 2): a1 a1 . c0 - . c0 = b b1 b0 - Do ảnh hưởng của nhân tố c (thay thế lần 3): a1 a1 . c1 - . c0 = c b1 b1 - Tổng hợp ảnh hưởng của cả ba nhân tố, ta có: a + b + c = B = B1 - B0
  10. Từ thí dụ 1 đã trình bày ở trên, ta nhận thấy rằng ở các lần thay thế, giữa các đại lượng khi loại trừ lẫn nhau tồn tại các thừa số chung. Ví dụ ở lần thay thế thứ nhất, có các thừa số chung là b 0, c0; ở lần thay thế thứ 2, các thừa số chung là a 1, c0, còn ở lần thay thế thứ 3, các thừa sốchung là a 1, b1. Về mặt toán học, người ta có thể nhóm các thừa số chung mà không làm thay đổi các kết quả đã được tính toán. Kết quả của việc nhóm các thừa số chung, ta được phương pháp khác để tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố - đó là phương pháp số chênh lệch (lưu ý khi nhóm các thừa số chung vẫn phải tuân theo các quy tắc và trình tự của phương pháp thay thế liên hoàn, đặc biệt là không được làm đảo lộn thứ tự ảnh hưởng của các nhân tố). Cụ thể, bằng phương pháp nói trên, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố ở ví dụ 1 lần lượt được xác định như sau: - Do ảnh hưởng của nhân tố a: a = (a1 - a0)b0c0 - Do ảnh hưởng của nhân tố b: b = a1(b1 - b0)c0 - Do ảnh hưởng của nhân tố c: c = a1b1(c1 - c0) - Tổng hợp ảnh hưởng của cả ba nhân tố, ta cũng có: a + b + c = A = A1 - A0 Từ kết quả tính toán ở trên, ta nhận thấy rằng thực chất của phương pháp số chênh lệch chỉ là hình thức giản đơn của phương pháp thay thế liên hoàn và nó thường được sử dụng khi các nhân tố ảnh hưởng có quan hệ tích số với chỉ tiêu phân tích (việc tính toán khi đó sẽ đơn giản hơn). 1.3.2.2. Phương pháp cân đối. Khác với phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch, phương pháp cân đối được sử dụng để tính mức độc ảnh hưởng của từng nhân tố khi chúng có quan hệ tổng với chỉ tiêu phân tích, cho nên mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố là độc lập với nhau và việc tính toán cũng đơn giản hơn.
  11. Cụ thể, để tính mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó, chỉ cần tính ra chênh lệch giữa thực tế với kế hoạch (kỳ gốc) của bản thân nhân tố đó và không cần quan tâm đến các nhân tố khác. Ví dụ: Chỉ tiêu E cần phân tích: E chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố a, b, c và các nhân tố này có quan hệ tổng với chỉ tiêu E. Chỉ tiêu E được xác định như sau: E = a + b - c Cũng qui ước như ở phần trước, ta có: E0 = a0 + b0 - c0 E1 = a1 + b1 - c1 Tiến hành so sánh giữa chỉ tiêu kỳ thực tế với kỳ kế hoạch ta có: E1 - E0 = E Khi sử dụng phương pháp cân đối, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt được xác định như sau: - Do ảnh hưởng của nhân tố a: a = a1 - a0 - Do ảnh hưởng của nhân tố b: b = b1 - b0 - Do ảnh hưởng của nhân tố c: c = -(c1 - c0) - Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố, ta có: a + b + c = E = E1 - E0 1.3.3. Phương pháp tương quan Như người ta biết, giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế thường tồn tại những mối quan hệ tác động qua lại mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Đặc trưng cơ bản của các
  12. mối quan hệ này là sự thay đổi của hiện tượng hoặc kết quả kinh tế này sẽ xác định (kéo theo) sự thay đổi của các hiện tượng hoặc kết quả kinh tế khác. Nếu xét theo quan điểm triết học, giữa chúng tồn tại mối quan hệ nhân quả, còn xét theo quan điểm toán học, giữa chúng có mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc và nó có thể được biểu hiện qua những hàm tương quan khác nhau - Vấn đề đặt ra là lựa chọn phương trình tương quan nao để biểu thị tốt nhất sự phụ thuộc lẫn nhau hay là mối liên hệ chặt chẽ giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế - Đây cũng là vấn đề bản chất khi sử dụng các hàm tương quan trong phân tích. Mối tương quan giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế có thể tồn tại dưới hai dạng: Tương quan tỉ lệ thuận và tương quan tỉ lệ nghịch. Trường hợp tương quan tỉ lệ thuận - Trong trường hợp này, việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế này sẽ kéo theo (xác định) việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế khác và ngược lại. Người ta có thể gọi là mối tương quan đồng biến. Ví dụ, mối quan hệ giữa khối lượng sản phẩm sản xuất với tổng số chi phí sản xuất có tính chất biến đổi - trong điều kiện các nhân tố khác không đổi (điều kiện yếu tố sản xuất không đổi), khi khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì tổng số chi phí sản xuất biến đổi cũng tăng lên và ngược lại. Nếu biểu hiện và theo dõi sự biến thiên của hai hiện tượng nói trên trong nhiều năm liên tục (ít nhất là 5 năm) trên cùng một hệ trục toạ độ XOY - trong đó OX là trục hoành, biểu thị khối lượng sản phẩm sản xuất, còn OY là trục tung, biểu thị tổng số chi phí sản xuất biến đổi, người ta nhận thấy rằng đường biểu diễn của nó có dạng đường thẳng, gần trùng với đường biểu diễn của hàm số mà phương trình của nó có dạng: Y = a + bx điều đó có nghĩa là, có thể sử dụng hàm hồi quy mà phương trình của nó có dạng y = a + bx để biểu thị mối tương quan giữa khối lượng sản phẩm sản xuất với tổng số chi phí sản xuất biến đổi; trong đó: Ox là trục biểu hiện giá trị khối lượng sản phẩm Oy là trục biểu hiện tổng số chi phí biến đổi. Đồ thị của hàm số y = a + bx có dạng là đường thẳng - Hình 1 y y = a + bx a O x
  13. Hình 1 - Trường hợp tương quan tỉ lệ nghịch - Trường hợp này ngược lại với trường hợp trên, nghĩa là việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế này sẽ xác định (kéo theo) việc giảm của hiện tượng hay kết quả kinh tế khác và ngược lại. Có thể gọi nó là mối tương quan nghịch biến. Ví dụ mối tương quan giữa giá trị khối lượng sản phẩm sản xuất với tỉ suất chi phí sản xuất có tính chất cố định: Trong điêu kiện của nhân tố khác không đổi, nếu khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì tổng số chi phí cố định không biến động, còn tỉ suất của nó thì giảm và ngược lại. Cũng theo dõi sự biến động của hai hiện tượng trên cùng một hệ trục tọa độ xOy, trong đó Ox là trục hoành, biểu thị khối lượng sản phẩm sản xuất, còn Oy là trục tung, biểu thị tỉ suất chi phí cố định, khi đó đường biểu diễn của nó có dạng đường cong gần giống với đường cong hypecbol ứng với hàm hồi quy mà phương trình của nó có dạng: b y a x điều đó có nghĩa là có thể sử dụng hàm hồi quy mà phương trình có dạng b y a để biểu thị mối tương quan giữa khối lượng sản phẩm sản xuất và tỉ suất chi x phí cố định - Trong đó Ox là trục biểu hiện khối lượng sản phẩm sản xuất; còn Oy là trục biểu hiện tỉ suất chi phí cố định. b Đồ thị của hàm số y a được biểu thị như sau- Hình 2 x y b y a x a O x
  14. Hình 2 Các kết quả thu dược khi sử dụng các hàm hồi quy thông qua ngoại suy chủ yếu phục vụ cho phân tích dự đoán để lập các chỉ tiêu cho các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn. Nhưng khi sử dụng các kết quả đó phải lưu ý rằng chúng được tính toán dựa trên các hiện tượng và kết quả kinh tế đã xẩy ra trong quá khứ và lại được sử dụng cho hiện tại và tương lai gần, trong đó chúng còn chịu tác động bởi nhiều nhân tố khác. Do đó, cần phải tính đến sự tác động của các nhân tố đó để tiến hành điều chỉnh phù hợp với tình hình biến động của thực tế, đảm bảo tính hiện thực, tính khoa học của các chỉ tiêu, giúp cho công tác quản lý đạt được hiệu quả cao nhất. 1.4. Tổ chức công tác phân tích và các loại phân tích Cũng như bất kì công tác nào của doanh nghiệp, công tác phân tích tài chính cũng cần được tổ chức một cách có hệ thống và khoa học để thực hiện được các mục tiêu của nó. Cụ thể tổ chức công tác phân tích thường bao gồm 4 khâu (giai doạn) cơ bàn sau đây: - Khâu lập kế hoạch: Nội dung cơ bản của khâu này bao gồm: Nội dung, chỉ tiêu cần phân tích; khoảng thời gian mà các nội dung, chỉ tiêu đó phát sinh (trong quí, năm v.v ); thời hạn bắt đầu và kết thúc và cuối cùng là người, đơn vị thực hiện. - Khâu sưu tầm, lựa chọn kiểm tra tài liệu số liệu. Tuỳ thuộc vào nội dung và chỉ tiêu phân tích mà tiến hành sưu tầm, lựa chọn và kiểm tra số liệu, tài liệu sau đây: + Tài liệu kế hoạch, bao gồm hệ thống các định mức kinh tế kĩ thuật hiện hành,các mục tiêu, chỉ tiêu dài hạn và ngắn hạn do chính doanh nghiệp tự xác định. + Tài liệu hạch toán, bao gồm tài liệu của hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê và hạch toán kế toán, trong đó chủ yếu là hạch toán kế toán. Cụ thể để phân tích tài chính doanh nghiệp cần sử dụng số liệu, tài liệu được rút ra từ báo cáo kết quả hoạt động kinh
  15. doanh (mẫu số B02 - DN), Bảng cân đối kế toán (mẫu số B01-DN), thuyết minh Báo cáo tài chính - mục chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính (mẫu số B09-DN). + Tài liệu ngoài hạch toán, bao gồm các biên bản thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, các báo cáo tổng kết hoạt động của doanh nghiệpv.v Vì các số liệu, tài liệu được sưu tầm lựa chọn từ nhiều nguồn khác nhau nên cần kiểm tra để xác định tính chính xác, tính thống nhất của chúng. - Khâu xử lý, tính toán chỉ tiêu và tiến hành phân tích. Đây là khâu quan trọng nhất của công tác phân tích, do đó cần được tiến hành theo phương pháp phù hợp để đảm bảo kết quả của công tác phân tích. - Khâu lập báo cáo phân tích: Kết thúc công tác phân tích, cần lập báo cáo phân tích. Nội dung chủ yếu của báo cáo phân tích bao gồm: + Những kết luận được rút ra từ công tác phân tích. + Những nguyên nhân chủ yếu đã ảnh hưởng đến các kết quả kinh tế của doanh nghiệp; + Những biện pháp cơ bản cần áp dụng để khắc phục được những tồn tại đã qua, động viên và khai thác khả năng tiềm tàng của kì sắp tới. * Các loại phân tích: Tuỳ theo mục đích và phạm vi khác nhau, phân tích tài chính có thể được phân thành phân tích thực hiện và phân tích dự đoán; Trong phân tích thực hiện có thể bao gồm phân tích toàn diện và phân tích chuyên đề. Nói chung, phân tích chuyên đề thường tiến hành thường xuyên (hoặc định kì), còn phân tích toàn diện chỉ có thể tiến hành theo định kì. Để nâng cao được giá trị của những kết luận được rút ra từ phân tích, cần kết hợp sử dụng các kiến thức của các môn học có liên quan, như thống kê, kinh tế, tài chính doanh nghiệp, kế toánv.v và áp dụng những thành tựu của các phương tiện kĩ thuật tính toán hiện đại sao cho kết quả thu được ngày càng cao hơn, phục vụ tốt nhất cho các mục tiêu của quản lý doanh nghiệp.
