Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học

pdf 14 trang ngocly 2000
Bạn đang xem tài liệu "Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdien_tin_ve_gioi_trong_sach_giao_khoa_tieng_viet_tieu_hoc.pdf

Nội dung text: Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học Nguyễn Thị Hương* Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 09 tháng 1 năm 2014 Chỉnh sửa ngày 18 tháng 3 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 5 năm 2014 Tóm tắt: Dựa vào lý thuyết về điển tín của Légal và Morchal, bài viết đặt vấn đề tìm hiểu những biểu hiện của điển tín về giới trong sách giáo khoa tiếng Việt tiểu học hiện hành ở Việt Nam. Thông qua việc phân tích các biểu hiện liên quan đến vấn đề nhận diện giới và phân biệt giới qua hình thức ngôn ngữ và phi ngôn, bài viết làm rõ sự chi phối của điển tín giới từ phía người soạn sách và ảnh hưởng, tác động của điển tín giới đối với lứa tuổi tiểu học, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và quan niệm về giáo dục giới góp phần tăng cường nhận thức và hành động về bình đẳng giới. Từ khóa: Điển tín, điển tín về giới, giới, bình đẳng giới, sách giáo khoa tiếng Việt tiểu học. 1. Đặt vấn đề* học, SGK còn hướng đến việc giáo dục các kỹ năng xã hội cho học sinh (HS). Có thể nói, Giới là sản phẩm của các tương tác văn hóa SGK đóng một vai trò đáng kể trong việc xây xã hội. Chính cấu trúc văn hóa xã hội đã sản dựng các chuẩn xã hội và hình thành cách nhìn sinh ra giới và đến lượt nó, các cá nhân lại điều về xã hội ở HS. Nội dung của SGK có thể tác chỉnh cung cách ứng xử của mình sao cho phù động mạnh đến trí tưởng tượng và sự nhạy cảm hợp với khuôn thước giới mà xã hội quy định. của các em. Những hình mẫu mà SGK đưa ra Trong số các hình thức tương tác văn hóa xã có thể ảnh hưởng đến tính cách, thái độ và cách hội góp phần hình thành những niềm tin về nhìn thế giới bên ngoài của các em. Có thể nói, giới, những biểu tượng về giới ở mỗi cá nhân SGK có một quyền lực nhất định đối với HSTH thì giáo dục giữ một vai trò quan trọng, nếu mà đặc trưng lứa tuổi là tính chưa ổn định về không muốn nói là quan trọng nhất. Trong hoạt tâm lý và tư duy phản biện cũng chỉ đang trong động giáo dục ở nhà trường Việt Nam, sách quá trình hình thành. Các em có xu hướng cho giáo khoa là một công cụ dạy-học quan trọng rằng những gì thể hiện trong SGK là sự thật. Sự của giáo viên và học sinh. tin tưởng của giáo viên và phụ huynh đối với Sách giáo khoa (SGK), như tên gọi của nó, SGK càng củng cố niềm tin ấy ở các em. Chính là công cụ để giáo dục. Ngoài nội dung dạy vì vậy, bất cứ nội dung nào khi đưa vào SGK ___ đều phải được cân nhắc thận trọng. Qua khảo * ĐT: +84-942992609 sát, chúng tôi nhận thấy là trong SGK tiểu học Email: nguyenhuong9912@gmail.com 14
  2. N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 15 hiện hành ở Việt Nam còn tồn tại khá rõ điển biết của chúng ta mà chúng ta dựa vào đó để tín về giới, đặc biệt là sự bất bình đẳng giữa phân loại, đánh giá bản thân hoặc người nam và nữ. SGK cũng đưa ra một số bài học về khác/nhóm người khác. Đây là những niềm tin, việc chống lại sự bất bình đẳng nam nữ nhưng biểu tượng mang tính tập thể, được các cá nhân chính ngay trong những bài học này đã thể hiện trong cùng một cộng đồng người chia sẻ và có một quan niệm về giới, một lối tư duy về vấn đề một tác dụng chi phối nhất định đối với nhận giới hãy còn đơn giản, chưa đi vào được những thức của chúng ta về thế giới, về cung cách ứng cung bậc tinh vi và lắt léo của nó. Điều này có xử của người khác/nhóm người khác và điều thể gây những hậu quả tiêu cực đối với các em hướng hành động của chúng ta theo tâm lý số với tư cách là những công dân tương lai. Trong đông. Ví dụ, niềm tin, quan niệm cho rằng bài viết này, sau khi làm rõ khái niệm điển tín người Nghệ Tĩnh keo kiệt, người miền Nam và điển tín về giới, chúng tôi tiến hành phân bộc trực, người Pháp lịch sự, người Anh lạnh tích những biểu hiện dễ nhận thấy và những lùng, phụ nữ nhạy cảm hơn nam giới, đàn ông biểu hiện tinh vi của điển tín giới trong SGK thích những người phụ nữ đẹp hơn những người Tiếng Việt (TV) tiểu học, đặc biệt chú trọng phụ nữ thông minh là những điển tín. vào SGK TV1 và TV 5, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và quan niệm về giáo dục giới 2.2. Điển tín về giới cho HSTH. Khung cơ sở lý luận của bài viết nằm trong khuôn khổ của những công trình Theo Robert Stroller (bác sĩ tâm thần, nhà nghiên cứu về điển tín của Légal [1] và tâm lý học phân tích Mỹ và là cha đẻ của khái Morchal [2]. niệm giới) thì mỗi một con người được cấu thành cùng một lúc bởi hai thành phần: mỗi người có một cơ thể tạo nên bản sắc giới tính và 2. Một số tiền đề lý luận mỗi người có một bản ngã tạo nên bản sắc giới (dẫn theo Chemin, [3]). Nếu như cơ thể là một 2.1. Điển tín thực tế sinh học, sinh lý và di truyền bị quy định bởi tự nhiên thì bản ngã lại là một thực thể Từ góc độ tâm lý học xã hội và xã hội học, sinh ra từ văn hóa. Simone de Beauvoir trong điển tín1 (tiếng Anh: stereotype, tiếng Pháp: tác phẩm «Giới tính thứ hai» cũng đưa ra một stéréotype) là những niềm tin, biểu tượng tinh định thức nổi tiếng: «Người ta không sinh ra đã thần có thể đúng hoặc sai hợp thành những hiểu sẵn là đàn bà mà người ta trở thành đàn bà» («On ne naît pas femme, on le devient», Le ___ Deuxième Sexe, Galimard, 1949, tr.285). Ở đây, 1 Một số người dùng định kiến, thiên kiến để dịch có sự phân biệt giữa giới tính bẩm sinh và giới stereotype/stéréotype nhưng theo chúng tôi, định kiến, thiên kiến thiên về nghĩa tiêu cực trong khi đó trên phương diện xã hội. Người ta sinh ra đã stereotype/stéréotype mang tính trung lập, có thể đúng mang sẵn một giới tính (là nam hay nữ) nhưng hoặc sai, có thể tích cực hoặc tiêu cực. Có người dịch là để trở thành đàn ông hay đàn bà lại phải do các hình ảnh nhưng chúng tôi thấy từ này quá chung chung, lại chưa nêu bật được tính chất cố định, bám rễ sâu trong tương tác xã hội văn hóa hay nói cách khác, giới nhận thức con người của khái niệm stereotype/stéréotype. là sản phẩm của các tương tác văn hóa xã hội. Cũng có người dịch là khuôn mẫu nhưng chúng tôi thấy từ này dù đã chuyển đạt được tính chất cố định, cứng nhắc Trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu của stereotype/stéréotype nhưng chưa chuyển đạt được ý vào phân biệt giới và giới tính. Chúng tôi dùng niềm tin và quan niệm – một nội dung quan trọng trong nội hàm của khái niệm xét từ góc độ tâm lý học xã hội và giới theo nghĩa giới nam và giới nữ hay nam xã hội học. giới và nữ giới. Giới ở đây là giới theo nghĩa
