Giáo trình Luật hình sự

doc 70 trang ngocly 3140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật hình sự", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_luat_hinh_su.doc

Nội dung text: Giáo trình Luật hình sự

  1. MỤC LỤC Trang Chương 1. Khái niệm, nhiệm vụ và các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam 1.1.Khái niệm luật hình sự 1.2.Tính giai cấp của luật hình sự 1.3.Nhiệm vụ của luật hình sự 1.4.Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam Chương 2. Khái niệm, cấu tạo và hiệu lực của đạo luật hình sự Việt Nam 2.1.Khái niệm đạo luật hình sự Việt Nam 2.2.Cấu tạo của đạo luật hình sự Việt Nam 2.3.Hiệu lực của đạo luật hình sự Việt Nam 2.4.Giải thích đạo luật hình sự 2.5.Nguyên tắc tương tự về luật Chương 3. Tội phạm 3.1.Khái niệm và đặc điểm của tội phạm 3.2.Phân loại tội phạm 3.3.Phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác 3.4.Vấn đề nguồn gốc và bản chất giai cấp của tội phạm Chương 4. Cấu thành tội phạm 4.1.Các yếu tố của tội phạm 4.2.Cấu thành tội phạm 4.3.Ý nghĩa của cấu thành tội phạm Chương 5. Khách thể của tội phạm 5.1.Khách thể của tội phạm 5.2.Đối tượng tác động của tội phạm Chương 6. Mặt khách quan của tội phạm 6.1.Khái niệm mặt khách quan của tội phạm 6.2.Hành vi khách quan của tội phạm 6.3.Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm 6.4.Những biểu hiện khác trong mặt khách quan của tội phạm Chương 7. Chủ thể của tội phạm 7.1.Khái niệm chủ thể của tội phạm 7.2.Năng lực trách nhiệm hình sự 7.3.Tuổi chịu trách nhiệm hình sự 7.4.Chủ thể đặc biệt của tội phạm 7.5.Vấn đề nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Chương 8. Mặt chủ quan của tội phạm 8.1.Khái niệm mặt chủ quan của tội phạm 8.2.Lỗi 8.3.Động cơ và mục đích phạm tội 8.4.Sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đối với trách nhiệm hình sự Chương 9. Các giai đoạn thực hiện tội phạm 9.1.Khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm 9.2.Chuẩn bị phạm tội 9.3.Phạm tội chưa đạt 9.4.Tội phạm hoàn thành 9.5.Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Chương 10. Đồng phạm
  2. 10.1.Khái niệm đồng phạm 10.2.Các loại người đồng phạm 10.3.Phân loại các hình thức đồng phạm 10.4.Vấn đề trách nhiệm hình sự trong đồng phạm 10.5.Những hành vi liên quan đến đồng phạm cấu thành tội độc lập Bài tập tình huống Chương 11. Những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi 11.1.Khái niệm chung 11.2.Phòng vệ chính đáng 11.3.Tình thế cấp thiết 11.4.Bắt người phạm pháp 11.5. Những trường hợp khác loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi Chương 12. Trách nhiệm hình sự và hình phạt 12.1.Trách nhiệm hình sự 12.2.Hình phạt Chương 13. Hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp 13.1.Hệ thống hình phạt 13.2.Các biện pháp tư pháp Chương 14. Quyết định hình phạt 14.1.Các căn cứ quyết định hình phạt 14.2. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội hoặc có nhiều bản án Chương 15. Thời hiệu thi hành bản án - miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt - án treo - xoá án tích 15.1.Thời hiệu thi hành bản án 15.2.Miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt 15.3.Án treo 15.4.Xoá án tích Chương 16. Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội 16.1.Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội 16.2. Hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa thành niên phạm tội Tài liệu tham khảo 2
  3. CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1 KHÁI NIỆM LUẬT HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm - loại vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao hơn hẳn so với các loại vi phạm pháp luật khác cho xã hội. Nhà nước sử dụng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp pháp luật hình sự (PLHS). Biện pháp này được Nhà nước sử dụng thể hiện trước hết qua hoạt động xây dựng pháp luật mà kết quả là các văn bản quy phạm PLHS quy định về tội phạm và hình phạt được ra đời. Các quy phạm pháp luật này tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng với nhau trong một hệ thống tạo thành ngành luật hình sự. Vậy, Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy. 1.1.2. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật của ngành luật đó điều chỉnh. Các quan hệ xã hội được các quy phạm PLHS tác động tới là đối tượng điều chỉnh của luật hình sự. Luật hình sự chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra- đó cũng chính là các quan hệ PLHS Vậy, Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Thời điểm bắt đầu xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự là thời điểm người phạm tội bắt đầu thực hiện tội phạm và quan hệ pháp luật này chấm dứt khi người phạm tội được xoá án tích. Trong cả quá trình này xuất hiện đồng thời quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, quan hệ pháp luật dân sự Tuy nhiên, quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, đa số trường hợp bắt đầu xuất hiện khi có quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can. Trong quan hệ pháp luật hình sự luôn có hai chủ thể với những vị trí pháp lý khác nhau. 1. Nhà nước: Có quyền truy tố, xét xử người phạm tội, buộc họ phải chịu những biện pháp trách nhiệm hình sự nhất định để bảo vệ pháp luật bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Nhà nước thực hiện quyền này bằng cách thể hiện ý chí của mình trong Bộ luật hình sự. Mặt khác, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội. 2/ Người phạm tội: Có trách nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng chế mà Nhà nước áp dụng đối với mình. Mặt khác, họ có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.2.3. Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự Xuất phát từ chức năng điều chỉnh và địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật này, luật hình sự sử dụng phương pháp quyền uy - phương pháp sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự. Nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người phạm tội không bị cản trở hay phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Người phạm tội phải phục tùng những biện pháp mà Nhà nước đã áp dụng với họ. Trách nhiệm của người phạm tội về tội phạm mà họ đã gây ra là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải trách nhiệm đối với người bị hại hay trách nhiệm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. 1.2. TÍNH GIAI CẤP CỦA LUẬT HÌNH SỰ 3
  4. Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đã chứng minh pháp luật có tính giai cấp. Luật hình sự là một bộ phận tạo nên hệ thống pháp luật nên nó cũng mang tính giai cấp. Chúng ra đời cùng với Nhà nước và là sản phẩm của xã hội ở mỗi một giai đoạn nhất định. Tính giai cấp của luật hình sự được thể hiện rõ nét qua từng kiểu Nhà nước, qua các văn bản pháp luật ở các giai đoạn khác nhau Bộ luật Gia Long, Bộ luật Hồng Đức của chế độ phong kiến Việt Nam quy định hình phạt ngũ hình - mang tính đàn áp dã man. Hoặc quan niệm về tội phạm thể hiện sự đối xử không bình đẳng với các tầng lớp khác nhau trong xã hội như con kiện cha, vợ kiện chồng là tội phạm. Luật 10/59 đặt người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Việc tuyên truyền và hoạt động cộng sản là tội quốc sự nghiêm trọng. Bộ luật hình sự năm 1985,1999 của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn bản quy phạm pháp luật thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân lao động để bảo vệ lợi ích của nhân dân trấn áp những phần tử (người phạm tội) chống đối đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 1.3. NHIỆM VỤ CỦA LUẬT HÌNH SỰ 1.3.1. Nhiệm vụ chung Nhiệm vụ chung của luật hình sự Việt Nam được thể hiện tập trung trong Điều 1 BLHS với 3 nhóm cụ thể như sau: 1. Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ những quan hệ xã hội cơ bản nhất và quan trọng nhất trong đời sống xã hội. Đó là, bảo vệ chế độ xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN. 2. Với một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta, Bộ luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu và sắc bén của Nhà nước trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. 3. Luật hình sự còn có nhiệm vụ giáo dục mọi người nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. 1.3.2. Nhiệm vụ cụ thể của luật hình sự qua các giai đoạn cách mạng a. Giai đoạn 1945 - 1954 Trong giai đoạn này nhiệm vụ của luật hình sự là góp phần phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trừng trị bọn Việt gian phản động làm tay sai cho thực dân Pháp và được thể hiện trong các sắc lệnh sau: - Sắc lệnh số 150/SL ngày 14/4/1953 trừng trị bọn phản cách mạng, bọn địa chủ cường hào ngoan cố. - Sắc lệnh số 211/SL ngày 12/4/1946 trừng trị những hình vi có phương hại đến nền độc lập dân tộc. - Sắc lệnh số 133/SL ngày 20/1/1953 trừng trị tội xâm hại đến an toàn Nhà nước. b. Giai đoạn 1954 - 1975 Trong giai đoạn này, luật hình sự góp phần thực hiện nhiệm vụ cách mạng là xây dựng CNXH ở miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và được thể hiện trong các văn bản hình sự sau: - Sắc lệnh số 01/SL ngày 19/4/1957 trừng trị các hành vi đầu cơ. - Pháp lệnh 30/10/1967 trừng trị những hành vi phản cách mạng. - Pháp lệnh 21/10/1970 trừng trị những hành vi xâm phạm đến tài sản XHCN và tài sản của công dân. c. Giai đoạn 1975 đến nay Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của luật hình sự được thể hiện tập trung trong toàn bộ các quy định của Bộ luật hình sự 1985 và 1999. 1.4. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
  5. 1.4.1. Khái niệm Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự được chia làm 2 loại: Các nguyên tắc chung và các nguyên tắc có tính đặc thù. Các nguyên tắc có tính đặc thù của luật hình sự như: Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc có lỗi, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt được đề cập cụ thể, chi tiết trong toàn bộ chương trình của môn học. 1.4.2.Các nguyên tắc chung a. Nguyên tắc pháp chế XHCN Nguyên tắc này được thể hiện ở việc xét xử hình sự phải đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không xử oan người vô tội, hình phạt phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. b. Nguyên tắc dân chủ XHCN Nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ luật hình sự không phân biệt đối xử, không quy định những quyền, đặc lợi cho tầng lớp nhân dân nào trong xã hội vì địa vị xã hội, vì tình trạng tài sản của họ. Phải đảm bảo cho nhân dân lao động tự mình hay thông qua các tổ chức xã hội tham gia vào việc xây dựng pháp luật hình sự và tham gia vào hoạt động giám sát việc áp dụng BLHS của các cơ quan có thẩm quyền. c. Nguyên tắc nhân đạo XHCN Nguyên tắc này thể hiện ở việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội chủ yếu nhằm cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Hình phạt không gây đau đớn về thể xác của người phạm tội. Bộ luật hình sự có nhiều quy định tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo, có cơ hội để sớm hoà nhập vào cộng đồng như: quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo và một số hình phạt không tước quyền tự do như hình phạt cảnh cáo. d. Nguyên tắc kết hợp hài hoà chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản Nguyên tắc này thể hiện là luật hình sự Việt Nam trừng trị các hành vi phá hoại hoà bình, gây chiến tranh xâm lược, chống loài người và can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Và luật hình sự Việt Nam ghi nhận và bảo đảm việc thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia. 5
