Giáo trình Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục Tiểu học (Phần 1)

pdf 61 trang ngocly 3010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục Tiểu học (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nang_cao_chat_luong_doi_ngu_giao_vien_va_can_bo_q.pdf

Nội dung text: Giáo trình Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục Tiểu học (Phần 1)

  1. Đặng Huỳnh Mai GIÁO TRÌNH Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Giáo viên và Cán Bộ Quản Lí Giáo Dục Tiểu Học Ebook.moet.gov.vn, 2008
  2. ời nói đầu Thực hiện công văn số 12411/GDTH ngày 31 tháng 12 năm 2003 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kế hoạch bồi dưỡng cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên cấp Tiểu học năm học 2003 - 2004, Dự án Phát triển Giáo viên Tiểu học - Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn tài liệu Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và đổi mới quản lí giáo dục tiểu học. Cuốn sách tập hợp các bài viết của lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các nhà khoa học, các chuyên gia thuộc lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên tiểu học. Những thông tin được đề cập trong cuốn sách này (đổi mới quản lí giáo dục ở tiểu học, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên tiểu học, xây dựng chương trình đào tạo giáo viên, quản lí nhà trường, xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch giáo viên tiểu học, ) chắc chắn sẽ giúp ích thiết thực cho đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên tiểu học để từ đó vận dụng một cách sáng tạo vào việc thực thi nhiệm vụ của mình, từng bước góp phần đổi mới giáo dục ở cấp Tiểu học. Tháng 6 - 2004 DỰ ÁN PHÁT TRIỂN GIÁO VIÊN TIỂU HỌC 5
  3. Phần một : ĐỔI MỚI QUẢN LÍ GIÁO DỤC Ở TIỂU HỌC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO VIỆT NAM THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC (Giai đoạn 2003 - 2010) Đặng Huỳnh Mai Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII chỉ rõ : "Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức, đủ tài". Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX yêu cầu : bố trí cán bộ ; xây dựng kế hoạch đào tạo lại đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí (CBQL) giáo dục, đảm bảo đủ số lượng, cơ cấu cân đối, đạt chuẩn, đáp ứng yêu cầu của thời kì đổi mới ; hoàn thiện chế độ chính sách đối với nhà giáo và CBQL. Xuất phát từ những yêu cầu trên, một trong các nhiệm vụ của ngành Giáo dục và Đào tạo hiện nay là phải xác định mục tiêu, nhiệm vụ và bước đi cụ thể trong công tác đào tạo và bồi dưỡng lực lượng nhà giáo và CBQL sao cho phù hợp với định hướng phát triển của đất nước cũng như xu thế toàn cầu hoá của xã hội đương đại. Đứng trước thực trạng này, chúng ta cần tìm hiểu sâu hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục để xây dựng đội ngũ giáo viên phục vụ quá trình phát triển của đất nước trên một số lĩnh vực sau đây : I - GIÁO DỤC PHẢI PHỤC VỤ ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ Ngày 31/8/1960, trong thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở : "Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống nhân dân". Nhận thức vấn đề này trong quá trình xây dựng đội ngũ nhà giáo tức là phải chú ý đến các yêu cầu về phẩm chất, đạo đức và nhận thức chính trị, tư tưởng. Công tác giáo dục chỉ có thể phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ một cách tốt nhất khi cán bộ giáo dục và nhà giáo nhìn nhận một vấn đề chuyên môn thông qua lăng kính của một nhà chính trị. Hay nói cách khác, mỗi nhà giáo là một cán bộ của Đảng và Nhà nước, mỗi cán bộ giáo dục khi giải quyết một vấn đề chuyên môn phải đặt trong bối 6
  4. cảnh chung về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở nơi mà đơn vị giáo dục gắn bó. Đặc biệt, trong giai đoạn mà các địa phương đang từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, yêu cầu này càng trở nên cấp thiết. Ngoài ra, hiện nay có nhiều vấn đề mới xuất hiện như làm thế nào để bảo vệ thương hiệu, tính bền vững của chất lượng hàng hoá, thì sự đòi hỏi một nền giáo dục phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn với sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân là thật sự cần thiết và quan trọng. Thực hiện được điều này cũng có nghĩa là thực hiện được nguyên tắc quản lí kết hợp giữa ngành và lãnh thổ, nhằm thúc đẩy công tác chuyên môn phát triển dựa trên cơ sở sự phát triển toàn diện của một địa phương và ngược lại. Khi giáo dục góp phần vào sự phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân địa phương, kết quả của giáo dục sẽ được nâng lên một bước. Cứ như thế thì mối quan hệ giữa giáo dục và chính quyền địa phương ngày càng chặt chẽ trong sự phát triển bền vững giữa chính trị và kinh tế nói chung, giáo dục nói riêng. Giáo dục chính là nơi sẽ cung cấp các đối tượng để các cấp uỷ địa phương quan tâm đến công tác phát triển Đảng, có thể phát triển thành đảng viên trong quá trình hoạt động. II - GIÁO DỤC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Trong toàn bộ di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề được Bác Hồ đặc biệt quan tâm là đào tạo con người Việt Nam thông qua hoạt động giáo dục gắn chặt với mục tiêu xây dựng đất nước. Người khẳng định : "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa". Ngành giáo dục phải làm thế nào để có con người xã hội chủ nghĩa. Bác đã chỉ ra các đặc trưng cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa, hay nói cách khác, Bác đã giao trách nhiệm cho các nhà giáo dục về yêu cầu sản phẩm của quá trình giáo dục và đào tạo với các tiêu chí cụ thể về con người Việt Nam mới là : - Có ý thức và tinh thần làm chủ tập thể, có tư tưởng "Mình vì mọi người và mọi người vì mình", có tinh thần dám nghĩ dám làm và không ngừng vươn lên. - Có đạo đức và lối sống tốt, trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, có lối sống lành mạnh và trong sạch. - Là con người lao động có kế hoạch, có phương pháp, có quyết tâm ; lao động có tổ chức, có kỉ luật ; có năng suất chất lượng và hiệu quả, lao động quên mình không sợ khó sợ khổ ; vì lợi ích của xã hội, của tập thể và của bản thân mình. - Có năng lực làm chủ bản thân, gia đình và công việc mà mình đảm nhận với tư cách là công dân tham gia làm chủ Nhà nước và xã hội ; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kĩ thuật, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ. Như vậy, để có sản phẩm con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa như Bác Hồ đã chỉ ra và để hoàn thành nhiệm vụ đào tạo cán bộ cho dân tộc thì đội ngũ nhà giáo 7
  5. Việt Nam còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Trước hết, bản thân mỗi nhà giáo phải vừa là con người mới xã hội chủ nghĩa với các tiêu chí mà Bác đã nêu, vừa là một người thầy thực thụ, người có đủ năng lực và phẩm chất, đạo đức Bác Hồ đã căn dặn : "Các thầy giáo có nhiệm vụ rất nặng nề là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích, thật thà phục vụ nhân dân". Trong các nhiệm vụ chung của giáo dục, có một nhiệm vụ cơ bản là phục vụ thế hệ trẻ. Để làm tốt nhiệm vụ này, Bác Hồ đã từng nhắc nhở : Dạy trẻ phải giữ gìn "toàn vẹn cái tính vui vẻ hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm cho chúng hoá ra những người già sớm". Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đối với vấn đề nhiệm vụ và mục đích của giáo dục, chúng ta có thể nói rằng Bác đã giao nhiệm vụ cụ thể cho ngành và đội ngũ giáo viên. Công cuộc đổi mới nền giáo dục hiện nay, mà chúng ta đang thực hiện, phải chăng là sự trở về với bản chất quá trình giảng dạy và giáo dục mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta - người thầy vĩ đại của dân tộc đã chỉ ra cách đây rất lâu. Yêu cầu về đội ngũ giáo viên thời kháng chiến cứu quốc đã là như vậy thì yêu cầu về người thầy của thế kỉ XXI, của một đất nước Việt Nam công nghiệp hoá - hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, càng đòi hỏi năng lực chuyên môn và khả năng thích ứng là một sự đòi hỏi phải cao hơn rất nhiều. III - VỀ MỤC TIÊU GIÁO DỤC TOÀN DIỆN Khi nói về mục tiêu giáo dục, Bác Hồ đã chỉ rõ : "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết". Người đã nhiều lần nhắc nhở : "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên". Như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng phải đạt cho được mục tiêu giáo dục toàn diện, để lực lượng thanh niên sau đào tạo đủ sức phục vụ nhân dân. Để làm được điều này, phải xác định mục tiêu cụ thể của từng bậc học, từng lĩnh vực như Bác đã căn dặn : "- Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế, trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây sẽ lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt. - Tiểu học cần giáo dục các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép vào khuôn khổ của người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khoẻ của các cháu. - Trung học phải đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần mà không cần thiết cho cuộc sống thực tế. - Đại học thì phải kết hợp lí luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lí luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho cuộc sống xây dựng nước nhà", 8
  6. Như vậy, đối chiếu với những yêu cầu hiện nay, chúng ta thấy rằng Bác Hồ đã rất quan tâm đến vấn đề giáo dục toàn diện. Chúng ta không những phải quan tâm đến việc dạy chữ, dạy nghề mà phải hết sức chú ý đến việc dạy người. Trong phương thức đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam cần bảo đảm yêu cầu trang bị về tri thức, thực hành và rèn luyện phẩm chất để lực lượng sản xuất đủ sức gánh vác sự nghiệp xây dựng đất nước thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Làm theo lời Bác dặn, là phải xây dựng chương trình, nội dung phù hợp với từng đối tượng trẻ ở từng bậc học và từng vùng. Điều này cũng đã bao hàm nhiệm vụ đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc, "Nước nhà phải kiến thiết, kiến thiết phải có nhân tài". Như vậy, nội dung đào tạo và bồi dưỡng đối với thế hệ trẻ - thế hệ cách mạng cho đời sau - đã được Bác Hồ quan tâm từ những ngày gian khổ của thời kì kháng chiến cứu quốc. Ngày nay, trong điều kiện xây dựng đất nước Việt Nam công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mỗi nhà giáo cần suy nghĩ nhiều hơn và sâu sắc hơn nhiệm vụ của mình trong quá trình đổi mới. IV - VỀ ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC Bác Hồ đánh giá cao sứ mệnh vinh quang của người thầy giáo. Người nói : "Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người thầy giáo tốt, người thầy giáo xứng đáng là thầy giáo là người vẻ vang nhất" (Bài nói tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội ngày 21/10/1964). Người còn căn dặn : "Thầy giáo phải thật thà yêu nghề của mình". Một câu nói thật bình dị nhưng đòi hỏi mỗi nhà giáo phải có tấm lòng yêu nghề mến trẻ thật sự, dồn tất cả lương tâm nghề nghiệp, trí tuệ, công sức lên mỗi giáo trình, mỗi trang giáo án. Thầy giáo phải vì học sinh của mình mà nghiên cứu, mà đầu tư để chất lượng giảng dạy ngày hôm nay cao hơn ngày hôm qua và lớp trẻ hôm nay hơn hẳn lớp trẻ những năm trước. Ở một chỗ khác, Bác lại nói : "Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, bởi vì không có thầy giáo thì không có giáo dục". Năm 1964, Người đã nói : "Dạy cũng như học phải chú trọng cả đức lẫn tài để đào tạo thế hệ trẻ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên". Đối với việc xây dựng đội ngũ nhà giáo, Bác cũng quan tâm đến việc đào tạo về kĩ năng sư phạm. Người nói : "Giáo dục phải theo hoàn cảnh, điều kiện", đây chính là yêu cầu đòi hỏi người thầy giáo phải vận dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với điều kiện cụ thể của học sinh từng vùng, từng khu vực và từng nhóm học sinh cụ thể của một lớp học. Về vấn đề thực hành, thực tập Bác cũng đã nêu : "Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi còn hơn một trăm chương trình lớn mà không làm được". Nếu có dịp nghiên cứu giáo dục ở các nước, chúng ta sẽ thấy các trường đại học, trung học chuyên nghiệp thường đầu tư lớn nhất vào việc xây dựng thư viện và phòng thực hành vì đây là nơi sinh viên làm việc cật lực để hiểu bài, hay nói cách khác là để chuyển tri thức của nhân loại thành kiến thức của bản thân. Thậm chí có quốc gia giao hẳn nhà bảo tàng cho trường đại học quản lí và xem đây là thư viện vừa phục vụ xã hội vừa phục vụ cho sinh viên nghiên cứu đặc biệt là ở lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. 9