  3. 16 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 nhóm xã hội, nói cách khác là tập hợp của các trong những con đường truyền bá nhanh nhất và cá nhân có chung một số đặc điểm về mặt giới có hiệu lực nhất là giáo dục. Có thể nói, giáo tính và xã hội. Quan điểm của chúng tôi là nếu dục là một trong những phương tiện chính yếu như giới tính là tập hợp những đặc điểm chung để truyền bá điển tín. Một cách logic, giáo dục phân biệt nam và nữ, thể hiện sự khác biệt về cũng phải là công cụ chính yếu trong việc loại mặt sinh học của nam và nữ, là một quy định thải những điển tín xấu và phổ biến những điển của tự nhiên và theo đó, sự khác biệt giữa nam tín tốt. Nhiều nghiên cứu đã chỉ rằng điển tín có và nữ là đương nhiên thì giới về mặt xã hội thể gây một ảnh hưởng tự động và vô thức đến được xây dựng trước hết trên cơ sở giới tính ứng xử và năng lực của con người. Các nghiên nhưng quan trọng nhất là các căn cứ xã hội như: cứu thực nghiệm của của Bargh, Chen và vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội, những kì Burrows (1996), Dijksterhuis & van vọng liên quan đến nam và nữ (dẫn theo Knippenberg (2000), Légal (2005), Nelson và Nguyễn Văn Khang [4]) và theo đó giới cần Norton (2005) [1] đã chỉ ra rằng nếu kích hoạt phải được nhìn nhận một cách bình đẳng, không điển tín tốt một cách vô thức ở đối tượng thì đối được lấy sự phân biệt giới tính để áp dụng cho tượng sẽ tự động sản sinh ra những ứng xử và giới về mặt xã hội. năng lực tích cực. Ngược lại, nếu một điển tín Từ quan niệm về điển tín ở 2.1, chúng tôi xấu được kích hoạt, đối tượng sẽ có những hành lập thức khái niệm điển tín giới – một dạng điển động, ứng xử và năng lực tiêu cực. Trong lĩnh tín – như sau: điển tín giới là những niềm tin về vực tâm lý học xã hội và sư phạm, hiệu ứng này giới, những biểu tượng về giới tồn tại trong được đặt cho một cái tên là hiệu ứng 2 cộng đồng do đặc điểm xã hội, văn hóa, tư Pygmalion . Có thể định nghĩa một cách ngắn tưởng của cộng đồng quy định và đến lượt nó, gọn hiệu ứng này như sau: sự chờ đợi của giáo điển tín giới lại có tác dụng chi phối đến nhận viên về khả năng (tốt hay xấu) của HS có thể thức, hành động, ứng xử của mỗi cá nhân trong khiến HS có những hành xử và năng lực tương cộng đồng cũng như những quan niệm, đánh hợp với sự chờ đợi đó. giá của cá nhân về người khác hoặc giới khác. Từ đó, có thể thấy, điển tín giới đóng vai trò 3. Biểu hiện của điển tín giới trong SGK như một căn cứ giúp cá nhân nhận diện bản Tiếng Việt tiểu học thân và người khác trong tư cách giới đồng thời điển tín giới cũng là căn nguyên của sự phân Nội dung thông tin trong một cuốn biệt giới tồn tại dai dẳng từ thế hệ này sang thế SGK thường được giới thiệu, thể hiện qua hai hệ khác. Trong bài viết này, vấn đề điển tín giới hình thức: qua văn bản (ngôn ngữ) và qua hình trong SGK TV tiểu học được nhìn nhận và phân thức phi ngôn (ảnh, tranh, sơ đồ, bảng biểu) [5]. tích xơay quanh hai bình diện nhận diện giới và SGK tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5 ở Việt Nam phân biệt giới. cũng được cấu trúc theo mô hình truyền thống này. Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích các biểu 2.3. Giáo dục như là công cụ truyền bá điển tín hiện liên quan đến vấn đề nhận diện giới, phân Điển tín được lan truyền, phổ biến qua các biệt giới trong SGK TV tiểu học qua hai hình con đường sau: qua đường truyền miệng, qua ___ các phương tiện thông tin đại chúng và một 2 Lý thuyết về hiệu ứng Pygmalion ra đời năm 1968 và tác giả của nó là Rosenthal và Jacobson.
  4. N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 17 thức thể hiện của nội dung thông tin là hình về hình thức bề ngoài của nam và nữ. Điều này thức ngôn ngữ và hình thức phi ngôn. Hướng tạo ra một lợi thế dễ thấy là giúp các em HSTH trọng tâm vào những phân tích định tính, chúng nhận diện giới một cách dễ dàng, gần như tôi không đặt mục tiêu thống kê đầy đủ và triệt không phải mất công suy đoán. Tuy nhiên, cách để những biểu hiện về giới trong tất cả các SGK minh họa trên chắc chắn sẽ dần dà hình thành ở TV từ lớp 1 đến lớp 5 mà chỉ dùng những số các em một khung thẩm mỹ cố định, một khuôn liệu thống kê định lượng chủ yếu trong TV1 và mẫu thẩm mỹ cố định về vẻ bên ngoài của nam TV5 - hai đại diện của giai đoạn đầu tiểu học và và nữ. Các em sẽ dần hình thành cho mình cuối tiểu học. những tiêu chí để nhận diện và qua đó để đánh giá bề ngoài của nam và nữ: nam thì phải thế 3.1. Những biểu hiện liên quan đến vấn đề nhận này, nữ thì phải thế kia, như thế này và như thế diện giới kia mới được gọi là phù hợp, nếu không như thế này và như thế kia là đi chệch khỏi quỹ đạo và 3.1.1. Biểu hiện của nhận diện giới qua có thể bị chê cười, thậm chí bị cô lập. kênh phi ngôn Liên quan đến đặc điểm tính cách của mỗi Về hình thức bề ngoài thể hiện qua lối phục giới, nhiều hình minh họa cũng cho thấy ảnh sức của các em nam và nữ, trong các hình minh hưởng của điển tín giới khi thể hiện các nhân họa ở tất cả các SGK từ lớp 1 đến lớp 5, các em vật nam và nữ. Trong TV 1, tập 1, chỉ có hình nam và nữ được phục sức theo điển tín truyền minh họa em gái ôm búp bê (tr.8, 66, 91). Minh thống về giới: nữ thường mặc váy, nếu mặc họa cho từ “y tá” là hình cô y tá đang kiểm tra quần