Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường

pdf 308 trang ngocly 2330
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_va_quan_ly_moi_truong.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường

  1. Trường đại học kinh tế quốc dân Khoa Kinh tế - Quản lý Môi trường và Đô thị Bộ môn kinh tế và quản lý môi trường & Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường Hà Nội - 2003
  2. Lời nói đầu Kinh tế và Quản lý môi trường trang bị cho sinh viên các ngành kinh tế và quản trị kinh doanh những kiến thức cơ bản về kinh tế học môi trường, quản lý môi trường xem xét trên góc độ kinh tế. Đây là môn học bắt buộc thuộc nhóm các môn học cơ sở cho tất cả các ngành học ở Đại học Kinh tế Quốc dân từ trước tới nay. Để hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường, từ đó có một cách ứng xử hợp lý cho các nhà kinh tế và quản trị kinh doanh trong hoạt động thực tiễn đối với những vấn đề liên quan đến môi trường, môn học đã phân tích mối quan hệ giữa môi trường và phát triển; những vấn đề cơ bản về kinh tế học chất lượng môi trường; đánh giá tác động môi trường và phân tích kinh tế của những tác động môi trường; những vấn đề liên quan giữa khan hiếm tài nguyên, dân số, kinh tế và môi trường và những nội dung kiến thức cơ bản của quản lý môi trường phù hợp với hoàn c ảnh cụ thể của Việt Nam và xu hướng biến đổi môi trường toàn cầu. Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường do tập thể các nhà khoa học của Bộ môn Kinh tế và Quản lý môi trường, Đại học Kinh tế Quốc dân tiến hành bổ sung, sửa chữa và cập nhật những kiến thức mới trên cơ sở giáo trình “kinh tế môi trường” do cố GS.TSKH. Đặng Như Toàn chủ biên, được Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1996. Tham gia biên soạn và sửa đổi giáo trình gồm có PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, ThS. Lê Thu Hoa, GVC. Lê Trọng Hoa, GVC. Nguyễn Duy Hồng, cụ thể các chương như sau: Chương mở đầu: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh Chương I: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, GVC. Nguyễn Duy Hồng, GVC. Lê Trọng Hoa. Chương II: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, ThS. Lê Thu Hoa, GVC. Lê Trọng Hoa. Chương III: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, GVC. Nguyễn Duy Hồng, GVC. Lê Trọng Hoa. Chương IV: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, ThS. Lê Thu Hoa Chương V: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, GVC. Lê Trọng Hoa, ThS. Lê Thu Hoa, GVC. Nguyễn Duy Hồng. Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh. Kể từ khi bắt đầu tiến hành biên soạn cho đến khi kết thúc, chúng tôi được sự góp ý tận tình về nội dung chuyên môn, cũng như yêu cầu sửa đổi của các tác giả: 6
  3. GS.TSKH. Lê Du Phong, GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn, GS.TS. Lê Thông, PGS.TS. Đặng Kim Chi, PGS.TS. Hoàng Văn Hoa, GS. TS. Đỗ Hoàng Toàn và nhiều nhà khoa học khác. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn những sự đóng góp ý kiến quý báu đó. Nhân dịp này, chúng tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới GS. TS. Nguyễn Đình Hương, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân, GS.TS. Nguyễn Văn Thường, hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân, Hội đồng khoa học Đại học Kinh tế Quốc dân, phòng Đào tạo và cá nhân GVC. Vũ Huy Tiến đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng tôi hoàn thành công việc của mình. Mặc dù đã cố gắng bám sát nội dung yêu cầu sửa đổi sau khi thẩm định và cố gắng cập nhật thông tin, nhưng do tính chất đặc thù của môn học, cũng như sự biến đổi liên tục của sự vận động và phát triển của khoa học và thực tiễn, chúng tôi nghĩ rằng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như hình thức trình bày, chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp chân tình từ phía độc giả và người học. Thay mặt nhóm tác giả biên soạn, xin được giới thiệu giáo trình kinh tế và quản lý môi trường đã cập nhật và sửa đổi. PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh 7
  4. Chương mở đầu I. Khái quát về kinh tế và môi trường Kinh tế môi trường mới chỉ xuất hiện và phát triển trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XX do nhu cầu bức bách của thực tiễn. Để hiểu rõ hơn nội dung nghiên cứu của môn khoa học non trẻ này, trước hết cần phải nắm bắn được cơ sở nền tảng của kinh tế học. Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu về việc con người và xã hội lựa chọn như thế nào để sử dụng những nguồn tài nguyên khan hiếm nhằm sản xuất ra các loại hàng hoá (dịch vụ) và phân phối cho tiêu dùng hiện tại hoặc tương lai của các cá nhân và các nhóm người trong xã hội. Kinh tế học ra đời cách đây hơn hai thế kỷ, kể từ khi Adam Smith cho xuất bản cuốn sách "Của cải của các dân tộc" vào năm 1776. Kinh tế học có thể được phân chia theo các lĩnh vực của đời sống kinh tế, theo hướng nghiên cứu hoặc theo phương pháp luận đang được sử dụng v.v , nhưng cách chia kinh tế học thành kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô là cách phân loại phổ biến nhất, vì nó bao quát được một số lượng các môn kinh tế chuyên sâu theo từng lĩnh vực cụ thể. Kinh tế học vĩ mô tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các quan hệ tương tác trong nền kinh tế. Nó cố ý đơn giản hoá các khối cấu trúc riêng biệt trong phân tích nhằm làm cho quá trình phân tích toàn bộ mối quan hệ tương tác trong nền kinh tế có thể nắm bắt được một cách dễ dàng. Ví dụ, các nhà kinh tế vĩ mô thường không quan tâm đến việc phân loại hàng tiêu dùng thành các mặt hàng như xe đạp, mô tô, vô tuyến hay máy tính, mà họ thường nghiên cứu tất cả các mặt hàng này dưới dạng nhóm "hàng tiêu dùng", vì họ quan tâm chủ yếu đến mối quan hệ tương tác giữa việc mua hàng tiêu dùng của các cá nhân và hộ gia đình và quyết định mua sắm máy móc, thiết bị, nhà xưởng của các hãng. Kinh tế vi mô phân tích và nghiên cứu chi tiết các quyết định cá nhân về loại hàng hoá (dịch vụ) cụ thể. Ví dụ, ta có thể nghiên cứu xem tại sao các hộ gia đình lại thích mua mô tô hơn là xe đạp và người sản xuất quyết định như thế nào trong việc lựa chọn sản xuất mô tô hay xe đạp. Sau đó, ta có thể tập hợp các quyết định của tất cả các hộ gia đình và của tất cả các công ty (người sản xuất) lại để bàn xem tổng mức mua và tổng sản lượng mô tô là bao nhiêu. Trong kinh tế vi mô, lý thuyết cân bằng tổng thể là một lĩnh vực khá phức tạp. Lý thuyết này nghiên cứu đồng thời tất 8
  5. cả các thị trường cho tất cả các loại hàng hoá (dịch vụ). Từ đó, bằng cách suy luận lôgíc, ta có thể hiểu được toàn bộ cơ cấu tiêu dùng, sản xuất và trao đổi trong toàn bộ nền kinh tế tại một thời điểm nhất định. Kinh tế môi trường nghiên cứu các vấn đề môi trường với viễn cảnh và những ý tưởng phân tích kinh tế. Nó khai thác từ cả hai phía: kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô, nhưng từ kinh tế vi mô nhiều hơn. Kinh tế môi trường tập trung chủ yếu vào vấn đề người ta ra quyết định như thế nào, tại sao gây ra những hậu quả đối với môi trường và chúng ta có thể thay đổi các thể chế, chính sách kinh tế ra sao để đưa các tác động môi trường vào thế cân bằng hơn, ổn định hơn với những mong muốn và yêu cầu của chúng ta và của bản thân hệ sinh thái. Vì vậy, một trong những việc đầu tiên là phải làm quen với những ý tưởng cơ bản và các công cụ phân tích của kinh tế vi mô. Dựa vào những cơ sở phương pháp luận và phương pháp của kinh tế vi mô, các nhà kinh tế môi trường phải lý giải một cách đúng đắn và rõ ràng hàng loạt vấn đề đặt ra như tại sao môi trường lại bị suy thoái, sự suy thoái môi trường dẫn đến những hậu quả gì và có thể làm gì để ngăn chặn và giảm sự suy thoái môi trường một cách có hiệu quả nhất? Có nhiều loại câu trả lời cho các vấn đề nêu trên. Chẳng hạn, ta có thể cho rằng môi trường bị suy thoái là do hành vi và thái độ ứng xử của con người trái với luân thường, đạo lý. Vì thế, để bảo vệ tốt môi trường, cần phải không ngừng nâng cao nhận thức về môi trường, thường xuyên giáo dục đạo đức môi trường cho toàn thể cộng đồng bằng nhiều hình thức khác nhau. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu của bất cứ một xã hội văn minh nào. Tuy nhiên, nâng cao ý thức trách nhiệm, giáo dục đạo đức môi trường là việc làm thường xuyên, là một quá trình lâu dài nhằm cải tạo và xây dựng mới đạo đức, tác phong và lối sống sao cho thân thiện với môi trường. Để làm được việc đó, đòi hỏi phải có thời gian và không thể cùng một lúc giải quyết được tất cả các vấn đề môi trường quan trọng và cấp bách đang đặt ra. Cách trả lời thứ hai cho vấn đề tại sao người ta lại gây ô nhiễm môi trường, làm cho môi trường bị suy thoái là cách xem xét về mặt kinh tế và xem xét các cơ quan, thiết chế kinh tế (và xã hội) được cấu trúc ra sao và hoạt động như thế nào mà có thể tạo điều kiện dễ dàng cho người ta phá hoại môi trường. (Cơ quan, thiết chế kinh tế chúng tôi dùng ở đây là bao gồm các tổ chức công cộng và tư nhân, luật pháp và các tổ chức mà xã hội sử dụng để cấu trúc hoạt động kinh tế. Ví dụ: thị trường, các công ty, sở hãng công cộng, cơ quan luật thương mại, v.v ). Chúng ta dễ nhận biết rằng, người ta gây ô nhiễm, làm suy thoái môi trường là vì đó là phương cách rẻ tiền nhất để giải quyết chất thải còn lại sau khi người tiêu dùng đã dùng xong một thứ gì đó, hoặc sau khi người sản xuất đã sản xuất xong một thứ gì đó. Người đó có những quyết định này về sản xuất, tiêu thụ và thanh toán chất thải trong phạm vi một số cơ quan, thiết chế kinh tế và xã hội. Các cơ quan, thiết chế này cấu trúc nên những khuyến khích, dẫn dắt người ta quyết định theo hướng này, 9
  6. chứ không phải theo hướng khác. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là nghiên cứu và thiết kế quy trình khuyến khích hoạt động có hiệu quả, đặc biệt là cấu trúc lại nó sao cho có thể định hướng người ta ra các quyết định đúng đắn, phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển phong cách và lối sống thân thiện, lành mạnh với môi trường. Có ý kiến cho rằng, người ta gây ô nhiễm, làm suy thoái môi trường là vì động cơ lợi nhuận. Do đó, cách duy nhất để giảm ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng môi trường là làm giảm động cơ lợi nhuận. Điều này đúng, nhưng hoàn toàn chưa đủ, bởi vì không chỉ có các công ty, xí nghiệp do động cơ lợi nhuận thúc đẩy, nên gây ra ô nhiễm môi trường, mà cả các cá nhân người tiêu dùng cũng đang gây ra ô nhiễm môi trường khi đổ rác thải bừa bãi xuống các cống rãnh, ao, hồ hoặc sử dụng các phương tiện giao thông có động cơ cũ kỹ, lạc hậu, xả nhiều khói, v.v , ở đây, các cá nhân người tiêu dùng không hề nghĩ đến lỗ hay lãi, cho nên bản thân lợi nhuận không phải là nguyên nhân làm cho người ta gây ô nhiễm môi trường. Tương tự như vậy, nhiều doanh nghiệp Nhà nước sản xuất các hàng hoá (dịch vụ) công cộng đôi khi đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng mà không hề bị thúc đẩy bởi động cơ lợi nhuận. Hoặc là, trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp trước đây là những nền kinh tế thiếu động cơ lợi nhuận, nhưng môi trường vẫn bị suy thoái nghiêm trọng ở một số vùng; không khí và nguồn nước bị ô nhiễm nặng ở nhiều thành phố và khu công nghiệp, gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ của dân cư và phá vỡ cân bằng sinh thái, v.v Như vậy, động cơ lợi nhuận bản thân nó không phải là nguyên nhân chính gây ra sự suy thoái, ô nhiễm môi trường. Những điều phân tích trên chứng tỏ rằng, các khuyến khích có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động của một hệ thống kinh tế. Thuật ngữ "khuyến khích" ở đây được hiểu là một cái gì đó hút người ta vào hay đẩy người ta ra khỏi một chuẩn (đích) nhất định, kích thích, hướng và dẫn dắt người ta phát huy cách ứng xử hợp chuẩn, sửa đổi cách ứng xử lệch chuẩn. "Khuyến khích kinh tế" là một cái gì đó thuộc phạm trù kinh tế có tác dụng hướng dẫn người ta tập trung cố gắng của mình vào sản xuất hoặc tiêu dùng kinh tế theo một số hướng nhất định. Khuyến khích kinh tế không chỉ là sự trả công bằng của cải vật chất, hướng dẫn hành vi, cách ứng xử của người ta sao cho có thể thu được ngày càng nhiều của cải vật chất mà còn có cả những khuyến khích phi vật chất, hướng dẫn người ta thay đổi hành vi, thái độ kinh tế, ví dụ như lòng tự trọng, sự mong muốn có một cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp hay ước vọng tạo nên một tấm gương tốt cho người khác noi theo. Bất cứ một hệ thống kinh tế nào cũng sẽ gây ra những tác động phá hoại môi trường, nếu như các khuyến khích trong hệ thống kinh tế đó không được cấu trúc để tránh các tác động xấu. Các nhà kinh tế môi trường cần phải đi nghiên cứu bản 10