  7. Bác cũng rất chú trọng đến mối quan hệ thầy trò. Người nói : "Trong trường cần có dân chủ, đối với mọi vấn đề thầy trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông thì hỏi, làm cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò không phải "cá đối bằng đầu". Đây chính là điều mà chúng ta đang phấn đấu thực hiện trong sự nghiệp "đổi mới giáo dục". Ở Trung Quốc, vào các trường đại học, chúng ta sẽ thấy một loạt các khẩu hiệu : "Mỗi vấn đề của học sinh là vấn đề của nhà trường", "Mỗi yêu cầu của học sinh là công việc mà chúng ta phải làm" (tất nhiên yêu cầu ở đây phải chính đáng để học sinh học tốt). Ở Australia, ở Bỉ, chúng tôi cũng thấy những khẩu hiệu tương tự như thế, tuy họ không có khẩu hiệu như ở Trung Quốc nhưng khi có một học sinh yêu cầu về bút, sách hoặc vở, là giáo viên và hiệu trưởng đáp ứng ngay bằng một tình cảm thật sự, chân thành. Bác Hồ của chúng ta cũng rất quan tâm đến lực lượng phục vụ trong nhà trường. Người nói : "Thầy và trò cần giúp đỡ anh chị em phục vụ nhà trường, các chị em nên thi đua sao cho cơm lành canh ngọt để cho học sinh ăn no học tốt". Để xây dựng đội ngũ những người thầy giáo thì lực lượng nhân viên phục vụ nhà trường rất quan trọng. Ở các nước, tỉ lệ nhân viên phục vụ được quy định khá rõ ràng, họ giúp cán bộ quản lí (CBQL), giáo viên rất nhiều mặt như hành chính, tài chính, hỗ trợ học sinh. Ở các trường đại học, thư viện là nơi làm việc và học tập chính của học sinh, học sinh có thể học tập muộn đến 9h - 10h đêm. Ở đó luôn có một nhân viên đưa học sinh ra cổng trường đến bến xe buýt để các em về với gia đình an toàn. Thiết nghĩ, lực lượng này mà làm tốt thì công tác tư vấn cho học sinh sẽ tốt hơn, thầy sẽ dành thời gian để làm tốt công tác giảng dạy và giáo dục. Bởi vì để giảng dạy tốt hơn thì thầy phải đầu tư vào việc hướng dẫn cho trẻ chiếm lĩnh tri thức, như Bác đã nhắc nhở : "Tri thức phải dễ hiểu, dễ nhớ, mau học", còn để giáo dục tốt thì thầy giáo phải đặc biệt chú ý "ngoài tri thức phải có đạo đức cách mạng". Công tác giáo dục trẻ không kém phần quan trọng so với việc hình thành tri thức khoa học cho trẻ. Như vậy, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là tìm hiểu một di sản tinh thần vô giá, một tư tưởng được hình thành trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Vì vậy, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL là điều quan trọng và cần thiết. Nhận thức đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau cũng như về công tác xây dựng đội ngũ giáo viên sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn sâu sắc về thực tiễn giáo dục Việt Nam và thế giới, để thấy rằng những điều chúng ta đã làm và sẽ làm là những điều mà Bác Hồ kính yêu, người thầy vĩ đại của chúng ta đã căn dặn và chỉ đạo cách đây rất lâu. Có lẽ, nếu chúng ta làm được như Bác Hồ mong muốn thì chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục sẽ được nâng cao ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, phục vụ nhiệm vụ ngày càng tốt yêu cầu của đất nước, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc. Đảng và Nhà nước đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Điều này có ý nghĩa là ngoài sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác giáo dục thì bản thân ngành giáo dục, 10
  8. đội ngũ nhà giáo, CBQL phải vươn lên trong nhận thức và hành động để xứng đáng với tầm vóc mà xã hội mong đợi, như Bác Hồ đã nói : "Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Dân tộc ta vì trọng đạo làm người mà tôn sư và coi trọng giáo dục". Trước mắt đất nước ta còn nhiều khó khăn thách thức, nhưng chắc chắn rằng, nếu chúng ta có bước đi cụ thể, thích hợp, huy động được các lực lượng tham gia vào các hoạt động xã hội hoá giáo dục, như Bác Hồ đã căn dặn : "Làm phải có kế hoạch, có từng bước, việc gì cũng phải từ nhỏ dần đến to, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao", thì tin rằng việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL cũng như sự nghiệp đổi mới giáo dục của đất nước ta sẽ thành công rực rỡ. Ghi chú : Tài liệu sử dụng chủ yếu là : Tài liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên) xuất bản tháng 6/2003 và Hồ Chí Minh toàn tập. 11
  9. XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHÀ TRƯỜNG Đặng Huỳnh Mai Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo I - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC 1. Cơ sở lí luận - Xét về góc độ chính trị, xã hội hoá giáo dục (XHHGD) là "huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp công sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của Nhà nước". - Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nêu : "Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết". - Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định : "Phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và của mỗi cộng đồng, của từng gia đình và của mỗi công dân". - Xuất phát từ vai trò của quần chúng trong lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói : "Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy nhưng thiếu sự giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". - Điều 11 của Luật Giáo dục đã ghi : "Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục". Như vậy Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục ; thực hiện đa dạng hoá các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục ; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục". - Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo 2001 - 2010 đã đề cập : "Khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục. Tạo cơ hội cho mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời ; tiến tới một xã hội học tập". 2. Khái niệm - Từ cơ sở lí luận đã nêu trên, chúng ta có thể hiểu XHHGD là quá trình huy động cộng đồng (HĐCĐ). Hiện nay có rất nhiều cách hiểu XHHGD khác nhau. Một trong những quan niệm về XHH hay HĐCĐ mang tính phổ biến, được nhiều nhà khoa học và công chúng thừa nhận đó là : 12
  10. - XHHGD hay HĐCĐ là quá trình huy động các cá nhân và tập thể có nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích muốn được chia sẻ với giáo dục và vì sự phát triển của sự nghiệp giáo dục đào tạo ở từng cơ sở và từng địa phương, nhằm thực hiện được mục tiêu phát triển giáo dục. - Xét từ góc độ lợi ích của cộng đồng thì có thể nói bất cứ một gia đình nào sống trên đất nước chúng ta, cho dù là nghèo khó hay khá giả đều có nhu cầu cho con em mình được đến trường, đều có nguyện vọng con em mình được đào tạo tốt. Họ luôn mong đợi sự quan tâm của nhà trường, của giáo viên đến từng học sinh. Còn các nhà quản lí giáo dục khi thực hiện quá trình HĐCĐ cũng đặt lợi ích của quá trình chỉ đạo lên trên hết. Điều này cũng có nghĩa là phải vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích nhà trường và cũng là vì sự phát triển của từng học sinh trong cộng đồng dân cư mà trường đóng trên đó. Nói theo ngôn ngữ triết học thì đây là một quá trình thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập để cùng tồn tại và phát triển. II - MỘT VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CỦA XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC : HUY ĐỘNG CỘNG ĐỒNG THAM GIA XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Vấn đề XHHGD được điều 11 - Luật Giáo dục, Mục 5.5 và 5.6 của Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 nêu rõ ; vấn đề là làm thế nào để biến những quy định đó thành những hoạt động cụ thể, thành tư tưởng chỉ đạo trong quá trình xây dựng và phát triển nhà trường. Để có thể hiện thực được những tư tưởng trên chúng ta cần đi sâu tìm hiểu các thành tố của HĐCĐ tham gia xây dựng và phát triển giáo dục trong nhà trường. 1. Mục đích huy động cộng đồng Huy động cộng đồng tham gia xây dựng và phát triển trường tiểu học nhằm hai mục đích sau : - Xây dựng các điều kiện thiết yếu phục vụ cho quá trình giáo dục trẻ ở trường tiểu học như cơ sở vật chất trường lớp, đội ngũ giáo viên, - Tạo môi trường giáo dục trẻ tốt nhất trong điều kiện có thể phấn đấu được, thống nhất giữa nhà trường - gia đình - xã hội ; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện mục tiêu đào tạo con người Việt Nam ngay từ cấp Tiểu học để phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Nội dung huy động cộng đồng Nội dung chính của HĐCĐ là tạo ra các nguồn lực cả vật chất và tinh thần để phục vụ việc xây dựng một môi trường giáo dục tốt nhất, để có điều kiện chăm lo cho việc dạy trẻ cả trên 2 phương diện kiến thức và đào tạo con người. Huy động nguồn lực là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà quản lí giáo dục. Khi xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục, một yêu cầu chính đáng của nhà quản lí giáo dục là cộng đồng xã hội phải đóng vai trò tích cực trong việc quyết định những 13
  11. yêu cầu về nguồn lực ngoài ngân sách Nhà nước. Có hai nguồn lực chính cần quan tâm trong quá trình HĐCĐ là : - Nguồn lực vật chất bao gồm : tài lực, vật lực, nhân lực, đất đai, trường sở, trang thiết bị, phục vụ giảng dạy và học tập. - Nguồn lực phi vật chất bao gồm : việc tạo ra môi trường giáo dục thống nhất, các yếu tố tinh thần, sự ủng hộ chủ trương giáo dục, sự tư vấn, trao đổi thông tin, kinh nghiệm. Trong thực tế, các nhà quản lí giáo dục cấp cơ sở chưa tập trung đúng mức để khai thác nguồn lực này cũng như vẫn thường xem nguồn lực phi vật chất là quan trọng hơn nguồn lực vật chất. Ví dụ : Một cơ sở khoa học có giá trị, một kinh nghiệm thực tiễn hoặc một lời động viên của người lãnh đạo là vô giá. 3. Đối tượng huy động cộng đồng Có 6 nhóm đối tượng huy động cộng đồng là : - Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp : đây là lực lượng quan trọng quyết định sự đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường tiểu học và cũng là lực lượng tạo cơ chế cho việc HĐCĐ ở địa phương, tạo điều kiện cho việc HĐCĐ triển khai thuận lợi. - Gia đình, cha mẹ học sinh, Hội cha mẹ học sinh : đây là lực lượng có nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích trực tiếp cùng chia sẻ với nhà trường, một đối tác trong việc HĐCĐ của nhà trường và cũng là lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh. - Các cơ quan, ban ngành trước hết là các ngành có chức năng, có trách nhiệm đối với trường tiểu học như y tế, công an, bảo vệ, Uỷ ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em ( các tổ chức đoàn thể như : Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Hội Khuyến học và các tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện. Tất cả các tổ chức này tạo nên một lực lượng đông đảo, đa dạng để nhà trường vận động trong quá trình triển khai các nhiệm vụ giáo dục. - Các cơ sở SXKD, dịch vụ : đây là một lực lượng hỗ trợ quan trọng, tạo khả năng liên kết trong việc huy động các nguồn lực vật chất. - Bản thân ngành giáo dục đào tạo cũng là một đối tượng để HĐCĐ. - Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, đặc biệt là cá nhân có uy tín, các "mạnh thường quân" Kinh nghiệm cho thấy trong nhiều trường hợp đối tượng này tuy ít nhưng lại cho những kết quả bất ngờ trong quá trình HĐCĐ nếu như người CBQLGD biết đột phá vào các bước phát triển quan trọng có thể làm thay đổi chất lượng giáo dục. 4. Chủ thể huy động cộng đồng (người đứng ra làm nhiệm vụ XHHGD) 14
  12. - Ngành Giáo dục và Đào tạo là lực lượng nòng cốt trong việc triển khai công tác XHHGD trong đó bản thân nhà trường, CBQL giáo dục cùng tập thể sư phạm, đội ngũ giáo viên giữ vai trò quan trọng trong quá trình giảng dạy và giáo dục trẻ. Lời hiệu triệu HĐCĐ của giáo viên có sức thuyết phục mạnh nhất. Mặt khác, mỗi nhà giáo có mối quan hệ xã hội rất rộng bởi vì họ có rất nhiều phụ huynh học sinh. - Lãnh đạo Đảng và chính quyền địa phương : XHHGD là một cuộc huy động toàn xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi nhân tố, mọi lực lượng xã hội. Chỉ có Đảng mới có thể lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, cơ cấu hành chính làm nên sức mạnh đó. Chính quyền các cấp với chức năng quản lí Nhà nước của mình không chỉ huy động, khuyến khích mà còn tạo cơ sở pháp lí cho việc huy động và tổ chức điều hành sự phối hợp các lực lượng xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục (nhà trường). Do vậy, vai trò của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương rất quan trọng trong cuộc vận động XHHGD. - Ban đại diện cha mẹ học sinh cũng là một chủ thể HĐCĐ Có những lực lượng xã hội có thể vừa giữ vai trò chủ thể HĐCĐ, nhưng đồng thời cũng chính là đối tượng được huy động. Chẳng hạn phụ huynh học sinh, ngành Giáo dục, chính quyền cơ sở (xã - phường, huyện - quận). III - CÁC NGUYÊN TẮC HUY ĐỘNG CỘNG ĐỒNG THAM GIA XÂY DỰNG GIÁO DỤC 1. Nguyên tắc về lợi ích Mỗi hoạt động hợp tác, phối hợp đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của cả hai phía : nhà trường và cộng đồng, mỗi bên tham gia đều cần tìm thấy lợi ích chung của cá nhân, tập thể cũng như của cả dân tộc. Lợi ích hai phía là nguyên tắc rất quan trọng để HĐCĐ có sức sống và có thể duy trì lâu dài. Nguyên tắc này tạo động lực cho sự tham gia của cộng đồng, đảm bảo cho sự phối hợp trong những hoạt động cụ thể để xây dựng và phát triển giáo dục trên một địa bàn cụ thể. Muốn cho nhà trường là trái tim của cộng đồng và cộng đồng là chỗ dựa vững chắc của giáo dục ở địa phương, cần phải quán triệt nguyên tắc lợi ích hai chiều trong việc triển khai các biện pháp cụ thể để hiệu quả của việc HĐCĐ không chỉ mang lại lợi ích cho giáo dục, cho nhà trường mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho những người tham gia, cho cộng đồng, cho địa phương. 2. Nguyên tắc về chức năng nhiệm vụ Nhà trường cũng như các lực lượng xã hội, các tổ chức, đều có những chức năng và trách nhiệm riêng. Để khai thác, phát huy, khuyến khích họ tham gia vào một hoạt động nào đó thì phải phát hiện và nhằm đúng chức năng, trách nhiệm của đối tác. Ví dụ : Đối với cấp uỷ và chính quyền địa phương thì nội dung huy động phải là chủ trương, văn bản chỉ đạo, hoặc đất xây dựng, 3. Nguyên tắc dân chủ 15