  16. Chương 2 Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh Như người ta biết, có rất nhiều đối tác quan tâm và sử dụng các số liệu được phản ánh trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, trong đó có báo cáo "kết quả hoạt động kinh doanh" - mẫu số B02-DN. * Với các nhà đầu tư, vì mục tiêu của họ là lợi nhuận, do đó họ rất quan tâm đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để quyết định tiếp tục hay ngừng việc đầu tư vào doanh nghiệp (ví dụ tiếp tục mua hay quyết định bán tín phiếu của doanh nghiệp). * Với các nhà cho vay, họ quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để quyết định cho vay hay từ chối tín dụng, bởi vì kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là cơ sở để đảm bảo hoàn trả cả vốn và lãi tiền vay cho họ. * Với các nhà cung cấp, dựa vào kết quả hoạt động kinh doanh, họ đánh giá được khả năng thanh toán, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, do vậy nó là cơ sở để họ quyết định có tiếp tục hay ngừng việc cung cấp (bán hàng) thiết bị, vật tư cho doanh nghiệp; * Với cơ quan thuế, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là cơ sở để cơ quan thuế xác định được các khoản thu từ doanh nghiệp, trong đó có thuế thu nhập doanh nghiệp; Với các cơ quan chức năng của nhà nước, thông qua kết quả hoạt động kinh doanh, họ có các quyết định điều chỉnh các cơ chế chính sách tài chính, cơ chế quản lý sao cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ví dụ chính sách ưu đãi về Tài chính - Tín dụng, việc sát nhập, cổ phần, bán, cho thuê, giải thể doanh nghiệpv.v Với những người tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, đương nhiên kết quả hoạt động kinh doanh trực tiếp liên quan đến thu nhập của họ v.v * Với bản thân doanh nghiệp: Trong điều kiện hiện nay, đương nhiên để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải bán được sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Việc bán được sản phẩm có nghĩa là sản phẩm do doanh nghiệp làm ra đã được thị trường chấp nhận, do đó doanh nghiệp sẽ thực hiện được giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm, từ đó mới có điều kiện để bù
  17. đắp được những chi phí đã bỏ ra, tiếp tục quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Mặt khác, để tồn tại và phát triển, số tiền thu về do bán sản phẩm phải lớn hơn số tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và bán được sản phẩm đó. Nói cách khác, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả tức là phải thu được lợi nhuận. Như vậy, lợi nhuận phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có được lợi nhuận, doanh nghiệp mới thực hiện được việc bổ xung thêm vốn, từ đó mới có điều kiện để mở rộng hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư phát triển, tạo ra những tiền đề cơ bản để tiếp tục nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh, đồng thời không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, thực hiện được các nghĩa vụ với nhà nước, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của ngành nói riêng, của đất nước nói chung. Với tất cả những ý nghĩa nói trên, người ta thấy rằng cần thiết phải tiến hành phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp. * Nội dung chủ yếu của phân tích kết quả hoạt động kinh doanh bao gồm: - Phân tích môi trường kinh doanh và tác động của nó đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Phân tích chỉ tiêu lợi nhuận bán hàng. * Tài liệu chủ yếu dùng để phân tích: - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (mẫu số B.02-DN). - Thuyết minh báo cáo tài chính (mẫu số B.09-DN). - Báo cáo chi tiết về kết quả sản xuất, chi phí và giá thành sản phẩm, và tiêu thụ sản phẩm v.v Sau đây sẽ lần lượt tiến hành phân tích các nội dung nói trên. 2.1. Phân tích môi trường kinh doanh và tác động của nó đến các quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh là tập hợp những lực lượng "ở bên ngoài" mà các doanh nghiệp đều phải tính đến khi xác định chiến lược kinh doanh, vì các doanh nghiệp
  18. không thể là một thực thể cô lập và hoạt động của nó không thể tự đóng kín với môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp thường đa dạng, sinh động và sự biến động của nó có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy cần thiết phải phân tích môi trường kinh doanh để thông qua đó giúp cho các nhà quản lí có thể dự đoán được khả năng có thể xảy ra để hướng cho doanh nghiệp ứng phó được kịp thời, tránh được những rủi ro không cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Như người ta biết, câu hỏi đầu tiên đặt ra với các nhà quản lí là về chiến lược sản phẩm. Cụ thể trong giai đoạn hiện tại, đâu là sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp và trong tương lai, hướng phát triển sản phẩm mới của doanh nghiệp như thế nào Để trả lời câu hỏi đó, cần thiết phải nghiên cứu, phân tích các vấn đề sau đây: - Vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp; - Đối thủ cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; - Quan hệ với các nhà cung cấp; - Các yếu tố về chính trị, kinh tế, tự nhiên, xã hội, văn hoá, khoa học kĩ thuật v.v * Trước hết là vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm: Trước khi quyết định về qui mô, khối lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã sản phẩm cần sản xuất kinh doanh thì phải biết rõ khách hàng của doanh nghiệp là ai (đối tượng phục vụ của doanh nghiệp). Ví dụ nếu người tiêu dùng thuộc các khu đô thị có thu nhập cao thì vấn đề chủ yếu đối với họ là mẫu mã, chất lượng và tính năng của sản phẩm, còn giá cả của sản phẩm có cao hơn, họ vẫn chấp nhận được. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp cần phải đầu tư chiều sâu, hiện đại hoá thiết bị, sử dụng công nghệ cao, tìm nguồn cung cấp nguyên liệu đúng chủng loại đảm bảo chất lượng, sử dụng đội ngũ lao động có tay nghề để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú. Trường hợp người tiêu dùng thuộc vùng nông thôn, miền núi, kinh tế chậm phát triển, thu nhập tiền tệ thấp, khi đó họ quan tâm chủ yếu đến giá bán của sản phẩm. Trường hợp người tiêu dùng là các cơ quan, tổ chức, tập thể thì các yếu tố giá cả, thị hiếu không phải là trọng yếu; Trường hợp người tiêu dùng là các nhà buôn, nhu cầu của họ thường rất lớn vì họ mua để bán kiếm lời, do đó họ quan tâm đến tất cả các yếu tố có liên quan nói trên. Trường hợp doanh nghiệp sản xuất sản phẩm để xuất khẩu thì yêu cầu về chất lượng,
  19. qui cách, mẫu mã, bao bì đóng gói và thời hạn giao hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm ngặt theo hợp đồng đã kí kết. Cuối cùng nếu người tiêu dùng là các doanh nghiệp khác, sản phẩm của ta lại là nguyên liệu của họ thì cái họ quan tâm lại là số lượng, chất lượng và giá cả của sản phẩm. Như vậy tuỳ thuộc vào đối tượng phục vụ mà doanh nghiệp có các quyết định thích ứng kịp thời, sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, vừa tăng được lợi ích cho bản thân doanh nghiệp. * Về đối thủ cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là xu thế tất yếu mà các doanh nghiệp đều phải chấp nhận. Đối thủ cạnh tranh là các doanh nghiệp hiện tại cùng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cùng loại và các doanh nghiệp sẽ hình thành tương lai gần, bao gồm cả doanh nghiệp trong và ngoài nước. Số lượng các doanh nghiệp cùng loại hình sản xuất càng nhiều, qui mô càng lớn thì mức độ cạnh tranh càng khốc liệt, vì thế người ta mói nói "thương trường là chiến trường". Sức mạnh của cạnh tranh được thể hiện thông qua chất lượng, mẫu mã, giá trị sử dụng, giá bán của sản phẩm cũng như thông qua phương thức bán, hình thức bán, phương pháp tiếp thị, quảng cáo v.v Hoạt động trong môi trường cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm biện pháp để giảm chi phí, nâng cao chất lượng, thường xuyên cải tiến mẫu mã, thay đổi cơ cấu mặt hàng, tìm kiếm thị trường mới và cuối cùng để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, cần xây dựng và bảo vệ được thương hiệu của doanh nghiệp. * Về quan hệ với các nhà cung cấp: Để tiến hành sản xuất (để đáp ứng đầu vào), doanh nghiệp cần xác lập mối quan hệ thường xuyên tin cậy với các nhà cung cấp, bao gồm các nhà cung cấp thiết bị, vật tư, lao động, tiền vốn, thông tin v.v Mối quan hệ càng rộng, mức độ càng bền vững thì tính ổn định của đầu vào càng cao và do đó nó là tiền đề rất quan trọng đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ổn định và phát triển. * Về các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô: - Yếu tố chính trị: Tuy tiến hành hoạt động kinh doanh, nhưng kết quả của hoạt động kinh doanh lại tuỳ thuộc không nhỏ vào yếu tố chính trị. Đó là sự ổn định về chính trị, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, các quan điểm, các chính sách, chế độ của nhà nước về hội nhập, về đầu tư của nước ngoài, về tài chính, tín dụng, giá cả, thuế v.v Nhận thức được các yếu tố nói trên sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được
  20. giới hạn của hành lang pháp lí, từ đó đưa ra được các quyết định thích hợp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. (Ví dụ khi nhà nước đưa ra các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông, giảm lượng xe máy lưu thông trên đường thì các nhà sản xuất xe máy cần xác định lại qui mô sản xuất và cơ cấu mặt hàng cho phù hợp). - Yếu tố kinh tế: Vì sức mua có tác động rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh, do đó khi quyết định mở rộng hay thu hẹp qui mô sản xuất kinh doanh, quyết định đầu tư chiều sâu hay quyết định thay đổi cơ cấu mặt hàng sản xuất kinh doanh, các nhà quản lí doanh nghiệp đều phải tính đến yếu tố kinh tế hiện thời, như tốc độ tăng trưởng của ngành, của toàn bộ nền kinh tế, chính sách lãi suất ngân hàng, chính sách khuyến khích hay hạn chế đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, việc đổi mới cơ chế quản lí đối với doanh nghiệp nhà nước v.v - Yếu tố tự nhiên: Tuỳ thuộc vào đặc điểm của sản phẩm, các nhà quản lý phải tính đến nguồn lực và tài nguyên thiên nhiên vì nó là yếu tố cơ bản để đảm bảo cung cấp đầu vào, như điện nước, dầu mỏ, quặng, rừng, đất đaiv.v Mặt khác, để bảo vệ môi trường sinh thái, các doanh nghiệp cần có quyết định lựa chọn thiết bị, công nghệ sản xuất phù hợp để trong quá trình sản xuất nó đảm bảo được các tiêu chuẩn do vệ sinh môi trường qui định. - Yếu tố văn hoá, xã hội: Vì đối tượng phục vụ của doanh nghiệp suy đến cũng đều là nhu cầu tiêu dùng của con người, do vậy các quyết định liên quan đến sản xuất đều phải tính đến yếu tố văn hoá và xã hội. Yếu tố này bao gồm: sự gia tăng về dân số, cơ cấu và việc phân bổ dân cư, thói quen, truyền thống văn hoá và tiêu dùng, vấn đề thị hiếu tiêu dùng, nhận thức, thái độ của con người trước cuộc sống hiện tại, các quan niệm, lối sống và các giá trị văn hoá, đạo đức xã hội v.v Các yếu tố nói trên sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết định sản xuất về số lượng cơ cấu, chất lượng, mẫu mã của sản phẩm. - Yếu tố khoa học kĩ thuật: Ngày nay, khoa học kĩ thuật đang phát triển với tốc độ rất nhanh, do vậy để không bị lạc hậu, để tăng khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến yếu tố khoa học kĩ thuật để có quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn thiết bị, công nghệ, việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào sản xuất để tạo ra bước thay đổi cơ bản về chất lượng, mẫu mã, tăng năng suất lao động, giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
  21. 2.2. Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến nó. 2.2.1 Đánh giá chung kết quả hoat động kinh doanh Theo chế độ qui định hiện hành, các chỉ tiêu chủ yếu của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bao gồm: - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ; - Các khoản giảm trừ; - Doanh thu thuần; - Giá vốn hàng xuất bán; - Doanh thu hoạt động tài chính; - Chi phí tài chính; - Chi phí bán hàng; - Chi phí quản lý doanh nghiệp; - Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh; - Thu nhập khác; - Chi phí khác; - Lợi nhuận khác và cuối cùng là; - Tổng lợi nhuận trước thuế. Dựa vào mẫu sổ báo cáo nói trên, người ta nhận thấy rằng, tổng số lợi nhuận trước thuế tuỳ thuộc vào 9 nhân tố ảnh hưởng, trong đó nhân tố doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, doanh thu hoạt động tài chính, thu nhập khác, là những nhân tố ảnh hưởng (tác động) thuận chiều, còn các nhân tố: các khoản giảm trừ, giá vốn của hàng xuất bản, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí tài chính, chi phí khác đều tác động ngược chiều đến tổng số lợi nhuận trước thuế. * Trước hết là doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ.
