Giáo trình Kinh doanh quốc tế

pdf 298 trang ngocly 220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh doanh quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_doanh_quoc_te.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh doanh quốc tế

  1. LỜI MỞ ĐẦU 2 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH QUỐC TẾ 3 I. Kinh doanh quốc tế 3 II. Môi trường kinh doanh quốc tế 4 III. Toàn cầu hóa 7 IV. Mục đích, đối tượng và nội dung nghiên cứu 18 CHƯƠNG 2: NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA CÁC QUỐC GIA 36 I. Môi trường chính trị, môi trường pháp lý 36 II. Môi trường kinh tế 61 III. Môi trường văn hóa 88 CHƯƠNG 3: MÔI TRƯỜNG THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ TOÀN CẦU 122 I. Môi trường thương mại toàn cầu 122 II. Môi trường đầu tư toàn cầu 174 CHƯƠNG 4: CHIẾN LƯỢC KINH DOANH QUỐC TẾ 201 I. Chiến lược kinh doanh quốc tế 201 II. Các loại hình chiến lược kinh doanh quốc tế 217 III. Cơ cấu tổ chức thiết kế theo chiến lược kinh doanh quốc tế 229 CHƯƠNG 5: CÁC PHƯƠNG THỨC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ 243 I. Thâm nhập thị trường quốc tế 243 II. Các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế 246 III. Lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường quốc tế 294 Tài liệu tham khảo: 298 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Một trong những xu hướng làm thay đổi toàn bộ đáng kể cục diện thế giới trong suốt hơn nhiều thập kỷ vừa qua chính là tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục của kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế được hiểu là việc ra các quyết định đầu tư trong sản xuất hoặc trao đổi, mua bán và cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên phạm vi vượt qua biên giới của một quốc gia, trên thị trường khu vực và thị trường toàn cầu. Để ra được các quyết định giúp kinh doanh quốc tế thành công, mỗi doanh nghiệp phải có hiểu biết về môi trường kinh doanh quốc tế, đó là sự khác biệt giữa các quốc gia về chính trị, pháp luật, kinh tế và văn hóa, đó là quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc trong hoạt động sản xuất toàn cầu cũng như thị trường toàn cầu. Ngoài ra, việc hiểu biết về các loại hình chiến lược kinh doanh quốc tế và các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế cũng giúp cho các doanh nghiệp đưa ra được lựa chọn hoặc quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh quốc tế của mình. Các doanh nghiệp Việt Nam ban đầu tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các hoạt động kinh doanh quốc tế qua hoạt động xuất nhập khẩu, nhưng với trình độ kinh tế ngày càng được nâng cao, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cải thiện, việc xây dựng và phát triển các hoạt động kinh doanh quốc tế, đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai là xu hướng ngày càng phổ biến. Chính vì vậy, kinh doanh quốc tế là một trong những môn học giúp cung cấp cho các sinh viên cử nhân kinh tế, kinh doanh quốc tế có kiến thức cần thiết và những kỹ năng cơ bản trong kinh doanh quốc tế. Giáo trình Kinh doanh Quốc tế được thiết kế và soạn thảo dựa trên các giáo trình Kinh doanh Quốc tế của Hoa Kỳ, được xuất bản năm 2009 dành cho các chương trình quốc tế, giảng dạy ngoài Hoa Kỳ. Ngoài ra, trong quá trình biên soạn giáo trình, chúng tôi đã chú trọng đến điều kiện và đặc điểm của Việt Nam để đưa vào những nội dung phù hợp và thiết thực. Giáo trình kinh doanh quốc tế bao gồm 5 chương. Tập thể tác giả tham gia biên soạn giáo trình này bao gồm: TS Phạm Thị Hồng Yến – biên soạn Chương 1 và Chương 4; PGS, TS Nguyễn Hoàng Ánh – biên soạn Chương 2 và Chương 5; ThS Vũ Đức Cường – biên soạn Chương 3; và TS Phạm Thị Hồng Yến – Trưởng Bộ môn Kinh doanh Quốc tế làm chủ biên. Bộ môn Kinh doanh Quốc tế xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học Ngoại thương, Ban Lãnh đạo Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Phòng Quản lý Khoa học, Phòng Quản lý Dự án đã chỉ đạo, tạo điều kiện và đóng góp những ý kiến quý báu trong quá trình biên soạn giáo trình này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do đây là lần đầu tiên giáo trình được biên soạn nên chắc sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được những ý kiến nhận xét, đóng góp của các độc giả. Hà Nội, tháng 9 năm 2010 TS Phạm Thị Hồng Yến (Chủ biên) 2
  3. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH QUỐC TẾ I. Kinh doanh quốc tế 1. Khái niệm Kinh doanh (business) theo cách hiểu thông thường là việc thực hiện các hoạt động sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ nhằm mục đí ch sinh lợi. Theo Luật doanh nghiệp Việt Nam số 60/2005/QH11, kinh doanh được định nghĩa là “việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mụ c đích sinh lợi„. Qua định nghĩa trên, ta có thể thấy kinh doanh cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm thu được lợi nhuận từ hoạt động đầu tư đó. Hoạt động kinh doanh cũng có thể là những hoạt động kinh doanh đơn giản, nhỏ lẻ như một quán nước, một quán phở bên đường và cũng có thể là những hoạt động kinh doanh quy mô lớn như một nhà máy sản xuất thép cán, một nhà máy lọc dầu hay một hệ thống siêu thị Kinh doanh quốc tế (international business), hiểu đơn giản, là việc thực hiện hoạt động đầu tư vào sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi có liên quan tới hai hay nhiều nước và khu vực khác nhau. Dựa vào định nghĩa của kinh doanh, ta có thể định nghĩa Kinh doanh quốc tế là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến thương mại hàng hóa và dịch vụ trên các thị trường vượt qua biên giới của hai hay nhiều quốc gia vì mục đích sinh lợi. Kinh doanh quốc tế cũng có thể những hoạt động đơn thuần liên quan tới việc xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của một công ty. Nhưng cũng có thể kinh doanh quốc tế là những mạng lưới kinh doanh đa quốc gia, hoặc xuyên quốc gia hoặc trên phạm vi toàn cầu. Những mạng lưới này có hệ thống quản trị và kiểm soát rất phức tạp mà hoạt động đầu tư vào sản xuất được quyết định ở một nơi, hệ thống phân phối và tiêu dùng lại được phát triển ở một khu vực khác trên thế giới. 2. Phạm vi, đặc điểm của hoạt động kinh doanh quốc tế Kinh doanh quốc tế liên quan tới hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế, có thể là từ hai nước trở lên có thể liên quan tới một số hay nhiều nước trên phạm vi toàn cầu. Kinh doanh quốc tế bị tác động và ảnh hưởng lớn bởi các tiêu chí và các biến số có tính môi trường quốc tế, chẳng hạn như hệ thống luật pháp của các nước, thị trường hối đoái, sự khác biệt trong văn hóa hay các mức lạm phát khác nhau giữa các nước. Đôi khi những tiêu chí hay biến số này gần như không ảnh hưởng hay có tác động nhiều đến hoạt động kinh doanh nội địa của một doanh nghiệp. Chúng ta cũng có thể nói rằng kinh doanh nội địa là một trường hợp đặc biệt hạn chế của kinh doanh quốc tế Một đặc điểm nổi bật khác của kinh doanh quốc tế đó là các hãng quốc tế hoạt động trong một môi trường có nhiều biến động và luật chơi đôi khi có thể rất khó hiểu, có thể đối lập với nhau khi so sánh với kinh doanh nội địa. Trên thực tế, việc thực hiện 3
  4. các hoạt động kinh doanh quốc tế thực sự không giống như chơi một trò bóng mới mà giống như chơi nhiều trò bóng khác nhau mà trong đó nhà quản trị quốc tế phải học được các yếu tố đặc thù trên sân chơi. Các nhà quản trị rất nhanh nhạy trong việc tìm ra những hình thức kinh doanh mới đáp ứng được sự thay đổi của chính phủ nước ngoài về các lĩnh vực ưu tiên, và từ đó tạo lập được các lợi thế cạnh tranh hơn so với các đối thủ cạnh tranh kém nhanh nhạy hơn. Các nguyên tắc chủ đạo đối với một doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế luôn phải có cách tiếp cận toàn cầu. Các nguyên tắc chủ đạo của một doanh nghiệp có thể được định nghĩa liên quan tới ba mảng chính, đó là sản phẩm cung cấp trong mối quan hệ với phục vụ thị trường nào, các năng lực chủ chốt và các kết quả. Khi xây dựng các kế hoạch kinh doanh quốc tế, các hãng phải ra các quyết định liên quan tới việc trả lời câu hỏi: Hãng sẽ bán sản phẩm gì cho ai? Và hãng có thể có được nguồn cung ứng từ đâu và cung ứng như thế nào ? Đó là hai câu hỏi liên quan tới Marketing và Sourcing (thị trường sản phẩm đầu ra và thị trường sản phẩm đầu vào). Sau khi ra được các quyết định trên, hãng cần phải cụ thể hóa các vấn đề liên quan tới nguồn nhân lực, quản trị, tính sở hữu và tài chính để trả lời câu hỏi: Với nguồn lực nào hãng sẽ triển khai các chiến lược trên? Nói một cách khác, hãng sẽ phải tìm ra nguồn nhân lực phù hợp, khả năng chịu rủi ro và nguồn lực tài chính cần thiết. Tiếp đến là vấn đề liên quan tới làm thế nào để có thể kiểm soát và xây dựng được cơ cấu tổ chức phù hợp để triển khai thực hiện những vấn đề trên. Và cuối cùng một nội dung liên quan tới quan hệ công chúng, cộng đồng cũng cần hãng phải quan tâm khi triển khai kế hoạch kinh doanh quốc tế của mình. II. Môi trường kinh doanh quốc tế 1. Môi trường kinh doanh quốc tế Kinh doanh quốc tế khác biệt so với kinh doanh nội địa do môi trường thay đổi khi một doanh nghiệp mở rộng hoạt động của mình vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Thông thường, một doanh nghiệp hiểu rất rõ về môi trường trong nước nhưng lại kém hiểu biết về môi trường ở các nước khác và do vậy doanh nghiệp phải đầu tư thời gian và nguồn lực để hiểu về môi trường kinh doanh mới. Môi trường kinh doanh quốc tế là môi trường kinh doanh ở nhiều quốc gia khác nhau. Môi trường này có nhiều đặc điểm khác biệt so với môi trường trong nước của doanh nghiệp, có ảnh hưởng quan trọng tới các quyết định của doanh nghiệp về sử dụng nguồn lực và năng lực. Vì các doanh nghiệp không có khả năng kiểm soát được môi trường bên ngoài nên sự thành công của doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào việc các doanh nghiệp thích ứng như thế nào với môi trường này. Năng lực của một doanh nghiệp trong việc thiết kế và điều chỉnh nội lực để khai thác được các cơ hội của môi trường bên ngoài và khả năng kiểm soát các thách thức đặt ra của môi trường sẽ quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. 4
  5. 2. Nội dung của môi trường kinh doanh quốc tế Môi trường kinh doanh quốc tế thường bao gồm môi trường chính trị, pháp luật, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa. Môi trường chính trị là đề cập tới chính phủ, mối quan hệ giữa chính phủ với doanh nghiệp, và mức độ rủi ro chính trị ở một nước. Kinh doanh quốc tế có nghĩa là phải làm việc với các mô hình chính phủ khác nhau, các mối quan hệ và mức độ rủi ro khác nhau. Trên thế giới, tồn tại nhiều hệ thống chính trị khác nhau, ví dụ các nước dân chủ đa đảng, các nước một đảng, nước quân chủ lập hiến, nước quân chủ chuyên chế hoặc nước độc tài chuyên chế. Ngoà i ra, chính phủ còn thường thay đổi bởi các lý do khác nhau như theo các cuộc tổng tuyển cử thông thường, hay bầu cử bất thường, chết, đảo chính, chiến tranh. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và chính phủ ở các nước khác nhau cũng khác nhau. Có thể ở một nước, doanh nghiệp được đánh giá cao, là nguồn tạo động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng cũng có thể ở một quốc gia khác, doanh nghiệp bị đánh giá tiêu cực như những tổ chức bóc lột sức lao động của người công nhân. Hoặc ở một quốc gia khác, vai trò của doanh nghiệp có thể đánh giá mang lại cả lợi ích và hạn chế. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và chính phủ có thể khác nhau, thay đổi từ mối quan hệ tích cực tới tiêu cực phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp hoạt động, vào mối quan hệ với người dân ở nước sở tại và người dân ở nước đầu tư. Để hoạt động kinh doanh quốc tế hiệu quả, một doanh nghiệp quốc tế phụ thuộc vào quan điểm, nhất trí của chính phủ nước ngoài và cần phải hiểu biết về mọi khía cạnh liên quan tới môi trường chính trị. Một mối quan tâm đặc biệt của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế là mức độ rủi ro chính trị tại một quốc gia cụ thể. Rủi ro chính trị là khả năng các hoạt động của chính phủ mang lại những kết quả không mong muốn cho doanh nghiệp ví dụ như quốc hữu hóa tài sản đầu tư, hay các quy định hay chính sách quy định hạn chế các hoạt động của doanh nghiệp. Thông thường, rủi ro gắn liền với tính bất ổn và một nước được coi là bất ổn, hay có mức độ rủi ro chính trị cao nếu như chính phủ dễ bị thay đổi, có bất ổn xã hội, có bạo loạn, cách mạng nổi dậy hay chiến tranh, khủng bố, vân vân Các doanh nghiệp thường ưu tiên các quốc gia ổn định và có ít rủi ro chính trị, thu nhập của doanh nghiệp cần được tính toán trên cơ sở của các rủi ro. Đôi khi các doanh nghiệp thường kinh doanh tại các quốc gia khi các rủi ro tương đối cao. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp sẽ quản trị và kiểm soát rủi ro thông qua bảo hiểm, quyền sở hữu và quản trị doanh nghiệp, kiểm soát cung ứng và thị trường, chương trình hỗ trợ tài chính Môi trường kinh tế giữa các nước khác nhau cũng khác nhau. Các nước về mặt kinh tế thường được chia ra làm ba loại chính – nước phát triển hoặc nước công nghiệp phát triển, nước đang phát triển và nhóm các nước chậm phát triển. Tại mỗi một nhóm nước, các chỉ số về kinh tế khác nhau nhiều nhưng chủ yếu có thể cho rằng các nước 5
