Giáo trình Giáo dục học đại cương 1 (Phần 2) - Nguyễn Thị Cúc

pdf 30 trang ngocly 1890
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Giáo dục học đại cương 1 (Phần 2) - Nguyễn Thị Cúc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_giao_duc_hoc_dai_cuong_1_phan_2_nguyen_thi_cuc.pdf

Nội dung text: Giáo trình Giáo dục học đại cương 1 (Phần 2) - Nguyễn Thị Cúc

  1. Chương II: Giáo Dục Và Sự Phát Triển Nhân Cách Một Số Khái Niệm Về Nhân Cách Và Sự Phát Triển Nhân Cách Khái Niệm Con Người 1 . Theo Từ điển Tiếng Việt, con người được hiểu : • Là động vật tiến hóa nhất • Có khả năng nói, tư duy, sáng tạo • Sử dụng công cụ trong quá trình lao động sáng tạo. Trong Luận cương về Phơ bách, K. Mác đã khẳng định về bản chất con nguời : “bản chất con người không phải là cái trừu tượng, vốn có của mỗi cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”. Qua sự khẳng định của của Mác, chúng ta thấy có ba điều cần lưu ý : • Con người tồn tại trong rầt nhiều mối quan hệ xà hội mà ngời đó tham gia. • Bản chất con ngưòi không phải là cái trưù tượng, vốn có của mỗi cá nhân. Bản chất con người bao giờ cũng được thể hiện trong cuộc sống, trong lao động, nói một cách khác là trong hoạt động thực tiển. • Nhấn mạnh tính xã hội trong con người không có nghĩa là phủ nhận phần thể xác, phần tự nhiên của con người. Trong một con người, bao giờ cũng bao gồm hai bộ phận : Phần tự nhiên và phần xã hội. Chính K. Mác đã chỉ ra : ”Con người là một thực thể tự nhiên trực tiếp, với tư cách là thực thể tự nhiên sống, con người được phú cho những sức mạnh tự nhiên, những sức sống đã trở thành thực thể tự nhiên hoạt động.” 2. Trái với quan điểm của K. Mác về bản chất con người, có một số quan niệm phiến diện về con người sau : • Con người như một tồn tại thần bí. Quan điểm này cho rằng trong con người ta có một con người nhỏ xíu tồn tại và nó điều khiển con người thể xác mà ta thấy. • Con người tồn tại như một sinh vật. Họ cho rằng cuộc sống của con người đều do bản năng quyết định. Đó là các bản năng sống, chết, duy trì nòi giống • Con người tồn tại như một cái máy. • Con người chính trị. • Con ngưòi xã hội. • Con người là cái máy biết suy nghĩ biết yêu đương
  2. Khái Niệm Cá Nhân Cá nhân là một con người cụ thể, là một thành viên của một xã hội nhất định, sinh sống và hoạt động trong những điều kiện xã hội nhất định. Cá nhân bao gồm hai phần: - Về mặt thể chất. Cá nhân là một cơ thể sống, có đặc điểm chung về mặt hình thái và sinh lí của loài người. Cá nhân có những đặc trưng cho riêng mình. - Về mặt tâm lí. Mỗi cá nhân đều có một đời sống tâm lí nhất định. Tâm lí người khác về chất so với tâm lí động vật. Đó là đời sống tâm lí có ý thức. Tâm lí người là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là não bộ – các giác quan (hệ thần kinh) Thực chất tâm lí người là sự phản ánh thế giới khách quan vào não bộ bằng hoạt độnh của bản thân mỗi người. Năng lực phản ánh tâm lí của con người được thể hiện: Các quá trình tâm lí ; Các trạng thái tâm lí; Các thuộc tính tâm lí. Các thuộc tính tâm lí của con người được hình thành thông qua các quá trình, trạng thái tâm lí. Hệ thống những thuộc tính tâm lí của con người là bộ phận quan trọng nhất trong đời sống tâm lí của mỗi cá nhân con người.
  3. Khái Niệm Nhân Cách 1. Con người sống, hoạt động trong các mối quan hệ đa dạng. Khi con người được nhìn nhận là một đại diện cho loài người thì đó là một cá nhân. Khi con người tham gia vào các hoạt động có mục đích có ý thức thì con người được xem như một chủ thể. Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của xã hội, tham gia tích cực vào các mối quan hệ xã hội thì con người được xem như là nhân cách. Có thể biểu diễn cách hiểu trên theo sơ đồ sau: 2. Như vậy, khi nói tới khái niệm nhân cách, phải xem xét: - Nó bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người. - Những thuộc tính này được hình thành trong quá trình tác động qua lại giữ con người và con người trong xã hội Khi nói tới nhân cách, cần nhấn mạnh đến một trong những yếu tố quan trọng nhất của nó, đó là các giá trị, bao gồm: Các giá trị tư tưởng. Các giá trị đạo đức. Các giá trị nhân văn. Hệ thống các giá trị này được hình thành và cũng cố bởi năng lực nhận thức kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân trong quá trình thể nghiệm lâu dài. Nội dung của định hướng giá trị là niềm tin, thế giới quan đạo đức, nguyên tắc sống của con người. 3. Khi nói tới nhân cách con người Việt Nam, ta thấy có sự thống nhất biện chứng giữa các mặt phẩm chất (đức) và năng lực (tài) . - Đức : Hệ thống thái độ của con người. - Tài : Hiệu quả tác động của nhân cách tới các đối tượng xung quanh. Đức bao gồm các mặt: Các phẩm chất xã hội : Các quan điểm niềm tin tư tưởng – chính trị, thế giới quan khoa học, thái độ đới với các hoạt động. Các phẩm chất cá nhân: Nếp sống, thói quen, những ham muốn Các phẩm chất ý chí: Tính kỉ luật, tính tự giác, tính tự chủ, tính mục đích Tài bao gồm các mặt:
  4. Khả năng thích ứng, năng lực sáng taọ, linh hoạt, mềm dẽo trong cuộc sống, hoạt động. Khả năng biểu hiện tính độc đáo, biểu hiện cái riêng cái bản lĩnh của cá nhân. Khả năng hành động Hành động có mục đích, có điều khiển, chủ động, tích cực, sáng tạo, đạt kết quả tốt + Khả năng giao tiếp Xây dựng, duy trì được các mối quan hệ tốt đẹp vời mọi người xung quanh. 4. Như vậy, chúng ta có thể hiểu nhân cách là bộ mặt xã hội – tâm lí của mỗi người, là tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá trị tinh thần của mỗi người.
  5. Khái Niệm Cá Thể - Cá Tính - Sự Phát Triển Nhân Cách 1. Khái niệm cá thể Cá thể là chỉ một con vật riêng lẻ, phân biệt với chủng loại. Như vậy khái niệm cá thể hiểu giống khái niệm cá nhân nhưng nó chỉ dùng chỉ con vật. (Khái niệm cá nhân dùng chỉ một người cụ thể ; khái niệm cá thể dùng để chỉ một con vật cụ thể ). 2. Khái niệm cá tính Chỉ tính cách đặc trưng của mỗi người, nó phân biệt giữa người này và người khác. 3. Khái niệm sự phát triển nhân cách Con người sinh ra chưa có nhân cách. Chính trong quá trình sống, hoạt động, giao lưu mà con người tự hình thành và phát triển nhân cách của mình bằng con đường xã hội : Lĩnh hội các di sản văn hóa vật chất và tinh thần của loài người. 3.1. Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự phát triển được hiểu là: Là sự tích lũy về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự phủ định cái cũ và xuất hiện cái mới. Động lực của sự phát triển là giải quyết các mâu thuẩn bên trong của sự vật hiện tượng. 3.2. Cần chú ý, sự phát triển nhân cách và sự phát triển cá nhân không phải là một. - Sự phát triển cá nhân bao gồm các mặt phát triển sau: • Sự phát triển về mặt thể chất. • Sự phát triển về mặt tâm lí. • Sự phát triển về mặt xã hội. Sự phát triển cá nhân là quá trình cải biến toàn bộ các sức mạnh thể chất và tinh thần, các sức mạnh bản chất của con người. - Vì nhân cách là bộ mặt xã hội – tâm lí của mỗi người nên sự phát triển nhân cách phải được hiểu sự phát triển mặt tâm lí xã hội của con người. Trong các sách giáo dục học trước đây, một số tác giả có sự hiểu biết lẫn lộn giữa sự phát triển nhân cách và sự phát triển cá nhân. Nếu quan niệm như vậy thì có thể hiểu khái niệm cá nhân là khái niệm nhân cách. Nhưng trong thực tế, hai khái niệm này không phải là một! Sự phát triển nhân cách là quá trình biến đổi không chỉ về lượng mà cả những biến đổi về chất trong mỗi nhân cách. Đó là quá trình nảy sinh cái mới và hủy diệt cái cũ. 3.3. Sự hình thành và phát triển nhân cách chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có hai nhân tố cơ bản sau:
  6. - Nhân tố sinh học - Nhân tố xã hội Các nhân tố này tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách không phải có giá trị song song hoặc bằng nhau hoặc độc lập đối với nhau. Vì vậy, khi xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố thúc đẩy đến sự hình thành và phát triển nhân cách cần phải thật sự khách quan, đúng đắn và khoa học.