  6. CHƯƠNG 2. KHÁI NIỆM, CẤU TẠO VÀ HIỆU LỰC CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. KHÁI NIỆM ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Đạo luật hình sự Việt Nam (DDLHSVN) là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành, quy định về tội phạm và hình phạt cũng như các chế định khác liên quan đến việc xác định tội phạm và hình phạt, đồng thời quy định nhiệm vụ và những nguyên tắc chung của luật hình sự Việt Nam Với khái niệm trên cho thấy, đạo luật hình sự có 3 đặc điểm như sau: 1. Về hình thức pháp lý: Đạo luật hình sự là văn bản quy phạm pháp luật. 2. Về thẩm quyền ban hành: Đạo luật hình sự do Quốc Hội ban hành. 3. Về nội dung: Đạo luật hình sự chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định về tội phạm và hình phạt. Với các đặc điểm trên thì Đạo luật hình sự hiện hành chỉ là Bộ luật hình sự Việt Nam 1999. Song đánh giá cả quá trình lịch sử lập pháp hình sự của Nhà nước ta cho thấy đạo luật hình sự Việt Nam bao gồm: Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1985 vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997. Nội dung bên trong của đạo luật hình sự Việt Nam chứa đựng các quy phạm pháp luật. Tính chất của các quy phạm pháp luật hình sự trong đạo luật hình sự thể hiện ở tính chất cấm chỉ và tính chất bắt buộc: @ Về tính chất cấm chỉ của quy phạm pháp luật hình sự được thể hiện ở việc không cho phép người ta thực hiện những hành vi được quy định trong bộ luật hình sự là tội phạm bằng cách răn đe áp dụng hình phạt đối với người thực hiện hành vi đó. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự Việt Nam vẫn cho phép một người được quyền hành động để gây một thiệt hại nhất định cho xã hội trong hai trường hợp: Phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết (Điều 15, Điều 16 BLHS). @ Về tính chất bắt buộc của các quy phạm pháp luật hình sự thể hiện ở 2 phương diện là đối với người phạm tội luôn phải chịu một biện pháp trách nhiệm hình sự nhất định, còn đối với các cơ quan có trách nhiệm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội một cách nghiêm minh, kịp thời. Các quy phạm pháp luật trong Đạo luật hình sự được chia làm 2 loại với vị trí pháp lý khác nhau: Nhóm quy phạm thứ nhất là các quy phạm quy định các vấn đề có tính chất là nền tảng, cơ sở lý luận chung, như các quy phạm về hiệu lực, về nhiệm vụ, về khái niệm, điều kiện cho việc xác định tội phạm và hình phạt. Các quy phạm này hợp thành phần chung của BLHS (được quy định từ Điều 1 đến Điều 77 BLHS) Nhóm quy phạm thứ hai là các quy phạm quy định các tội phạm cụ thể và hình phạt cần áp dụng đối với từng tội phạm đó. Các quy phạm này hợp thành phần các tội phạm cụ thể (được quy định từ Điều 78 đến Điều 344 BLHS) 2.2. CẤU TẠO CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.2.1. Về hình thức cấu trúc bên ngoài của Đạo luật hình sự Việt Nam Hình thức cấu tạo bên ngoài của Đạo luật hình sự Việt Nam được thể hiện theo sơ đồ sau: Phần chung Khoản ĐLHS (BLHS) Chương (mục) - Điều Đoạn Phần riêng Điểm 6
  7. 2.2.2. Hình thức cấu trúc bên trong của Đạo luật hình sự (Chính là cấu trúc của các quy phạm pháp luật hình sự). Cấu trúc của một quy phạm pháp luật nói chung bao gồm 3 bộ phận, đó là: bộ phận giả định, quy định và chế tài. Phần giả định của một quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi ai? ở đâu? hoàn cảnh nào? Đối với phần giả định của quy phạm PLHS nó trả lời cho câu hỏi: trong điều kiện nào họ được coi là có lỗi, người phạm tội là công dân Việt Nam, người nước ngoài, độ tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, hay ngoài lãnh thổ Việt Nam. Những nội dung này được nêu trong phần chung của Bộ luật hình sự. Như vậy phần giả định của quy phạm pháp luật hình sự được quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự. Do đó, cấu trúc của một quy phạm PLHS phần các tội phạm gồm 2 bộ phận quy định và chế tài. Phần quy định của quy phạm PLHS đưa ra quy tắc xử sự mang tính cấm chỉ. Phần chế tài chính là việc quy định khung hình phạt 2.3. HIỆU LỰC CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào được ban hành cũng đều phải xác định rõ phạm vi tác động về không gian, thời gian và đối tượng tác động của văn bản pháp luật đó. Đó chính là hiệu lực về không gian và hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật 2.3.1. Hiệu lực về không gian của đạo luật hình sự Việt Nam Khi nói đến hiệu lực về không gian của đạo luật hình sự Việt Nam là chúng ta đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Bộ luật hình sự Việt Nam được áp dụng đối với ai? đối với những hành vi phạm tội xảy ra ở đâu? a. Đối với hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam Trước hết cần phải hiểu phạm vi lãnh thổ Việt Nam là gì? Lãnh thổ Việt Nam theo luật hình sự Việt Nam được hợp thành bởi 3 bộ phận: 1. Lãnh thổ có thực: Bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời thuộc chủ quyền của Việt Nam. 2. Lãnh thổ mở rộng: Tàu thuỷ mang cờ hiệu của Việt Nam đang ngoài vùng biển Quốc tế, máy bay dân dụng mang cờ hiệu của Việt Nam đang bay trên đường bay. Tàu chiến, máy bay quân sự của Việt Nam đang ở bất kỳ nơi nào. 3. Lãnh sự quán, Đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài. Được coi là hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam nếu bắt đầu hoặc kết thúc hoặc diễn ra trọn vẹn trong phạm vi không gian nói trên Về nguyên tắc áp dụng BLHSVN đối với những hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ của Việt Nam được quy định tại Khoản 1 Điều 5 BLHS như sau “BLHS được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước CHXHXNVN”. Như vậy, với quy định trên thì BLHSVN có hiệu lực tuyệt đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam dù người đó là công dân Việt Nam, người nước ngoài, hay người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam. Tuy nhiên, đối với đối tượng là người nước ngoài được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao là trường hợp ngoại lệ được quy định ở Khoản 2, Điều 5 BLHS: “Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCNVN thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước Quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia hoặc theo tập quán Quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”. Như vậy, BLHSVN có các quy định ngoại lệ đối với các đối tượng được hưởng quyền miễn trừ tư pháp với 2 nhóm như sau: @ Theo pháp luật Việt Nam, theo hiệp định Quốc tế mà Việt Nam tham gia thì những đối 7
  8. tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao là các thành viên của đoàn ngoại giao trở lên. @ Theo thông lệ quốc tế thì vợ hoặc chồng hoặc con chưa thành niên của những người kể trên cũng được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. b.Đối với hành vi phạm tội xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam Trước hết, đối với công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam. Đối với các đối tượng này khi phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, nguyên tắc áp dụng BLHSVN tại Khoản 1, Điều 6 BLHS quy định “Công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo bộ luật này”. Như vậy, nếu công dân Việt Nam hoặc người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội đã thực hiện được quy định trong BLHS. Vì theo nguyên tắc quốc tịch thì công dân Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam dù ở bất kỳ nơi nào, đồng thời phải tuân thủ pháp luật ở nước sở tại. Đối với người nước ngoài khi phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, nguyên tắc áp dụng BLHSVN được quy định tại Khoản 2, Điều 6 BLHS “Người nước ngoài phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam nếu tội đã phạm được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia". Đó là những tội được quy định tại chương XXIV của BLHS - tội phạm phá hoại hoà bình, chống loài người, tội phạm chiến tranh, các tội xâm phạm các quyền và lợi ích cơ bản của công dân Việt Nam. 2.3.2. Hiệu lực về thời gian của đạo luật hình sự Việt Nam Hiệu lực về thời gian của BLHS là việc xác định thời điểm phát sinh và thời điểm chấm dứt hiệu lực của BLHS Việt Nam. Vấn đề hiệu lực về thời gian của BLHS được quy định tại Khoản 1, Điều 7 BLHS “Điều luật áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện”. Với quy định này cho thấy mọi hành vi phạm tội thực hiện từ sau thời điểm 01/07/2000 (là thời điểm BLHS 1999 có hiệu lực) đều áp dụng BLHS 1999 để xét xử. 2.3.3. Vần đề hiệu lực hồi tố của đạo luật hình sự Việt Nam Hiệu lực hồi tố là hiệu lực của văn bản phát luật hình sự áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước khi văn bản ấy có hiệu lực thi hành. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 7 của BLHSVN được phép áp dụng BLHS 1999 để xét xử những hành vi phạm tội xảy ra trước ngày 01/17/2000 mà sau thời điểm này mới đưa ra xử lý, nếu BLHS 1999 quy định theo hướng có lợi hơn so với BLHS 1985 cho người phạm tội đối với trường hợp phạm tội cụ thể đó (đó là những trường hợp được áp dụng hiệu lực hồi tố). Cụ thể BLHS Việt Nam có hiệu lực hồi tố trong một số trường hợp sau: Trường hợp xoá bỏ một tội phạm.Ví dụ: Tội chống Nhà nước XHCN anh em, tội chiếm đoạt tem phiếu, tội phá huỷ tiền tệ, tội lưu hành sản phẩm kém phẩm chất là những tội phạm được quy định trong BLHS 1985 mà không được quy định trong BLHS 1999. Xoá bỏ một hình phạt: Ví dụ Điều 138 BLHS 1999 về tội trộm cắp tài sản quy định xoá bỏ hình phạt tử hình. Xoá bỏ một tình tiết tăng nặng: Ví dụ BLHS 1999 không còn quy định tình tiết tăng nặng lợi dụng chức vụ cao để phạm tội. Quy định một hình phạt nhẹ hơn. Quy định một tình tiết giảm nhẹ mới, như tình tiết người phạm tội đã lập công chuộc tội. Mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình phạt, xoá án tích. Ví dụ như BLHS 1985 thời hạn án tích là 3 năm đối với hình phạt cảnh cáo nhưng BLHS 1999 thời hạn là 1 năm. 8
  9. - Phụ nữ có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi không được áp dụng hình phạt tử hình (BLHS 1985 chỉ áp dụng chính sách nhân đạo này đối với phụ nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi) hoặc người từ 14 đến 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu điều luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt từ 7 năm trở lên (BLHS 1985 quy định người ở độ tuổi này phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những tội phạm có quy định mức cao nhất của khung hình phạt từ 5 năm trở lên). Trường hợp này phải áp dụng BLHS1999 để xét xử người phạm tội Chú ý: Trong trường hợp điều luật trong văn bản pháp luật mới và văn bản pháp luật cũ không thay đổi thì áp dụng điều luật của văn bản mới để xét xử hành vi phạm tội thực hiện trước khi văn bản mới có hiệu lực. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 7 của BLHSVN không được phép áp dụng BLHS 1999 để xét xử những hành vi phạm tội xảy ra trước ngày 01/17/2000 mà sau thời điểm này mới đưa ra xử lý, nếu BLHS 1999 quy định theo hướng bất lợi hơn so với BLHS 1985 cho người phạm tội đối với trường hợp phạm tội cụ thể đó (đó là những trường hợp không được áp dụng hiệu lực hồi tố). Cụ thể BLHS Việt Nam không có hiệu lực hồi tố trong một số trường hợp sau: Quy định tội phạm mới, như tội lây truyền vi rút HIV cho người khác Điều 117, BLHS 1999. Tội vi phạm về sử dụng lao động là trẻ em (Điều 267). Quy định hình phạt nặng hơn: có thể là loại hoặc mức hình phạt nặng hơn. Ví dụ Tội cố ý gây thương tích trong BLHS 1999 quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân nhưng BLHS 1985 quy định hình phạt cao nhất đối với tội này là 20 năm tù. Tội hành nghề mê tín dị đoan trong 2 bộ luật mức hình phạt cao nhất là 10 năm tù, thì căn cứ vào mức thấp nhất của tội phạm này trong 2 BLHS để xác định BLHS nào quy định về tội phạm đó với hình phạt tối thiểu cao hơn thì thuộc trường hợp quy định hình phạt nặng hơn. Cụ thể Khoản 1, Điều 247 BLHS 1999 về tội hành nghề mê tín dị đoan quy định hình phạt thấp nhất là 6 tháng tù, nhưng Khoản 1, Điều 119 BLHS1985 quy định hình phạt thấp nhất là 3 tháng tù. Như vậy, Điều247 BLHS 1999 là tội có mức hình phạt nặng hơn. Quy định tình tiết tăng nặng mới, tình tiết định khung tăng nặng mới: như tình tiết xâm phạm tài sản XHCN, gây hậu quả rất nghiêm trọng, lợi dụng tình trạng khẩn cấp để phạm tội, hoặc tình tiết định khung tăng mới như giết trẻ em, giết ông bà, cha mẹ Quy định hạn chế phạm vi áp dụng án treo. Ví dụ: Điều 44 BLHS 1985 quy định người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách mà tội mới là cố ý hoặc vô ý mà bị phạt tù thì phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo. Nhưng Điều 60 BLHS 1999 quy định trong mọi trường hợp phạm tội mới trong thời gian thử thách đối với người đang chấp hành bản án treo đều phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo. - Quy định hạn chế phạm vi miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt,giảm thời hạn chấp hành hình. Ví dụ: BLHS 1985 quy định với người bị kết án tù chung thân phải chấp hành được ít nhất là 10 năm mới được xét giảm lần đầu thời gian thực sự ở tù là 15 năm. Theo BLHS 1999 người bị kết án tù chung thân phải chấp hành được ít nhất là 15 năm mới có thể được xét giảm lần đầu, thời gian ở tù ít nhất là 20 năm. 2.4. GIẢI THÍCH ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ Giải thích đạo luật hình sự là việc làm sáng rõ một cách chính xác nội dung và ý nghĩa của các điều luật giúp cho việc áp dụng pháp luật hình sự được đúng đắn. Căn cứ vào nguồn gốc và giá trị của sự giải thích có các loại sau: 1/ Giải thích chính thức: Là giải thích của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được quy định tại Điều 91 Hiến Pháp 1992. Việc giải thích này có tính chất bắt buộc với mọi cơ quan Nhà nước và mọi công dân. 9