  13. Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc quản lí. Người quản lí sử dụng nguyên tắc này để vừa thể hiện vai trò dân chủ hoá của cơ sở vừa thể hiện vai trò của thủ trưởng đơn vị. Khi quyết định các vấn đề về quản lí, người lãnh đạo phải dựa trên cơ sở lí luận, tình hình thực tiễn, xu thế phát triển cùng với sự tôn trọng ý kiến cá nhân trong tập thể mà có những quyết định đúng đắn trong quá trình chỉ đạo. Tuy nhiên, đối với việc huy động các lực lượng xã hội tham gia xây dựng và phát triển nhà trường, cần phải quan tâm đến nguyên tắc dân chủ. Người quản lí có thể đưa ra những quyết sách nhưng phải tạo được sự đồng tình ủng hộ của xã hội. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ tạo môi trường công khai, bình đẳng để cộng đồng hiểu đúng về giáo dục và nhà trường hơn, đồng thời góp phần thực hiện nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" các hoạt động XHHGD để mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội phát triển toàn diện và mang lại hiệu quả thiết thực. 4. Nguyên tắc về luật pháp XHHGD chỉ phát triển khi quá trình HĐCĐ phải tuân thủ pháp luật Nhà nước, có nghĩa là cần dựa trên cơ sở pháp lí. Ngược lại, các cơ quan đoàn thể, các tổ chức xã hội, cũng cần có những cơ sở pháp lí để triển khai cũng như để tham gia huy động nguồn lực cho giáo dục. 5. Nguyên tắc phù hợp và thích ứng Nguyên tắc này đòi hỏi người quản lí phải biết lựa chọn thời gian thích hợp nhất để đưa ra một chủ trương HĐCĐ. Tuy nhiên, để thực hiện nguyên tắc này là phải xây dựng cho được kế hoạch cụ thể và kế hoạch mang tính định hướng, để khi có điều kiện thuận lợi thì tranh thủ sự lãnh đạo của địa phương, phát huy vai trò dân chủ ở cơ sở để nhiệm vụ XHHGD được thực hiện một cách thuận lợi. Đây có thể nói là một nguyên tắc khá quan trọng. Ví dụ : Phải xây dựng quy hoạch nhà trường đồng thời với quy hoạch của một phường, xã hoặc thị trấn. Hoặc, để chuẩn bị kỉ niệm 40 năm thành lập trường thì đến năm thứ 39, hiệu trưởng phải đưa ra được kế hoạch phác thảo cho việc tổ chức ngày hội truyền thống này, do vậy từ việc khen thưởng đến kinh phí phục vụ cho lễ hội sẽ được sự hỗ trợ của các lực lượng xã hội, kể cả các cựu học sinh, giáo viên nhà trường (thông qua nguyên tắc truyền thống và tình cảm). 6. Nguyên tắc truyền thống, tình cảm Đó là sự khơi dậy và phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng đạo lí, đề cao sự học, đề cao giá trị của học vấn của mỗi gia tộc, dòng họ ; niềm tin của cá nhân vào sự nghiệp phát triển chung của giáo dục, của từng nhà trường để có thể huy động nhiều nguồn lực khác nhau chăm lo cho sự nghiệp giáo dục đào tạo. 7. Nguyên tắc kết hợp ngành - lãnh thổ 16
  14. Chủ trương HĐCĐ và xã hội hoá triển khai trong thực tế cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa địa phương và ngành giáo dục (nguyên tắc này được nói nhiều trong quản lí giáo dục). 8. Nguyên tắc giao tiếp Có hai con đường giao tiếp đó là con đường chính thức (các văn bản, công văn, đề nghị ) và con đường không chính thức (thông qua nguyên tắc truyền thống và tình cảm). Điều cần nhấn mạnh ở đây là kĩ năng giao tiếp với cộng đồng, sự tâm huyết với sự nghiệp giáo dục của các chủ thể HĐCĐ là điều kiện quan trọng cho việc thực hiện tư tưởng XHHGD và HĐCĐ. Chính những nguyên tắc này cho phép chúng ta sử dụng các mối quan hệ chính thức và không chính thức trong việc phối kết hợp lãnh đạo của địa phương với các lực lượng xã hội, tạo cho hiệu trưởng một hành lang pháp lí trong việc triển khai các biện pháp huy động cộng đồng. 9. Nguyên tắc kế hoạch hoá Như chúng ta đã biết, kế hoạch hoá là một trong bốn chức năng quản lí và là một chức năng mang tính chủ đạo trong quá trình quản lí của người Hiệu trưởng. Do đó, để HĐCĐ đạt hiệu quả, việc xây dựng kế hoạch cho một hoạt động cụ thể là rất cần thiết. Kế hoạch được xây dựng trên một số yếu tố sau : - Mục tiêu của việc HĐCĐ - Xác định đối tượng huy động - Kết quả dự kiến đối với từng đối tượng - Thời gian thích hợp nhất - Nguyên tắc ưu tiên để sử dụng trong quá trình triển khai thực hiện HĐCĐ - Sự phân công một số thành viên trong chủ thể huy động - Chi tiết hoá kế hoạch và hệ thống giải pháp cụ thể. Các nguyên tắc nêu trên chỉ là một sự định hướng quá trình XHHGD để khai thác các tiềm năng cho sự phát triển toàn diện. Tuỳ từng đối tượng, từng công việc mà vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. (Tham khảo thêm bài tập tình huống ở phần V). IV - CÁC GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG CỘNG ĐỒNG THAM GIA XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÀ TRƯỜNG Trong thực tiễn triển khai XHHGD ở các địa phương, nhiều nhà trường đã có nhiều sáng tạo ; tuy nhiên có thể nêu ra đây một số giải pháp chủ yếu, cơ bản trong quá trình thực hiện. 17
  15. 1. Tổ chức tốt công tác tuyên truyền cho cộng đồng và bản thân nhà trường Tuyên truyền là một chủ trương đúng đắn với mục đích dành những gì đẹp nhất cho trẻ, cải thiện điều kiện học tập của trẻ, đổi mới cách dạy của thầy và cách học của trò bằng nhiều hình thức tuyên truyền như : thông qua phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức hình thức liên hệ giữa lãnh đạo nhà trường và lãnh đạo địa phương, tổ chức các đại hội giáo dục, tuyên dương kịp thời các điển hình tích cực, tiên tiến 2. Xây dựng kế hoạch để phân phối các nguồn lực Việc phân phối các nguồn lực để HĐCĐ là một yêu cầu khá quan trọng trong quá trình thực hiện. Chẳng hạn, sự phân phối lực lượng giáo viên giỏi, sự phân phối học sinh phù hợp với năng lực giáo viên để có học sinh giỏi, để hạn chế lưu ban là những vấn đề cực kì quan trọng. Vì chính nội lực đó là một yếu tố quan trọng để XHHGD được triển khai có hiệu quả. 3. Tạo lập uy tín, niềm tin đối với phụ huynh, cấp uỷ Đảng, chính quyền và cộng đồng địa phương, thông qua việc khẳng định uy tín, chất lượng của nhà trường Sự tạo lập uy tín phải bằng chính nội lực của mỗi nhà trường, sự phấn đấu của mỗi một thầy, cô giáo biến quá trình giảng dạy thành quá trình tự học của trẻ. Sử dụng hợp lí và có ích các nguồn thu. Đặc biệt là huy động đủ nguồn lực tinh thần. 4. Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm : Giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan trọng trong sự kết hợp giữa phụ huynh học sinh và nhà trường. Vì vậy, việc bố trí giáo viên dạy giỏi, dạy tốt làm công tác chủ nhiệm lớp tạo uy tín đối với phụ huynh học sinh là điều kiện tốt để phụ huynh đóng góp và tham gia xây dựng nhà trường. Cần chú trọng việc thường xuyên liên lạc giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh về việc thông báo kết quả học tập của học sinh bằng nhiều hình thức sáng tạo và phù hợp với từng địa phương và từng người. 5. Tận dụng những kinh nghiệm và tri thức của phụ huynh, vận động họ tham gia vào các hoạt động của nhà trường, tham gia HĐCĐ (phát huy ở họ không chỉ là vai trò đối tượng huy động mà cả vai trò chủ thể huy động). 6. Làm tốt công tác tham mưu cho lãnh đạo địa phương : Có thể nói chính quyền địa phương là chỗ dựa cho việc triển khai HĐCĐ, nơi có thể tạo lập môi trường lành mạnh cho giáo dục, vận động toàn dân chăm sóc thế hệ trẻ, gắn kết giữa nhà trường gia đình và xã hội trong công tác giáo dục đào tạo nói chung. 18
  16. 7. Xây dựng các cơ chế liên kết giữa nhà trường, gia đình, lực lượng xã hội. Quan tâm đến nguyên tắc lợi ích trong việc huy động cộng đồng, biết tận dụng thời cơ và biết làm những việc có ích cho cộng đồng dưới các hình thức. Tuy nhiên cần chú ý đến việc nhà trường chủ động tham gia các hoạt động của địa phương, tổ chức các hoạt động phối kết hợp hoặc kết nghĩa với các đơn vị kinh tế, xã hội hoặc huy động các nguồn lực cho nhà trường bằng việc xây dựng các chương trình hay dự án, 8. Hiệu trưởng thường xuyên bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để làm tốt vai trò của mình trong môi trường xã hội địa phương (người hiệu trưởng có uy tín, năng lực là nguồn kích thích sự tham gia của cộng đồng địa phương cho sự phát triển của nhà trường). Tóm lại, XHHGD là một tư tưởng chiến lược của Đảng ta đã được thể hiện trong nhiều Nghị quyết. Có thể nói XHHGD là một quá trình HĐCĐ để xây dựng một xã hội học tập, một cộng đồng trách nhiệm. Sự đa dạng hoá về loại hình đào tạo cũng như nguồn lực xã hội dành cho giáo dục Việt Nam vẫn chưa được chúng ta khai thác có hiệu quả. Muốn thực hiện có hiệu quả quá trình XHHGD, chúng ta phải nắm vững các hệ thống nguyên tắc cũng như quy trình huy động các lực lượng trong xã hội. V - TÌNH HUỐNG ĐỂ THẢO LUẬN Có một nhóm các hiệu trưởng thiết kế một ma trận HĐCĐ phục vụ đợt học chính trị hè cho trường của các đồng chí đó như sau : TT Đối tượng HĐ Nội dung HĐ Thời gian Kết quả mong đợi Cấp uỷ và chính quyền Xin chủ trương cho Đồng ý chủ trương và 1 3 ngày địa phương giáo viên học chính trị xin được kinh phí 2 HĐGD địa phương Nt Nt Nt 3 Các cơ quan đoàn thể Nt Nt Nt 4 Hội CMHS Nt Nt Nt 5 Các tổ chức quốc tế Nt Nt Nt Nâng cao được nhận thức 6 Tập thể sư phạm Đóng góp công sức Nt tư tưởng chính trị cho đội ngũ Đề nghị mỗi cá nhân nêu nhận xét và đưa ra phương án của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
  17. 1. Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (tr.61). 2. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tr.114). 3. Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII. NXB Chính trị Quốc gia., H 1998 (tr.4). 4. Hồ Chí Minh, Bài nói tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành Giáo dục, tháng 6/1957. 5. Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2002. Xuất bản tháng 3/2002. 6. Đề án quy hoạch phát triển xã hội hoá giáo dục giai đoạn 2005 - 2010 của Bộ GD&ĐT. 7. Huy động cộng đồng để xây dựng và phát triển Trường Tiểu học - TS. Đặng Xuân Hải - 2000. 20
  18. Phần hai : CHUẨN HOÁ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CHÚNG TA CẦN GÌ Ở NHÀ GIÁO DẠY TIỂU HỌC ? (Giai đoạn 2003 - 2010) Đặng Huỳnh Mai Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Người thầy giáo có vai trò quyết định đối với quá trình dạy và học, một lực lượng có "chức năng đặc biệt" chi phối và định hướng cho nguồn nhân lực tương lai của đất nước. Giáo viên, thông qua các hoạt động giảng dạy và giáo dục góp phần cung cấp những kiến thức cơ bản cần thiết cho học sinh. Đồng thời, cũng chính giáo viên là người có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình hình thành nhân cách các công dân trẻ tuổi. Chính vì thế, báo cáo của Bộ chính trị tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã nêu chủ trương : "đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục đủ sức đủ tài cùng với đội ngũ nhà giáo và toàn xã hội chấn hưng nền giáo dục nước nhà" và "chú trọng việc nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống của nhà giáo". Nhìn lại đội ngũ GVTH trong nhiều thập kỉ qua, ngành ta tự hào có rất nhiều nhà giáo tâm huyết với nghề, luôn tận tâm với thế hệ trẻ, miệt mài bên trang giáo án. Dấu chân của họ đã trải dài trên khắp mọi miền của đất nước. Có thể nói rằng, nếu không có lực lượng này tình nguyện về các vùng xa xôi hẻo lánh, vùng núi cao, hải đảo thì chúng ta chưa có thể có được kết quả phổ cập giáo dục tiểu học trên phạm vi toàn quốc cũng như kết quả huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt tỉ lệ 97%. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng hiện nay vẫn còn một bộ phận chưa làm tròn trách nhiệm của người giáo viên, khi giảng dạy còn nặng về nhồi nhét, truyền thụ kiến thức theo con đường mòn, chưa phát huy tính sáng tạo của trẻ, Muốn phát huy khả năng sáng tạo cũng như giúp trẻ phát triển tư duy trong một môi trường học tập mới thực sự thì cần phải đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo giáo viên tiểu học, đổi mới cách đánh giá đối với giáo viên, Đất nước đang bước vào giai đoạn hết sức quan trọng có tính quyết định - giai đoạn đổi mới giáo dục phổ thông theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 40 của Quốc hội và Chỉ thị 14 của Thủ tướng Chính phủ. Một vấn đề được 21