  6. phát triển là nước giầu, nước đang phát triển là nước đang chuyển đổi từ nghèo sang giầu hơn và các nước nghèo. Sự phân biệt về môi trường kinh tế giữa các quốc gia này chủ yếu dựa trên chỉ số thu nhập quốc dân trên đầu người (GDP/người). Mức độ phát triển kinh tế của mỗi nước cũng quyết định về nền giáo dục, cơ sở hạ tầng, công nghệ, chăm sóc y tế và các lĩnh vực khác. Nước có mức độ phát triển kinh tế cao sẽ có chất lượng cuộc sống cao hơn các nước có mức độ phát triển kinh tế thấp. Ngoài việc phân nhóm nước dựa trên mức độ phát triển kinh tế, các nước còn được phân loại dựa trên thể chế thị trường – có thể là nước có nền thị trường tự do, hoặc nền kinh tế kế hoạch tập trung hoặc nền kinh tế hỗn hợp. Nền kinh tế thị trường tự do là những nền kinh tế mà chính phủ ít tác động vào các hoạt động kinh doanh, các quy luật thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị được vận hành để ra các quyết định về khâu sản xuất và giá cả. Nền kinh tế kế hoạch tập trung là nền kinh tế tại đó chính phủ quyết định việc sản xuất và giá cả dựa trên những dự báo về cầu và khả năng cung theo mong muốn. Nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế tại đó một số hoạt động được điều tiết bởi cung cầu thị trường và một số hoạt động khác, có thể là vì lợi ích quốc gia hoặc cá nhân mà chính phủ đứng ra trực tiếp điều tiết. Cuối thế kỷ XX đã chứng kiến sự dịch chuyển đáng kể của các quốc gia sang việc theo đuổi nền kinh tế thị trường tự do và nền kinh tế hỗn hợp. Rõ ràng trình độ kinh tế cùng với giáo dục, cơ sở hạ tầng cũng như mức độ kiểm soát nền kinh tế của chính phủ sẽ ảnh hưởng mọi khía cạnh, mọi mặt của hoạt động kinh doanh và một doanh nghiệp cần am hiểu về môi trường này nếu như doanh nghiệp muốn kinh doanh quốc tế thành công. Môi trường văn hóa là một trong những cấu phần quan trọng của môi trường kinh doanh quốc tế và là nội dung có tính thách thức nhất đối với kinh doanh quốc tế. Điều này bởi vì môi trường văn hóa thường khó nhận biết, môi trường văn hóa được hiểu là các giá trị và niềm tin được chia sẻ và được cho là đúng bởi một nhóm, một cộng đồng. Văn hóa quốc gia được hiểu là những niềm tin và giá trị được chia sẻ bởi cả một quốc gia. Niềm tin và giá trị thường được hình thành bởi các yếu tố như lịch sử, ngôn ngữ, tôn giáo, vị trí địa lý, chính phủ và đào tạo; vì vậy các doanh nghiệp cần phải phân tích văn hóa để hiểu về các yếu tố này. Các doanh nghiệp cần hiểu về niềm tin và những giá trị của quốc gia mà doanh nghiệp đang thực hiện kinh doanh và một số các giá trị văn hóa do các học giả nghiên cứu đề xuất. Một trong số đó phải kể đến là hệ thống giá trị do Hofstede đề xuất vào năm 1980. Mô hình có bốn tham số đo lường về các giá trị văn hóa, đó là tính cá nhân, mức độ né tránh rủi ro, khoảng cách quyền lực và định hướng về giới. Tính cá nhân là mức độ một nước coi trọng và khuyến khích việc một cá nhân hành động và ra quyết định. Mức độ né tránh rủi ro là mức độ một nước chấp nhận và nhìn nhận rủi ro. Khoảng cách quyền lực là mức độ một nước chấp nhận và sự khác biệt về quyên lực. Định hướng về giới là mức độ một nước chấp nhận các giá trị truyền thống về nam giới và nữ giới. Mô hình các giá trị văn hóa này được sử dụng thường xuyên bởi các 6
  7. doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư kinh doanh quốc tế. Ví dụ, một quốc gia có tính cá nhân cao thì doanh nghiệp đó cho rằng các hệ thống hướng đến mục tiêu cá nhân, nhiệm vụ cá nhân và chế độ thưởng sẽ phát huy được hiệu quả, trong khi đó chưa chắc hệ thống này sẽ có tác dụng tương tự ở một nước có tính cá nhân thấp. III. Toàn cầu hóa 1. Toàn cầu hóa là gi? (Globalization) Theo nghĩa rộng, toàn cầu hoá là một hiện tượng, một quá trình, một xu thế liên kết trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều mặt của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hoá đến môi trường, v.v ) giữa các quốc gia. Nói một cách khác,“Toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới.”. Theo nghĩa hẹp, toàn cầu hoá là một khái niệm kinh tế chỉ quá trình hình thành thị trường toàn cầu làm tăng sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia. Biểu hiện của toàn cầu hoá có thể dưới dạng khu vực hoá – việc liên kết khu vực và các định chế, các tổ chức khu vực, hay cụ thể, toàn cầu hoá là “quá trình hình thành và phát triển các thị trường toàn cầu và khu vực, làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau, trước hết về kinh tế, giữa các nước thông qua sự gia tăng các luồng giao lưu hàng hoá và nguồn lực (resources) qua biên giới giữa các quốc gia cùng với sự hình thành các định chế, tổ chức quốc tế nhằm quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế.” 2. Nội dung của toàn cầu hóa Nội dung của toàn cầu hoá được thể hiện thông qua nhiều biểu hiện tùy thuộc vào các góc độ tiếp cận cụ thể khác nhau. Nếu tiếp cận toàn cầu hóa với góc nhìn và quan sát chung thì toàn cầu hóa biểu hiện theo ba biểu hiện sau đây, đó là: Thứ nhất, toàn cầu hóa thể hiện qua sự gia tăng ngày càng mạnh mẽ của các luồng giao lưu quốc tế về hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất như vốn, công nghệ, nhân công Có thể nói thương mại quốc tế là thước đo đầu tiên của mức độ toàn cầu hóa v à sự phụ thuộc lẫn nhau của các nước. Khi các nước trao đổi hàng hóa và dịch vụ cho nhau đó cũng chính là quá trình các nước xóa nhòa dần sự biệt lập giữa các nền kinh tế quốc gia. Thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Trong vòng 100 năm từ 1850 – 1948, thương mại thế giới tăng lên 10 lần, trong giai đoạn 50 năm tiếp theo từ 1948 -1997, tăng 17 lần. Từ giữa thập niên 1970 đến giữa thập niên 1990, mức tăng bình quân của xuất khẩu thế giới là 4,5%. Trong giai đoạn này, đánh dấu bắt đầu từ năm 1985, hàng năm tốc độ tăng bình quân của xuất khẩu hàng hóa thế giới là 6,7%, trong khi đó sản lượng thế giới chỉ tăng lên 6 lần. Sự phát triển của 7
  8. thương mại thế giới và khoảng cách ngày càng tăng giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ phát triển thương mại quốc tế thể hiện mức độ toàn cầu hóa ngày càng cao. Sự phát triển trao đổi dịch vụ giữa các nước ngày càng có vị trí quan trọng trong thương mại quốc tế và đóng góp tích cực vào xu hướng toàn cầu hóa. Trong vòng 10 năm từ 1986 đến 1996, thương mại dịch vụ th ế giới tăng gấp gần 3 lần, từ 449 tỷ USD lên 1.260 tỷ USD. Các nước phát triển có mức tăng thương mại dịch vụ cao gấp 3 lần so với mức tăng thương mại hàng hóa và trở thành khu vực đóng góp chủ yếu vào GDP (Hoa Kỳ là 76%, Canada là 80%, Nhật Bản là 65%, EC là 64%). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự di chuyển tư bản (vốn và tiền tệ) giữa các nước là một yếu tố ngày càng quan trọng đối với từng nền kinh tế quốc gia nói riêng và toàn bộ nền kinh tế thế giới nói chung. Các luồng FDI có tốc độ tăng nhanh hơn cả mức tăng của thương mại hàng hóa và dịch vụ quốc tế, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của toàn cầu hóa. Trong những năm 1970, các luồng FDI hàng năm ở vào khoảng 27 – 30 tỷ USD; trong nửa đầu của thập niên 1980, con số này là 50 tỷ USD; trong nửa cuối của thập niên của 1980 là 170 tỷ USD; năm 1995 gần 400 tỷ USD, 1998 là 845 tỷ USD, năm 2000 vượt trên 1.000 tỷ USD, năm 2007 là 1.900 tỷ USD. Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ tăng nhanh, hiện nay chiếm khoảng 50%. Cac luồng FDI vào các nước phát triển chiếm ¾ tổng số FDI trên thế giới. Tuy nhiên, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, gắn với luồng lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ bên trong hệ thống của các công ty đa quốc, xuyên quốc gia vào các nước đang phát triển từ năm 1990 có xu hướng tăng lên. Thứ hai, toàn cầu hóa thể hiện qua sự hình thành và phát triển các thị trường thống nhất trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Trong thời gian nửa đầu của thập kỷ 1990, theo thống kê của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có tới 33 thỏa thuận liên kết kinh tế khu vực dưới dạng các thỏa thuận thương mại ưu đãi, khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, liên minh kinh tế được ký kết đã thông báo cho Ban thư ký của WTO. Số lượng này nhiều gấp 3 lần số lượng các thỏa thuận được ký trong thập kỷ 1980 và bằng gần 1/3 tổng số các thỏa thuận liên kết khu vực được ký trong giai đoạn 1947 – 1995. Riêng trong giai đoạn từ 2000 – 2008, có trên 140 thỏa thuận liên kết khu vực đã được thông báo cho WTO. Cùng với các thỏa thuận trên, nhiều tổ chức hợp tác kinh tế đa phương thế giới và khu vực đã ra đời, ngày càng được tăng cường về số lượng và cơ chế tổ chức. Theo số liệu thống kê của Liên minh các Tổ chức Quốc tế, ta có thể thấy nếu như tính vào năm 1909, số lượng các tổ chức quốc tế trên toàn cầu chỉ là 213 thì đến năm 19 60, con số này là 1.422 tổ chức, năm 1981 là 14.273, năm 1991 là 28.200; năm 2001 là 55.282 và 2006 là 58.859 tổ chức. Trên phạm vi toàn cầu, ngoài các tổ chức kinh tế - tài chính được thành lập trước đây như hệ thống các tổ chức thuộc Liên Hợp quốc, năm 1 995, trên cơ sở Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã được hình thành, hiện có 153 nước và lãnh thổ kinh tế độc lập là thành viên, chiếm tới trên 8
  9. 90% tổng giá trị thương mại thế giới. Ở phạm vi khu vực, các tổ chức và cơ chế liên kết kinh tế cũng được tăng cường. Tại Châu Âu, Liên minh Châu Âu EU với số lượng 27 nước thành viên hiện nay đã trở thành một liên kết quốc tế chặt chẽ toàn diện ở hầu hết mọi lĩnh vực. Ở Châu Á-Thái Bình Dương, Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) đã ra đời và ngày càng tích cực đóng góp vào quá trình tăng cường liên kết quốc tế về thương mại trong khu vực. Tại Châu Mỹ, ta có thể sự hình thành liên kết khu vực qua việc hình thành Khu vực mậu dịch tự do Bắc Hoa Kỳ (NAFTA), Hiệp hội liên kết Hoa Kỳ La Tinh (LAIA), Thị trường chung Nam Hoa Kỳ (MERCOSUR), nhóm các nước ANDEAN, Cộng đồng Caribe và Thị trường chung (CARICOM), Thị trường chung Trung Hoa Kỳ (CACM) Tại Châu Phi, Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi (ECOWAS), Liên minh kinh tế và thuế quan Trung Phi (UDEAC), Cộng đồng phát triển miền Nam Châu Phi (SADC), Liên minh Châu Phi (AU) là những nỗ lực để hình thành những khối thị trườ ng chung và thống nhất trong khu vực. Thứ ba, toàn cầu hóa thể hiện qua sự gia tăng số lượng, quy mô và vai trò ảnh hưởng các công ty xuyên quốc gia tới nền kinh tế thế giới. Theo số liệu của UNCTAD, năm 1998 có 53.000 công ty xuyên quốc gia với 450.000 công ty con ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Năm 2000, trên thế giới có kh oảng 63.000 công ty xuyên quốc gia với 700.000 các công ty con ở khắp các nước. Năm 1995, các công ty xuyên quốc gia bán ra một lượng hàng hóa và dịch vụ có giá trị bằ ng 7.000 tỷ USD. Năm 1999, tổng doanh số ban ra của công ty xuyên quốc gia đã đạt đến giá trị 14.000 tỷ USD. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia chi phối và kiểm soát trên 80% thương mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứ u chuyển giao công nghệ trên thế giới. Hệ thống dày đặc các công ty xuyên quốc gia này không những đã tạo ra một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất thế giới mà còn liên kết các quốc giá lại với nhau ngày càng chặt chẽ hơn, góp phần làm cho quá trình toàn cầu hóa trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Nếu tiếp cận toàn cầu hóa dưới góc nhìn của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế, toàn cầu hóa có thể nhìn nhận ở góc độ toàn cầu hóa thị trường và toàn cầu hóa quá trình sản xuất. Toàn cầu hóa thị trường là việc thị trường quốc gia riêng biệt và đặc thù đang hội nhập dần hình thành thị trường toàn cầu. Việc dỡ bỏ các rào cản thương mại qua biên giới đã làm cho việc kinh doanh quốc tế ngày càng trở nên dễ dàng. Thị hiếu của người tiêu dùng ở các nước khác nhau cũng có xu hướng tiệm cận lại gần với nhau và với chuẩn mực toàn cầu, góp phần tạo thị trường toàn cầu. Các sản phẩm tiêu dùng như thẻ tín dụng của hãng Citigroup, đồ uống Coca -cola, thiết bị chơi game Sony PlayStation, bánh kẹp McDonald’s đang được coi là những ví dụ điển hình minh chứng cho xu hướng này. Các doanh nghiệp quốc tế, công ty đa quốc gia không chỉ là 9