  10. 2/ Giải thích của cơ quan xét xử: Là giải thích của cơ quan Toà án mang tính chất bắt buộc trong phạm vi của bản án đó. Nội dung giải thích của Toà án nhân dân tối cao có tính chất bắt buộc đối với toà án cấp dưới. 3/ Giải thích có tính chất khoa học: Là giải thích của các cán bộ nghiên cứu, làm công tác thực tiễn thể hiện trong các bài báo, sách giáo khoa không mang tính bắt buộc. 4/ Giải thích theo văn phạm: Là sử dụng các quy tắc, văn phạm để tìm hiểu ý của nhà làm luật. 5/ Giải thích theo lịch sử: Là đặt điều luật vào một hoàn cảnh cụ thể để giải thích nó. 6/ Giải thích theo hệ thống: Là đặt điều luật trong cả hệ thống pháp luật đối chiếu nó với các quy phạm pháp luật có liên quan để thấy được nội dung của điều luật. 2.5. NGUYÊN TẮC TƯƠNG TỰ VỀ LUẬT Trước thời điểm 01/01/1986 (thời điểm BLHS 1985 có hiệu lực) được phép áp dụng nguyên tắc tương tự về luật. Bởi vì: Thứ nhất: Trong thời điểm này pháp luật hình sự chưa được hoàn chỉnh, số lượng các điều luật nhỏ hơn số lượng các loại hành vi phạm tội. Thứ hai: Do yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nguyên tắc áp dụng nguyên tắc tương tự về luật trong giai đoạn này thể hiện như sau: Hành vi phạm tội A Điều luật A được áp dụng để xử lý Hành vi phạm tội B Điều kiện áp dụng: Chưa có điều luật B để xử lý hành vi phạm tội B. Hành vi B phải tương tự với hành vi A. Từ thời điểm BLHS 1985 có hiệu lực, tuyệt đối không áp dụng nguyên tắc tương tự về luật. Vì, Điều 2 BLHS 1985 và BLHS 1999 quy định “chỉ người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự“. Bài tập tình huống Dìu Vạn Long và Labéc Hải mang quốc tịch Trung Quốc đến cư trú làm ăn và sinh sống ở nước ta từ năm 1995. Vào khoảng 8 giờ ngày 20/02/2001, Long và Hải đã có hành vi nhảy qua tường vào Đại sứ quán Nga tại nước ta lấy trộm được một số tài sản trị giá 20 triệu đồng trong Đại sứ quán. Khi nhảy qua tường để ra ngoài thì bị bảo vệ phát hiện, đuổi bắt. Long và Hải đã bỏ tài sản lại chạy trốn vào Đại sứ quán Trung Quốc thì bị bắt giữ. Hãy xác định hiệu lực của BLHS được áp dụng trong trường hợp trên? 10
  11. CHƯƠNG 3. TỘI PHẠM 3.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI PHẠM 3.1.1. Khái niệm tội phạm Khái niệm tội phạm được quy định tại Khoản 1, Điều 8 BLHS như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc xâm phạm chế độ chính trị (thay chế độ XHCN), chế độ kinh tế nền văn hoá quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN. Định nghĩa tội phạm về hình thức khác định nghĩa tội phạm về nội dung là nó chỉ rõ ra các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tội phạm. Từ đó thấy được bản chất giai cấp của tội phạm (phục vụ, bảo vệ lợi ích giai cấp nào? Hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho lợi ích của giai cấp nào?). Như vậy, khái niệm về tội phạm nêu trong Khoản1, Điều 8 của BLHS là khái niệm tội phạm về nội dung. Bởi vì, trong định nghĩa này nó đã xác định rõ phạm vi các quan hệ xã hội được luật hình sự Việt Nam điều chỉnh và bảo vệ. 3.1.2. Các đặc điểm của tội phạm Về bản chất pháp lý thì tội phạm là một trong 4 loại vi phạm pháp luật, trong đó tội phạm là vi phạm pháp luật hình sự nên nó phải chứa đựng đầy đủ các đặc điểm của vi phạm pháp luật nói chung. Song bên cạnh đó nó còn mang các đặc điểm có tính đặc thù riêng của nó để dựa vào đó có thể phân biệt được tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Các đặc điểm đó đã được thể hiện trong khái niệm tội phạm, đó là: a. Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội Bất kỳ một hành vi vi phạm nào cũng đều có tính nguy hiểm cho xã hội, nhưng đối với tội phạm thì tính nguy hiểm cho xã hội luôn ở mức độ cao hơn so với các loại vi phạm pháp luật khác. Đây là đặc điểm thể hiện dấu hiệu về nội dung của tội phạm nó quyết định các dấu hiệu khác như tính được quy định trong BLHS của tội phạm. Chính vì vậy, việc xác định dấu hiệu này có ý nghĩa như sau: Là căn cứ quan trọng để phân biệt giữa các tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Là dấu hiệu quan trọng nhất quyết định các dấu hiệu khác của tội phạm. Là căn cứ quan trọng để quyết định hình phạt. Để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chúng ta phải cân nhắc, xem xét, đánh giá một cách toàn diện các yếu tố sau: Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm phạm. Phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội. Mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe doạ gây ra. Hình thức và mức độ lỗi. Động cơ và mục đích phạm tội. Nhân thân người phạm tội. Hoàn cảnh chính trị xa hội lúc và nơi hành vi phạm tội xảy ra. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. b. Tính có lỗi Một người thực hiện hành vi phạm tội luôn bị đe doạ phải áp dụng hình phạt - là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Mục đích của hình phạt theo luật hình sự Việt Nam là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà chủ yếu nhằm cải tạo, giáo dục họ. Mục đích này chỉ đạt 11
  12. được nếu hình phạt được áp dụng đối với người có lỗi khi thực hiện hành vi phạm tội - tức là khi thực hiện hành vi phạm tội đó họ có đầy đủ điều kiện và khả năng để lựa chọn một biện pháp xử sự khác không gây thiệt hại cho xã hội nhưng họ đã thực hiện hành vi bị luật hình sự cấm gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. c. Tính trái pháp luật hình sự (tính được quy định trong BLHS) Bất kỳ một hành vi nào bị coi là tội phạm cũng đều được quy định trong BLHS. Đặc điểm này đã được pháp điển hoá tại Điều 2 BLHS “chỉ người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, một người thực hiện hành vi dù nguy hiểm cho xã hội đến đâu nhưng hành vi đó chưa được quy định trong BLHS thì không bị coi là tội phạm. Đặc điểm này có ý nghĩa về phương diện thực tiễn là tránh việc xử lý tuỳ tiện của người áp dụng pháp luật. Về phương diện lý luận nó giúp cho cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung sửa đổi BLHS theo sát sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả. d. Tính phải chịu hình phạt Đặc điểm này không được nêu trong khái niệm tội phạm mà nó là một dấu hiệu độc lập có tính quy kết kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính phải chịu hình phạt của tội phạm có nghĩa là bất cứ một hành vi phạm tội nào cũng bị đe doạ phải áp dụng một hình phạt đã được quy định trong BLHS. Từ việc phân tích các đặc điểm của tội phạm có thể đưa ra khái niệm tội phạm theo các đặc điểm của nó: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt. 3.1.3. Ý nghĩa của khái niệm tội phạm Khái niệm tội phạm là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự Việt Nam là cơ sở thống nhất cho việc xác định những tội phạm cụ thể và các chế định khác của luật hình sự. Các khái niệm khác tuy độc lập nhưng cũng chỉ là những khái niệm có tính chất cụ thể hoá và hoàn toàn phụ thuộc vào khái niệm tội phạm. Khái niệm tội phạm là cơ sở thống nhất cho việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự một cách đúng đắn. 3.2. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM 3.2.1. Khái niệm phân loại tội phạm Cơ sở phân loại tội phạm theo quy định của BLHS là dựa vào 2 tiêu chí: Thứ nhất: Căn cứ vào nội dung chính trị xã hội- đó chính là tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Thứ hai: Căn cứ vào hậu quả pháp lý - biểu hiện của nó là mức hình phạt. Việc phân loại tội phạm càng thành nhiều nhóm khác nhau căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm càng giúp cho việc cá thể hoá hình phạt được chính xác. Dựa vào 2 tiêu chí trên, tại K2, Điều 8 BLHS chia tội phạm thành 4 loại: Tội phạm ít nghiêm trọng là loại tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 3 năm tù. Tội phạm nghiêm trọng là loại tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 7 năm tù. Tội phạm rất nghiêm trọng là loại tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 15 năm tù. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là loại tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 15 năm tù đến tù chung thân hoặc tử hình Theo khái niệm của mỗi loại tội phạm cho thấy, cơ sở để xác định chúng thuộc loại tội phạm nào thực tế chỉ cần dựa vào mức cao nhất của từng khung hình phạt của mỗi điều luật phần các tội phạm cụ thể của mỗi tội danh mà không thể xác định được mức độ gây nguy hại cho xã 12
  13. hội của mỗi loại tội phạm như thế nào là chưa lớn, lớn, rất lớn và đặc biệt lớn. Do đó có thể kết luận: Đối với một khung hình phạt của một tội phạm thì hoặc chỉ là tội ít nghiêm trọng, hoặc tội nghiêm trọng, hoặc tội rất nghiêm trọng, hoặc là tội đặc biệt nghiêm trọng. Đối với một tội phạm nếu chỉ có một khung hình phạt thì loại tội đó chỉ có thể là 1 trong 4 loại tội. Nếu có từ hai khung hình phạt trở lên thì tội đó có thể vừa là tội ít nghiêm trọng, vừa là tội nghiêm trọng vừa là tội rất nghiêm trọng và có thể vừa là tội đặc biệt nghiêm trọng (ví dụ Tội trộm cắp tài sản, Điều 138 BLHS). 3.2.2. Ý nghĩa của việc phân loại tội phạm Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa trong việc hoàn thiện và áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự như: Chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc xử lý người phạm tội. Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp. Chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, xoá án tích. Chế định tạm giam, thời hạn tạm giam. Việc áp dụng các quy phạm và các chế định trên đều phải xuất phát từ việc phân loại tội phạm. Ví dụ: Điều 12 BLHS quy định “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng”. 3.3. PHÂN BIỆT TỘI PHẠM VỚI CÁC VI PHẠM PHÁP LUẬT KHÁC 3.3.1. Sự khác nhau giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác Vi phạm pháp luật khác Tội phạm (VPHC, VPDS, VPKL) 1.Mức độ nguy hiểm cho xã - Đáng kể - Không đáng kể. hội 2. Hậu quả pháp lý. - TNHS là biện pháp - TNHC, TNDS,TNKL là các biện pháp cưỡng chế nghiêm cưỡng chế ít nghiêm khắc hơn. khắc nhất 3. Hình thức pháp lý. - Chỉ được quy định - Quy định trong các văn bản quy phạm trong BLHS pháp luật khác. Các tiêu chuẩn để phân biệt giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác a. Đối với nhà làm luật căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm để phân biệt giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Đó là Dựa vào sự đánh giá tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại. Dựa vào sự đánh giá hình thức mức độ lỗi. Dựa vào sự đánh giá mức độ thiệt hại gây ra. b. Đối với người giải thích pháp luật căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi để phân biệt sự khác nhau giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Cụ thể: Đánh giá mức độ thiệt hại gây ra. Đánh giá phương pháp thủ đoạn, động cơ phạm tội. Đánh giá nhân thân người phạm tội. c. Đối với người áp dụng pháp luật dựa vào tính được quy định trong bộ luật hình sự để phân biệt tội phạm với vi phạm pháp luật khác. 3.4. VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT GIAI CẤP CỦA TỘI PHẠM Tội phạm chỉ tồn tại trong chế độ xã hội có giai cấp. Các nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước và pháp luật cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của tội phạm. 13
  14. Tính giai cấp của tội phạm được thể hiện ở 2 phương diện: Một hành vi nào bị coi là tội phạm hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội. Bất kỳ một tội phạm nào cũng đều xâm hại đến các quan hệ xã hội được giai cấp thống trị bảo vệ vì lợi ích của họ. 14