  7. Vai Trò Các Yếu Tố Bẩm Sinh Di Truyền, Môi Trường Trong Sự Phát Triển Nhân Cách Vai Trò Yếu Tố Bẩm Sinh Di Truyền Bẩm sinh là sinh ra đã có. Di truyền là thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những đặc điểm giống chúng (sự tái tạo ở trẻ em những thuộc tính sinh học của cha mẹ). Vai trò của bẩm sinh – di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách: Vấn đề di truyền những tư chất và nhất là các năng lực (nghệ thuật, khoa học, kiến trúc ) ở trẻ em là một vấn đề quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục. Di truyền tạo sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, tạo khả năng cho người đó hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định. Nhà giáo dục cầøn quan tâm đúng mức để phát huy hết bản chất tự nhiên đó của con người ; cần phát hiện sớm, có kế hoạch chăm sóc, bồi dưỡng kịp thời nhằm phát triển tài năng cho trẻ em. Di truyền không quyết định những giới hạn tiến bộ của xã hội loài người. Di truyền tạo ra tiền đề cho sự phát triển nhân cách. Trên cơ sở tiền đề ấy, phải có môi trường sống thích hợp, hoạt động tích cức và được sự giáo dục đúng đắn thì bẩm sinh di truyền mới trở thành hiện thực. Quá trình phát triển con người xét về mặt sinh lí cũng là một quá trìnhphức tạp. Cần chú ý : Chú ý đúng mức đến vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Nếu xem nhẹ yếu tố bẩm sinh di truyền thì chúng ta đã bỏ qua một tiền đề quan trọng cho sự hình thành và phát triển tâm lí. Nếu đánh giá quá cao yếu tố bẩm sinh di truyền sẽ dẫn tới sai lầm về mặt nhận thức, phủ nhận khả năng biến đổi bản chất của con người, phủ nhận vai trò của giáo dục và tự giáo dục.
  8. Vai Trò Của Môi Trường Sống Trong Sự Hình Thành Và Phát Triển Nhân Cách Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Môi trường sống được chia thành 2 loại : Môi trường tự nhiên : bao gồm các điều kiện tự nhiên – sinh thái phục vụ cho hoạt động của con người. Môi trường xã hội, bao gồm : Môi trường chính trị : chế độ chính trị, giai cấp Môi trường kinh tế sản xuất : chế độ kinh tế, quan hệ sản xuất, cơ sở sản xuất – kinh doanh Môi trường sinh hoạt xã hội: gia đình, các tổ chức phục vụ sinh hoạt cộng đồng. Môi trường văn hóa: hệ tư tưởng, nhà trường, cơ quan văn hóa - giáo dục, phương tiện thông tin đại chúng Môi trường xã hội được chia thành 2 loại : Môi trường lớn : đặc trưng chủ yếu bởi tính chất của Nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, hệ thống các quan hệ sản xuất Môi trường nhỏ : là một bộ phận của môi trường lớn trực tiếp bao quanh trẻ, đó là : gia đình, nhà trường, bạn bè, đoàn - đội, người lớn thân thuộc, cơ sở sản xuất mà trẻ tham gia, cơ sở văn hóa địa phương Vai trò môi trường trong sự hình thành và phát triển nhân cách Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một môi trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên động cơ, mục đích, cung cấp phương tiện, điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh các kinh nghiệm xã hội, các giá trị văn hóa để hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách tùy thuộc : Lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó (tiếp thu, chấp nhận hay phủ định phản đối) Xu hướng, năng lực của cá nhân tham gia vào cải biéân môi trường (tích cực hay tiêu cực, mạnh hay yếu) Trong sự tác động qua lại giữa môi trường và nhân cách, cần chú ý đến hai mặt của vấn đề : Tính chất tác động của hoàn cảnh sống đã phản ánh vào nhân cách. Tính tích cực của nhân cách tác động đếùn hoàn cảnh nhằm mục đích làm cho hoàn cảnh phục vụ nhu cầu và lợi ích của cá nhân.
  9. (Quan hệ giữa môi trường sống và nhân cách là mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau, quan hệ hai chiều) Khi bàn về mối quan hệ giữa môi trường sống và con người, K.Mác đã khẳng định : “Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh”. Khi bàn về việc xây dựng con người mới XHCN Việt Nam, Đảng CS Việt Nam cũng đã khẳng định : Con người mới vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể có ý thức của xã hội. Con người mới Việt Nam là kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng, đặc biệt việc xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa to lớn và quyết định đối với sự hình thành con người mới. Song con người mới là chủ thể có ý thức của xã hội. Phải bằng kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng, phải thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua lao động và đấu tranh thì những thành viên của xã hội mới cải tạo được mình và dần dần trở thành con người mới. Trong quá trình giáo dục con người, cần gắn chặt từng bước việc học tập và giáo dục với thực tiễn cải tạo và xây dựng xã hội và đấu tranh cách mạng. Trong quá trình giáo dục học sinh, cần lưu ý một số điểm sau : Từng bước gắn việc giáo dục và học tập của học sinh với việc cải tạo và xây dựng xã hội. Xây dựng cho học sinh có các giá trị đúng đắn. Giúp học sinh chiễm lĩnh những ảnh hưởng tích cực của môi trường sống, phê phán những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến học sinh. Tổ chức cho học sinh tích cực tham gia vào việc cải tạo và xây dựng môi trường có tác dụng giáo dục. Xã hội kết hợp với nhà trường có kế hoạch “sư phạm hóa” từng bước môi trường, quan tâm đến việc bảo vệ học sinh trước ảnh hưởng xấu Cần đánh giá đúng đắn vai trò của môi trường sống trong sự phát triển nhân cách. Tuyệt đối hóa vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách là sai lầm về mặt nhận thức, cho rằng mọi cái đều do hoàn cảnh, rơi vào thuyết “Định mệnh do hoàn cảnh”. Thuyết này hạ thấp, thủ tiêu vai trò của giáo dục Hạ thấp, phủ nhận vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách dẫn đễn “thuyết giáo dục là vạn năng”, giáo dục con người theo xu hướng cải lương
  10. Vai Trò Của Giáo Dục Trong Sự Hình Thành Và Phát Triển Nhân Cách 1. Khái niệm về giáo dục 1.1. Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của loài người. 1.2. Theo nghĩa hẹp : giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội. 2 Vai trò của giáo dục trong sự hình thành và phát triển nhân cách Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách : Giáo dục định hướng, dẫn dắt đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Tính định hướng và dẫn dắt của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách được thể hiện ở các điểm sau : Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục tổ chức, dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó. Điều này được thể hiện qua : mục đích giáo dục, mục tiêu cấp học. Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố di truyền, môi trường sống không thể có được. Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật. Nhờ có giáo dục mà nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lí xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Giáo dục không chỉ thích ứng, mà còn đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Sự phát triển tâm lí trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong điều kiện của dạy học và giáo dục. Khi bàn về vai trò yếu tố giáo dục trong sự phát triển tâm lí con người, Bác Hồ đã viết trong bài thơ “Nửa đêm” : “Ngủ thì ai cũng như lương thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên” (Nhật kí trong tù) 3. Để phát huy vai trò chủ đạo của mình, giáo dục đảm bảo các yêu cầu sau - Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục
  11. Giáo dục không chỉ là sự tác động một chiều của những người làm công tác giáo dục tới thế hệ trẻ mà nó còn bao gồm cả hoạt động tích cực, đa dạng của người được giáo dục trong mối quan hệ hai chiều giữa nhà giáo dục và học sinh. - Giáo dục chỉ có thể đảm bảo sự phát triển nhân cách nếu có được chõ dựa là : Tư chất vốn có ở mồi người. Hoạt động tích cực (tự vận động) của mỗi người trước khi tác động bên ngoài. Ở đây ta thấy có sự thống nhất giữa tác động bên ngoài (giáo dục) và điều kiện bên trong (tư chất - hoạt động tích cực cá nhân). - Dạy học và giáo dục phải được xây dựng theo nguyên tắc phát triển và đón trước được sự phát triển tâm lí. - Giáo dục không phải là vạn năng, nó cũng không hạ thấp, thủ tiêu các yếu tố khác. 4. Công tác giáo dục sẽ thành công khi người được giáo dục ý thức được, chấp nhận các yêu cầu của nhà giáo dục, biến chúng thành của bản thân, làm cho họ tự đề ra mục đích phấn đấu, rèn luyện Điều đó có nghĩa là người được giáo dục phải tích cực hoạt động. Hoạt động cá nhân giữ vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tự thân vận động, về động lực của sự phát triển nhân cách. Trong quá trình giáo dục, nhà trường cần tổ chức được các hoạt động phong phú, đa dạng để cuốn hút học sinh tham gia.