  10. chủ thể hưởng lợi từ xu hướng này mà còn tích cực khuyến khích cho xu hướng này mở rộng và phát triển. Bởi việc cung cấp cùng một sản phẩm trên toàn thế giới, các doanh nghiệp này góp phần tạo ra thị trường toàn cầu. Một doanh nghiệp không nhất thiết phải có một quy mô khổng lồ như một công ty đa quốc gia, công ty xuyên quốc gia để được hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa các thị trường. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, gần 90% các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm là các doanh nghiệp nhỏ có ít hơn 100 người lao động, và tỷ trọng xuất khẩu của những doanh nghiệp này chiếm tới trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Hoa Kỳ. Tại Đức, một trong những quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, gần 98% các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều tham gia vào thị trường quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu hoặc sản xuất quốc tế. Mặc dù có những ví dụ thể hiện thị trường toàn cầu đang hình thành mạnh mẽ như thẻ tín dụng Citigroup, bánh kẹp McDonald’s thì chúng ta cũng cần lưu ý không hẳn thị trường quốc gia đang mở rộng cửa để trở thành thị trường toàn cầu. Điều này xẩy ra bởi lẽ những khác biệt đáng kể vẫn tồn tại giữa những thị trường quốc gia như thị hiếu người tiêu dùng, hệ thống k ênh phân phối, hệ thống giá trị văn hóa, hệ thống doanh nghiệp, và quy định luật pháp. Sự khác biệt này thường xuyên đòi hỏi doanh nghiệp phải điều chỉnh các chiến lược marketing, các đặc điểm thiết kế sản phẩm, hay phương pháp vận hành doanh nghiệp để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng quốc gia. Những thị trường có tính chất toàn cầu nhất thường không phải là những thị trường hàng tiêu dùng. Lý do là bởi lẽ sự khác biệt về thị hiếu người tiêu dùng của mỗi quốc gia vẫn duy trì là yếu tố quyết định làm cản trở quá trình toàn cầu hóa các thị trường này. Thị trường hàng công nghiệp và nguyên nhiên vật liệu thì có tính toàn cầu hơn do nhu cầu trên thế giới về cơ bản là giống nhau. Đó bao gồm những thị trường nguyên liệu như nhôm, dầu và lúa mì; các sản p hẩm công nghiệp như bộ vi tính, chip nhớ của máy tính, máy bay dân dụng, phần mềm máy tính hay các sản phẩm tài chính như trái phiếu Chính phủ Hoa Kỳ, kỳ phiếu của chỉ số Nikkei Trên nhiều thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp hoạt động giống nhau thường cạnh tranh quyết liệt với nhau ở quốc gia này rồi ở quốc gia kia. Cuộc cạnh tranh của Coca -cola với Pepsi Co là cuộc cạnh tranh toàn cầu, tương tự như vậy cạnh tranh giữa Boeing và Airbus, của hãng McDonal’s và KFC Toàn cầu hóa quá trình sản xuất là quá trình cung ứng hàng hóa và dịch vụ từ các nơi trên toàn cầu để khai thác, tận dụng được sự khác biệt quốc gia về chi phí và chất lượng của các yếu tố sản xuất, như lao động, năng lượng, đất đai và vốn. Thông qua việc toàn cầu hóa quá trình sản xuất, cá c doanh nghiệp kinh doanh quốc tế kỳ vọng sẽ giảm được tổng cơ cấu chi phí hoặc tăng cường được chất lượng hoặc tính năng của sản phẩm họ cung ứng ra thị trường, nhờ đó giúp cho doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường toàn cầu được hiệu quả hơn. Xem xét ví dụ sản xuất máy bay dân 10
  11. dụng Airbus A380 – một trong những máy bay dân dụng lớn nhất kể từ trước cho tới năm 2006 (Xem Hình 1.1). Máy bay Airbus A380 có 2 tầng, 4 hành lang, có cánh máy bay rộng hơn 15m và có khả năng chuyên chở nhiều hơn 150 hành khách so với máy bay cạnh tranh tương đương 747-400 của Boeing. Để sản xuất được máy bay này, hãng Airbus phải bố trí 40.000 người tại 15 nhà máy đặt tại 4 nước: Đức, Tây Ba Nha, Vương quốc Anh và Pháp. Hình 1.1 Toàn cầu hóa quá trình sản xuất chiếc Airbus A380 Nguồn: Examiner 2004, trang 1. 11
  12. Hình 1.2 cũng là một ví dụ tiêu biểu cho quá trì nh toàn cầu hóa các hoạt động sản xuất các sản phẩm của các hãng, các doanh nghiệp trên thế giới. Hình 1.2 Các thành phần toàn cầu của một bánh mì kẹp McDonald’s ở Ukraina Nguồn: Czinkota, 2005, trang. 11 Hai quá trình toàn cầu hóa thị trường và toàn cầu hóa quá trình sản xuất vẫn đang tiếp tục tiếp diễn. Các công ty đa quốc gia, công ty quốc tế ngày càng tham gia vào quá trình này một cách sâu sắc và liên tục điều chỉnh các hoạt động của mình để phù hợp hơn các điều kiện kinh doanh ngày càng thay đổi nhanh chóng của quá trình toàn cầu hóa. 3. Động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa Có hai động lực chính thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, đó là việc dỡ bỏ các rào cản trong các hoạt động thương mại và đầu tư ở các lĩnh vực; và sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ. Việc dỡ bỏ các rào cản trong các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ, công nghệ, sở hữu trí tuệ giữa các nước và lãnh thổ trê n phạm vi khu vực và toàn cầu cùng với sự hình thành và tăng cường các quy định, nguyên tắc, luật lệ chung với cơ chế tổ chức để điều chỉnh và quản lý các hoạt động, giao dịch kinh tế quốc tế theo hướng tự 12
  13. do hoá là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Đối với lĩnh vực hàng hóa, trong khuôn khổ của Hiệp định GATT, thương mại hàng hóa là lĩnh vực thể hiện rõ nét nhất việc dỡ bỏ các rào cản theo hướng tự do hóa. Từ năm 1947 đến nay đã diễn ra 8 vòng đàm phán để cắt giảm thuế quan. Kết quả của các vòng đàm phán đã đưa thuế quan của các nước công nghiệp phát triển giảm xuống từ 40% năm 1947 xuống còn gần 10% vào cuối thập niên 1960 và dưới 4% sau khi hoàn thành thực hiện các cam kết của vòng đàm phán Urugoay. Hiệp định đạt được tại vòng đàm phán Urugoay làm giảm tới 38% mức thuế quan của hàng nghìn mặt hàng trên thế giới. Về hàng rào phi thuế quan, tổ chức WTO cũng như các khuôn khổ khu vực đều đưa vào trong chương trình đàm phán. Vòng đàm phán Urugoay đã đề cập tới một các lĩnh vực liên quan tới các hàng rào phí thuế quan như biện pháp vệ sinh an toàn và kiểm dịch động thực vật, các rào cản kỹ thuật, các quy định về định giá hải quan, quy tắc xuất xứ Trên phạm vi khu vực, hàng rào thuế quan nội khối đã được gỡ bỏ như trong EU, NAFTA, AFTA. Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ, Hiệp định GATS trong khuôn khổ của WTO là nỗ lực đầu tiên nhằm xây dựng các quy định trên phạm vi toàn cầu để quản lý các luồng lưu chuyển dịch vụ giữa các quốc gia. Hiệp định đã đưa ra các nguyên tắc mang tính chất khung, dựa vào đó các nước đưa ra những cam kết cụ thể về mở cửa và tiếp cận thị trường. Sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ có tác động mạnh mẽ tới quá trình toàn cầu hóa, là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình này. Những tiến bộ của khoa học – kỹ thuật và công nghệ bao gồm những phát minh, sáng chế, các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, các giống mới, các phương pháp công nghệ hiện đại, các lý thuyết và phương thức quản lý mới trong mọi lĩnh vực được áp dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh làm tăng năng suất lao động, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư cho xã hội với chi phí thấp hơn, giá rẻ hơn, tạo ra tiền đề thúc đẩy sự hình thành và phát triển sự phân công, chuyên môn hóa lao động, sản xuất và kinh doanh theo ngành nghề, vùng lãnh thổ và giữa các quốc gia. Nhờ đó, thương mại và trao đổi quốc tế về hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động và tri thức ngày một tăng. Sự phát triển của khoa học – công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai đã mở đường cho sự hình t hành và phát triển nhanh chóng của thị trường thế giới. Nếu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất chủ yếu dựa vào máy hơi nước, sắt và than thì cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai chủ yếu dựa vào máy chạy bằng nhiên liệu lỏng, điện và năng lượng nguyê n tử và những vật liệu đặc biệt: kim loại không sắt, chất dẻo, sợi hóa chất, đặc biệt là dựa vào những thành tựu của lĩnh vực thông tin và phương thức quản lý mới. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong ngành giao thông và kỹ thuật thông tin là m cho thế giới bị thu nhỏ lại về không gian và thời gian. Các chi phí về vận tải, về thông tin ngày càng giảm, sự cách trở về địa lý dần được khắc phục, các quốc gia và dân tộc trở nên gần gũi hơn với những hình ảnh và thông tin được truyền hình liên tục v ề các sự kiện đang xẩy ra ở mọi nơi trên trái đất. 13
  14. Trong thế kỷ XIX, sự ra đời của đường sắt đã làm giảm chi phí vận tải khoảng 85 – 95%. Trong khoảng 10 – 15 năm, phí vận tải đường biển đã giảm khoảng 70%; phí vận tải hàng không giảm mỗi năm khoảng 3 – 4%. Sự phát triển của máy tính cá nhân và thương mại điện tử đã diễn ra với tốc độ nhanh chóng hơn. Năng suất trong ngành công nghệ thông tin suốt trên ba thập kỷ tăng khoảng 5% một năm, cao gấp 5 lần so với tốc độ tăng năng suất chung của tất cả các ngành. Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ về công nghệ thông tin, kinh tế tri thức đang hình thành trong đó tri thức trở thành một lực lượng sản xuất ngày càng quan trọng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế nói chung và từng loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất và tiêu thục trên thị trường quốc tế nói riêng. Khoa học và công nghệ từ cuối thập niên 1970 đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất toàn cầu, làm thay đổi hầu hết mọi mặt hoạt động sản xuất cả về lượng và chất và mang tính quốc tế hóa cao độ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ này đã làm cho nền kinh tế thế giới phát triển với tốc độ trên 3%/năm trong vòng hơn 20 năm. Hai cuộc cách mạng công nghiệp trước đây đã mang lại những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế và xã hội toàn cầu, đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng của sản xuất, tạo ra nguồn của cải phong phú cho loài người. Tuy nhiên, với hai cuộc cách mạng đầu tiên, hàm lượng vật chất (năng lượng, nguyên nhiên liệu, thiết bị máy móc, vốn và lao động) vẫn chiếm phần lớn trong một sản phẩm. Với cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay, hàm lượng vật chất trong các sản phẩm ngày càng giảm, hiện nay chỉ còn chiếm tỷ lệ bình quân từ 25 – 30% trong một sản phẩm, phần còn lại là hàm lượng tri thức. Đặc điểm này cũng thể hiện tính toàn cầu, tính quốc tế hóa của hoạt động lao động sản xuất ngày càng cao. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ lần thứ ba gắn với sự ra đời của những công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực sinh học, thông tin, tự động hóa, vật liệu mới và năng lực. Trong lĩnh vực sinh học, việc khám phá ra cấu trúc ADN, hiểu biết được mật mã của sự sống là một bước ngoặt trong lịch sử sinh học. Với những kỹ thuật về di truyền học, về gien và nuôi cấy tế bào, nhiều loại giố ng cây trồng, vật nuôi và nguồn dinh dưỡng mới được tạo ra, góp phần nâng cao năng suốt nông nghiệp, tạo ra lương thực và thực phẩm dồi dào cho con người sử dụng và trao đổi. Trong vòng ba thập kỷ, sản xuất lương thực thế giới tăng trên 100% trong khi dân số tăng trên 60%. Lĩnh vực thông tin chứng kiến những tiến bộ phi thường, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa. Với hệ thống các phương tiện và kỹ thuật thông tin hiện đại, cách mạng thông tin toàn cầu như điện thoại, fax, Inter net mối liên hệ qua lại và giao dịch giữa các cá nhân và doanh nghiệp ở mọi nơi trên thế giới trở nên nhanh chóng, thường xuyên và thuận tiện với chi phí ngày càng giảm dần; biên giới giữa các quốc gia trên nhiều phươ ng diện đã và đang bị xóa mờ. Sự biế n đổi trong lĩnh vực thông tin, đặc biệt đã biến thông tin trở thành môt thứ hàng hóa, truyền 14