  15. CHƯƠNG 4. CẤU THÀNH TỘI PHẠM 4.1. CÁC YẾU TỐ CỦA TỘI PHẠM Xét về bản chất, nội dung chính trị xã hội và nội dung pháp lý, tội phạm là hiện tượng xã hội có tính giai cấp và tính lịch sử, được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội và tính được quy định trong bộ luật hình sự. Nếu nghiên cứu về mặt cấu trúc, mỗi tội phạm đều hợp thành bởi 4 yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau nhưng có thể phân chia trong tư duy và do vậy có thể cho phép nghiên cứu chúng một cách độc lập với nhau, đó là: 1/ Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó. 2/ Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, và hoàn cảnh phạm tội. 3/ Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội phải có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt một độ tuổi luật định. 4/ Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. 4.2. CẤU THÀNH TỘI PHẠM 4.2.1. Khái niệm cấu thành tội phạm Hiện tượng của tội phạm trộm cắp tài sản M - Dùng chìa khoá mở cửa - lấy vi tính của B. nhà của B X - Lợi dụng sơ hở của A - móc túi của A lấy được 3 triệu đồng. Y - Trong khi C vắng nhà, - lấy được 1 máy điện thoại di Y đã đột nhập vào nhà C động trị giá 5 triệu đồng. Như vậy, hiện tượng trộm cắp tài sản rất phong phú, đa dạng. Mỗi trường hợp phạm tội trộm cắp khác nhau thì sự thể hiện về thực tế là khác nhau như: khác nhau về con người thực hiện tội phạm, khác nhau về thủ đoạn phạm tội, khác nhau thời gian, địa điểm, công cụ phương tiện phạm tội, khác nhau về tài sản bị chiếm đoạt, khác nhau về người bị hại, vv Nhưng bất kỳ một trường hợp phạm tội trộm cắp nào cũng phải thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu có tính chất đặc trưng cho loại tội phạm trộm cắp tài sản đó là: người phạm tội phải từ đủ 16 tuổi trở lên,có năng lực trách nhiệm hình sự, tội phạm xâm phạm tới quan hệ sở hữu, hành vi lén lút, hành vi bí mật chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý và với hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Các dấu hiệu này được quy định trong BLHS tại Điều 138. Các dấu hiệu này được gọi là các dấu hiệu cấu thành tội phạm (CTTP) của tội trộm cắp tài sản. Chúng ta có thể thấy được mối quan hệ giữa tội phạm với CTTP của một loại tội như sau: Tội phạm - hiện tượng Cấu thành tội phạm- Mô hình lý luận (Tồn tại trong thực tế khách quan. Đa dạng, (Là các dấu hiệu đặc trưng cho một loại tội phong phú). được quy định trong BLHS. Chỉ có một CTTP cho một loại tội) - Khách thể: Quan hệ xã hội trực tiếp bị tội - Khách thể: Quan hệ xã hội trực tiếp bị tội phạm xâm hại. phạm xâm hại. - Mặt khách quan: hành vi khách quan, hậu - Mặt khách quan: hành vi khách quan, hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp thủ quả, công cụ, phương tiện, phương pháp thủ 15
  16. đoạn, thời gian địa điểm, hoàn cảnh phạm đoạn, thời gian địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. tội. - Chủ thể: tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự. - Chủ thể: tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự. - Mặt chủ quan: lỗi, động cơ, mục đích phạm - Mặt chủ quan: lỗi động cơ, mực đích phạm tội. tội. Từ những nội dung đã phân tích như trên có thể đưa ra khái niệm CTTP như sau: Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại tội cụ thể được quy định trong bộ luật hình sự. Nội dung của CTTP chính là sự phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu đó là: Quan hệ xã hội bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, lỗi,động cơ, mục đích phạm tội. Các dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi cấu thành tội phạm là: quan hệ xã hội bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan và lỗi. Một CTTP của một loại tội luôn luôn phải chứa đựng đầy đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm. Đó là: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Song các dấu hiệu trong mỗi một CTTP có thể nhiều ít khác nhau. Các đặc điểm của cấu thành tội phạm a. Các dấu hiệu trong CTTP đều do luật định Chỉ Nhà nước mới có quyền quy định một hành vi nào là tội phạm bằng cách là mô tả những dấu hiệu đó và quy định chúng trong BLHS. Cơ quan giải thích và áp dụng pháp luật chỉ được phép giải thích nội dung những dấu hiệu đã được quy định trong BLHS. Việc thêm hoặc bớt bất kỳ một dấu hiệu nào đó của CTTP đều có thể dẫn đến tình trạng định tội sai hoặc bỏ lọt tội hoặc làm oan người vô tội. Các dấu hiệu trong CTTP của một loại tội được quy định trong phần chung của BLHS như: tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi; và chúng được quy định trong phần các tội phạm của BLHS như dấu hiệu: hành vi khách quan, hậu quả của tội phạm, quan hệ xã hội bị xâm hại b. Các dấu hiệu của CTTP mang tính đặc trưng điển hình Một loại tội phạm chỉ được đặc trưng bởi một CTTP và một CTTP chỉ đặc trưng cho một loại tội phạm, đó là dấu hiệu đặc trưng. Dấu hiệu đặc trưng của CTTP còn thể hiện ở chỗ chỉ các dấu hiệu nào nói lên bản chất đặc trưng của loại tội đó để phân biệt tội phạm đó với tội phạm khác mới được ghi nhận trong CTTP. Một dấu hiệu có thể được phản ánh trong nhiều cấu thành tội phạm nhưng giũa các cấu thành tội phạm khác nhau phải có ít nhất một dấu hiệu khác nhau Đó là dấu hiệu điển hình. Ví dụ: Chiếm đoạt tài sản Tội cướp Hành vi dùng vũ Tước bỏ tính mạng con người Giết người Giao cấu Hiếp dâm Dấu hiệu chung Dấu hiệu điển hình Hoặc ví dụ về CTTP trộm cắp với CTTP lừa đảo có rất nhiều dấu hiệu chung giống nhau như: quan hệ sở hữu bị xâm hại, độ tuổi, năng lực TNHS, hành vi chiếm đoạt tài sản, lỗi cố ý trực tiếp. Nhưng giữa 2 CTTP này có 2 dấu hiệu mang tính điển hình cho mỗi CTTP đó là: hành vi lén lút trong tội trộm cắp tài sản và hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như vậy, giữa 2 CTTP khác nhau phải khác nhau ít nhất một dấu hiệu, đó chính là dấu hiệu điển hình. 16
  17. c. Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm có tính bắt buộc Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi nó thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm. Nếu thiếu hoặc thừa bất kỳ một dấu hiệu nào đó thì nó có thể không phải là tội phạm hoặc tội phạm khác. Nghĩa là tất cả dấu hiệu của cấu thành tội phạm đều là điều kiện cần và đủ để định tội danh. Các dấu hiệu của CTTP là các dấu hiệu bắt buộc được quy định ở phần chung hoặc phần các tội phạm cụ thể của BLHS. Chú ý: Một số trường hợp trong đồng phạm hoặc phạm tội chưa đạt hay trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì hành vi của người phạm tội thiếu đi một hoặc một số các dấu hiệu trong một cấu thành tội phạm. Trường hợp này khi định tội phải kết hợp các quy phạm pháp luật phần chung về đồng phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm. Vì mỗi quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể chỉ phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã hoàn thành và đối với trường hợp phạm tội riêng lẻ. 4.2.3. Phân loại cấu thành tội phạm a. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm Dựa vào tiêu chí này có 3 loại CTTP như sau: Cấu thành tội phạm cơ bản là loại cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội, đó là những dấu hiệu mô tả tội phạm cho phép phân biệt giữa tội này với tội khác. Cấu thành tội phạm cơ bản đa số được quy định ở khoản 1 của phần các tội phạm cụ thể của BLHS. Riêng Điều 93 Tội giết người, CTTP cơ bản được quy định ở Khoản 2. Cấu thành tội phạm tăng nặng là loại cấu thành tội phạm ngoài các dấu hiệu định tội còn có thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (được gọi là các dấu hiệu định khung tăng nặng). Các dấu hiệu định khung tăng nặng được quy định tại khoản 2, 3, 4 phần các tội phạm cụ thể (từ Điều 78 đến Điều 344). Trừ Điều 93 tội giết người, các dấu hiệu định khung tăng nặng được quy định tại Khoản 1. Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là loại cấu thành tội phạm ngoài các dấu hiệu định tội còn có thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (được gọi là các dấu hiệu định khung giảm nhẹ). Các dấu hiệu định khung giảm nhẹ được quy định tại khoản 4 của nhóm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông (từ Điều 202 đến Điều 218). Như vậy, có thể phác hoạ 3 loại CTTP này theo công thức sau: Cấu thành tội phạm cơ bản = các dấu hiệu định tội. Cấu thành tội phạm tăng nặng = các dấu hiệu định tội + dấu hiệu định khung tăng nặng. Cấu thành tội phạm giảm nhẹ = dấu hiệu định tội + dấu hiệu định khung giảm nhẹ. Do đó, nội dung được phản ánh trong 3 loại CTTP là các dấu hiệu với 3 loại - dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung tăng nặng và dấu hiệu định khung giảm nhẹ. Về phương diện khoa học luật hình sự thì các dấu hiệu được quy định trong mỗi CTTP trong BLHS cũng chính là các tình tiết. Vì vậy, tương ứng với 3 loại dấu hiệu trong CTTP là 3 loại tình tiết - tình tiết định tội, tình tiết định khung tăng nặng và tình tiết định khung giảm nhẹ. Tình tiết định tội là những tình tiết được phản ánh bởi các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cơ bản dùng để mô tả một loại tội. Chúng được quy định ở cả phần chung và phần các tội phạm cụ thể. Tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ là những tình tiết làm thay đổi một lượng đáng kể tính chất nguy hiểm cho xã hội của một loại tội. Ngoài ra, trong BLHS còn quy định trong phần chung tại Điều 46 và Điều 48 một 17
  18. loại tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là loại tình tiết không được ghi nhận trong các dấu hiệu cấu thành tội phạm (không có ý nghĩa trong việc định tội, định khung hình phạt mà chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt). Chúng ta có thể phân biệt giữa tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ với tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS như sau: Tiêu chí so sánh Tình tiết định khung Tình tiết tăng nặng hoặc tăng nặng, giảm nhẹ giảm nhẹ. - Sự thay đổi về mức độ nguy hiểm - Làm thay đổi một lượng - Làm thay đổi một lượng cho xã hội của tội phạm. đáng kể. không đáng kể. - Ví trí pháp lý - Được quy định trong - Được quy định tại Điều Khoản 2, 3, 4 phần các tội 46, Điều 48 của phần phạm cụ thể chung. - Tính chất pháp lý trong việc xác - Bắt buộc. - Không bắt buộc. định CTTP. b. Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc trong mặt khách quan của CTTP Dựa vào tiêu chí này có 2 loại CTTP: Cấu thành tội phạm hình thức là loại cấu thành tội phạm trong mặt khách quan chỉ có dấu hiệu hành vi khách quan. Cấu thành tội phạm vật chất là loại cấu thành tội phạm có các dấu hiệu trong mặt khách quan là hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Cơ sở khoa học của việc xây dựng cấu thành tội phạm vật chất hoặc cấu thành tội phạm hình thức là: * Nếu chỉ riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm hoặc hoặc hậu quả khó xác định thì xây dựng cấu thành tội phạm hình thức. Ví dụ: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, Tội cướp tài sản. * Nếu hậu quả dễ xác định hoặc bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chỉ thể hiện đầy đủ trong cả dấu hiệu hành vi và hậu quả thì xây dựng cấu thành tội phạm vật chất. Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản, Tội giết người. Ngoài ra, trong BLHS còn có một loại CTTP đặc biệt đó là cấu thành tội phạm cắt xén là loại cấu thành tội phạm mà trong mặt khách quan chỉ có dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng dấu hiệu hành vi không phải là phản ánh chính hành vi phạm tội. Loại CTTP này được quy định tại Điều 79 - Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân Trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm của Điều 79 được phản ảnh bởi một trong hai hành vi: Hành vi thành lập tổ chức, về bản chất thì đây là hành vi chuẩn bị phạm tội. Vì vậy nó được gọi là cấu thành tội phạm cắt xén. Hành vi tham gia vào tổ chức hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Đối với hành vi này đây là cấu thành tội phạm hình thức. 4.3. Ý NGHĨA CỦA CẤU THÀNH TỘI PHẠM 4.3.1. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự Điều 2 BLHS quy định: “Chỉ người nào thực hiện một hành vi phạm tội được quy định trong BLHS mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Cơ sở để xác định một hành vi bị coi là tội phạm khi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là điều kiện cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều kiện cần chỉ có dựa vào các dấu hiệu của cấu thành tội phạm mới xác định được trách nhiệm hình sự của người phạm tội. 18
  19. Điều kiện đủ ngoài những dấu hiệu được phản ánh trong cấu thành tội phạm để xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội không cần xác định bất kỳ một dấu hiệu nào khác. 4.3.1. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của định tội danh Để định tội danh cho một trường hợp phạm tội cụ thể người áp dụng pháp luật phải căn cứ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để đi đến kết luận hành vi đó phạm vào điều nào, khoản nào trong BLHS. Đó cũng chính là kết quả của hoạt động định tội danh. Bài tập tình huống Bảo Thị Hoài P (23 tuổi) và anh Lê Văn L (27 tuổi) cùng quê ở Đồng Tháp, kết hôn với nhau từ năm 1985, đã có một con chung 6 tuổi. Trong thời gian chung sống, L thường xuyên ngược đãi và đánh đập P nên hai người đã có giai đoạn sống ly thân với nhau. Đến năm 1995, cả hai đã hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng và lên Thành phố HCM làm ăn, sinh sống. Ngày 08/02/2002, do hai người có mâu thuẫn nhỏ trong việc giáo dục con, L và P đã lời qua tiếng lại với nhau. Trong lúc nóng giận, L đã doạ đòi giết P và lấy con dao chặt xương để bên cạnh giường rồi đi ngủ. Thấy con dao đặt cạnh chồng, P thấy sợ liền lấy cất đi. Vừa lúc đó, L giật mình tỉnh dậy, giằng con dao trên tay P làm dao rơi trúng cổ L. Sợ L chém mình nên P chụp vội lấy con dao và chém nhiều nhát vào đầu, lưng L. Khi L chết, lo sợ bị phát hiện nên P đã cắt xác L ra nhiều phần cho vào bao bì, sau đó thuê xích lô đến chở xác L và giấu ở ba nơi. Thực hiện xong việc tẩu tán xác L, P bỏ trốn về Đồng Tháp và một tuần sau thì bị bắt. Hãy xác định các tình tiết trong cấu trúc của tội phạm trên. 19