  19. đặt ra : "để thực hiện được mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp ; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Luật Giáo dục) thì đất nước, xã hội và ngành giáo dục - đào tạo cần có những nhà giáo như thế nào ? Nói cách khác, những yêu cầu về phẩm chất đạo đức của nhà giáo (trong đó đặc biệt là nhà giáo dạy cấp Tiểu học) là gì ? Đảng, Nhà nước, ngành Giáo dục Đào tạo và nhân dân mong đợi ở nhà giáo nói chung và người GVTH nói riêng, những kiến thức và kĩ năng sư phạm như thế nào trong điều kiện của một dân tộc đã và đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá ? Đã đến lúc cần thể chế hoá những yêu cầu đó thành chuẩn giáo viên tiểu học (GVTH) của giai đoạn mới mang tính khách quan khoa học, phù hợp với thực tiễn. Đây là công việc quan trọng phù hợp với chủ trương chuẩn hoá - hiện đại hoá nền giáo dục của Đại hội Đảng lần thứ IX. Do đó công việc này không phải của riêng ngành giáo dục và đào tạo mà là công việc của nhà nước và của toàn xã hội. Chuẩn GVTH sẽ là mẫu hình để từ đó xây dựng một đội ngũ GVTH của thế kỉ XXI, góp phần tạo nên chất lượng ngày càng cao phục vụ đổi mới giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng. Thu thập thông tin từ các hội thảo về chuẩn GVTH được tổ chức trong mấy năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo nhận thấy đa số các ý kiến đều cho rằng, chuẩn GVTH cần phải đảm bảo đủ ba yếu tố cơ bản : phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị ; kiến thức và kĩ năng sư phạm như điều 63 của Luật Giáo dục : "Nhà giáo có nhiệm vụ không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao đạo đức, phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nêu gương tốt cho người học". Như vậy, ba yếu tố cơ bản để xây dựng chuẩn GVTH là : phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị ; kiến thức và kĩ năng sư phạm. Những chuẩn này sẽ là "gương soi" của từng giáo viên, sẽ là bức tranh phản ánh chất lượng thực sự của đội ngũ GVTH hiện nay và tương lai. Căn cứ sự đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên theo chuẩn GVTH, các cấp quản lí giáo dục sẽ xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, dài hạn đối với đội ngũ giáo viên ở địa phương mình, trường mình cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Trên cơ sở chuẩn GVTH các trường sư phạm đào tạo GVTH sẽ xây dựng kế hoạch đổi mới nội dung chương trình, giáo trình, đào tạo để sau khi tốt nghiệp, sinh viên sẽ đạt "Chuẩn". Đồng thời cũng từ Chuẩn này, mỗi giáo viên có thể tự xác định mình đang ở mức độ nào, họ tự đề ra kế hoạch học tập rèn luyện để bổ sung những "tiêu chuẩn" còn thiếu hoặc phấn đấu để đạt mức cao hơn đối với các tiêu chuẩn còn ở mức thấp. 22
  20. Như vậy xây dựng chuẩn GVTH là một yêu cầu khách quan mà ngành giáo dục phải làm, một việc phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và của thời đại. Nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng chuẩn GVTH từ nhiều năm nay. Có thể rút ra từ việc làm của họ nhiều kinh nghiệm quý báu trên bước đường đổi mới. Để việc xây dựng chuẩn GVTH bảo đảm các yêu cầu trên vừa mang tính kế thừa vừa mang tính phát triển và có hiệu quả thiết thực, Bộ Giáo dục và Đào tạo mong muốn toàn ngành và toàn xã hội sẽ đóng góp ý kiến đối với dự thảo các nội dung cơ bản, cốt lõi thuộc 3 yếu tố (phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị, kiến thức và kĩ năng sư phạm) trong Chuẩn. Bộ Giáo dục và Đào tạo chân thành đón nhận những ý kiến đóng góp của các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, quản lí cùng các nhà giáo đã và đang đứng trên bục giảng, của phụ huynh học sinh và của tất cả những ai quan tâm đến sự phát triển của giáo dục đào tạo trong giai đoạn mới, dựa trên nền tảng hàng nghìn năm văn hiến và trên bảy mươi năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì tương lai của một đất nước Việt Nam công nghiệp hoá - hiện đại hoá để dân tộc ta có thể "sánh vai cùng các cường quốc năm châu" như Bác Hồ kính yêu hằng mong đợi. 23
  21. GIÁO VIÊN TIỂU HỌC - QUAN NIỆM, QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ YÊU CẦU CHUẨN HOÁ PGS. TS. Nguyễn Trí GVTH là bộ phận được hình thành sớm nhất trong đội ngũ giáo viên nước ta. Đây là bộ phận giáo viên xuất hiện ngay từ giai đoạn sơ khai của nền giáo dục nước nhà. Ở giai đoạn nào, GVTH cũng là bộ phận đông đảo nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân. Trong tâm trí mọi lứa tuổi trong cộng đồng dân cư, hình ảnh người thầy để lại dấu ấn sâu đậm thường là hình ảnh người khai trí con đường học vấn của họ : người GVTH. Có lẽ hình ảnh người thầy được nhân dân nói đến một cách trân trọng trong hai câu ca dao sau trước tiên là hình ảnh người GVTH : Muốn sang thì bắc cầu Kiều Muốn con hay chữ thì yêu mến thầy. I - QUAN NIỆM VỀ NGƯỜI GIÁO VIÊN TIỂU HỌC Để hiểu rõ về người giáo viên tiểu học, phải xác định cho đúng vị trí, vai trò, nhiệm vụ của họ trong nền giáo dục quốc dân. Chúng tôi xin giới thiệu một tài liệu nghiên cứu về vấn đề trên. Tài liệu này được hoàn thành vào đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX. Ngay từ lúc đó, chúng ta đã xác định : 1. GVTH là nhân tố quan trọng trong việc xây dựng cấp Tiểu học trở thành cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, tạo điều kiện cơ bản để nâng cao dân trí và trang bị những cơ sở ban đầu hết sức trọng yếu để phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam tương lai. 2. GVTH là người giữ vai trò chủ yếu trong việc thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học. Do thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, người GVTH trở thành người sâu sát, gần gũi nhất với mọi người và là người thầy đầu tiên đối với mỗi công dân tương lai - dù sau này người ấy giữ trọng trách gì. 3. Đối với vùng khó khăn (vùng cao, vùng sâu, hải đảo), GVTH là trí thức địa phương. 4. Học sinh tiểu học tiềm ẩn nhiều khả năng phát triển song do chưa có kinh nghiệm về cuộc sống nên các em tiếp thu không chọn lọc (cả cái tốt lẫn cái xấu trong xã hội). 24
  22. GVTH là người có uy tín, là "thần tượng" đối với tuổi nhỏ. Lời thầy là sự thuyết phục, cử chỉ của thầy là mẫu mực, cuộc sống và lao động của thầy là tấm gương đối với các em. GVTH giữ vai trò quyết định sự phát triển đúng hướng của các em. Ấn tượng về người thầy tiểu học giữ mãi trong kí ức của mỗi người. 5. Phù hợp với đặc điểm tâm lí, sinh lí, mỗi lớp tiểu học chủ yếu có một giáo viên làm chức năng "tổng thể" tương ứng với cả một ê kíp giáo viên bậc học khác. Do đặc điểm lao động sư phạm ở cấp Tiểu học như vậy, nghề dạy học tiểu học là nghề quan trọng và thầy giáo tiểu học cũng là nhân tố quyết định đối với sự phát triển và về chất lượng giáo dục của mỗi lớp tiểu học, của từng học sinh tiểu học. Vì vậy, điều 15 của Luật phổ cập giáo dục tiểu học đã quy định "Giáo viên tiểu học phải được tuyển chọn, đào tạo theo tiêu chuẩn đạo đức, tác phong, chuyên môn, nghiệp vụ do Nhà nước quy định". Mười năm sau đọc lại, chúng tôi thấy những kết luận trên vẫn giữ nguyên giá trị. Một quan niệm như thế về người GVTH, về đội ngũ GVTH là đầy đủ, toàn diện, khoa học. II - QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC Mấy chục năm vừa qua, quá trình phát triển của đội ngũ GVTH có một số đặc điểm sau : 1. Đội ngũ giáo viên tiểu học phát triển nhanh và có số lượng lớn nhất Để làm rõ đặc điểm này, hãy so sánh các con số sau : năm học 1992 - 1993 cả nước có 264 808 GVTH. Tới năm học 2002 - 2003 đã có 358 606 người. Như vậy trong mười năm, đội ngũ giáo viên tiểu học tăng lên xấp xỉ 100000 người. Mỗi năm bình quân tăng 10.000 GVTH. Nếu tính cả con số nghỉ hưu, bỏ việc, chuyển nghề, thì mỗi năm qua đội ngũ này đã được bổ sung khoảng 20 000 giáo viên. Do sự gia tăng nhanh về số lượng, trong mười năm qua ngành giáo dục đã dần dần khắc phục được căn bệnh kinh niên là thiếu GVTH. Nếu năm học 1992 - 1993 chúng ta thiếu nghiêm trọng GVTH, con số tuyệt đối lúc đó là thiếu 60 000 giáo viên thì đến năm học 2002 - 2003, hiện tượng thiếu GVTH chỉ còn ở những vùng khó khăn, ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, Nếu năm học 1992 - 1993 GVTH chiếm 60% giáo viên ngành học phổ thông thì năm 2002 - 2003, con số này là 50%. Như vậy, dù ở thời kì nào đây cũng là bộ phận đông đảo nhất trong đội ngũ giáo viên. Đội ngũ GVTH cũng là đội ngũ có số lượng nữ giáo viên lớn nhất. Năm học 1992 - 1993 trên 70% GVTH là nữ. Năm học 2002 - 2003, nữ GVTH vẫn chiếm xấp xỉ 78%. 25
  23. 2. Trình độ đào tạo ban đầu và năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên tiểu học có sự không đồng đều Mấy chục năm qua, GVTH chủ yếu được đào tạo ở trình độ thấp, lại gồm nhiều hệ đào tạo hết sức đa dạng. Đa số họ được đào tạo ở trình độ trung học sư phạm (lúc đầu tuyển học sinh có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở, tới đầu những năm 80 mới tuyển học sinh tốt nghiệp trình độ trung học phổ thông để đào tạo ở các trường trung học sư phạm). Do yêu cầu bức bách của sự phát triển quy mô giáo dục tiểu học, do thiếu nguồn tuyển ở địa phương (nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, ), nhiều địa phương đã phải kéo dài việc đào tạo cấp tốc, ngắn hạn. Đó là nguyên nhân xuất hiện các hệ : 5 + 3, 7 + 1, 7 + 2, 9 + 1, 12 + 1, Cho đến những năm 1998, 1999, những lớp cuối cùng của hệ 5 + 3 mới kết thúc, đồng thời cùng chấm dứt việc đào tạo ngắn hạn, cấp tốc GVTH. Sơ qua vài nét về lịch sử đào tạo để nhận rõ hơn một đặc điểm của đội ngũ GVTH là trình độ đào tạo thấp. Ta không nên đánh giá năng lực một người chỉ căn cứ thuần tuý vào trình độ đào tạo ban đầu của họ. Trong thực tế, do khả năng tự học, do ý chí phấn đấu vươn lên về chuyên môn nghiệp vụ, nhiều giáo viên từ xuất phát ban đầu thấp đã vươn lên trình độ cao, trở thành những người dạy giỏi, những nhà khoa học, nhà giáo dục giỏi. Song, cả một đội ngũ lớn đến hơn 300 ngàn người như đội ngũ GVTH mà trình độ đào tạo ban đầu lại thấp thì rõ ràng là một khó khăn cho việc hoàn thành sứ mệnh giáo dục thế hệ trẻ. Đội ngũ GVTH ở các vùng, miền và ngay cả trong một địa phương (rộng là trong một tỉnh, hẹp là ngay trong một trường) có sự không đồng đều về năng lực chuyên môn. Các giáo viên được đào tạo ở nhiều trình độ khác nhau, năng lực chuyên môn của họ cũng khác nhau. Đặc điểm này càng bộc lộ rõ khi giáo dục tiểu học hoàn thành phổ cập, bước sang giai đoạn nâng cao chất lượng. Để có mặt bằng chất lượng giáo dục tiểu học ngang bằng với như các nước trong khu vực và trên thế giới thì rõ ràng là cần coi trọng chiến lược nâng cao chất lượng đội ngũ GVTH. III - YÊU CẦU CHUẨN HOÁ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra yêu cầu hiện đại hoá, chuẩn hoá với ngành giáo dục nói chung, với việc xây dựng đội ngũ giáo viên nói riêng. Con đường nâng cao chất lượng đội ngũ GVTH cũng là con đường hiện đại hoá và chuẩn hoá đội ngũ này. Từ trước đến nay khi bàn đến việc chuẩn hoá đội ngũ giáo viên, nhiều người mới chỉ chú trọng đến việc đào tạo và đào tạo lại (bồi dưỡng) đội ngũ giáo viên cho đạt chuẩn đào tạo do Luật giáo dục quy định. Điều đó là đúng nhưng chưa đủ. Việc chuẩn hoá đội ngũ GVTH nói riêng, đội ngũ giáo viên nói chung cần được quan niệm rộng hơn. Đó là quá trình phấn đấu để khắc phục sự không đồng đều của đội ngũ này về mọi mặt, từ phẩm chất đạo đức tới trình độ kiến thức văn hoá, kĩ năng sư phạm. Như vậy 26
  24. trình độ đào tạo chỉ là một trong nhiều phương diện người giáo viên phải phấn đấu. Đối với những giáo viên đang đứng trên bục giảng, sự phấn đấu không mệt mỏi để cập nhật các kiến thức chuyên môn và kiến thức văn hoá chung ; sự rèn luyện nỗ lực không ngừng để nâng cao nghiệp vụ sư phạm trong việc dạy người, dạy chữ có ý nghĩa quan trọng nếu không nói là quyết định đối với quá trình phát triển của bản thân họ. Quá trình này dựa vào đâu ? Theo kinh nghiệm của nhiều nước, Nhà nước nên đưa ra chuẩn giáo viên, coi đó là tiêu chí mà mỗi giáo viên cần vận dụng để xem xét bản thân và xác định con đường tự phấn đấu, rèn luyện. Quan trọng hơn, đó còn là căn cứ để xây dựng mới chương trình đào tạo, đào tạo lại GVTH của trường sư phạm, là căn cứ để các cấp quản lí giáo dục xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ GVTH. Từ sự phân tích quá trình phát triển của đội ngũ GVTH, từ bài học rút ra qua kinh nghiệm của các nước, việc chuẩn hoá đội ngũ GVTH dựa trên một chuẩn giáo viên thống nhất trong cả nước đang là một yêu cầu bức thiết. Tháng 1 năm 2003 27