  15. thông trở thành một trong những ngành công nghiệp hàng đầu trên thế giới. Nhờ vào công nghệ thông tin, thương mại điện tử ra đời và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Nhờ vào công nghệ thông tin, phương thức tổ chức và quản lý sản xuất – kinh doanh đã thay đổi vô cùng nhanh chóng. Một số nhà phân tích dự đoán rằng “Nền kinh tế điện tử„ sẽ tạo ra nhiều công ty với quy mô nhỏ, hoạt động thông qua mạng điện tử với cơ chế tạm thời hoặc không cần phải có một trụ sở làm việc chung. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ cũng tạo ra nhiều loại vật liệu mới có chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn thay thế những vật liệu truyền thống. Từ những năm 1980 cho đến nay, thế giới đã tăng cường sử dụng những nguồn năng lượng và vật liệu mới, khiến cho lượng dầu lửa do các nước công nghiệp tiêu thụ giảm đi trung bình 1 tỷ tấn/năm. Tỷ lệ nguồn điện nguyên tử, thủy điện, năng lượng mặt trời được sử dụng ngày càng cao trong sản xuất và đời sốn g. Các vật liệu mới như chất dẻo đặc biệt, vật liệu tổng hợp, sợi quang học, gốm sứ thay thế ngày càng nhiều nguyên liệu truyền thống. Tự động hóa cũng trở thành một nét đặc trưng của khoa học – công nghệ, nhiều khâu trong sản xuất được tự động hóa, lập trình khoa học. 4. Triển vọng phát triển của toàn cầu hóa Toàn cầu hóa từ trước cho đến nay đã diễn ra ba làn sóng toàn cầu hóa. Làn sóng toàn cầu hóa lần thứ nhất vào cuối thế kỷ XIX tới đầu thế kỷ XX (trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất); làn sóng thứ hai từ những năm 1950 đến giữa những năm 1970 (trước cuộc suy thoái kinh tế thế giới gắn với khủng hoảng dầu lửa trong thập niên 1970) và làn sóng thứ ba bắt đầu từ cuối thập niên 1980 cho tới nay. Như chúng ta đã đề cập, toàn cầu hóa là quá trình xóa bỏ các rào cản ngăn cách giữa các quốc gia để hình thành thị trường toàn cầu. Vậy tương lai phát triển của toàn cầu hóa là sẽ mang lại một thế giới trong đó các thị trường hàng hóa, dịch vụ và các tư liệu sản xuất được liên kết với nhau một cách hoàn hảo; những biên giới, rào cản đối với các luồng lưu chuyển của hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân công, ý tưởng sẽ không tồn tại nữa. Cả thế giới là một thị trường được điều tiết bởi hệ thống những quy định và luật chơi thống nhất. Tuy nhiên, câu hỏi bao lâu nữa thế giới sẽ tới được một thế giới toàn cầu còn là một ẩn số. Bởi vì quá trình toàn cầu hóa trên thế giới hiện nay nhìn chung vẫn còn ở mức hạn chế. Biên giới giữa các quốc gia, lãnh thổ và khu vực vẫn là những ranh giới để các hàng rào thuế quan và phi thuế quan có hiệu lực hạn chế đối với các luồng lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ, mặc dù mức độ hạn chế thương mại của các rào cản này ngày càng được kiểm soát và thu hẹp. Sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, sự không chắc chắn về tỷ giá hay những trở ngại kinh tế khác, như hạn chế về di chuyển lao động quốc tế, quy định về lãi suất, tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ tiết kiệm quốc gia , hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế chưa quy định đầy đủ các vấn đề liên quan tới việc bảo đảm thực hiện hợp đồng quốc tế cũng là những yếu tố có tác động hạn chế quá trình toàn cầu hóa. 15
  16. Khi dự báo về xu hướng phát triển của toàn cầu hóa trong thời gian một số thập kỷ của thế kỷ XXI, ta có thể nêu ra một số nhân tố có tác động thúc đẩy, khuyến khích toàn cầu hóa và một số nhân tố có tác động hạn chế, kìm hãm toàn cầu hóa. Các nhân tố đó có thể kể đến là: Các nhân tố có tác động thúc đẩy, khuyến khích toàn cầu hóa: Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là cách mạng trong công nghệ thông tin, công nghệ lượng tử sẽ tiếp tục phát triển mạnh, sẽ thúc đẩy quá trình lưu chuyển vốn, tài nguyên, nhân lực, thông tin, công nghệ trên phạm vi toàn cầu. Hầu hết các nước đều bị lôi cuốn và ràng buộc vào hệ thống kinh tế thế giới. Thứ hai, tính quốc tế hóa của các hoạt động sản xuất – kinh doanh ngày càng được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, đi đôi với việc khẳng định vai trò ngày càng quan trọng các công ty đa quốc gia, công ty xuyên quốc gia đối với sự tiếp tục phát triển của toàn cầu hóa. Thứ ba, sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức ở các nước công nghiệp phát triển và các nước công nghiệp mới góp phần quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nói chung trên toàn thế giới và tăng cường tính toàn cầu của thị trường cũng như tính linh hoạt rộng khắp của quá trình sản xuất, kinh doanh. Kinh tế tri thức phát triển dựa trên sự phân bổ và sử dụng tri thức, mà trước hết là ý tưởng, sáng kiến, thông tin và các công nghệ cao. Trong nền kinh tế này, tri thức trở thành một bộ phận cấu thành chủ yếu của giá trị sản phẩm, tỷ lệ các giá trị các yếu tố vật chất truyền thống giảm dần. Các ngành kinh tế dựa trên tri thức, các ngành sử dụng công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới chiếm lĩnh vị trí then chốt trong toàn bộ nền kinh tế, s ản xuất công nghệ là loại hình sản xuất quan trọng nhất; thị trường của kinh tế tri thức không giới hạn trong biên giới một quốc gia mà mở rộng khắp thế giới do tính lan tỏa và thông quan của thông tin và tri thức, cách thức tổ chức quản lý thay đổi theo hướng dân chủ hơn, theo mô hình mạng, phi tập trung, phát huy quan hệ ngang, học tập suốt đời ở trường học và nơi làm việc trở thành chuẩn mực chung của xã hội. Các nhân tố có ảnh hưởng hạn chế quá trình toàn cầu hóa: Thứ nhất, mâu thuẫn và xung đột lợi ích diễn ra ngày càng gay gắt giữa các nước và nhóm nước trên thế giới và các nhóm xã hội trong từng nước trong quá trình toàn cầu hóa. Thứ hai, khủng hoảng kinh tế ở các nước lớn hay các trung tâm kinh tế và khu vực quan trọng trên thế giới có tác động ảnh hưởng tiêu cực tới tiến trình phát triển toàn cầu hóa, không chỉ làm giảm khối lượng các dòng lưu chuyển hàng hóa , dịch vụ, yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất mà còn có dấu hiệu cho sự quay lại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Thứ ba, những bất ổn về chính trị, xung đột về tôn giáo, văn hóa, sắc tộc, nhân quyền và chủ nghĩa khủng bố tiếp tục gia tăng ở nhiều nước và khu vực trên thế giới, 16
  17. gây cản trở không nhỏ đối với quá trình thực hiện tự do hóa thương mại trên phạm vi toàn cầu và khu vực. Sự thay đổi trong tập hợp lực lượng quốc tế, đặc biệt với sự nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như quá trình đa cực hóa với ít nhất ba trung tâm chính trị - kinh tế lớn trong tương lai là Bắc Hoa Kỳ, EU và Đông Á sẽ có ảnh hưởng to lớn đối với cơ cấu địa – chính trị toàn cầu. 5. Tác động của toàn cầu hóa Chúng ta không thể phủ nhận rằng toàn cầu hóa là một xu hướng hiện diện trong thế kỷ XXI và mang lại cho thế giới nhiều lợi ích kinh tế và kèm theo đó cả những mặt tiêu cực và hạn chế. Đánh giá tác động của toàn cầu hóa sẽ rất khác nhau giữa các nước, nhóm nước và các nhóm xã hội trong mỗi nước chủ yếu tùy thuộc vào nhận thức và lợi ích mà họ được hưởng hay mất đi trong quá trình này. Có thể nói có ba quan điểm khác nhau nhìn nhận về tác động của toàn cầu hóa. Quan điểm thứ nhất là quan điểm ủng hộ toàn cầu hóa, quan điểm này cho rằng toàn cầu hóa sẽ tạo ra những khả năng mới, những cơ hội mới để nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh; mở rộng được thị trường quốc tế cho hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất; do vậy tăng khả năng tiêu thụ và tiếp cận các nguồn lực cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh quốc tế (nguyên liệu, vốn, công nghệ ), tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, cải thiện mức sống trên toàn thế giới nhờ tăng trưởng kinh tế và tăng cường khả năng mọi người dân trên thế giới được tiếp cận với hàng hóa, dịch vụ đa dạng phong phú với giá cả và chi phí hợp lý hơn. Những người theo quan điểm ủng hộ toàn cầu hóa cũng cho rằng toàn cầu hóa không phải nguyên nhân gây ra thất nghiệp và phát triển không đồng đều mà trái lại, toàn cầu hóa giúp tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề trên. Tuy nhiên, theo quan điểm của phái này, toàn cầu hóa cũng đồng thời tạo ra nhiều thách thức đối với tất cả các nước. Để có thể tận dụng được những lợi ích và cơ hội do toàn cầu hóa mang lại, các nước, các doanh nghiệp cũng cần phải có những chính sách, chiến lược và bước đi phù hợp. Quan điểm thứ hai, quan điểm chống lại toàn cầu hóa cho rằng quá trình này gây ra nhiều tác động tiêu cực về kinh tế, chính trị và xã hội đối với các nước và những tầng lớp dân chúng trong xã hội. Những lập luận của những người theo quan điểm này chủ yếu tập trung vào những điểm sau: - Toàn cầu hóa làm cho nhiều công ty, doanh nghiệp bị phá sản và hàng loạt người lao động mất việc làm. Ngay chính những người lao động tại các nước phát triển cũng bị mất việc vì sự cạnh tranh cao của lao động giá rẻ ở các nước đang phát triển; - Toàn cầu hóa làm gia tăng sự bóc lột và bất công trong mỗi xã hội và g iữa các nước, làm gia tăng sự phân hóa giầu nghèo giữa các tâng lớp dân cư trong xã hội và giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển; - Toàn cầu hóa đe dọa nền dân chủ và sự ổn định xã hội; can thiệp và uy hiếp tính độc lập tự chủ của mỗi quốc gia; 17
  18. - Toàn cầu hóa phá hoại truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc; - Toàn cầu hóa làm hủy hoại môi trường và làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên; - Toàn cầu hóa là nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính và kinh tế trên khu vực và thế giới. Nhiều nhà phân tích và các chính trị của các nước đang phát triển còn cho rằng các nước đang phát triển phải gánh chịu nhiều thua thiệt và bất lợi trong quá trình toàn cầu hóa. Những luật chơi của quá trình toàn cầu hóa hiện nay chủ yếu do Hoa Kỳ và các nước phát triển đặt ra nhằm phục vụ lợi ích của các nước phát triển. Có người còn so sánh toàn cầu hóa đồng nghĩa với chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Quan điểm thứ ba là quan điểm của những người có quan điểm trung dung, họ thừa nhận toàn cầu hóa là một xu thế phát triển tất yếu của lịch sử, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, vừa có tác động tích cực lại vừa có những tác động tiêu cực đối với tất cả các nước, dù là nước phát triển hay nước đang phát triển. Không ai có thể phủ nhận xu thế toàn cầu hóa. Vấn đề đặt ra với các nước là làm thế nào để tận dụng tốt nhất các cơ hội do quá trình này tạo ra và đối phó hiệu quả với những thách thức gặp phải. IV. Mục đích, đối tượng và nội dung nghiên cứu 1. Mục đích - Trang bị cho sinh viên hiểu biết về những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến kinh doanh quốc tế, vai trò của sự khác biệt trong môi trường kinh doanh quốc tế giữa các quốc gia về chính trị, pháp luật, kinh tế và văn hóa đối với kinh doanh quốc tế; - Giúp cho sinh viên hiểu rõ vai trò của quá trình toàn cầu hóa và các xu hướng trong môi trường thương mại và đầu tư toàn cầu đối với hoạt động kinh doanh quốc tế; - Giúp cho sinh viên có phương pháp luận đúng đắn trong việc tiếp cận các vấn đề phức tạp của kinh doanh quốc tế; có kỹ năng phát hiện, giải quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết định khi lựa chọn loại hình chiến lược kinh doanh quốc tế, các phương thức thâm nhập thị trường kinh doanh quốc tế phù hợp với bối cảnh quốc tế và doanh nghiệp; 2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu Kinh doanh quốc tế là tập hợp một hoặc một số hoạt động trong quá trình đầu tư từ sản xuất đến trao đổi, thương mại hàng hóa và dịch vụ trên phạm vi từ hai nước trở lên hoặc phạm vi toàn cầu. Đối tượng nghiên cứu của kinh doanh quốc tế là môi trường kinh doanh quốc tế trong đó mỗi một môi trường kinh doanh quốc gia trở nên là môi trường kinh doanh 18
  19. quốc tế đối với doanh nghiệp khi họ tiến hành các hoạt động kinh doanh tại đó. Qua việc nghiên cứu nhìn nhận thấy sự khác biệt trong chính trị, pháp luật, kinh tế, văn hóa của các quốc gia khác nhau sẽ giải thích các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế sẽ điều chỉnh chiến lược kinh doanh quốc tế như thế nào khi hoạt động ở những quốc gia khác nhau. Kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp cũng không thể tách rời xu hướng các dòng thương mại và đầu tư đang vượt qua biên giới quốc, vương tới từng thị trường, từng nền kinh tế riêng biệt. Doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cũng cần hiểu được tại sao chính phủ các nước lại tìm cách khuyến khích hay hạn chế các dòng di chuyển đó để khai thác hay tận dụng được những cơ hội từ những chính sách đó của các chính phủ. Khi đã thông hiểu về môi trường kinh doanh của mình, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần có hiểu biết về các loại hình chiến lược kinh doanh quốc tế và phươgn thức thâm nhập thị trường quốc tế để cho phép họ ra được những quyết định phù hợp và đúng đắn. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1: 1. Kinh doanh quốc tế là gì? Hãy đưa ra một số ví dụ về hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt Nam. 2. Môi trường kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp có những đặc điểm và nội dung gì? 3. Hãy bình luận câu nói “Học tập kinh doanh quốc tế rất tốt khi ban chuẩn bị làm việc cho một công ty đa quốc gia, còn không có giá trị gì đối với một cá nhân sẽ đi làm tại một doanh nghiệp nhỏ„. 4. Hãy cho biết những thay đổi trong công nghệ đã tác động như thế nào tới quá trình toàn cầu hóa thị trường và toàn cầu hóa sản xuất? Liệu quá trình toàn cầu hóa thị trường và toàn cầu hóa sản xuất có thể xẩy ra mà không có những thay đổi và tiến bộ trong công nghệ? 5. Theo xu hướng hiện nay, Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất trên thế giới vào năm 2020. Hãy bình luận những tác động của xu hướng này tới hệ thống thương mại toàn cầu. 6. Sử dụng Internet cũng như các hình 1.1 đến 1.8 và bảng 1.1. để cho biết hiện nay trên thế giới có bao nhiêu quốc gia? Những nền kinh tế lớn trên thế giới tập trung ở những nơi nào trên thế giới? 19
  20. Hình 1.1.: BẢN ĐỒ THẾ GIỚI 20
  21. Hình 1.2.: Bản đồ khu vực Châu Á 21
  22. Hình 1.3.: Bản đồ khu vực Đông Nam Á 22
  23. Hình 1.4.: Bản đồ khu vực Bắc Hoa Kỳ 23
  24. Hình 1.5.: Bản đồ khu vực Châu Âu 24
  25. Hình 1.6.: Bản đồ khu vực Trung Đông 25
  26. Hình 1.7.: Bản đồ khu vực Nam Mỹ 26
  27. Hình 1.8.: Bản đồ khu vực Trung Hoa Kỳ và Vịnh Caribê 27
  28. Hình 1.8.: Bản đồ Khu vực Châu đại dương 28