  20. CHƯƠNG 5. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM 5.1. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM 5.1.1 Khái niệm Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến. Việc quy định những quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ là khách thể của tội phạm nó phụ thuộc vào ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội nhưng thường thì nó là các quan hệ xã hội quan trọng trong đời sống xã hội. Khách thể của tội phạm chính là đối tượng bảo vệ của luật hình sự được quy định ở K1, Điều 8 của BLHS. Ý nghĩa của việc xác định khách thể của tội phạm thể hiện ở các phương diện như sau: Là căn cứ để định tội. Là căn cứ quan trọng để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Là căn cứ quan trọng để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. @ Thông qua khách thể của tội phạm có thể thấy được bản chất giai cấp của luật hình sự Việt Nam. 5.1.2. Phân loại khách thể của tội phạm Dựa vào phạm trù cái chung, riêng và cái đặc thù của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lê Nin có thể chia khách thể của tội phạm thành 3 nhóm sau: a. Khách thể chung của tội phạm Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm. Phạm vi khách thể chung (đối tượng bảo vệ) của luật hình sự được quy định ở Khoản 1, Điều 8 BLHS. Ý nghĩa của việc xác định khách thể chung của tội phạm là nhìn vào khách thể chung chúng ta thấy được phạm vi các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ cũng như thấy được chính sách hình sự của Nhà nước ta trong mỗi một giai đoạn cách mạng. b. Khách thể loại của tội phạm Khách thể loại của tội phạm là một nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một nhóm tội phạm. Ý nghĩa của việc xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để hệ thống hoá các quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể trong BLHS thành từng chương. c. Khách thể trực tiếp của tội phạm Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị một loại phạm cụ thể trực tiếp xâm hại. Khi có một tội phạm xảy ra có thể xâm hại tới một hoặc nhiều quan hệ xã hội. Nếu tội phạm đó chỉ xâm hại tới một quan hệ xã hội thì đó chính là khách thể trực tiếp của tội phạm. Nếu tội phạm đó xâm hại tới nhiều quan hệ xã hội thì: @ Tội phạm đó chỉ có một khách thể trực tiếp nếu một trong số các quan hệ xã hội bị xâm hại đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản-chỉ có một khách thể trực tiếp là quan hệ sở hữu. Vì chỉ quan hệ sở hữu bị xâm hại đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Đồng thời, quan hệ sở hữu của tội trộm cắp tài sản cũng là quan hệ xã hội trực tiếp bị tội phạm này xâm hại. Còn các quan hệ khác như tính mạng. sức khoẻ, trật tự an toàn xã hội cũng bị tội trộm cắp tài sản gây thiệt hại, song sự gây thiệt 20
  21. hại này chỉ là gián tiếp. @ Tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp nếu bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chỉ thể hiện đầy đủ trong tổng thể các quan hệ xã hội bị xâm hại. Ví dụ: Tội cướp tài sản, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản-có 2 khách thể trực tiếp là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Vì bản chất nguy hiểm cho xã hội của mỗi tội phạm này chỉ thể hiện đầy đủ trong tổng thể 2 quan hệ xã hội bị xâm hại. Đồng thời, quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân của tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cũng là quan hệ xã hội trực tiếp bị tội phạm này xâm hại. Còn các quan hệ khác như tính mạng. sức khoẻ của thân nhân con tin, trật tự an toàn xã hội cũng bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại. Song sự gây thiệt hại này chỉ là gián tiếp. 5.2. ĐỐI TƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI PHẠM 5.2.1. Khái niệm đối tượng tác động của tội phạm Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tác động lên nó, người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Trong nội tại của khái niệm trên về đối tượng tác động của tội phạm cho thấy sự thể hiện ở 2 mặt: Thứ nhất: Về mặt nội dung thì đối tượng tác động của tội phạm là cái thông qua sự tác động lên nó tội phạm trực tiếp gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Vấn đề này có thể được đánh giá qua sự phân tích các ví dụ sau: Ví dụ 1: Đối với tội phạm giết người. A dùng dao đâm chết B. Trong trường hợp phạm tội này, tội phạm xâm hại quan hệ nhân thân của B và chỉ có thể thông qua sự tác động lên cơ thể của B mới có thể gây thiệt hại đến tính mạng của B. Do đó, đối tượng tác động của tội phạm là con người B - B là chủ thể của quan hệ nhân thân. Ví dụ 2: Đối với tội trộm cắp tài sản A trộm ti vi của B. Tội phạm xâm hại đến quan hệ sở hữu của B. Trong trường hợp này, chỉ có thể thông qua sự tác động vào chiếc ti vi mới có thể gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu của B. Do đó, đối tượng tác động của tội phạm là chiếc ti vi của B - là đối tượng vật chất là khách thể của quan hệ xã hội. Ví dụ 3. Đối với tội đưa hối lộ A là cán bộ kiểm lâm đã nhận 10 triệu đồng của B là lâm tặc đang vận chuyển gỗ lậu. Trong trường hợp này tội phạm xâm hại đến quan hệ về sự hoạt động đúng đắn của ngành kiểm lâm và chỉ có thể thông qua sự tác động làm thay đổi tới quyền và nghĩa vụ của cán bộ kiểm lâm mới có thể gây thiệt hại cho sự hoạt động đúng đắn của ngành kiểm lâm. Do đó, đối tượng tác động của tội phạm là quyền và nghĩa vụ của A - là nội dung của quan hệ xã hội. Thứ hai: Xét về mặt cấu trúc đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm. Như vậy, khách thể của tội phạm phải được hợp thành bởi nhiều bộ phận trong đó có một bộ phận là về đối tượng tác động của tội phạm. Khách thể của tội phạm chính là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, các bộ phận hợp thành của khách thể của tội phạm cũng chính là các bộ phận hợp thành của các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Các bộ phận hợp thành của quan hệ xã hội đó là: Con người chủ thể của quan hệ xã hội, các đối tượng vật chất là lợi ích mà các chủ thể hướng tới là khách thể của quan hệ xã hội và quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là nội dung của quan hệ xã hội. Đối tượng tác động của tội phạm có thể là một trong ba bộ phận trên của khách thể của tội phạm. * Nhận xét về đối tượng tác động của tội phạm: @ Để gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội can phạm phải tác động vào đối tượng tác 21
  22. động. Cơ sở để xác định mức độ thiệt hại mà tội phạm gây ra phải dựa vào mức độ làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động. @ Các quan hệ xã hội khách thể của tội phạm trong mọi trường hợp luôn bị gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại nếu có tội phạm xảy ra. @ Đối tượng tác động của tội phạm có thể ở tình trạng tốt hơn tình trạng ban đầu (nếu đối tượng tác động của tội phạm là đối tượng vật chất). 5.2.2. Các loại đối tượng tác động của tội phạm Con người với tư cách là chủ thể của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác động của tội phạm.Ví dụ: tội giết người. Các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: các tội xâm phạm sở hữu. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là nội dung của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: các tội xâm phạm hoạt động của cơ quan tư pháp, các tội phạm tham nhũng. 22
  23. CHƯƠNG 6. MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM 6.1. KHÁI NIỆM MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM 6.1.1. Khái niệm Mặt khách quan (MKQ) của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giũa hành vi và hậu quả, công cụ phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội. Những dấu hiệu trong mặt khách quan thường được mô tả tỉ mỉ trong các điều khoản phần các tội phạm cụ thể. Một phần, vì các dấu hiệu trong mặt khách quan biểu hiện ra bên ngoài dễ nhận biết hơn các yếu tố khác. Mặt khác, giữa các tội phạm khác nhau chúng khác nhau chủ yếu ở các dấu hiệu trong MKQ. 6.1.2. ý nghĩa của các dấu hiệu trong MKQ của tội phạm Hành vi khách quan và một số dấu hiệu khác trong MKQ của tội phạm như hậu quả, phương pháp, thủ đoạn phạm tội được phản ảnh là dấu hiệu bắt buộc. Việc nghiên cứu, xác định chúng có ý nghĩa về mặt định tội. Trong cấu thành tội phạm tăng nặng của một số tội, một số các biểu hiện trong MKQ như hậu quả, phương pháp, thủ đoạn, công cụ được phản ảnh là dấu hiệu định khung. Việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Một số tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một số biểu hiện trong MKQ của tội phạm. Việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. 6.2. HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM 6.2.1. Khái niệm Quan điểm truyền thống về khái niệm hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện trong các giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung đó là Hành vi khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt những mục đích có chủ định và mong muốn. Theo khái niệm này thì hành vi khách quan của tội phạm được hiểu là hành vi của con người nói chung bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp. Chỉ có xuất phát từ việc nghiên cứu, chỉ ra các đặc điểm của hành vi khách quan của tội phạm mới có thể đưa ra khái niệm này thể hiện tính khoa học. Khi so sánh hành vi của con người là hành vi hợp pháp với hành vi vi phạm pháp luật là hành vi phạm tội với các hành vi vi phạm pháp luật khác có thể chỉ ra hành vi khách quan của tội phạm có các đặc điểm sau: Hành vi khách quan của tội phạm có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Hành vi khách quan của tội phạm có tính trái pháp luật hình sự (được quy định trong BLHS phần các tội phạm cụ thể). Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi có thức và có ý chí tức là có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi, và có khả năng kiềm chế không thực hiện hành phạm tội. Hay nói cách khác, hành vi khách quan của tội phạm phải được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển. Một người thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị cưỡng bức về tinh thần - bị đe doạ (bị khống chế về tư tưởng) có thể phải chịu trách nhiệm hình sự có thể không. Trường hợp thứ nhất nếu người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại cho xã hội khi bị khống chế toàn bộ về tư tưởng thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: A giơ súng dí vào đầu B và ra điều kiện phải ném lựu đạn vào nhà M, nếu không 23
  24. thì A bắn chết B. Sự đe doạ này đặt trong hoàn cảnh cụ thể đó sẽ là hiện thực nếu B không tuân thủ và B làm theo sự khống chế của A gây hậu quả chết người hoặc gây thiệt hại về tài sản thì B không phải chịu TNHS. Trường hợp này, hành vi của B là hành vi có ý thức nhưng không có ý chí. Trường hợp thứ hai nếu người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại cho xã hội khi bị khống chế một phần về tư tưởng thì được miễn trách nhiệm hình sự một phần. Mức độ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ bị đe doạ. Ví dụ: Avà B là đối tượng sống lang thang ở bến xe (B không còn cha mẹ và không nơi nương tựa). Vào lúc 8 giờ ngày 22/03/2005, A khống chế B cướp giật hành lý của hành khách trên xe đưa cho A, nếu không A sẽ trục xuất B ra khỏi băng nhóm. Nếu B thực hiện theo sự khống chế của A thì B vẫn phải chịu TNHS về tội cướp giật tài sản với tình tiết giảm nhẹ phạm tội do bị người khác đe doạ, cưỡng bức. Để xác định tính chất mãnh liệt của hành vi đe doạ phải đánh giá một cách khách quan, toàn diện các tình tiết như: thời gian, hoàn cảnh địa điểm, công cụ, thái độ, cường độ của sự đe doạ. Một người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp bị cưỡng bức thân thể không phải chịu trách nhiệm hình sự vì thực tế họ chỉ là công cụ trong tay kẻ cưỡng bức. Việc thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội hoàn toàn do sức mạnh bạo lực bên ngoài. Ví dụ: B đang đứng cạnh A xem A chặt chuối. Trong lúc A đang giơ dao hướng về phía buồng chuối để chặt thì bất ngờ M chạy tới bắt tay A chém B. Trường hợp này, A gây thương tích cho B trong trường hợp bị cưỡng bức về thể chất, A không phải chịu TNHS về hậu quả thương tích của B. Có thể phân biệt sự khác nhau giữa cưỡng bức về thân thể và cưỡng bức về tinh thần như sau: Cưỡng bức thân thể Cưỡng bức tinh thần - Chỉ có sự tác động lên thân thể. - Có thể tác động lên thân thể có thể không. Nếu tác động lên thân thể qua đó tác động đến tư tưởng người bị cưỡng bức. - Người bị cưỡng bức không có khả năng - Người bị cưỡng bức có thể lựa chọn ít nhất hai lựa chọn bất kỳ một xử sự nào. xử sự. Từ những nội dung đã phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về hành vi khách quan của tội phạm như sau: Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi được quy định trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội và là hành vi có ý thức kiểm soát và có ý chí, 6.2.2. Các hình thức của hành vi khách quan của tội phạm a. Hành động phạm tội Hành động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội để làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật hình sự cấm. Đối với tội phạm thì hành động phạm tội thường thể hiện ở các dạng như sau: @ Người phạm tội có thể tác động trực tiếp vào đối tượng tác động. Ví dụ: A phạm tội giết người bằng cách dùng tay bóp cổ B cho đến khi B chết @ Có thể thông qua công cụ, phương tiện. Ví dụ: A phạm tội giết người bằng cách dùng dao chặt nhiều nhát vào người B cho đến khi B chết. @ Có thể bằng lời nói. Ví dụ: A làm nhục B bằng cách chửi rủa, miệt thị B trước đám đông nhằm hạ thấp danh dự của B 24