  7. chất, cơ chế hoạt động của các hệ thống kinh tế để hiểu được các hệ thống khuyến khích của chúng hoạt động ra sao và có thể thay đổi chúng như thế nào để có được một nền kinh tế phát triển một cách hợp lý, hoạt động có hiệu quả, mà không gây ra những tác động xấu đến môi trường. Các hệ thống khuyến khích rất phong phú và đa dạng, có thể được phân thành các nhóm chủ yếu sau đây: - Các khuyến khích cá nhân và hộ gia đình nhằm giảm dần lượng chất thải trong sinh hoạt và tăng cường sử dụng các sản phẩm có ít chất thải hơn. Ví dụ: áp dụng chế độ trả tiền lệ phí theo số lượng rác thải hàng tháng hay hàng năm thay cho độ thu lệ phí thu gom rác thải quân bình và cố định theo thời gian hay theo đầu người. - Các khuyến khích doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp, nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp tìm mọi cách để giảm các chất thải trong quá trình sản xuất bằng cách thông qua và cưỡng chế thi hành các luật, pháp lệnh, nghị định, quy chế có liên quan đến bảo vệ môi trường, bằng cách soạn thảo và áp dụng hệ thống khuyến khích tài chính sao cho có thể hấp dẫn các doanh nghiệp gây ô nhiễm ít hơn. Ví dụ: kết hợp thuế tài sản của doanh nghiệp với thành tích bảo vệ môi trường; tuỳ theo mức độ gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp mà đánh thuế cao hay thấp, hoặc xét miễn giảm thuế. Nếu doanh nghiệp thải nhiều chất độc hại làm ô nhiễm môi trường thì sẽ bị đánh thuế cao và ngược lại. - Các khuyến khích ngành nhằm hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường và các ngành sản xuất khác dựa trên cơ sở sử dụng các quy trình công nghệ không có hoặc có ít chất thải. Công nghiệp môi trường là ngành công nghiệp phát triển các phương pháp kỹ thuật xử lý chất thải, tái tuần hoàn, sản xuất các máy móc, thiết bị mới kiểm tra ô nhiễm môi trường và nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới giám sát ô nhiễm môi trường. Xây dựng và phát triển rộng rãi các quy trình công nghệ không có hoặc có ít chất thải nhằm cung cấp cho thị trường các sản phẩm mới không có hại cho môi trường, sạch và an toàn đối với sức khoẻ của con người. - Soạn thảo chính sách môi trường nhằm cải thiện chất lượng môi trường một cách có hiệu quả. Trong việc soạn thảo các chính sách môi trường, kinh tế môi trường đóng vai trò chủ yếu nhất. Có rất nhiều kiểu, loại chương trình và chính sách công cộng dành cho các vấn đề môi trường ở tất cả các cấp: địa phương, vùng, quốc gia, tiểu khu vực, khu vực và quốc tế. Chúng khác nhau nhiều về hiệu quả cũng như hiệu lực. Một số các chương trình và chính sách môi trường được soạn thảo tốt và rõ ràng là có những tác động tích cực, có lợi cho môi trường. Còn đa số các chương trình và chính sách môi trường chưa được soạn thảo tốt nên chưa đi vào thực tế cuộc sống, hiệu quả thấp. Chính vì hiệu quả chi phí thấp, thậm chí không có hiệu quả, nên chúng thường kết thúc với những chi phí rất lớn và ít có tác dụng đối với việc cải 11
  8. thiện chất lượng môi trường. Vì thế, việc nghiên cứu để soạn thảo các chính sách môi trường sao cho có hiệu quả, có hiệu lực và khả thi là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của kinh tế môi trường. Các nhóm khuyến khích nêu trên là những vấn đề của kinh tế vĩ mô. Chúng định hướng hành vi và thái độ ứng xử hợp lý của các cá nhân và tập thể người tiêu dùng cũng như người sản xuất. Tuy nhiên, các vấn đề môi trường còn liên quan chặt chẽ với thái độ của kinh tế học vĩ mô, tức là liên quan chặt chẽ với cơ cấu và thành tựu kinh tế của cả một quốc gia với tư cách là một đơn vị thống nhất, bởi vì khi chúng ta nghiên cứu các vấn đề như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, v.v là chúng ta đang tập trung vào những thành tựu của quốc gia đó như là một tổng thể, nghĩa là chúng ta đang nghiên cứu kinh tế vĩ mô. Các biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường có quan hệ rất mật thiết với tỷ lệ thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế. ở đây có hàng loạt các câu hỏi mà các nhà kinh tế môi trường cần phải tìm cho được các câu trả lời đúng đắn, thoả đáng.Ví dụ: Các chính sách môi trường nghiêm ngặt hơn có tạo ra khuynh hướng làm chậm sự tăng trưởng kinh tế và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp hay không? Nếu có, thì bao nhiêu? Các quy tắc, điều lệ về môi trường có tác động đến tỷ lệ lạm phát hay không? Nếu có, thì tác động như thế nào? Ngược lại, các vấn đề của kinh tế vĩ mô cũng liên quan chặt chẽ với các vấn đề môi trường. ở đây cũng tồn tại vô số các câu hỏi thuộc phạm trù kinh tế môi trường. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế có tác động đến chất lượng môi trường hay không? Nếu có, thì tác động như thế nào? Có phải tỷ lệ tăng trưởng càng cao, nghĩa là biện pháp truyền thống của chúng ta như GDP, thì môi trường càng bị suy thoái hay không, hay là ngược lại? Đây là những vấn đề có ý nghĩa rất lớn đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với nước ta đang bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Kinh tế môi trường sử dụng rất nhiều loại công cụ phân tích, trước hết là phân tích chi phí - hiệu quả và phân tích chi phí - lợi ích. Phân tích chi phí - hiệu quả là công cụ mà các nhà kinh tế môi trường sử dụng để tìm cách làm sao cho có thể hoàn thành tốt mục tiêu chất lượng môi trường đã cho với số tiền ít nhất. Nói cách khác là họ tìm cách tốn ít tiền nhất để hoàn thành mục tiêu cải thiện chất lượng môi trường đã định nào đó. Ví dụ: phân tích chi phí - hiệu quả của các phương án kỹ thuật giảm thiểu tiêu thụ nhiên liệu - năng lượng, nguyên vật liệu trong sản xuất sao cho tốn ít tiền nhất mà vẫn bảo đảm số lượng và chất lượng sản phẩm cung cấp cho thị trường. Khi phân tích chi phí - hiệu quả, các nhà kinh tế môi trường chỉ quan tâm đến chi phí để thực hiện một vài mục tiêu môi trường đề ra, còn trong phân tích chi phí - lợi 12
  9. ích, thì cả chi phí lẫn lợi ích của một chương trình hay một chính sách nào đó được đo lường và biểu diễn bằng những điều kiện có thể so sánh với nhau được. Phân tích chi phí - lợi ích là công cụ phân tích chủ yếu mà các nhà kinh tế môi trường dùng để đánh giá các quyết định về môi trường. Nó được sử dụng vào những năm đầu thế kỷ XX để đánh giá một số dự án như phát triển nguồn nước chẳng hạn. Ngày nay, nó được sử dụng rộng rãi trong toàn bộ khu vực công cộng. Đôi khi người ta dùng nó để hỗ trợ cho việc lựa chọn chính sách hữu hiệu nhất, đôi khi một công ty nào đó dùng nó để biện minh cho điều họ muốn làm và đôi khi các cơ quan Chính phủ dùng nó trong việc nghiên cứu ban hành hoặc xoá bỏ các quy chế, thể chế. Phân tích lợi ích - chi phí là công cụ quan trọng nhất và được sử dụng rộng rãi nhất trong kinh tế môi trường. Kinh tế môi trường còn quan tâm nghiên cứu và giải quyết các vấn đề quốc tế của môi trường. Không phải tất cả các vấn đề về môi trường đều liên quan đến ô nhiễm và cũng không phải tất cả các vấn đề môi trường đều xẩy ra trong các nước riêng lẻ. Môi trường là vấn đề mang tính vùng, không phân biệt ranh giới hành chính địa phương hay quốc gia. Môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu. Để giải quyết những vấn đề môi trường cấp bách toàn cầu như bảo tồn đa dạng sinh học, sự thay đổi khí hậu, v.v , cần động viên trí tuệ và nguồn lực của mọi quốc gia, cần nỗ lực chung của cộng đồng thế giới. Nhiệm vụ của các nhà kinh tế môi trường là nghiên cứu các phương pháp chi phí hữu hiệu nhất, vấn đề thực hiện quyền tài sản quốc gia, vấn đề chuyển giao công nghiệp quốc tế, vấn đề phân chia chi phí cho các nước giàu và các nước nghèo sao cho công bằng, vấn đề chia sẻ lợi ích dịch vụ môi trường v.v II. Đối tượng của môn học Môi trường (MT) đang là vấn đề cấp bách của thời đại, là thách thức gay gắt đối với tương lai phát triển của tất cả các quốc gia trên hành tinh, trong đó có Việt Nam. Giải quyết vấn đề vô cùng rộng lớn và phức tạp này, đòi hỏi sự cố gắng thường xuyên, nỗ lực chung của mọi cá nhân, mọi cộng đồng, mọi quốc gia và toàn thể nhân loại, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ liên ngành của nhiều môn khoa học, trong đó có Kinh tế môi trường (Environmental Economics). Kinh tế môi trường là một môn khoa học nghiên cứu mối quan hệ tương tác, phụ thuộc và quy định lẫn nhau giữa kinh tế và môi trường (hệ thống hỗ trợ cuộc sống của trái đất) nhằm bảo đảm một sự phát triển ổn định, hiệu quả, liên tục và bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường và lấy con người làm trung tâm. 13
  10. III. Nhiệm vụ của môn học 1. Trang bị những cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường . 2. Trang bị những cơ sở lý luận để nhìn nhận, phân tích đánh giá môi trường trong bối cảnh của cơ chế thị trường. 3. Đánh giá những tác động (tích cực và tiêu cực) của các hoạt động phát triển (kinh tế và xã hội) đến môi trường. Tiếp cận phân tích kinh tế của những tác động tới môi trường. 4. Nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa tài nguyên, dân số, kinh tế và môi trường. 5. Góp phần thẩm định các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển thông qua phân tích chi phí - lợi ích và phân tích chi phí - hiệu quả. 6. Góp phần hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển, những phương thức quản lý môi trường hợp lý. 7. Nâng cao nhận thức về môi trường, về mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc và quy định lẫn nhau giữa môi trường và phát triển để mọi cá nhân, mọi cộng đồng có hành vi đúng đắn vì mục đích phát triển bền vững. Đặc biệt là đối với các chuyên gia kinh tế và quản trị kinh doanh. IV. Phương pháp nghiên cứu môn học Là một môn khoa học còn non trẻ, liên ngành và mang tính tổng hợp cao, Kinh tế môi trường sử dụng nhiều quan điểm, nhiều phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khác nhau, truyền thống cũng như hiện đại. Trong đó phải kể đến trước hết là: 1. Quan điểm và phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cho phép chúng ta nhìn nhận và giải quyết vấn đề có cơ sở khoa học, đảm bảo tính lo gic, chẳng hạn ô nhiễm và suy thoái môi trường hay sự giảm sút đa dạng sinh học có nguồn gốc từ đâu, hậu quả của những hiện tượng này sẽ gây ra những tác hại về kinh tế như thế nào? Sử dụng các quan điểm và phương pháp này sẽ loại trừ được những đánh giá có tính chủ quan, duy ý chí. 2. Quan điểm phân tích tĩnh, phân tích tĩnh so sánh và phân tích động. - Phân tích tĩnh thực chất là phân tích cân bằng hiệu quả. - Phân tích tĩnh so sánh thường được sử dụng khi có sự thay đổi của ngoại cảnh như biến động về giá do tác động ngoại ứng. Phương pháp sử dụng thường là 14
  11. phân tích biên, sử dụng phép toán vi phân để xem xét. - Phân tích động là phương pháp phân tích và xem xét biến thiên theo thời gian. 3. Tiếp cận hệ thống, phân tích hệ thống và cân bằng vật chất. Môi trường thực chất là một hệ thống của các thành phần tự nhiên và vật chất nhân tạo có mối quan hệ ràng buộc với nhau trong một trạng thái cân bằng động, chính vì vậy sử dụng phương pháp phân tích hệ thống và cân bằng vật chất cho phép tìm ra được những thành phần môi trường bị tác động, từ đó xác định nguyên nhân gây ra biến đổi môi trường, sự mất cân bằng của hệ thống vật chất, tác động tới hoạt động kinh tế và cuộc sống con người. 4. Các phương pháp đánh giá tác động môi trường (EIA), lượng hóa tác động tới môi trường. Sử dụng các phương pháp đánh giá tác động tới môi trường là cơ sở để chúng ta lượng hoá những tác động đó ra gia trị tiền tệ. Những phương pháp này chủ yếu được sử dụng đánh giá những thiệt hại gây ra cho môi trường. 5. Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích. Với phương pháp này chủ yếu sử dụng quan điểm phân tích kinh tế để nghiên cứu. Chi phí và lợi ích trong nghiên cứu kinh tế môi trường không chỉ tính tới chi phí và lợi ích cá nhân mà còn bao gồm cả những chi phí và lợi ích đối với tài nguyên và môi trường. 6. Phương pháp mô hình. Kinh tế học môi trường hiện đại thường sử dụng các mô hình để lượng hoá giá trị bằng tiền các tác động tới môi trường hoặc dự báo xu hướng của những biến đổi về kinh tế do tác động tới môi trường. Những mô hình thường sử dụng có nguồn gốc từ cơ sở toán học và mô hình kinh tế truyền thống được mở rộng và tính tới các yếu tố môi trường. Tóm tắt chương mở đầu. Trong phần một khái quát về kinh tế và môi trường, trong đó phân tích xuất xứ và sự ra đời của Kinh tế học môi trường, liên quan của môn học này với các môn khoa 15