  29. Hình 1.9.: Bản đồ khu vực Châu Phi 29
  30. Bảng 1.1: Danh mục các nước trên thế giới Diện tích GNI trên đầu GNI trên đầu Nước Dân số* Thủ đô (Km2) người 1994 người 2009 Afghanistan 647.5 31.89 Kabul NA 370 Albania 28.75 3.6 Tirane 360 3.95 Algeria 2.381.740 33.333 Algiers 1.69 4.42 American Samoa 199 58 Pago Pago NA NA Andorra 450 72 Andora la Vella NA 41.13 Angola 1.246.700 12.264 Luanda NA 3.49 Anguilla 91 14 The Valley NA NA Antigua and Barbuda 440 69 Saint John's 6.97 12.13 Argentina 2.766.890 40.302 Buenos Aires 8.06 7.6 Armenia 29.8 2.972 Yerevan 670 3.1 Aruba 193 100 Oranjestad NA NA Australia 7.686.850 20.434 Canberra 17.98 43.77 Austria 83.85 8.2 Vienna 24.95 46.85 Azerbaijan 86.6 8.12 Baku 500 4.84 Bahamas, The 13.878 305.655 Nassau NA 21.39 Bahrain 620 709 Manama 7.5 25.42 Bangladesh 144 150.448 Dhaka 230 590 Barbados 430 281 Bridgetown 6.53 NA Belarus 207.6 9.725 Minsk 2.16 5.54 Belgium 30.51 10.392 Brussels 22.92 45.31 Belize 22.96 294 Belmopan 2.55 3.74 Benin 112.62 8.078 Porto-Novo 370 750 Bermuda 50 66 Hamilton NA NA Bhutan 47 2.328 Thimphu 400 2.02 Bolivia 1.098.580 9.119 La Paz 770 1.63 Bosnia and Herzegovina 51.233 4.552 Sarajevo NA 4.7 Botswana 600.37 1.816 Gaborone 2.8 6.26 Brazil 8.511.965 190.01 Brasilia 3.37 8.07 British Virgin Islands 153 24 Road Town NA NA Brunei 5.765 375 Bandar Seri Begawan NA NA Bulgaria 110.91 7.323 Sofia 1.16 5.77 Burkina Faso 274.2 14.326 Ouagadougou 300 510 Myanmar (Burma) 676.578 47.374 Naypyidaw NA NA Burundi 27.83 8.391 Bujumbura 150 150 Cambodia 181.04 13.996 Phnompenh NA 650 Cameroon 475.44 18.06 Yaounde 680 1.17 Canada 9.976.140 33.39 Ottawa 19.57 42.17 Cape Verde 4.03 424 Praia 910 3.01 Cayman Islands 264 47 George Town NA NA Central African 622.98 4.369 Bangui 370 450 Republic Chad 1.284.000 9.886 N'Djamena 190 620 Chile 756.95 16.285 Santiago 3.56 9.46 China 9.596.960 1.321.852 Beijing 530 3.62 30
  31. Diện tích GNI trên đầu GNI trên đầu Nước Dân số* Thủ đô (Km2) người 1994 người 2009 Christmas Island 135 1,4 Flying Fish Cove NA NA Cocos (Keeling) Islands 14 0,596 West Island NA NA Colombia 1.138.910 44.38 Bogota 1.62 4.95 Comoros 2.235 711 Moroni NA 870 Congo, Republic of the 342 3.801 Brazzaville 640 1.83 Cook Islands 240 22 Avarua NA NA Costa Rica 51.1 4.134 San Jose 2.38 6.26 Cote d'Ivoire 322.46 18.013 Yamoussoukro NA 1.06 Croatia 56.538 4.493 Zagreb 2.53 13.81 Cuba 110.86 11.394 Havana NA NA Curacao 9.25 716 Willemstad NA NA Cyprus 127.85 788 Nicosia NA 26.94 Czech Republic 43.07 10.229 Prague 3.21 17.31 Denmark 43.07 5.468 Copenhagen 28.11 58.93 Djibouti 22 496 Djibouti NA 1.28 Dominica 750 72 Roseau 2.83 4.9 Dominican Republic 48.73 9.366 Santo Domingo 1.32 4.53 Ecuador 283.56 13.756 Quito 1.31 3.94 Egypt 1.001.450 80.335 Cairo 710 2.07 El Salvador 21.04 6.948 San Salvador 1.48 3.37 Equatorial Guinea 28.05 551 Malabo 430 12.42 Eritrea 121.3 4.907 Asmara NA 300 Estonia 45.1 1.316 Tallinn 2.82 14.06 Ethiopia 1.221.900 76.512 Addis Ababa 130 330 Falkland Islands (Islas 12.17 3 Stanley NA NA Malvinas) Faroe Islands 1.399 48 Torshavn NA NA Fiji 18.27 919 Suva 2.32 3.95 Finland 337.03 5.238 Helsinki 18.85 45.68 France 547.03 65.447 Paris 23.47 43.99 French Guiana 91 200 Cayenne NA NA French Polynesia 4.167 279 Papeete NA NA Gabon 267.67 1.455 Libreville 3.55 7.37 Gambia, The 11.3 1.688 Banjul 360 440 Gaza Strip 360 1.482 NA NA NA Georgia 69.7 4.646 Tbilisi NA 2.53 Germany 356.91 82.401 Berlin 25.58 42.56 Ghana 238.54 22.931 Accra 430 700 Gibraltar 6.5 28 Gibraltar NA NA Greece 131.94 10.706 Athens 7.71 28.63 Greenland 2.175.600 56 Nuuk NA 32.96 Grenada 344 90 St. George's NA 5.58 Guam 541,3 173 Hagåtña NA NA Guatemala 108.89 12.728 Guatemala 1.19 2.63 Guernsey 78 66 Saint Peter Port NA NA 31
  32. Diện tích GNI trên đầu GNI trên đầu Nước Dân số* Thủ đô (Km2) người 1994 người 2009 Guinea 245.86 9.948 Conakry 510 370 Guinea-Bissau 36.12 1.473 Bissau 240 510 Guyana 214.97 769 Georgetown 530 1.45 Haiti 27.75 8.706 Port-au-Prince 220 NA Holy See (Vatican City) 0,44 0,821 Vatican City NA NA Honduras 112.09 7.484 Tegucigalpa 580 1.82 Hong Kong 1.04 6.98 Victoria 21.65 31.42 Hungary 93.03 9.956 Budapest 3.84 12.98 Iceland 103 302 Reykjavik 24.59 43.22 India 3.287.590 1.129.866 New Delhi 310 1.17 Indonesia 1.919.440 234.694 Jakarta 880 2.23 Iran 1.648.000 65.398 Tehran NA 4.53 Iraq 436.245 27.5 Baghdad NA 2.21 Ireland 70.273 4.109 Dublin 13.63 44.31 Isle of Man 572 76 Douglas NA 49.31 Israel 20.77 6.427 Jerusalem 14.41 25.74 Italy 301.23 58.148 Rome 19.27 35.08 Jamaica 10.99 2.78 Kingston 1.42 5.02 Japan 377.835 127.433 Tokyo 34.63 37.87 Jersey 116 91 Saint Helier NA NA Jordan 91.88 6.053 Amman 1.39 3.74 Kazakhstan 2.717.300 15.285 Alma-Ata 1.41 6.74 Kenya 582.65 36.914 Nairobi 260 770 Kiribati 717 108 Tarawa 730 1.89 Korea, North 120.54 23.302 P'yongyang NA NA Korea, South 98.48 49.045 Seoul 8.22 19.83 Kuwait 17.82 2.506 Kuwait 19.04 43.93 Kyrgyzstan 198.5 5.284 Bishkek 610 870 Laos 236.8 6.522 Vientiane 320 880 Latvia 64.1 2.26 Riga 2.29 12.39 Lebanon 10.4 3.926 Beirut NA 7.97 Lesotho 30.35 2.125 Maseru 700 1.02 Liberia 111.37 3.196 Monrovia NA 160 Libya 1.759.540 6.037 Tripoli NA 12.02 Liechtenstein 160.475 34 Vaduz NA 113.21 Lithuania 65.2 3.575 Vilnius 1.35 11.41 Luxembourg 2.586 480 Luxembourg 39.85 74.43 Macau 542.2 4.57 NA NA NA Macedonia 25.333 2.056 Skopje 790 4.4 Madagascar 587.04 19.449 Antananarivo 230 420 Malawi 118.48 13.603 Lilongwe 140 280 Malaysia 329.75 24.821 Kuala Lumpur 3.52 7.23 Maldives 298 369 Malé NA 3.87 Mali 1.240.000 11.995 Bamako 250 680 32
  33. Diện tích GNI trên đầu GNI trên đầu Nước Dân số* Thủ đô (Km2) người 1994 người 2009 Malta 320 402 Valletta NA 16.69 Marshall Islands 181 62 Majuro (Delap) NA 3.06 Martinique 1.128 436 Fort-de-France NA NA Mauritania 1.030.700 3.27 Nouakchott 480 960 Mauritius 2.04 1.251 Port Louis NA 7.24 Mayotte 374 209 Mamoudzou NA NA Mexico 1.972.550 108.701 Mexico City 4.01 8.96 Micronesia, Federated 702 108 Palikir NA 2.22 States of Moldova 33.7 4.432 Chisinau 870 1.59 Monaco 2,02 33 Monaco NA 203.9 Mongolia 1.565.000 2.952 Ulaanbaatar 340 1.63 Montserrat 102 10 Plymouth NA NA Morocco 446.55 33.757 Rabat 1.15 2.79 Mozambique 801.59 20.906 Maputo 80 440 Namibia 824.29 2.055 Windhoek 2.03 4.31 Nauru 21 14 Yaren distict 10 NA Nepal 140.8 28.902 Kathmandu 200 440 Netherlands 37.33 16.571 Amsterdam 21.97 49.35 Netherlands Antilles 800 224 Willemstad NA NA New Caledonia 19.06 222 Noumea NA NA New Zealand 268.68 4.116 Wellington 13.19 26.83 Nicaragua 129.494 5.675 Managua 330 1.01 Niger 1.267.000 12.895 Niamey 230 340 Nigeria 923.77 135.031 Abuja 280 1.14 Niue 260 1,5 Alofi NA NA Norfolk Island 34,6 2,1 Kingston NA NA Northern Mariana 463 85 Saipan NA NA Islands Norway 324.22 4.628 Oslo 26.48 86.44 Oman 212.46 3.205 Muscat 5.2 17.89 Pakistan 803.94 164.742 Islamabad 440 1.02 Palau 459 21 Ngerulmud NA 8.94 Palestine 360 3.935 NA 2.4 NA Panama 78.2 3.242 Panama 2.67 6.74 Papua New Guinea 461.69 5.796 Port Moresby 1.16 1.18 Paraguay 406.75 6.669 Asuncion 1.57 2.28 Peru 1.282.220 28.675 Lima 1.89 4.16 Philippines 300 91.077 Manila 960 1.79 Pitcairn Islands 47 0,048 Adamstown NA NA Poland 312.68 38.518 Warsaw 2.47 12.26 Portugal 92.08 10.643 Lisbon 9.37 20.94 Puerto Rico 9.104 3.944 San Juan NA NA Qatar 11 907 Doha 14.54 NA Romania 237.5 22.276 Bucharest 1.12 8.33 Russia 17.075.200 141.378 Moscow 2.65 9.37 33
  34. Diện tích GNI trên đầu GNI trên đầu Nước Dân số* Thủ đô (Km2) người 1994 người 2009 Rwanda 26.34 9.908 Kijali NA 460 Saint Helena 122 8 Jamestown NA NA Saint Kitts and Nevis 269 39 Basseterre 4.76 10.15 Saint Lucia 620 171 Castries 3.45 5.19 Saint Pierre and 242 7 Saint-Pierre NA NA Miquelon Saint Vincent and the 389 118 Kingstown NA 5.13 Grenadines Samoa 2.831 214 Apia NA 2.84 San Marino 61 30 City of San Marino NA 50.67 Sao Tome and Principe 1.001 200 São Tomé NA 1.14 Saudi Arabia 1.945.000 27.601 Riyadh 7.24 17.7 Senegal 196.19 12.522 Dakar 610 1.04 Serbia and Montenegro 102.35 10.833 Belgrade NA 5.99 Seychelles 451 82 Victoria NA 8.48 Sierra Leone 71.74 6.145 Freetown 150 340 Singapore 632,6 4.553 Singapore 23.36 37.22 Slovakia 48.845 5.448 Bratislava 2.23 16.13 Slovenia 20.296 2.009 Ljubljana 7.14 23.52 Solomon Islands 28.45 567 Honiara 800 910 Somalia 637.66 9.119 Mogadishu NA NA South Africa 1.221.040 43.998 Pretoria 3.01 5.77 Spain 504.75 40.448 Madrid 13.28 31.87 Sri Lanka 65.61 20.926 Colombo 640 1.99 Sudan 2.505.810 39.379 Khartoum NA 1.23 Suriname 163.27 471 Paramaribo 870 4.76 Svalbard 61.022 2 Longyearbyen NA NA Swaziland 17.36 1.133 Mbabane 1.16 2.35 Sweden 449.964 9.031 Stockholm 23.63 48.93 Switzerland 41.29 7.555 Bern 37.18 56.37 Syria 185.18 19.315 Damascus NA 2.41 Taiwan 35.98 22.859 Taipei 12.07 NA Tajikistan 143.1 7.077 Dushanbe 350 700 Tanzania 945.09 39.384 Dar es Salaam NA 500 Thailand 514 65.068 Bangkok 2.21 3.76 Timor-Leste (East 14.874 1.085 Dili NA 2.46 Timor) Togo 56.79 5.702 Lome 320 440 Tokelau 10 1,4 Nukunonu NA NA Tonga 748 117 Nuku'alofa 1.64 3.26 Trinidad and Tobago 5.13 1.056 Port-of-Spain 3.74 16.56 Tunisia 163.61 10.276 Tunis 1.8 3.72 Turkey 780.58 71.159 Ankara 2.45 8.73 Turkmenistan 488.1 5.097 Ashgabat NA 3.42 Turks and Caicos 430 22 Cockburn Town NA NA Islands Tuvalu 26 12 Funafulti 800 NA 34
  35. Diện tích GNI trên đầu GNI trên đầu Nước Dân số* Thủ đô (Km2) người 1994 người 2009 Uganda 236.04 30.263 Kampala 200 460 Ukraine 603.7 46.3 Kiev 1.57 2.8 United Arab Emirates 83.6 4.444 Abu Dhabi NA NA United Kingdom 244.82 60.776 London 18.41 41.52 United States 9.372.610 301.14 Washington 25.86 47.24 Uruguay 176.22 3.46 Montevideo 3.96 9.4 Uzbekistan 447.4 27.78 Tashkent 980 1.1 Vanuatu 14.76 212 Port-Vila 1.15 2.62 Venezuela 912.05 26.024 Caracas 2.76 10.2 Vietnam 329.56 85.262 Hanoi 190 1.01 Virgin Islands (U.S. 346 108 Charlotte Amalie NA NA Virgin Islands) Wallis and Futuna 264 16 Mata-Utu NA NA Western Sahara 266 383 NA NA NA Yemen 527.97 22.231 Sanaa 280 1.06 Dem. Rep. Congo 2.345.410 67.827 Kinshasa NA NA (Zaire) Zambia 752.61 11.477 Lusaka 350 970 Zimbabwe 390.58 12.311 Harare 490 NA Lưu ý: *: nghìn : đơn vị USD 35
  36. CHƯƠNG 2: NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA CÁC QUỐC GIA I. Môi trường chính trị, môi trường pháp lý Ví dụ 1: Kinh doanh ở Nga: thực trạng pháp lý và chính trị Ở Nga, hiện tượng kinh doanh các loại phần mềm, đĩa nhạc và phim lậu rất phổ biến. Cảnh sát Nga hầu hết đều nhận thức được điều này nhưng họ không phạt hay bắt giữ những người bán hàng. Thậm chí một số cảnh sát còn nhận tiền hối lộ từ các cửa hàng nói trên. Cũng như ở nhiều quốc gia mới gia nhập nền kinh tế thị trường khá c, hối lộ là một hiện tượng quen thuộc ở Nga. Một chuyên gia nhận định rằng những doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nga đã sử dụng chừng 20% thu nhập thực để hối lộ. Chính vì môi trường pháp lý yếu kém, kinh doanh ở Nga rất khó khăn. Tổng thống Vladimir Putin đã từng bình luận rằng: “Bất kì doanh nghiệp nào đăng ký hoạt động thành công ở Nga đều xứng đáng nhận được huy chương”. Sự mập mờ và chồng chéo trong các qui định của luật pháp đã làm giàu các quan chức. Bất kì một khoản đầu tư mới nào cũng cần phải có hàng tá các giấy phép và mỗi loại giấy phép đều cần một khoản tiền đút lót. Những quan chức chính phủ là những người nhận nhiều hối lộ nhất, nên nhiều người trong số họ có thể mua các tour du lịch đắt tiền hoặc xe hơi ngoại mặc dù họ đã nhận được một mức lương rất khiêm tốn. Bên cạnh tham nhũng, nhà nước còn can thiệp mạnh mẽ vào khu vực kinh tế tư nhân. Thêm vào đó, tỷ lệ tội phạm rất cao, một phần vì có sự liên kết và bảo vệ của các quan chức, làm việc kinh doanh độc lập càng trở nên khó khăn. Một trong những ví dụ nổi tiếng nhất là trường hợp của công ty Yukos – một công ty dầu của nhà công nghiệp Mikhail Khodorkovsky, người đã bị băt vì bị nghi trốn thuế. Chính phủ Nga buộc tội Yukos trốn thuế nên đã bán một phần công ty và phong tỏa 9,3 tỉ đô la trong tài khoản của công ty này. Công ty mua lại Yukos là tập đoàn Bakail Financing, tình cờ trùng tên với một cửa hàng tạp hóa trong một ngôi làng nhỏ. Điều này đặt ra nhiều câu hỏi về sự xuất hiện của Baikal, dẫn đến một công ty nhà nước tên Rosnef đứng ra thông báo rằng công ty này đã mua Yukos với một số tiền bí mật. Người mua Yukos biến mất và có lẽ chưa bao giờ có. Dây xích của sự việc đã bị lộ, làm bại lộ kế hoạch của chính phủ muốn chuyển công ty tư nhân này thành công ty của Nhà nước. Nước Nga còn phải chịu nạn phạm tội có tổ chức. Năm 2006, Phó Chủ tịch ngân hàng Trung ương của Nga đã bị bắn chết tại Matxcova. Ông này là người đã rất nỗ lực trong việc tìm cách cải tổ hệ thống ngân hàng vốn nổi tiếng với vấn đề tham nhũng, và đã đóng cửa rất nhiều nhà băng dính đến tổ chức tội phạm, nên đã tự tạo cho mình nhiều kẻ thù. Ngoài ra còn rất nhiều hợp đồng sát thủ đã được thực hiện, thể hiện ý đồ của các tổ chức tội phạm muốn kiểm soát nền kinh tế Nga. Một viên chức đã ước ượng 36