  12. Đặc Điểm Phát Triển Nhân Cách Học Sinh Trung Học 1. Sự phát triển nhân cách trẻ em diễn theo thời gian, mang tính quy luật, chu kỳ nhất định trong sự luân phiên các hình thái phản ánh các dạng hoạt động chủ đạo Nếu chụp ảnh một người lớn rồi sau đó thu nhỏ lại thì dù cho làm cách nào chăng nữa cũng không thể có được hình ảnh của một đứa trẻ Thân hình người lớn khác thân hình trẻ em không chỉ về độ lớn mà còn ở các đường nét, tỉ lệ (có sự khác nhau về chất). Đó là nói về mặt thể chất. Còn về mặt nhân cách, người ta thấy rằng nhân cách người lớn không phải là nhân cách trẻ em được phóng to, tăng lên số lượng, trình độ mà chúng khác nhau về chất giữa một người trưởng thành và một đứa trẻ, thậm trí giữa lứa tuổi này và lứa tuổi khác. Như vậy, cho phép ta khẳng định: Sự hình thành và phát triển nhân cách con người diễn ra theo một quá trình biện chứng. Mỗi giai đoạn phát triển nhân cách đều có sự nhảy vọt về chất và tạo tiền đề cho giai đoạn tiếp theo. Mỗi giai đoạn lứa tuổi đều có liên quan đến: • Số năm đã sống • Sự trưởng thành thể chất • Sự tích lũy những kinh nghiệm sống • Hoạt động. Các giai đoạn lứa tuổi là chặng đường tất yếu trong sự phát triển của mỗi con người bình thường. Thời gian (số năm) của mỗi giai đoạn không hoàn toàn giống nhau. Giáo dục phải được xây dựng mang tính chất của một quá trình: • Xây dựng được nội dung • Lựa chọn các hình thức tổ chức • Xây dựng được các phương pháp, phương tiện tác động Giáo dục phải phù hợp với các giai đoạn phát triển nhân cách trẻ em. 2. Sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em thường được chia thành các mốc sau 2.1. Thời kì trước khi đến trường phổ thông. Thời kì này được chia làm ba giai đoạn: Tuổi sơ sinh Tuổi nhà trẻ Tuổi mẫu giáo 2.1.1. Tuổi sơ sinh (từ lúc ra đời đến khoảng 12 tháng).
  13. Trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc đời, sự phát triển trẻ em gắn với hai hoạt động sau: Giao lưu của trẻ em với cha mẹ, người lớn Hành động của trẻ với đồ vật Trong những ngày tháng đầu đời này, hoạt động nhận thức của trẻ hết sức sơ đẳng. Trẻ chỉ có thể tri giác được các đối tượng (đồ vật) nổi bật, tách biệt so với các đồ vật khác. Hoạt động phản ánh và vận động còn đơn giản song nó là tiền đề cho giai đoạn sau (tuổi nhà trẻ), làm phát triển các hình thái đơn giản nhất của thao tác đối với đồ vật, chuẩn bị cho trẻ tham gia hoạt động chơi và sáng tạo sau này. 2.1.2. Tuổi nhà trẻ (từ 1 tuổi đến 3 tuổi) Đặc trưng cơ bản của tuổi nhà trẻ là các em đã biết nói, biết đi. Chính điều đó đã giúp cho trẻ mở rộng phạm vi tiếp xúc với các vật thể xung quanh, quan sát các đồ vật ở nhiều góc độ khác nhau. Việc biết nói, nắm được ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nhân cách trẻ em. Trẻ nắm được những tín hiệu cơ bản về kích thích cà ức chế (nên và không nên, được và không được ) , các tín hiệu đánh giá (tốt, xấu). Trẻ đã biết tách mình ra khỏi những ngời xung quanh, hạn chế sự làm thay của người lớn 2.1.3. Tuổi mẫu giáo (từ 3 tuổi đến khoảng dưới 6 tuổi) Ở tuổi này, tốc độ phát triển và tăng trưởng về chiều cao và cân nặng vẫn còn cao (nhưng so với hai giai đoạn trước thì không bằng) cùng với sự biến đổi về giải phẫu sinh là cơ thể. Chính điều này đã tạo điều kiện cho trẻ làm việc được tốt hơn trước. Tuy vẫn còn hay bắt chước ngưòi khác, đặc biệt những người lớn trong gia đình (ông bà, cha mẹ, anh chị) nhưng ở các em đã có sự lựa chọn rõ rệt hơn. Các em ngày càng muốn tự lập hơn, muốn suy nghĩ và hành động theo ý riêng mình. 2.2. Thời kì học trường phổ thông. Thời kì học trường phổ thông được chia thành ba giai đoạn: • Tuổi nhi đồng • Tuổi thiếu niên • Tuổi thanh niên mới lớn. 2.2.1. Tuổi nhi đồng (từ 6 -7 tuổi đến 11 - 12 tuổi) Lứa tuổi này các em theo học bậc tiểu học, học từ lớp 1 đến lớp 5. Tuổi này được đặc trưng bằng việc, các em đi học, thực sự bắt tay vào việc lĩnh hội nền văn hóa – sản phẩm của xã hội loài người đã tích lũy được trong suốt chiều dài lịch sử phát triển. Từ hoạt động vui chơi là chủ yếu ở lứa tuổi mẫu giáo, các em chuyển sang hoạt động học tập một cách có ý thức và hệ thống trong trường học đã làm thay đổi cơ bản toàn bộ cuộc sống của các em. Nếu như trước đây, ở nhà trẻ và lớp mẫu giáo, các em chỉ hoạt động chân tay, chỉ biết các trò chơi là chủ yếu thì nay, vào lớp 1, các em phải ngồi ttrong lớp
  14. hàng giờ, chú ý điều giáo viên nói, làm, thực hiện ngay các yêu cầu của thầy cô giáo. Trước đây, ở lớp mẫu giáo, các em chỉ biết những điều cần thiết cho trò chơi hay công việc lao động phục vụ thì nay các em lớp một phải làm, phải biết những công việc cần thiết nhưng có thể không hấp dẫn. Việc tham gia hoạt động học tập nó sẽ kích thích mạnh mẽ sự phát triển của các chức năng của bộ não. Đó là điều kiện cần thiết cho sự phát triển tư duy cho các em, nhất là sự chuyển dần từ tư duy hình tượng đồ vật sang tư duy trừu tượng lời nói. Được sự dạy dỗ tích cực của thầy cô, học sinh bậc tiểu học cũng có thể dần dần lĩnh hội được cơ sở thực sự của các khoa học về tự nhiên, về xã hội, về con người. Một điểm quan trọng ở tuổi nhi đồng là các em còn có thể nắm được chính những cơ sở của phương pháp học tập, các thao tác tư duy, của việc khám phá tìm tòi tri thức của loài người. Lứa tuổi này các em thường dựa vào những kinh nghiệm cảm tính, ở các biểu tượng, các ấn tượng của bản thân, những tri thức gần gũi cuộc sống thực tế của các em. Trong quá trình giảng dạy, các thầy cô giáo ngoài việc khuyến khích các em nâng cao tài liệu cảm tính còn phải dẫn dắt các em biết cách suy nghĩ, biết tìm ra các mối liên hệ có tính quy luật, bản chất của các đối tượng. Điểm hạn chế trong sự phát triển trí tuệ của các em bậc tiểu học là: Hay đãng trí trong các công việc ít hoặc không có hứng thú Khó tập trung vào công việc, tài liệu học tập thiếu sự hấp dẫnvề mặt xúc cảm trực tiếp. Do đó trong công tác giáo dục, cần giáo dục cho các em: Không nên chỉ chú ý, thích thú với công việc dễ chịu, thích thú mà còn chú ý, hoạt động với công việc ít hứng thú Rèn kuyện khả năng chú ý bền vững Rèn luyện năng lực tổ chức, điều chỉnh hoạt động trong hoạt động học tập Một đặc điểm quan trọng của tuổi nhi đồng là các em rất ham thích và hăng say hoạt động (tính hiếu động) . Vì hiếu động quá mà các em không kềm chế, điều khiển được hoàn toàn hành vi của mình trong lớp học. Điều này sẽ dẫn tới tình trạng các em thường dễ bị kích động, thiếu kềm chế và vô tổ chức. Trong việc giáo dục trẻ em cần luư ý: Không nên cấm trẻ em vận động Làm cho tính hiếu động của trẻ được biểu hiện dưới những dạng, hình thức đúng đắn. Tổ chức cho trẻ hoạt động đa dạng, hấp dẫn. 2.2.2. Tuổi thiếu niên (kéo dài từ 11-12 tuổi đến 14 - 15) Sự phát triển mạnh mẽ về thể chất và tâm lí là đặc trưng nỗi bậc nhất của tuổi thiếu niên. Do sự phát triển mạnh mẽ này, đặc biệt là sự “nhảy vọt“ về sinh lí, liên quan đến hiện tượong dậy thì, phát dục khiến cho các em có sự thay đổi từ trẻ nhỏ thành người lớn, từ giai đoạn ấu thơ sang trưởng thành. Do sự thay đổi này mà các em bắt đầu chú ý đến cơ thể và vẽ bên ngoài của mình. Thiếu niên tham gia ngày càng nhiều hơn vào đời sống của người lớn: Bước đầu đảm nhận một số công việc của người lớn