áo thì đó là những bộ quần áo hoa hoặc kim tiêm chuẩn bị tiêm, em gái đứng bên cạnh quần áo có các màu sắc nổi bật như cam, tím, chờ tiêm với vẻ mặt lo lắng, sợ hãi (tr.54) trong đỏ, hồng, vàng; nam thì thường mặc quần áo có khi đó, minh họa cho từ “bác sĩ” là hình ông màu xanh. Về phụ kiện trang sức cho mỗi giới, bác sĩ đang đo nhịp tim cho cậu bé cởi trần, vẻ hầu hết các em nữ đều có nơ cài lên đầu, màu mặt cậu bình thản, thậm chí cậu còn hơi mỉm sắc của nơ cài đầu được lựa chọn phù hợp với cười (tr.154). Trong TV1, tập 1 & 2, khi minh màu sắc của quần áo; tóc các em thường được họa những cảnh liên quan đến hoạt động đòi hỏi cột vổng cao hoặc tết bím với nơ hình bướm những động tác khoáng đạt, mạnh mẽ, các nhà hoặc hình bông hoa sặc sỡ còn em nam hoặc để minh họa SGK thường chọn các em trai (TV1, đầu trần với mái tóc cắt cúp cao gọn gàng hoặc tập 1 : tr.102; TV1, tập 2 : tr.40, 137, 138, 141, đội mũ cát-két. Trong TV 1, tập 1, chúng tôi 152) còn các em gái thường được chọn để minh thống kê có 101 hình minh họa có cả nam và nữ họa cho những động tác, hoạt động nhẹ nhàng nhưng chỉ có 6/101 hình minh họa (gần 6%) (TV1, tập 1 : tr.130, 140; TV1, tập 2 : tr.92, 141, trong đó em nữ không cài nơ trên đầu (tr.54, 55, 132). Khi minh họa cho các chủ đề luyện nói 81,129). Tuy nhiên, dù không có nơ cài đầu “vâng lời cha mẹ”, “con ngoan, trò giỏi ” (TV1, nhưng các em nữ vẫn được nữ tính hóa nhờ tập 1 : tr.109, 131; TV1, tập 2 : tr. 23) thì hình quần áo, phụ kiện và điệu bộ, cử chỉ được cho minh họa chỉ có các em gái và tuyệt nhiên là dành riêng cho giới nữ (tr.51, 54, 55, 81, không có em trai. Tuy nhiên, em trai được chọn để minh họa cho bài đọc “Không nên phá tổ 129). Như vậy, cách minh họa lối phục sức của chim” (TV1, tập 2, tr. 151). Trong sách TV4, các em nam và nữ (cũng như của bố mẹ, ông tập 2, trong bài đọc minh họa cho chủ đề “Giữ bà, cô giáo) hoàn toàn bị chi phối bởi điển tín phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị”, nhân
  5. 18 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 vật em trai được gán cho tính bất lịch sự, vô lễ dễ dàng, tạo cho cá nhân cảm giác an toàn, còn em gái thì lịch sự, lễ phép (tr.110)3. được che chở trong tập thể nhưng cũng vừa có Như vậy, đặc điểm tính cách của em nam và hại là triệt tiêu tư duy tranh biện, khát vọng nữ cũng bị giản lược hóa và thô sơ hóa dưới sáng tạo độc đáo của cá nhân. Trở lại chuyện ảnh hưởng của điển tín giới. Các em nữ được minh họa trang phục cho HSTH, chúng tôi nhận gán cho những tính cách như dịu dàng, nhẹ thấy cách vẽ minh họa như thế này càng củng nhàng, thích làm điệu, vâng lời người lớn, lễ cố ở các em HSTH những hình mẫu giới các em thu nhận từ gia đình. Ngay từ khi siêu âm để phép, nhường nhịn, thật thà còn các em nam biết giới tính, gia đình đã trang trí phòng ốc, thì mạnh mẽ, hiếu động, ngỗ nghịch. Cách thể mua sắm quần áo, đồ dùng theo sự phân biệt hiện tính cách nam/nữ của SGK sẽ gieo vào đầu giới tồn tại trong xã hội. Khi các em lớn hơn các em HSTH những biểu tượng về tính cách một chút, gia đình mua đồ chơi, hướng cho các giới, quy định cách ứng xử của các em. Các em em chơi và hành xử theo sự phân biệt giới ấy. có thể sẽ rập khuôn theo những khuôn mẫu mà Đặc điểm hình thức bề ngoài và tính cách SGK trình bày vì các em đặt niềm tin vào SGK. được minh họa và thể hiện trong SGK cũng Các em nam có thể sẽ tự cho phép mình hiếu phản ánh được thực tế xảy ra trong xã hội động, ngỗ nghịch, các em nữ tự cho phép được nhưng trong nhiều trường hợp nó bị đẩy lên điệu đàng vì các hành vi này đã được hợp thức mức cực đoan và chính vì thế mà có phần phiến hóa bởi điển tín giới. Các em cũng tự đặt rào diện. Chúng tôi đã so sánh những hình vẽ minh cản ngăn mình không được thể hiện những tính họa với những ảnh chụp trong SGK và thấy cách được cho là thuộc về giới khác, nếu không rằng trong các ảnh chụp từ thực tế, số lượng các muốn bị chê cười, cô lập. em gái có nơ cài đầu chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, các em rất sợ Trong sách TV1, tập 2 có 5 ảnh chụp cảnh sinh bị chúng bạn cười chê, bị cô lập. Bị cô lập, bị hoạt đời thường tự nhiên của HSTH (tr.11, 37, tách khỏi nhóm là một hình thức trừng phạt 46, 86,77) trong đó có rất nhiều HS nữ nhưng đáng sợ nhất đối với các em ở lứa tuổi này và chỉ có duy nhất ảnh chụp minh họa cho câu “Bé đó cũng là hình thức trừng phạt đáng sợ của con tập viết” có hình bé gái cài nơ trắng trên đầu người trong những xã hội mà con người chưa (tr.77). Như vậy, trong thực tế, tỷ lệ các em gái có ý thức một cách rõ ràng về giá trị cá nhân cài nơ trên tóc không đậm đặc như ở trong hay nói cách khác còn đồng nhất giá trị của cá SGK. Điều này phản ánh đặc điểm tính chất của nhân với giá trị của nhóm [6]. Nỗi lo bị cô lập thông tin do điển tín đưa lại nhiều khi không khiến người ta luôn phải gò mình theo số đông, chính xác, chỉ dựa trên những xác tín thiếu sự trang phục theo số đông, suy nghĩ theo số đông kiểm soát nghiêm ngặt của hiện thực khách tạo thành một thứ đồng phục tập thể, tư duy tập quan. thể. Chính vì vậy, điển tín vừa có lợi là giúp cá 3.1.2. Biểu hiện của nhận diện giới qua nhân tự định vị và định vị người khác một cách kênh ngôn ngữ ___ 3 Trong tài liệu chuyên đề “Giáo dục nếp sống thanh lịch, Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích những văn minh cho học sinh Hà Nội” (dùng cho học sinh lớp 5) biểu hiện của nhận diện giới thông qua ngôn của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội (NXB Hà Nội, 2012), ngữ về giới được thể hiện trong SGK. Trong tất cả những gương người tốt, việc tốt đều thuộc về các em nữ, không có ngoại lệ. Các em nam được khắc họa như phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ đề cập một số những nhân vật phản diện, đại diện cho những thói xấu biểu hiện nổi bật chứ không thể khảo sát một cần phải tránh. Theo đánh giá của chúng tôi thì đây là một sai lầm trầm trọng về mặt sư phạm.