  37. rằng các tổ chức này đã kiểm soát khoả ng 500 công ty lớn của Nga. Các doanh nghiệp đa quốc gia hoạt động ở Nga phải thường xuyên tiến hành kiểm tra hồ sơ của nhân viên và người đấu thầu để phát hiện ai là người có quan hệ với tổ chức tội phạm hoặc làm giấy tờ tài liệu giả. Các doanh nghiệp nước ngoài cũng rất cố gắng để bảo đảm an toàn cho nhân viên và tài sản của mình trong khả năng có thể. Sự gia tăng của tham nhũng và tội phạm đã gia tăng nỗi nghi ngờ về hệ thống luật pháp của Nga cũng như khả năng điều tiết nền kinh tế thị trường của nó. Đ ất nước này đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Việc chuyển đổi này đã gây nhiều rủi ro cho các công ty nước ngoài. Các nhà quản lý phải tập trung chú ý vào những đặc thù trong môi trường chính trị và luật pháp củ a các nền kinh tế chuyển đổi, đặc biệt là ở Nga. Những qui chế mơ hồ, khung pháp chế chưa đầy đủ, sự thi hành luật không đủ nghiêm, một hệ thống tòa án sơ sài cùng với chính phủ chuyên chế đã tạo nên vô số khó khăn. Mặc dù các doanh nghiệp có thể thực hiện các biện pháp đề phòng để ngăn chặn rủi ro thì vẫn có những rủi ro là không thể tránh được. Nước Nga vẫn đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp để các giao dịch kinh doanh cũng như các bộ luật thương mại trở nên rõ ràng hơn, và các quan chức có thể có các hành động mạnh tay hơn với tội phạm có tổ chức. Rất nhiều các công ty, từ Boeing đến IKEA, đã đầu tư hàng tỉ USD vào quốc gia này, tuy nhiên hoạt động kinh doanh nơi đây tiềm ẩn rất nhiểu thách thức. Có lẽ thành công sẽ thuộc về các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh cũng như bảo vệ tài sản của mình một cách đúng đắn. 1. Rủi ro quốc gia là gì? Mỗi quốc gia đều có hệ thống chính trị và pháp lý đặc trưng, và những nền tảng này góp phần vào việc tạo nên thách thức trong hoạt động và chiến lược kinh doan h của các doanh nghiệp. Các nhà quản lý điều hành doanh nghiệp cần đưa ra đường lối phù hợp với những luật pháp và quy định áp dụng với giao dịch kinh doanh. Lấy ví dụ, việc chính phủ các quốc gia áp thuế nhập khẩu khiến cho rất nhiều công ty chọn cách gia nhập thị trường nước ngoài bằng con đường đầu tư FDI thay vì xuất khẩu. Tuy vậy, những đặc trưng trong hệ thống pháp luật và chính trị ở các quốc gia cũng góp phần tạo nên cơ hội kinh doanh cho các công ty. Trợ cấp ưu đãi, ủng hộ của chính phủ, sự bảo vệ đối với cạnh tranh, tất cả những thuận lợi này giúp làm giảm chi phí và ảnh hưởng đến việc hoạch định chiến lược kinh doanh. Rất nhiều chính phủ các quốc gia khuyến khích các công ty đa quốc gia đầu tư vào đất nước mình và sử dụng lao động tại địa phươ ng bằng hình thức giảm thuế hoặc ưu đãi về tiền mặt. Để tận dụng được các cơ hội và tối thiểu hóa rủi ro, các nhà quản lý cần xây dựng vốn hiểu biết về khu vực kinh tế nhà nước, bối cảnh chính trị, cũng như hệ thống pháp lý ở các quốc gia mà doanh nghiệp dự kiến hoạt động kinh doanh. Họ cũng cần phải xây dựng các kỹ năng để tương tác có hiệu quả với các cơ quan hành chính ở đất nước đó. 37
  38. Ví dụ trên đã cho chúng ta biết về những rủi ro khi kinh doanh ở Nga. Rủi ro quốc gia được hiểu là nguy cơ đối mặt với th iệt hại hoặc những chống đối đối với hoạt động kinh doanh và lợi nhuận của một doanh nghiệp bắt nguồn từ hệ thống chính trị và/hoặc môi trường pháp lý của một quốc gia. Rủi ro quốc gia (hay còn gọi là rủi ro chính trị) là một trong bốn loại rủi ro chính đối với kinh doanh quốc tế mà cuốn sách này đã nói đến trong mục 1 của chương này. Những động thái về chính trị hoặc pháp luật có thể gây tổn hại tới lợi nhuận trong kinh doanh, ngay cả khi chúng không cố ý. Các bộ luật có thể quá chặt chẽ hoặc có thể dẫn tới những hậu quả không mong muốn. Rất nhiều trường hợp các bộ luật dành ưu tiên cho nước sở tại – là đất nước nơi mà hoạt động kinh doanh trực tiếp diễn ra. Lấy ví dụ, việc kinh doanh của hãng Coca – cola ở Đức suy giảm mạnh sau khi chính phủ nước này ban hành một kế hoạch tái chế. Bộ luật mới này yêu cầu khách hàng trả lại những vỏ lon Soda không tái sử dụng được cho các cửa hàng và nhận lại một phần tiền là 0,25 Euro. Thay vì đối mặt với hệ quả không mong muốn, các chuỗi siêu thị lớn phản ứng bằng cách hạ những lon Coke trên giá xuống và thay vào đó chào bán những loại mang nhãn hiệu riêng của họ. Ở Trung Quốc, chính phủ kiểm tra gắt gao những văn hóa phẩm được cho là ảnh hưởng xấu đến chính phủ. Do vậy công ty Yahoo đã phải điều tiết lại những thông tin xuất hiện trên các website của hãng nhằm tránh việc chính phủ Trung Quốc cấm các hoạt động kinh doanh của Yahoo ở Trung Quốc. Luật và các quy định gây ra rủi ro quốc gia như thế nào thì việc thi hành luật không đầy đủ cũng tạo ra những khó khăn cho doanh nghiệp như thế. Một ví dụ là các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ có thể được ban hành nhưng lại không được thực thi một cách nghiêm tAustralia đầy đủ. Sở hữu trí tuệ là cụm từ để chỉ những ý tưởng hoặc tác phẩm được sáng tạo ra bởi con người hoặc bở i các công ty, như bằng sáng chế, thương hiệu, và tác quyền Khi một nhà sáng chế phát minh ra một sản phẩm mới, sản xuất ra một bộ phim mới, hoặc phát triển một phần mềm mới, một bên khác có thể sao chép và bán phát minh đó mà không có sự công nhận hoặc trả tiền thích đáng cho người phát minh. Như đã đề cập trong bức tranh đầu chương về tình trạng ở nước Nga, khung pháp chế của nước này còn khá yếu và không hiệu quả. Tòa án của Nga còn thiếu kinh nghiệm trong xử các vụ án liên quan đến thương mại và các vấ n đề quốc tế. Do đó để tránh những nguy cơ xấu có thể gặp phải trong môi trường pháp lý của Nga, nhiều doanh nghiệp châu Âu thường tránh đầu tư liên doanh hoặc bước tiên phong trong kinh doanh vào nước Nga. Mức độ phổ biến của rủi ro quốc gia Rủi ro quốc gia được đo bởi các chỉ tiêu khác nhau, như nợ chính phủ, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, và sự bền vững chính trị. Với tình hình chiến sự và cơ chế chính trị mới, Iraq là nước có mức độ rủi ro quốc gia cao nhất. Zimbabwe cũng có rủi ro quốc gia cao vì sự tham nhũng tràn lan (hối lộ và gian lận) và bất ổn chính trị. Ngược lại Singapore và Hồng Kông được coi là những nước có nền chính trị bền vững 38
  39. nhất. Rủi ro quốc gia có thể tác động đồng đều nhau lên tất cả các công ty trong nước, hoặc chỉ tác động lên một tập hợp nhỏ. Ví dụ như cuộc nội chiến xảy ra ở Yugoslavia trước đây và một vài nước Châu Phi khác vào những năm 90 đã ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp. Ngược lại, mặc dù có nhiều công ty cạnh tranh trong ngành công nghiệp dầu mỏ của Nga như Conoco Phillips, Exxon Mobil va Royal Dutch Shell, chính phủ Nga chỉ hướng tới Yukos với những thAustralia đẩy về mặt chính trị. Khi quan hệ kinh tế giữa các quốc gia và bạn hàng của mình mạnh mẽ hơn, cũng như khi các nước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, họ có xu hướng tự do hóa thị trường của mình, và giảm thiểu những hạn chế đối với kinh doanh nước ngoài. Mức rủi ro quốc gia có xu hướng thấp hơn ở các nước có hệ thống chính trị ổn định và hệ thống pháp lý ưu đãi. Ngược lại, mức rủi ro quốc gia rất cao ở các nước có nền chính trị không ổn định và hệ thống pháp lý quá cồng kềnh. 2. Hệ thống chính trị (political system) Hệ thống chính trị là một tập hợp những tổ chức chính thức tạo nên một chính phủ. Nó bao gồm: các cơ quan luật pháp, các đảng phái chính trị, các nhóm vận động hành lang, và các công đoàn. Một hệ thống chính trị cũng quyết định các nhóm quyền lực trên sẽ tương tác với nhau như thế nào. Hệ thống pháp lý (legal system) là một hệ thống diễn giải và thực thi luật pháp. Các bộ luật, các quy tắc, quy định, tạo nên khung pháp chế để thi hành. Một hệ thống pháp luật bao gồm các tổ chức và các thủ tục nhằm bảo đảm trật tự và giải quyết mâu thuẫn trong các hoạt động thương mại, cũng như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thu thuế từ thu nhập của cá nhân và doanh nghiệp. Hệ thống chính trị cũng như hệ thống pháp lý vừa phức tạp, vừa thường xuyên thay đổi, và hai hệ thống này có mối liên hệ chặt chẽ phụ thuộc lẫn nhau, thay đổi trong một hệ thống sẽ kéo theo thay đổi trong hệ thống còn lại. Hình 2.1. Nguồn gốc Nguồn gốc của t ên rủi Rủi ro quốc gia ạo n ro quốc gia Hình 2.1. chỉ rõ nguồn gốc tạo nên rủi Hệ thống Chính trị Hệ thống Pháp luật ro quốc gia Chính phủ Luật, quy định và điều lệ nhắm đến: Các Đảng phái chính trị Đảm bảo trình tự hoạt động thương mại của hệ Cơ quan hành pháp Hòa giải tranh chấp Các nhóm vận động hành lang nghị thống chính Bảo hộ tài sản trí tuệ viện à h Các liên minh thương mại Hệ thống thuế trị v ệ Các cơ quan chính trị khác thống pháp 39
  40. luật. Những mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật và chính trị dễ làm nảy sinh rủi ro quốc gia. Điều này có thể xảy ra bởi sự thành lập của chính phủ mới, thay đổi chính sách hay định hướng của các đảng phái chính trị, việc ban hành những bộ luật và quy định mới Sự thay đổi có thể xảy ra dần dần hoặc đột ngột. Các công ty thường đối phó dễ dàng hơn với các sự thay đổi từ từ. Ngược lại, sự thay đổi đột ngột sẽ khó xử lý hơn và rủi ro tiềm năng cũng nguy hiểm hơn. Những sự phát triển không phù hợp với công ty có thể sẽ sinh ra những điều kiện mới, đe dọa sản phẩm, dịch vụ, hoặc hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Ví dụ, khi chính phủ áp một loại thuế nhập khẩu mới, giá một loại nguyên liệu quan trọng của quá trình sản xuất sẽ tăng lên. Một chỉnh sửa trong luật lao động có thể sẽ thay đổi số giờ lao động mà công nhân của một doanh nghiệp được phép làm việc. Một n hà lãnh đạo mới lên nắm quyền có thể dẫn tới việc chính phủ quốc hữu hóa tài sản của doanh nghiệp. Rủi ro quốc gia luôn luôn tồn tại, tuy nhiên tính chất và mức độ của chúng thường khác nhau trong các giai đoạn và các nước khác nhau. Ví dụ, chính phủ Trung Quốc tuyên bố họ đang trong quá trình sửa đổi hệ thống pháp luật quốc gia, phù hợp với chuẩn mực của thế giới. Tuy vậy, việc cải tổ được tiến hành không đồng bộ, các quy định mới xây dựng không chặt chẽ, không rõ ràng, hoặc mâu thuẫn nhau. Ví dụ, có thời chính phủ TQ tuyên bố rằng đầu tư nước ngoài vào ngành công nhiệp Internet ở Trung Quốc là bất hợp pháp. Nhưng vào thời điểm đó, các doanh nghiệp phương Tây đã đầu tư hàng triệu đô la Hoa Kỳ vào khu vực kinh doanh dựa trên Internet của Trung Quốc, mà khô ng hề nhận được bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy những đầu tư đó là bất hợp lý. Trong những trường hợp mâu thuẫn nảy sinh giữa doanh nghiệp nước sở tại và doanh nghiệp nước ngoài, chính phủ các quốc gia thường nghiêng về bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp nước nhà. Ngay cả khi các doanh nghiệp phương Tây đạt được lợi thế tại tòa án, thì việc thực thi phán quyết của tòa án cũng khó đạt được. 3. Các mô hình hệ thống chính trị Chức năng cơ bản của hệ thống chính trị là đảm bảo sự ổn định của quốc gia dựa vào nền tảng luật pháp, bảo vệ đất nước khỏi những nguy cơ đe dọa từ bên ngoài, và điều tiết sự phân phối các tài nguyên có giá trị giữa các thành phần xã hội. Mỗi quốc gia có một hệ thống chính trị có thể coi là độc nhất, được phát triển trong bối cành lịch sử, kinh tế, văn hóa đặc trưng của quốc gia đó. Mỗi hệ thống chính trị được lập ra dựa trên nhu cầu của cử tri và dựa trên sự phát triển của quốc gia và thế giới. Cử tri là những cá nhân và tổ chức ủng hộ cơ chế chính trị đó và cũng là đối tượng thụ lợi từ chế độ chính trị đó. Trong lịch sử gần đây, có 3 loại hình chế độ chính trị có thể phân biệt rõ: chế độ chuyên chế, chế độ xã hội chủ nghĩa, và chế độ dân chủ. Tuy vậy, cần chú ý rằng sự phân loại này chỉ mang tính chất tương đối. Ví dụ, hầu hết các nền dân c hủ đều bao hàm một số yếu tố xã hội chủ nghĩa, hầu hết các cơ chế chuyên chế của thế kỷ XX ngày nay có sự kết hợp của chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ dân chủ. 40