  25. CHUẨN GIÁO VIÊN TIỂU HỌC YÊU CẦU VÀ MỨC ĐỘ CỦA CHUẨN GIÁO VIÊN TIỂU HỌC Dự án Phát triển Giáo viên Tiểu học ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Chuẩn GVTH là những yêu cầu cơ bản về phẩm chất và năng lực nghề nghiệp đối với GVTH trong công cuộc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nói chung, giáo dục tiểu học nói riêng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Chuẩn GVTH thể hiện ở 3 lĩnh vực : phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị ; kiến thức ; kĩ năng sư phạm. Ở mỗi lĩnh vực có các yêu cầu cơ bản. Mỗi yêu cầu được phân thành 4 mức độ, phản ánh sự khác biệt về năng lực nghề nghiệp giữa các giáo viên. 3. Chuẩn GVTH được dùng để đánh giá năng lực nghề nghiệp của GVTH, trên cơ sở đó, mỗi giáo viên đề ra kế hoạch tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực nghề nghiệp ; các cấp quản lí xây dựng quy hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và xếp ngạch giáo viên. I - CÁC YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA CHUẨN GIÁO VIÊN TIỂU HỌC Lĩnh vực 1 : Phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị 1. Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội ; chấp hành luật pháp Nhà nước, quy định của ngành ; thực hiện chức năng, nhiệm vụ người giáo viên tiểu học. 2. Yêu nghề, thương yêu, tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh. 3. Có tinh thần trách nhiệm ; có đạo đức, lối sống lành mạnh ; có tinh thần hợp tác. 4. Có tinh thần phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Lĩnh vực 2 : Kiến thức 1. Có kiến thức khoa học cơ bản liên quan đến các môn học trong chương trình tiểu học. 2. Có kiến thức về nghiệp vụ sư phạm tiểu học. 3. Có hiểu biết về những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế, văn hoá, xã hội. 28
  26. 4. Có kiến thức phổ thông về quản lí hành chính nhà nước, về môi trường dân số, an ninh quốc phòng, an toàn giao thông, quyền trẻ em, y tế học đường. 5. Có hiểu biết về tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương trường đóng. Lĩnh vực 3 : Kĩ năng sư phạm (kĩ năng giáo dục, dạy học, tổ chức) 1. Biết lập kế hoạch bài học. 2. Biết tổ chức giờ học, đảm bảo thực hiện được các mục tiêu của bài học. 3. Biết làm công tác chủ nhiệm lớp ; biết tổ chức các hoạt động giáo dục : sinh hoạt tập thể ; hoạt động ngoài giờ lên lớp ; hoạt động của Đội thiếu niên và Sao nhi đồng. 4. Biết giao tiếp, ứng xử với học sinh, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và cộng đồng. 5. Biết lập hồ sơ, lưu giữ hồ sơ và sử dụng hồ sơ vào việc giảng dạy và giáo dục học sinh. II - CÁC MỨC ĐỘ CỦA CHUẨN GIÁO VIÊN TIỂU HỌC Lĩnh vực 1 : Phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị Yêu Các mức độ của yêu cầu cầu A B C D Có ý thức chấp Nghiêm chỉnh Gương mẫu chấp Tác động tích cực hành luật pháp chấp hành pháp hành pháp luật, đến đồng nghiệp Nhà nước, quy luật, chính sách đường lối chính và học sinh, khơi định của ngành ; của Đảng, Nhà sách của Đảng, dậy ở họ lòng yêu nắm được chức nước, quy định Nhà nước, quy nước, năng, nhiệm vụ của ngành. Thực định của ngành ; yêu chủ nghĩa xã 1 của người giáo hiện đầy đủ các vận dụng vào giải hội, viên và có ý thức nhiệm vụ của quyết những ý thức trách thực hiện. người GVTH. vướng mắc trong nhiệm công dân. công tác và đưa vào nội dung bài giảng. Yên tâm với nghề Tích cực tham gia Chủ động cải tiến Giúp đỡ đồng dạy học, làm theo các hoạt động liên công tác chuyên nghiệp đổi mới các quy định của quan đến nghề môn ; luôn vận phương pháp dạy nhà trường, nghiệp ; quan tâm dụng các phương học và giáo dục 2 không thành kiến, đến từng học sinh pháp giáo dục nhằm đáp ứng trù dập học sinh, thể hiện trong phù hợp với nhu nhu cầu và phù nhưng chưa quan giảng dạy và cầu và hoàn cảnh hợp với hoàn tâm được đến trong công tác của từng học sinh cảnh của từng chủ nhiệm, có ; dân chủ trong 29
  27. Yêu Các mức độ của yêu cầu cầu A B C D từng học sinh. tính đến hoàn quan hệ thầy trò. học sinh. cảnh của từng học sinh để giúp đỡ. Thực hiện công Thực hiện các Hoàn thành Luôn luôn khắc việc được giao nhiệm vụ được nhiệm vụ được phục mọi khó theo yêu cầu, chỉ giao với tinh thần giao một cách khăn để hoàn dẫn. Không có chủ động. Trung sáng tạo, đúng thành xuất sắc hành vi xấu ảnh thực, giản dị ; có yêu cầu. Chủ nhiệm vụ được hưởng đến uy tín mối quan hệ tốt động hợp tác với giao. Bằng lối nhà giáo. Thân với phụ huynh đồng nghiệp, với sống, việc làm lôi 3 thiện với đồng học sinh. Giúp đỡ cha mẹ học sinh cuốn, thuyết phục nghiệp và học và chia sẻ kinh và cộng đồng để đồng nghiệp thực sinh. nghiệm chuyên làm tốt công tác hiện kỉ cương nề môn với đồng giáo dục học sinh. nếp của nhà nghiệp. Làm gương tốt trường, nâng cao cho học sinh về chất lượng giáo hành vi đạo đức. dục. Tham dự chương Chủ động lập và Có ý thức đúc rút Là tấm gương về trình bồi dưỡng thực hiện kế kinh nghiệm giảng tinh thần và chuyên môn, hoạch tự học, tự dạy và giáo dục ; phương pháp tự nghiệp vụ theo bồi dưỡng nâng vận dụng kinh học, tự bồi dưỡng quy định. cao trình độ nghiệm tiên tiến nâng cao trình độ chuyên môn, vào công tác. Chủ chuyên môn nghiệp vụ trên cơ động đề xuất với nghiệp vụ. Đi đầu 4 sở tiếp thu ý kiến nhà trường trong việc đúc rút đóng góp của những nội dung kinh nghiệm giáo đồng nghiệp. cần được bồi dục. Vận dụng và dưỡng và hình giúp đỡ đồng thức bồi dưỡng nghiệp vận dụng phù hợp. kinh nghiệm vào giảng dạy và giáo dục. Lĩnh vực 2 : Kiến thức Yêu Các mức độ của yêu cầu cầu A B C D 30
  28. Yêu Các mức độ của yêu cầu cầu A B C D Có kiến thức khoa Có kiến thức khoa Có kiến thức khoa Có khả năng giúp học cơ bản để học cơ bản để học cơ bản để đồng nghiệp giải dạy được một số dạy được các dạy tốt các môn quyết những môn học hoặc dạy môn học ở tất cả học ở tất cả các vướng mắc về được ở một khối các khối lớp. khối lớp, đáp ứng kiến thức trong 1 lớp. nhu cầu học tập chương trình tiểu tự chọn của học học ; giúp đồng sinh ; có khả năng nghiệp bồi dưỡng bồi dưỡng học học sinh giỏi. sinh giỏi. Có khả năng nêu Có khả năng giải Có khả năng vận Có khả năng nhận được những kiến thích rõ các dụng các kiến thức xét, đánh giá một thức cơ bản về phương pháp dạy về nghiệp vụ sư cách có cơ sở giáo dục học đại học, các phương phạm tiểu học vào khoa học phương cương, tâm lí học pháp kiểm tra đánh công tác giảng dạy pháp giảng dạy, sư phạm lứa tuổi, giá kết quả học và giáo dục, thể giáo dục ; kiểm tra, phương pháp dạy tập, các phương hiện ở việc biết lựa đánh giá kiến thức 2 học tiểu học. pháp tổ chức hoạt chọn phương pháp học sinh mà đồng động giáo dục ; dạy học - giáo dục, nghiệp đang sử các đặc điểm tâm - kiểm tra, đánh giá dụng, đồng thời sinh lí của học sinh phù hợp với đặc đưa ra được tiểu học. điểm tâm sinh lí những gợi ý cải của từng đối tượng tiến cho đồng học sinh. nghiệp. Nêu được những Có khả năng giải Có khả năng vận Có khả năng phân chủ trương, chính thích được các dụng hiểu biết về tích sự tác động sách lớn của chủ trương, chính chủ trương, chính của các chủ Đảng và Nhà sách lớn của sách của Đảng, trương, chính nước đối với giáo Đảng, Nhà nước Nhà nước vào bài sách của Đảng, dục. đối với giáo dục. giảng và vào việc Nhà nước đối với 3 giáo dục học sinh. giáo dục ở địa phương và nhà trường ; có khả năng tuyên truyền giải thích trong nhân dân. Nêu được nội Có khả năng giải Có khả năng đưa Có khả năng giải dung cơ bản về thích được các nội ra được cách thức thích cho đồng 4 quản lí hành chính dung cơ bản của áp dụng các kiến nghiệp và nhân nhà nước, về môi quản lí hành chính thức quản lí hành dân các nội dung trường, dân số, an nhà nước, môi chính nhà nước, cơ bản về quản lí ninh quốc phòng, trường, dân số, an môi trường, dân hành chính nhà 31
  29. Yêu Các mức độ của yêu cầu cầu A B C D an toàn giao ninh quốc phòng, số, an ninh quốc nước, môi trường, thông, quyền trẻ an toàn giao phòng, an toàn dân số, an ninh em, y tế học thông, quyền trẻ giao thông, quyền quốc phòng, an đường. em, y tế học trẻ em, y tế học toàn giao thông, đường. đường vào bài quyền trẻ em, y tế giảng. học đường và giúp đồng nghiệp vận dụng các hiểu biết này vào bài giảng. Nêu được đặc Xác định được Có khả năng đưa Có khả năng đưa điểm tình hình nhu cầu giáo dục các tri thức về địa ra kế hoạch thu chính trị, kinh tế, của địa phương phương vào giảng hút các lực lượng đời sống và phong và những ảnh dạy và giáo dục ; xã hội của địa tục ở địa phương hưởng của cộng biết sử dụng ngôn phương tham gia trường đóng. đồng đến việc học ngữ địa phương. vào hoạt động tập và rèn luyện giáo dục của nhà 5 đạo đức của học trường ; có khả sinh. năng đề xuất phương hướng hoạt động của trường đáp ứng những trọng tâm ưu tiên của địa phương. Lĩnh vực 3 : Kĩ năng sư phạm (Kĩ năng giáo dục, dạy học, tổ chức) Các mức độ của yêu cầu Yêu cầu A B C D Lập kế hoạch bài Biết lập kế hoạch Biết lập kế hoạch Biết lập kế hoạch học hoàn toàn rập bài học ở mức độ bài học ở mức độ bài học một cách khuôn theo hướng : có đủ các thành : xác định được sáng tạo, thể hiện dẫn trong sách phần cấu trúc, thể mục tiêu bài học rõ khả năng đổi giáo viên. hiện được đầy đủ một cách cụ thể, mới phương pháp nội dung bài học xác định đúng dạy học và kiểm 1 có chú ý nhấn kiến thức trọng tra đánh giá kết mạnh kiến thức tâm, lựa chọn quả học tập của trọng tâm, liên hệ phương pháp dạy học sinh ; khả thực tế, lựa chọn, học và thiết bị dạy năng hướng dẫn có điều chỉnh học phù hợp với và khuyến khích phương pháp dạy việc phát huy tính học sinh tự học. học và thiết bị dạy tích cực học tập 32
  30. Các mức độ của yêu cầu Yêu cầu A B C D học nêu trong của học sinh, sách giáo viên để phân bố thời gian phù hợp với đặc hợp lí, có tính đến điểm học sinh và các tình huống có hoàn cảnh thực tế thể xảy ra trong của nhà trường. quá trình lên lớp. Giảng giải nội Dạy học với nhịp Biết vận dụng các Vận dụng sáng dung bài học rõ độ thích hợp, theo phương pháp, tạo các phương ràng, mạch lạc ; trình tự hợp lí ; kết phương tiện dạy pháp dạy học bao quát và làm hợp trình bày diễn học theo hướng nhằm phát huy chủ được lớp học cảm với việc tổ phát huy tính tích tính tích cực, chủ ; thực hiện kiểm chức hoạt động cực học tập của động trong học tra, đánh giá kết học tập cho học học sinh, lôi cuốn tập của học sinh, quả học tập của sinh để duy trì cả lớp vào các thực hiện cá thể học sinh theo quy hứng thú học tập ; hoạt động chiếm hoá, mở rộng kiến 2 định ; trình bày sử dụng các hình lĩnh tri thức, rèn thức cho học sinh, bảng rõ ràng, chữ thức kiểm tra, luyện kĩ năng ; dạy học sinh cách viết đúng. đánh giá phù hợp khuyến khích học tự học. Các mục với đối tượng học sinh mạnh dạn tiêu của bài học sinh ; trình bày tham gia tranh đều đạt được với bảng hợp lí, chữ luận, trình bày ý chất lượng cao. viết đẹp. kiến của mình ; biết kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy học. Biết thực hiện các Chủ động lập và Có sáng tạo trong Biết huy động và công việc về công thực hiện kế việc tổ chức các phối hợp các lực tác chủ nhiệm, tổ hoạch công tác hoạt động giáo lượng trong và chức hoạt động chủ nhiệm, xây dục ; kết hợp chặt ngoài nhà trường giáo dục theo quy dựng lớp thành chẽ với phụ huynh để giáo dục học 3 định và hướng tập thể đoàn kết, học sinh để đưa sinh, tạo ra sự tiến dẫn. thương yêu, giúp ra kế hoạch học bộ rõ rệt ở mỗi đỡ nhau ; thực tập, rèn luyện hợp học sinh. hiện giáo dục học lí cho từng học sinh có hoàn cảnh sinh. đặc biệt. Tiếp xúc với học Biết lắng nghe và Biết giải thích và Có phong cách sinh, phụ huynh thấu hiểu nguyện thuyết phục đối giao tiếp ứng xử 4 học sinh, đồng vọng, nhu cầu của tượng tiếp xúc ; tạo mẫu mực ; tranh nghiệp, cộng đồng đối tượng tiếp xúc được niềm tin ở thủ được sự trợ với thái độ thân và đưa ra những học sinh, đồng giúp của chính 33
  31. Các mức độ của yêu cầu Yêu cầu A B C D thiện, phù hợp với lời khuyên. nghiệp và cộng quyền, đoàn thể và từng đối tượng. đồng. lực lượng xã hội ở địa phương góp phần vào sự phát triển của nhà trường. Lập hồ sơ giảng Lưu giữ và thường Sắp xếp các tài Có sáng tạo và dạy và các sổ sách xuyên bổ sung vào liệu một cách khoa ứng dụng công theo dõi việc học hồ sơ những tài học, thuận lợi cho nghệ thông tin tập, rèn luyện đạo liệu mới phục vụ việc sử dụng ; biết trong việc thu thập đức của học sinh cho giảng dạy và khai thác tư liệu để tư liệu xây dựng theo đúng quy giáo dục học sinh tăng cường hiệu hồ sơ, lưu giữ và 5 định. lâu dài. quả giảng dạy và sử dụng hồ sơ giáo dục, đánh giá phục vụ công tác chính xác sự tiến giảng dạy và giáo bộ của học sinh và dục đạt hiệu quả thông báo cho cha cao. mẹ học sinh. 34
  32. Phần ba : XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN PHỤC VỤ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC TIỂU HỌC MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN CỦA VIỆC XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC PHỤC VỤ NHIỆM VỤ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Đặng Huỳnh Mai Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Đổi mới giáo dục phổ thông, trong đó có đổi mới giáo dục tiểu học (GDTH), hiện đang là một nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới GDTH, cần phải xây dựng chương trình đào tạo giáo viên tiểu học (GVTH) mới cho phù hợp với chuẩn GVTH hiện hành. Thực hiện yêu cầu triển khai nhiệm vụ này, Bộ Giáo dục và Đào tạo giao trách nhiệm cho Dự án Phát triển Giáo viên Tiểu học trình Bộ thành lập Hội đồng chỉ đạo và các tiểu ban xây dựng chương trình đào tạo GVTH. Hội đồng chỉ đạo và các tiểu ban chuyên môn có nhiệm vụ xác định các định hướng và nguyên tắc cho việc đổi mới chương trình, phương pháp đào tạo trong các trường sư phạm và xây dựng chương trình đào tạo GVTH các trình độ Đại học, Cao đẳng và Trung học sư phạm. Xây dựng chương trình đào tạo GVTH phục vụ quá trình đổi mới giáo dục tiểu học chính là thực hiện nhiệm vụ đào tạo một thế hệ giáo viên tiểu học mới, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chương trình đào tạo mới vừa kế thừa truyền thống, vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới mục tiêu, phương pháp giảng dạy và đào tạo con người Việt Nam mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với "Chuẩn GVTH", với chương trình tiểu học trong giai đoạn hiện nay. Chuẩn GVTH được xây dựng trên ba lĩnh vực : phẩm chất đạo đức, kiến thức, kĩ năng sư phạm ; là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng mục tiêu và nội dung chương trình, nhằm đào tạo đội ngũ GVTH có phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Để đạt được yêu cầu này, trước tiên, cần xây dựng định hướng đổi mới chương trình khung đào tạo GVTH mà trọng tâm là xây dựng chương trình khung đào tạo 35