  15. Gánh vác ngày càng tăng trách nhiệm đối với gia đình. Từ đó mà thái độ của người lớn đối với các em cũng có sự thay đổi, thể hiện ở chỗ người lớn không còn coi các em là những trẻ nhỏ nữa. Song sức mạnh thể chất và tinh thần của thiếu niên còn chưa đủ để các em có thể làm được công việc của người lớn, thức hiện những kế hoạch của người lớn của mình. Các em chưa thấy được sự hạn chế về thể lực của mình. Do ý thức được sự phát triển về thể chất của mình mà thiếu niên mong muốn khẳng định các giá trị của phẩm chất và năng lực bản thân, mong muốn tự lập, mong muốn làm những công việc có ý nghĩa. Điều đó sẽ làm tăng hơn tính tích cực, độc lập của các em, phát triển sự sáng tạo, thu hút các em vào cuộc sống, nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của các em đối với mọi người, trước hêt trong gia đình. Những đặc điểm trên của tuổi thiếu niên là cơ sở cần thiết để hình thành và phát triển xu hướng xã hội cho chính lứa tuổi này. Một điểm cần lưu ý trong đặc điểm của mỗi thiếu niên là các em cũng gây ra nhiều bận tâm, lo lắng cho cha mẹ và thầy cô giáo. Người lớn, cha mẹ thường phàn nàn về tính ngang bướng, vụng về, thô lỗ, dễ bị kích động của các em. Do đang diễn ra quá trình đánh gía lại các giá trị mà các em thường : Phê bình và đòi hỏi chặt chẽ người lớn. Tự đánh giá không khách quan. Ở tuổi này có những đặc điểm tâm lý sau: Tính tình thay đổi bất thường, vô nguyên cớ. Sự thay đổi nhanh chóng từ e thẹn, nhút nhát, thờ ơ một cách bất ngờ Sự thay đổi bất ngờ trên đây của thiếu niên đã được nhà tâm lí học Hunggari mô tả như dưới đây: “Cái xứ sở kì lạ đó là cái sứ sở của thiếu niên. Nó đầy những cái đặc biệt,thần diệu và kì lạ. Biên giới của nó quanh co, mơ hồ, linh động lạ lùng. Nhiều khi bản thân các cư dân của nó cũng không biết mình bước qua biên giới lúc nào và ở đâu. Họ lại càng ít nhận thấy mình rời bỏ vào lúc nào và như thế nào cái sứ sở hỗn độn này, trong đó đôi khi có nhiều cái lộn ngược. Khí hậu xứ sở này rất thất thường và kì quặc, Khi thì nóng nực như ở vùng nhiệt đới, khi thì bỗng đổi sang lạnh như băng, chẳng qua một sự chuyển tiếp nào cả. Có cả mùa xuân hoa nở tưng bừng, có cả màu thu lá rụng tơi tả, nhưng hai màu này không phải tuần tự nối theo nhau, với lại đôi khi mùa đông cũng đôi khi đột nhập vào mùa hạ, và màu thu đôi khi cũng xuất hiện trong mùa xuân. Nhưng ngay cả dân cư của xứ sở lạ lùng này cũng chẳng nhất quán gì hơn. Họ tỏ ra cực đoan trong cách cư xử của họ. Khi thì rất vui vẻ, ồn ào, khi bỗng trầm ngâm lặng lẽ, khi thì họ là những anh hùng quả cảm, khi thì họ bỗng quay ra sợ sệt, yếu đuối. Đôi khi họ ngờ vực và không tin vào mình. Đôi khi họ rất khiêm tốn và kín đáo, đôi khi họ rất buông tuồng trân tráo " Trong các xứ sở kì lạ này không có trẻ con và cũng chẳng thấy người lớn. Dân bản xứ tự tách mình ra khỏi trẻ em vì họ đã bắt đầu khinh thường trẻ em. Người bản xứ theo dõi sao cho đừng có đứa trẻ nào xâm nhập vào cái xã hội hỗn độn của họ, vì họ cảm thấy bản chất phi thường của mình, cách cư xử của mình không phải bao giờ cũng được ngưòi lớn thừa nhận, nhưng bản thân họ lại muốn làm người lớn. Dân xứ thiếu niên này không phải bao giờ cũng được người lớn hiểu biết và đối xử có cảm tình : Người lớn trách họ vì những hành động vô nghĩa, mắng mỏ họ và lên án họ. Có những người lớn khẳng định: Dân xứ sở này không chịu thừa nhận uy quyền và tập quán, không biết kính trọng các bậc đàn anh và những người có kinh nghiệm, không hề chú ý đến công luận, rằng trong lòng họ chỉ có thái độ trơ
  16. trẽn và sự căm thù. Dân của xứ sở thiếu niên không hề mong đợi ở người lớn một thái độ như vậy. Ngược lại họ mong đợi người lớn hiểu họ, giúp đỡ họ, thông cảm với họ ít nhiều. Chủ yếu họ khát khao mong sao cho người lớn đừng xử sự với mình như đối với trẻ con mà cố gắng công nhận họ đã là những chàng thanh niên và đưa họ ra khỏi cái xứ sở có khí hậu nhiều lúc hỗn loạn ấy“. Những sự thay đổi bất thường của thiếu niên do: Sự mất cân bằng tạm thời giữa hưng phấn và ức chế trong hoạt động thần kinh cao cấp. Sự diễn biến nhanh, không đồng đều của thời kì dậy thì. Để giáo dục thiếu niên đạt kết quả các bậc cha mẹ và thầy cô cần chú ý một số điều sau đây: Hiểu được thế giới nội tâm của các em. Hiểu thấu đáo các nhu cầu hiện có và mới có của trẻ. Tìm được các phương thức đúng đắn để thỏa mãn các nhu cầu của các em. Làm được điều này sẽ tạo ra động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển nhân cách cho tuổi thiếu niên, tránh được sự “khủng hoảng“, “xung đột“ giữa các em và người lớn. Một đặc điểm quan trọng của thiếu niên là ý thức tự khẳng định. Nó là nguyên nhân của tính tích cực của thiếu niên. Do đó trong nhà trường và gia đình, cần phải: Lôi cuốn trẻ vào các hoạt độnh phong phú và đa dạng . Phát huy vai trò chủ động, tích cực, độc lập, sáng tạo của thiếu niên trong các hoạt động. Tổ chức hệ thống các quan hệ giao lưu đa dạng của trẻ đầy ắp tình bạn, tình đồng chí, tinh thần thi đua, hợp tác trong lớp, trong trường Mục đích của việc này là để thiếu niên: Có dịp thể hiện sức lực của mình Thỏa mãn nhu cậu hoạt động hứng thú của mình Khẳng định thành công và uy tín của mình trong công việc trong hoạt của tập thể 2.2.3. Tuổi thanh niên mới lớn : ( Tuổi này kéo dài từ 14-15 tuổi đến 17-18 tuổi ). Thanh niên mới lớn – lứa tuổi này trùng với thời gian các em theo bậc trung học phổ thông (từ lớp 10 đến lớp 12 ) Đây là tuổi thật sự là người lớn: Hoàn thành sự phát dục và cơ thể đã có dáng dấp của người lớn. Tuổi thanh niên mới lớn là tuổi định hình về nhân cách. Đến cuối tuổi này các em đã có được mức độ trưởng thành về các mặt tư tưởng và tâm lí, các em đã có thể học lên đại học vào các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc dạy nghề hoặc trực tiếp tham gia lao động sản xuất tại địa phương sau khi đã tốt nghiệp bậc trung học phổ thông. Lứa tuổi này là thời kì hình thành nhân cách người công dân trong mỗi con người. Đây là thời kì cá nhân gia nhập tích cực vào đười sống xã hội. Khi tròn 18 tuổi, nam nữ thanh niên được hưởng quyền bầu cử và ứng cử được xã hội công nhận là người lớn, được xã hội công nhận là người lớn. Đặc điểm quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách trong tuổi này là: Nhu cầu tự nhận thức và đánh giá các phẩm chất đạo đức trong nhân cách của mình ở cả hai mặt đó là mục đích và nguyện vọng trong cuộc sống, không chỉ đánh giá mình theo cái hiện tại mà còn có cả cái tương lai. Trong phẩm chất đạo đức của thanh niên đã có sự thống nhất giữa ý thức, niềm tin, tình cảm và hành vi đạo đức.