  25. @ Có thể sử dụng trẻ em hoặc người mắc bệnh tâm thần. Ví dụ: A thuê B 12 tuổi vận chuyển cho A 1 kg hêroin qua cửa khẩu Bờ Y b. Không hành động phạm tội Không hành động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội để làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật hình sự yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Không hành động phạm tội phải thoả mãn các điều kiện như sau: Chủ thể phải có nghĩa vụ hành động. Trong hoàn cảnh cụ thể chủ thể có đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ này. Nghĩa vụ pháp lý phát sinh trong trường hợp sau: Do luật định: Phải cứu giúp người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, hoặc phải tố giác tội phạm. - Do quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: Như quyết định nhập ngũ. Do nghề nghiệp. Do hợp đồng. Do xử sự trước đó của chủ thể. Trong BLHS đa số các tội phạm được thực hiện bằng hành động, có một số tội phạm chỉ thực hiện bằng không hành động (như Tội trốn thuế, Tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng), có một số tội vừa thực hiện bằng hành động vừa bằng không hành động (như Tội giết người, Tội huỷ hoại tài sản). Các dạng cấu trúc đặc biệt của hành vi khách quan a. Tội ghép Tội ghép là loại tội phạm mà hành vi khách quan được hình thành bởi nhiều loại hành vi nguy hiểm cho xã hội, xảy ra cùng thời gian, xâm hại nhiều khách thể. Với khái niệm trên tội ghép có 3 đặc điểm sau: Có ít nhất 2 loại hành vi khác nhau. Các hành vi này phải xảy ra cùng thời gian. Các hành vi đó xâm hại ít nhất 2 khách thể. Phân tích các tội phạm được quy định trong BLHS thì tội cướp tài sản (Điều 133) thoả mãn đầy đủ 3 điều kiện trên. Do đó, tội cướp tài sản là tội ghép. b. Tội liên tục Tội liên tục là loại tội phạm mà hành vi khách quan bao gồm nhiều hành vi cùng loại xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian cùng xâm hại một khách thể. Với khái niệm trên tội liên tục có 3 đặc điểm sau: Có ít nhất 2 hành vi cùng loại. Các hành vi đó xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian. Các hành vi đó phạm xâm hại một khách thể. Đối chiếu với các đặc điểm trên, tội liên tục được quy định trong BLHS đó là Tội bức tử, tội đầu cơ, Tội hành hạ người khác. Về phương diện khoa học luật hình sự ngoài tội liên tục còn có phạm tội nhiều lần. Giữa 2 thuật ngữ này có rất nhiều điểm giống nhau đó là chúng đều thực hiện ít nhất 2 hành vi cùng loại, các hành vi đó xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, các hành vi đó phạm xâm hại một khách thể. Có thể phân biệt chúng dựa vào các tiêu chí sau: 25
  26. Tội liên tục Phạm tội nhiều lần Đặc điểm - Có hành vi CTTP, có hành vi không CTTP. - Mỗi hành vi đều CTTP. Tính chất - Là tình tiết định khung tăng nặng - Là đặc điểm của hành vi khách quan được hoặc tình tiết tăng nặng. quy định trong CTTP cơ bản- là tình tiết định Phạm vi tội Chỉ tồn tại trong một số tội danh Tồn tại trong tất cả mọi tội phạm c. Tội kéo dài Là loại tội phạm mà hành vi khách quan có khả năng diễn ra không gián đoạn trong một khoảng thời gian dài. Ví dụ: Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, Tội tàng trữ hàng cấm Đặc điểm của tội kéo dài là chúng chỉ chấm dứt khi tội phạm bị phát hiện hoặc khi người phạm tội tự thú 6.3. HẬU QUẢ NGUY HIỂM CHO XÃ HỘI CỦA TỘI PHẠM 6.3.1. Khái niệm Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Về nguyên tắc, chỉ những hậu quả mang tính xác định mới được quy định trong CTTP. Song mức độ thiệt hại gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm luôn mang tính trừu tượng. Do đó, để xác định mức độ hậu quả của tội phạm phải thông qua một yếu tố khác mang tính xác định Quá trình diễn biến của bất kỳ một tội phạm nào cũng đều được thể hiện như sau: Công cụ Gây thiệt hại cho Hành vi phạm tội Đối tượng tác động khách thể Cụ thể Trừu tượng Dựa vào sự đánh giá quá trình diễn biến trên cho thấy, để xác định mức độ hậu quả của tội phạm chúng ta phải xác định mức độ làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Bởi vì: Đối tượng tác động của tội phạm mang tính xác định còn quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm bị xâm hại mang tính trừu tượng. Chỉ có thể thông qua sự tác động lên đối tượng tác động của tội phạm mới có thể gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm ở 2 thời điểm trước và sau khi tội phạm xảy ra luôn có sự thay đổi về trạng thái tự nhiên hoặc trạng thái pháp lý Ví dụ: A dùng dao đâm chết B. Hậu quả của tội phạm là B chết, chính là sự phản ánh về sự thay đổi trạng thái tự nhiên của B là đối tượng tác động của tội phạm giết người từ người còn sống thành xác chết. Hậu quả của tội phạm được biểu hiện ở các dạng như: - Thiệt hại vật chất: Các tội xâm phạm sở hữu. 26
  27. Thiệt hại về thể chất: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người. Thiệt hại tinh thần: Các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người. Ngoài ra, còn có một dạng hậu quả đặc biệt đó là làm biến dạng xử sự của con người (như tội bức tử). Hành vi Đánh đập (của người phạm tội). Ví dụ: Tội bức tử Hậu Hành vi tự sát (của nạn nhân). Ý nghĩa của việc xác định hậu quả của tội phạm thể hiện ở các phương diện sau: @ Đối với CTTP vật chất, việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa trong việc định tội. Đối với CTTP tăng nặng phản ảnh dấu hiệu hậu quả của tội phạm việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Dấu hiệu hậu quả được phản ảnh trong một số tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. 6.3.2. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả của tội phạm). Dựa vào cơ sở lý luận của cặp phạm trù nhân quả trong phép biện chứng có thể xác định được các điều kiện của mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm như sau: Hành vi phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Trong bản thân hành vi phải chứa đựng khả năng thực tế, mầm mống nội tại, nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả. Nếu hậu quả xảy ra phải là hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi. Một hậu quả của tội phạm có thể do 1 hoặc nhiều nguyên nhân (một hoặc nhiều hành vi) trực tiếp gây ra. Do đó, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm được chia làm 2 dạng: 1/ Mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp: Là mối quan hệ nhân quả chỉ có một hành vi trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả. Ví dụ: A dùng dao đâm B, B bị thương với tỷ lệ thương tật là 20%. 2/ Mối quan hệ nhân quả kép trực tiếp: Là quan mối hệ nhân quả có nhiều hành vi trái pháp luật làm nguyên nhân trong đó mỗi hành vi trái pháp luật đều đã chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả. Ví dụ: A và B dùng gậy gây thương tích cho M (tỷ lệ thương tích 30%). 6.4. NHŨNG BIỂU HIỆN KHÁC TRONG MKQ CỦA TỘI PHẠM Công cụ, phương tiện phạm tội: Là những đối tượng vật chất được chủ thể sử dụng để tác động vào đối tượng tác động của tội phạm trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Thủ đoạn phạm tội: Là cách thức thực hiện tội phạm một cách tinh vi khôn khéo, có sự tính toán. Trong đa số các tội danh trong BLHS, công cụ, phương tiện phạm tội và phương pháp, thủ đoạn phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng. Thủ đoạn phạm tội là tình tiết định tội của tội ngược đãi, hành hạ cha mẹ vợ chồng con cái. Thời gian phạm tội: Thời gian phạm tội là căn cứ xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng hoặc tình tiết tăng nặng. Địa điểm phạm tội: Là tình tiết định tội của một số tội như: Tội trốn khỏi nơi giam, tội hoạt động phỉ. 27
  28. Hoàn cảnh phạm tội: Là tình tiết định tội của tội đầu cơ như phạm tội trong hoàn cảnh thiên tai, chiến tranh, và là tình tiết định khung tăng nặng của một số tội khác. Bài tập tình huống H là dân quân được xã đội giao cho một khẩu súng K54 để tuần tra canh gác vào ban đêm. Hàng ngày M là người yêu của H thường sang nhà H chơi, H đã giới thiệu cách tháo lắp đạn và cách sử dụng súng cho M. Đến ngày 1/2/2001, sau khi đi tuần về H đã sơ ý không tháo đạn ra khỏi súng. Ngày hôm sau M sang chơi, H đi vắng. Trong lúc chờ đợi M đã lấy súng ra với ý định là chờ H về sẽ dùng súng để thúc vào lưng H. Khi nghe tiếng xe đạp lách cách ngoài cổng M đã chìa thẳng súng vào hướng đó để bóp cò. Đạn nổ, làm K (em trái của H) bị chết. Hãy dựa vào cơ sở lý luận của mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm phân tích ví dụ trên? 28
  29. CHƯƠNG 7. CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM 7.1. KHÁI NIỆM CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM Để phù hợp với nguyên tắc có lỗi, nguyên tắc trách nhiệm cá nhân của luật hình sự cũng như phù hợp với mục đích giáo dục cải tạo của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện nay chỉ có thể là con người cụ thể. Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự (NLTNHS), đạt một độ tuổi nhất định. Theo khái niệm này thì chủ thể của tội phạm phải thoả mãn 2 điều kiện đó là: Có năng lực trách nhiệm hình sự và phải đạt một độ tuổi theo luật định Đối với một số tội phạm, chủ thể của tội phạm ngoài các dấu hiệu trên còn đòi hỏi phải có thêm các dấu hiệu khác (dấu hiệu đặc biệt - gọi là chủ thể đặc biệt) Ví dụ: Điều tra viên, Kiểm sát viên của Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, hoặc người có chức vụ quyền hạn của Tội tham ô tài sản. 7.2. NĂNG LỰC TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ (NLTNHS) 7.2.1. Khái niệm NLTNHS là khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khả năng điều khiển được hành vi ấy (tức là khả năng có thể kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và có khả năng lựa chọn một xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội). Một người được coi là có NLTNHS phải thoả mãn đầy đủ 2 điều kiện sau: - Một người đạt tới một độ tuổi nhất định thì có khả năng nhận thức đầy đủ về tính chất pháp lý của hành vi của mình và có đầy đủ khả năng điều khiển được hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội. - Một người ở độ tuổi trên chỉ coi là có NLTNHS nếu không mắc những bệnh làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình. Trong 2 điều kiện trên thì Bộ luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định như thế nào là người có NLTNHS mà chỉ quy định độ tuổi phải chịu TNHS (Điều 12) và các trường hợp không có NLTNHS (Điều 13). Bằng phương pháp loại trừ này Bộ luật hình sự Việt Nam mặc nhiên thừa nhận người đã đạt độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là người có NLTNHS. Do đó, trong thực tế áp dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không phải xác định từng trường hợp người phạm tội có NLTNHS hay không mà chỉ phái xác định độ tuổi. Cá biệt nếu có sự nghi ngờ mới cần phải kiểm tra, trong trường hợp đó có NLTNHS hay không. Như vậy: Người có NLTNHS theo luật hình sự Việt Nam là người đã đạt độ tuổi phải chịu TNHS và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có NLTNHS. 7.2.2. Tình trạng không có NLTNHS Khoản 1, Điều 13 BLHS quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu TNHS. Đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”. Như vậy một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ở trong trường hợp trên là người không có NLTNHS. Theo quy định của điều luật thì một người ở trong tình trạng không có NLTNHS khi thoả mãn đầy đủ 3 điều kiện sau: Điều kiện về y học: là người mắc bệnh tâm thần (tâm thần kinh niên, động kinh, loạn thần kinh - rối loạn tâm thần nhất thời, si ngốc) hoặc các bệnh khác như: sốt rét, viêm màng não, bệnh mộng du. Điều kiện về tâm lý: các bệnh trên phải làm cho người đó mất hoàn toàn khả năng nhận 29