  33. GVTH hệ Cao đẳng sư phạm (CĐSP). Chương trình cần mang tính liên thông để từ hệ đào tạo này, phát triển thành hệ đào tạo Đại học sư phạm (ĐHSP) và tinh giản thành hệ đào tạo Trung học sư phạm (THSP). Để xây dựng chương trình đào tạo GVTH giai đoạn mới đạt hiệu quả cao, quá trình thực hiện cần quán triệt một số yêu cầu sau : 1. Về mục tiêu đào tạo Chương trình đào tạo GVTH mới cần được biên soạn theo hướng thực hiện theo yêu cầu chuẩn GVTH. Chương trình này tập trung vào đào tạo loại hình GVTH có thể dạy tất cả các khối lớp và dạy tất cả các môn học. - Thời gian đào tạo quy định cho chương trình là 3 năm đối với hệ đào tạo CĐSP, 2 năm đối với hệ đào tạo THSP và 4 năm đối với hệ đào tạo ĐHSP. - Đối tượng tuyển sinh và đào tạo theo các chương trình mới là học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (hoặc bổ túc văn hoá trung học). - Chương trình đào tạo GVTH mới phải đáp ứng được yêu cầu cơ bản của Chương trình Tiểu học (được ban hành năm 2001). Người tốt nghiệp phải có đủ năng lực, phẩm chất, kĩ năng để giảng dạy, giáo dục trẻ theo mục tiêu đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa (XHCN). Ngoài ra, chương trình đào tạo cần chú trọng đến kĩ năng dạy lớp ghép, dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc và dạy học sinh khuyết tật. 2. Về kế hoạch đào tạo Khối kiến thức chung cho kế hoạch đào tạo cần đảm bảo theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo theo chương trình khung giáo dục đại học Tỉ lệ giữa khối kiến thức khoa học bộ môn (giúp cho giáo viên có cái nhìn sâu hơn về các môn học sẽ giảng dạy) với khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm phải được điều chỉnh theo hướng hài hoà, cân đối để người được đào tạo yên tâm, tự tin khi lên lớp. Tỉ lệ giữa lí thuyết và thực hành trong tổng thể chương trình đào tạo là 40/60 theo hướng tập trung vào việc rèn luyện các kĩ năng sư phạm cho giáo sinh. Việc thi cử ngay trong nhà trường sư phạm cũng cần phải đổi mới theo hướng hoà nhập với thế giới để khuyến khích người học tăng cường tự nghiên cứu, tự học, không "học vẹt" và không gây áp lực với người học. Mặt khác, chương trình đào tạo cũng cần chú trọng đến các kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học, sử dụng phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại, sử dụng internet, kĩ thuật kiểm tra, đánh giá 3. Về nội dung các môn học Nội dung các môn học phải đáp ứng được những yêu cầu mới về mục tiêu, nội dung của chương trình đào tạo GVTH, đảm bảo cho giáo sinh có đủ các kiến thức cơ sở, chuyên ngành liên quan tới nội dung giảng dạy đã được quy định trong chương trình tiểu học mới. Nội dung các môn học cần phải chú trọng kết hợp rèn luyện phẩm 36
  34. chất đạo đức, năng lực giải quyết các tình huống thực tiễn cho người giáo viên tương lai. Nội dung các môn học cần cập nhật được những thành tựu của giáo dục tiểu học và các kiến thức cần thiết về tình hình phát triển kinh tế - xã hội để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn giáo dục Việt Nam, để theo kịp với giáo dục tiểu học của các nước trong khu vực và trên thế giới. 4. Về phương thức đào tạo Phương thức đào tạo kết hợp giữa các hình thức đào tạo chính quy, tại chức, đào tạo từ xa để đảm bảo yêu cầu mở rộng quy mô phục vụ nhu cầu thực tế của các vùng, miền khác nhau. Nhìn chung, trong đào tạo phấn đấu thực hiện sự liên thông giữa các trình độ trung học, cao đẳng, đại học để sau khi đã tốt nghiệp ở hệ đào tạo này, giáo viên có thể tiếp tục học lên trình độ cao hơn. Cần chú trọng đổi mới mạnh mẽ phương pháp đào tạo và PPDH ngay trong các trường sư phạm, chú ý áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào quá trình đào tạo, vào việc kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo của các trường sư phạm. 37
  35. CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC TRÌNH ĐỘ CAO ĐẲNG : SỰ KẾ THỪA VÀ ĐỔI MỚI PGS. TS. Nguyễn Trí Trong thập niên 90 của thế kỉ XX, có hai chủ trương lớn về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên được khẳng định : - Thực hiện bồi dưỡng thường xuyên theo chu kì cho giáo viên Đây là một giải pháp nhằm giải quyết hai mâu thuẫn. Trước hết là mâu thuẫn giữa sự tăng nhanh khối lượng tri thức của loài người với trình độ đào tạo ban đầu của người giáo viên. Thứ hai là mâu thuẫn giữa yêu cầu giảng dạy các tri thức khoa học tiên tiến và hiện đại với điều kiện và khả năng cập nhật các kiến thức của bản thân từng giáo viên. Cho đến nay, ngành giáo dục nước ta đã thực hiện được hai chu kì bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên (chu kì 1992 - 1996 và chu kì 1997 - 2000). Hiện nay, chúng ta đang chuẩn bị thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên chu kì thứ ba. - Thực hiện đào tạo giáo viên tiểu học trình độ cao đẳng Việc đào tạo GVTH trình độ cao đẳng là do một số trường CĐSP Hải Dương, Hải Phòng, Tiền Giang, đề xuất vào đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, sau đó được Bộ tán thành và nâng thành chủ trương của ngành. Sự xuất hiện hệ cao đẳng sư phạm tiểu học vào đầu thập niên 90 không đơn giản chỉ là giải pháp tạm thời cho các trường sư phạm tiểu học lúc đó đang bị thu hẹp quy mô đào tạo vì số học sinh tiểu học giảm sút, GVTH thừa, mà còn là giải pháp có tính chiến lược, chứng tỏ tầm nhìn xa của Bộ, nhằm chuẩn bị đón đầu nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học, đón trước yêu cầu của giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đối với đội ngũ GVTH. Sau ba năm thử nghiệm, chương trình đào tạo GVTH trình độ cao đẳng đã được hoàn thiện và ban hành năm 1995. Đến nay đã có 8 khoá đào tạo theo chương trình cao đẳng sư phạm tiểu học năm 1995 và hàng ngàn GVTH có trình độ cao đẳng đã ra trường. Họ ngày càng phát huy được vai trò nòng cốt của mình. Do đó, hệ CĐSP đào tạo GVTH được khẳng định và đã trở thành hệ đào tạo chủ yếu trong toàn quốc. Nghị quyết 40 của Quốc hội về đổi mới nội dung, phương pháp dạy học ở phổ thông đã tạo ra bước phát triển mới. Chương trình tiểu học mới ban hành năm 2001 đã đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với việc đào tạo, bồi dưỡng GVTH. Việc đổi mới chương trình đào tạo GVTH trình độ cao đẳng trở thành nhu cầu cấp thiết và tất yếu. Dự thảo Chương trình đào tạo GVTH trình độ cao đẳng vừa kế thừa, vừa có nhiều điểm đổi mới so với chương trình năm 1995. Bài viết này tập trung phân tích sự kế thừa và đổi mới đó của 38
  36. dự thảo chương trình khung đào tạo GVTH trình độ cao đẳng (tức là phần bắt buộc của chương trình đào tạo) đang được biên soạn, hoàn chỉnh (phần chương trình chi tiết các môn học theo Luật Giáo dục do các trường CĐSP tự biên soạn). A - NHỮNG ĐIỂM KẾ THỪA 1. Cả hai chương trình đều có thời gian đào tạo là 3 năm Mười năm thực hiện chương trình đào tạo CĐSP tiểu học đã khẳng định thời gian đào tạo 3 năm không chỉ phù hợp với quy định của Luật Giáo dục mà còn đảm bảo được chất lượng đào tạo ở bậc cao đẳng đối với GVTH. 2. Cả hai chương trình đều nhằm mục tiêu cơ bản là đào tạo người giáo viên dạy được tất cả các môn học, các lớp học ở cấp Tiểu học Tuy nhiên cả hai chương trình đều có thêm mục tiêu chuẩn bị điều kiện để người giáo viên khi ra trường có thể tiếp tục tự học, tự phấn đấu để có năng lực chuyên sâu về một hoặc hai môn học. 3. Cấu trúc của cả hai chương trình đều chia thành hai phần a) Phần đào tạo cơ bản : Phần này chiếm một thời lượng lớn. Nó bao gồm các nội dung đại cương của bậc cao đẳng, các nội dung về tâm lí học, giáo dục học ; các nội dung kiến thức khoa học và phương pháp dạy học của tất cả các môn cần dạy ở tiểu học ; các nội dung thực hành, thực tập sư phạm. Phần này có nhiệm vụ quan trọng là bảo đảm các mục tiêu cơ bản đã nêu trên. Hầu hết các môn học trong phần này của hai chương trình có tên gọi giống nhau (Mĩ thuật và Phương pháp dạy học Mĩ thuật, Toán và Phương pháp dạy học Toán, Tiếng Việt - Văn học và Phương pháp dạy học Tiếng Việt, ). Phần mô tả nội dung các học phần cho thấy dự thảo chương trình đào tạo năm 2003 đã kế thừa tất cả những ưu điểm của chương trình cao đẳng sư phạm tiểu học năm 1995. b) Phần đào tạo chuyên sâu (hoặc phần đào tạo tự chọn) : Tên gọi phần này của hai chương trình có khác nhau như đã nêu trên, nhưng mục tiêu của chúng lại giống nhau : chuẩn bị điều kiện để người GVTH tương lai có thể phát triển năng lực về một, hai môn học nào đó. Vì thế, chương trình CĐSP tiểu học năm 1995 quy định hai mô hình cho phần này : học chuyên sâu một trong các môn : Toán, Tiếng Việt, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục, hoặc học chuyên sâu hai môn trong các môn trên. Còn dự thảo chương trình CĐSP tiểu học năm 2003 quy định sinh viên được tự chọn để học chuyên sâu một trong các môn : Toán, Tiếng Việt, Đạo đức, Mĩ thuật, Âm nhạc, Thể dục, Thủ công, Tự nhiên và Xã hội, Lịch sử và Địa lí, Khoa học. 39
  37. 4. Cả hai chương trình khung đào tạo đều coi trọng việc giáo dục nghiệp vụ sư phạm, coi trọng rèn luyện kĩ năng dạy học và giáo dục - Là chương trình khung đào tạo nghề dạy học, cả hai chương trình đều coi trọng việc giáo dục nghiệp vụ sư phạm. Chương trình khung bậc cao đẳng bao gồm hai khối kiến thức lớn : khối kiến thức đại cương và khối kiến thức nghiệp vụ. Để thấy rõ hơn vị trí của các môn học, các hoạt động giáo dục nghiệp vụ sư phạm cần xem xét tương quan giữa thời lượng học tập các kiến thức khoa học bộ môn và việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Tỉ lệ này ở chương trình khung năm 1995 là 80/195 - chiếm 40%, dự thảo chương trình khung 2003 là 79/168 - chiếm gần 47%. Tỉ lệ thời lượng giữa lí thuyết và thực hành trong toàn bộ chương trình là 40/60. - Ở cả hai chương trình khung, các hình thức rèn luyện kĩ năng dạy học và giáo dục phong phú, đa dạng. Thực tiễn thực hiện chương trình khung năm 1995 đã khẳng định đây là thế mạnh khi đào tạo GVTH. Các hình thức rèn luyện kĩ năng dạy học và giáo dục bao gồm : + Học phần rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên : Học phần này chủ yếu rèn luyện các kĩ năng dạy học, kĩ năng giáo dục. Học phần rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên được thực hiện trong suốt quá trình sinh viên học tập trong trường sư phạm, ngay từ học kì đầu, những tháng đầu tiên và chỉ kết thúc vào năm học thứ ba. Học phần này tạo cơ sở để học các học phần thực tập sư phạm. + Các học phần thực tập sư phạm 1 và 2 : Các học phần này được thực hiện trong năm học thứ hai và thứ ba. Nếu học phần rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên là quá trình rèn luyện ngay tại trường sư phạm, sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp vi mô (micro teaching), thì hai học phần này đưa sinh viên đến với môi trường giảng dạy của trường tiểu học. + Học phần công tác Đội và học phần thực hành công tác Đội và Sao nhi đồng : Đây là một hoạt động nghiệp vụ rất đặc biệt ở trường tiểu học. Mỗi GVTH là một cán bộ phụ trách Đội hoặc Sao nhi đồng. Vì thế các sinh viên sư phạm tiểu học không thể không học các học phần này. 5. Sự kết hợp ngày càng nhuần nhuyễn các kiến thức khoa học bộ môn và các kĩ năng sư phạm Sự kết hợp này được tiếp tục kế thừa trong Dự thảo Chương trình khung năm 2003. Đặc điểm này của chương trình đào tạo GVTH biểu hiện trước tiên ở tên gọi các môn học. Trong chương trình đào tạo không có sự tách rời giữa môn Toán và môn Phương pháp dạy học Toán, môn Mĩ thuật và môn Phương pháp dạy học Mĩ thuật như ở chương trình đào tạo giáo viên các bậc học trên. Do đó, tên gọi các môn học trong chương trình đào tạo GVTH bao giờ cũng là tên ghép : Toán và Phương pháp dạy học Toán, Mĩ thuật và Phương pháp dạy học Mĩ thuật Sự kết hợp chặt chẽ này không chỉ ở tên gọi mà còn thể hiện ngay trong chương trình môn học, ngay trong cách thức tổ chức phân công giáo viên thực hiện chương trình Sự kết hợp giữa kiến thức khoa học 40