  6. N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 19 cách triệt để tất cả các biểu hiện về ngôn ngữ đề: ta là ai? ở đâu? làm gì? (tất nhiên là với mức giới được. độ phù hợp với tư duy của HSTH). Điều này rất Trước hết là vấn đề định danh đối tượng HS quan trọng vì nếu HS xác định một cách rõ ràng và giáo viên. Chúng tôi đã thống kê cách định các vấn đề này thì sẽ có những hành vi ứng xử danh HS trong hai tập SGK TV 1. Trong TV 1, phù hợp, điều mà các nhà sư phạm mong muốn. tập 1, danh từ phổ biến để định danh HS là “bé” Vì vậy, theo chúng tôi, cần phải thay đổi cách nhưng nội dung quy chiếu lại không giống định danh HS ngay từ đầu chứ không đợi đến nhau, cụ thể có 15 trường hợp sở chỉ của “bé” cuối lớp 1 mới bắt đầu thay đổi một cách không là em gái, 6 trường hợp sở chỉ là em trai, có 1 có hệ thống. Đây không chỉ đơn giản là cách trường hợp sở chỉ là một tập hợp gồm cả trai và định danh đối tượng mà liên quan đến quan gái (2 trai, 8 gái). Ngoài ra có 4 trường hợp sử niệm về môi trường giáo dục. Trong sách TV1, dụng từ bé + tên nam và 9 trường hợp sử dụng tập 2, khi các em được học các nội dung theo bé + tên nữ. Chỉ đến cuối sách TV1, tập 1 mới chủ điểm thì chủ điểm đầu tiên các em được xuất hiện danh từ “em” để chỉ HS (4 lần: tr.131, học là chủ điểm Nhà trường. Đây là nguyên văn 139, 149, 167). Sang sách TV1, tập 2, từ “em” của bài tập đọc có tiêu đề Trường em thuộc chủ để chỉ HSTH lại chiếm ưu thế (25 lần) trong khi điểm này: «Trường học là ngôi nhà thứ hai của đó từ “bé” chỉ có 7 lần. Đến sách TV 5 thì em. Ở trường có cô giáo như mẹ hiền, có nhiều không còn xuất hiện từ “bé” nữa mà chỉ có từ bè bạn thân thiết như anh em. Trường học dạy “em”. Câu hỏi đặt ra ở đây là có phải các soạn em thành người tốt. Trường học dạy em những giả SGK cho rằng ở học kì đầu của lớp 1 các điều hay. Em rất yêu mái trường của em.” Qua em hãy còn non dại, bé bỏng, ngây thơ nên đã bài đọc, có thể thấy phần nào quan niệm của lựa chọn từ “bé” để gọi, qua đó tạo cảm giác các nhà soạn sách. Hóa ra, khi bước vào lớp 1 gần gũi, thân mật? Từ “bé” chủ yếu dùng để chỉ các em chỉ chuyển bước từ ngôi nhà này sang các em nữ có thể là một gợi ý trả lời cho câu ngôi nhà khác với những quan hệ được giữ hỏi này. Tuy nhiên, theo đánh giá của chúng nguyên tính chất: cô giáo là mẹ hiền, bạn bè là tôi, nếu đây là một sự lựa chọn cố ý chứ không anh em. Quan niệm như thế này đã đánh đồng phải do ảnh hưởng vô thức của điển tín về trẻ các sự vật mang những bản chất khác nhau và em nói chung và bé gái nói riêng thì các nhà sư sẽ khiến HS lạc lối trong việc xây dựng các phạm cần xem xét lại cách lựa chọn này vì sẽ biểu tượng tinh thần. Môi trường trường học và gây một hậu quả tiêu cực trong việc xây dựng gia đình có thể có cùng chung một mục đích biểu tượng tinh thần ở các em. Dùng từ “bé” để giáo dục, cùng hướng tới một sản phẩm giáo gọi các em chỉ có tác dụng kéo dài hơn nữa môi dục giống nhau nhưng cách thức, phương pháp trường gia đình và quan hệ gia đình trong một và phương tiện giáo dục thì phải khác, phải có môi trường mới với một quan hệ mới mang những đặc thù riêng. Không gian nhà trường và những tính chất mới. Việc vẫn giữ một môi không gian gia đình không giống nhau vì một trường gia đình và quan hệ gia đình như vậy sẽ bên là không gian công cộng và một bên là có tác động tiêu cực trong việc phát triển ý thức không gian riêng tư. Cô giáo không có nghĩa là về tính tự chủ, về giá trị cá nhân của các em. mẹ hiền và cũng không nên là mẹ hiền vì giữa Cách gọi “bé” đã vô tình xóa nhòa ranh giới gia cô giáo và HS thiết lập một mối quan hệ khác đình/nhà thường, thầy cô/học sinh, khiến cho hẳn, quan hệ mẹ con là quan hệ gia đình còn HS gặp khó khăn trong việc xác định các vấn quan hệ cô trò là quan hệ xã hội. Bạn bè cũng
  7. 20 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 không thể là anh em vì quan hệ anh em là quan giáo dục. Tuy nhiên, cặp từ xưng hô phổ biến hệ ruột thịt còn quan hệ bè bạn là quan hệ xã giữa giáo viên và HS trong SGK vẫn là “cô – hội. Đến trường là một cơ hội để các em đa em”. Và các tác giả đã để lọt một ví dụ đáng dạng hoá các mối quan hệ của mình và nhờ đó tiếc ở tr.74, trong một bài tập luyện nói khi các em hình thành ý thức về mình với tư cách là dùng từ “bé” thay cho từ “em” vẫn thường thành viên của xã hội. Việc tiếp tục duy trì mối dùng. Nếu như từ “em”được chấp nhận dễ dàng quan hệ gia đình trong không gian nhà trường vì đó là từ dùng truyền thống, phổ biến và quen đã tước đi ở HS ý thức về vai trò mới của mình thuộc thì từ “bé” mãi mãi đặt các em vào vị thế và có thể tạo nên những biểu tượng tinh thần bất bình đẳng một cách cùng cực, vị thế của méo mó ở các em, và hậu quả là cả nhà trường những đứa trẻ không - được - lớn. Quan niệm và gia đình đều không đạt được mục đích giáo cho rằng HS là những đứa trẻ bé bỏng, phải bao dục và không thể tạo ra được những sản phẩm bọc, dạy dỗ còn được thể hiện ở những câu hỏi giáo dục toàn diện. kiểm tra mức độ hiểu bài đọc của HS, cụ thể là Một vấn đề liên quan là vấn đề xưng gọi định danh nhân vật xưng “em” trong các bài tập trong trường học. Chúng tôi không có điều kiện đọc là “bạn nhỏ” và cách định danh này kéo dài khảo sát thực tế xưng gọi trong trường học ở một cách có hệ thống trong tất cả các sách TV Việt Nam mà chỉ đề cập một số quan sát của từ lớp 1 đến lớp 5. chúng tôi về cách xưng gọi trong sách TV1. Cũng trong các bài tập trong các sách TV từ Khác với TV 1, tập 1, trong TV1, tập 2 đã có lớp 1 đến lớp 5, chúng tôi nhận thấy là khi cần nhiều hình thức bài tập và qua các bài tập này định danh đối tượng giáo viên, bao giờ các soạn có thể quan sát được cách thức xưng gọi mà các giả SGK cũng dùng hình thức: cô giáo (thầy soạn giả SGK nêu ra để gợi ý cho HSTH. Trong giáo) hay cô giáo (hoặc thầy giáo). Về mặt lô- các bài tập đòi hỏi phải có sự tương tác giữa hai gíc trình bày, thành phần đặt trong ngoặc được hay nhiều HSTH, các nhà soạn sách đưa ra xem là thành phần phụ, từ đó có thể đoán được phương án “bạn” để gọi và “tôi” để xưng (tr.47, ý đồ của các soạn giả. Cô giáo ở đây là thành 56, 62, 68, 95, 118, 151). Theo đánh giá của phần chính, chiếm đa số và thầy giáo là thành chúng tôi, đây là một quan niệm tiến bộ (nếu phần phụ, thêm vào để đề phòng trường hợp quả là có một quan niệm như thế!?) của các trên thực tế không phải là cô mà là thầy. Quả soạn giả SGK về chuẩn xưng hô trong trường đúng là trên thực tế, số lượng giáo viên nữ dạy học. Cách dùng các từ chỉ quan hệ thân tộc để tiểu học chiếm tỷ lệ lớn so với nam giáo viên xưng hô trong các