  30. thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. - Tình trạng bệnh trên phải xuất hiện tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong 3 điều kiện trên thì điều kiện 1 và điều kiện 2 phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. Trong đó, điều kiện 1 là nguyên nhân, điều kiện 2 là kết quả. * Chú ý: Người ở trong tình trạng NLTNHS bị hạn chế (bị mất một phần khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi) thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, chỉ được miễn một phần TNHS. Mức độ TNHS phụ thuộc vào mức độ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi còn lại của người đó tại thời điểm thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội Trên thực tế xuất hiện một số trường hợp phát bệnh rối loạn nhân cách biểu hiện là khi gặp con gái trong người nóng ran lên và đã dùng dao để đâm nạn nhân. Đây có phải là trường hợp người ở trong tình trạng không có NLTNHS không? 7.2.3. Năng lực trách nhiệm hình sự và tình trạng say Điều 14 BLHS quy định: “người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”. Tình trạng say có thể phân hoá ở 2 mức độ: Mức 1: Tình trạng say làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Mức 2: Tình trạng say làm hạn chế một phần khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Theo quy định tại Điều 14 thì trong cả hai trường hợp trên, người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bình thường. Cơ sở khoa học của việc quy định người phạm tội trong tình trạng say vẫn phải chịu TNHS đó là: Thứ nhất: Trước khi say họ có NLTNHS bình thường, việc họ bị mất hoặc hạn chế NLTNHS do bị say hoàn toàn do người phạm tội, nghĩa là họ đã có lỗi với tình trạng say thì đồng nghĩa với việc họ có lỗi với việc thực hiện hành vi phạm tội. Mặc dù tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội họ bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Do vậy, trách nhiệm hình sự đặt ra đối với họ là ở thời điểm chưa say. Thứ hai: Về mặt xã hội, việc bắt người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng say phải chịu trách nhiệm hình sự bình thường biểu hiện thái độ của xã hội đối với tệ nạn say- là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực khác trong đời sống xã hội trong đó có tội phạm. Phạm tội trong tình trạng say không được coi là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Nếu uống rượu để “hăng máu” để phạm tội thì được coi tình tiết tăng nặng “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng”. (Báo cáo tổng kết năm 1995 trang 142/VB96). Một số trường hợp phạm tội trong tình trạng say được coi là tình tiết định khung tăng nặng. Ví dụ Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, sắt, thuỷ. (Điều 202, Điều 208, Điều 212), (Tài liệu tập huấn BLHS năm 1999 - trang 61). 7.3. TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ Các nước khác nhau quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khác nhau, thậm chí ở cùng một nước nhưng ở những thời điểm khác nhau cũng có thể quy định độ tuổi phải chịu TNHS không giống nhau. Luật Gia Long quy định độ tuổi bắt đầu phải chịu TNHS từ 7 tuổi cho đến 90 tuổi. Luật hình sự Mỹ một số bang quy định độ tuổi tối thiểu phải chịu TNHS là 8 tuổi, Nhật 15 tuổi, Pháp 12 tuổi. Luật hình sự Việt Nam căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm một số nước, cũng như dựa vào kết quả công trình nghiên cứu khảo sát 30
  31. về tâm lý và căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước ta, điều 12 BLHS quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi trở nên phải chịu TNHS về mọi tội phạm”. Như vậy, luật hình sự Việt Nam không quy định độ tuổi tối đa phải chịu TNHS. Tuy nhiên nếu người trên 70 tuổi phạm tội được coi là tình tiết giảm nhẹ. Độ tuổi tối thiểu phải chịu TNHS là 14 tuổi tròn. Nguyên tắc xác định tuổi tròn tính đến ngày, giờ. Tức là phải xác định được ngày tháng năm phạm tội trừ đi ngày tháng năm sinh thì sẽ được kết quả là tuổi tròn Như vậy, nếu người phạm tội là trẻ em hoặc người chưa thành niên trong một số trường hợp không xác định được ngày tháng năm sinh thì sẽ giải quyết bằng cách áp dụng theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/NQ-HĐTPTANDTC, ngày 05/01/86 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, và Công văn số 81/2002/TANDTC, ngày 10/6/02 của Toà án nhân dân tối cao. Theo 2 văn bản này thì tuổi tròn của bị can, bị cáo sẽ lấy ngày cuối cùng của tháng, của quý nếu đã xác định được tháng sinh, quý sinh và lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của năm sinh nếu chỉ xác định được năm sinh. Đây là cách tính tuổi theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo. 7.4. CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM Như nội dung đã phân tích ở trên thì chủ thể của tội phạm phải thoả mãn 2 điều kiện đó là độ tuổi chịu TNHS và ở trong tình trạng có NLTNHS. Chủ thể đặc biệt của tội phạm ngoài 2 điều kiện về độ tuổi và NLTNHS còn phải thoả mãn các dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Các dấu hiệu chủ thể đặc biệt là các đặc điểm phản ánh nhân thân người phạm tội như: Đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn. Ví dụ Tội tham ô tài sản. Đặc điểm liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc. Ví dụ Tội truy cứu TNHS người không có tội. Đặc điểm về tuổi. Ví dụ Tội giao cấu với trẻ em. Đặc điểm về quan hệ họ hàng. Ví dụ Tội loạn luân. Các đặc điểm trên là dấu hiệu bắt buộc được phản ánh trong một số CTTP. Vì vậy, việc xác định nó có ý nghĩa trong việc định tội. Trong đồng phạm, vấn đề chủ thể đặc biệt chỉ đòi hỏi ở người thực hành phải thoả mãn các điều kiện về chủ thể đặc biệt, còn với những người đồng phạm khác có thể thoả mãn, có thể không thoả mãn dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Ví dụ đối với tội tham ô tài sản thì người không có chức vụ quyền hạn hoặc người không có trách nhiệm trực tiếp quản lý tài sản cũng có thể trở thành đồng phạm với vai trò là người tổ chức hoặc người giúp sức của tội danh này. 7.5. VẤN ĐỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ Chủ thể của tội phạm và nhân thân người phạm tội tuy không đồng nhất với nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chủ thể của tội phạm là khái niệm dùng để chỉ con người cụ thể khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có NLTNHS và đạt độ tuổi nhất định (dấu hiệu của chủ thể). Còn nhân thân người phạm tội là nhân cách xã hội là đặc điểm của chủ thể bao trùm lên khái niệm chủ thể của tội phạm. Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội để phân biệt với những người khác, chúng có ảnh hưởng nhất định đến quá trình thực hiện tội phạm. Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa trong các phương diện sau: Về phương diện định tội: Một số tội phạm đòi hỏi chủ thể đặc biệt thì hầu hết các dấu hiệu chủ thể đặc biệt phản ánh đặc điểm nhân thân người phạm tội nhân thân người phạm tội. Về phương diện định khung hình phạt và quyết định hình phạt: Nhiều tình tiết định khung 31
  32. và tình tiết tăng nặng giảm nhẹ là các tình tiết được phản ánh bởi các dấu hiệu thuộc về nhân thân người phạm tội. Về phương diện thực tiễn: Việc xác định nhân thân người phạm tội giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng rõ một số các tình tiết liên quan đến vụ án từ đó giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của họ. 32
  33. CHƯƠNG 8. MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM 8.1. KHÁI NIỆM MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM Mặt chủ quan (MCQ) của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Trong mặt chủ quan của tội phạm, dấu hiệu lỗi luôn được phản ánh trong mọi CTTP, dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội được phản ánh là dấu hiệu định tội của một số tội, nhưng đa số chúng được phản ánh là tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng nặng TNHS. 8.2. LỖI 8.2.1. Khái niệm lỗi Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Biểu hiện về tâm lý của người phạm tội là nội dung dấu hiệu lỗi. Cấu trúc trong quan hệ tâm lý của con người nói chung và của người phạm tội nói riêng được hợp thành bởi 2 bộ phận là lý trí và ý chí đối với các biểu hiện của mặt khách quan là hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm. Cụ thể: - Lý trí: Là khả năng nhận thức tính chất nguy hiểm của hành vi và khả năng nhận thức hậu quả của hành vi đó. - Ý trí: Là khả năng điều khiển hành vi và khả năng điều khiển hậu quả. Dựa vào cấu trúc trong yếu tố lỗi, hình thức lỗi được chia làm 2 loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý. 8.2.2. Lỗi với vấn đề tự do (xử sự) và trách nhiệm hình sự Thuyết cổ điển cho rằng con người phạm tội là do nguyên nhân xã hội. Muốn loại trừ tội phạm thì phải cải tạo chính xã hội đó. Thuyết thực luận cho rằng con người phạm tội là do nguyên nhân chủ quan của người đó. Muốn loại trừ tội phạm thì phải cải tạo chính con người đó. Quan điểm Mác - Lênin cho rằng con người phạm tội là do nguyên nhân khách quan chi phối (đó là điều kiện kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội). Nhưng các nguyên nhân này tác động đến con người không phải một cách máy móc mà thông qua sự suy xét, sự nhận thức về lý trí và sự quyết định về ý trí của họ (đó là nội dung phản ánh dấu hiệu lỗi). Trong trường hợp này đứng trước các nguyên nhân khách quan đó họ đã hoàn toàn tự do lựa chọn một biện pháp xử sự đó là thực hiện hành vi phạm tội nên họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện. Ví dụ: Điều kiện xã hội lương thấp hoặc thất nghiệp dẫn đến con người có thể lựa chọn một trong các biện pháp xử sự: 1/ Trộm cắp. 2/ Kiếm việc làm thêm. 3/ Hạn chế khoản chi. 4/ Tăng cường huy động nguồn viện trợ vv Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình là do họ hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn các biện pháp xử sự. Nếu họ lựa chọn biện pháp xử sự bị pháp luật hình sự cấm là trộm cắp tài sản của người khác thì họ phải chịu TNHS về hành vi của mình. Bởi vì, trong hoàn cảnh này họ họ hoàn toàn có tự do ý chí. Tự do ý trí: Là khả năng tâm lý của một người có thể tự mình lựa chọn và thực hiện biện pháp xử sự trong những điều kiện xã hội nhất định. Tự do là cơ sở của TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội. 33
  34. Nếu hành vi của con người hoàn toàn mất tự do nghĩa là họ không có lỗi và họ không phải chịu TNHS. Ví dụ trường hợp bị cưỡng bức về tinh thần. Nếu người thực hiện hành vi bị mất một phần tự do thì được miễn một phần TNHS. Mức độ TNHS phụ thuộc mức độ tự do ý chí. 8.2.3. Lỗi cố ý trực tiếp Lỗi cố ý trực tiếp được quy định tại Khoản 1, Điều 9 BLHS “Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra”. Với khái niệm trên cho thấy lỗi cố ý trực tiếp được thể hiện như sau: Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả tất yếu xẩy ra hoặc có thể xảy ra. Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra. Trong CTTP của đa số các tội phạm trong BLHS được quy định bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Ví dụ: các tội xâm phạm sở hữu, các tội phạm chức vụ. Đối với những tội phạm có CTTP hình thức mức độ hình dung về hậu quả không cần phải rõ ràng, cụ thể vì hầu hết loại CTTP này hậu quả khó xác định. Trên thực tế có một số tội hậu quả dễ xác định đòi hỏi người phạm tội phải hình dung về hậu quả rõ ràng. Ví dụ Tội cướp tài sản. 8.2.4. Lỗi cố ý gián tiếp Lỗi cố ý gián tiếp được quy định tại Khoản 2, Điều 9 BLHS: “Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra”. Với khái niệm trên cho thấy lỗi cố ý gián tiếp được thể hiện như sau: - Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra. - Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng bỏ mặc không quan tâm đến hậu quả, hậu quả xảy ra như thế nào cũng chấp nhận. Chỉ có một vài tội được quy định trong BLHS với lỗi cố ý gián tiếp. Ví dụ: Tội bức tử, tội giết người, tội cố ý gây thương tích. 8.2.5. Lỗi vô ý vì quá tự tin. Lỗi vô ý vì quá tự tin được quy định tại Khoản 1, Điều 10 BLHS: “Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi của người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc nếu xảy ra thì có thể ngăn ngừa được”. Với khái niệm trên cho thấy lỗi vô ý vì quá tự tin được thể hiện như sau: - Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra. - Về ý chí: Người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Cơ sở để người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xảy ra trong lỗi vô ý vì quá tự tin là người phạm tội chủ quan tin vào kinh nghiệm, thói quen, tin vào khả năng chuyên nghiệp vụ của mình. Nhưng hậu quả thiệt hại vẫn xảy ra trên thực tế. Nếu niềm tin của người phạm tội phù hợp với thực tế khách quan nghĩa là hậu quả không xảy ra trên thực tế thì họ không phải chịu TNHS. Chính vì vậy, hầu hết các tội thực hiện với lỗi vô ý là các tội có CTTP vật chất. 8.2.6. Lỗi vô ý do cẩu thả Lỗi vô ý do cẩu thả được quy định tại Khoản 2, Điều 10 BLHS: “Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội tuy không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó”. 34