  41. 3.1. Chế độ chuyên chế (totalitarianism) Một số quốc gia được coi là có chế độ chuyên chế như Đức (1933 – 1945), và Tây Ban Nha (1939 – 1975) và cả Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông. Ngày nay, một vài nhà nước ở khu vực Trung Đông và châu Phi vẫn còn giữ một số yếu tố của chế độ chuyên chế. Chế độ chuyên chế là chế độ chính trị trong đó nhà nước nắm quyền điều tiết hầu như mọi khía cạnh của xã hội. Một chính phủ chuyên chế thường tìm cách kiểm soát không chỉ các vấn đề kinh tế chính trị mà cả thái độ, giá trị, và niềm tin của nhân dân nước mình. Quyền lực được duy trì bằng cảnh sát ngầm, thông tin truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng do nhà nước kiểm soát, các cuộc thảo luận và phê bình đều có sự giám sát của nhà nước. Qua thời gian, hầu hết các nhà nước chuyên chế đều đã biến mất hoặc chuyển sang đường lối dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Tu y nhiên sự chuyển đổi không hề dễ dàng, và những nhà nước chuyên chế trước đây vẫn duy trì sự kiểm soát chặt chẽ, bao gồm cả sự can thiệp vào các hoạt động kinh doanh. Nhiều quốc gia vẫn đặc trưng với thủ tục pháp lý cồng kềnh rườm rà, các quy định về thu ế và kế toán hết sức quan liêu, cũng như hệ thống pháp lý không đủ bảo vệ cho hoạt động kinh doanh, và cơ sở hạ tầng yếu kém (đường xá, thông tin liên lạc, công nghệ thông tin), gây trở ngại cho kinh doanh. 3.2. Chế độ xã hội chủ nghĩa (Socialism) Nguyên lý cơ bản của xã hội chủ nghĩa là vốn và sự giàu có cần phải được sử dụng trước hết như một phương tiện để sản xuất, chứ không phải như một nguồn lợi nhuận. Điều này dựa trên tư tưởng tập thể trong đó cho rằng tổng phAustralia lợi của mọi người sẽ lớn hơn rất nhiều so với phAustralia lợi của cá nhân. Các nhà xã hội chủ nghĩa tin rằng các nhà tư bản nhận được một khoản lợi nhuận không xứng đáng từ các công nhân của họ, do khoản lương trả cho các công nhân không thể hiện hết toàn bộ phần lao động họ đã bỏ ra. Vì thế chính phủ cần kiểm soát những phương tiện cơ bản của việc sản xuất, phân phối, và hoạt động thương mại. Chế độ xã hội chủ nghĩa trên hầu hết các quốc gia hiện nay được thể hiện dưới hình thức xã hội chủ nghĩa, và vận hành thành công nhất ở Đông Âu . Chế độ này cũng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị ở các quốc gia lớn như Bra – xin và Ấn Độ, và ngày này vẫn là một hệ thống hoạt động hiệu quả ở nhiều nước trên thế giới. Đối với cơ chế xã hội chủ nghĩa, như ở Pháp và Na -Uy, chính phủ có sự can thiệp nhất định vào khu vực kinh tế tư nhân và các hoạt động kinh doanh. Thuế thu nhập doanh nghiệp ở các nước như Pháp và Thụy Điển cũng cao hơn tương đối so với các nước khác. Ngay cả ở nền kinh tế mạnh mẽ của Đức cũng trải qua tình trạng dòng vốn FDI chảy ra nước ngoài do các thương nhân muốn tránh khỏi những quy định quá chặt chẽ. 3.3. Chế độ dân chủ (democracy) Chế độ dân chủ trở thành chế độ chính trị ở hầu hết các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới. Chế độ này có hai đặc trưng cơ bản sau: 41
  42. - Quyền sở hữu tư nhân: chỉ khả năng sở hữu tài sản và làm giàu bằng tích lũy tư nhân. Tài sản ở đây là cả tài sản hữu hình, như đất đai, nhà cửa, và tài sản vô hình, như cổ phần, hợp đồng, bằng sáng chế, và các tài sản trí tuệ. Các chính phủ dân chủ xây dựng các bộ luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Cá nhân và các doanh nghiệp có quyền sở hữu, sử dụng, mua hoặc bán, và ủy nhiệm chúng cho bất kỳ ai họ muốn. Những quyền này là hết sức quan trọng vì chúng khuyến khích sự chủ động, tham vọng, và cấp tiến, cũng như tính cần kiệm và mong muốn làm giàu. Con người có xu hướng không có những phẩm chất này nếu họ không chắc chắn về việc mình có được kiểm soát tài sản và lợi nhuận sản sinh từ tài sản của mình hay không. - Quyền lực có giới hạn của chính phủ: chính phủ nơi đây chỉ thực hiện một số chức năng thiết yếu cơ bản phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân như bảo vệ quốc phòng, duy trì luật pháp và trật tự xã hội, quan hệ ngoại giao, xây dựng và bảo trì cơ sở hạ tầng như đường xá, trường học, và các công trình công cộng. S ự kiểm soát và can thiệp của chính phủ đối với các hoạt động kinh tế của cá nhân và các doanh nghiệp được giảm thiểu. Bằng cách cho phép quy luật thị trường chi phối hoạt động kinh tế, các nguồn tài nguyên được đảm bảo phân phối một cách có hiệu quả. Dưới chế độ dân chủ, những mưu cầu của cá nhân và của các doanh nghiệp có thể không tương đồng với sự công bằng và công lý. Do mỗi người có khả năng và nguồn tài chính khác nhau, nên mỗi người có được mức độ thành đạt khác nhau, dẫn tới bất bình đẳng. Các nhà phê bình chủ nghĩa dân chủ thuần túy cho rằng khi vượt quá giới hạn bất bình đẳng, cần có sự can thiệp của chính phủ để bình đằng hóa sân chơi. Ở những nền dân chủ như Nhật Bản, Đức, Thụy Điển, quyền lợi và tự do dân chủ của cá nhân nằm trong lợi ích chung của đất nước chứ không tách rời. Mỗi xã hội sẽ cân bằng tự do cá nhân và mục tiêu lớn hơn của đất nước. Hầu hết các chế độ dân chủ đều bao hàm một số yếu tố của xã hội chủ nghĩa, ví dụ như sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động của các cá nhân và doanh nghiệp. Xu hướng xã hội chủ nghĩa nổi lên xuất phát từ việc lạm dụng hoặc những ngoại ứng xấu nảy sinh trong chế độ dân chủ thuần túy. Ví dụ, Nhật Bản đã phải rất nỗ lực trong việc duy trì trạng thái cân bằng cần thiết giữa dân chủ và xã hội. Vào những n ăm 1990, năng lực quản lý yếu kém cộng với khủng hoảng kinh tế đã đẩy hàng ngàn doanh nghiệp Nhật Bản vào tình trạng phá sản. Để duy trì công ăn việc làm và ổn định kinh tế, chính phủ Nhật Bản đã can thiệp và hỗ trợ rất nhiều ngân hàng và doanh nghiệp lớn, mà nếu trong chế độ dân chủ thuần túy, thì chắc chắn đã phá sản. Tuy nhiên những chính sách cứu trợ như vậy vô tình đã tạo nên sự thụ động trong nền kinh tế nước này và trì hoãn những cải tổ về cơ cấu cần thiết. Rất nhiều quốc gia, bao gồm cả Australia, Canada, và Hoa Kỳ, và một số quốc gia ở châu Âu, được cho là có chế độ chính trị hỗn hợp, đặc trưng bởi khu vực kinh tế tư nhân năng động và khu vực kinh tế nhà nước hùng mạnh (với sự điều tiết và kiểm soát nhất định của chính phủ). 42
  43. 4. Sự ảnh hưởng của hệ thống chính trị đến hệ thống kinh tế Từng hệ thống chính trị có khuynh hướng tương ứng với từng loại hình kinh tế. Nói chung, chế độ chuyên chế gắn liền với nền kinh tế bao cấp, chế độ dân chủ gắn liền với nền kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa gắn li ền với nền kinh tế hỗn hợp. 4.1. Nền kinh tế chỉ huy (command economy): (hay còn gọi là nền kinh tế tập trung), là nền kinh tế mà chính phủ là người quyết định mọi vấn đề như đất nước sản xuất loại hàng hóa và dịch vụ gì, sản lượng bao nhiêu, giá bán như t hế nào, và hình thức phân phối ra sao. Tất cả mọi tài sản đều thuộc về chính phủ như vốn, lợi nhuận từ sản xuất, đất đai. Chính phủ phân bổ các nguồn tài nguyên dựa trên việc chọn lựa ngành công nghiệp nào nhà nước muốn phát triển. Vào những năm trước của thế kỉ 20, nền kinh tế chỉ huy rất phổ biến, tuy nhiên về sau đã thể hiện tính không hiệu quả nên hầu hết đã bị thay thế dần dần. Ngày nay rất nhiều nước, đặc biệt là các nước theo chủ nghĩa xã hội, vẫn thể hiện một số đặc trưng của nền kinh tế bao cấp. C ác ví dụ điển hình là Trung quốc, Ấn Độ, Nga và vài nước khác ở trung Trung Á, Đông Âu và Trung Đông. 4.2. Nền kinh tế thị trường (market economy): Là nền kinh tế mà mọi quyết định về phân bổ nguồn lực được dựa trên sản lượng, sức tiêu thụ, đầu tư, và tiế t kiệm, dựa trên sự tương tác giữa cung và cầu, đó là quy luật của thị trường. Các quyết định kinh tế được đưa ra bởi cá nhân hoặc doanh nghiệp, sự tác động của chính phủ rất giới hạn. Nền kinh tế thị trường có mối quan hệ mật thiết với chế độ dân chủ, do đó các phương tiện sản xuất phần nhiều được sở hữu và vận hành bởi tư nhân. Nhiệm vụ của chính phủ là thiết lập một hệ thống pháp lí bảo vệ tài sản tư nhân và các hợp đồng thỏa thuận để người dân và các doanh nghiệp có thể kiểm soát và thực hiện hoạt động kinh tế của họ.Tuy nhiên, chính phủ có quyền tác động để điều chỉnh sự chênh lệch mà nền kinh tế thị trường thường tạo ra. 4.3. Nền kinh tế hỗn hợp (mixed economy): thể hiện đặc trưng của cả hai nền kinh tế nói trên. Nó kết hợp sự tác động của chính phủ và của cơ chế thị trường trong việc sản xuất và phân phối hàng hóa. Phần lớn các ngành công nghiệp đều do tư nhân sở hữu, và các thương nhân được tự do thiết lập, sở hữu, và vận hành doanh nghiệp. Tuy nhiên chính phủ là người điều tiết các chức năng cơ bả n như cấp lương hưu, điều tiết lao động, mức lương tối thiểu, và quản lý môi trường. Giáo dục, y tế, và một số ngành dịch vụ thiết yếu khác thường là do chính phủ nắm giữ, đặc biệt các ngành quan trọng như giao thông, viễn thông và năng lượng, Ví dụ như ở Pháp, nhà nước sở hữu các ngân hàng chính và một số ngành công nghiệp quan trọng, ví dụ như công nghiệp luyện kim. Một công ty ô tô, hãng Renault, một phần thuộc chính phủ nhưng một công ty khác có tên Peugoet thuộc tư nhân. Ở một số nước như Đức, Nhật, Si ngapore và Thụy Điển, chính phủ thường cộng tác chặt chẽ với doanh nghiệp và người lao động để đưa ra các chính sách phù hợp. Thế kỷ trước đã chứng kiến một bước nhảy vọt về số lượng nền kinh tế hỗn hợp. Ví dụ: ở Hoa Kỳ, tiêu dùng của chính phủ đã tăng vọt từ 3% GDP những năm 1930 đến 43
  44. 20% vào những năm 1980. Cũng trong giai đoạn này, ở một số lớn các quốc gia có nền kinh tế phát triển khác, tiêu dùng chính phủ trung bình tăng từ 8% GDP lên đến 40%. Chính phủ các nước ở châu Âu, Nhật Bản, và Bắc Hoa Kỳ, áp dụng rất nhiều quy định mới đối với các doanh nghiệp tư nhân, trên các lĩnh vực như an toàn lao động, mức lương tối thiểu, phAustralia lợi khi về hưu, và bảo vệ môi trường. 5. Hệ thống luật pháp Hệ thống luật pháp cung cấp một khung pháp chế các quy định và quy tắc chỉ thị, cho phép, hoặc hạn chế các mối quan hệ cụ thể giữa con người và các tổ chức, đưa ra các hình phạt cho những hành vi vi phạm các quy định và quy tắc kể trên. Luật pháp yêu cầu hoặc hạn chế một số hành vi cụ thể, trong khi cho phép công dâ n thực hiện một số hành động nhất định, chẳng hạn như giao kết hợp đồng và tìm kiếm biện pháp khắc phục đối với vi phạm hợp đồng. Các đạo luật chỉ thị những quy trình, thủ tục mà công dân và các tổ chức cần tuân theo trong một bối cảnh cụ thể. Hệ thống pháp lý có tính năng động; Nó tiến triển theo thời gian để đại diện cho sự thay đổi giá trị xã hội và sự tiến hóa trong xã hội, chính trị, kinh tế và môi trường kĩ thuật của mỗi quốc gia. Hệ thống chính trị hiện hành - chế độ chuyên chế, chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ cũng có xu hướng tác động đến hệ thống pháp luật tương ứng. Nền dân chủ có xu hướng khuyến khích các lực lượng thị trường và tự do thương mại. Trong các hệ thống luật pháp tiên tiến, như tại Australia, Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ và đa số Quy định pháp luật: sự tồn các nước châu Âu, luật pháp được tuyên truyền và tại của một hệ thống pháp hiểu biết rộng rãi. ì luật nơi mọi quy định phải ình Chúng phát huy hiệu quả v rõ ràng, công khai, công được áp dụng b đẳng cho mọi công dân, được bằng và được tôn trọng rộng ban hành bằng các phương tiện thủ tục thông rãi bởi các cá nhân, các tổ thường, được ban hành à chính phủ. bởi quyền hành của các cơ chức v quan chính phủ đã được công nhận và được thi hành có tính hệ thống và công bằng bởi lực lượng cảnh sát và các cơ quan đoàn thể. Ở những quốc gia này có sự tồn tại của văn hóa chấp hành luật pháp, đây là nơi các công dân nhất quán tôn trọng và tuân theo các quy định của pháp luật. Quy định pháp luật liên quan chặt chẽ đến sự tồn tại của một hệ thống pháp luật nơi mọi quy định phải rõ ràng, công khai, công bằng và được tôn trọng rộng rãi bởi các cá nhân, tổ chức và chính phủ. Kinh doanh quốc tế đang khởi sắc ở những xã hội mà các quy đ ịnh pháp luật chiếm ưu thế. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, đạo luật Chứng khoán và Các hoạt động trao đổi khuyến khích sự tin cậy trong giao dịch kinh doanh bằng cách yêu cầu các công ty đại chúng thường xuyên đóng những chỉ số tài chính cho các nhà đầu tư. Hệ thống luật pháp có thể bị xói mòn bởi sự thiếu tôn trọng luật pháp, sự yếu kém trong chính phủ, hoặc những hạn chế nặng nề với nỗ lực ngăn cấm những hành vi phổ biến trong xã hội. Trong bối cảnh của các quy định pháp luật, hoạt động kinh tế có thể bị cản trở và các công ty phải cạnh tranh với một sự không ổn định lớn. 44
  45. 5.1.Các hình thức hệ thống luật pháp: Trên thế giới hiện có năm hình thức hệ thống luật pháp cơ bản. Đó là: luật án lệ, Luật Dân sự , Luật Tôn giáo, Luật Xã hội chủ nghĩa và hệ thống luật hỗn hợp . Những hệ thống pháp luật này là nền móng cho các đạo luật và quy định. Bảng dưới đây cung cấp một số ví dụ về các quốc gia nơi những hệ thống pháp luật này có xu hướng thịnh hành. Bảng 2.1: Hệ thống pháp luật chiếm ưu thế tại một số quốc gia trên thế gi ới Các hệ thống Luật án lệ Luật Dân sự Luật Tôn giáo Luật Xã hội CN luật hỗn hợp Australia Đa số các nước Trung Đông, Nga Đa số các nước Đông Âu Ireland Tây Âu và các Bắc Phi, Trung Quốc Philippines New nước Hoa Kỳ và một vài Cuba Puerto Rico Zealand Latinh Anh Thổ Nhĩ Kì quốc gia Bắc Triều Tiên Hàn Quốc Canada Nhật Bản Châu Á Kazakhstan Nam Phi Mỹ Mexico Uzbekistan Thái Lan Ấn Độ Ukraine Sri Lanka Pakistan Azerbaijan Ethiopia Ghana Moldova Hong Kong Nigeria Tajikistan Bahrain Zimbabwe Kyrgyzstan Qatar Malaysia Singapore Morocco Tunisia Việt Nam Ai Cập Nguồn: S.Tamer Cavusgil and other, International Business – Strategy, Management and the New Reality, Pearson Prentice Hall 2008. Luật Án lệ (còn được gọi là tiền lệ pháp) là một hệ thống luật pháp có nguồn gốc từ Anh và lan rộng sang Australia, Canada, Hoa Kỳ và những nước cựu thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh. Cơ sở của luật tiền lệ là theo dõi thực tiễn vừa qua và các tiền lệ pháp lý do tòa án quốc gia thông qua việc giải thích các quy chế, pháp luật và sự điều hành trước đó. Các quốc gia sử dụng luật tiền lệ (như Viện Quý tộc ở Anh và Quốc hội Mỹ) nắm giữ quyền lực cuối cùng trong việc thông qua hoặc sửa đổi luật. Tại Hoa Kỳ, vì Hiến pháp Hoa Kỳ rất khó khăn trong việc sửa đổi, Tòa án tối cao và thậm chí các tòa án cấp thấp cũng được hưởng sự linh hoạt đáng kể trong việc diễn giải luật. Và bởi vì luật Án lệ cởi mở hơn đối với các quyết định của tòa án, nó có tính linh hoạt hơn các hệ thống luật pháp khác. Như thế, hệ thống tiền lệ pháp có quyền lực 45