  22. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ phản ánh số tiền thu được hoặc sẽ thu được về bán sản phẩm hàng hoá và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp cho khách hàng, bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có). Như ở trên đã chỉ rõ, nhân tố này ảnh hưởng thuận chiều đến tổng lợi nhuận trước thuế, do vậy doanh nghiệp cần tìm mọi biện pháp để tăng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Như người ta biết, doanh thu tuỳ thuộc vào khối lượng hàng hoá (dịch vụ) bán ra và giá bán của nó. Trong điều kiện hiện nay, khi cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt thì trừ những hàng hoá và dịch vụ do nhà nước qui định giá bán, nói chung giá bán biến động là tuỳ thuộc vào thị trường và có xu hướng giảm. Do vậy để tăng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, các doanh nghiệp chỉ có thể áp dụng những biện pháp chủ yếu để tăng được khối lượng của hàng hoá (dịch vụ) bán ra. Việc tăng hay giảm khối lượng hàng hoá (dịch vụ) bán ra nó lại tuỳ thuộc vào việc tăng hay giảm khối lượng, chất lượng của sản xuất và tuỳ thuộc vào kết quả công tác bán hàng của doanh nghiệp. * Đối với các khoản giảm trừ: Các khoản giảm trừ, theo qui định hiện hành bao gồm: - Chiết khấu thương mại; - Giảm giá hàng bán; - Trị giá hàng bán bị trả lại; - Thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp trực tiếp. + Chiết khấu thương mại phát sinh khi khách hàng mua với khối lượng lớn; Như vậy để giảm chiết khấu thương mại thì phải hạn chế khách hàng mua hàng với khối lượng lớn, điều đó là trái với yêu cầu của công tác quản lý sản xuất kinh doanh nói chung, quản lý bán hàng nói riêng. Nói cách khác, để tăng doanh thu bán hàng, cần khuyến khích người mua với khối lượng lớn, do đó chiết khấu thương mại sẽ có xu hướng tăng lên. + Đối với giảm giá hàng bán: Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt, để chiếm lĩnh được thị trường nhằm tăng được doanh thu, các doanh nghiệp thường sử dụng giá bán như là một công cụ quan trọng. Do vậy xu hướng thực tế là cạnh tranh
  23. càng khối liệt, giá bán của sản phẩm cạnh tranh càng có xu hướng giảm. Nói cách khác, trong điều kiện hiện nay, để tăng doanh thu, không thể áp dụng biện pháp tăng giá bán mà ngược lại, cần thực hiện chính sách giảm giá. Đối với hàng bán bị trả lại, đây là những hàng hoá không thoả tmãn được nhu cầu của người tiêu dùng, không phù hợp với những điều khoản trong hợp đồng, như chất lượng không đảm bảo, mẫu mã không phù hợp, giao hàng không đúng thời hạn v.v Nói chung trong kinh doanh, cần hạn chế, loại trừ phát sinh của yếu tố nói trên vì nó làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. + Đối với các loại thuế: Theo luật định, nộp thuế là nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước, do đó không thể trốn lậu thuế để tăng doanh thu. Qua phân tích chi tiết ở trên, có thể rút ra kết luận rằng không thể đưa ra các quyết định giảm các khoản giảm trừ (trừ trị giá hàng bán bị trả lại) để tăng doanh thu bán hàng cho doanh nghiệp. * Đối với giá vốn của hàng xuất bán: ảnh hưởng của nhân tố này là ngược chiều đến lợi nhuận bán hàng. Trong các doanh nghiệp sản xuất, giá vốn của hàng xuất bán chính là giá thành sản xuất của sản phẩm xuất kho. Như vậy, đây là nhân tố chủ yếu làm tăng (giảm) lợi nhuận bán hàng của doanh nghiệp, do đó nó là trọng điểm của công tác quản lý sản xuất kinh doanh nói chung, quản lý lợi nhuận nói riêng. Nhân tố này sẽ được phân tích chi tiết và cụ thể hơn khi phân tích chỉ tiêu lợi nhuận bán hàng. * Đối với doanh thu hoạt động tài chính: Việc phát sinh doanh thu hoạt động tài chính sẽ làm tăng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, do đó nó là yếu tố làm tăng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu nhập hoạt động tài chính còn chiếm tỉ trọng nhỏ và nó có xu hướng tăng dần trong tương lai. * Đối với chi phí tài chính: Việc phát sinh chi phí tài chính là ngược chiều với nội dung phát sinh doanh thu hoạt động tài chính, nghĩa là nếu hoạt động tài chính bị lỗ thì đó chính là các khoản chi phí tài chính và nó sẽ làm giảm lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh. * Đối với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
  24. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp là yếu tố cấu thành giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ. Đối với các doanh nghiệp có hoạt động tài chính và hoạt động khác thì chi phí quản lý doanh nghiệp có liên quan đến các hoạt động nói trên và khi cần phân bổ cho từng hoạt động, có thể dựa vào doanh thu của từng hoạt động. Các loại chi phí nói trên khi phát sinh đều làm giảm kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. * Đối với thu nhập khác: Việc phát sinh thu nhập khác sẽ là điều kiện để tăng lợi nhuận khác, nó bao gồm thu từ nhượng bán, thanh lí tài sản cố định, thu tiền phạt, thu nợ khó đòi, thuế được hoàn lại, tiền thưởng, quà biếu, thu nhập kinh doanh bị bỏ sót hoặc chưa ghi sổ kế toán của năm trước. Thực tế các khoản thu nói trên cũng chiếm tỉ trọng không đáng kể của các doanh nghiệp, do đó không phải là trọng điểm của công tác quản lý. * Đối với chi phí khác: Đây là những chi phí của các hoạt động ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh, như lỗ do các sự kiện hay nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động thông thường của doanh nghiệp, chi phí bị bỏ sót của kì trướcv.v. và nói chung nó phát sinh ngược chiều với sự phát sinh của thu nhập khác. Nhân tố này ảnh hưởng ngược chiều đến kết quả kinh doanh. * Về ví dụ phân tích: Giả định tại Công ty X có các số liệu như sau: (Đơn vị: 1 triệu đồng) Dự kiến Chỉ tiêu Thực hiện (kế hoạch) 1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ 50.000 52.000 2. Các khoản giảm trừ 2.000 2.500 Trong đó: Chiết khấu thương mại 2.000 2.500 3. Giá vốn của hàng xuất bán 38.000 39.500
  25. 4. Doanh thu hoạt động tài chính 1.000 1.200 5. Chi phí tài chính 800 900 6. Chi phí bán hàng 2.000 2.050 7. Chi phí quản lý doanh nghiệp 3.000 3.050 8. Thu nhập khác - 250 9. Chi phí khác - 150 10. Tổng lợi nhuận trước thuế 5.200 5.300 Dựa vào số liệu của Bảng 2.1 ta có thể lập bảng phân tích như sau: (Bảng 2.2.) Chênh lệch (+ -) Làm Dự tăng (+) kiến Thực Chỉ tiêu Số tiền giảm (-) (Kế hiện % (trđ) lợi hoạch) nhuận 1. Doanh thu án hàng và cung cấp 50.000 52.000 + + 4 + 2.000 dịch vụ 2.000 2. Các khoản giảm trừ. 2.000 2.500 + 500 + 25 - 500 - Trong đó: Chiết khấu thương 2.000 2.500 + 500 (+25) (- 500) mại 3. Giá vốn của hàng xuất bán 38.000 39.500 + + 3,94 - 1.500 1.500
  26. 4. Doanh thu hoạt động tài chính 1.000 1.200 + 200 + 20 + 200 5. Chi phí tài chính 800 900 + 100 + 12,5 - 100 6. Chi phí bán hàng 2.000 2.050 + 50 + 2,5 - 50 7. Chi phí quản lý doanh nghiệp 3.000 3.050 + 50 + 1,66 - 50 8. Thu nhập khác - 250 + 250 - + 250 9. Chi phí khác - 150 + 150 - - 150 10. Tổng lợi nhuận trước thuế 5.200 5.300 + 100 + 1,92 - Căn cứ vào các số liệu của bảng 2.2 ta có thể rút ra một số nhận xét như sau: - So với mục tiêu đặt ra (dự kiến), tổng số lợi nhuận trước thuế trong kì đã tăng 100 triệu đồng, với tỉ lệ tăng là 1,92%. Việc tăng được tổng số lợi nhuận trước thuế sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đơn vị thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác, như nộp ngân sách, trích lập các quỹ, bổ xung thêm vốn, cải thiện đời sống vật chất và văn hoá cho người lao động. Để đánh giá chính xác, cụ thể kết quả nói trên, cần dựa vào mức độ và tính chất ảnh hưởng của từng nhân tố. - Trước hết, việc tăng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong kì 2000 triệu đồng, điều kiện các nhân tố khác không đổi đã làm tăng tương ứng tổng lợi nhuận trước thuế là 2000 triệu đồng. Xét về mức độ thì đây là nhân tố chủ yếu làm tăng lợi nhuận trong kì. Xét về tính chất, ta thấy việc tăng doanh thu phản ánh kết quả tăng cả số lượng và chất lượng của sản xuất, đồng thời đơn vị đã tổ chức tối công tác bán hàng, do đó nó là tác động của nhân tố chủ quan. - Các khoản giảm trừ trong kì tăng 500 triệu đồng đã làm giảm lợi nhuận tương ứng là 500 triệu đồng. Theo tài liệu cho thì đây là số tăng của chiết khấu thương mại, chứng tỏ khối lượng hàng hoá bán buôn trong kì đã tăng và do đó việc giảm lợi nhuận nói chung, lợi nhuận bán hàng nói riêng là đương nhiên. - Giá vốn của hàng xuất bán trong kì tăng 1500 triệu đồng đã làm giảm tương ứng lợi nhuận trong kì là 1500 triệu đồng. Xét về mức độ thì đây là nhân tố chủ yếu làm giảm lợi nhuận của đơn vị. Thực chất ảnh hưởng của nhân tốt này là ảnh hưởng của giá thành sản xuất; như vậy có thể suy ra rằng giá thành sản xuất trong kì đã tăng hay là đơn vị đã quản
  27. lý, sử dụng chưa hợp lí lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất. Để có đánh giá chính xác, cụ thể hơn, cần thiết phải đi sâu phân tích đối với giá thành theo từng khoản mục, qua đó mới biết được nguyên nhân nào đã làm tăng giá thành, từ đó mới có các quyết định thích hợp của quản lý. Việc phân tích nói trên sẽ được tiến hành ở nội dung tiếp theo. - Doanh thu hoạt động tài chính tăng 200 triệu đồng đã làm tăng lợi nhuận tương ứng 200 triệu đồng; Để đánh giá được cụ thể, chính xác tác động của nhân tố này, cần dựa vào tài liệu hạch toán chi tiết để xác định được nội dung cấu thành của chỉ tiêu nói trên, vì doanh thu hoạt động tài chính như đã đề cập ở phần trước nó bao gồm rất nhiều các yếu tố có nguồn gốc phát sinh khác nhau, do đó việc đánh giá cũng khác nhau, ví dụ lãi tiền vay, lãi tiền gửi, lãi bán hàng trả chậm, thu nhập do cho thuê tài sản, lợi tức, cổ tức được chia, thu nhập về hoạt động đầu tư, chênh lệch tỷ giá - Chi phí tài chính trong kỳ tăng 100 triệu đồng đã làm giảm lợi nhuận tương ứng 100 triệu đồng. Nếu so với thu nhập từ hoạt động tài chính thì kết quả của hoạt động tài chính vẫn mạng lại lợi ích cho doanh nghiệp, cụ thể làm tăng tổng số lợi nhuận là 100 triệu đồng (100trđ = + 200 trđ - 100 trđ). Như vậy xu hướng trên cần tiếp tục động viên và khai thác trong kì tới. - Chi phí bán hàng trong kì tăng 50 triệu đồng, chi phí quản lý doanh nghiệp cũng tăng 50 triệu đồng đã làm lợi nhuận giảm tương ứng 100 triệu đồng; Việc tăng chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng phản ánh việc quản lý sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh nói chung, quá trình bán hàng nói riêng là chưa hợp lý. Phải dựa vào tài liệu hạch toán chi tiết của các yếu tố nói trên để biết được cụ thể chi phí đã tăng ở nội dung nào, ví dụ chi phí tiền lương, chi phí quảng cáo, chi phí văn phòng v.v , từ đó mới có kết luận chính xác và cụ thể hơn và mới có các quyết định quản lý thích hợp. - Trong kì phát sinh thu nhập khác là 250 triệu đồng, chi phí khác là 150 triệu đồng, từ đó làm tổng lợi nhuận trước thuế tăng 100 triệu đồng; Đây cũng là xu hướng tích cực cần được chú ý để động viên và khai thác trong kì tới. Tóm lại, qua phân tích chi tiết ở trên, có thể đi đến kết luận như sau: Việc tăng được tổng lợi nhuận trước thuế trong kì tới chủ yếu là do đơn vị đã tăng được doanh thu bán hàng. Để đánh giá chính xác tác động của nhân tố này, cần tiếp tục đi
  28. sâu phân tích để làm rõ, trong tổng số tăng đó thì bao nhiêu đó là tăng khối lượng, bao nhiêu là do điều chỉnh giá bán, từ đó mới có các quyết định quản lý thích hợp để tăng được kết quả kinh doanh một cách tích cực và bền vững. Mặt khác, nhân tố chủ yếu làm giảm lợi nhuận trong kì lại là việc tăng giá vốn của hàng xuất bán, cũng chính là giá thành sản xuất thực tế đã tăng, do vậy cũng cần tiếp tục đi sâu phân tích để làm rõ trong tổng số tăng của giá thành thì tăng cụ thể ở khoản mục chi phí nào và vì sao khoản mục đó lại tăng, từ đó mới có các biện pháp thích hợp, cần thiết để hạn chế, loại trừ được tác động của các nhân tố tiêu cực (làm tăng giá thành) động viên và khai thác được tác động của các nhân tố tích cực (làm giảm gía thành) với mục đích cuối cùng là tăng được lợi nhuận cho đơn vị. Những vấn đề nêu ở trên sẽ được nghiên cứu, phân tích ở nội dung tiếp theo. 2.2.2. Phân tích các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. 2.2.2.1. Phân tích doanh thu bán hàng. Doanh thu về bán hàng (kí hiệu là D) là doanh thu mà doanh nghiệp được hưởng (sau khi đã loại trừ các khoản giảm trừ ra khỏi doanh thu bán hàng). Nói một cách cụ thể hơn, đây là số tiền mà doanh nghiệp đã thu được (hoặc sẽ thu được) do bán những sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra, do đó nó có thể được xác định như sau: n D =  Sli gi i 1 Dựa vào công thức xác định nói trên, ta nhận thấy doanh thu tuỳ thuộc vào hai nhân tố ảnh hưởng cụ thể. - Số lượng (khối lượng) hàng hoá bán ra. - Giá bán bình quân đơn vị của hàng bán ra. Như vậy, để tăng doanh thu, người ta có thể áp dụng các biện pháp để tăng được số lượng hàng hoá bán ra và tăng giá bán của hàng hoá bán ra. Nhưng trong điều kiện hiện nay, khi cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt thì giá bán của hàng hoá cạnh tranh lại có xu hướng giảm và thực tế cho thấy, để chiếm lĩnh thị trường, các doanh nghiệp thường sử dụng giá bán như là một công cụ chủ yếu. Họ dụa vào tâm lí của người tiêu dùng, sử dụng chiêu bài "hạ giá" nhân các "ngày nọ", "ngày kia" để khuyến mại và đôi khi họ thực hiện sự cạnh tranh không lành mạnh bằng chiều dài "hạ
  29. giá" không phù hợp với thực tế. Như vậy, trong điều kiện như phân tích ở trên, các doanh nghiệp không thể áp dụng biện pháp tăng giá để tăng doanh thu bán hàng mà biện pháp chủ yếu cần áp dụng chỉ có thể là tăng được số lượng (khối lượng) hàng hoá bán ra. Để tăng được số lượng (khối lượng) hàng hoá bán ra, vấn đề cơ bản đặt ra phải nắm được việc tăng (giảm) số lượng hàng hoá bán ra tuỳ thuộc chủ yếu vào những nguyên nhân nào, trên cơ sở xác định được những nguyên nhân chủ yếu làm tăng (giảm) số lượng hàng hoá bán ra, người ta mới đưa ra được các quyết định điều chỉnh thích hợp, kịp thời để hạn chế, loại trừ được tác động của nguyên nhân, nhân tố làm giảm, động viên và phát huy được tác động của nguyên nhân, nhân tố làm tăng, thông qua đó mà làm tăng được doanh thu bán hàng cho doanh nghiệp. * Phân tích những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến số lượng (khối lượng) hàng hoá bán ra. Sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra bán được hay không bán được là tuỳ thuộc vào tác động của rất nhiều các nguyên nhân khác nhau và có thể khái quát lại thành 3 loại (nhóm) nguyên nhân chủ yếu sau đây: - Một là thuộc về bản thân doanh nghiệp (kẻ bán). - Hai là tuỳ thuộc vào người mua (thị trường). - Ba là tuỳ thuộc vào tác động của Nhà nước. Sau đây sẽ lần lượt phân tích nhóm các nguyên nhân chủ yếu làm tăng (giảm) số lượng hàng hoá bán ra. * Trước hết là những nguyên nhân thuộc về bản thân doanh nghiệp. - Thuộc về bản thân doanh nghiệp, trước hết là tuỳ thuộc vào kết quả của khâu sản xuất cả về số lượng, chất lượng của sản phẩm, chủng loại mặt hàng, mẫu mã sản phẩm và thời hạn của sản xuất. - Thứ hai: Khi đã có đủ lực lượng hàng hoá bán ra với chất lượng cao, chủng loại phong phú, mẫu mã đẹp thì việc bán được sản phẩm hay không bán được là tuỳ thuộc vào các phương tiện vật chất đảm bảo cho công tác bán hàng, như hệ thống kho, cửa hàng, đại lí, phương tiện vận chuyển, bao bì đóng gói, phương tiện cân, đong, đếm v.v ).