  12. học khác, đặc biệt là với kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô, trên cơ sở đó làm rõ tính đặc thù của kinh tế học môi trường là gì? Trong phần hai về đối tượng của môn học, phân tích của nội dung chỉ rõ vấn đề cơ bản là nghiên cứu môi quan hệ gữa Kinh tế và môi trường. Phần ba về nhiệm vụ của môn học, có bảy nhiệm vụ cơ bản được trình bày khi thực hiện nghiên cứu nội dung khoa học liên quan đến Kinh tế môi trường. Phần bốn trình bày sáu quan điểm và phương pháp nghiên cứu cơ bản đòi hỏi người học cần phải nắm được khi nghiên cứu Kinh tế môi trường. Câu hỏi ôn tập chương mở đầu. 1. Vai trò và vị trí của Kinh tế môi trường trong hệ thống các khoa học Kinh tế. 2. Trình bày đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu môn Kinh tế môi trường. 16
  13. Chương I Môi trường và phát triển I. Môi trường 1. Khái niệm về môi trường 1.1. Khái niệm chung về môi trường Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt sau hội nghị Stockholm về môi trường 1972. Tuy nhiên nghiên cứu về những khái niệm liên quan đến định nghĩa đưa ra trong luật bảo vệ môi trường của Việt nam, có những khái niệm đáng chú ý sau đây. Một định nghĩa nổi tiếng của S.V.Kalesnik (1959, 1970): "Môi trường (được định nghĩa với môi trường địa lí) chỉ là một bộ phận của trái đất bao quanh con người, mà ở một thời điểm nhất định xã hội loài người có quan hệ tương hỗ trực tiếp với nó, nghĩa là môi trường có quan hệ một cách gần gũi nhất với đời sống và hoạt động sản xuất của con người" (xem S.V.Kalesnik: Các quy luật địa lí chung của trái đất. M.1970, tr. 209-212). Một định nghĩa khác của viện sĩ I.P.Gheraximov (1972) đã đưa ra định nghĩa môi trường như sau: "Môi trường (bao quanh) là khung cảnh của lao động, của cuộc sống riêng tư và nghỉ ngơi của con người", trong đó môi trường tự nhiên là cơ sở cần thiết cho sự sinh tồn của nhân loại. Gần đây trong báo cáo toàn cầu năm 2000, công bố 1982 đã nêu ra định nghĩa môi trường sau đây: "Theo tự nghĩa, môi trường là những vật thể vật lí và sinh học bao quanh loài người Mối quan hệ giữa loài người và môi trường của nó chặt chẽ đến mức mà sự phân biệt giữa các cá thể con người với môi trường bị xoá nhoà đi". Trong quyển "Địa lí hiện tại, tương lai. Hiểu biết về quả đất, hành tinh của chúng ta, Magnard. P, 1980", đã nêu ra khá đầy đủ khái niệm môi trường: "Môi trường là tổng hợp - ở một thời điểm nhất định - các trạng huống vật lí, hoá học, sinh học và các yếu tố xã hội có khả năng gây ra một tác động trực tiếp hay gián tiếp, tức thời hay theo kỳ hạn, đối với các sinh vật hay đối với các hoạt động của con người" Trong Tuyên ngôn của UNESCO năm 1981, môi trường được hiểu là "Toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên 17
  14. nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu cầu của con người". Trong quyển: "Môi trường và tài nguyên Việt Nam" - NXB Khoa học và kỹ thuật, H., 1984, đã đưa ra định nghĩa: "Môi trường là một nơi chốn trong số các nơi chốn, nhưng có thể là một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kì hay một xã hội". Cũng có những tác giả đưa ra định nghĩa ngắn gọn hơn, chẳng hạn như R.G.Sharme (1988) đưa ra một định nghĩa: "Môi trường là tất cả những gì bao quanh con người". Để thống nhất về mặt nhận thức, chúng ta sử dụng định nghĩa trong "Luật bảo vệ môi trường" đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kì họp thứ tư thông qua ngày 27 - 12 -1993 định nghĩa khái niệm môi trường như sau: "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên" (Điều 1. Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam) Khái niệm chung về môi trường trên đây được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu khác nhau. 1.2. Môi trường sống Đối với các cơ thể sống thì môi trường sống là tổng hợp những điều kiện bên ngoài như vật lí, hoá học, sinh học có liên quan đến sự sống. Nó có ảnh hưởng tới đời sống, sự tồn tại và phát triển của các cơ thể sống. Những điều kiện đó chỉ có trên trái đất, trình độ khoa học hiện nay chưa xác định được các hành tinh khác trong vũ trụ có môi trường phù hợp cho sự sống. 1.3. Môi trường sống của con người Môi trường sống của con người trước hết phải là môi trường sống. Tuy nhiên đối với con người thì môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện vật lí, hoá học, sinh học, xã hội bao quanh con người và có ảnh hưởng tới sự sống và phát triển của từng cá nhân, từng cộng đồng và toàn bộ loài người trên hành tinh. Như vậy nếu so sánh giữa môi trường sống và môi trường sống của con người thì môi trường sống của con người đòi hỏi nhuững điều kiện ràng buộc nghiêm ngặt hơn. Như vậy trên hành tinh trái đất không gian môi trường sống của con người cũng bị thu hẹp hơn. Liên quan đến khái niệm môi trường, còn có khái niệm hệ sinh thái. Đó là hệ thống các quần thể sinh vật cùng sống và cùng phát triển trong một môi trường nhất định, có quan hệ tương tác với nhau và với môi trường đó. Khi nghiên cứu môi trường, chúng ta thường sử dụng khái niệm đa dạng sinh học; đó là sự phong phú về nguồn gen, về giống, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự 18
  15. nhiên. Khi xem xét đa dạng sinh học được xét ở 3 cấp độ: cấp loài, cấp quần thể và quần xã - Đối với đa dạng sinh học cấp loài, bao gồm toàn bộ các sinh vật sống trên trái đất, từ vi khuẩn đến các loài thực, động vật và các loài nấm. - ở cấp quần thể, đa dạng sinh học bao gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể sống cách ly nhau về địa lí cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể. - Đa dạng sinh học còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các loài sinh sống và các hệ sinh thái, nơi mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của các môi trường tương tác giữa chúng với nhau. 1.4. Các thành phần của Môi trường Thành phần môi trường hết sức phức tạp, trong môi trường chứa đựng vô số các yếu tố hữu sinh và vô sinh, vì vậy khó mà diễn đạt hết các thành phần môi trường. ở tầm vĩ mô để xét thì thành phần môi trường có thể chia ra 5 quyển sau đây. - Khí quyển: khí quyển là vùng nằm ngoài vỏ trái đất với chiều cao từ 0 - 100 km. Trong khí quyển tồn tại các yếu tố vật lý như nhiệt, áp suất, mưa, nắng, gió, bão. Khí quyển chia thành nhiều lớp theo độ cao tính từ mặt đất, mỗi lớp có các yếu tố vật lý, hóa học khác nhau. Tầng sát mặt đất có các thành phần: Khoảng 79% là Nitơ; 20% oxy; 0,93% Argon; 0,02% Ne; 0,03% CO2; 0,005% He; một ít Hydro, trong không khí còn có hơi nước và bụi. Khí quyền là bộ phận quan trọng của môi trường, nó được hình thành sớm nhất trong quá trình kiến tạo trái đất. - Thạch quyển: Điạ quyển chỉ phần rắn của trái đất có độ sâu từ 0 - 60 km tính từ mặt đất và độ sâu từ 0 - 20km tính từ đáy biển. Người ta gọi đó là lớp vỏ trái đất Thạch quyển chứa đựng các yếu tố hoá học, như các nguyên tố hoá học, các hợp chất rắn vô cơ, hữu cơ. Thạch quyển là cơ sở cho sự sống. - Thuỷ quyển : Là nguồn nước dưới mọi dạng. Nước có trong không khí, trong đất, trong ao hồ, sông, biển và đại dương. Nước còn ở trong cơ thể sinh vật. Tổng lượng nước trên hành tinh khoảng 1,4 tỷ Km3, nhưng khoảng 97% trong đó là ở đại dương, 3% là nước ngọt, tập trung phần lớn ở các núi băng thuộc bắc cực và Nam cực. Như vậy lượng nước ngọt mà con người có thể sử dụng được chiếm tỷ lệ rất ít của thuỷ quyển. Nước là thành phần môi trường cực kỳ quan trọng, con người cần đến nước không 19
  16. chỉ cho sinh lý hàng ngày mà còn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ ở mọi lúc mọi nơi. - Sinh quyển: Sinh quyển bao gồm các cơ thể sống (các loài sinh vật) và những bộ phận của thạch quyển, Thủy quyển và Khí quyển tạo nên môi trường sống của các cơ thể sống. Ví dụ các vùng rừng, ao hồ, đầm lầy, nơi đang tồn tại sự sống. Sinh quyển có các thành phần hữu sinh và vô sinh quan hệ chặt chẽ và tương tác phức tạp với nhau. Đặc trưng cho hoạt động của sinh quyển là các chu trình trao đổi chất và các chu trình năng lượng. - Trí quyển: Từ khi xuất hiện con người và xã hội loài người, do bộ não người ngày càng hoàn thiện nên trí tuệ con người ngày càng phát triển, nó được coi như công cụ sản xuất chất xám đã tạo nên một lượng vật chất to lớn, làm thay đổi diện mạo của hành tinh chúng ta. Chính vì vậy, ngày nay người ta thừa nhận sự tồn tại của một quyển mới, là trí quyển (Noosphere), bao gồm các bộ phận trên trái đất, tại đó có tác động của trí tuệ con người. Trí quyển là một quyển năng động. Sự phân chia cấu trúc của môi trường thành các quyển trên đây cũng rất tương đối. Thực ra trong lòng mỗi quyển đều có mặt các phần quan trọng của quyển khác, chúng bổ sung cho nhau rất chặt chẽ. 2. Bản chất hệ thống của môi trường Các định nghĩa môi trường nêu trên, tuy có khác nhau về quy mô, giới hạn, thành phần môi trường v.v , nhưng đều thống nhất ở bản chất hệ thống của môi trường và mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Dưới ánh sáng của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, môi trường cần được hiểu như là một hệ thống. Nói cách khác, môi trường mang đầy đủ những đặc trưng của hệ thống. Những đặc trưng cơ bản của hệ thống môi trường là: 2.1. Tính cơ cấu (cấu trúc) phức tạp Hệ thống môi trường (gọi tắt là hệ môi trường) bao gồm nhiều phần tử (thành phần) hợp thành. Các phần tử đó có bản chất khác nhau (tự nhiên, kinh tế, dân cư, xã hội) và bị chi phối bởi các quy luật khác nhau, đôi khi đối lập nhau. Cơ cấu của hệ môi trường được thể hiện chủ yếu ở cơ cấu chức năng và cơ cấu bậc thang. Theo chức năng, người ta có thể phân hệ môi trường ra vô số phân hệ. Tương tự như vậy, theo thứ bậc (quy mô), người ta cũng có thể phân ra các phân hệ từ lớn đến nhỏ. 20
  17. Dù theo chức năng hay theo thứ bậc, các phần tử cơ cấu của hệ môi trường thường xuyên tác động lẫn nhau, quy định và phụ thuộc lẫn nhau (thông qua trao đổi vật chất - năng lượng - thông tin) làm cho hệ thống tồn tại, hoạt động và phát triển. Vì vậy, mỗi một sự thay đổi, dù là rất nhỏ, của mỗi phần tử cơ cấu của hệ môi trường đều gây ra một phản ứng dây chuyền trong toàn hệ, làm suy giảm hoặc gia tăng số lượng và chất lượng của nó. 2.2. Tính động Hệ môi trường không phải là một hệ tĩnh, mà luôn luôn thay đổi trong cấu trúc, trong quan hệ tương tác giữa các phần tử cơ cấu và trong từng phần tử cơ cấu. Bất kì một sự thay đổi nào của hệ đều làm cho nó lệch khỏi trạng thái cân bằng trước đó và hệ laị có xu hướng lập lại thế cân bằng mới. Đó là bản chất của quá trình vận động và phát triển của hệ môi trường. Vì thế, cân bằng động là một đặc tính cơ bản của môi trường với tư cách là một hệ thống. Đặc tính đó cần được tính đến trong hoạt động tư duy và trong tổ chức thực tiễn của con người. 2.3 Tính mở Môi trường, dù với quy mô lớn nhỏ như thế nào, cũng đều là một hệ thống mở. Các dòng vật chất, năng lượng và thông tin liên tục "chảy" trong không gian và thời gian (từ hệ lớn đến hệ nhỏ, từ hệ nhỏ đến hệ nhỏ hơn và ngược lại: từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ thế hệ này sang thế hệ nối tiếp, v.v ). Vì thế, hệ môi trường rất nhạy cảm với những thay đổi từ bên ngoài, điều này lý giải vì sao các vấn đề môi trường mang tính vùng, tính toàn cầu, tính lâu dài (viễn cảnh) và nó chỉ được giải quyết bằng nỗ lực của toàn thể cộng đồng, bằng sự hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới với một tầm nhìn xa, trông rộng vì lợi ích của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. 2.4 Khả năng tự tổ chức và điều chỉnh Trong hệ môi trường, có các phần tử cơ cấu là vật chất sống (con người, giới sinh vật) hoặc là các sản phẩm của chúng. Các phần tử này có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự điều chỉnh để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo quy luật tiến hoá, nhằm hướng tới trạng thái ổn định. Đặc tính cơ bản này của hệ môi trường quy định tính chất, mức độ, phạm vi can thiệp của con người, đồng thời tạo mở hướng giải quyết căn bản, lâu dài cho các vấn đề môi trường cấp bách hiện nay (tạo khả năng tự phục hồi của các tài nguyên sinh vật đã suy kiệt, xây dựng các hồ chứa và các vành đai cây xanh, nuôi trồng thuỷ và hải sản, v.v ) 3. Phân loại môi trường Tùy theo mục đích nghiên cứu và sử dụng, có nhiều cách phân loại môi trường 21