  46. đáng kể để diễn giải pháp luật dựa trên những hoàn cảnh riêng của từng trường hợp cá nhân, bao gồm các tình huống tranh chấp kinh doạnh thương mại khác. Luật Dân sự (Civil law) ra đời tại Pháp, Đức, Nhât Bản, Thổ Nhĩ Kì, Mexico, và ở Hoa Kỳ Latin. Nguồn gốc của nó xuất phát từ các đạo luật của Rome và bộ luật Napoleon. Luật Dân sự được căn cứ trên một hệ thống pháp luật đầy đủ và được “hệ thống hóa” – một cách rõ ràng bằng văn bản và có thể tiếp cận. Luật Dân sự chia hệ thống pháp luật làm 3 bộ luật: Thương mại, Dân sự và Hình sự. Bộ luật được coi là hoàn chỉnh như là kết quả của việc cung cấp đầy đủ các hạng mục và thường gặp ở đa số các hệ thống Luật Dân sự . Các điều luật và nguyên tắc hình thành điểm k hởi đầu cho những pháp lý và thực thi công lý. Các quy định đã được hệ thống hóa nổi bật lên với những điều luật cụ thể và các quy tắc ứng xử được tạo ra bởi cơ quan lập pháp hoặc các cơ quan tối cao khác Cả 2 hệ thống luật Án lệ và Luật Dân sự đều bắt nguồn từ Tây Âu và đều đại diện cho các giá trị chung của cộng đồng Tây Âu. Sự khác biệt chính giữa hai hệ thống là trong khi luật Án lệ chủ yếu xuất phát từ tòa án và được phán xét dựa trên quyết định của tòa án, thì Luật Dân sự chủ yếu xuất phát từ cơ quan lập pháp và dựa trên những đạo luật được ban hành bởi cơ quan lập pháp quốc gia và địa phương. Luật Án lệ và Luật Dân sự đặt ra những sự khác biệt đa dạng trong kinh doanh quốc tế. Trong thực tế, hệ thống luật Án lệ nói chung bao gồm các yếu tố của Luật Dân sự và ngược lại. Hai hệ thống này có thể bổ sung cho nhau và các nước sử dụng một trong 2 hệ thống thường có xu hướng sử dụng một số yếu tố của hệ thống kia. Bảng 2.2. So sánh Luật Án lệ và Luật Dân sự Vấn đề pháp lý Luật Dân sự Luật Án lệ Quyền sở hữu trí tuệ Được xác định bằng cách đăng kí Được xác định bằng cách sử dụng trước Thực thi các thỏa Các thỏa thuận thương mại trở Bằng chứng về thỏa thuận là đủ để thực thuận thành cần thực thi nếu được công thi hợp đồng chứng hoặc đăng kí đúng Đặc trưng của hợp Các hợp đồng có xu hướng ngắn Các hợp đồng có xu hướng chi tiết với đồng gọn vì nhiều vấn đề tiềm năng đã tất cả các dự phòng có thể xảy ra được được bao hàm trong Luật Dân sự nêu ra. Thường tốn kém hơn để dự thảo một hợp đồng Phù hợp với hợp Việc không tuân thủ được mở Các thiên tai (lũ lụt, sét, bão, v.v) là đồng rộng để bao gồm các hành vi những lý do chính đáng duy nhất cho không lường trước được của con việc không tuân thủ các quy định trong người như đình công và bạo loạn hợp đồng Luật Tôn giáo (Luật Thần quyền) là một hệ thống pháp lý bị ảnh hưởng rõ rệt của tôn giáo, nguyên tắc đạo lý, và các giá trị đạo đức được xem như là một hiện thân tối cao. Hệ thống Luật Tôn giáo quan trọng nhất được dựa trên các đạo luật của Ấn Độ giáo, Do Thái và Hồi giáo. Trong số đó, phổ biến nhất là luật Hồi giáo, phổ biến ở Trung Đông, Bắc Phi, và Indonesia. Pháp luật Hồi giáo có nguồn gốc từ những quy 46
  47. định của kinh Koran, Kinh thánh của người Hồi giáo và lời dạy của nhà Tiên tri Mohammed. Còn được biết đến với tên gọi Shariah, luật Hồi giáo không phân biệt giữa tôn giáo và hiến pháp. Luật Hồi giáo đưa ra các tiêu chí về các hành vi liên quan đến chính trị, kinh tế, ngân hàng, hợp đồng, hôn nhân và các vấn đề xã hội khác. Luật Hồi giáo điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người, giữa người dân và nhà nước, và giữa con người và đấng tối cao. Được xem như lời dạy của đấng Tối cao, luật Hồi giáo mang tính tuyệt đối và phát triển rất ít theo thời gian. Hầu hết các nước Hồi giáo hiện nay đang duy trì một hệ thống kép, nơi tôn giáo và tòa án hiến pháp cùng tồn tại. Các quốc gia khác có đông dân cư Hồi giáo như Indonesia, Bangladesh, và Pakistan, hiện nay đã có hiến pháp thế tục và các đạo luật. Thổ Nhĩ Kì, một quốc gia khác với số lượng lớn dân cư Hồi giáo đã có hiến pháp thế tục vững chắc. Arab Saudi và Iran là các nước mà ở đó các tòa án tôn giáo có thẩm quyền trên cả luật pháp. Quan điểm truyền thống của Luật Tôn giáo phản đối mọi sự tự do và hiện đại hóa tại các nước theo đạo Hồi. Ví dụ như, quy định nghiêm kh ắc của luật Hồi giáo nghiêm cấm cho và nhận lãi suất vay hay đầu tư. Như vậy, để tuân theo luật Hồi giáo, các ngân hàng không thê cho vay lấy lãi như thông lệ mà phải thu lợi nhuận bằng cách tính lệ phí hành chính hoặc mức lợi nhuận hợp lý trong các dự án tài chính mà họ cấp vốn. Nhiều ngân hàng phương Tây, như Citibank, JP và Ngân hàng Deutsche- có các chi nhánh ở các nước Hồi giáo phải tuân thủ Luật Shariah. Các quốc gia Hồi giáo như Malaysia đã ban hành trái phiếu Hồi giáo cho hưởng lợi tức từ tài sản, v í dụ như tài sản cho thuê, thay vì trả lãi suất. Luật Xã hội chủ nghĩa là một hệ thống pháp lý thường gặp chủ yếu ở các nước cựu thành viên của Liên Bang Xô Viết, Trung Quốc và một số ít nước châu Phi. Nó được dựa trên Luật Dân sự , kết hợp với các yếu tố của nguyên tắc xã hội chủ nghĩa mà nhấn mạnh quyền sở hữu tài sản của nhà nước. Các quyền hành của nhà nước được nhấn mạnh hơn của các cá nhân. Các nước xã hội chủ nghĩa có xu hướng coi tài sản và quyền sở hữu trí tuệ chặt chẽ hơn so với những nước áp dụn g Luật Dân sự hoặc luật tiền lệ. Với sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết và sự chuyển đổi của Trung Quốc đối với chủ nghĩa tư bản, Luật Xã hội chủ nghĩa đang lan dần tới phương Tây. Vì các nước này áp dụng nguyên tắc thị trường tự do, hệ thống pháp luật của h ọ ngày càng kết hợp nhiều hơn các yếu tố bổ sung của Luật Dân sự. Luật hỗn hợp đề cập đến một biến thể của 2 hoặc nhiều hệ thống pháp lý điều hành với nhau. Ở đa số các quốc gia, hệ thống pháp luật tiến hóa theo thời gian, áp dụng các yếu tổ của một hay nhiều hệ thống nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của họ. Sự tương phản giữa Luật Dân sự và luật Án lệ đã trở thành đặc biệt lu mờ vì có rất nhiều quốc gia kết hợp cả 2 hệ thống. Ngoài ra, hệ thống pháp lý ở Đông Âu thường kết hợp các yếu tố của Luật Dân sự và Luật Xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp lý tại Lebanon, Ma rốc và Tunisia thì áp dụng cả các yếu tố của Luật Dân sự và luật Hồi giáo. 47
  48. 6. Các loại rủi ro quốc gia Nền tảng chính trị tác động đến hoạt động kinh doanh trên rất nhiều phương diện, và cũng tạo ra nhiều loại rủi ro quốc gia khác nhau. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu về một số loại rủi ro quốc gia đặc trưng tạo ra bởi hệ thống chính trị. 6.1. Rủi ro xuất phát từ chế độ chính trị Sự chiếm hữu tài sản doanh nghiệp của chính phủ các nước Chính phủ các nước có thể chiếm hữu tài sản của các doanh nghiệp bằng hai con đường chính: tịch thu và sung công. Tịch thu được hiểu là sự thu hồi các tài sản của các doanh nghiệp nước ngoài mà không có bất kỳ một sự đền bù nào. Ví dụ, ở Vê -nê- zuê-la, tổng thống Hugo Chavez đã tịch thu một khu vực khai thác dầu mỏ khổng lồ do công ty dầu khí Total của Pháp sỡ hữu. Sung công là chỉ việc chính phủ thu hồi tài sản của các doanh nghiệp nhưng có một khoản bồi thường nhất định. Một thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng, đó là “quố c hữu hóa”. Quốc hữu hóa chỉ hành động chiếm hữu tài sản của chính phủ các nước, nhưng không phải thu hồi tài sản của các doanh nghiệp mà thu hồi tài sản của cả một ngành công nghiệp nào đó, và có thể có bồi thường hoặc không. Năm 2006, chính phủ Bolivia đã quốc hữu hóa phần lớn ngành công nghiệp sản xuất dầu mỏ và khí đốt của nước này. Ngược lại, trong vài thập kỷ gần đây, vô số chính phủ các nước khác đã đẩy mạnh việc tham gia vào khu vực kinh tế tư nhân bằng việc bán một số doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước cho tư nhân. Xu hướng này thể hiện rõ nhất ở Trung Quốc và Đông Âu, với việc hàng loạt các công ty thuộc sở hữu nhà nước đã được tư hữu hóa từ những năm 1980. Cấm vận và trừng phạt thương mại (Embargo and Sanction) Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã ký kết các bản hiệp định và thỏa thuận quốc tế về những luật lệ, nguyên tắc, tiêu chuẩn trong hành vi giao dịch thương mại trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, chính phủ các quốc gia vẫn có thể đơn phương dùng đến các chính sách trừng phạt và cấm vận thương mại nhằm đối phó với các động thái gây hấn của các nước khác. Trừng phạt thương mại là một hình thức cấm các giao dịch thương mại quốc tế, thường được một hoặc một nhóm các quốc gia sử dụng để đối phó với một quốc gia khác khi nhận định rằng quốc gia này có những động thái đe dọa hòa bình và an ninh. Cấm vận là những lệnh cấm chính thức đối với một hay một vài quốc gia đặc biệt về xuất khẩu hoặc nhập khẩu một số loại hàng hóa, hoặc về các phương thức vận chuyển. Lệnh cấm vận thường được ban hành trong thời gian chiến tranh, hoặc khi có căng thằng gia tăng giữa các quốc gia. Cấm vận là một trong những hình thức ngăn chặn giao dịch thương mại trên một số mặt hàng nhất định đối với một số quốc gia nhất định. Lấy ví dụ như Hoa Kỳ đã áp dụng cấm vận với Cub a, Iran, CHDCNH Triều Tiên với cớ rằng đây là các quốc gia hậu thuẫn cho các nhóm khủng bố trên thế giới. Liên minh châu Âu cũng đã thực thi nhiều lệnh cấm vận chống lại 48
  49. Belarus, Sudan và Trung Quốc trên một số lĩnh vực thương mại nhất định, ví dụ như du lịch nước ngoài, nhằm chống lại việc vi phạm nhân quyền và buôn bán vũ khí. Tẩy chay kinh tế (boycotts) đối với một số quốc gia hay một số doanh nghiệp Người tiêu dùng và một số nhóm quyền lợi đặc biệt đôi khi vẫn thường tẩy chay một số doanh nghiệp nếu họ nhận thấy các doanh nghiệp này gây ảnh hưởng xấu đến thị hiếu tiêu dùng ở địa phương. Khách hàng cũng thường từ chối ủng hộ các doanh nghiệp nếu cho rằng hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp đó là không phù hợp. Tẩy chay (boycotts) được hiểu là động thái tự nguyện từ chối việc tham gia các giao dịch thương mại đối với một quốc gia hay một công ty nào đó. Tẩy chay và các hình thức phản đối giao dịch thương mại khác của người dân sẽ dẫn đến doanh số bán hàng giảm, còn các chi phí liên quan đến hoạt động quan hệ cộng đồng sẽ tăng lên do doanh nghiệp phải tăng cường cải thiện hình ảnh của công ty trong dân chúng. Một ví dụ là trường hợp của Disneyland Pari và McDonald’s, hai công ty này bị người dân Pháp tẩy chay mạnh mẽ do người Pháp vốn đã phản đối các chí nh sách nông nghiệp và toàn cầu hóa của Hoa Kỳ và họ coi hoạt động kinh doanh của hai công ty này trên đất Pháp như là một giọt nước tràn ly. Cũng tương tự, rất nhiều người dân Hoa Kỳ đã từ chối các sản phẩm của Pháp sau khi Pháp quyết định không ủng hộ Hoa Kỳ trong cuộc xâm lược I- rắc do Hoa Kỳ chủ trương vào đầu những năm 2000. Chiến tranh, đảo chính, và cách mạng Chiến tranh tranh, đảo chính và cách mạng có tác động lớn đối với hoạt động kinh doanh. Những sự kiện chính trị này có thể không ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp, tuy nhiên chúng lại có tác động gián tiếp hết sức mạnh mẽ. Ví dụ, tại Mexico vào những năm 90, những người nông dân làm thuê ở vùng Chiapas đã lên kế hoạch chiến đấu chống lại chính phủ vì cho rằng các quan chức chính phủ không công bằng và không quan tâm đến tình trạng nghèo đói của nhân dân. Sau đó ít lâu một ứng cử viên tổng thống và một chính trị gia đã bị ám sát. Những vụ việc này đã làm rất nhiều doanh nghiệp và các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi thị trường Mexico vì họ đã nhậ n thấy dấu hiệu mất ổn định chính trị gia tăng. Nhằm giảm thiểu rủi ro do những sự kiện tương tự như thế này (chiến tranh, đảo chính, cách mạng, v v), các doanh nghiệp có thể mua báo hiểm rủi ro chiến tranh. Nạn khủng bố Khủng bố (terrorism) là hình thức sử dụng vũ trang và vũ lực nhằm đạt được một mục tiêu chính trị nào đó, bằng cách đe dọa và tác động lên nỗi sợ hãi của con người . Trong những năm gần đây, khủng bố trở thành một dạng rủi ro quốc gia hết sức nghiêm trọng. Nạn khủng bố đang không ngừng leo thang trên khắp thế giới, mà một ví dụ điển hình là vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ. Không chỉ lấy đi sinh mạng của hàng trăm con người, vụ khủng bố còn gây thiệt hại nghiêm trọng đối với thị trường tài chính New York cũng như làm ngưng trệ hoạt động kinh doanh của 49