  30. Thứ ba là tuỳ thuộc vào phương thức bán, hình thức bán và đi theo nó là đội ngũ những người làm công tác bán hàng; - Cuối cùng, tuỳ thuộc vào bản thân doanh nghiệp đó là công tác thông tư, quảng cáo, tiếp thị v.v * Những nguyên nhân chủ yếu thuộc về người mua: - Nguyên nhân đầu tiên thuộc về người mua là sức mua của dân cư mà sức mua của dân cư lại tuỳ thuộc vào thu nhập của họ. Như ở phần trước đã chỉ rõ, doanh nghiệp phải xác định trước đối tượng phục vụ của doanh nghiệp là ai (bán cho ai) để quyết định đầu tư đúng hướng và mang hàng đến đúng địa chỉ. - Nguyên nhân thứ hai thuộc về người mua là thói quen, truyền thống và thị hiếu tiêu dùng của từng vùng dân cư, của từng tầng lớp xã hội. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng tầng lớp xã hội, của từng vùng dân cư và tuỳ thuộc vào trình độ phát triển về kinh tế - xã hội, thông qua công tác bán hàng, người bán (doanh nghiệp) có thể thay đổi được thói quen tiêu dùng cũ, tạo ra thói quen mới và hướng thị hiếu tiêu dùng phù hợp hơn với thực tế của xã hội. * Những nguyên nhân chủ yếu thuộc về Nhà nước: Như ta đều biết, dù thực hiện cơ chế quản lý nào thì Nhà nước vẫn có vai trò rất quan trọng, tác động tích cực hoặc tiêu cực đến cả người bán và người mua thông qua các chính sách đã ban hành. Cụ thể tác động của Nhà nước bao gồm: - Chính sách tiêu dùng; - Chính sách thu; - Chính sách giá. Các chính sách nói trên có thể khuyến khích, có thể hạn chế tiêu dùng, do đó sẽ tác động trực tiếp đến kết quả bán hàng của doanh nghiệp. Qua phân tích chi tiết các nguyên nhân chủ yếu thuộc về bản thân doanh nghiệp, thuộc về người mua, thuộc về Nhà nước, người ta nhận thấy chúng có mối liên hệ rất mật thiết với nhau. Ví dụ giữa số
  31. lượng, chất lượng của sản phẩm có liên quan mật thiết đến phương thức bán, hình thức bán, nhân viên bán hàng, đến công tác thông tin quảng cáo, đến sức mua, thị hiếu tiêu dùng và các chính sách của Nhà nước. Thông qua việc nhận thức được tác động của các nguyên nhân nói trên, người quản lý sẽ đưa ra được các quyết định điều chỉnh thích hợp kịp thời để tăng được số lượng hàng hoá bán ra, từ đó đã tăng được doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. 2.2.2.2. Phân tích giá vốn hàng xuất bán. * Đối với doanh nghiệp sản xuất Như người ta biết, thực chất ảnh hưởng của giá vốn hàng xuất bán chính là ảnh hưởng của giá thành sản xuất sản phẩm bán ra, do đó việc tăng (giảm) giá vốn hàng xuất bán là do việc tăng (giảm) giá thành sản xuất tạo ra, cho nên thực chất của phân tích giá vốn lại là phân tích giá thành sản xuất. Đối với các nhà quản lý, những câu hỏi đặt ra cần được làm rõ là: - Một là trong kì, giá thành thực tế tăng hay giảm (so với kì trước, so với sự kiến). - Hai là giá thành thực tế tăng (giảm) là ở loại sản phẩm (mặt hàng) nào? - Ba là ở loại sản phẩm (mặt hàng) đó, giá thành tăng (giảm) cụ thể ở khoản mục nào và nguyên nhân nào; nhân tố nào đã làm tăng (giảm) khoản mục đã nêu v.v , có vậy người quản lý mới đưa ra được các quyết định điều chỉnh thích hợp, kịp thời để hạn chế, loại trừ được tác động của các nhân tố làm tăng, động viên và phát huy ảnh hưởng của nhân tố làm giảm, thông qua đó mà tiết kiệm được chi phí, hạ giá thành, giảm giá vốn của hàng xuất bán và tăng được lợi nhuận bán hàng cho doanh nghiệp. Qua nghiên cứu, người ta thấy rằng để trả lời câu hỏi một và câu hỏi hai, chỉ cần so sánh giữa giá thành thực tế kì này với giá thành thực tế kì trước (hoặc dự kiến - kì kế hoạch) của toàn bộ sản phẩm, của từng loại sản phẩm và thông qua đó sẽ biết được tác động cụ thể của nó đến lợi nhuận bán hàng, nghĩa là việc tăng giá thành sẽ làm giảm tương ứng lợi nhuận và ngược lại. Nhưng để đáp ứng yêu cầu của quản lý giá thành nói chung, quản lý việc sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất nói riêng, cần phải trả lời cụ thể câu hỏi thứ ba. Muốn vậy cần thiết phải phân tích chi tiết giá
  32. thành theo khoản mục. Nói cách khác, việc phân tích giá thành sản xuất sản phẩm xuát bán chỉ tập trung và giới hạn ở việc phân tích giá thành theo khoản mục. Theo qui định hiện hành, nếu phân loại theo mục đích và công dụng của chi phí thì chi phí sản xuất được phân thành 3 khoản mục: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. - Chi phí nhân công trực tiếp và - Chi phí sản xuất chung. (Đối với doanh nghiệp xây lắp, do đặc thù của nó, ngoài 3 khoản mục nói trên, giá thành sản phẩm xây lắp còn bao gồm khoản mục chi phí sử dụng máy thi công). Như vậy 3 khoản mục nói trên có mục đích, công dụng, nguồn gốc phát sinh khác nhau, do đó yêu càu quản lý đối với từng khoản mục cũng không giống nhau. Trong tổng giá thành cũng như trong giá thành đơn vị của sản phẩm, chi phí nguyên vật liệu thường chiếm tỉ trọng lớn nhất, do đó việc tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu sẽ góp phần quyết định đến việc tiết kiệm toàn bộ chi phí sản xuất nói chung và hạ giá thành sản phẩm nói riêng. Do vậy quản lý chi phí nguyên vật liệu trở thành trọng điểm của công tác quản lý giá thành và khi tiến hành phân tích giá thành theo khoản mục, trước hết cần tiến hành phân tích chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm. 2.2.2.2.1. Phân tích chi phí nguyên vật liệu trong giá thành. * Mục đích phân tích: Đối với các nhà quản lý, mục đích của phan tích chi phí về nguyên vật liệu là trong thực tế sản xuất sản phẩm, đơn vị đã quản lý, sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm hay lãng phí, nguyên nhân, nhân tố nào đã ảnh hưởng đến kết quả nói trên, từ đó người ta có căn cứ khoa học để đưa ra các quyết định quản lý thích hợp kịp thời nhằm tiết kiệm được chi phí về nguyên vật liệu nói riêng, chi phí sản xuất nói chung. Như người ta biết, mỗi loại sản phẩm (mặt hàng) thường được chế tạo từ những loại vật liệu khác nhau, với mức tiêu hao và giá xuất dùng khác nhau; mỗi doanh nghiệp lại sản xuất nhiều loại sản phẩm (mặt hàng) khác nhau, do đó không thể tiến hành phân tích cùng một lúc tất cả chi phí nguyên vật liệu của toàn bộ sản phẩm mà phải tiến hành phân tích chi
  33. phí nguyên vật liệu trong giá thành của từng sản phẩm (mặt hàng), sau đó mới tổng hợp lại thành toàn bộ chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. * Chỉ tiêu phân tích. Đối với từng loại sản phẩm (mặt hàng), chi phí vật liệu tính trong giá thành được kí hiệu là Cv và nó được xác định theo công thức tổng quát sau đây. n Cv = SL x x F  i g i 1m i Trong đó: - SL là số lượng sản phẩm; - mi là mức tiêu hao bình quân của từng loại vật liệu cho một loại sản phẩm; - gi là giá bình quân của từng loại vật liệu xuất dùng; - F là giá trị tự phế liệu thu hồi (nếu có) * Trình tự và phương pháp phân tích: Tiến hành phân tích chi phí vật liệu trong giá thành theo các bước cụ thể sau đây: * Bước 1: Xác định chỉ tiêu kế hoạch (kì gốc). Từ công thức tổng quát của chỉ tiêu, nếu thay kì kế hoạch sẽ xác định chỉ tiêu kế hoạch; nhưng trong thực tế, người ta không sử dụng khoản chi kế hoạch để làm chuẩn cho việc so sánh mà lại sử dụng khoản chi kế hoạch đã điều chỉnh theo sản lượng thực tế của sản phẩm nhập kho. Bởi vì như mục đích của phân tích đã chỉ rõ, người ta muốn biết trong thực tế sản xuất, đơn vị đã sử dụng tiết kiệm hay lãng phí nguyên vật liệu, nguyên nhân nào đã dẫn đến hiện tượng nói trên và bằng cách nào để khắc phục được hiện tượng đó Việc sử dụng lãng phí hay tiết kiệm nguyên vật liệu sẽ được phản ánh ở sự biến động của mức tiêu hao về nguyên vật liệu mà theo công thức tính chi phí nguyên vật liệu tính trong giá thành thì mức tiêu hao là nhân tố chất lượng, còn sản lượng sản phẩm sản xuất và nhập kho lại là nhân tố số lượng, do vậy như nội dung ở chương 1 đã đề cập, khi nghiên cứu sự biến động của nhân tố chất lượng (mức tiêu hao) thì nhân tố số lượng (sản lượng sản phẩm nhập kho) đã cố định ở kì thực tế.