  17. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này, các em cũng có thể hiểu lệch lạc hoặc có thành kiến về đạo đức, ví dụ như: Sự phóng túng trong đạo đức Chủ nghĩa ích kỉ Thái độ nghi ngờ không lành mạnh Thái độ khiêu khích Không tôn trong những người xung quanh Nếu được sống, học tập, lao đông trong tập thể lành mạnh sẽ có tác dụng tích cực đến việc hình thành các phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho lứa tuổi này. Lứa tuổi học sinh phổ thông trung học có nhu cầu mạnh mẽ về tình bạn, tình bạn này chuẩn bị cho những tình cảm thiết tha khác, nhất là tình yêu. Họ cũng xây dựng cho mình những điểm sống riêng, lựa chọn tương lai của cuộc đời. Điều này đòi hỏi các bậc cha mẹ, thầy cô giáo, nhà trường cần giúp đỡ các em lựa chọn đúng đắn nghề nghiệp cho tương lai, xây dựng cho các em có quan điểm đúng đắn các lĩnh vực tình yêu, hôn nhân và gia đình, thực hiện tốt chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình. Những tri thức về tính quy luật trong sự phát triển tâm lí lứa tuổi trẻ em là một trong những tiền đề quan trọng giúp các thầy cô giáo và gia đình làm tốt công tác giáo dục trẻ em.
  18. Chương III: Mục Đích Và Nhiệm Vụ Giáo Dục Mục Đích Giáo Dục Khái Niệm Về Mục Đích Giáo Dục a. Mục đích giáo dục là một phạm trù cơ bản của giáo dục học có tác dụng định hướng cho mọi hoạt động giáo dục (công tác nghiên cứu lí luận và thực tiễn). Đối với hoạt động giáo dục, mục đích giáo dục là điểm xuất phát, là căn cứ để đánh giá hiệu quả chất lượng giáo dục. Đối với các quá trình giáo dục, mục đích giáo dục quy định tính chất và phương hướng phát triển của chúng, quy định nội dung và phương pháp tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục. Mục đích giáo dục phản ánh quy luật khách quan, xu thế tất yếu trong mọi lĩnh vực giáo dục. Mục đích giáo dục chính là các phẩm chất, các yêu cầu về mô hình của ”con người thời đại”, phản ánh tính quy định của xã hội đối với giáo dục được thể hiện qua thiết kế giáo dục và được thực thi thông qua hoạt động cụ thể sinh động của hệ thống giáo dục. Trong thực tế cần hiểu mục đích giáo dục ở các cấp độ sau : Cấp độ vĩ mô: Phù hợp với yêu cầu toàn xã hội, phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Cấp độ trung gian: Cho một cấp học, một ngành học, một trường học. Cấp độï cá nhân : Cá nhân trong quá trình tiếp thu sự giáo dục (xã hội hóa) luôn luôn hiểu rõ mục tiêu mình cần đạt tới. Bởi vì, trong khi xác định mục đích giáo dục thì điều quan trọng nhất là nhận thức cho được cái mà bản thân người ta vốn coi là mục đích của đời mình. Mục đích giáo dục phải trùng hợp với mục đích bao quát hơn của người thụ giáo. Ngoài thuật ngữ mục đích giáo dục thường dùng trong các giáo trình giáo dục học, trong các đề án, kế hoạch giáo dục ta thường gặp thuật ngữ mục tiêu giáo dục cũng chỉ những dự kiến về kết quả đạt được của quá trình giáo dục trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, có thể phân biệt hai thuật ngữ này qua một số dấu hiệu sau : Mục đích Mục tiêu 1.Có tính định hướng tính lý tưởng 1.Có tính cụ thể với hành động và phương 2.Thời gian thực hiện dài tiện xác định 3.Tính rộng lớn khái quát của vấn đề 4.Không thể 2. Thời gian thực hiện ngắn xác định đo được kết quả 3. Tính xác định của vấn đề 5.Cấu trúc phức tạp, được tạo thành do nhiều mục 4. Kết quả đo được. tiêu kết hợp lại 5. Là một bộ phận của mục đích Có thể nói mục tiêu là một bộ phận của mục đích, là mục đích gần, phải thực hiện nhiều mục tiêu mới đạt được mục đích. Mục đích giáo dục có cấu trúc phức tạp do nhiều mục tiêu tạo thành. Tuy nhiên, mục đích không phải là tổng số các mục tiêu, không phải là phép cộng giản đơn mà là một sự kết hợp có quy luật giữa các mục tiêu.