môi trường ngoài gia đình nhưng cách sử dụng hình thức ngôn ngữ để chỉ khiến cho các nhân vật tham gia giao tiếp bị phân biệt giới như trong SGK thể hiện sự vụng giam hãm lâu hơn vào các mối quan hệ gia đình về, thiếu tính sư phạm. Tại sao không thay bằng giả hiệu. Trong khi đó, khi xưng “tôi”, người từ giáo viên? Theo chúng tôi, đây chính là một tham gia giao tiếp có cơ hội củng cố và xây biểu hiện của việc áp dụng điển tín giới một dựng ý thức về cá nhân mình, ý thức về chính cách rập khuôn. Trong thực tế ngôn ngữ ở phổ mình như một cá thể bình đẳng với những cá thông trung học và đại học, nhiều giáo viên thể khác trong xã hội. Nếu các tác giả SGK dùng “anh”, “chị” để gọi HS nhưng khi ra đề thực hiện một cách triệt để cách dùng này bằng thi, kiểm tra, họ vẫn chịu ảnh hưởng của điển cách cho HS xưng “tôi” với giáo viên thì có thể tín giới một cách vô thức qua việc dùng những sẽ tạo ra một sự thay đổi lớn trong quan niệm hình thức ngôn ngữ như: anh (chị) hãy , anh
  8. N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 21 (hay chị) hãy Một số giáo viên ý thức được nữ đã tham gia rất nhiều vào các công việc nội sắc thái phân biệt giới toát lên từ những cách trợ: tr.9, 47, 49, 51, 53, 61, 70, 109, 113 trong dùng như vậy nên thay bằng: anh/chị hãy Tất khi đó phải đến TV1, tập 2 mới có 2 tranh minh cả những điều này nói lên một điều rằng, dù họa em nam tham gia vào các công việc gia muốn hay không, chúng ta vẫn bị chi phối bởi đình: tr.13, 75, còn tất cả các công việc thuộc điển tín giới và vẫn phải tính đến sự tồn tại của về nội trợ đều do em nữ hoặc mẹ đảm nhiệm. điển tín giới khi phải đối diện và xử lý những Những công việc nội trợ mà các em nữ vấn đề liên quan đến giới. tham gia cũng là phần việc của mẹ. Trong sách TV1, tập 2, tuyệt nhiên không có tranh ảnh 3.2. Những biểu hiện liên quan đến vấn đề phân minh họa hay bài đọc trong đó bố làm việc nhà biệt giới trong khi đó mẹ đảm nhiệm một cách gần như Liên quan đến vấn đề phân biệt giới, chúng tuyệt đối tất cả các công việc chăm sóc con cái, tôi sẽ xem xét những biểu hiện về hoạt động, nhà cửa: tr. 58, 83, 89, 110, 125, 132, 147, 150. nhiệm vụ, nghề nghiệp và vai trò xã hội của Nói gần như tuyệt đối vì các phần việc này nam và nữ được trình bày, giới thiệu trong SGK được sự hỗ trợ ít nhiều của bà : tr. 62, 66, 84, TV tiểu học. 109, 110, 123, 142. Hình ảnh của bà và mẹ còn được khắc họa qua những bài tập đọc ở các 3.2.1. Biểu hiện của phân biệt giới qua hoạt trang 35, 55, 66, 88, 100, 163. Trong những bài động, nhiệm vụ của nam/nữ đọc này, bà và mẹ hiện lên như những người Hoạt động của HS nam và HS nữ cũng chịu thương, chịu khó, dịu dàng, nhân hậu, là như của các thành viên khác trong gia đình các người các em có thể tin tưởng tuyệt đối. Trong em (ông, bà, bố, mẹ) trong SGK TV tiểu học toàn bộ cuốn sách, bố xuất hiện 4 lần: tr.52, 85, cũng bị điển tín hóa một cách rõ rệt. 100, 129, ông xuất hiện 5 lần: tr. 78, 84, 105, Trong hai tập sách TV1, trò chơi của 143, 167. So với hình ảnh mẹ và bà, hình ảnh các em nam và nữ bị phân hóa theo giới: em nữ bố và ông xuất hiện trong khung cảnh gia đình chơi đồ hàng, chơi nhảy dây, chơi búp bê; em rất mờ nhạt, bố và ông gần như đứng ngoài các nam chơi bóng đá, chơi bóng chuyền, chơi bắt công việc gia đình. Bố xuất hiện 4 lần thì 2 lần ve, chơi kéo co, chơi bi. Ở những tranh minh là ở môi trường ngoài gia đình, hai lần đóng vai họa trong đó có cả nam và nữ, sự phân bố vai trò là quan sát viên còn tất cả các việc mà ông trò tuân theo quy luật sau: nếu trò chơi được làm đều xuất phát từ thú vui tuổi già của chính cho là thuộc về giới nam thì nữ đóng vai phụ, ông chứ không phải là phần việc mà ông phải đứng ở hàng thứ, ngược lại, nếu hoạt động được tham gia với tư cách là thành viên trong gia gắn với đặc điểm giới nữ thì nam đứng ở hàng đình. Như vậy, trong bức tranh gia đình, bố và thứ (TV1, tập 1: tr.19, 24, 26). Trong những ông vẫn là những đường viền mờ nhạt, ngoài tranh minh họa cho những hoạt động có cả nam rìa, các em trai chủ yếu giữ vai người hưởng lợi (được chăm sóc, ăn) trong khi đó, mẹ, bà và các và nữ, các em nữ thường được thể hiện như là em gái là những nhân vật trung tâm, tham gia phái yếu, thích được che chở (TV1, tập 1: tr.37, một cách trọn vẹn vào các hoạt động gia đình. 69, 141). Cách trình bày về mô hình gia đình và nhiệm Quan sát các hoạt động của các em nam và vụ của những người trong gia đình của SGK nữ trong TV1, tập 1, chúng tôi nhận thấy các em phù hợp với điển tín về giới được các cá nhân
  9. 22 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 trong cộng đồng chấp nhận và chia sẻ. Điều này giới và đó là một trong những nguyên nhân giúp hình thành và củng cố những biểu tượng khiến thu nhập của nữ giới thấp hơn nam giới, tinh thần về giới ở các em HSTH và điều hướng dẫn đến việc nữ giới không phát huy được hết cách hành xử sau này của các em. và đúng khả năng của mình. Căn nguyên sâu xa 3.2.2. Biểu hiện của phân biệt giới qua nghề của hiện tượng này có thể bắt nguồn từ những nghiệp và vai trò xã hội của nam/nữ trang SGK đầu đời như thế này. Cách trình bày của SGK có thể khiến các em mặc định rằng vai Chúng tôi đã làm một thống kê chi tiết về trò chủ đạo của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ nghề nghiệp của nam và nữ thể hiện trong sách và làm hài lòng người khác trong khi đó giá trị TV1, tập 2 và nhận thấy nghề nghiệp của hai của người đàn ông được đo bằng sự thành đạt giới được phân bố qua các tranh minh họa và trong nghề nghiệp [7]. Vị trí thích hợp nhất của bài tập đọc như sau: nữ là nông dân (tr. 21, 24, người phụ nữ là trong gia đình, mục đích tối 26, 39, 57, 75, 96, 101, 166), nữ là cô giáo (tr. cao của sự tồn tại của người phụ nữ là gia đình 23, 25, 27, 45 73, 74, 131, 162), nữ là công còn đối với đàn ông, gia đình chỉ là một phần nhân (tr.38, 125), nữ là y tá (tr.143), nam là của sự tồn tại, đích đến của người đàn ông là sự nông dân (tr.21, 24, 86, 164, 166), nam là công nghiệp ngoài xã hội. Nói như thế không có nhân (tr.15, 86, 87, 112, 125, 136, 137, 159), nghĩa là chỉ có đàn ông mới được đề cao, tôn nam là bộ đội (tr.26, 27, 38, 85, 129), nam là vinh còn phụ nữ bị hạ thấp giá trị. Phụ nữ cũng vận động viên (tr.65,101), nam là bác sĩ (tr.86, được xã hội đề cao, tôn vinh. Nhưng đề cao, tôn 143, 164), nam là họa sĩ (tr.18, 86), nam là nhà vinh cái gì và bằng cách nào? Đó là đề cao khoa học (tr.86), nam là thầy giáo (tr.105). Như những giá trị thuộc về thiên tính nữ, tôn vinh vậy, nghề nghiệp trong đó nữ chiếm một tỉ lệ vai trò không thể thiếu