  34. Khoản chi vật liệu kì kế hoạch điều chỉnh theo sản lượng nhập kho thực tế - kí đ hiệu là C Vk được xác định như sau: n d . . d Cvk Sl1  ki g F k i 1 m ki đ Trong đó: Fk là giá trị phế liệu thu hồi kế hoạch cũng được điều chỉnh theo sản lượng thực tế. Fk đ Fk = . Sl1 Slk * Bước 2: Xác định chỉ tiêu thực tế: Khoản chi vật liệu tính trong giá thành kì thực tế xác định như sau: n . . Cv1 Sl1  1i g F 1 i 1 m 1i * Bước 3: Xác định kết quả của việc thực hiện chỉ tiêu: Sử dụng phương pháp so sánh, ta có: đ CV = Cv1 - C Vk; Một cách chi tiết, ta có: n n d CV = ; Hay là Sl1 1i g F 1 Sl1 ki g F k i 1 m 1i i 1 m ki n n d CV = ) ; (Sl1 1i g Sl1 ki g F 1 F k i 1 m 1i i 1 m ki * Bước 4: Xác định các nhân tố ảnh hưởng: Từ công thức xác định của chỉ tiêu và thông qua kết quả so sánh của bước 3, người ta nhận thấy khoản chi vật liệu trong giá thành thay đổi trước hết tuỳ thuộc vào sự biến động của 3 nhân tố: - Mức tiêu hao về nguyên vật liệu; - Giá của vật liệu xuất dùng và - Giá trị phế liệu thu hồi (nếu có). Mặt khác người ta nhận thấy rằng, trong thực tế vì nhiều nguyên nhân khác nhau, để tiến hành sản xuất, doanh nghiệp phải sử dụng vật liệu thay thế. Mỗi loại vật liệu khi
  35. đưa vào sản xuất có mức tiêu hao và giá xuất dùng khác nhau, do đó nếu dùng vật liệu có mức tiêu hao thấp, giá rẻ hơn để thay thế trong sản xuất thì khoản chi vật liệu trong kì sẽ giảm và ngược lại. Như vậy trong thực tế, khoản chi của vật liệu trong kì tăng lên hay giảm đi là tuỳ thuộc vào tác động của 4 nhân tố như đã nêu ở trên. Các nhân tố ảnh hưởng này có mối quan hệ khác nhau với chỉ tiêu phân tích, do đó bằng các phương pháp thích hợp, người ta có thể xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. Cụ thể ta có: - Do ảnh hưởng của mức tiêu hao : n m . . Sl1  1i ki g i 1 m m ki - Do ảnh hưởng của giá vật liệu xuất dùng: n g . Sl1  1i g g i 1 m 1i ki - Do ảnh hưởng của giá trị phế liệu thu hồi. đ F = - (F1 - Fk ); - Do ảnh hưởng của vật liệu thay thế (Vt) Khoản chi thực tế của vật liệu Khoản chi kế hoạch đã điều chỉnh của vật Vt = - đ được thay thế (Cđ1) liệu bị thay thế (Cbk ) * Bước 5: Phân tích thực chất ảnh hưởng của từng nhân tố. - Đối với nhân tố mức tiêu hao về nguyên vật liệu: + Xét về mức độ: Quan hệ của nhân tố mức tiêu hao với khoản chi vật liệu trong giá thành là quan hệ tích số, do vậy nhân tố này ảnh hưởng tỉ lệ thuận đến chỉ tiêu phân tích. + Xét về tính chất: Mức tiêu hao về nguyên vật liệu thay đổi có thể do tác động của nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Trường hợp thiết kế sản phẩm làm thay đổi mẫu mã sản phẩm (thay đổi quy mô kích thước, khối lượng, kiểu dáng của sản phẩm ), từ đó có thể làm tăng hoặc giảm mức tiêu hao về nguyên vật liệu thì đó là tác động cua nhân tố khách quan.
  36. Trường hợp thiết kế sản phẩm không đổi, mẫu mã sản phẩm không đổi, việc thay đổi mức tiêu hao về nguyên vật liệu có thể tuỳ thuộc vào chất lượng của công tác sản xuất nói chung, chất lượng của sản phẩm nói riêng, tuỳ thuộc vào kết quả của việc quản lý, sử dụng nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất v.v thì những tác động nói trên lại là tác động của nhân tố chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp. + ý nghĩa của việc phân tích: Qua phân tích thực chất ảnh hưởng của nhân tố mức tiêu hao về nguyên vật liệu, ta có thể rút ra kết luận như sau: việc giảm được mức tiêu hao về nguyên vật liệu là biện pháp quan trọng của quản lý để giảm chi phí về nguyên vật liệu nói riêng, giảm giá thành sản phẩm nói chung. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần thường xuyên nghiên cứu để cải tiến mẫu mã sản phẩm sao cho vừa thoả mãn được thị hiếu của người tiêu dùng, vừa tạo điều kiện để giảm được mức tiêu hao về nguyên vật liệu, giảm chi phí sản xuất, hạ được giá thành sản phẩm; Mặt khác cần chú trọng nâng cao chất lượng của sản xuất nói chung, chất lượng của sản phẩm nói riêng, quản lý và sử dụng hợp lí, tiết kiệm nguyên vật liệu xuất dùng trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp. - Đối với nhân tố giá vật liệu xuất dùng: + Xét về mức độ: Cũng giống như nhân tố mức tiêu hao, ảnh hưởng của nhân tố giá vật liệu xuất dùng đến khoản chi của vật liệu tính trong giá thành là ảhh hưởng tỉ lệ thuận vì nó cũng có quan hệ tích số với chỉ tiêu phân tích. + Xét về tính chất: Nhân tố giá vật liệu xuất dùng là một nhân tố rất phức tạp vì bản thân nó lại tuỳ thuộc vào tác động của rất nhiều các nhân tố khác nhau; Trong đó có nhân tố mang tính chất khách quan, có nhân tố mang tính chất chủ quan. Do vậy cần đề cập và phân tích chi tiết nội dung cấu thành của giá vật liệu xuất dùng và thông qua đó mới đánh giá được thực chất ảnh hưởng của nó đến khoản chi vật liệu trong giá thành. Như người ta biết, giá của vật liệu xuất dùng trước hết tuỳ thuộc vào giá mua và chi phí mua của nguyên vật liệu. Trước hết, giá mua nguyên vật liệu lại tuỳ thuộc vào nguồn mua, vào phương thức mua (mua nhiều hay mua ít, mua trả tiền ngay hay trả chậm) và trong một số trường hợp, nó còn tuỳ thuộc vào chính sách giá do Nhà nước qui định. (Đối với một số loại nguyên vật liệu, do tầm quan trọng của nó mà Nhà nước vẫn còn khống chế giá bán cho các đối tượng sử dụng khác nhau).
  37. Đối với chi phí mua, bản thân nó lại tuỳ thuộc vào rất nhiều các nhân tố khác, như chi phí vận chuyển, chi phí bốc xếp, chi phí thuê kho bãi, chi phí của bộ phận hay cán bộ, nhân viên đi mua hàng v.v nếu tiếp tục đi sâu phân tích thì từng yếu tố nói trên lại tuỳ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác, ví dụ chi phí vận chuyển tuỳ thuộc vào loại đường vận chuyển, phương tiện vận chuyển, giá cước vận chuyển; chi phí của bộ phận, nhân viên mua hàng lại tuỳ thuộc vào chi phí đi, chi phí ở (công tác phí) v.v Do tính phức tạp của nhân tố giá vật liệu xuất dùng như trình bày ở trên, để đánh giá được tính chất ảnh hưởng của nó, cần phải dựa vào tài liệu hạch toán chi tiết về giá mua, về chi phí mua mới có được các kết luận chính xác và cụ thể hơn. + Xét về ý nghĩa: Thông qua việc phân tích thực chất ảnh hưởng của nhân tố giá vật liệu xuất dùng, người quản lý có thể rút ra kết luận như sau: Cần khai thác được nguồn cung cấp nguyên vật liệu hợp lí, ổn định, lựa chọn phương tiện vận chuyển, phương tiện bốc xếp hợp lí, cố gắng xắp xếp để tổ chức vận chuyển hợp lí, khoa học, xác định mức chi phí thu mua hoặc khoán chi phí cho bộ phận, nhân viên mua hàng, quản lí giám sát kiểm tra các hoá đơn, chứng từ có liên quan đến nghiệp vụ mua hàng v.v nhằm đích cuối cùng là giảm được giá vật liệu xuất dùng, giảm chi phí nguyên vật liệu nói riêng, giá thành sản phẩm nói chung cho doanh nghiệp. - Đối với nhân tố giá trị phế liệu thu hồi. + Xét về mức độ ảnh hưởng: Từ quan hệ của nhân tố với chỉ tiêu phân tích, ta nhận thấy rằng nhân tố giá trị phế liệu thu hồi ảnh hưởng ngược chiều đến khoản chi vật liệu trong giá thành, nghĩa là việc tăng giá trị phế liệu thu hồi sẽ làm giảm chi phí vật liệu tính trong giá thành và ngược lại. + Xét về tính chất: ảnh hưởng của nhân tố giá trị phế liệu thu hồi cũng được đánh giá là ảnh hưởng của nhân tố phức tạp, bởi vì trong một số trường hợp, giá trị phế liệu thu hồi tăng làm khoản chi vật liệu trong giá thành giảm chưa hẳn đã được đánh giá là yếu tố tích cực. Ví dụ, do áp dụng công nghệ mới, tại công ty In. "X" đã giảm giấy lề sinh ra trong quá trình cắt giấy, đóng vở, do đó giá trị phế liệu thu hồi từ giấy lề sẽ giảm so với kì trước, trong trường hợp đó việc giảm tuyệt đối nói trên không thể được đánh giá là yếu tố tiêu cực trong công tác quản lý mà phải đánh giá ngược lại. Với tính chất phức tạp nói trên, để đánh
  38. giá chính xác được tính chất ảnh hưởng của nhân tố này, cần kết hợp với sự biến động của F chỉ tiêu tỉ lệ thu hồi phế liệu - kí hiệu là Tf và nó được xác định như sau: Tf = x 100 Ft Trong đó: Ft là trị giá phế liệu thải ra. Tỉ lệ phản ánh mối tương quan giữa giá trị phế liệu thu được so với trị giá phế liệu thải ra, do đó tỉ lệ bày càng cao và xu hướng càng tăng, chứng tỏ đơn vị đã làm tốt công tác quản lý vật liệu nói chung, thu hồi phế liệu nói riêng và ngược lại. * ý nghĩa của phân tích: Qua nghiên cứu, phân tích thực chất ảnh hưởng của nhân tố giá trị phế liệu thu hồi, người quản lý rút ra được kết luận như sau: cần áp dụng các biện pháp kĩ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạn chế và loại trừ sản phẩm hỏng, giảm lượng phế liệu thải ra trong quá trình sản xuất, làm tốt công tác tận thu phế liệu để giảm chi phí vật liệu, hạ giá thành sản phẩm cho doanh nghiệp. - Đối với nhân tố vật liệu thay thế. + Xét về mức độ: Việc phát sinh vật liệu thay thế có thể theo hai xu hướng khác nhau. Nếu thực tế đơn vị sử dụng vật liệu rẻ tiền thay thế cho vật liệu đắt tiền (mức tiêu hao không đổi hoặc thay đổi không đáng kể) thì chi phí vật liệu trong giá thành sẽ giảm đi và ngược lại. + Xét về tính chất: Trong thực tế, việc sử dụng vật liệu thay thế là do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau; Ví dụ do nguồn cung cấp vật liệu thay đổi, đặc biệt là đối với vật liệu nhập từ nước ngoài, do thay đổi công nghệ, điều chỉnh thiết kế mẫu mã sản phẩm, do khâu tổ chức cung ứng nguyên vật liệu của bản thân doanh nghiệp v.v Do vậy, để đánh giá được tính chất ảnh hưởng của nhân tố này, cần phải xác định được nguyên nhân cụ thể nào đã dẫn đến đơn vị phải sử dụng vật liệu thay thế để tiến hành sản xuất và chính nguyên nhân đó sẽ giải thích được tính chất chủ quan hay khách quan của nhân tố vật liệu thay thế. + ý nghĩa của phân tích. Từ việc phân tích thực chất ảnh hưởng của nhân tố vật liệu thay thế, các nhà quản lý nhận thấy rằng, có thể sử dụng vật liệu ở trong nước thay thế cho vật liệu phải nhập từ nước ngoài để chủ động hơn về nguồn cung cấp, dùng vật liệu rẻ tiền hơn thay thế cho vật liệu đắt tiền để phấn đấu giảm chi phí về vật liệu v.v nhưng cần tuân theo
  39. một yêu cầu của quản lý, đó là việc thay thế vật liệu không được làm giảm chất lượng của sản phẩm sản xuất trong kì của doanh nghiệp. * Ví dụ phân tích. Để minh hoạ, giải thích cụ thể cho những vấn đề lí luận được đặt ra ở trên, có thể lấy ví dụ phân tích như sau: Giả định tại công ty X, để tiến hành sản xuất sản phẩm M, người ta có các tài liệu, số liệu như sau. Tình hình sản xuất sản phẩm M Bảng 2.3 Chỉ tiêu Kế hoạch Thực tế 1. Số lượng sản xuất và nhập kho (chiếc) 500 510 2. Khối lượng vật liệu xuất trong kì (kg) - Vật liệu a 5.000 5.220 - Vật liệu b 10.000 - - Vật liệu c 25.000 24.480 - Vật liệu d - 10.100 3. Đơn giá vật liệu xuất dùng (1000đ/ -kg) - Vật liệu a 200 198 - Vật liệu b 100 - - Vật liệu c 200 201 - Vật liệu d - 102 4. Trị giá phế liệu thải ra (1000đ) 50.000 40.000 5.Trị giá phế liệu thu hồi (1000đ) 40.000 36.000 Tài liệu bổ sung: Cuối kì vật liệu a nhập lại kho 18kg; vật liệu d nhập lại kho 155kg. Căn cứ vào các số liệu của bảng 2.3, ta lần lượt tính toán các chỉ tiêu cần thiết sau đây. - Bước 1: Xác định các chỉ tiêu kế hoạch. Từ số liệu của bảng 2.3 ta có: a 5000kg b 10.000kg c 25.000kg 10kg ; 20kg ; 50kg ; mk 500 mk 500 mk 500 40.000 d 40.000nd x100 80% ; x5410 40.800nd T fk 50.000 F k 500 đ C vk = [(510x10x200) + (510x20x100) + (510 x 50 x 200)] - 40.800nđ đ C vk = 7.099.200nđ - Bước 2: Tính các chỉ tiêu thực tế:
  40. 36.000 Tf1 = x 100 = 90% 40.000 a 5220 18 c 24.480 10,2kg ; 48kg; m1 510 m1 510 d 10.100 155 19,5kg; m1 510 Cv1 = [(510x10,2x198)+(510x48x201)+(510x19,5x102)] - 36.000 = Cv1 = 6.928.866đ - Bước 3: Xác định kết quả của việc thực hiện chỉ tiêu: Qua so sánh, ta có: CV = 6.928.866nđ - 7.099.200nđ = - 170.334nđ - Bước 4: Xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố: + Do ảnh hưởng của mức tiêu hao về vật liệu. m = [510(10,2 - 10) x 200 + 510 (48 - 50) x 200] = -183.600nđ; + Do ảnh hưởng của giá vật liệu xuất dùng. g = [510 x 10,2 (198 - 200) + 510 x 48 (201 - 200)] = + 14.076nđ + Do ảnh hưởng của giá trị phế liệu thu hồi. F = - (36.000nđ - 40.800nđ) = + 4.800nđ + Do ảnh hưởng của vật liệu thay thế. Vt = (510 x 19,5 x 102) - (510 x 20 x 100) = - 5610nđ Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố: - 183.000nđ + 14.076nđ + 4.800nđ - 5.610nđ = - 170.334nđ - Bước 5: Nhận xét, phân tích. Căn cứ vào các kết quả tính được ở trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau: So với mục tiêu đặt ra, chi phí thực tế về vật liệu tính trong giá thành sản phẩm trong kì đã giảm được là 170.344 ngàn đồng. Việc giảm chi phí vật liệu nói trên sẽ làm giá thành giảm tương ứng và đương nhiên sẽ làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Để có kết luận chính xác cụ thể hơn, cần dựa vào mức độ và tính chất ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả nói trên. - Trước hết, do thay đổi mức tiêu hao về vật tư đã làm khoản chi vật liệu giảm là 183.600đ; Rõ ràng đây là nhân tố chủ yếu làm giảm khoản chi vật liệu trong kì. Việc thay đổi mức tiêu hao về vật tư làm giảm chi phí trong trường hợp số lượng sản phẩm nhập kho thực tế tăng 10 sản phẩm so với dự kiến, chứng tỏ rằng do tăng được khối lượng và chất lượng của công tác sản xuất nói chung, của chất lượng sản phẩm nói riêng
  41. đã là nguyên nhân chủ yếu để đơn vị tiết kiệm được chi phí vật liệu trong kì và do vậy, đây là tác động của nhân tố chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp. - Thứ hai, giá vật liệu trong kỳ thay đổi đã làm tăng chi phí vật liệu là 14076nđ; Đây là tác động của nhân tố phức tạp, do vậy phải dựa vào tài liệu hạch toán chi tiết về giá mua, về chi phí mua mới có được kết luận chính xác và cụ thể hơn. - Thứ ba, giá trị phế liệu thu hồi trong kì giảm đã làm tăng khoản chi tương ứng là 4800đ; Tuy vậy, nếu phân tích kết hợp với tỉ lệ thu hồi phế liệu trong kì thì tình hình có xu hướng ngược lại. Theo dự kiến, tỉ lệ thu hồi phế liệu là 80% so với giá trị phế liệu thải ra, nhưng thực tế tỉ lệ thu hồi là 90%, tăng 10% so với dự kiến.Với việc tăng được tỉ lệ thu hồi phế liệu, chứng tỏ đơn vị đã làm tốt công tác tận thu phế liệu và tương ứng với tỉ lệ tăng thêm 10%, giá trị phế liệu đã tận thu thêm được là: 40.000nđ x 10% = 4.000nđ - Cuối cùng, trong kì đơn vị đã sử dụng vật liệu "d" để thay thế cho vật liệu "b" đã làm khoản chi giảm là 5610 nđ. Việc thay thế vật liệu làm giảm chi phí trong trường hợp sản lượng nhập kho thực tế tăng so với dự kiến (từ 500 lên 510 sản phẩm) chứng tỏ việc thay thế này không làm giảm chất lượng của sản phẩm, do vậy xu hướng trên cần được động viên và khai thác trong kì tới. Tóm lại, qua phân tích chi tiết các nhân tố ảnh hưởng nói trên, có thể đi đến kết luận rằng, việc giảm khoản chi vật liệu trong kì, trước hết là do đơn vị đã tăng được chất lượng của công tác sản xuất nói chung, tăng chất lượng sản phẩm nói riêng, đồng thời đã sử dụng vật liệu thay thế thích hợp, vừa đảm bảo tiến độ của sản xuất, vừa giảm được chi phí vật liệu cho doanh nghiệp. Đồng thời cũng qua việc phân tích chi tiết nói trên, có thể kiến nghị một số giải pháp sau đây: - Đưa vật liệu "d" trở thành vật liệu chính để sản xuất (loại bỏ vật liệu b); - Tiếp tục tìm kiếm các giải pháp để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm; - Kiểm tra, xem xét cụ thể giá xuất dùng của vật liệu "c" để xác định việc tăng giá xuất dùng là do giá mua hay tăng chi phí mua v.v từ đó mới quyết định được biện pháp thích hợp trong quản lý với mục đích cuối cùng là tiết kiệm chi phí vật liệu nói riêng, chi phí sản xuất nói chung, tăng hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp. 2.2.2.2.2. Phân tích chi phí nhân công. Trong tổng giá thành cũng như trong giá thành sản phẩm đơn vị của sản phẩm, chi phí nhân công cũng thường chiếm tỉ trọng tương đối lớn, do đó việc giảm được chi phí nhân công cũng là biện pháp rất quan trọng để giảm đựoc gía thành sản phẩm. Để giảm được chi phí nhân công, cần phải biết được nó tuỳ thuộc vào sự tác động của các nguyên nhân, nhân
  42. tố nào. Trong quản lý để trở lời các câu hỏi đó, cần thiết phải phân tích chi phí nhân công. Trong các doanh nghiệp sản xuất, người ta đang áp dụng hai hình thức trả lương phổ biến. - Hình thức trả lương sản phẩm và - Hình thức trả lương thời gian Như vậy quĩ lương của doanh nghiệp sẽ bao gồm các quĩ lương sản phẩm và quĩ lương thời gian. Do tính chất phức tạp nói trên, để đạt được mục đích của quản lý, phân tích chi phí nhân công phải làm rõ 2 yêu cầu sau đây: - Một là so với kì trước (hoặc so với dự kiến), chi phí nhân công thực tế trong kì tăng hay giảm, với mức tăng (giảm) cụ thể là bao nhiêu; - Hai là trong tổng số tăng (giảm) đó, cụ thể là tăng (giảm) ở lương sản phẩm hay lương thời gian và nguyên nhân, nhân tố nào đã ảnh hưởng đến kết quả tăng (giảm) và bằng cách nào để khắc phục được những tồn tại của những kỳ đã qua, động viên và khai thác được khả năng tiền tàng của kì sắp tới. Để biết được mức độ tăng (giảm) của tổng chi phí nhân công, của chi phí nhân công theo từng hình thức tiền lương, người ta chỉ việc so sánh giữa chi phí thực tế kỳ này với chi phí kỳ gốc; nhưng để đáp ứng được yêu cầu của quản lý giá thành nói chung, quản lý chi phí nhân công nói riêng (mà thực chất là tình hình sử dụng lao động về số lượng, về thời gian, về kết quả của sản xuất cả về khối lượng và chất lượng v.v ), cần thiết phải phân tích chi phí nhân công theo từng hình thức trả lương của doanh nghiệp. * Trước hết cần phân tích quỹ lương nói chung của doanh nghiệp Quỹ lương của doanh nghiệp là tổng tiền lương và các khoản phụ cấp lương mà doanh nghiệp trả cho người lao động. Một các tổng quát, tổng quỹ lương – ký hiệu QL được xác định như sau: QL CN .Tl (1) Trong đó: - CN là số công thức nhân sản xuất bình quân trong danh sách; - Tl là tiền lương bình quân của một công nhân Theo công thức này, quỹ lương của doanh nghiệp không phản ánh được mối quan hệ của quỹ lương với kết quả của sản xuất và với năng suất lao động, do vậy việc phân tích sẽ không có ý nghĩa với quản lý. Như người ta biết, số công nhân sản xuất bình quân trong danh sách (CN )có thể được xác định như sau: G CN sx ; Trong đó G là giá trị sản suất; NS là năng suất lao động bình quân. NS sx
  43. Nếu thay giá trị của CN vào công thức (1), ta có: G QL sx Tl (2) NS Theo công thức (2), quỹ lương nói chung của doanh nghiệp tuỳ thuộc vào 3 nhân tố: giá trị sản xuất; năng suất lao động bình quân và tiền lương bình quân. Nghĩa là kết quả của sản xuất đã ảnh hưởng tỷ lệ thuận đến quỹ lương, năng suất lao động tỷ lệ nghịch đều quỹ lương. Do các nhân tố ảnh hưởng có quan hệ kết hợp với cả tích và thương đối với quỹ lương, để tính ảnh hưởng của từng nhân tố, người ta sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn. Cụ thể, khi so sánh quỹ lương thực tế với quỹ lương kỳ gốc, ta có: Ql1 QL0 QL . Chênh lệch quỹ lương ( QL ) được giải thích bởi các nhân tố cụ thể sau: - Do ảnh hưởng của giá trị sản xuất: G sx1 Gsx .Tl0 QL0 ; NS0 - Do ảnh hưởng của năng suất lao động bình quân: G sx1 Gsx1 NS .Tl0 .Tl0 ; NS1 NS 0 - Do ảnh hưởng của tiền lương bình quân: G sx1 Tl QL1 .Tl0 NS1 Qua phân tích nhân tố, có thể rút ra kết luận: Việc tăng năng suất lao động sẽ là biện pháp cơ bản để chi phí tiền lương của doanh nghiệp * Phân tích quĩ lương theo hình thức lương thời gian. Theo hình thức lương thời gian, doanh nghiệp căn cứ vào thời gian làm việc và lương cấp bậc, chức vụ để trả cho người lao động; theo đó, quĩ lương thời gian (Qlt) có thể được xác định như sau: Qlt = CNt N . ln Trong đó: - CNt là số công nhân hưởng lương thời gian; - N là số ngày làm việc bình quân của 1 công nhân
  44. sản xuất hưởng lương thời gian; - ln là lương bình quân ngày. Qua công thức xác định ở trên, người ta nhận thấy quĩ lương theo thời gian (chi phí nhân công trực tiếp theo hình thức lương thời gian) tuỳ thuộc vào tác động của 3 nhân tố, khi sử dụng phương pháp số chênh lệch, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt được xác định như sau: - Do số công nhân hưởng lương thời gian: - CNt = (CNt1 - CNtk) . Nk x lnk - Do số ngày làm việc bình quân: N = CNt1 . (N1 - Nk). lnk - Do lương bình quân ngày: ln = CNt1 . N1 . (ln1 - lnk) Thông qua phân tích tác động của từng nhân tố nói trên, người ta sẽ rút ra được những kết luận cần thiết cho công tác quản lý của doanh nghiệp. * Trước hết là đối với số công nhân sản xuất. Việc tăng hay giảm số công nhân sản xuất sẽ làm tăng hay giảm giá trị sản xuất nói chung và quĩ lương nói riêng. Đứng tù góc độ quản lý, để tiết kiện chi phí sản xuất nói chung, chi phí tiền lương nói riêng thì tốc độ tăng của giá trị sản xuất phải lớn hơn tốc độ tăng của quĩ lương. Muốn đạt được yêu cầu nói trên, về mặt quản lý, doanh nghiệp cần chú ý giải quyết các vấn đề chủ yếu sau đây: - Việc tuyển dụng lao động là tuỳ thuộc vào quy mô, nhiệm vụ sản xuất của doanh nghiệp, vào trình độ trang bị kĩ thuật về tài sản cố định; - Phải có chính sách chế độ sử dụng lao động hợp lí, phù hợp với luật lao động, luôn tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao được trình độ tay nghề cho người lao động, đồng thời giúp họ nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động đối với doanh nghiệp nói riêng và với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước nói chung. Nói cách khác, người sử dụng lao động (doanh nghiệp) và người lao động được sử dụng cần thống nhất được với nhau trên quan điểm sau đây: khi doanh nghiệp còn tồn tại và phát triển vững chắc thì người lao động mói có công ăn việc làm; ngược lại để doanh nghiệp tồn tại và phát triển thì đòi hỏi người lao động phải xác định được nghĩa vụ lao động, nghĩa là phải lao động (làm việc) có kỉ luật, có kĩ thuật và năng suất cao, suốt đời gắn bó với doanh nghiệp hay là "có an cư mới lạc nghiệp".