  18. khác nhau. Có thể phân loại môi trường theo các dấu hiệu đặc trưng sau đây: 3.1 Theo chức năng - Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố của tự nhiên tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người như không khí, đất đai, nguồn nước, ánh sáng mặt trời, động thực vật Môi trường tự nhiên cung cấp các nguồn tài nguyên tự nhiên cho ta như không khí để thổ, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, các loại khoáng sản cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp giải trí tăng khả năng sinh lý của con người. - Môi trường xã hội: Môi trường xã hội là tổng hợp các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định, hương ước ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức toàn thể Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác. - Môi trường nhân tạo: Môi trường nhân tạo bao gồm các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi cho cuộc sống của con người như ô tô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo, các khu vui chơi giải trí v.v 3.2 Theo quy mô: Theo quy mô chủ yếu người ta phân loại môi trường theo không gian Địa lý như môi trường toàn cầu, môi trường khu vực, môi trường quốc gia, môi trường vùng, môi trường địa phương. 3.3 Theo mục đích nghiên cứu sử dụng - Mục đích nghiên cứu sử dụng theo nghĩa rộng, môi trường bao gồm tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, các quan hệ xã hội tức là gắn liền việc sử dụng tài nguyên với chất lượng môi trường. - Mụcđích nghiên cứu sử dụng theo nghĩa hẹp: Môi trường theo nghĩa hẹp thường chỉ xét tới những nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống của con người. 22
  19. 3.4 Theo thành phần - Phân loại theo thành phần của tự nhiên người ta thường chia ra: + Môi trường không khí + Môi trường đất + Môi trường nước + Môi trường biển - Phân loại theo thành phần của dân cư sinh sống người ta chia ra: + Môi trường thành thị + Môi trường nông thôn Ngoài 2 cách phân loại trên có thể còn có các cách phân loại khác phù hợp với mục đích nghiên cứu, sử dụng của con người và sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, dù bất cứ cách phân loại nào thì cũng đều thống nhất ở một sự nhận thức chung: Môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển. 4. Vai trò của môi trường đối với con người Đối với một cá thể con người, cũng như đối với cộng đồng con người và cả xã hội loài người, môi trường sống có ba chức năng. - Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người. - Môi trường là nơi chứa đựng các phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và sản xuất của mình. - Môi trường là không gian sống, cung cấp các dịch vụ cảnh quan thiên nhiên. 4.1 Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên Tài nguyên thiên nhiên bao gồm cả tài nguyên tái tạo, tài nguyên không tái tạo và các dạng thông tin mà con người khai thác, sử dụng đều chứa đựng trong môi trường. Tài nguyên thiên nhiên có trong thạch quyển, thủy quyển, khí quyển và trong sinh quyển. Khi mà con người chưa đến được các hành tinh khác để tìm kiếm các nguồn tài nguyên mới, thì nơi con người có thể khai thác tài nguyên chỉ có trong môi trường của chúng ta. Hàng năm con người khai thác tài nguyên nhiều thêm, do nhu cầu vật chất ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Bảng 1.1. Mức khai thác dầu mỏ, khí đốt, khoáng sản của thế giới từ năm 1950 đến 1994. 23
  20. Năm Tài nguyên 1950 1960 1970 1980 1990 1994 Dầu thô 518 1049 2281 2976 2963 2953 (106 tấn) Khí thiên nhiên 180 442 989 1459 2005 2128 (106 tấn) Than đá 884 1271 1359 1708 2109 2083 (106 tấn) Nguồn: “Tín hiệu sống còn” – 1995 – Viện Tầm nhìn thế giới NXB Khoa học kỹ thuật Với đà tăng hàng năm về nhu cầu nhiên liệu và nguyên liệu của thế giới, các ước tính đã phỏng đoán nhiều loại khoáng sản sẽ cạn kiệt vào thế kỷ tới, nếu nhân loại không tìm được các nguồn cung cấp và nguyên liệu thay thế khác. 4.2 Môi trường với chức năng là nơi chứa phế thải Trong mọi hoạt động của con người từ quá trình khai thác tài nguyên cho sản xuất chế biến tạo ra sản phẩm, đến quá trình lưu thông và tiêu dùng đều có phế thải. Phế thải bao gồm nhiều dạng, nhưng chủ yếu chúng được tồn tại ở ba dạng là phế thải dạng khí, dạng rắn, dạng lỏng. Ngoài ra còn có các dạng khác như nhiệt, tiếng ồn, hóa chất nguyên tử, phân tử, hợp chất Và tất cả các phế thải đều đưa vào môi trường. Trong xã hội chưa công nghiệp hoá, mật độ dân số thấp, các phế thải thường được tái sử dụng. Thí dụ các chất bài tiết được dùng làm phân bón, các phế thải từ nông sản, lâm sản được dùng làm thức ăn cho gia súc, nhiên liệu. Những cái không thể tái sử dụng, tái chế thường được phân huỷ tự nhiên bởi các sinh vật và vi sinh vật, sau một thời gian ngắn để trở lại thành những hợp chất hoặc nguyên tố dùng làm nguyên liệu cho các quá trình sản xuất mới. Trong xã hội công nghiệp hoá, mật độ dân số cao, lượng phế thải thường rất lớn, không đủ nơi chứa đựng, quá trình tự phân huỷ không theo kịp so với lượng chất thải tạo ra. Hay người ta thường gọi lượng chất thải vượt quá mức chịu tải của môi trường. Đây là nguyên nhân cơ bản gây ra những biến đổi về môi trường. Bảng 1.2: Mức thải Các bon, Lưu huỳnh và Ni tơ đã từ năm 1950 đến năm 24
  21. 1994. Năm Tài nguyên 1950 1960 1970 1980 1990 1994 Các bon (106 tấn) 1620 2543 4006 5172 5941 5925 Ni tơ (106 tấn) 6,8 11,8 18,1 22,3 26,3 26,5 Lưu huỳnh (106 tấn) 30,1 46,2 57,0 62,9 68,7 68,7 CFC (103 tấn) 42 150 640 880 820 295 Nguồn: “Tín hiệu sống còn” - 1995 - Viện Tầm nhìn thế giới NXB Khoa học kỹ thuật 4.3 Môi trường với chức năng là không gian sống và cung cấp các dịch vụ cảnh quan Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong không gian môi trường, môi trường là nơi duy nhất cho con người được hưởng các cảnh đẹp thiên nhiên, thư thái về tinh thần, thoả mãn các nhu cầu tâm lý. Không gian môi trường mà con người tồn tại trải qua hàng tỷ năm nay không hề thay đổi về độ lớn, có nghĩa không gian môi trường là hữu hạn. Trong khi đó dân số loài người trên trái đất đã và đang tăng lên theo cấp số nhân. Như vậy vô hình chung không gian môi trường mỗi người được hưởng sẽ giảm xuống và chất lượng suy giảm nhanh chóng. Sự thoả mãn các nhu cầu dịch vụ của con người cũng giảm theo dần. Bảng 1.3: Dân số thế giới và diện tích trên đầu người qua các năm Năm -106 -105 -104 0 1650 1840 1930 1994 2010 Dân số 0,125 1,0 5,0 200 545 1000 2000 5000 7000 (106 người) Diện tích 120.000 15000 3000 75 27,55 15 7,5 3,0 1,88 (ha/người) Nguồn: Cơ sở khoa học môi trường –1995 - Lê Thạc Cán Với đà tăng dân số như hiện nay thì dân số thế giới sẽ đạt 8 tỷ vào năm 2020. Dân số tăng nhanh là thách thức to lớn, nó kéo theo nhiều vấn đề môi trường phức tạp. 25
  22. 5. Quan hệ tương tác giữa kinh tế và môi trường Mối quan hệ tương tác giữa kinh tế và môi trường là một biểu hiện cụ thể của mối quan hệ tương tác rộng lớn hơn, bao trùm hơn, thường xuyên hơn và xuyên suốt mọi thời đại kể từ khi xuất hiện xã hội con người trên hành tinh chúng ta. Đó là mối quan hệ tương tác giữa con người, xã hội và tự nhiên. Mối quan hệ tương tác đó là một trong những hiện tượng chủ yếu của lịch sử thế giới vật chất của hành tinh Trái đất, là hiện tượng có ý nghĩa vô cùng vĩ đại, mang tính vũ trụ mà những kết quả cuối cùng của nó chúng ta còn chưa thể nào nhìn thấy và tiên đoán được. Hiện tượng này đã từng được các thế hệ tiền bối nghiên cứu, đang được thế hệ đương đại nghiên cứu nhiều và sẽ được các thế hệ tương lai nghiên cứu sâu hơn để hiểu biết thấu đáo hơn. Vấn đề này sẽ tồn tại mãi mãi, không bao giờ kết thúc, bởi vì chúng ta chỉ tiệm cận đến chân lý mà thôi. Mối quan hệ tương tác giữa con người, xã hội và tự nhiên là đề tài nghiên cứu của hàng loạt khoa học: triết học, lịch sử, địa lý, địa chất, sinh học, kinh tế học, kinh tế chính trị và rất nhiều khoa học khác. Có thể nói rằng, đây là một trong những đề tài đa diện và đa chiều nhất của khoa học hiện đại. Về mặt triết học, đề tài này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặt ra nghiên cứu. Và mặc dù cho đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, song những tiền đề, những giải pháp có tính nguyên tắc cho vấn đề cực kỳ rộng lớn và phức tạp này của các nhà kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thực tiễn. Sự phát triển nhanh chóng của xã hội, của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, quá trình quốc tế hoá kinh tế và đời sống xã hội, v.v đã đem lại rất nhiều mới lạ cho mối quan hệ tương tác giữa con người , xã hội và tự nhiên. Điều đó, tất yếu dẫn đến việc xem xét lại vấn đề này ở một trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao hơn, cập nhật hơn nhằm làm phong phú thêm những nguyên tắc, nguyên lý khoa học mới bằng những hiểu biết sâu sắc hơn, những ý tưởng táo bạo và thú vị hơn. ở đây, chúng ta không cần thiết phải phân tích toàn bộ các khía cạnh của vấn đề quan hệ tương tác giữa con người, xã hội và tự nhiên, mà chỉ dừng lại ở sự phân tích mối quan hệ tương tác kinh tế và môi trường - phần cốt lõi nhất của mối quan hệ tương tác rộng lớn và phức tạp nêu trên. Hệ thống môi trường bao gồm các thành phần môi trường với chức năng cơ bản là nguồn cung cấp tài nguyên cho con người, là nơi chứa đựng phế thải, là không gian sống cho con người. Các khả năng này của hệ thống môi trường là hữu hạn. Hệ thống kinh tế luôn luôn diễn ra các quá trình khai thác tài nguyên (R-Resourse), chế biến nguyên liệu (P-Production), và phân phối để tiêu dùng. (C-Consumer). Như vậy hoạt động của hệ thống kinh tế tuân theo chu trình sau: R p c 26
  23. Tài nguyên (R) được con người khai thác từ môi trường như khoáng sản, dầu mỏ, than, gỗ củi như vậy tài nguyên là nguyên liệu và năng lượng đầu vào cho hệ thống kinh tế. Tài nguyên sau khi khai thác được chế biến thành các sản phẩm phù hợp với mục tiêu của con người, quá trình này được gọi là quá trình sản xuất (P). Các sản phẩm sẽ được phân phối để tiêu dùng (C). Trong quá trình chuyển đổi năng lượng này đều kèm theo các chất thải vào môi trường. Các chất thải từ quá trình khai thác (WR), đó là các dạng tài nguyên khai thác nhưng không được đưa vào hệ thống kinh tế. Các chất thải từ quá trình sản xuất, chế biến tài nguyên (WP), là không tránh khỏi vì trên thực tế chưa có công nghệ chế biến nào đạt hiệu suất sử dụng nguyên liệu 100%. Các chất thải từ quá trình tiêu dùng các sản phẩm (WC), chất thải bao gồm các dạng lỏng, khí và rắn. R p c WR Wp Wc Tổng lượng thải từ hệ thống kinh tế sẽ là W W = WR + WP + WC Hoạt động của hệ thống kinh tế tuân theo định luật thứ nhất nhiệt động học, đó là năng lượng và vật chất không mất đi và không tự sinh ra, chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Cũng chính từ quy luật đó cho thấy tài nguyên mà con người khai thác càng nhiều thì chất thải càng tăng. Trên cơ sở phân tích đó cho chúng ta nhận xét về mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế. Hệ thống kinh tế lấy tài nguyên (R) từ hệ thống môi trường càng nhiều thì chất thải (W) từ hệ thống kinh tế đưa vào môi trường càng lớn. R = W = WR + WP + WC Tóm lại chức năng cơ bản của bất kỳ một hệ thống kinh tế nào như sản xuất, phân phối và tiêu thụ cũng đều diễn ra trong lòng thế giới tự nhiên bao quanh. Thế giới tự nhiên đóng vai trò cung cấp nguyên liệu và năng lượng. Không có nguyên liệu và năng lượng thì không thể có sản xuất và tiêu thụ. Do đó, hệ thống kinh tế tác động lên thế giới tự nhiên trước hết thông qua việc khai thác và sử dụng nguồn nguyên liệu và năng lượng sẵn có trong tự nhiên. Mặt khác, các hoạt động sản xuất 27
  24. và tiêu thụ cũng thường xuyên sản sinh ra các chất thải, mà sớm hay muộn, chúng sẽ "tìm đường trở về" với thế giới tự nhiên bao quanh. Xem sơ đồ 1.1. 28
  25. Hệ kinh tế Đầu ra Sản Tiêu xuất Hãng sản xuất Hộ gia đình dùng Đầu vào Lấy ra Trả lại M ặt trời Hệ tự nhiên nuôi dưỡng cuộc sống (Không khí, đất, nước, nguyên nhiên liệu, tiện nghi, ) Sơ đồ 1.1. Hệ kinh tế và môi trường Tuỳ theo các chất thải được sử dụng như thế nào, các chất thải này có thể dẫn đến ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường tự nhiên. Mối quan hệ cơ bản này có thể được minh hoạ bằng sơ đồ 1.2. Môi trường tự nhiên R W Kinh tế Sơ đồ 1.2 Mối quan hệ giữa kinh tế tài nguyên và kinh tế chất thải Nguồn: Bary C.Field. Environmental Economics: An introduction. 1994, p.21 29