  38. bộ môn và phương pháp dạy học đã mang lại một nét đặc thù của chương trình đào tạo GVTH, điều mà chương trình đào tạo giáo viên các bậc học trên đang phấn đấu thực hiện. B - NHỮNG ĐIỂM ĐỔI MỚI 1. Những điểm mới trong mục tiêu đào tạo của Dự thảo Chương trình khung năm 2003 Dự thảo Chương trình khung đào tạo GVTH năm 2003 được xây dựng trên cơ sở chuẩn GVTH và nhằm đáp ứng các yêu cầu của chương trình tiểu học ban hành năm 2001. Chuẩn GVTH phản ánh các yêu cầu của GVTH giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với người GVTH. Chuẩn GVTH được xác định trên ba lĩnh vực lớn : phẩm chất, kiến thức và kĩ năng. Chương trình tiểu học năm 2001 là chương trình ra đời trong giai đoạn phát triển mới của cấp Tiểu học, giai đoạn nâng cao chất lượng theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Dựa vào hai căn cứ trên, mục tiêu đào tạo của Dự thảo Chương trình khung năm 2003 đã có những điểm mới so với mục tiêu đào tạo của chương trình năm 1995 : Xác định rõ việc chuẩn bị các kiến thức và kĩ năng sâu hơn về một môn để sau này người giáo viên trở thành nòng cốt về môn này ở tiểu học. Bổ sung vào phần mục tiêu cụ thể (về phẩm chất, năng lực, kĩ năng sư phạm) những nội dung mới theo yêu cầu của chuẩn GVTH và của Chương trình tiểu học năm 2001 (các yêu cầu về mối quan hệ với cộng đồng xã hội nơi trường đóng ; các yêu cầu về dạy học sinh các vùng, miền hoặc các đối tượng học sinh đặc biệt ; các yêu cầu về kiểm tra, đánh giá, lập kế hoạch dạy học theo chương trình từng môn học, kĩ năng thiết kế bài học, kĩ năng sử dụng phương pháp và phương tiện dạy học, kĩ năng tổ chức thực hành các hoạt động ngoài giờ lên lớp, kĩ năng xây dựng hồ sơ giảng dạy và giáo dục, ). 2. Dự thảo Chương trình khung năm 2003 đã điều chỉnh thời lượng học tập từ 195 đơn vị học trình (ĐVHT) xuống 168 ĐVHT và các chứng chỉ về giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng cho phù hợp với các quy định mới của Bộ về chương trình khung bậc cao đẳng. Do đó cơ cấu giữa phần kiến thức giáo dục đại cương và phần kiến thức giáo dục chuyên nghiệp cũng đã được sắp xếp lại theo tỉ lệ mới : - Kiến thức giáo dục đại cương tối thiểu : 29/168 ĐVHT - Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp tối thiểu : 139/168 ĐVHT + Khối kiến thức cơ sở của ngành : 23 ĐVHT + Khối kiến thức ngành : 97 ĐVHT 41
  39. + Khối kiến thức thực tập nghề nghiệp : 19 ĐVHT 3. Chương trình khung đào tạo giáo viên tiểu học hệ Cao đẳng sư phạm được biên soạn trên tinh thần liên thông giữa hệ Cao đẳng với hệ Trung học và Đại học theo đúng các hướng dẫn của Bộ Sự liên thông giữa chương trình đào tạo GVTH từ Trung học lên Cao đẳng và Đại học nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho GVTH nâng cao trình độ đào tạo. 4. Đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo Dự thảo Chương trình khung năm 2003 một mặt chú ý nâng cao yêu cầu rèn luyện phẩm chất đạo đức nhà giáo cho các sinh viên mặt khác tập trung vào việc đào tạo các năng lực mà người giáo viên cần có. Dự thảo chương trình khung năm 2003 yêu cầu hình thành ở người sinh viên các năng lực cơ bản sau : Năng lực chẩn đoán nhu cầu và đặc điểm của đối tượng giáo dục. Năng lực thiết kế kế hoạch giáo dục, năng lực hướng dẫn cho học sinh tự thiết kế kế hoạch học tập phù hợp với nhu cầu, khả năng và hoàn cảnh của mình. Năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục, chú ý tích hợp các nội dung giáo dục, phát triển các phương pháp học tập tích cực, giao tiếp, hợp tác với các lực lượng trong và ngoài nhà trường để làm giáo dục. Năng lực giám sát, đánh giá kết quả hoạt động giáo dục (chú ý : phát triển khả năng tự đánh giá của học sinh). Năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn giáo dục (chú ý học tập, vận dụng, đúc kết kinh nghiệm, không ngừng hoàn thiện). Năng lực của người giáo viên là khả năng thực hiện các hoạt động giáo dục, dạy học với chất lượng cao. Năng lực được hình thành và bộc lộ trong hoạt động, gắn với một số kĩ năng tương ứng. Vì vậy, Dự thảo Chương trình khung năm 2003 đã sắp xếp lại hợp lí các tỉ lệ tương quan (giữa lí thuyết với thực hành, thực tập sư phạm ; giữa thực hành tại trường sư phạm và thực hành tại trường phổ thông ) như đã phân tích ở phần trên. Dự thảo Chương trình khung năm 2003 bổ sung yêu cầu "cách dạy phương pháp học" vào chương trình phương pháp dạy học các bộ môn, nhấn mạnh yêu cầu đổi mới các hoạt động thực hành, nâng cao chất lượng tăng cường các bài tập tình huống sư phạm, tổ chức đào tạo theo kiểu mô-đun hoá. 5. Đổi mới nội dung các học phần (có sự kế thừa chương trình đào tạo năm 1995) đồng thời bổ sung một số học phần mới 42
  40. Các học phần kế thừa chương trình đào tạo năm 1995 đã được đổi mới về nội dung theo hai hướng : phản ánh các tiến bộ của khoa học bộ môn cũng như khoa học sư phạm trong gần một thập niên qua và gắn bó chặt chẽ với chương trình tiểu học mới ban hành năm 2001. Ngoài ra, Dự thảo Chương trình khung năm 2003 còn bổ sung một số học phần mới : - Học phần về giáo dục môi trường ở tiểu học : 2 ĐVHT - Học phần về phương tiện kĩ thuật dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở tiểu học : 4 ĐVHT - Học phần về kiểm tra, đánh giá dạy học ở tiểu học : 2 ĐVHT - Học phần tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp : 2 ĐVHT - Học phần về phương pháp nghiên cứu Khoa học giáo dục : 2 ĐVHT Các học phần này nhằm cập nhật công tác đào tạo GVTH với chương trình tiểu học mới ; với sự ứng dụng các thành tựu của khoa học, kĩ thuật thế kỉ XXI vào dạy học ; với các thành tựu mới của công tác đào tạo giáo viên, Dự thảo Chương trình khung đào tạo GVTH hệ CĐSP đang được biên soạn và trưng cầu ý kiến rộng rãi của các trường sư phạm, các cán bộ quản lí giáo dục tiểu học, các GVTH. Những phân tích trên mang tính khái quát, mong đóng góp một ý kiến nhỏ vào cuộc trưng cầu ý kiến mà các báo và tạp chí đang thực hiện. 43
  41. GIỚI THIỆU CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO - BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN TIỂU HỌC Dự án Phát triển Giáo viên Tiểu học Đổi mới công tác đào tạo GVTH đáp ứng yêu cầu của thời kì đổi mới giáo dục phổ thông nói chung và GDTH nói riêng đang là đòi hỏi bức thiết. Do đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Dự án PTGVTH là xây dựng các bộ chương trình đào tạo bồi dưỡng GVTH nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản về chất lượng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GVTH, cụ thể là : - Xây dựng các bộ chương trình đào tạo GVTH : + Chương trình đào tạo GVTH ở các trình độ : THSP, CĐSP và ĐHSP + Chương trình tiếp tục đào tạo GVTH đạt trình độ chuẩn THSP + Chương trình đào tạo GVTH trình độ THSP lên CĐSP - Biên soạn các tài liệu bồi dưỡng GVTH : + Các tài liệu bồi dưỡng GVTH phục vụ chương trình, SGK mới ở tiểu học ; tài liệu bồi dưỡng GVTH dạy các lớp 1, 2, 3, 4, 5 ; đổi mới phương pháp dạy học ; quản lí chuyên môn theo yêu cầu của trường tiểu học. + Các tài liệu bồi dưỡng GVTH phục vụ phát triển năng lực sư phạm dạy đối tượng chuyên biệt : tài liệu bồi dưỡng GVTH dạy Tiếng Việt cho học sinh dân tộc, phương pháp dạy lớp ghép, dạy học sinh khuyết tật. Sau đây, xin giới thiệu một số nội dung cơ bản trong việc xây dựng các chương trình đào tạo bồi dưỡng GVTH dưới góc độ của "chuẩn GVTH" : 1. Những điểm mới của các chương trình đào tạo GVTH Trọng tâm của chương trình nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của GDTH, nâng cao trình độ cho GVTH và đáp ứng yêu cầu của chương trình, SGK tiểu học ban hành năm 2000. - Các chương trình đào tạo GVTH được thiết kế thành các học phần tạo sự liên thông với các chương trình đào tạo khác theo hướng giảm bớt một số học phần thành chương trình dạy học GVTH ở trình độ THSP (12+2) và bổ sung một số học phần thành chương trình dạy học GVTH trình độ ĐHSP (12+4). Thiết kế như vậy sẽ thuận lợi cho mỗi GVTH theo học tiếp để nâng cao trình độ từ THSP lên CĐSP hoặc từ trình 44
  42. độ CĐSP lên ĐHSP, đồng thời tạo thuận lợi để các cơ sở đào tạo chuyển đổi trình độ đào tạo một cách linh hoạt theo nhu cầu phát triển ở mỗi giai đoạn. Chính vì vậy, việc xây dựng chương trình đào tạo GVTH hệ CĐSP phải được xây dựng trước tiên để làm cơ sở xây dựng các chương trình đào tạo khác. 1.1. Đổi mới cách xây dựng chương trình đào tạo GVTH Sự đổi mới trong cách làm (quy trình xây dựng) "chuẩn GVTH" từ việc xác định mục tiêu, xây dựng khung chuẩn GVTH, xác định nội dung cốt lõi đến thử nghiệm, chỉnh sửa, đã có tác dụng tích cực đối với quy trình xây dựng các chương trình đạo tạo GVTH. Do đó, việc xây dựng các chương trình đào tạo GVTH cũng được thực hiện theo một quy trình mới như : thành lập Hội đồng chỉ đạo và các tiểu ban xây dựng CTĐT GVTH - tổ chức nghiên cứu các văn kiện, văn bản, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, phần liên quan trực tiếp đến GDTH, GVTH, đào tạo GVTH, Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, chương trình tiểu học ban hành năm 2001. Đặc biệt nghiên cứu kĩ dự thảo "chuẩn GVTH" (đây là một cơ sở quan trọng để xây dựng mục tiêu và nội dung của chương trình đào tạo GVTH) - tổ chức các Hội thảo "Trao đổi kinh nghiệm đào tạo GVTH trong và ngoài nước" (nhằm tăng cường năng lực cho các tác giả biên soạn chương trình đào tạo GVTH) và Hội thảo "Đánh giá chương trình đào tạo GVTH và xác định các yêu cầu mới đối với GVTH". Kết quả của các hội thảo này là một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng mục tiêu và nội dung chương trình các môn trong chương trình đào tạo GVTH - xây dựng chương trình khung đào tạo GVTH các hệ đào tạo mà trước hết là xây dựng CTKĐT dành cho GVTH hệ CĐSP (dựa trên văn bản Dự thảo chuẩn GVTH và văn bản Định hướng đổi mới chương trình đào tạo GVTH) tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho văn bản dự thảo chương trình khung đào tạo - GVTH hệ CĐSP. Ngoài ra, chương trình khung đào tạo GVTH hệ CĐSP còn được giới thiệu trên báo Giáo dục thời đại, Tạp chí giáo dục, Tạp chí Dạy và Học ngày nay và được đưa lên mạng internet để có thể nhận được các ý kiến đóng góp nhiều hơn nữa của bạn đọc trong cả nước quan tâm đến vấn đề này. Tổ chức chỉnh sửa, hoàn thiện văn bản dự thảo chương trình khung đào tạo GVTH để chuẩn bị cho thẩm định và trình Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt và ban hành. Văn bản Dự thảo Chương trình khung đào tạo GVTH đã được xây dựng theo một quy trình chặt chẽ, đảm bảo đúng các nguyên tắc và tuân thủ theo những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Như vậy một trong các khâu của quy trình xây dựng chương trình khung đào tạo GVTH hệ CĐSP là nghiên cứu rất kĩ văn bản dự thảo "chuẩn GVTH". Những nội dung cốt lõi của "chuẩn GVTH"là một căn cứ thiết yếu cho việc xây dựng mục tiêu và nội dung chương trình khung đào tạo GVTH hệ CĐSP. 45
  43. 1.2. Những điểm mới của chương trình đào tạo GVTH hệ CĐSP 1.2.1. Về mục tiêu : Dự thảo Chương trình Khung đào tạo GVTH hệ CĐSP được xây dựng dựa trên cơ sở chuẩn GVTH và nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của GDTH và chương trình tiểu học năm 2000. Các chương trình đào tạo GVTH đảm bảo được mục tiêu là xây dựng cho sinh viên những phẩm chất và năng lực chuyên môn cũng như những kĩ năng sư phạm để khi ra trường họ có thể dạy được và tiến tới dạy tốt chương trình, sách giáo khoa (SGK) tiểu học mới. Đồng thời, sinh viên sẽ có tiềm lực đáp ứng những yêu cầu mới sau thời kì phổ cập GDTH, chuẩn bị nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó, các chương trình đào tạo GVTH được căn bản đổi mới cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp và công tác kiểm tra đánh giá sản phẩm đào tạo. Dự thảo "chuẩn GVTH" là một trong những căn cứ quan trọng để xây dựng mục tiêu của chương trình đào tạo GVTH hệ CĐSP. Tuy nhiên, xây dựng mục tiêu của chương trình không phải chỉ căn cứ vào một mức độ nào đó của dự thảo "chuẩn GVTH", bởi nếu căn cứ vào mức độ 1 của dự thảo "chuẩn GVTH" (năng lực của một số kiến thức chuyên môn, kĩ năng sư phạm chỉ đạt ở mức độ ban đầu còn hạn chế) thì không phù hợp với mục tiêu đào tạo của chương trình đào tạo GVTH. Hệ CĐSP đáp ứng yêu cầu một lượng GVTH lớn, nâng cao trình độ (trên trình độ đào tạo chuẩn của GVTH - trình độ THSP), đáp ứng với yêu cầu đổi mới của GDTH. Mặt khác, nếu căn cứ vào mức độ cao hơn của chuẩn thì cũng không phù hợp với mục tiêu của chương trình đào tạo, vì ở mức độ cao hơn của "chuẩn" thì có những kiến thức và kĩ năng mà người GVTH phải được bồi dưỡng và rèn luyện nhiều trong quá trình giảng dạy ở trường tiểu học mới đạt được. Do đó, trong quá trình xây dựng mục tiêu, chương trình đã cố gắng kết hợp, chọn lọc một cách hài hoà các nội dung của "chuẩn GVTH" giữa các mức độ và với những yêu cầu đổi mới của GDTH nói chung và chương trình tiểu học mới nói riêng, để đảm bảo đạt được yêu cầu đặt ra cho người sinh viên ra trường là ngoài việc đảm nhiệm được công việc giảng dạy ở tiểu học còn thích ứng với những đổi mới của GDTH trong giai đoạn mới. 1.2.2. Cấu trúc và nội dung của chương trình đào tạo giáo viên tiểu học hệ Cao đẳng sư phạm - Chương trình đào tạo GVTH vẫn được thực hiện trong thời gian 3 năm nhưng với tổng số 180 ĐVHT theo quy định (chương trình hiện hành ban hành năm 1991 là 195 ĐVHT), gồm khối kiến thức giáo dục đại cương và khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp. - Cấu trúc chương trình được chia làm 2 phần : + Phần đào tạo cơ bản : vẫn gồm các nội dung như chương trình năm 1995 (các nội dung đại cương của bậc học cao đẳng, tâm lí học, giáo dục học ; các nội dung kiến thức khoa học và PPDH cho tất cả các môn cần dạy ở tiểu học ; các nội dung thực hành, 46