  35. Với khái niệm trên cho thấy lỗi vô ý do cẩu thả được thể hiện như sau: - Về lý trí: Người phạm tội trong lỗi vô ý do cẩu thả do cẩu thả nên không thấy trước hậu quả của hành vi nhưng trong điều kiện phải thấy trước và có thể thấy được hậu quả đó. Như vậy, việc người phạm tội không thấy trước hậu quả của hành vi là do nguyên nhân chủ quan từ phía người phạm tội. - Về ý chí: Trong lỗi vô ý do cẩu thả người phạm tội không có khả năng điều khiển được hành vi của mình (tức là người phạm tội không có ý chí). Vì về lý trí người phạm tội không nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và cũng không nhận thức được hậu quả của hành vi đó. Mà giữa lý trí và ý trí trong quan hệ tâm lý của người phạm tội là 2 yếu tố có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, lý trí có trước và làm tiền đề, ý chí phụ thuộc vào ý chí. Nếu khi hành động con người không có lý trí (không có khả năng nhận thức) thì không bao giờ có ý chí (không thể có khả năng điều khiển hành vi và hậu quả được). Muốn xác định người phạm tội có thể nhận thức được hoặc buộc phải nhận thức được hậu quả đó hay không? phải đặt trong từng hoàn cảnh cụ thể mới có thể đánh giá và kết luận được. Chúng ta có thể đưa ra một ví dụ thể hiện mối liên quan và sự khác nhau của 4 hình thức lỗi này như sau: A vứt đồ vật qua cửa sổ từ tầng 5 xuống đất trúng đầu B, làm B chết. Trong tình huống này sẽ thuộc vào 4 trường hợp sau: 1/ Sẽ là lỗi cố ý trực tiếp, nếu trước khi ném đồ vật A có quan sát thấy B đang đứng dưới đất, A nhằm B ném, trúng B. 2/ Sẽ là lỗi cố ý gián tiếp, nếu trước khi ném đồ vật A có quan sát thấy B đang đứng dưới đất, A vẫn cứ ném, A không nhằm vào B nhưng không may lại trúng B. 3/ Sẽ là lỗi vô ý vì quá tự tin, nếu trước khi ném đồ vật A có quan sát không có ai, nhưng khi ném thì có B tới đó nên đã trúng đầu B. 4/ Sẽ là lỗi vô ý do cẩu thả, nếu trước khi ném đồ vật A không quan sát khi ném đã trúng B. 8.2.7. Sự kiện bất ngờ Điều 11 BLHS quy định: “Người thực hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc thấy trước hậu quả của hành vi đó thì không phải chịu TNHS”. Ví dụ: A trèo lên cột điện sửa điện nhưng sử dụng thiết bị an toàn không đúng quy cách đã bị rơi xuống đường. B lái xe đảm bảo đủ các điều kiện về an toàn khi vận hành, khi A rơi xuống đường B đã cán chết A. Hành vi của B trong trường hợp này là sự kiện bất ngờ. Giữa lỗi vô ý vì cẩu thả và sự kiện bất ngờ giống nhau ở dấu hiệu lý trí đó là: người thực hiện hành vi trên thực tế đã gây hậu quả thiệt hại cho xã hội trong trường hợp không thấy trước hậu quả đó. Sự khác nhau giữa lỗi vô ý do cẩu thả với sự kiện bất ngờ: - Đối với lỗi vô ý vì cẩu thả: Người phạm tội do chủ quan nên không thấy trước được hậu quả đó. Người thực hiện hành vi với lỗi vô ý do cẩu thả bị coi là tội phạm và phải chịu TNHS. - Đối với trường hợp sự kiện bất ngờ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả thiệt hại do nguyên nhân khách quan không thể thấy trước được hậu quả đó. Trường hợp này họ không bị coi là tội phạm và họ không phải chịu TNHS. 8.2.8. Trường hợp hỗn hợp lỗi. Lỗi hỗn hợp là trường hợp trong một CTTP có hai loại lỗi cố ý và vô ý đối với các tình tiết khách quan khác nhau. Về phương diện khoa học cho thấy điều kiện của hỗn hợp lỗi là trong một CTTP phải có ít nhất 2 hậu quả tương ứng với 2 hình thức lỗi cố ý và vô ý. 35
  36. Đối chiếu với điều kiện trên cho thấy, BLHS 1985 hỗn hợp lỗi chỉ tồn tại trong CTTP tăng nặng của một số tội. Trong đó, CTTP cơ bản là lỗi cố ý còn tình tiết định khung là lỗi vô ý. Ví dụ: Trường hợp cố ý gây thương tích dẫn đến chết người Khoản 3, Điều 104 BLHS 1985. Trong BLHS 1999, hỗn hợp lỗi có thể tồn tại trong CTTP tăng nặng và tồn tại trong rất nhiều CTTP cơ bản. Ví dụ: CTTP cơ bản của tội trộm cắp tài sản tại Khoản 1, Điều 138 BLHS 1999 là trường hợp hỗn hợp lỗi, nếu tài sản trộm cắp dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng. Trong CTTP cơ bản này, hậu quả tài sản bị chiếm đoạt trị giá dưới 500.000 đồng là lỗi cố ý, còn hậu quả nghiêm trọng khác là lỗi vô ý. 8.3. ĐỘNG CƠ VÀ MỤC ĐÍCH PHẠM TỘI 8.3.1. Động cơ phạm tội Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ: Điều 248 Tội đánh bạc - động cơ phạm tội là các con bạc sát phạt nhau Động cơ phạm tội chỉ có thể đặt ra với các tội thực hiện với lỗi cố ý. Còn các tội thực hiện với lỗi vô ý chỉ có động cơ của xử sự. Ví dụ: tại thời điểm vượt đèn đỏ, động cơ của xử sự là để đưa bệnh nhân đến bệnh viện cấp cứu kịp thời nên đã gây hậu quả tai nạn. Đa số trường hợp phạm tội, động cơ phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng hoặc là tình tiết tăng nặng TNHS. Do đó, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc quyết định hình phạt. Ví dụ: Động cơ đê hèn của tội giết người. 8.3.2. Mục đích phạm tội Mục đích phạm tội là cái mốc mà người phạm tội mong muốn đạt đến khi thực hiện tội phạm. Giữa mục đích phạm tội và hậu quả của tội phạm luôn có mối liên quan chặt chẽ với nhau, hậu quả của tội phạm chính là sự thể hiện, sự phản ánh mục đích phạm tội. Chính vì vậy mà trong mỗi CTTP chỉ có sự hiện diện của một trong hai dấu hiệu này mà thôi. Thông thường những tội nào hậu quả khó xác định thì dấu hiệu mục đích mới có thể được phản ánh trong CTTP. Ví dụ: Đối với các tội xâm phạm An ninh quốc gia mục đích phạm tội được phản ánh trong tất cả các CTTP. Có thể so sánh để thấy được sự khác biệt giữa chúng theo các tiêu chí sau: Mục đích phạm tội Hậu quả tội phạm - Nằm trong ý thức chủ quan. - Thể hiện ngoài thế giới khách quan. - Có trước. - Có sau. 8.4. SAI LẦM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SAI LẦM ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ TNHS 8.4.1. Sai lầm về pháp luật Sai lầm về pháp luật là sự đánh giá không đúng của một người về tính chất pháp lý của hành vi đã thực hiện. Sai lầm về pháp luật có hai dạng: - Dạng thứ nhất: Là trường hợp một người khi thực hiện hành vi cho rằng hành vi của mình không phải là tội phạm nhưng BLHS quy định đó là tội phạm thì họ vẫn phải chịu TNHS về tội đã thực hiện. Ví dụ: A nhờ B vận chuyển hộ cho mình 1 kg thuốc phiện từ Mèo Vạc về giao cho M ở Thị xã Tuyên Quang. B biết đó là thuốc phiện nhưng cho rằng vận chuyển hộ thuốc phiện là không có tội nên B đã đồng ý. Trường hợp này B vẫn bị truy tố về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý. - Dạng thứ hai: Là trường hợp một người khi thực hiện hành vi cho rằng hành vi của mình là tội phạm nhưng BLHS không quy định đó là tội phạm thì họ không phải chịu TNHS. 36
  37. Ví dụ: A và B cãi nhau, A dùng dao thường chém B một nhát, gây thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 5%, A cho rằng mình đã phạm tội cố ý gây thương tích nên đã đến cơ quan Công an tự thú. Trường hợp này BLHS không quy định là tội phạm nên A không phải chịu TNHS. 8.4.2. Sai lầm về sự việc Sai lầm về sự việc là trường hợp một người đánh giá không đúng về những tình tiết thực tế của hành vi của mình. Sai lầm về sự việc có những dạng như sau: 1- Sai lầm về công cụ phương tiện: Là trường hợp một người thực hiện hành vi nhằm xâm hại một khách thể được LHS bảo vệ nhưng trên thực tế đã không xâm hại được vì đã sử dụng nhầm công cụ phương tiện mà người đó muốn. 2- Sai lầm về mối quan hệ nhân quả: Là trường hợp một người đánh giá không đúng về sự phát triển của hành vi của mình. 3- Sai lầm về đối tượng tác động: Định giết A nhưng nhầm B là A nên đã giết B. 4- Sai lầm về khách thể có 3 dạng - Dạng thứ nhất: Một người khi thực hiện hành vi nhằm xâm hại một khách thể nhất định nhưng trên thực tế đã không xâm hại được vì đã tác động nhầm vào đối tượng tác động không thuộc khách thể được LHS bảo vệ. Trường hợp này họ phải chịu TNHS về tội có ý định thực hiện. - Dạng thứ hai: Một người khi thực hiện hành vi nhằm xâm hại một khách thể được LHS bảo vệ nhưng trên thực tế đã không xâm hại được vì tác động nhầm vào đối tượng tác động thuộc khách thể khác được LHS bảo vệ. Trên thực tế là hành vi trộm cắp thuốc phiện nhưng trong ý thức chủ quan là trộm cắp tài sản (trường hợp này người thực hiện hành vi đó phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản). - Dạng thứ ba: Một người thực hiện hành vi không nhằm xâm hại khách thể được LHS bảo vệ nhưng trên thực tế đã xâm hại đến khách thể do tác động nhầm vào đối tượng tác động được LHS bảo vệ. Trường hợp này phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả thực tế đã xảy ra với lỗi vô ý. Chúng ta có thể minh hoạ các nguyên tắc xác định TNHS đối với các trường hợp sai lầm về sự việc như sau: Các trường hợp ý thức chủ quan Thực tế khách Nguyên tắc xác định sai lầm quan TNHS 1. Sai lầm về công cụ. Dùng thuốc độc giết Thuốc bổ. Không thay đổi. người. 2. Sai lầm về mối quan A bắn B. C chết. Giết người chưa đạt. hệ nhân quả Vô ý làm chết người. 3 Sai lầm về đối tượng A giết B. C chết. Giết người chưa đạt. tác động. Vô ý làm chết người. 4. Sai lầm về khách A dùng dao đâm B Đâm heo Cố ý gây thương tích. thể. A cướp tài sản trên tay B Thuốc phiện Cướp tài sản. A bắn thú rừng. B chết Vô ý làm chết người Như vậy, cơ sở xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong trường hợp có sai lầm về sự việc là phải xuất phát từ việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội, bởi vì ý thức chủ quan của người phạm tội mới là sự thể hiện về mặt nội dung về bản chất của vụ án. 37
  38. Bài tập tình huống 1 A lái ca nô từ đảo vào đất liền vào lúc 21 giờ nhưng không bật đèn. Khi ca nô cách bờ 50m thì có hai người đang tập bơi gần đó nghe tiếng ca nô đã hô “có người” nhưng ca nô vẫn tiến thẳng theo hướng đó và đã làm cho một người chết. Hãy xác định hình thức lỗi của A với cái chết của nạn nhân. Bài tập tình huống 2 Long là bác sĩ của bệnh viện Bạch Mai- Hà Nội. Mẹ Long có hai người con trai là Long và An sống tại thành phố Hỗ Chí Minh, mẹ của Long sống với vợ chồng Long. Cuộc sống mẹ chồng nàng dâu đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Long đã nghe theo vợ và thường xuyên hắt hủi mẹ mình và thường xuyên bắt cụ nhịn đói hoặc ăn cơm thừa của chó. Ngày 15/3/90 sau một tuần bắt cụ nhịn ăn, cụ đã đi ăn xin và bị ngất xỉu trước cổng của thanh tra thành phố. Mọi người đã cấp cứu cụ và sau đó cụ đã kế lại cho mọi người nghe về những sự việc xảy ra. Cơ quan đã cử người đưa cụ về và trực tiếp gặp vợ chồng Long để giác ngộ cho họ. Sau sự việc này, Long cho rằng mẹ đã làm mất danh dự của mình và tiếp tục đánh cụ trong 2 ngày, cụ đã bị chết. Hãy xác định hình thức lỗi của Long. Bài tập tình huống 3 Trung và Ngọc đã lấy nhau 4 năm nhưng chưa có con, 2 vợ chồng đã nhiều lần xích mích và đã có lần Trung đẩy vợ xuống sông. Vào lúc 19h ngày 14/5/95 trong lần xô xát lớn trong lúc đang tát nước vào ruộng lúa. Trung đẩy Ngọc xuống ao (Trung biết rõ Ngọc không biết bơi, bờ ao dốc đứng). Khi chị Ngọc nhấp nhô giữa ao và uống nước ừng ực Trung bỏ mặc thu gàu về lên giường nằm ngủ như không có việc gì. Sáng hôm sau xác Ngọc nổi lên mọi người mới phát hiện được. Xác định hình thức lỗi của Trung với cái chết của Ngọc. Bài tập tình huống 4 Nguyễn Vũ là một tên rượu chè vũ phu, tính tình hung hãn thường xuyên đánh đập chửi mắng vợ con. Ngày 20/4/95 sau lần đi uống rượu về, Vũ lấy xe đạp để sang nhà bố mẹ thì không thấy xe. Vũ hỏi vợ “xe đạp ở đâu?” chị Nga (là vợ Vũ) đang ngồi trên giường trả lời “không biết” Vũ bực quá dùng tay đánh ngay vào thái dương vợ, vợ từ từ nằm xuống, Vũ càng bực tức cho rằng vợ quá khinh mình không thèm trả lời nên Vũ đã đấm thêm một cái vào ngực vợ thì thấy chi Nga không có động đậy gì, lúc này Vũ mới biết vợ đã chết. Xác định hình thức lỗi của Vũ. 38