  26. Trong sơ đồ 1.2, ký hiệu R thể hiện dòng tài nguyên đi vào sản xuất và tiêu thụ. Nghiên cứu vai trò cung cấp tài nguyên của thế giới tự nhiên được gọi là kinh tế tài nguyên thiên nhiên (hay gọi tắt là kinh tế tài nguyên). Ký hiệu W cho thấy tác động của hoạt động kinh tế đến chất lượng của môi trường tự nhiên. Nghiên cứu dòng chất thải và tác động của chúng đến thế giới tự nhiên được coi là kinh tế chất thải. Kiểm soát ô nhiễm là một chủ đề quan trọng, nhưng không phải là duy nhất của kinh tế môi trường. Tác động của con người đến môi trường vô cùng đa dạng và bằng nhiều cách không phải là ô nhiễm hiểu theo nghĩa truyền thống, theo nghĩa cổ điển. Chẳng hạn, sự phá hoại môi trường sống do phát triển nhà ở gây nên không liên quan gì với việc thải các chất ô nhiễm đặc trưng cả. Dưới đây, chúng ta sẽ đề cập đến việc quản lý các dòng chất thải và tác động của hoạt động con người đến các tài nguyên môi trường. Tuy nhiên, trong thực tế, rất nhiều vấn đề này lại có nguồn gốc sâu xa từ tác động qua lại nguyên thuỷ giữa con người, xã hội và tự nhiên. Vì thế, để hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ điểm qua những nội dung chủ yếu của kinh tế tài nguyên. II. Tài nguyên 1. Khái niệm về tài nguyên Dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, khái niệm tài nguyên được mở rộng ra trên nhiều lĩnh vực hoạt động của con người. Hiểu theo nghĩa rộng, tài nguyên bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu - năng lượng, thông tin có trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ liên quan mà con người có thể sử dụng cho mục đích tồn taị và phát triển của mình. Với nhận thức mới nhất hiện nay, người ta định nghĩa tài nguyên như sau: "Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, phi vật chất và tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới cho con người" Như vậy, theo quan niệm mới này tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tăng. Trong khuôn khổ của giáo trình, chúng ta chỉ xem xét tới các nguồn tài nguyên thiên nhiên. 2. Phân loại tài nguyên thiên nhiên. Hiện nay Quan điểm của các Nhà Kinh tế học môi trương đều thống nhất cách phân loại tài nguyên thien nhiên như sau:Theo khả năng tái sinh và không có khả năng tái sinh 30
  27. - Tài nguyên có khả năng tái sinh là những tài nguyên có thể tự duy trì hoặc bổ sung một cách liên tục khi được quản lý hợp lý. Tuy nhiên nếu sử dụng, không hợp lý, tài nguyên này cũng có thể bị cạn kiệt và không thể tái sinh nữa. Ví dụ các giống loài thực vật, động vật bị giảm sút và tuyệt chủng. - Tài nguyên không có khả năng tái sinh là những nguồn tài nguyên có một mức độ giới hạn nhất định trên trái đất, chúng ta chỉ được khai thác chúng ở dạng nguyên khai một lần, đối với loại tài nguyên này được chia thành ba nhóm: + Tài nguyên không có khả năng tái sinh nhưng tạo tiền đề cho tái sinh, ví dụ như đất, nước tự nhiên + Tái nguyên không có khả năng tái sinh nhưng tái tạo. Ví dụ như kim loại, thủy tinh, chất dẻo + Tài nguyên cạn kiệt. Ví dụ như than đá, dầu khí Tài nguyên thiên nhiên Có khả năng Không có khả tái sinh năng tái sinh Tạo tiền đề tái sinh Không thể tái sinh t t i, t ậ ậ ạ ậ o v u khí, g c v g ầ n n ự m l ng i á ộ ờ đ c tinh ưỡ khí Th Đ ượ Ki t: D ỷ Vi sinh v g ệ t tr ướ o: ặ ạ nh N than ng l Thu ổ m ă n ki Khôn ạ N Th Tái t C Hình 1.1. Sơ đồ thể hiện phân loại nguồn tài nguyên tự nhiên 3. Kinh tế tài nguyên Sống trong xã hội hiện đại, đôi khi chúng ta quên mất rằng, hoạt động kinh tế sử dụng rất nhiều tài nguyên thiên nhiên ở đầu vào. Nhưng rồi, thực tiễn trong những năm gần đây đã nhắc chúng ta nhớ đến tầm quan trọng của các nguồn năng lượng từ hoá thạch như than đá, dầu mỏ và khí thiên nhiên. Nền công nghiệp hoá - dầu đồ sộ đã tạo dựng cũng dựa vào các nguồn tài nguyên này. Lượng vật tư rất lớn sử dụng trong các nước công nghiệp và cả trong xã hội mang tên là "xã hội thông tin" 31
  28. đều do nhiều tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng cung cấp. Nước là đầu vào thiết yếu của nhiều quy trình sản xuất đồng thời là nguồn tài nguyên được các hộ gia đình trực tiếp tiêu thụ. Sản xuất thực phẩm phụ thuộc vào cơ sở tài nguyên thiên nhiên, hoặc là thu hoạch trực tiếp như đánh bắt cá, hoặc là cung cấp những đầu vào thiết yếu để cho thực vật và động vật tăng trưởng. Không khí cũng là đầu vào thiết yếu của hầu hết các quy trình sản xuất. Như chúng ta đã chỉ ra trong cách phân loại tài nguyên, về cơ bản tài nguyên gồm hai nhóm : phục hồi được và không phục hồi được. Những tài nguyên sinh vật là những tài nguyên có thể phục hồi được: chúng lớn lên cùng thời gian theo các quá trình sinh học. Những tài nguyên không phục hồi được là những tài nguyên mỗi khi đã sử dụng là hết, không có cách gì hoàn trả lại, không có quy trình nào làm đầy lại được. Ví dụ như các nguồn dầu mỏ và khoáng sản không cung cấp năng lượng. Một số nguồn tài nguyên nhất định như nhiều mạch nước ngầm có tốc độ làm đầy thấp đến mức được coi như là không phục hồi được. Có một nguồn tài nguyên mà chỉ gần đây mới được con người thừa nhận là đa dạng sinh học. Nguồn tài nguyên này tồn tại không chỉ ở trong một chất, mà trong một tập hợp các yếu tố thành phần. Các nhà sinh học ước lượng rằng, hiện nay trên thế giới có thể có đến 30 triệu giống loài sinh vật, chúng đại diện cho một nguồn rộng lớn và quan trọng của thông tin di truyền hữu ích đối với sự phát triển thuốc men, thuốc trừ vật hại thiên nhiên, các loài thực và động vật có sức đề kháng cao, v.v Hoạt động của con người đã làm cho tốc độ tuyệt chủng của các giống loài tăng nhanh. Vì vậy, giữ gìn môi trường sống và bảo tồn giống loài đã trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất hiện nay. Một trong những đặc điểm để phân biệt hầu hết các nguồn tài nguyên thiên nhiên là chúng "phụ thuộc nhiều vào thời gian", điều này có nghĩa là việc sử dụng chúng kéo dài quá thời gian thu hoạch, cho nên tỷ lệ sử dụng trong thời kỳ này sẽ ảnh hưởng đến sự có sẵn và tỷ lệ sử dụng trong thời kỳ sau. Đối với các tài nguyên không phục hồi, điều này tương đối dễ nhận biết. Chẳng hạn, dầu được hút ra khỏi các mỏ dầu năm nay nhiều bao nhiêu thì sẽ càng khó thu được dầu hơn trong những năm sau đó! Mối quan hệ giữa lợi ích hiện tại và lợi ích tương lai cũng xẩy ra đối với các tài nguyên có thể phục hồi được. Chẳng hạn, nên tính toán xem có thể đánh bắt bao nhiêu cá hiện nay để không làm ảnh hưởng đến sản lượng đánh bắt trong những năm sau, hay là, nên tính toán xem, khai thác gỗ năm nay hay là chờ một vài năm nữa cho cây đủ lớn, đủ cao rồi mới khai thác. Rõ ràng, đây là những vấn đề có tầm vóc "liên thời gian" rộng lớn, bao gồm các mối quan hệ giữa hiện tại và tương lai. Một số vấn đề môi trường cũng có đặc trưng tương tự như vậy, đặc biệt là khi giải quyết các chất ô nhiễm đang tích tụ hoặc các chất ô nhiễm cần có thời gian để tiêu huỷ. Trên thực tế, cái đang bị suy giảm đi ở 32
  29. đây chính là "khả năng đồng hoá" của Trái Đất, tức là khả năng của hệ thống tự nhiên có thể chấp nhận được một số chất ô nhiễm nhất định và làm cho chúng trở nên hữu ích hoặc vô hại. Một đặc điểm của thế giới hiện đại là ranh giới giữa tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên môi trường, trong nhiều trường hợp, đang bị xoá nhoà. Nhiều quy trình khai thác tài nguyên như khai thác gỗ, khai thác mỏ có những ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng môi trường. Ngược lại, cũng có nhiều ví dụ về ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường có tác động đến các quy trình khai thác tài nguyên. Ô nhiễm nước ở cửa sông cản trở sự bổ sung nguồn cá hay ô nhiễm không khí làm giảm sản lượng nông nghiệp. Một thứ khác, chẳng hạn như đời sống hoang dã, có thể được coi vừa là tài nguyên thiên nhiên, vừa là thuộc tính của môi trường. Mặc dù khó có thể minh định rạch ròi tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên môi trường, nhưng các nhà kinh tế cũng đã phân biệt giữa hai dịch vụ của thế giới tự nhiên: là nguyên liệu và môi trường. 4. Cân bằng vật chất và chất lượng môi trường Sơ đồ 1. 2: Cân bằng vật chất và quan hệ giữa kinh tế và môi trường Môi trường thiên nhiên r Đã tái tuần hoàn (R p) Chất thải (R ) d Nguyên P Thải bỏ (RP ) Người sản xuất Liệu Hàng hoá (G) Chất thải Thải bỏ Người tiêu thụ d (RC) (RC ) r Đã tái tuần hoàn (R c) Môi trường thiên nhiên Nguồn: Phiên bản từ Barry C. Field. Environmental Economics: an introduction. 1994, p.24 Thông qua sơ đồ 2 cho thấy một biểu hiện phức tạp hơn về mối quan hệ giữa kinh 33
  30. tế và môi trường thông qua biến đổi của dòng vật chất. Trong sơ đồ này cho ta thấy, những yếu tố ở bên trong hình bầu dục là các bộ phận của hệ thống kinh tế. Toàn bộ các yếu tố đó, về cơ bản, được bao bọc bên trong môi trường tự nhiên. Kinh tế học được chia ra thành hai phân đoạn lớn: "người sản xuất" và "người tiêu thụ". "Người sản xuất" bao gồm toàn bộ các hãng, công ty thu nạp và chuyển hoá những đầu vào thành những đầu ra hữu ích. Ngoài ra, "người sản xuất" còn bao gồm những đơn vị khác như các hãng / công ty công cộng, các tổ chức không lợi nhuận và các công ty sản xuất dịch vụ như vận tải. Tóm lại, "người sản xuất" là tất cả các thực thể kinh tế trong hệ thống cho đến bản thân "người tiêu thụ". Những đầu vào chủ yếu của khu vực sản xuất lấy từ môi trường tự nhiên là các vật tư ở dạng tự nhiên là các vật tư ở dạng nhiên liệu, khoáng sản và gỗ, chất lỏng như nước và dầu mỏ, nhiều loại khí như khí tự nhiên và ô xy. Tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ đều bắt nguồn từ các vật tư nhờ sử dụng năng lượng đưa vào. Như vậy, hàng hoá và dịch vụ đã được sản xuất ra chính là hiện thân của một phần nguồn vật chất và năng lượng này để rồi sau đó hướng đến "người tiêu thụ". "Người tiêu thụ" cũng có thể sử dụng nguồn vật chất và năng lượng lấy trực tiếp từ tự nhiên mà không qua khâu trung gian (người sản xuất). Chẳng hạn, chúng ta có thể dùng nước giếng khơi tại nhà hoặc lấy củi để đun nấu. Nhưng để đơn giản hoá, những chức năng này không được tính đến và đưa vào lược đồ. Trong trường hợp đó, chúng ta có thể coi "người sản xuất" và "người tiêu thụ" là một. Sản xuất và tiêu thụ tạo nên "chất bã" (chất thải), bao gồm tất cả các loại cặn bã vật chất có thể thải vào không khí hoặc nước, hay được huỷ bỏ trên mặt đất. Các chất thải rất nhiều và danh sách của chúng dài đến nỗi không thể tin được: đioxyt lưu huỳnh, hợp chất hữu cơ bay hơi, dung môi độc hại, phân động vật, thuốc trừ sâu, các loại bụi lơ lửng, vật liệu xây dựng thải ra, kim loại nặng, vân vân và vân vân. Năng lượng thải ra dưới dạng nhiệt, tiếng ồn và phóng xạ mang đặc trưng của cả vật chất và năng lượng cũng là những chất thải quan trọng của sản xuất. "Người tiêu thụ" cũng phải chịu trách nhiệm về việc thải vào môi trường một lượng chất thải khổng lồ, đặc biệt là cống rãnh và khí do ô tô thải ra. Tất cả các vật chất kết tính trong hàng hoá của người tiêu thụ cuối cùng tất yếu phải kết thành các thứ để lại, ngay cả khi chúng có thể được tái tuần hoàn. Điều này giải thích tại sao ngày càng có một lượng lớn chất thải rắn, các hoá chất độc hại và dầu đã sử dụng còn tồn tại. Trước hết, chúng ta hãy xem xét vấn đề chất thải của sản xuất và tiêu thụ trên quan điểm hoàn toàn vật lý. Sơ đồ 2 cho thấy vật chất và năng lượng được khai thác từ môi trường tự nhiên và chất thải được thải trở lại vào môi trường tự nhiên. Định luật thứ nhất của nhiệt động học - định luật nổi tiếng về bảo toàn vật chất - chỉ cho chúng ta thấy rằng: trong cuộc "chạy đua đường dài", hai dòng này phải bằng nhau, 34
  31. nghĩa là: d d M = Rp + Rc (theo các ký hiệu ở sơ đồ 2) Tại sao chúng ta lại nói trong cuộc "chạy đua đường dài"? Nếu hệ thống lớn lên, thì nó có thể giữ lại một tỷ lệ nào đó những đầu vào lấy từ môi trường tự nhiên theo hướng tăng quy mô của hệ thống (do dân số tăng lên, thiết bị chủ yếu tập trung và tích tụ lại, v.v ) Nhưng nếu và khi hệ thống không lớn lên nữa, thì điều này sẽ không còn (bị huỷ bỏ). Sự tái tuần hoàn, rõ ràng, có thể làm chậm tốc độ tích lũy chất thải. Nhưng, tái tuần hoàn không bao giờ có thể hoàn chỉnh, mỗi chu kỳ hẳn sẽ mất đi một tỷ lệ nào đó chất được tái tuần hoàn. Do đó, phương trình cân bằng vẫn giữ nguyên trong cuộc "chạy đua đường dài". Điều này chứng tỏ một kết luận rất cơ bản là: nếu chúng ta muốn giảm khối lượng chất thải vào môi trường tự nhiên, thì chúng ta phải giảm số lượng nguyên vật liệu đưa vào hệ thống. Để hiểu rõ hơn, bây giờ chúng ta thay thế M theo dòng: d d r r Rp + Rc = M = G + Rp - Rp - Rc nghĩa là số lượng nguyên vật liệu (M) bằng tái sản xuất ra (G) cộng với chất thải sản xuất (Rp) trừ đi tổng lượng được tái tuần hoàn của người sản xuất (Rpr) và của người tiêu thụ (Rcr). Có ba cách chủ yếu để giảm M (và do đó giảm chất thải vào môi trường tự nhiên): a. Giảm G: tức là giảm chất thải bằng cách giảm số lượng hàng hoá và dịch vụ do nền kinh tế sản xuất ra. ở đây, có nhiều quan điểm khác nhau. Một số người cho rằng, đây là câu trả lời tốt nhất, lâu dài cho sự suy thoái môi trường, giảm đầu ra, hoặc chí ít cũng là ngăn chặn được tốc độ tăng trưởng của nó, thực hiện được sự thay đổi tương ứng về số lượng chất thải. Một số người khác lại tìm cách đạt mục tiêu này thông qua chủ trương "dân số không tăng trưởng". Dân số tăng chậm hoặc không tăng có thể làm cho việc kiểm soát tác động môi trường dễ dàng hơn, nhưng không thể nào kiểm soát tác động môi trường bằng bất cứ cách nào vì hai lý do sau đây: một là, dân số không thay đổi có thể tăng về kinh tế và do đó tăng nhu cầu về nguyên vật liệu; hai là, tác động môi trường có thể là lâu dài và lũy tích, cho nên ngay cả khi dân số không tăng, môi trường vẫn có thể bị suy thoái dần. Có một điều luôn luôn đúng ở đây là tăng dân số sẽ thường làm trầm trọng thêm tác động môi trường của nền kinh tế. Trong các nền kinh tế của nhiều nước công nghiệp phát triển, trong mấy thập kỷ vừa qua, nhờ có công nghệ kiểm soát khí ô nhiễm, nên khí ô nhiễm của mỗi xe ô tô phát ra đã giảm đáng kể, nhưng do số lượng ô tô chạy trên xa lộ đã tăng lên rất nhiều, nên đã làm cho tổng lượng khí ô nhiễm do ô tô phát ra ở nhiều vùng tăng lên. b. Giảm Rp: Có một cách khác để giảm M và do đó giảm được chất thải ra, đó là giảm Rp. Giả sử là các dòng khác không thay đổi. Điều này có nghĩa rằng chủ yếu 35