  19. b. Mục đích giáo dục mang tính lịch sử và tính giai cấp Mục đích giáo dục phản ánh sự phát triển sức sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và văn hóa, hệ tư tưởng mới và lối sống xã hội (nó phản ánh hình thái kinh tế - xã hội) Mục đích giáo dục phản ánh những quan điểm của giai cấp thống trị xã hội, thể hiện ở các điểm sau: Đào tạo con người như thế nào? Đào tạo con người theo lý tưởng triết học và xã hội học nào ? Đào tạo con người phục vụ cho ai ? Cho lợi ích của giai cấp hoặc tầng lớp nào trong xã hội? Để xây dựng mục đích giáo dục hiện nay ở Việt Nam, không thể không nghiên cứu, kế thừa và phát triển những mục đích giáo dục Việt Nam đã có truyền thống lâu đời và trở thành giá trị tinh thần của nhân dân ta. Dưới chế độ phong kiến, mục đích giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều của nho giáo. Mục đích giáo dục thời kỳ này chủ yếu hình thành phẩm chất người quân tử với nhiững nét đáng chú ý sau đây : Coi đạo đức là giá trị hàng đầu, sống theo lý tưởng nhân nghĩa yêu thương người khác ; Có trách nhiệm đối với gia đình, họ hàng, làng nước, trung với vua, với nước; có hiếu với cha mẹ, nhân dân. Sống thiết thực chăm chỉ học hành, thường xuyên nâng cao trình độ học vấn. Coi trọng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tài năng. Nho giáo cho rằng : “Con người sống chết có mệnh, giàu sang tại trời”. Đó là điều con người không tự quyết định được. Nhưng chỗ không phải tại trời, mà con người có thể tự quyết định và chịu trách nhiệm trước bản thân, gia đình và xã hội là trí và ngu do học mà không học, có đạo đức mà không có đạo đức, do chịu tu dưỡng và không chịu tu dưỡng. Đó là hai chỗ không có tiền định của trời. Vì vậy, nho giáo cho rằng : “Từ thiên tử cho đến thứ dân ai cũng phải lấy tu thân làm gốc”. Không màng phú quý, không ham danh lợi. Khiêm tốn, nhường nhịn : An mệnh, an phận, bằng lòng với những cái mình có, không đòi hỏi, không đấu tranh cho bản thân. Không quan tâm tới lợi ích, hạnh phúc, cái vui cho bản thân. Thờ trời và thờ cúng tổ tiên và bách thần. Một mặt có sự dung hòa thỏa hiệp theo tinh thần trung dung, học theo những chỗ thấy mình yếu kém, mặt khác, rất ngoan cường, kiên trì, Từ việc nghiên cứu mục đích giáo dục phong kiến có thể rút ra một số vấn đề đáng lưu ý sau: Nhân nghĩa, trách nhiệm, tu thân là những bài học rất quý giá đối với con người Việt Nam hiện đại. Nho giáo không coi trọng tự do, hạnh phúc cá nhân, mà coi trọng giá trị của mỗi người trong gia đình, dòng họ, cộng đồng, thế nhưng lại đào tạo được những nhân cách cao thựơng, bất khuất, có lòng nhân ái cao, biết hy sinh vì đạo nghĩa. Nho giáo coi trọng việc giáo dục và nhà nước nho giáo đặt việc giáo hóa còn cao hơn cả việc cai trị, nhưng trong thực tế việc tổ chức giáo dục lại rất sơ sài. Từ nội dung đến tổ chức, trang bị đều có nhiều thiếu sót. Con người chủ yếu được đào tạo trong gia đình với sự chăm sóc của các thầy
  20. giáo có trách nhiệm và nhà nước chỉ tổ chức thi cử để đánh giá tuyển chọn nhân tài. Thế nhưng xã hội lại có nhiều người biết chữ, có tâm lý hiếu học, say mê học tập suốt đời Như vậy giáo dục gia đình và chất lượng thầy giáo phải chăng là hai nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Quan niệm cấu trúc cha – con trong gia đình nho giáo đã mở rộng ra xã hội dưới các hình thức: Gia đình : Cha – con Nước : Vua – tôi, vua là cha của dân Thiên hạ : Thiên tử – thứ dân Thế giới : Trời – người Trời được xem như cha, có khó khăn gì cũng gọi “Trời”. Điều đó dẫn đến hai khả năng : Tìm cách hòa đồng với tự nhiên, tạo ra đời sống tâm linh nhẹ nhõm; Không đặt ra vấn đề đấu tranh, cải tạo tự nhiên dẫn đến sự chậm phát triển trong khoa học và triết học. Khi nghiên cứu mục đích giáo dục phong kiến Việt Nam, bên cạnh những bài học thành công, cũng có những nhược điểm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển quốc gia, dân tộc. Đó là mối quan hệ giữa đức và tài, giữa phẩm chất và năng lực. Nhà trường phong kiến Việt Nam hầu như chỉ chú ý đến dạy đạo lý, thơ phú mà không dạy các môn khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, kinh tế, là những môn học có ảnh hưởng lớn đến năng lực, tay nghề của thế hệ trẻ. Kết quả là đất nước không phát triển, khoa học kỹ thuật, kinh tế, quân sự rất lạc hậu. Điều đó là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho nhân dân ta rơi vào vòng nô lệ và làm cho đất nước lạc hậu đến ngày nay. Vì vậy, mối quan hệ giữa phẩm chất và năng lực, giữa khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội nhân văn là vấn đề rất quan trọng trong khi xây dựng mục tiêu và nội dung giáo dục trong giai đoạn hiện nay. c. Ý nghĩa của việc xác định mục đích giáo dục Việc xác định mục đích giáo dục sẽ giúp cho người làm công tác giáo dục quán triệt quan điểm giai cấp, quan điểm lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong vịêc đào tạo con người. Xác định mục đích giáo dục là cở sở giúp xác định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Giáo dục là một quá trình lâu dài, phức tạp đòi hỏi xác định mục đích rõ ràng, cụ thể để hoạt động giáo dục có phương hướng, hoạt động có kế hoạch.
  21. Mục Đích Giáo Dục Tổng Quát a. Những tiền đề để xác định mục đích giáo dục ở nước ta. Tiếp cận với xu hướng phát triển chung về văn hóa giáo dục của thời đại, của nhân loại, tư tưởng tiên tiến phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ thế giới. Từ định hướng chung, những tư tưỡng chiến lược về quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nược đã được thể hiện trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội” trong đó “giáo dục và đào tạo gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa học kĩ thuật xây dựng nền văn hóa mới”. b. Khi xác định mục tiêu giáo dục cần xuất phát từ định hướng chung, và từ cấp độ vận dụng. Mục tiêu phát triển tổng quát (vĩ mô) trước hết tập trung và việc không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo hướng xây dựng một xã hội “dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh “. Từ xưa đến nay các nền văn minh, các giai đoạn phát triển của xã hội nói chung trước tiên phải dựa trên “mặt bằng dân trí “, dựa trên trình độ học vấn chung của con người. Vì vậy, cần giáo dục sự tiếp thu có hướng dẫn những kĩ năng quan sát và ứng dụng. Đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, những điều trên vừa có ý nghĩa nguyên tắc vừa có ý nghĩa thực tiễn khi áp dụng các luận điểm ấy vào các hoạt động thực tiễn. Mục tiêu phát triển nhân cách: khi áp dụng mục tiêu chung để xác định mục tiêu của cấp học, xác định yêu cầu về nội dung phương pháp và tổ chức thực hiện, phải huy động mọi yếu tố trong hệ thống nhằm góp phần tạo nên con người có trí tuệ cao, có thể chất khỏe mạnh, cân đối, cường tráng, nội tâm phong phú. Như vậy, thông qua quá trình giáo dục, nhân cách của con người được phát triển không ngừng. Phương pháp giáo dục có hiệu quả là tổ chức cho trẻ hoạt động (học tập, vui chơi, lao động, giao tiếp, sinh hoạt xã hội, v.v ). Qua đó trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm sống, cách thức hoạt động chiếm lĩnh nền văn hóa của dân tộc để phát triển nhân cách. Để thực sự thúc đẩy sự phát triển công tác giáo dục, chúng ta phải đi sâu nghiên cứu mục tiêu phát triển cụ thể của các bậc học như bậc tiểu học, trung học, giáo dục chuyên nghiệp và đại học. Trong điều kiện lịch sử của nước ta, việc xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân phải bám sát mục tiêu chiến lược của sự phát triển kinh tế - xã hội trong hiện tại và tương lai, phải kế thừa và phát huy được những thành tựu quý báu của nền giáo dục mới đã được xây dựng và phát triển từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay. Theo tinh thần của Nghị quyết IV về giáo dục, việc đổi mới sự nghiệp giáo dục cần tập trung vào các tư tưởng lớn sau : Mục tiêu chiến lược của hoạt động giáo dục nằm trong chiến lược chung của đất nước mà ở mọi ngành, mọi địa phương phải thực hiện vì nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội. Mục tiêu giáo dục thể hiện tập trung nhất các yêu cầu xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam phù hợp với yêu cầu mới, năng động, thích ứng với sự phát triển vì sự tiến bộ xã hội. Từ mục tiêu tổng quát của hệ thống cần quán triệt và vận dụng đúng đắn vào việc xây dựng mục