  44. thực tập sư phạm) nhưng nội dung các học phần được xây dựng theo hướng đổi mới cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới của GDTH và của chương trình, sách giáo khoa mới ở tiểu học. Riêng học phần Giáo dục sức khoẻ không tách riêng mà lồng ghép vào môn Tự nhiên và Xã hội. Khi xây dựng nội dung, chương trình các môn học đã bám sát được nội dung lĩnh vực kiến thức ở mức 1 và 2 mục 2.2 của Dự thảo "chuẩn GVTH" : "Có kiến thức khoa học cơ bản liên quan đến các môn học trong chương trình tiểu học ", "Có kiến thức về tâm lí học sư phạm lứa tuổi, kiến thức giáo dục học, PPDH các môn học ở tiểu học, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập phù hợp với từng đối tượng học sinh ", và mục 2.4 - "Có hiểu biết về quản lí hành chính nhà nước. Có kiến thức phổ thông về môi trường, dân số, an ninh quốc phòng, an toàn giao thông, quyền trẻ em " vì thế, phần này đã được bổ sung một số kiến thức giáo dục chuyên nghiệp sau đây : • Học phần Sinh lí trẻ lứa tuổi tiểu học (2 ĐVHT) : đây là học phần cơ bản, quan trọng, làm cơ sở cho việc học các môn học khác để giúp sinh viên có thái độ và tạo điều kiện cho học sinh tiểu học tham gia các hoạt động phù hợp với đặc điểm sinh lí lứa tuổi tiểu học. • Học phần Giáo dục môi trường ở tiểu học (2 ĐVHT) : ngoài kiến thức giáo dục môi trường tự nhiên, còn đề cập tới kiến thức giáo dục về môi trương xã hội như : giáo dục dân số, giáo dục giới tính, quyền trẻ em, phòng chống AIDS, ma tuý, + Mặt khác, nội dung chương trình đào tạo còn bổ sung thêm một số học phần, nhằm rèn luyện kĩ năng mới cho sinh viên, đáp ứng sự phát triển của khoa học và công nghệ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, thể hiện ở việc tiếp thu công nghệ mới trong hoạt động giáo dục/dạy học, như : sử dụng phương tiện kĩ thuật và công nghệ thông tin trong dạy học, sử dụng máy chiếu qua đầu, máy chiếu slight, máy chiếu đa năng, sử dụng máy tính thiết kế bài dạy, soạn biểu mẫu, bản vẽ, sử dụng các phần mềm dạy học đã có vào các bài giảng , biết truy cập Internet để khai thác các tài liệu phục vụ cho bài giảng ; đổi mới cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và giáo dục của học sinh, giúp sinh viên nắm được các kĩ năng xây dựng các loại đề kiểm tra đánh giá, phương pháp thực hiện việc đánh giá kết quả học tập, giáo dục ; kĩ năng tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường tiểu học Những nội dung đổi mới này tạo điều kiện cho sinh viên khi ra trường được rèn luyện thêm về kĩ năng trong quá trình dạy học, để đạt được các mức độ trong lĩnh vực III của dự thảo "chuẩn GVTH". Cụ thể chương trình đưa thêm vào những học phần sau : • Học phần về phương tiện kĩ thuật dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học ở tiểu học (4 ĐVHT). • Học phần về kiểm tra đánh giá kết quả học ở tiểu học (2 ĐVHT). • Học phần thực hành tổ chức các kĩ năng, tổ chức hoạt động ngoài giờ học văn hoá ở trường tiểu học, qua đó tạo những hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (2 ĐVHT). 47
  45. Phần đào tạo tự chọn : phần này đã thay đổi nhiều so với chương trình 1995. Nội dung các học phần tự chọn lần này mở rộng cho tất cả các môn trong chương trình cấp Tiểu học và gồm 9 ĐVHT, chuyên sâu một trong các môn : Toán, Tiếng Việt, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục, Đạo đức, Thủ công và Kĩ thuật, Tự nhiên và Xã hội. Khối kiến thức tự chọn chiếm 4,44% tổng số khối kiến thức trong chương trình nhằm cá thể hoá trình độ và năng lực của giáo sinh. Một mặt, tạo điều kiện cho giáo sinh có điều kiện rèn luyện năng lực chuyên sâu một số môn học mà họ có nhu cầu cần nâng cao, khi ra trường họ có thể đáp ứng yêu cầu phân công giảng dạy của các nhà trường (dạy tất cả các môn học có trong chương trình tiểu học dạy một số môn học nào đó), hoặc có điều kiện phấn đấu trở thành giáo viên nòng cốt về một môn ở tiểu học. Mặt khác, chuẩn bị cho giáo sinh năng lực dạy học với các đối tượng học sinh đặc biệt như : học sinh người dân tộc, dạy lớp ghép và học sinh khuyết tật , đáp ứng yêu cầu giảng dạy ở từng vùng, miền. Nội dung phần tự chọn đã đáp ứng được yêu cầu của chuẩn GVTH về việc xây dựng năng lực chuyên môn và kĩ năng sư phạm cho giáo viên tiểu học, có khả năng dạy các đối tượng chuyên biệt, phù hợp với điều kiện giảng dạy theo từng vùng, miền. Ngoài ra, chương trình còn chú trọng rèn luyện tay nghề cho giáo viên, thể hiện ở việc tăng thời gian thực hành nghề nghiệp và thực hành chuyên môn của sinh viên trong toàn bộ chương trình đào tạo, nhằm rèn luyện những kĩ năng thực hành chuyên môn và kĩ năng sư phạm cho sinh viên, cụ thể : • Tỉ lệ thời lượng giữa các môn nghiệp vụ sư phạm - tâm lí giáo dục trong toàn bộ chương trình hiện hành là 80/195 chiếm 40%, chương trình năm 2003 là 79/180 (≈ 44%). • Tỉ lệ thời lượng giữa lí thuyết và thực hành là : 50/50. 1.3. Đổi mới trong tổ chức đào tạo Chương trình được thực hiện bằng nhiều hình thức tổ chức đào tạo. Các hình thức này đều hướng vào sự phát triển năng lực tự học của sinh viên, tập trung vào việc đào tạo các năng lực sư phạm của giáo viên. Tinh thần này phải được quán triệt trong việc giảng dạy từng môn học và trong rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Nội dung đào tạo sẽ được thiết kế theo các hoạt động học tập, bảo đảm cho sinh viên tập dượt xử lí những tình huống phổ biến sẽ gặp trong thực tiễn giáo dục ở trường tiểu học. 1.4. Đổi mới việc kiểm tra đánh giá sinh viên Công khai hoá, khách quan hoá trong quá trình kiểm tra đánh giá, chuyển dần từ đánh giá về kiến thức sang đánh giá về năng lực, kết hợp các hình thức kiểm tra đánh giá (tự luận, trắc nghiệm, ), kết hợp tự đánh giá của giảng viên với sự tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của sinh viên. Việc kiểm tra đánh giá chất lượng đào tạo được thực hiện bằng nhiều cách : vấn đáp, tự luận, trắc nghiệm, hoạt động thực hành, hoạt động ngoại khoá, nhằm đánh giá một cách thường xuyên và toàn diện các sinh viên. 48
  46. 2. Những điểm mới của các tài liệu bồi dưỡng GVTH Dự thảo "chuẩn GVTH" là những yêu cầu về phẩm chất và năng lực nghề nghiệp đối với GVTH trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trong công cuộc đổi mới chương trình phổ thông nói chung và GDTH nói riêng. Đội ngũ GVTH ở nước ta hiện nay không đồng đều về trình độ (một lượng không nhỏ giáo viên có trình độ dưới chuẩn, còn lại phần lớn (73%) số lượng GVTH tốt nghiệp chương trình đào tạo GVTH hệ THSP năm 1995, mà chương trình đến nay không còn phù hợp nữa ; một lượng nhỏ (12%) GVTH có trình độ CĐ và ĐH), đời sống khó khăn, Do đó, việc đội ngũ GVTH phải đối mặt với những thách thức mới của GDTH và những tiêu chí của dự thảo "chuẩn GVTH" là hết sức khó khăn. Người GVTH hiện nay đang một mặt, phải không ngừng nâng cao trình độ để đáp ứng những đòi hỏi mới của GDTH, mặt khác phải tự bồi dưỡng, rèn luyện, cập nhật với những kiến thức và kĩ năng sư phạm để có thể đảm đương được việc dạy được và dạy tốt chương trình, sách giáo khoa tiểu học mới. Chính vì vậy, một trong những nhiệm vụ của Dự án là biên soạn các tài liệu bồi dưỡng GVTH nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giúp họ vừa đảm đương được chương trình, sách giáo khoa tiểu học mới, vừa đáp ứng được yêu cầu của dự thảo "chuẩn GVTH". Các tài liệu bồi dưỡng GVTH cũng được đổi mới cả về mục tiêu, cấu trúc, nội dung. Tài liệu bồi dưỡng được thiết kế thành các môđun (môđun bồi dưỡng được quy định là một tổ hợp các công cụ gồm nhiều phương tiện : các loại văn bản in ấn, băng hình, băng tiếng ; môđun bồi dưỡng là các đơn vị kiến thức có thời lượng theo quy định và có khả năng tổ hợp với nhau phục vụ các chương trình học tập). Như vậy, mỗi môđun được thiết kế theo một thời lượng và nội dung trọn vẹn của từng lĩnh vực cần bồi dưỡng cho GVTH hoặc cho cán bộ quản lí trường tiểu học. 2.1. Mục tiêu - Các môđun bồi dưỡng nhằm bồi dưỡng cho GVTH năng lực (kiến thức và kĩ năng sư phạm) dạy học đáp ứng yêu cầu của chương trình và sách giáo khoa tiểu học mới. Khả năng này được cụ thể hoá thành những năng lực sau : + Nắm vững nội dung cơ bản của chương trình các môn học và hoạt động, những điểm khó và mới trong sách giáo khoa, sách giáo viên của từng môn học, hoạt động ở các khối, lớp của tiểu học. + Nắm và sử dụng được các PPDH ở từng môn học và bước đầu sử dụng có hiệu quả những phương pháp này. + Nắm các thiết bị dạy học cần thiết để thay sách giáo khoa ở từng môn học, hoạt động và cách sử dụng các thiết bị đó trong dạy học. + Nắm những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng, thái độ ở từng môn học và biết cách đánh giá kết quả học tập bộ môn của học sinh theo yêu cầu về kiến thức và kĩ năng do chương trình tiểu học đặt ra. 49
  47. + Tăng cường năng lực cho GVTH để dạy các đối tượng chuyên biệt ở tiểu học như dạy học sinh khuyết tật, dạy Tiếng Việt cho học sinh dân tộc, dạy lớp ghép, Những năng lực mà GVTH được bồi dưỡng trên đây là những năng lực mà GVTH đang cần và còn thiếu để đáp ứng yêu cầu dạy tốt chương trình tiểu học mới. Mặt khác, nếu GVTH được bồi dưỡng thêm những kiến thức và kĩ năng này thì sẽ đáp ứng được yêu cầu cao hơn của "chuẩn GVTH", vì ở những mức độ này GVTH chỉ có thể đạt được trên họ phải rèn luyện và bồi dưỡng trong quá trình giảng dạy ở trường tiểu học. 2.2. Cấu trúc các môđun bồi dưỡng Các môđun bồi dưỡng đã được thiết kế theo 2 phần tài liệu in và kết hợp với tài liệu nghe nhìn (băng hình, băng tiếng). Các đoạn băng được sử dụng như một nội dung học tập chứ không chỉ đơn thuần là minh hoạ. Cách viết tài liệu đã được cải tiến chủ yếu thiết kế cho giáo viên tự học, tự nghiên cứu, do đó tài liệu viết dưới dạng thiết kế các hoạt động buộc người học phải tích cực chủ động trong quá trình nắm bắt các kiến thức, kĩ năng. Việc đổi mới cách viết tài liệu bồi dưỡng như trên còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức học tập theo các tổ, nhóm chuyên môn, giúp giáo viên giải quyết được những khó khăn nảy sinh trong quá trình học tập bồi dưỡng. 2.3. Nội dung các môđun bồi dưỡng Nội dung môđun bồi dưỡng chủ yếu tập trung vào những kiến thức trọng tâm, khó, mới mà người giáo viên còn gặp rất nhiều khó khăn khi giải quyết trong quá trình giảng dạy ở tiểu học. Mặt khác, nội dung bồi dưỡng tập trung vào rèn luyện cho giáo viên những kĩ năng sư phạm mà chủ yếu là cách sử dụng các PPDH tích cực trong giảng dạy từng môn học ở tiểu học và dạy từng đối tượng học sinh Vậy giải quyết được những vấn đề trên là giúp giáo viên rèn luyện được phẩm chất và năng lực giảng dạy để giúp họ đạt được những mức độ trong từng lĩnh vực mà "chuẩn GVTH" đã đặt ra. Trên đây là một số điểm mới cơ bản, thiết yếu của các chương trình đào tạo bồi dưỡng GVTH mà Dự án xây dựng nhằm góp phần tạo ra sự chuyển biến cơ bản về chất lượng của đội ngũ GVTH đáp ứng với "chuẩn GVTH" trong tương lai. 50
  48. Phần bốn : QUẢN LÍ NHÀ TRƯỜNG VÀ XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN NGHIỆP VỤ CÁC NGẠCH GIÁO VIÊN TIỂU HỌC PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN TRƯỜNG TIỂU HỌC PGS. TS. Đặng Quốc Bảo, Ths. Đỗ Thiết Thạch I - KHÁI NIỆM KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC Kế hoạch chiến lược (strategic plan) được coi là công cụ mạnh để xác định các ưu tiên và đề ra các quyết định đúng đắn cho một tổ chức, trong một thời kì dài - thường bao quát trong khoảng 10 - 20 năm. Khái niệm này bắt nguồn từ khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp trong sự cạnh tranh kinh tế - sản xuất phải có tầm nhìn dài hạn cho chiến lược hành động, và chiến lược hành động thường được cụ thể hoá bằng một kế hoạch trong đó xác định "mục tiêu", "sự lựa chọn các siêu ưu tiên" (super priorities), "các tình huống phải đối phó" và "giải quyết". Công cụ này được những người quản lí chính quyền tiếp nhận và sử dụng ngày càng nhiều để xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển cộng đồng, kế hoạch phát triển ngành. Từ thập niên 80 của thế kỉ trước, vấn đề kế hoạch chiến lược cũng được áp dụng vào việc quản lí ngành giáo dục, quản lí nhà trường. Giáo dục trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, nhà trường trong sự nghiệp góp phần phát triển cộng đồng, ngoài kế hoạch công tác thường niên (kế hoạch năm học) có tính tác nghiệp, muốn tạo ra sự phát triển bền vững đều cần phải có kế hoạch chiến lược. Ở nước ta, vấn đề này thường được gọi là xây dựng chiến lược giáo dục, xây dựng quy hoạch giáo dục. Ở tầm vĩ mô và trung mô (Bộ, Sở, Phòng) đã có một số công trình về chiến lược học và quy hoạch giáo dục. Tuy nhiên ở cấp cơ sở (nhà trường), vấn đề này chưa được chú ý đúng mức. 51