  32. là thay đổi tổng lượng chất thải sản sinh ra trong quá trình sản xuất với số lượng thành phẩm sản xuất đã cho. Về cơ bản, chỉ có hai cách để thực hiện điều này. Cách thứ nhất là chúng ta nghiên cứu, chế tạo và áp dụng các công nghệ và thiết bị mới vào sản xuất nhằm tạo ra lượng chất thải ít hơn trên một đơn vị thành phẩm. Có thể gọi đấy là giảm "cường độ chất thải" của sản xuất. Khi bàn đến vấn đề phát thải khí CO2 toàn cầu và khí quyển nóng lên chẳng hạn, thì chúng ta có thể thấy rằng, có rất nhiều điều có thể làm được để giảm cường độ CO2 trong quá trình sản xuất năng lượng đầu vào để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, v.v Cách thứ hai là thay đổi thành phần bên trong của sản phẩm. Sản phẩm G hiện nay bao gồm một số lớn các hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Giữa chúng có sự khác biệt lớn về chất thải sinh ra trong quá trình sản xuất ra chúng. Do đó, muốn giảm tổng lượng chất thải phải thay đổi thành phần của G theo hướng từ tỷ lệ chất thải cao đến tỷ lệ chất thải thấp trong khi vẫn giữ nguyên tổng số. Sự chuyển dịch từ kinh tế sản xuất chế tạo sang kinh tế dịch vụ là bước đi theo hướng này. Trong hơn nửa thế kỷ qua, khu vực dịch vụ của các nước công nghiệp phát triển đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh. r r c. Tăng (Rp + Rc ): Khả năng thứ ba là tăng tái tuần hoàn. Thay vì thải các chất thải sản xuất và tiêu thụ, chúng ta có thể tái tuần hoàn, đưa chúng trở lại vào quy trình sản xuất. Nhờ có tài tuần hoàn mà chúng ta có thể thay thế một phần dòng khởi nguyên của các nguyên vật liệu chưa khai thác (M) và do đó, giảm bớt lượng chất thải, đồng thời vẫn duy trì được lượng hàng hoá và dịch vụ (G). Trong nền kinh tế hiện đại, tái tuần hoàn tạo cơ hội lớn để giảm dòng thải. Tuy nhiên, tái tuần hoàn không bao giờ có thể hoàn chỉnh được, ngay cả khi chúng ta dành cho nó rất nhiều nguồn lực, bởi vì quy trình sản xuất làm thay đổi cấu trúc vật lý của nguyên vật liệu đầu vào nên gây khó khăn cho việc tái sử dụng chúng. Nguồn vật chất đã chuyển hoá thành năng lượng thì không thể nào có thể phục hồi được. Thêm nữa, bản thân quy trình tái tuần hoàn cũng có thể tạo nên chất thải. Hy vọng rằng, các nghiên cứu, tìm kiếm trong lĩnh vực này sẽ phát hiện ra nhiều phương pháp tái tuần hoàn mới, nhiều quy trình công nghệ không có hoặc có ít chất thải. III. Biến đổi môi trường 1. Khái niệm chung về biến đổi môi trường 1.1. Khái niệm: chất phát thải ra môi trường, chất lượng môi trường vùng xung quanh và tổn thất d d Bây giờ chúng ta hãy xem điều gì xẩy ra ở cuối hai mũi tên Rp và Rc trong sơ đồ 1.2. Rất dễ nhận thấy rằng đó là các chất phát thảit ra môi trường. 36
  33. Chất phát thải ra môi trường là các chất thải sau sản xuất hay tiêu dùng của hoạt động kinh tế được đưa trực tiếp vào môi trường, khi vượt quá khả năng hấp thụ của môi trường chúng sẽ làm thay đổi chất lượng môi trường ở vùng xung quanh, gây ra thiệt hại cho con người và sinh vật trong vùng bị ảnh hưởng . Mối liên hệ nhân - quả này được thể hiện ở sơ đồ 1.3. Sơ đồ 1.3 nêu ra hai nguồn chất phát thải ra môi trường 1 và 2 (có thể là do doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước hay cá nhân người tiêu dùng). Các đầu vào bao gồm nhiều loại vật tư, hàng hoá và áp dụng nhiều loại công nghệ khác nhau trong sản xuất và tiêu thụ. Đương nhiên, trong quy trình chúng ta tạo ra các chất phát thải. Việc xử lý các chất này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các giai đoạn tiếp theo. Một số có thể được phục hồi và tái tuần hoàn; còn phần nhiều được chuyển sang các quy trình xử lý để làm cho chúng vô hại khi phát thải ra môi trường. Trong các quy trình xử lý chất thải, một số mang tính vật lý thuần tuý như bộ giảm thanh ở xe du lịch và xe tải, bể lắng ở các nhà máy xử lý nước thải, bộ chuyển hóa xúc tác, v.v ; còn một số khác gồm các loại xử lý bằng hoá chất, chẳng hạn như kỹ thuật xử lý nguồn nước thải gia đình đang áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. 37
  34. Sơ đồ 3: Chất phát ra, chất lượng môi trường vùng xung quanh và thiệt hại Nguồn 1 Nguồn 2 Đầu vào sản Đầu vào sản phẩm công nghệ phẩm công nghệ Sản xuất hoặc Sản xuất hoặc tiêu thụ tiêu thụ Xử lý chất thải Xử lý chất thải Chất phát thải ra Chất phát thải ra (thời gian, loại) (thời gian, loại) Nước Không khí Đất Các quy trình Vật lý Hoá học Thuỷ học Khí tượng Biến đổi chất lượng môi trường vùng xung quanh: ấ Phản ứng của con người và sinh vật Thiệt hại cho con người và hệ sinh thái 38
  35. Tất cả các chất phát thải ra môi trường đều được đưa vào một thành phần môi trường cụ thể nào đó: nước, không khí hay đất, các thành phần này có sự liên quan rất chặt chẽ với nhau. Từ sơ đồ trên ta thấy mặc dù các dòng vật chất phát thải ra từ hai nguồn khác nhau, nhưng khi đã phát thải vào thành phần môi trường chúng hợp lại với nhau thành một nguồn phát thải hỗn hợp . Ví dụ: Chất phát thải ra nguồn nước từ hai nhà máy giấy cùng phân bố dọc bờ của một con sông thì hỗn hợp chất thải trong nước sông không thể phân định là của nhà máy nào. Hay là, khi có một triệu chiếc mô tô chạy trong một thành phố, thì chất thải phát ra của chúng kết hợp lại thành một hỗn hợp đồng nhất. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp chúng ta có thể phân định được. Ví dụ, nếu có một nhà máy nhiệt điện phân bố trong thành phố và nhà máy khác lại phân bố cách thành phố vài ba chục cây số ở đầu gió, thì rõ ràng là nhà máy điện ở gần hơn phải chịu trách nhiệm lớn hơn trong việc gây ô nhiễm không khí trong thành phố. Hỗn hợp các chất phát thải ra môi trường là một vấn đề rất quan trọng. Nếu chỉ có một nguồn phát thải thì trách nhiệm được phân định một cách rõ ràng và để cải thiện chất lượng xung quanh, chúng ta có thể biết được một cách chính xác phải kiểm soát những chất phát thải nào. Nhưng với nhiều nguồn phát thải khác nhau, thì vấn đề trở nên phức tạp và kém rõ ràng hơn. Khi các chất thải với số lượng và chất lượng nhất định được thải vào một thành phần của môi trường, thì các quá trình lý, hoá, sinh, khí động học, v.v của hệ thống tự nhiên sẽ có những điều chỉnh làm cho chúng có ảnh hưởng khác nhau đến chất lượng ở vùng xung quanh. Vì những điều kiện khí hậu và thời tiết thường xuyên thay đổi, nên cùng một mức độ phát thải vào môi trường, có thể gây nên mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với môi trường xung quanh tại các thời điểm khác nhau. Mưa axít được sinh ra do các quá trình phát thải điôxyt lưu huỳnh từ hoạt động sản xuất và hơi nước trong không khí, sau đó được gió làm loãng trong bầu khí quyển. Khói bụi trong bầu khí quyển cũng là kết quả của các phản ứng hoá học tổng hợp giữa ánh sáng mặt trời và nhiều chất ô nhiễm khác. Các quá trình thuỷ động học nước ngầm có ảnh hưởng đến sự vận chuyển các vật chất trong hệ thống nước ngầm dưới đất, v.v Do đó, muốn biết được các chất phát thải vào môi trường ảnh hưởng đến chất lượng môi trường vùng xung quanh, chúng ta cần hiểu rõ bản thân môi trường hoạt động như thế nào về mặt vật lý, hóa học và sinh học. Đây chính là những lĩnh vực của các nhà khoa học tự nhiên, nghiên cứu toàn bộ các hiện tượng biến đổi của môi trường nhằm xác định ảnh hưởng đến chất lượng môi trường xung quanh. Những sự thay đổi của thành phần môi trường sẽ dẫn đến sự biến đổi của các hệ sinh thái và những biến đổi khác, thường những sự biến đổi đó gây ra những tổn 39
  36. thất mà con người phải gánh chịu. Và, cuối cùng, những tổn thất phải gánh chịu lại có liên quan đến việc đánh giá của con người. Con người không thể có những quyết định vô căn cứ khi giải quyết mối quan hệ tương tác giữa kinh tế và môi trường, mà chúng ta chỉ có thể ưa thích những quyết định này hơn so với lựa chọn khác khi chúng ta đánh giá được giá trị tổn thất về mặt kinh tế do biến đổi môi trường gây ra. 1.2. Các loại chất ô nhiễm Về mặt vật lý, như chúng ta thấy trong sơ đồ 1.3, các chất phát thải ra môi trường vào ba thành phần môi trường khác nhau. Tuỳ theo mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến trạng thái kinh tế của chất phát thải, chúng ta có thể phân chúng thành các loại sau đây: a. Chất ô nhiễm luỹ tích và chất ô nhiễm không luỹ tích Một đặc trưng quan trọng và đơn giản của chất ô nhiễm môi trường là chúng được tích luỹ theo thời gian hay có xu hướng tiêu tan ngay sau khi được phát ra. Ví dụ, tiếng ồn. Khi nguồn gây tiếng ồn hoạt động thì tiếng ồn phát ra và lan truyền vào không gian xung quanh, nhưng ngay khi tắt nguồn thì tiếng ồn cũng mất. ở đầu này chất ô nhiễm được phát ra, thì ở đầu kia chúng ta sẽ có chất ô nhiễm môi trường với số lượng gần như lúc chúng phát ra. Như chất thải phóng xạ chẳng hạn, chúng phân rã theo thời gian, nhưng với tốc độ hết sức chậm so với đời sống của con người, cho nên chúng sẽ tồn tại vĩnh viễn với chúng ta. Chúng là loại chất ô nhiễm cực kỳ lũy tích. Hay chất dẻo cũng vậy. Mặc dù trong nhiều thập kỷ qua, người ta đã tiến hành nghiên cứu để tìm ra các chất dẻo thoái hoá được, nhưng chất dẻo vẫn là một chất phân huỷ rất chậm. Nó cũng là chất ô nhiễm luỹ tích. Nhiều loại hoá chất là chất ô nhiễm luỹ tích, mỗi khi phát ra, về cơ bản, chúng vẫn tồn tại với chúng ta. Xen kẽ giữa chất ô nhiễm luỹ tích và không luỹ tích là loại chất ô nhiễm lũy tích đến một mức độ nhất định nào đó, chứ không luỹ tích hoàn toàn. Ví dụ: Chất thải hữu cơ phát ra vào môi trường nước của các nhà máy xử lý chất thải đô thị. Mỗi khi phát ra, chất thải chịu tác động của quá trình hoá học tự nhiên, có xu hướng phá vỡ cấu trúc của nó, làm cho nó trở nên vô hại. Nói cách khác, nước có khả năng đồng hoá tự nhiên nên có thể tiếp nhận các chất hữu cơ và làm cho chúng ít có hại hơn. Nếu như không vượt quá khả năng đồng hoá đó, chúng ta có thể cắt nguồn chất thải đi thì trong một thời gian nhất định, nước sẽ trở lại bình thường. Đương nhiên, tự nhiên có một ít khả năng đồng hoá không có nghĩa là chúng ta có các chất ô nhiễm hoàn toàn không tích luỹ. Khi chất thải phát ra đã vượt quá khả năng đồng hoá thì có nghĩa là chúng ta chuyển vào quy trình lũy tích. Ví dụ: Khí quyển của Trái Đất có một khả năng nhất định hấp thụ CO2 do hoạt động của con người phát ra, miễn là không vượt quá khả năng đó. CO2 là một chất ô nhiễm không luỹ tích. Nhưng, nếu khả năng đồng hoá CO2 của Trái Đất bị vượt quá, thì tất yếu chúng ta sẽ lâm 40
  37. vào tình thế chất phát ra lũy tích theo thời gian. Đây là điều đang xảy ra hiện nay. Sơ đồ1.4: Mối quan hệ giữa các chất phát thải phổ biến và nồng độ ô nhiễm ở xung quanh a) Chất ô nhiễm không luỹ tích b) Chất ô nhiễm luỹ tích g g xun xun ở ở n n ế ế bi bi ổ ổ h h p p ộ ộ đ đ g g n n ồ ồ Các n Các n Các chất phát thải phổ Các chất phát thải phổ ế ế Nguồn: Sách đã dẫn, trang 32 Đối với một chất ô nhiễm có luỹ tích hay không, thì chúng ta vẫn có cùng một vấn đề cơ bản. Đó là nêu ra những tổn thất môi trường và chi phí làm giảm chất phát thải. Với chất ô nhiễm lũy tích, điều này khó giải quyết hơn nhiều so với chất ô nhiễm không luỹ tích. Sơ đồ 1. 4 biểu thị (a) chất ô nhiễm không luỹ tích và (b) chất ô nhiễm luỹ tích. ở bên (a), đồ thị bắt đầu từ gốc tức là các nồng độ phổ biến xung quanh tỷ lệ với các chất phát thải phổ biến. Rõ ràng là các nồng độ ở xung quanh là một hàm của các chất phát thải phổ biến. Nếu giảm được các chất phát thải xuống số không thì sẽ làm cho các nồng độ ở xung quanh là số không. Tuy nhiên, đối với chất ô nhiễm luỹ tích thì mối quan hệ này trở nên phức tạp hơn. Vì chúng luỹ tích, nên các chất thải hiện nay bổ sung vào lượng chất ô nhiễm đã có sẽ gây thiệt hại không những cho hôm nay, mà còn cho tương lai, thậm chí tương lai xa hơn. Điều đó có nghĩa là số lượng phổ biến ở môi trường xung quanh của một chất ô nhiễm luỹ tích có thể chỉ ít có quan hệ với các chất phát thải phổ biến. Nhìn vào sơ đồ 1. 4, ta thấy đồ thị bên (b) bắt đầu khá xa trên trục tung và thoải hơn đồ thị bên (a). Do đó, việc cắt giảm chất phát thải ra hôm nay chỉ đem lại hiệu quả khá khiêm tốn đến nồng độ chất phát thải phổ biến. Và ngay cả khi chúng ta cắt giảm chất phát thải ngày hôm nay xuống số không, thì chất lượng môi trường xung quanh vẫn bị giảm sút do hiệu ứng luỹ tích của các chất phát thải trước đây. Trên thực tế, một chất ô nhiễm luỹ tích theo thời gian trong môi trường gây nên hiệu ứng phá vỡ mối quan hệ trực tiếp, chặt chẽ giữa chất phát thải phổ biến và thiệt hại phổ 41