trong lĩnh vực tình cảm lớn là nông dân và giáo viên còn nam chủ yếu và môi trường gia đình. Đây chính là một biểu thực hiện các nghề: công nhân, bác sĩ, bộ đội, hiện tinh vi của tư tưởng phân biệt giới. Núp vận động viên. Nghề nông có vẻ rải đều cho cả đằng sau sự tôn cao giá trị người phụ nữ là tư nam và nữ nhưng tỷ lệ nữ vẫn trội hơn, đặc biệt tưởng của một xã hội nam quyền muốn đóng ở tr.96, bức tranh minh họa cho ngữ đoạn “nghề khung người phụ nữ vào trong một môi trường nông” vẽ một người phụ nữ đang cấy lúa. Có duy nhất là gia đình. Về phần mình, người phụ thể thấy, nếu như người phụ nữ chiếm một vị trí nữ được vuốt ve, xưng tụng sẽ tìm cách thỏa thống trị trong không gian gia đình thì vai trò hiệp và điều chỉnh để đổ cho vừa cái khuôn mà xã hội của họ rất mờ nhạt trong khi đó tình hình xã hội định sẵn cho mình, yên tâm và thỏa mãn ngược lại đối với nam giới. Nam giới xuất hiện vì đã đáp ứng được mong đợi của xã hội về sứ nhiều trong các không gian xã hội, nghề nghiệp mệnh cao cả làm vợ, làm mẹ và làm hài lòng của họ được giới thiệu phong phú, đa dạng hơn người khác của mình. và đó là những nghề được cho là gắn với phẩm chất, sức mạnh của nam giới. Cách trình bày Để thêm minh chứng cho những kết luận như thế này có thể khiến cho các em HSTH của mình, chúng tôi mở rộng việc khảo sát hình thành những điển tín không chính xác về những biểu hiện của sự phân biệt giới trong hai nghề nghiệp của mỗi giới và nó sẽ có tác dụng tập sách TV5 và Lịch sử và Địa lý 5. Kết quả định hướng nghề nghiệp của các em sau này. cho thấy sách tiếng Việt và lịch sử, địa lý của Trên thực tế, có một sự phân hóa rất lớn trong giai đoạn cuối tiểu học cũng chịu ảnh hưởng rất việc lựa chọn ngành học và nghề nghiệp của hai
  10. N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 23 mạnh của điển tín giới trong việc trình bày nội Sự xuất hiện mờ nhạt, ít ỏi và thậm chí vắng dung, hình thức và cấu trúc của bài học. mặt hoàn toàn của người phụ nữ trong SGK có Trong TV5, tập 1, toàn bộ danh nhân được thể dẫn đến những đánh giá sai lầm của HSTH giới thiệu trong sách đều thuộc giới nam (tr.4, về vai trò của phụ nữ trong lịch sử nước nhà và 5, 9, 15, 17, 46, 153). Trong 11 tấm gương lịch sử nhân loại. Các em có thể cho rằng phụ người tốt trong xã hội có 8 ví dụ thuộc giới nam nữ không có vai trò gì hoặc giữ một vai trò và 3 ví dụ thuộc giới nữ ( tr.38, 45, 49, 119, không đáng kể đối với sự phát triển của xã hội. 123, 124, 130, 164, 150, 156, 165). Trong số Điều này một mặt củng cố điển tín về sự phân những tác giả có tác phẩm được trích trong biệt giới, mặt khác không phản ánh đúng những những bài tập đọc và những bài tập khác chỉ có thay đổi về vai trò và vị trí của người phụ nữ 3 nhà văn nữ (tr. 110, 137, 150). Trong TV5, trong thực tế. Trong mấy thập kỷ gần đây, phụ tập 2, trong số các danh nhân được giới thiệu nữ Việt Nam đã tham gia một cách tích cực vào trong sách có 2 người thuộc giới nữ là Triệu Thị đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị của Trinh (tr.87) và Nguyễn Thị Định (tr.126), còn đất nước và đã có nhiều đại diện tiêu biểu. Về lại toàn bộ thuộc giới nam (tr. 4, 6, 15, 25, 40, phần mình, nam giới cũng đã có những thay đổi 62, 68, 76, 79, 81, 90, 109). Về tấm gương trong nhận thức về vai trò của mình trong gia những người lao động bình thường, các đại diện đình và đã tham gia một cách tích cực hơn nữ vắng bóng một cách tuyệt đối, chỉ có những trong các công việc chăm sóc con cái, nhà cửa. người thuộc giới nam (tr.20, 30, 36, 51, 63, Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của điển tín giới, 136). Tất cả những tác giả có tác phẩm được các soạn giả SGK đã vô tình hay cố ý gạt bỏ đưa vào chương trình học đều là các tác giả hình ảnh người phụ nữ trong các hoạt động xã nam. hội cũng như người đàn ông trong bối cảnh gia đình và vẫn tiếp tục duy trì luồng tư tưởng Trong Lịch sử và Địa lý 5, toàn bộ nhân vật thống trị trong xã hội là đề cao nam giới và hạ lịch sử xuất hiện trong sách là nam giới, chỉ duy thấp nữ giới. nhất có một nhân vật lịch sử thuộc nữ giới được nhắc đến là bà Nguyễn Thị Bình trong bài về Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi quy kết các tác giả SGK đã không tính đến “Lễ ký Hiệp định Pa-ri” nhưng cũng chỉ nhắc những xu thế tiến bộ về bình đẳng giới ở Việt đến đúng trong một dòng giới thiệu hai đại diện Nam và trên thế giới cũng như không biết sử của Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định. Trong dụng SGK như một công cụ giáo dục để làm những tranh, ảnh minh họa cho những tình thay đổi những điển tín tiêu cực và phổ biến huống, sự kiện lịch sử cũng chỉ có hầu hết là những điển tín tích cực về giới. Ở lớp 5, SGK nam giới, nữ giới ít xuất hiện mà nếu xuất hiện có hẳn một chương trình dạy về bình đẳng giới thì cũng ở vào vị trí ngoài rìa mờ nhạt. Như nhưng chính ở đây, quan niệm đơn giản và đôi vậy, nữ giới gần như vắng bóng trên vũ đài lịch khi không chính xác về vấn đề phân biệt giới sử, nếu có xuất hiện thì cũng chỉ là chứng nhân của các soạn giả lại càng bộc lộ. Trong TV5, tập chứ không phải là chủ thể của lịch sử. Nam giới 2 có chủ điểm “Nam và nữ”, chủ điểm này được khắc họa như là chủ thể, là tác giả của lịch được củng cố, tăng cường trong sách Đạo đức 5 sử, là người quyết định vận mệnh lịch sử dân với bài học “Tôn trọng phụ nữ” và trong sách tộc. Khoa học 5 với chủ đề “Con người và sức khỏe”. Trong TV5, tập 2, bài tập đọc mở đầu
  11. 24 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 cho chủ điểm vừa nêu là trích đoạn “Một vụ sức mạnh của người phụ nữ?”. Đây chính là đắm tàu”. Tình huống câu chuyện, tính cách biểu hiện tinh vi của tư tưởng phân biệt giới, ca nhân vật phù hợp với điển tín về giới. Nam thì tụng thiên tính nữ để dễ bề thống trị. mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết, dũng cảm, là Trong sách Khoa học 5, quan niệm bình người giải quyết và đưa ra quyết định cuối cùng đẳng giới của SGK tỏ ra có phần đơn giản qua và sẵn sàng nhận mọi hậu quả của quyết định việc dùng ảnh minh họa chụp đội tuyển bóng đá của mình. Nữ thì dịu dàng, yếu đuối, thụ động nữ Việt Nam đang đá bóng. Theo chúng tôi, trong các tình huống khó khăn, là người thụ bình đẳng không có nghĩa là anh hút thuốc, tôi hưởng từ quyết định của nam giới. Như vậy, có cũng hút thuốc, anh mặc quần đùi, tôi cũng mặc thể nói, sự lựa chọn đoạn trích của các soạn giả quần đùi. Tóm lại, bình đẳng không có nghĩa là SGK cũng đã chịu ảnh hưởng của điển tín giới. cào bằng, không đồng nghĩa với giống nhau. Cũng nằm trong chủ điểm này, bài tập đọc