  22. tiêu của từng bộ phận, từng cấp học và ngành học, vào nội dung chương trình, sách giáo khoa ở từng môn học, cấp học, đảm bảo giáo dục cho con người có được kiến thức, kỹ năng và thái độ phù hợp với yêu cầu xã hội. c. Để thực hiện đúng đắn mục tiêu giáo dục chung vào mục tiêu bộ phận của từng cấp học, từng hoạt động thực tiễn giáo dục nhằm thực hiện các yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, cần chú ý các vấn đề cơ bản sau : Về nhân tố con người : Là nhân tố quan trọng tạo nên sự phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn phát triển, giữ vị trí trung tâm, quyết định đối với toàn bộ các nhân tố khác tạo nên sự phát triển chung. Về sự phát triển người : Con người vừa là một thực thể tự nhiên, được phát triển và tồn tại theo quy luật chung, trước hết về sinh học, nhưng nhân tố người lại do quá trình tương tác, hoạt động trong môi trường xã hội do con người có ý thức tạo nên. “Sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới” . Về nguồn lực người : Con người luôn luôn sáng tạo, khi trí tuệ và phẩm hạnh của con người được phát triển sẽ tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển sáng tạo ra các giá trị mới, các nguồn của cải phong phú Ba yếu tố trên giúp chúng ta có cơ sở nhận thức đúng đắn để xác định mục tiêu, nội dung phương pháp để tổ chức quá trình giáo dục – đào tạo. d. Tóm lại : mục tiêu giáo dục ở nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội là : “Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nên những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp lao động tự chủ, sáng tạo và có kỉ luật, giàu lòng nhân ái, yêu CNXH , sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước những năm 1990 và chuẩn bị cho tương lai” (Văn kiện Hội nghị lần thứ IV BCHTW khóa VII ĐCS Việt Nam) Nâng cao dân trí : Trình độ dân trí của mỗi nước là kết quả tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục và được thể hiện ra trình độ văn hóa - đạo đức – thẩm mĩ của con người trong từng thời kì lịch sử nhất định. Hiện nay ở nước ta, điều kiện kinh tế - xã hội mới cho phép chúng ta thực hiện việc phổ cập giáo dục tiểu học ; trong thời gian tới để đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta phải thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Chỉ có trên mặt bằng dân trí như vậy, chúng ta mới tiếp cận được xu thế phát triển chung của thế giới, tiếp thu được các tri thức khoa học và công nghệ cần thiết Để có được trình độ dân trí ngày càng cao, giáo dục cần được liên tục đổi mới và phát triển, “phải có quyết tâm cao và có chính sách đầu tư hữu hiệu để sớm nâng cả mặt bằng lẫn đỉnh cao dân trí nước ta lên trình độ một quốc gia phát triển” Đào tạo nhân lực : Chất lượng và hiệu quả lao động phụ thuộc vào trình độ được đào tạo nhân lực. Việc đào tạo nhân lực trước hết thông qua hệ thống giáo dục quốc dân và trực tiếp là các ngành giáo dục chuyên nghiệp và đại học. Trong quá trình đào tạo và bồi dưỡng phải gắn việc đào tạo với việc phân phối sử dụng lao động trong thị trường lao động phù hợp với luật pháp và quy luật phát triển kinh tế xã hội. Bồi dưỡng nhân tài : Chỉ có thể phát hiện và bồi dưỡng nhân tài trên cơ sở một nền kinh tế - xã hội phát triển ổn định và
  23. vững chắc. Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài phải dựa trên sự phổ cập rộng rãi, phải hướng vào thế hệ trẻ Cũng như các lĩnh vực khác, bồi dưỡng phải đi đôi với thu hút sử dụng nhân tài, tận dụng mọi tiềm năng chất xám của các thế hệ
  24. Mục Đích Giáo Dục Của Các Ngành Học, Bậc Học Trong Hệ Thống Giáo Dục Quốc Dân Trong hệ thống giáo dục quốc dân có nhiều ngành học, bậc học. Mỗi ngành học, bậc học có mục đích giáo dục cụ thể (mục tiêu). Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. a. Đối với bậc tiểu học: Mục tiêu giáo dục tiểu học : Với tư cách là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học “hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng cơ bản để học tiếp trung học hoặc đi vào cuộc sống lao động “ Như vậy khi tốt nghiệp tiểu học, học sinh phải đạt được các yêu cầu chủ yếu sau : a.1. Về đạo đức nhân cách: • Có lòng nhân ái, mang bản sắc con người Việt Nam, yêu quê hương đất nước, yêu hòa bình, công bằng, bác ái; • Biết kính trên nhường dưới, đoàn kết hợp tác với mọi người ; • Có ý thức đầy dủ về bổn phận của mình đối với người thân, bạn bè, cộng đôøng và môi trường sống ; • Tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật và các quy định ở nhà trường, khu dân cư và nơi công cộng ; • Sống hồn nhiên, tự nhiên, trung thực. a.2. Có kiến thức cơ bản về tự nhiên, xã hội, con người ; Có óc thẩm mỹ; Có kỹ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán ; Có thói quen rèn luyện thân thể, biết giữ vệ sinh và bảo vệ sức khỏe ; a.3. Biết cách học, biết tự phục vụ ; • Biết sử dụng một số đồ dùng trong gia đình và công cụ lao động thông thường ; • Biết vận dụng và làm một số vịêc như chăn nuôi, trồng trọt b. Đối với bậc trung học cơ sở : Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để
  25. tiếp tục học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp,học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Thế hệ trẻ học sinh phổ thông cơ sở cần đạt những yêu cầu sau đây: b.1. Có ý thức và đạo đức XHCN theo 5 điều Bác Hồ dạy Các em được giáo dục thế gới quan Mác - Lênin và đạo đức XHCN Hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức mới Giáo dục cho các em có những tình cảm cao đẹp. Thương yêu người thân trong gia đình Quý trọng tình làng nghĩa xóm Biết kính trọng thầy cô giáo, người lao động Giáo dục cho các em có tình yêu quê hương, đất nước, yêu quý nhân loại. Yêu chế độ XHCN, yêu Đảng, yêu lãnh tụ b.2. Có trình độ văn hoá phổ thông, hiểu biết khoa học kỹ thuật Cung cấp cho các em một trình độ văn hoá phổ thông cơ sở, kỹ thuật tổng hợp, toàn diện, cơ bản, hiện đại, bao gồm tinh hoa văn hoá nhân loại và dân tộc làm cơ sở cho quá trình hình thành thế giới quan khoa học. Đó là những tri thức tổng quát, bao gồm những sự kiện hiện tượng điển hình hệ thống các khái niệm, lý thuyết quy luật của khoa học tự nhiên, xã hội nhân văn Đó là những hiểu biết về lao động, sản xuất, kỹ thuật, quản lý, về định hướng nghề nghiệp, về cái đẹp, về vệ sinh và rèn luyện thân thể, về quân sự phổ thông và quốc phòng toàn dân. Đó là những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người Việt Nam Trau dồi cho các em phương pháp tư duy: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hoá Hướng dẫn các em phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện phát triển trí tuệ, suy nghĩ độc lập phương pháp làm việc khoa học. b.3. Có kỹ năng lao động cần thiết Cung cấp cho các em có trình độ học vấn phổ thông, kỹ thuật tổng hợp phù hợp với trình độ kinh tế, cơ cấu nghề nghiệp của từng vùng và toàn quốc. Cung cấp cho các em những nguyên lý chung của các quá trình sản xuất chủ yếu, quy trình công nghệ của một số ngành nghề chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân. Nắm được nguyên tắc cấu tạo, vận hành, sử dụng một số máy móc công cụ sản xuất thông dụng Nắm được đặc tính, phương pháp gia công một số nguyên vật liệu thông dụng ở nước ta. Coi trọng việc rèn luyện cho các em một số kỹ năng lao động ngay sau khi học tập và lao động trong nhà trường: Một số kỹ năng lao động trí óc Kỹ năng thực hành vận dụng tri trức, kết hợp lí luận với thực tiễn Thói quen suy nghĩ, học tập và lao động có tổ chức khoa học . Rèn luyện một số kỹ năng lao động chân tay như : Sử dụng và bảo quản một số công cụ lao động, kỹ năng thao tác và vận hành một số máy móc Nhanh chóng thích nghi với việc đào tạo ngành nghề