  45. * Về số ngày làm việc của công nhân sản xuất: Trong điều kiện năng suất lao động không đổi, việc tăng (giảm) số ngày làm việc của công nhân sản xuất sẽ làm tăng (giảm) giá trị sản xuất và do đó cũng làm tăng (giảm) chi phí tiền lương. Như vậy thông qua việc nghiên cứu sự biến động của nhân tố ngày công, không những người ta biết được ảnh hưởng cụ thể của nó đến quĩ lương theo thời gian mà còn biết được kết quả của việc quản lý, sử dụng thời gian lao động của doanh nghiệp. Như người ta biết, theo thống kê lao động nói chung và thời gian lao động nói riêng, số ngày làm việc của công nhân sản xuất có thể được xác định như sau: Số ngày làm việc = số ngày chế độ - số ngày vắng mặt và ngừng việc + số ngày làm thêm. Theo công thức xác định nói trên thì số ngày chế độ là đại lượng không đổi, do vậy số ngày làm việc chỉ tuỳ thuộc vào 2 nhân tố: - Số ngày vắng mặt và ngừng việc; - Số ngày làm thêm Thực tế quản lý cho thấy trong điều kiện bình thường (khi người lao động đã làm đủ ngày công, giờ công) thì các doanh nghiệp không nên huy động công nhân làm thêm, vì khi đó chỉ có thể huy động công nhân làm việc vào ngày lễ, ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ cuối tuần. Làm việc vào các ngày nghỉ nói trên đây vừa ảnh hưởng đến thời gian nghỉ ngơi của người lao động, vừa phải trả tiền công cao hơn và do đó làm tăng chi phí tiền lương, tăng giá thành và giảm lợi nhuận. Nói cách khác, biện pháp quản lý nói trên vừa tác động tiêu cực đến người lao động, vừa tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, do đó nó không được khuyến khích trong quản lý. Qua phân tích nói trên, có thể đi đến kết luận rằng để đảm bảo và tăng số ngày làm việc hợp lí, biện pháp cơ bản chỉ có thể là giảm rõ ngày vắng mặt và ngừng việc. Số ngày vắng mặt và ngừng việc bao gồm nhiều loại ngày có nguồn gốc phát sinh khac nhau, do đó yêu cầu quản lý khác nhau. Ví dụ số ngày vắng mặt do nghỉ phép, do hội họp, do đi học, đi an dưỡng, do bị ốm đau, do nghỉ thai sản (đối với nữ công nhân), ngừng việc do thiếu nguyên liệu, do thiết bị hỏng, do thiên tai, do tai nạn lao động, do công nhân tự ý nghỉ việc v.v Như vậy phải nắm được nội dung cụ thể của số ngày vắng mặt, ngừng việc thực tế thì mới có các biện pháp quản lý thích hợp để giảm được nó, tăng được số ngày làm việc cho doanh nghiệp. Ví dụ,để giảm số ngày nghỉ về thai sản, người quản lý không thể đưa ra biện pháp hạn chế tuyển dụng nữ công nhân mà phải làm tốt công tác kế hoạch hoá gia đình.
  46. * Về lương bình quân ngày: Lương bình quân ngày tăng hay giảm, cao hay thấp sẽ ảnh hưởng tỉ lệ thuận đến quĩ lương theo thời gian và nó tuỳ thuộc vào lương cấp bậc, chức vụ của người lao động. Do vậy thông qua sự biến động của lương bình quân ngày, người ta sẽ biết được sự biến động về cấu thành của lực lượng lao động nói chung và sự biến động của hệ số cấp bậc công nhân bình quân nói riêng. Ví dụ nếu lương bình quân ngày kì này giảm so với kì trước, chứng tỏ số lao động có tay nghề cao, lâu năm đã giảm, số lao động học nghề, mới được tuyển dụng tăng và chính sự biến động theo xu hướng này có thể đã làm chất lượng sản phẩm nói riêng, chất lượng công tác sản xuất nói chung giảm đi và đương nhiên ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy thông qua nhân tố lương bình quân ngày có thể giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp có các quyết định điều chỉnh hợp lí, thích hợp về cơ cấu lực lượng lao động của doanh nghiệp. Ví dụ: Giả định tại công ty X có số liệu sau đây: Bảng 2.4 Chỉ tiêu Kế hoạch Thực tế 1. Số công nhân viên hưởng lương thời gian 200 205 2. Số ngày làm việc bình quân một công nhân. 200 202 3. Lương bình quân ngày của công nhân 65.000đ 60.000đ Tài liệu bổ sung: - Trong kỳ, số ngày vắng mặt, ngừng việc bình quân của 1 công nhân tăng 2 ngày là do thiếu nguyên vật liệu. - Cuối năm nguyên vật liệu đã được cung cấp đầy đủ, đơn vị đã huy động công nhân làm thêm bình quân 4 ngày/người. - Cũng cuối năm đó một số lao động đến tuổi đã về hưu, đơn vị đã tuyển dụng một số lao động mới. Dựa vào các số liệu đã cho, ta lần lượt tính toán như sau: Bước 1: Tính chỉ tiêu kế hoạch: QLTK = 200 người x 200 ngày x 65.000đ = 2.600.000.000đ Bước 2: Tính chỉ tiêu thực tế:
  47. QLt1 = 205 người x 202 ngày x 60.000đ = 2.484.600.000đ Bước 3: Tính đối tượng cụ thể của phân tích: QLt = 2.484.600.000đ - 2.600.000.000đ = - 115.400.000đ Bước 4: Tính mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố: - Do số công nhân hưởng lương thời gian: CNt = (205- 200) x 200 x 65.000đ = 65.000.000đ - Do số ngày làm việc: N = 205 x (202 - 200) x 65.000đ = 26.650.000đ - Do lương bình quân ngày: ln = 205 x 202 x (60.000đ - 65.000đ) = - 207.050.000đ Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố: 65.000.000đ + 26.650.000đ - 207.050.000đ = - 115.400.000đ Bước 5: Nhận xét: Dựa vào các kết quả tính được ở trên, ta rút ra mọt số nhận xét như sau: Quĩ lương theo thời gian trong kì đã giảm so với dự kiến (kế hoạch) là 115.400.000đ, việc giảm quĩ lương sẽ làm giảm chi phí nhân công trực tiếp, giảm giá thành sản phẩm. Tuy vậy để có đánh giá chính xác và cụ thể hơn, cần căn cứ vào mức độ và tính chất ảnh hưởng của từng nhân tố. - Do tăng số công nhân hưởng lương thời gian từ 200 lên 205 người (tăng 5 người) đã làm quĩ lương tăng 65.000.000đ. Việc tăng số công nhân làm tăng quĩ lương là hiện tượng bình thường của quản lý. - Do tăng số ngày làm việc bình quân của công nhân sản xuất 2 ngày/ 1 người đã làm quĩ lương tăng 26.650.000đ. Dựa vào tài liệu chi tiết, ta thấy: Số ngày vắng mặt, ngừng việc bình quân trong kỳ tăng 2 ngày là do thiếu NVL, cho nên đơn vị phải ngừng sản xuất; Cuối kì khi nguyên liệu được cung cấp đầy đủ đơn vị đã huy động công nhân làm thêm 4 ngày/người. Như vậy việc tăng số ngày làm việc
  48. không phải do giảm số ngày vắng mặt, ngừng việc, mà là do đơn vị huy động công nhân làm thêm. Kết quả trên là hiện tượng chưa hợp lý của công tác quản lý lao động nói chung, quản lý thời gian làm việc nói riêng. Vì việc huy động công nhân làm thêm chỉ có thể huy động vào các ngày lễ, ngày nghỉ cuối tuần và ngày chủ nhật, vừa ảnh hưởng đến thời gian nghỉ ngơi của người lao động, vừa làm tăng chi phí nhân công, tăng giá thành, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. - Cuối cùng,lương bình quân ngày giảm 5000đ/ ngày/ 1 người đã làm giảm quĩ lương là 207.050.000đ. Dựa vào tài liệu đã cho, trong kì một số lao động có cao tuổi, lương cấp bậc cao đã nghỉ việc, đơn vị đã tuyển dụng một số lao động mới hưởng lương khởi điểm, do đó đã làm giảm lương bình quân nói riêng, quĩ lương nói chung. Việc giảm nói trên cũng là hiện tượng bình thường của công tác quản lý lao động nói chung, quản lý quĩ lương nói riêng. Tóm lại, qua phân tích chi tiết nói trên, ta có thể đi đến kết luận rằng, việc giảm quĩ lương theo thời gian chủ yếu là do giảm lương bình quân ngày, mà việc giảm lương bình quân ngày lại là do thay đổi cơ cấu người lao động, do đó quĩ lương giảm là hiện tượng bình thường của quản lý. Vấn đề cần quan tâm ở đây là, không để việc thay đổi cơ cấu đội ngũ công nhân ảnh hưởng đến khối lượng và chất lượng của sản xuất nói chung, của sản phẩm nói riêng và đơn vị cần có kế hoạch bồi dưỡng, kèm cặp để nâng cao tay nghề cho số lao động mới được tuyển dụng để họ đảm đương được công việc được giao. * Phân tích quĩ lương theo hình thức lương sản phẩm (Qls). Theo hình thức tiền lương này thì doanh nghiệp trả lương cho người lao động căn cứ vào số lượng (khối lượng) sản phẩm nhập kho và đơn giá lương cho từng loại sản phẩm. Vì doanh nghiệp thường sản xuất nhiều loại sản phẩm (mặt hàng), nên quĩ lương theo hình thức lương sản phẩm có thể được xác định như sau: n QLs = đ Sli x i i 1 Trong đó: - Sli là số lượng nhập kho của từng loại sản phẩm; - đi là đơn giá lương của từng loại sản phẩm.