  38. biến. Giải quyết mối quan hệ nhân - quả phức tạp này đòi hỏi những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn để tìm ra các giải pháp cơ bản, lâu dài và khả thi. b) Chất ô nhiễm địa phương, vùng và toàn cầu Các chất phát thải có phạm vi ảnh hưởng rất khác nhau. Một số chất phát thải mang tính cục bộ, chỉ có ảnh hưởng trong một vùng nhỏ hẹp. Ví dụ: ô nhiễm tiếng ồn, suy thoái cảnh quan môi trường mang tính địa phương và thiệt hại do bất cứ nguồn nào gây ra cũng thường được giới hạn bởi các nhóm dân cư nhỏ sinh sống tại một vùng nhất định. Ngược lại, một số chất phát thải khác lại lan truyền ô nhiễm trong cả một vùng rộng lớn, có thể ảnh hưởng đến môi trường toàn cầu. Chẳng hạn, mưa axít là một vấn đề mang tính vùng; các chất phát thải tại một vùng nào đó ở Mỹ hoặc Châu Âu có ảnh hưởng đến dân cư của các vùng khác trong nước hay nước khác. Hiệu ứng làm suy giảm tầng ôzôn của Clo, Fluo, Các bon phát ra từ nhiều nước phát triển do những thay đổi hoá học ở tầng bình lưu của Trái Đất là ảnh hưởng mang tính toàn cầu. Đương nhiên, các vấn đề môi trường địa phương dễ giải quyết hơn so với các vấn đề môi trường vùng và quốc gia. Đến lượt mình, các vấn đề môi trường vùng và quốc gia dễ quản lý và giải quyết hơn so với các vấn đề môi trường toàn cầu. Nếu tôi đun bếp than thì làm ảnh hưởng đến hàng xóm và giữa tôi và hàng xóm có thể giải quyết được với nhau hoặc nếu không thì chúng tôi nhờ các nhà chức trách. Nhưng nếu tôi gây ô nhiễm ở phạm vi rộng hơn thì sẽ khó giải quyết hơn. Trong những năm gần đây, nhân loại đang phải đối đầu với những vấn đề môi trường toàn cầu tăng lên. Cho đến nay, chưa tìm ra những biện pháp hữu hiệu để giải quyết chúng, một phần là do chưa lí giải được một cách chính xác bản thân của các tác động vật lý của chúng và phần khác là do các tổ chức quốc tế chuyên trách chỉ mới hình thành và chưa hoạt động thực sự. c) Chất ô nhiễm có điểm nguồn và không có điểm nguồn Các nguồn ô nhiễm cũng khác nhau về mức độ dễ dàng nhận biết các điểm phát thải hiện tại. Chẳng hạn, các điểm mà ở đấy điôxyt lưu huỳnh thoát ra khỏi một nhà máy điện rất dễ nhận biết qua ống khói của nó. Hay là, các nhà máy xử lý chất thải đô thị thường chỉ có một cửa ống tháo xả tất cả các loại nước thải. Đó là các chất ô nhiễm có điểm nguồn. Nhưng ngược lại, có nhiều chất ô nhiễm không thể xác định được rõ ràng điểm phát thải. Ví dụ như các hoá chất dùng trong nông nghiệp. Chúng thường chảy tản mát ra trong đất và có thể gây ô nhiễm sông, suối, ao, hồ, hay mạch nước ngầm. Tuy nhiên, khó có thể xác định chúng phát ra từ đâu. Đây là chất ô nhiễm không có điểm nguồn. Sự thoát nước sau những trận mưa to ở các vùng đô thị cũng là một trường hợp ô nhiễm không có điểm nguồn. Đương nhiên, chúng ta dễ thấy rằng, chất ô nhiễm có điểm nguồn có thể được nghiên cứu, đo lường, giám sát và giải quyết dễ dàng hơn so với chất ô nhiễm không có điểm nguồn. Điều đó có nghĩa là phát triển và quản lý thông qua việc hoạch định và thực 42
  39. thi các chính sách kiểm soát ô nhiễm có điểm nguồn sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. d) Chất phát thải liên tục và không liên tục Các chất phát thải từ các nhà máy nhiệt điện hay các nhà máy xử lý chất thải đô thị, nhiều hay ít, đều mang tính liên tục, bởi vì nhà máy được thiết kế để vận hành một cách liên tục, mặc dù tốc độ vận hành có thể thay đổi theo thời gian (mùa vụ). Do đó, chất phát thải từ các nhà máy này ít nhiều là liên tục và vấn đề đặt ra ở đây chính là làm sao quản lý được tốc độ chất phát thải thông qua các chương trình quản lý hữu hiệu. Bên cạnh các chất ô nhiễm phát ra liên tục, còn có nhiều chất ô nhiễm phát ra không liên tục, từng hồi. Sự cố dầu hoặc hoá chất độc tràn ra là những ví dụ điển hình. Vấn đề chính sách môi trường ở đây là thiết kế và quản lý một hệ thống sao cho có thể giảm được tối đa sự cố môi trường. Các chất ô nhiễm phát ra từng hồi, trong thời gian ngắn, khó có thể đo lường được và chúng chứa đựng những hiểm hoạ khủng khiếp đối với tính mạng của con người (chẳng hạn các chất phóng xạ thoát ra khỏi các nhà máy điện nguyên tử). Vì vậy, để xác định nguy cơ của các chất ô nhiễm phát ra nhất thời, chúng ta phải thu thập các số liệu về diễn biến hiện thời qua một thời gian đủ dài hoặc ước lượng chúng dựa trên các thông tin thiết kế - xây dựng và hoạt động của nhà máy. Sau đó, chúng ta phải xác định mức bảo hiểm mong muốn đối với các chất ô nhiễm phát ra không liên tục, từng hồi. e) Tổn thất môi trường không liên quan đến chất thải ở trên, chúng ta đã tập trung vào những đặc tính của các loại chất ô nhiễm môi trường khác nhau có liên quan đến việc thải các chất thải vật chất và năng lượng. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng môi trường mà không thể theo dõi được qua các chất thải ra. Chẳng hạn, việc lấy đất trồng trọt để xây dựng nhà ở, đường sá, trung tâm thương mại, v.v làm giảm giá trị môi trường, giá trị môi sinh hay giá trị cảnh quan của đất đai. Hay là các kiểu sử dụng đất khác như để khai thác mỏ, khai thác gỗ cũng có những tác động rất lớn đến chất lượng môi trường. Trong tất cả mọi trường hợp, chúng ta đều phải đánh giá, phân tích những nguyên nhân thúc đẩy người ta tạo ra những tác động đó và tìm cách thay đổi những khuyến khích sao cho phù hợp với mục đích bảo vệ môi trường. Mặc dù chúng ta không thể giám sát, điều khiển lượng vật chất phát ra ở đây, song chúng ta có thể nắm bắt, mô tả, ước lượng những hậu quả có thể xảy ra để đề ra những giải pháp quản lý thích hợp. 2. Các dạng biến đổi môi trường 2.1. Ô nhiễm môi trường Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, ô nhiễm môi trường được định nghĩa 43
  40. như sau: "Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường". Quan niệm của thế giới cho rằng, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô nhiễm, bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lòng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chưa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ. Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu. 2.2. Suy thoái môi trường Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, suy thoái môi trường được định nghĩa như sau: "Suy thoái môi trường là sự làm thay đổi chất lượng và số lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và thiên nhiên" Trong đó, thành phần môi trường được hiểu là các yếu tố tạo thành môi trường bao gồm: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác. 2.3. Sự cố môi trường: Đánh giá rủi ro Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, sự cố môi trường được định nghĩa như sau: "Sự cố môi trường là các tai biến hoặc rủi ro xẩy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc biến đổi bất thường của thiên nhiên gây suy thoái môi trường nghiêm trọng" Sự cố môi trường xảy ra do: a. Bão, lũ, lụt, hạn hán, nứt đất, động đất, trượt đất, sụt lở đất, núi lửa phun, mưa axít, mưa đá, biến động khí hậu và thiên tai khác. b. Hoả hoạn, cháy rừng, sự cố kĩ thuật gây nguy hại về môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học, kĩ thuật, văn hoá, an ninh, quốc phòng. 44
  41. c. Sự cố trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác và vận chuyển khoáng sản, dầu khí; sập hầm lò, phụt dầu, tràn dầu, vỡ đường ống dẫn dầu, dẫn khí; đắm tàu, sự cố tại cơ sở lọc hoá dầu và các cơ sở công nghiệp khác. d. Sự cố trong lò phản ứng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử, nhà máy sản xuất, tái chế nhiên liệu hạt nhân, kho chứa chất phóng xạ. Đánh giá rủi ro là đánh giá về số lượng và chất lượng của rủi ro ảnh hưởng tới sức khoẻ con người và hệ sinh thaí, gây ra do độc hại môi trường tiềm năng hoặc thực tế. 3. Tiêu chuẩn môi trường Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam , "Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mức, giới hạn cho phép, được quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường" Thông qua định nghĩa cho thấy, tiêu chuẩn môi trường có quan hệ mật thiết với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Hệ thống tiêu chuẩn môi trường là một công trình khoa học liên ngành, nó phản ánh trình độ khoa học, công nghệ, tổ chức quản lý và tiềm lực kinh tế - xã hội có tính đến dự báo phát triển. Cơ cấu của hệ thống tiêu chuẩn môi trường bao gồm các nhóm chính sau đây. a. Những quy định chung b. Tiêu chuẩn nước, bao gồm nước mặt nội địa, nước ngầm, nước biển và ven biển, nước thải v.v c. Tiêu chuẩn không khí, bao gồm khói bụi, khí thải (các chất thải) v.v d. Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ đất canh tác, sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp. e. Tiêu chuẩn bảo vệ thực vật, sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ. f. Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ các nguồn gen, động thực vật, đa dạng sinh học. g. Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, văn hoá. h. Tiêu chuẩn liên quan đến môi trường do các hoạt động khai thác khoáng sản trong lòng đất, ngoài biển v.v Hiện nay ở việt nam chúng ta đã có bộ tiêu chuẩn quy định về chất lượng môi trường do cục đo lường tiêu chuẩn, bộ khoa học cộng nghệ và môi trường trước đây ban hành. 45
  42. IV. Phát triển 1.Khái niệm về phát triển -Thuật ngữ "phát triển" đã được dùng trong các văn kiện, trong nghiên cứu khoa học và trong sinh hoạt hàng ngày đến mức quá quen thuộc. Tuy nhiên, cho đến nay chưa thể nói được rằng khái niệm "phát triển" đã được hiểu một cách đầy đủ và đúng đắn. - Phát triển là xu hướng tự nhiên đồng thời là quyền của mỗi một cá nhân, mỗi một cộng đồng hay mỗi một quốc gia. - Trước hết, cần nhận thức rõ đối tượng, mục tiêu và động lực của sự phát triển. Con người vừa là đối tượng, vừa là động lực của phát triển. Vì thế, mục tiêu của sự phát triển là không ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống vật chất, văn hoá, tinh thần của con người (cá nhân hay cộng đồng). Nói cách khác: - Phát triển là tạo điều kiện cho con người sinh sống bất kỳ nơi đâu trong một quốc gia hay trên cả hành tinh đều được trường thọ, đều được thoả mãn các nhu cầu sống, đều có mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ tốt mà không phải lao động quá cực nhọc, đều có trình độ học vấn cao, đều được hưởng những thành tựu về văn hoá và tinh thần, đều có đủ tài nguyên cho một cuộc sống sung túc, đều được sống trong một môi trường trong lành, đều được hưởng các quyền cơ bản của con người và được bảo đảm an ninh, an toàn, không có bạo lực. 2. Phát triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế - Phát triển kinh tế là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của sự phát triển nói chung. Nhưng phát triển kinh tế không phải là mục đích tự thân và cũng không thể là vô hạn. Nó phải phục vụ, thúc đẩy để đạt được các mục tiêu chung của sự phát triển. - Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, bất cứ nền kinh tế nào cũng đều phải bảo đảm tăng trưởng và phát triển. Tuy nhiên, trong lý luận cũng như trong thực tiễn kinh tế, đôi khi có sự lầm lẫn giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, người ta dễ đồng nhất hai khái niệm đó. “Phát triển Kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về qui mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế – xã hội” Nguồn: Kinh tế phát triển, tập I, trang 15. NXBTK.1999 - Tăng trưởng kinh tế, theo cách hiểu hiện đại, là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm năng của một nước, sự tăng lên không ngừng GNP tiềm năng thực (GNP thực - là GNP đã được điều chỉnh theo sự thay đổi giá: GNP thực = GNP danh nghĩa- Giảm phát của GNP) 46