Cũng trong sách này, phần “Trò chơi bài tập” “Thuần phục sư tử” trích từ “Truyện dân gian có bài tập yêu cầu xếp phiếu đúng ô trong thời A-rập” dùng ẩn dụ thuần phục sư tử để chỉ bí gian nhanh nhất. Các tấm phiếu là các đặc điểm quyết thuần phục chồng. Theo đánh giá của về giới tính và giới còn các ô là: nam, nữ, cả chúng tôi, đoạn trích này là một minh họa phản nam và nữ. Dạng bài tập này là một hình thức sư phạm cho chủ đề bình đẳng nam nữ. Thứ kích hoạt điển tín giới một cách nhanh và hiệu nhất, trích đoạn được lấy từ truyện cổ Ả-rập mà quả nhất. Qua những tấm phiếu có thể thấy các nước Ả-rập là nơi có thể nói mức độ bình được ý đồ của các soạn giả SGK trong việc đẳng nam nữ thấp nhất thế giới. Thứ hai, nội phân biệt giới về đặc điểm sinh học, tính cách, dung đoạn trích đề cập đến vấn đề phụ nữ phải vai trò trong gia đình, vị trí xã hội của nam và quyến rũ đàn ông. Câu hỏi đặt ra là tại sao phụ nữ. Việc phân định giới tuyến nam nữ một cách nữ phải có nhiệm vụ quyến rũ đàn ông? Tại sao rõ ràng như vậy càng củng cố thêm điển tín về lại đẩy trách nhiệm giữ hạnh phúc gia đình cho phân biệt giới. một mình người phụ nữ ? Sự quyến rũ ở đây thực chất là một sự cống nạp, cống nạp càng nhiều thì khả năng chinh phục người được cống 4. Một số khuyến nghị nạp càng cao. Sự cống nạp bao giờ cũng sinh ra từ một quan hệ bất bình đẳng trong đó có kẻ Việc thay đổi một điển tín, nhất là điển tín trên, người dưới. Vậy thì tại sao đàn ông lại về giới không thể diễn ra một sớm một chiều được cho là đứng trên phụ nữ, phụ nữ phải phục mà đó là cả một hành trình lâu dài và hành trình vụ đàn ông? Chỉ một câu chuyện này có thể đó có thể phải đối đầu với rất nhiều chướng không gây hại nhiều đến việc xây dựng các biểu ngại vật. Một trong những chướng ngại vật đầu tượng tinh thần về giới ở HSTH nhưng nằm tiên là sự thiếu nhạy cảm nếu không muốn nói trong hệ thống chung từ lớp 1 đến lớp 5, lại là sự vô cảm, thờ ơ của giáo viên và phụ huynh được củng cố qua những cảnh sinh hoạt hàng về vấn đề này. Chúng tôi đã tiến hành một số ngày, chắc chắn sẽ hình thành và duy trì ở các cuộc phỏng vấn giáo viên và phụ huynh học em những điển tín sai lầm về giới và không có sinh về vấn đề phân biệt giới trong SGK tiểu lợi cho sự phát triển tinh thần của các em. Cũng học. Kết quả là hơn 75% số người được hỏi trong bài học này, mục kiểm tra mức độ hiểu hoặc không bao giờ đặt vấn đề về sự tồn tại của bài có câu hỏi: “Theo vị giáo sĩ, điều gì làm nên vấn đề bình đẳng giới trong SGK hoặc cho rằng
  12. N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 25 những biểu hiện phân biệt giới phản ánh chân có nghĩa là tôn trọng, tôn trọng chính mình và thực thực tế xã hội nên không thể coi đó là bất người khác ở tư cách con người, nói cách khác bình đẳng giới. Chỉ có gần 25% số người được đó là tôn trọng sự khác biệt bởi trên thực tế hỏi nhận thức được tầm quan trọng của việc xử chúng ta không có bề ngoài giống nhau và cũng lý vấn đề giới trong SGK đối với việc phát triển không thể suy nghĩ giống nhau nên không thể nhân cách và định hướng nghề nghiệp tương lai bắt ép người khác phải giống mình và cũng của học sinh. Chính vì điển tín giới đã thấm sâu không cố ép mình cho vừa vặn với người khác. vào não trạng của chúng ta, trở thành một thứ Điều này dẫn đến một sự thật giản dị là một tâm thức tập thể, quy định những hành vi xã hội người đàn bà tốt có giá trị như một người đàn của chúng ta nên sự tồn tại của điển tín giới ông tốt, một người đàn bà thông minh có giá trị trong SGK là điều dễ hiểu và không tránh khỏi. như một người đàn ông thông minh. Đàn bà và Tâm lý coi nam giới là trung tâm ăn sâu vào trí đàn ông có cơ hội như nhau trong tất cả các lĩnh não chúng ta đến nỗi chúng ta thấy điều đó là tự vực của đời sống gia đình và xã hội, quyền thụ nhiên, phải như thế và nếu khác đi chúng ta hưởng của đàn bà và đàn ông không bị quy định thấy có cái gì không thuận, không phải đạo. Các bởi họ là đàn ông hay đàn bà mà dựa vào năng thể chế xã hội như gia đình, nhà trường đã lực cũng như những gì họ đóng góp cho công không ngừng vun đắp cho sự phân biệt giới để việc [9]. Do vậy, mục đích của việc thực hiện biến một ý đồ mang mục đích xã hội thành một bình đẳng giới không phải là để phụ nữ cũng điều tự nhiên đến nỗi ai cũng phải hành xử theo được hành xử giống như đàn ông, cũng được hướng đấy mà nếu đi chệch khỏi quỹ đạo này giữ những cương vị quan trọng như đàn ông. thì sẽ trở thành kẻ lạc loài [8]. Sự thống trị của Đấu tranh đòi bình đẳng giới là đấu tranh để nam giới trở nên hợp pháp vì có sự đồng tình phụ nữ có thể tham gia một cách tích cực vào của xã hội và sự đồng lõa của chính bản thân những việc có ích cho xã hội, tham gia vào sự người phụ nữ. tiến bộ xã hội và áp đặt sự tham gia đó bằng Một trở ngại thứ hai là tính bảo thủ của khả năng của mình. chúng ta trước những thay đổi. Đại đa số chúng Như vậy, có thể nói, giáo dục bình đẳng ta cho rằng mô hình gia đình truyền thống trong giới trong nhà trường là cánh cửa đầu tiên của đó người phụ nữ đảm nhiệm việc chăm sóc con việc thực hiện bình đẳng giới mang ý nghĩa xã cái, nhà cửa còn người đàn ông là trụ cột kinh hội. Là công cụ giáo dục quan trọng, SGK cũng tế khiến trẻ em cảm thấy an toàn hơn, yên tâm đồng thời phải là công cụ của sự biến đổi xã hơn nên không cần và không nên thay đổi. hội. Để SGK có thể thực hiện tốt chức năng Chướng ngại vật cuối cùng là quan niệm này, chúng tôi đề xuất cần phải tiến hành đồng cho rằng vấn đề bình đẳng giới chỉ liên quan bộ các biện pháp sau đây: đến người phụ nữ và chỉ riêng phụ nữ được - Vấn đề nội dung chương trình SGK hưởng lợi khi các hành động về bình đẳng giới Trong chương trình SGK, cần phải dành được thực hiện. cho người phụ nữ một vị trí xứng đáng trong tất Như vậy, điều quan trọng là xác định quan cả các lĩnh vực, bối cảnh chứ không chỉ để họ niệm về bình đẳng giới. Theo chúng tôi, bình xuất hiện một cách tập trung trong một chương đẳng có nghĩa là sự ngang bằng về giá trị, là sự riêng về nam và nữ như trong chương trình hiện ngang bằng về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hành. Cần phải để cho người phụ nữ xuất hiện lợi, là sự ngang bằng về cơ hội. Bình đẳng còn trong những lĩnh vực, bối cảnh xã hội đa dạng