  49. - Dựa vào công thưc xác định ở trên, ta thấy quĩ lương trong trường hợp trả lương theo sản phẩm tuỳ thuộc vào 3 nhân tố: - Số lương sản phẩm nhập kho; - Kết cấu sản phẩm (mặt hàng) sản xuất. - Đơn giá lương của sản phẩm. Các nhân tố ảnh hưởng nói trên có quan hệ tích số với chỉ tiêu, do đó bằng phương pháp thay thế liên hoàn, người ta có thể tính được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. Cụ thể bằng phương pháp thay thế liên hoàn, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt được xác định như sau: + Do số lượng sản phẩm nhập kho: n Sl 1i g ki SL . i 1 QL Sk n QL Sk Sl ki g ki i 1 + Do kết cấu mặt hàng sản xuất: n n Sl 1i g ki K . . i 1 Sl 1i d ki QL Sk n i 1 Sl ki g ki i 1 + Do đơn giá lương thay đổi: n d . QL S1 Sl 1i d ki i 1 Tiến hành phân tích đối với từng nhân tố nói trên, ta thấy như sau: * Đối với số lượng sản phẩm nhập kho: Số lượng sản phẩm nhập kho tăng (giảm) sẽ làm tăng (giảm) quĩ lương theo sản phẩm. Để nhập được kho, sản phẩm làm ra phải đạt được những yêu cầu bắt buộc về chất lượng sản phẩm. Nói cách khác, phải qua sự kiểm tra của bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm mới được nhập kho. Như vậy thông qua sự biến động về số lượng sản phẩm nhập kho, người quản lý có thể đánh giá được sự biến động về chất lượng của sản phẩm nói riêng, chất lượng của công tác sản xuất nói chung, từ đó mới có các quyết định quản lý thích hợp tác động vào khâu sản xuất để tăng được chất lượng của sản xuất nói chung, của sản phẩm nói riêng và cuối cùng là
  50. tăng được khối lượng sản phẩm nhập kho. Khi khối lượng sản phẩm nhập kho tăng trong điều kiện lao động, vật tư, tiền vốn bỏ ra không đổi thì chi phí sản xuất nói chung, chi phí nhân công nói riêng tính cho đơn vị sản phẩm sẽ giảm xuống và ngược lại. Như ta biết, muốn tăng chất lượng của sản xuất nói chung, của sản phẩm nói riêng, cần phải xác định được những nguyên nhân chủ yếu nào đã tác động đến nó, từ đó mới đưa ra được các biện pháp thích hợp để đảm bảo và tăng được chất lượng của sản xuất nói chung và của sản phẩm nói riêng. Thực tế của sản xuất cho thấy có rất nhiều nguyên nhân làm tăng (giảm) chất lượng công tác sản xuất nói chung, chất lượng sản phẩm nói riêng, nhưng có thể khái quát lại thành 5 loại (nhóm) nguyên nhân chủ yếu sau đây: - Những nguyên nhân thuộc về tình hình trang bị tài sản cố định nói chung, máy móc, thiết bị sản xuất nói riêng và tình trạng kĩ thuật của nó; - Những nguyên nhân thuộc về khâu cung cấp nguyên vật liệu cả về số lượng, chất lượng, chủng loại, thời hạn; - Những nguyên nhân thuộc về lực lượng lao động, bao gồm số lượng lao động, trình độ tay nghề, ý thức và thái độ của người lao động; - Những nguyên nhân thuộc về khoa học kĩ thuật, như việc áp dụng, sử dụng các thành tựu mới nhất của khoa học kĩ thuật (về thiết bị, công nghệ v.v ) việc áp dụng các sáng kiến cải tiến về kĩ thuật; - Những nguyên nhân thuộc về công tác quản lý sản xuất nói riêng, quản lý doanh nghiệp nói chung, như việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (hệ thống ISO), các biện pháp quản lý chất lượng của doanh nghiệp, việc đưa ra và vận dụng các chính sách về chất lượng v.v Khi nhận thức được các nguyên nhân ảnh hưởng, tuỳ trường hợp mà người quản lý sẽ đưa ra các quyết định thích hợp để hạn chế, loại trừ được tác động của các nguyên nhân làm giảm, động viên và khai thác được tác động của các nguyên nhân làm tăng để cuối cùng đạt được mục đích là tăng được chất lượng của sản xuất nói chung, chất lượng của sản phẩm nói riêng. * Đối với nhân tố kết cấu mặt hàng sản xuất:
  51. Mỗi loại sản phẩm có đơn giá lương khác nhau (được coi là một định mức kinh tế - kĩ thuật của doanh nghiệp). Trong thực tế, nếu tăng tỉ trọng sản xuất sản phẩm có đơn giá lương cao, giảm tỉ trọng sản xuất sản phẩm có đơn giá lương thấp thì tổng chi phí tiền lương sản phẩm sẽ tăng và ngược lại, mặc dù khi đó đơn giá lương của từng loại sản phẩm không đổi. Chi phí tiền lương thay đổi nói trên là do tác động của kết cấu mặt hàng sản xuất. Xét về tính chất thì việc tăng (giảm) tỉ trọng sản xuất mặt hàng nào đó trước hết là do tác động của nhu cầu thị trường, tức là tác động của nhân tố khách quan. Nhưng để đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường thường xuyên biến động, các doanh nghiệp phải tự điều chỉnh hoạt động của mình, như điều chỉnh trang thiết bị, nguyên vật liệu, bố trí xắp xếp lại lao động, đào tạo lại tay nghề cho người lao động, thay đổi phương pháp quản lýv.v , nghĩa là nó lại tuỳ thuộc vào yếu tố chủ quan trong công tác quản lý của doanh nghiệp. Thông qua việc nghiên cứu tác động của nhân tố kết cấu mặt hàng sản xuất, người ta có thể rút ra kết luận rằng, người quản lý phải thường xuyên nghiên cứu để nắm bắt được nhu cầu của thị trường để từ đó có các quyết định điều chỉnh thích hợp, kịp thời sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, vừa tăng được lợi ích cho bản thân doanh nghiệp. * Đối với nhân tố đơn giá lương: Đơn giá lương được xác định là một định mức kinh tế - kĩ thuật của doanh nghiệp, trong khoảng thời gian nhất định nó ít biến động, do đó nó không là trọng điểm của quản lý. Tuy vậy cũng cần kiểm tra, xem xét việc xây dựng đơn giá lương để nó đảm bảo tính khoa học, tính hợp lí và nó thực sự có tác động tích cực trong quản lý doanh nghiệp. Ví dụ phân tích: Giả định tại công ty Y, ta có các tài liệu sau đây Bảng 2.5 Tên sản Sản lượng sản xuất (cái) Giá bán đơn vị (1000đ) Đơn giá lương phẩm Kế hoạch Thực tế Kế hoạch Thực tế (1000đ) A 1000 1200 100 110 10 B 800 700 80 82 8
  52. C 500 400 50 50 4 Từ số liệu của bảng 2.5, ta lần lượt tính toán như sau: Bước 1: Tính chỉ tiêu kế hoạch: QLSk = (1000 x 10) + (800 x 8) + (500x 4) = 18.400 (nđ) Bước 2: Tính chỉ tiêu thực tế: QLS1 = (1200 x 10) + (700 x 8) + 400x 4) = 19.200 (nđ) Bước 3: Tính đối tượng cụ thể của phân tích: QlS = 19.200 - 18.400 = +800nđ. Bước 4: Tính mức độ ảnh hưởng của các nhân tố: - Do ảnh hưởng của sản lượng sản phẩm. (1.200x100) (700x80) (400x50) SL = 18.400 x - 18.400 (1000x100) (800x80) (500x50) = 19.080,8 - 18.400 = + 680,8 (nđ). - Do ảnh hưởng của kết cấu mặt hàng sản xuất. K = 19.200 - 19.080,8 = + 119,2 (nđ) Trong kỳ do đơn giá lương không đổi nên không ảnh hưởng đến quỹ lương sản phẩm. Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố: 680,8 + 119,2 = 800 (nđ). Căn cứ vào kết quả tính được ở trên, ta nhận thấy rằng, quỹ lương sản phẩm thực tế tăng lên so với dự tính chủ yếu là do tăng sản lượng sản xuất và nhập kho, do đó việc tăng quỹ lương là hợp lý. Thứ hai, đơn vị đã thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất trong kỳ, cụ thể mặt hàng A là mặt hàng có đơn giá lương cao thì thực tế đã sản xuất vượt kế hoạch, trong khi đó lại giảm sản xuất hai mặt hàng B và C là những mặt có đơn giá lương thấp hơn. Việc thay đổi này đã làm cho quỹ lương sản phẩm tăng thêm và
  53. việc tăng đó là bình thường nếu như nó thích ứng với nhu cầu của thị trường và mặt hàng B và C không phải là những mặt hàng được sản xuất theo đơn đặt hàng. 2.2.2.2.3. Phân tích chi phí sản xuất chung Để tiến hành sản xuất, ngoài những chi phí trực tiếp về nguyên vật liệu, về nhân công như đã trình bầy ở trên, nó còn phát sinh chi phí liên quan đến việc phục vụ, quản lý sản xuất, như các loại chi phí sau đây: - Chi phí nhân viên phân xưởng. - Chi phí nguyên vật liệu, công cụ phục vụ sản xuất. - Chi phí khấu hao tài sản cố định phục vụ sản xuất. - Chi phí dịch vụ mua ngoài. - Chi phí khác bằng tiền. Những chi phí trên là chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều loại sản phẩm được tập hợp và phân bổ cho từng loại sản phẩm, từng loại công việc, dịch vụ hoàn thành theo những tiêu thức thích hợp. Do tính chất phức tạp của chi phí sản xuất chung, để tiến hành phân tích, đánh giá chi phí này đạt được mục đích của quản lý, về phương pháp trước hết có thể thông qua việc lập bảng phân tích như sau Chênh lệch Kế hoạch Thực tế ( ) Chỉ tiêu Tỉ Tỉ Tỉ Số Số Số trọng trọng % trọng tiền tiền tiền (%) (%) (%) 1. Chi phí nhân công 2. Chi phí nguyên vật liệu 3. Chí công cụ dụng cụ 4. Chi phí khấu hao TSCĐ 5. Chi phí dịch vụ mua ngoài 6. Chi phí khác bằng tiền Cộng
  54. Thông qua các số liệu tính được ở bảng trên, người ta đánh giá được khái quát tình hình biến động của chi phí sản xuất chung và xác định mức độ ảnh hưởng của nó đến chi phí sản xuất nói chung, giá thành sản xuất của sản phẩm nói riêng. Sau khi đánh giá khái quát tình hình biến động của chi phí sản xuất chung, căn cứ vào tỉ trọng của từng yếu tố chi phí, người ta sẽ xác định được trọng điểm của quản lý và tiếp tục đi sâu phân tích đối với chi phí đó: - Với chi phí nhân công: Đây là tiền lương của những người lao động trong các phân xưởng, tổ đội sản xuất nhưng không trực tiếp sản xuất mà chỉ phục vụ sản xuất, như quản lý phân xưởng, tổ đội, nhân viên quản lý phân xưởng, tổ đội v.v , do vậy việc phân tích chi phí nhân công cũng được tiến hành giống với phân tích chi phí tiền lương trả theo hình thức lương thời gian. - Với chi phí nguyên vật liệu, công cụ: Đây là những nguyên vật liệu, công cụ xuất dùng phục vụ cho công tác quản lý ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất, do đó việc phân tích cũng dựa vào mức độ tiêu hao, giá của vật liệu xuất dùng để đánh giá tình hình quản lý của doanh nghiệp. - Với chi phí khấu hao tài sản cố định: Chi phí khấu hao tuỳ thuộc vào nguyên giá bình quân của tài sản cố định và tỉ lệ khấu hao, do vậy khi phân tích chi phí này cần xác định rõ: + Tình hình tăng (giảm) về tài sản cố định trong kì. + Việc xác định số năm sử dụng (thời gian sử dụng) của tài sản cố định. Thông qua việc phân tích nói trên để đánh giá được việc xây lắp, mua sắm tài sản cố định có thuộc loại không cần dùng, chưa cần dùng và đã hư hỏng cần thanh lí hay không, từ đó mà đánh giá được công tác quản lý của doanh nghiệp về tài sản cố định nói chung, về chi phí khấu hao nói riêng. - Với chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền: cần xác định nội dung cụ thể của từng loại chi phí để đánh giá tính cần thiết và tác động của nó đến chi phí sản xuất chung cũng như đến giá thành sản xuất của sản phẩm nói riêng. *Đối với doanh nghiệp thương mại
  55. Khác với doanh nghiệp sản xuất, để có hàng hoá bán ra, chủ yếu các doanh nghiệp thương mại phải mua vào. Do vậy thực chất của giá vốn hàng xuất bán của các doanh nghiệp thương mại là trị giá mua của hàng xuất bán ra và chi phí thu mua phân bổ cho hàng bán ra. - Trước hết là trị giá mua của hàng suất bán: Thực chất trị giá mua của hàng suất bán lại là trị giá mua của hàng mua vào, do vậy nó phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: + Tuỳ thuộc vào nguồn mua ( nguồn ở gần hay xa, nguồn cung cấp thường xuyên hay bất kỳ ) + Tuỳ thuộc vào phương thức mua: Nếu mua với số lượng lớn, đơn vị sẽ được hưởng chiết khấu thương mại , do vậy sẽ giảm giá mua + Tuỳ thuộc vào phương thức thanh toán: Trả ngay, trả chậm, hàng đổi hàng + Tuỳ thuộc vài chính sách giá vốn của nhà nước ( Đối với một số hàng hoá do nhà nước khống chế giá ) Như vậy, để phân tích đánh giá sự biến động về trị giá mua của hàng suất bán, trước hết phải phân tích các nội dung đã đề cập ở trên, thông qua việc phân tích đó mà đề xuất các biện pháp để giành được giá mua một cách hợp lý Sự biến động của trị giá mua của hàng xuất bán , xét từ phương diện kỹ thuật tính toán nó còn tuỳ thuộc vào phương pháp tính trị giá mua vào của hàng xuất bán. Theo kế toán , có thể có những phương pháp để tính trị giá mua của hàng xuất bán: _ Phương pháp nhập trước –xuất trước; _ Phương pháp nhập sau –xuất trước; _ Phương pháp giá đích danh _ Phương pháp bình quân gia quyền Đương nhiên, cùng một số liệu, tài liệu giống nhau, nhưng nếu áp dụng phương pháp khác nhau sẽ cho biết kết quả khác nhau. Việc áp dụng phương pháp nào là quyền lựa chọn của doanh nghiệp, nhưng phải tuân theo phương pháp nhất quán của kế toán -Về chi phí thu mua phân bổ cho hàng bán ra:
  56. Chi phí thu mua phân bổ cho hàng bán ra được xác định theo công thức: Chi phí thu CPTM của hàng tồn + CPTM phát sinh Trị giá mua phân bổ đầu kì trong kì mua của = x cho hàng hàng xuất Trị giá mua của hàng + Trị giá mua của hàng bán ra bán tồn đầu kì nhập trong kì Như vậy chi phí mua của hàng xuất bán tuỳ thuộc chủ yếu vào chi phí phát sinh trong kì. Chi phí thu mua phát sinh trong kì bao gồm các chi phí chủ yếu sau đây: _Chi phí vận chuyển; _Chi phí bốc xếp; _Chi phí thuê kho bãi; _Chi phí của cán bộ, bộ phận mua hàng . Đến lượt chúng, các chi phí nói trên lại tuỳ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác. Ví dụ chi phí vận chuyển tuỳ thuộc vào phương tiện vận chuyển, loại đường; loại hàng vận chuyển; chi phí của các bộ phận mua hàng tuỳ thuộc vào chi phí đi lại, chi phí ăn, chi phí ở (Lưu trú) .v.v ,do vậy để đưa ra được biện pháp quản lí chi phí thu mua nhằm tiết kiệm chi phí, cần phân tích chi tiết đối với từng nội dung chi phí nói trên . 2.2.3. Phân tích doanh thu hoạt động tài chính và chi phí tài chính. * Đối với doanh thu hoạt động tài chính: Để phân tích doanh thu hoạt động tài chính,cần phải phân tích nội dung cấu thành của nó. Doanh thu hoạt động tài chính bao gồm: - Tiền lãi: Lãi cho vay, lãi tiền gửi, lãi bán hàng trả chậm, trả góp, lãi đầu tư trái phiếu, tín phiếu, chiết khấu thanh toán được hưởng. - Cổ tức, lợi nhuận được chia (của DNCP, DNLD) - Thu nhập về hoạt động đầu tư mua, bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn. - Thu thập về thu hồi hoặc thanh lý các khoản vốn góp LD, đầu tư vào Công ty liên kết, vào Công ty con, đầu tư khác,