  43. Việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất, nói một cách khác, đó là việc chuyển dịch khả năng sản xuất ra phía ngoài qua thời gian, đó là tăng sản lượng, năng suất, tiền công và những đại lượng quan trọng khác theo chiều hướng nhất định. Tăng trưởng kinh tế được đo bằng tốc độ và quy mô + Tốc độ tăng trưởng được tính bằng tỉ lệ phần trăm thông qua việc so sánh quy mô của hai thời kỳ. Quy mô của thời kỳ sau so với thời kỳ trước càng lớn thì tốc độ tăng trưởng càng nhanh. Quy mô được biểu hiện bằng số lượng tuyệt đối, còn tốc độ tăng trưởng được biểu hiện bằng số lượng tương đối. Quy mô của thời kỳ sau so với thời kỳ trước càng lớn thì tốc độ tăng trưởng càng nhanh. Nhưng không phải tốc độ tăng trưởng càng nhanh thì càng tốt! + Trong nền kinh tế, sự tăng trưởng chung thể hiện ở tốc độ tăng GNP và tốc độ tăng GDP, mà chúng lại phụ thuộc vào tốc độ tăng giá trị sản lượng, sản lượng thuần tuý của các ngành kinh tế. Nhưng tốc độ tăng của các ngành lại khác nhau theo những quy luật nhất định. Vì thế, trong từng thời kỳ, nếu không bảo đảm được các mối quan hệ có tính quy luật giữa các ngành, thì sẽ gây rối loạn trong nền kinh tế, hạn chế sự phát triển chung của nền kinh tế. - Như vậy, ta thấy: tăng trưởng kinh tế chưa phải là phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế, mặc dù rất quan trọng, nhưng chỉ mới là điều kiện cần của phát triển kinh tế. Điều kiện đủ của phát triển kinh tế là trong quá trình tăng trưởng kinh tế phải bảo đảm được tính cân đối, tính hiệu quả, tính mục tiêu và tăng trưởng kinh tế trước mắt phải bảo đảm tăng trưởng kinh tế trong tương lai. 3.Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển. - "Môi trường hay phát triển": một cách đặt vấn đề sau lầm. Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, đã có một thời, nhất là sau cuộc cách mạng công nghiệp, phát triển kinh tế được đặt lên hàng đầu, lấn át tất cả những yếu tố khác của sự phát triển: xã hội, văn hoá, môi trường, quyền con người, v.v Thậm chí, khuynh hướng "phát triển với bất cứ giá nào", phát triển tự phát đã trở nên thịnh hành, gây ra những hậu quả hết sức tai hại cho cả môi trường lẫn xã hội, văn hoá. Ngay cả trong thời điểm hiện nay, khi mà cuộc chạy đua phát triển giữa các quốc gia, giữa các khu vực kinh tế của thế giới đang diễn ra ngày càng gay gắt, khốc liệt, thì khuynh hướng "phát triển với bất cứ giá nào" vẫn được tôn sùng trên thực tế, đặc biệt là ở các nước đang phải đối đầu với nghèo đói, lạc hậu, kinh tế chậm phát triển. Trong bối cảnh đó, người ta dễ có khuynh hướng hi sinh môi trường và các yếu tố khác cho phát triển kinh tế. Những người quá sốt ruột trước tình trạng lạc 47
  44. hậu, kém phát triển của nước mình thường lập luận rằng "cứ phát triển kinh tế đã rồi sẽ tính sau". Kết quả là môi trường bị suy thoái làm cho cơ sở của phát triển bị thu hẹp; tài nguyên của môi trường bị giảm sút về số lượng và chất lượng, trong điều kiện dân số ngày càng tăng lên, chính là nguyên nhân gây nên sự nghèo khó, cùng cực của con người. Tấn thảm kịch ở một số nước châu Phi (như Xômali, Êtiopia, Uganda, Ruanđa, v.v ) là một bằng chứng cho sự "ô nhiễm do nghèo đói" (Pollution of Poverty) ở các nước đang phát triển. - Ngược lại với khuynh hướng trên là khuynh hướng "tăng trưởng bằng không hoặc âm" (Zero or Negative Growth) để bảo vệ các nguồn tài nguyên hữu hạn, hoặc "chủ nghĩa bảo vệ" chủ trương không can thiệp vào các nguồn tài nguyên sinh học để bảo vệ chúng: hay "chủ nghĩa bảo tồn" (Conservationism) chủ trương không đụng chạm vào thiên nhiên, nhất là tại các địa bàn chưa được điều tra, nghiên cứu đầy đủ. Tất cả những khuynh hướng, quan điểm trên đều là không tưởng, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, nơi mà tài nguyên thiên nhiên là nguồn vốn cơ bản cho mọi hoạt động phát triển của con người. Lý thuyết không tưởng về"đình chỉ phát triển" thường xuất hiện ở các nước phát triển, bởi vì trước đây và ngay cả hiện nay phần lớn các nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển bị khai thác lạm dụng, tiêu thụ quá mức để phục vụ cho các lợi ích của các nước công nghiệp hoá phát triển và chính tại đây lại xảy ra hiện tượng "ô nhiễm do giàu có" (Pollution of affluence). Như vậy, tình trạng thiếu lương thực, nước uống, nhà ở, thuốc men, vệ sinh, nghèo đói, mù chữ, thiên tai ở các nước đang phát triển, hay nói cách khác là hiện tượng "ô nhiễm do nghèo đói" một phần bắt nguồn từ "ô nhiễm do giàu có". -Từ những điều trình bày trên, ta thấy: phát triển và môi trường không phải là hai vế luôn luôn đối kháng và mẫu thuẫn nhau theo kiểu loại trừ, có cái này thì không có cái kia. Do đó, không thể chấp nhận cách đặt vấn đề "phát triển hay môi trường", mà phải đặt vấn đề "phát triển và môi trường", nghĩa là phải lựa chọn và coi trọng cả hai, không hy sinh cái này vì cái kia. 4. Các mô hình chiến lược phát triển Tổng kết kinh nghiệm phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới, có thể phân ra ba mô hình chiến lược phát triển sau đây: 4.1 Mô hình tăng trưởng tân cổ điển. Mô hình loại này hoạt động theo cơ chế thị trường kế hoạch hoá dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân, tích luỹ vốn từ trong nước và thu hút vốn từ nước ngoài. Hiện nay, mô hình này tỏ ra không có hiệu quả do những nhược điểm thường thấy 48
  45. ở các nước đang phát triển về cơ cấu và thể chế kinh tế - xã hội như: thiếu một thị trường năng động, thiếu hạ tầng cơ sở, thiếu kiến thức về kỹ thuật và quản lý, ảnh hưởng tiêu cực của các thế lực chính trị bảo thủ ở trong và ngoài nước gây ra những trở lực lớn cho phát triển. Tình trạng này đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản về cơ cấu kinh tế, cải cách triệt để về kinh tế - xã hội tại các nước đang phát triển. Đối với bảo vệ môi trường và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cơ chế của mô hình này có ưu điểm là xác định sở hữu tư nhân rõ ràng, tuy nhiên trong nhiều trường hợp nó cũng thể hiện tính kém hiệu quả, bởi lẽ sở hữu tư nhân có những mặt hạn chế nhất định trong việc quản lý những nguồn tài nguyên sở hữu chung, khả năng kiểm soát của Nhà nước sau khi đã giao quyền sở hữu. 4.2 Mô hình cơ cấu tân mácxí. Mô hình này dựa trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung, sở hữu Nhà nước về các tư liệu sản xuất chủ yếu, Nhà nước thống nhất quản lý kinh tế, tiến hành những cải cách về cơ cấu và cơ chế xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ phong kiến và tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội XHCN. Trong mô hình này các quốc gia cũng quan tâm nhiều tới bảo vệ môi trường và duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cơ chế của nó có ưu thế là sức mạnh quản lý Nhà nước tập trung cao độ, tuy nhiên do tính chất sở hữu chung trong điều kiện thiếu luật pháp nên dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, tài nguyên sở hữu chung là nguyên nhân dẫn đến xuất hiện “người ăn không”. Do sở hữu Nhà nước đè nặng lên toàn bộ hoạt động kinh tế, nên cơ chế kế hoạch hoá tập trung thường mang tính chủ quan duy ý chí, nó cũng là nguyên nhân của “con dao hai lưỡi” trong điều hành và kiểm soát, nếu chính sách đúng thì có tác dụng tốt cho bảo vệ môi trường và duy trì các nguồn tai nguyên thiên nhiên, nhưng nếu chính sách sai thì nó là nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại cho tài nguyên và môi trường không lường trước được. Điều này đã từng gặp phải ở các nước XHCN trước đây. 4.3 Mô hình cơ cấu tư bản chủ nghĩa. Mô hình này hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân và cơ chế thị trường tự do, kế hoạch hoá phát triển kinh tế, nhưng những kế hoạch do Nhà nước đề ra chỉ mang tính định hướng, có tiến hành một số cải cách về cơ cấu và thể chế kinh tế như cải cách ruộng đất, tăng cường một số biện pháp kiểm tra và quản lý của Nhà nước đối với công nghiệp, có xây dựng một số xí nghiệp Nhà nước làm chủ lực cho nền kinh tế, có chú ý đến phân phối công bằng những thành quả phát triển kinh tế trong xã hội. Thực tế cho thấy hiện nay mô hình này đang có tính phổ biến trên thế giới, nó là sự kế thừa tiếp theo của hai mô hình trên. Đối với bảo vệ môi trường và duy trì, khai 49
  46. thác, bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cơ chế của mô hình này đã thể hiện được những tính ưu việt của nó, đó là sự kết hợp giữa phân định sở hữu tư nhân rõ ràng và sự điều hành kiểm soát của Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, cơ chế của mô hình này cho phép phản ánh thông tin hai chiều, kết hợp cơ chế thị trường, vai trò sở hữu tư nhân và sự điều hành kiểm soát của Nhà nước. Cơ chế của mô hình này cũng có những mặt trái của nó, gây ra những thiệt hại cho tài nguyên và môi trường, đặc biệt là việc buông lỏng quản lý, thực thi luật pháp thiếu nghiêm minh. 5. Mô hình chiến lược phát triển của Việt Nam 5.1. Trước Đại hội VI của Đảng (1986) Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất, hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. 5.2. Sau Đại hội VI của Đảng. - Sau Đại hội VI, đặc biệt là Đạir hội VII (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Trong đó, đã xác định mô hình chiến lược phát triển kinh tế của nước ta như sau: Xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước - Đến đại hội Đảng cộng sản việt nam lần thứ IX (2000), trong chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 2001-2010, về mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm của Việt nam là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Liên quan đến chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 2001-2010, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản việt nam đã khẳng định " Phát triển nhanh, bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường" và " Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và tiếp tục giải quyết hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường. Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, tăng cường quản lý Nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân. Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế-xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát triển. Việt nam được thế giới xác định là quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, thực tế như 50
  47. đã nêu ở trên, từ cương lĩnh đại hội Đảng lần thứ VI, đến đại hội Đảng lần thứ IX, trải qua 15 năm đổi mới và phát triển đã thể hiện tính đúng đắn của nó. Kinh tế liên tục tăng trưởng, xã hội ổn định, chúng ta là một trong những quốc gia tham gia tích cực vào công tác bảo vệ môi trường, duy trì và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tham gia nhiều công ước quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, duy trì đa dạng sinh học và phát triển bền vững. Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tiễn thời gian vừa qua, với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cũng đã thể hiện những mặt trái của nó. liên quan đến bảo vệ môi trường và bảo tồn, duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như vấn đề phá rừng, xâm phạm tài sản quốc gia, vấn đề khai thác và buôn bán động vật hoang giã, sự hạn chế giảm thiểu ô nhiễm ở các doanh nghiệp Nhà nước .Những lý do này đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý đối với bảo vệ môi trường, song song với nó là tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội trong chiến lược phát triển của mình, nhằm hướng tới phát triển bền vững như trong chiến lược phát triển của đất nước đến năm 2010 đã được đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định. V. Phát triển bền vững 1. Khái niệm "Phát triển bền vững" + Đây là khái niệm hoàn toàn mới mẻ, xuất hiện trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm phát triển của các quốc gia trên hành tinh từ trước đến nay, phản ánh xu thế của thời đại và định hướng tương lai của loài người. + Theo kinh tế học Herman Daly(∗) (làm việc ở Ngân hàng thế giới) thì một thế giới bền vững là một thế giới không sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo (như nước, thổ nhưỡng, sinh vật) nhanh hơn quá trình tìm ra những loại thay thế chúng và không thải ra môi trường các chất độc hại nhanh hơn quá trình Trái Đất hấp thụ và vô hiệu hoá chúng. + Năm 1987, ủy ban thế giới về Môi trường và Phát triển đã công bố báo cáo: tương lai chung của chúng ta. Báo cáo này đã đề cập và phân tích mối liên kết chặt chẽ giữa môi trường và phát triển. Theo như lời của chủ tịch ủy ban, Gro Harlem Brudtland: "Môi trường là nơi chúng ta đang sống; phát triển là những gì chúng ta làm để cố gắng cải thiện tất cả mọi thứ ở bên trong nơi chúng ta sống, và do vậy hai vế này không thể tách rời nhau". Thông điệp chính của tuyên ngôn này là nếu chúng ta phá hủy nơi sống của chúng ta thì sẽ không có sự phát triển. Trong Báo cáo này cũng đưa ra định nghĩa về khái niệm phát triển bền vững (Sustainable (∗ ) Theo Conexion số 3, tháng 9, 1992 51