  26. b.4. Có óc thẩm mỹ Giáo dục cho các em biết thưởng thức cái đẹp trong thiên nhiên, trong xã hội, trong lao động, cái đẹp trong lối sống lành mạnh, cái đẹp trong nghệ thuật. Giáo dục cái đệp phải gắn liền với cái chân, cái thiện. Giáo dục cho các em có quan điểm thẩm mỹ đúng đắn có thị hiếu thẩm mỹ đúng dắn, có thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh,có tình cảm thẩm mỹ trong sáng. Giáo dục cho các em có khả năng sáng tạo ra cái đẹp trong lao động, trong cuộc sống trong nghệ thuật. b.5. Có sức khoẻ tốt Cùng với xã hội, gia đình, nhà trường cần phải quan tâm tới sự phát triển cân đối cơ thể của các em. Cung cấp cho các em những tri thức, thói quen giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể, tổ chức cuộc sống hợp lý để nâng cao và bảo vệ sức khoẻ, tránh được bệnh tật Các em cũng được rèn luyện về quân sự phổ thông, thể thao quốc phòng. b.6. Có định hướng nghề nghiệp đúng đắn Coi trọng công tác hướng nghiệp cho các em Giáo dục cho các em về hướng nghiệp phải phù hợp với yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, địa phương phù hợp với năng lực của bản thân. c. Đối với bậc trung học phổ thông : Giáo dục phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
  27. Những Nhiệm Vụ Giáo Dục Ở Nhà Trường Toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân thông qua các hoạt động của mình nhằm “hình thành, phát triển các phẩm chất và năng lực của công dân Việt Nam : tự chủ, năng động, sáng tạo, có kiến thức văn hóa, khoa học, công nghệ, có kỹ năng nghề nghiệp ; có sức khỏe ; có niềm tự hào dân tộc và ý thức vươn lên ; có năng lực tự học và thói quen học tập suốt đời ; có năng lực đi vào thực tiễn kinh tế – xã hội, góp phần hiệu quả làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Nhiệm vụ giáo dục là những bộ phận hợp thành của giáo dục XHCN, bao gồm giáo dục trí tuệ, đức dục, giáo dục lao động, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất. 1. Giáo dục trí tuệ (trí dục) Trí dục được hiểu theo nghĩa tổng quát là hoạt động của nhà giáo dục nhằm phát triển các năng lực trí tuệ và tư duy của học sinh, nhằm hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh, góp phần phát triển nhân cách học sinh. Trí dục có các nhiệm vụ sau: Cung cấp cho học sinh tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại phù hợp với thời đại và đất nước . Phát triển năng lực trí tuệ, năng lực nhân thức, bồi dưỡng cho các em những phẩm chất tư duy mền dẻo, sâu sắc, độc lập, rộng rãi , Hình thành cho các em cơ sở thế giới quan khoa học, duy vật biện chứng Rèn luyện một số kỹ năng vận dụng và thói quen thực hành những tri thức đã học để giải quyết những nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn . Phát triễn nhu cầu học vấn, nhu cầu thường xuyên bổ sung kiến thức, mở rộng sự hiểu biết. Trong nhà trường, trí dục được thực hiện chủ yếu thông qua dạy học. 2. Đức dục Đức dục là quá trình hoạt động giáo dục chuyên biệt ở nhà trường. Đó là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm xây dựng, bồi dưỡng cho học sinh những phẩm chất nhân cách, những nét tính cách nhất định, những tiêu chuẩn và quy tắc hành vi giữa chúng với nhau, với gia đình, với xã hội Ngày nay, đức dục còn bao gồm cả việc giáo dục về những vấn đề chung có tính chất toàn cầu như giáo dục nhân văn, giáo dục môi trường, giáo dục giá trị Đức dục có nhiệm vụ : Giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan cách mạng, hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có lí tưởng đạo đức trong sáng, niềm tin sâu sắc vào chủ nghĩa xã hội. Giáo dục cho học sinh nắm vững các nguyên tắc và những chuẩn mực đạo đức XHCN, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính, lòng nhân ái, lòng yêu lao động, tinh thần kỷ luật tự giác, lòng tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc.
  28. Giáo dục cho học sinh về văn hóa chung,về bảo vệ môi trường, tinh thần hợp tác 3. Giáo dục lao động có các nhiệm vụ sau Giáo dục bồi dưỡng cho học sinh tinh thần, thái độ lao động,sẵn sàng lao động vì lợi ích chung và lợi ích chính đáng của bản thân. Hình thành ở học sinh nhu cầu lao động. Giáo dục cho học sinh học vấn về kỹ thuật ( ở mức độ phổ thông ). Giúp học sinh định hướng và lựa chọn ngành nghề phù hợp. 4. Thể dục có các nhiệm vụ sau: Giáo dục cho học sinh biết cách giữ gìn sức khỏe, tập luyện tích cực nhằm phát triển thể chất và thể lực. Giúp học sinh hình thành được các kỹ năng, kỹ xảo luyện tập, vận động có phương pháp. Xây dựng cho học sinh thói quen và hứng thú tập luyện thường xuyên. Giúp các em biết giữ gìn vệ sinh, giữ gìn sức khỏe, có ý thức tham gia bảo vệ môi trường. Giúp học sinh nắm được kiến thức quân sự phổ thông 5. Mĩ dục có các nhiệm vụ sau: Hình thành và phát triển ở học sinh năng lực cảm thụ cái đẹp. Hình thành cho học sinh thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh, năng lực phân biệt cái đẹp chân chính. Xây dựng, bồi dưỡng cho học sinh tính tích cực thẩm mĩ : giữ gìn, bảo vệ cái đẹp, sáng tạo cái đẹp Các quá trình giáo dục bộ phận trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, cần tránh thái độ phiến diện chỉ coi trọng một vài quá trình giáo dục bộ phận mà quên các quá trình giáo dục bộ phận khác
  29. Hệ Thống Giáo Dục Quốc Dân Ở Việt Nam 1. Khái niệm Hệ thống giáo dục quốc dân của một nước là toàn bộ các cơ quan chuyên trách việc giáo dục và đào tạo, được hình thành trong tiến trình lịch sử, liên kết chặt chẽ với nhau, thể hiện những nguyên tắc cơ bản trong đường lối và chính sách giáo dục của Nhà nước và được thể chế hóa trong pháp luật. Thông qua hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân, mỗi nước sẽ thực hiện quá trình giáo dục – đào tạo thích hợp, đáp ứng các yêu cầu của xã hội đề ra cho giáo dục, thể hiện ở mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và hình thức tổ chức giáo dục. Theo khuyến nghị của UNESCO về việc chuẩn bị giáo dục cho thế kỷ XXI thì khi xây dựng, phát triển giáo dục ở giai đoạn hiện nay, mỗi nước cần phải tính đến những điều chuyển biến có tính bước ngoặt, chủ yếu trong sự phát triển người vào đầu thế kỷ XXI đó là: Những chuyển biến liên quan tới kinh tế, nhất là liên quan tới tổ chức và phân công lao động. Những chuyển biến liên quan đến biến đổi dân cư. Những chuyển biến liên quan đến khoa học và công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin. 2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân Theo nghị định số 90 CP ngày 24 – 01 – 1993 của Thủ tướng chính phủ nước CHXHCNVN thì hệ thống giáo dục quốc dân nước ta được xây dựng theo các nguyên tắc chính sau đây : Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân về giáo dục. Mọi người dân đề có quyền và có nghĩa vụ học tập, xóa bỏ mọi đặc quyền trong giáo dục, tạo ra cơ hội và điều kiện để mọi người đều được học tập. Sự nghiệp giáo dục do nhà nước quản lý : Các loại hình trường học (công lập, dân lập, tư thục vv ) đều do nhà nước quản lý về mục tiêu, nội dung giáo dục đặt dười sự thanh tra của cơ quan quản lý giáo dục. Đảm bảo tính thống nhất về mục tiêu và nội dung giáo dục, tính thống nhất của giáo dục. 3. Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta Hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta bao gồm các ngành, các bậc học và các cấp học sau : Ngành giáo dục mầm non bao gồm : nhà trẻ và mẫu giáo. Giáo dục phổ thông, bao gồm 2 cấp : tiểu học và trung học Cấp tiểu học, nhận trẻ từ 6 tuổi vào học, học trong 5 năm. Học hết lớp 5, học sinh thi lấy bằng tốt nghiệp tiểu học. Cấp trung học chia làm 2 giai đoạn : Trường trung học cơ sở nhận học sinh từ 11 tuổi đã tốt nghiệp tiểu học. Học xong lớp 9
  30. học sinh thi tốt nghiệp lấy bằng trung học cơ sở. Trường trung học phổ thông nhận học sinh từ 15 tuổi đã tốt nghiệp trung học cơ sở. Học sinh học xong lớp 12 sẽ thi để lấy bằng tú tài. Giáo dục chuyên nghiệp : gồm có 3 loại hình : Đào tạo nghề sau bậc tiểu học Trung học chuyên nghiệp Trung học nghề Giáo dục đại học và sau đại học : Trình độ cao đẳng, trình độ đại học (Cả trình đôï cao đẳng và trình độ đại học chỉ nhận những học sinh đã có bằng tú tài, hoặc có bằng trung học chuyên nghiệp ). Trình độ cao học (thạc sĩ ), Trình độ tiến sĩ : Nhận các học viên đã có bằng thạc sĩ, học 2 năm, hoặc cử nhân đại học học 4 năm. Khi tốt nghiệp được cấp học vị tiến sĩ.