  13. 26 N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 chứ không chỉ khuôn vào trong môi trường gia các nguyên lý chung về vấn đề nam nữ bình đình. Ngay cả trong những lĩnh vực nam giới quyền và các quy định gắn với từng phạm vi cụ chiếm đa số vẫn cần có đại diện của phụ nữ vì thể như lao động, khoa học công nghệ. Trong sự xuất hiện của phụ nữ dù ít ỏi nhưng cũng có Luật giáo dục 2005 [10]), vấn đề bình đẳng giới khả năng định hướng nhận thức và hành động được nêu trong điều 10 chỉ là một yếu tố nằm cho HS nam và HS nữ ở chỗ HS nam chấp nhận trong một loạt những vấn đề bình đẳng khác vị trí của người phụ nữ trong lĩnh vực này còn như: dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng Do tầm HS nữ có niềm tin vào khả năng thâm nhập của quan trọng của giáo dục trong việc hình thành mình vào lĩnh vực được cho là dành riêng cho nhân cách, rèn luyện đạo đức, xây dựng ý thức phái nam. Nói như thế không có nghĩa là SGK công dân ở HS [11] và vai trò của việc tăng phải soán vị hoàn toàn giới nam và giới nữ: cường bình đẳng giới đối với sự phát triển mọi nam thì phải ở trong bếp còn nữ thì trên công mặt của xã hội, chúng tôi đề xuất trong Luật trường mà điều quan trọng là để cho nam và nữ Giáo dục cần thêm một điều khoản hoặc ghép xuất hiện một cách không phân biệt trong tất cả vào điều khoản 20 về việc loại trừ mọi điển tín các tình huống và hoàn cảnh. Điều này có tác tiêu cực về vai trò của nam và nữ ở mọi cấp học dụng làm cho vấn đề nhận diện giới về mặt xã và mọi hình thức, phương tiện giáo dục. hội trở nên rõ ràng, hiển lộ, và đó chính là cơ hội để trao cho HS cả nam và nữ những khả năng giống nhau trong việc nhận diện giới và tự 5. Kết luận nhận diện bản thân. Trước khi thay SGK mới sau năm 2015, nên có một dự án nghiên cứu một cách Kết quả phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng đồng bộ vấn đề giới trong SGK của tất cả các môn hình ảnh nam giới và nữ giới được thể hiện và học từ lớp 1 đến lớp 12. giới thiệu trong SGK chịu ảnh hưởng rất rõ của - Vấn đề đào tạo giáo viên điển tín về giới tồn tại trong xã hội, theo đó nam giới vẫn nắm gần như mọi lợi thế liên quan Trong các trường đại học, cao đẳng, trung đến cơ hội phát triển và quyền thụ hưởng trong cấp sư phạm, nên có một môn học về giới hoặc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nam lồng ghép vấn đề giáo dục giới vào những môn giới được khắc họa như là động lực của sự phát học liên quan gần. Các Sở Giáo dục nên tổ chức triển xã hội, là chủ thể của lịch sử còn nữ giới những buổi học chuyên đề về vấn đề giới trong bị khuôn vào vai trò làm vợ, làm mẹ và làm hài SGK để giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn lòng người khác bằng sắc đẹp và thiên tính nữ về vấn đề bình đẳng giới và có ý thức phát hiện của mình. Cách trình bày của SGK có thể gây những biểu hiện phân biệt giới trong SGK. những hậu quả xấu đối với HSTH. Do đặc điểm - Vấn đề luật hóa sự phân biệt giới trong tâm sinh lý lứa tuổi, các em có thể dễ dàng SGK đồng hóa những biểu tượng về giới, xem đó Việt Nam đã có một số quy định trong luật như những khuôn thước về giới, lâu dần thâm pháp về chính sách bình đẳng giới (Hiến pháp, nhiễm vào các em và sẽ định hướng cách hành Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Lao động, Luật Khoa xử liên quan đến giới của các em sau này. Vì học Công nghệ, Luật Giáo dục và Luật Bình vậy, cần phải có những động thái tích cực để cải đẳng giới). Trong các luật này, Nhà nước nhấn thiện tình trạng phân biệt giới và ngăn không mạnh nam nữ có quyền bình đẳng trong mọi cơ cho nó tồn tại dai dẳng từ thế hệ này sang thế hệ hội phát triển và thụ hưởng. Các luật này nêu khác. Trong bài viết này, chúng tôi mạnh dạn nêu ra một số khuyến nghị về nội dung chương
  14. N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 27 trình sách SGK, về vấn đề đào tạo giáo viên và [2] F. Morchain, Stéréotypes, Stéréotypisation et luật hóa vấn đề phân biệt giới trong SGK. Valeurs, 2005, www.psychologie-sociale.org. (7/10/2013). Chúng tôi hy vọng góp một tiếng nói nhỏ trong [3] A. Chemin, Mauvais genre, Le Mensuel, n° 22, việc nâng cao chất lượng SGK bởi sau năm pp.82-86, 2011. 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương [4] Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội, NXB thay mới SGK. Chúng tôi cũng ý thức được Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2012. rằng những phân tích thực trạng và khuyến nghị [5] C. Brugelles & S. Cromer, Analyser les représentations du masculin et du féminin dans les của chúng tôi sẽ đầy đủ và thuyết phục hơn nếu manuels scolaires, Les collections du CEPED, bên cạnh việc phân tích cấu trúc, nội dung và INED, Paris, 2005. hình thức SGK, chúng tôi tiến hành thêm các [6] G. Le Bon, Tâm lý học đám đông (Nguyễn Xuân cuộc điều tra, phỏng vấn trên các đối tượng Khánh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính), Nhà XB Tri thức, Hà Nội, 2006. giáo viên, học sinh và những nhà quản lý giáo [7] S. Rignault & P. Richert, La représentation des dục. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết, chúng hommes et des femmes dans les livres scolaires, tôi có thể chắc chắn rằng điều đó không ảnh Rapport au Premier Ministre, La documentation hưởng đến kết quả nghiên cứu của chúng tôi. française, Paris, 1997. [8] P. Bourdieu, Sự thống trị của nam giới (Lê Hồng Sâm dịch), NXB Tri thức, Hà Nội, 2010. [9] Báo cáo phát triển thế giới: «Bình đẳng giới và Tài liệu tham khảo phát triển», Ngân hàng thế giới, 2012. [10] Luật Giáo dục, 2005. [1] J-B. Legal, Effets non conscients des stéréotypes [11] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi sur les comportements et les performances, 2005, mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, 2013. www.psychologie-sociale.org. (7/10/2013). Gender Stereotypes as Reflected in Vietnamese Language Textbooks for Primary School Students Nguyễn Thị Hương VNU University of Languages and International Studies, Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam Abstract: Based on the stereotyping theories by Légal and Morchal, the paper deals with the findings of gender stereotypes that are reflected in the current in-use Vietnamese language textbooks for the primary schools across Vietnam. Through the analysis of the manifestations relating to the gender identification and gender differentiation in the verbal and non-verbal form, the paper makes clear the governing of gender stereotypes on the part of the textbook compilers and the influence and impact of the gender stereotypes on the primary school age and on that basis, it is to propose a number of solutions and concepts on gender education, making a contribution to enhancing the awareness and actions in terms of gender equality. Keywords: Stereotypes, gender stereotypes, gender, gender equality, Vietnamese language textbook for primary school students.