Đề tài Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam

pdf 46 trang ngocly 3630
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_tai_ngan_hang_trung_uong_voi_chinh_sach_tien_te_trong_qua.pdf

Nội dung text: Đề tài Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam

  1. Đề tài : : “ Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam” -1-
  2. LỜI NÓI ĐẦU Xây dựng và thực hiện có hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, tăng cường quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta. Hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường thì hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ của chính phủ đóng một vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy mà em chọn đề tài: “ Ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam” để tìm hiểu và nghiên cứu vai trò , chức năng của cả hệ thống ngân hàng cùng với sự cụ thể hoá chính sách tiền tệ, đặc biệt là ngân hàng trung ương nơi được coi là Ngân hàng của các Ngân hàng thì vai trò và chức năng của nó lại chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Việt Nam. Bài viết gồm những nội dung chính sau đây: Phần I : Lý luận chung về Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ. Phần II : Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua Phần III : Một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam. -2-
  3. Mục lục Lời mở đầu 1 Nội dung 3 I. Những vấn đề chung về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Chính sách tiền tệ Quốc gia 3 1. Tổng quan về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .3 1.1. Lịch sử h́nh thành và phát triển của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 1.2. Vị trí, chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .5 1.2.1. Vị trí của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .5 1.2.2. Chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 5 2. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 6 2.1. Khái niệm về Chính sách tiền tệ. 6 2.2. Vị trí và nhiệm vụ của Chính sách tiền tệ .8 2.2.1. Vị trí của Chính sách tiền tệ 8 2.2.2. Nhiệm vụ của Chính sách tiền tệ 8 2.3. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ 8 2.3.1. Kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng bản tệ .8 2.3.2. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 10 2.3.3. Mục tiêu tạo công ăn việc làm và giảm thất nghiệp 10 2.4. Các công cụ của Chính sách tiền tệ .11 2.4.1. Nghiệp vụ thị trường Mở. .11 2.4.2. Công cụ tái cấp vốn ( tái chiết khấu) 13 2.4.3. Công cô dự trữ bắt buộc. .14 2.4.4. Hạn mức tín dụng. 16 2.3.5. Lăi suất tín dụng. 17 II.Thực trạng Chính sách tiền tệ của NHNNVN 19 1.Thành tựu đạt được 19 2. Những hạn -3-
  4. chế 22 2.1. Bất cập trong hoạch định Chính sách tiền tệ quốc gia. 22 2.2. Bất cập trong việc điều hành Chính sách tiền tệ. 23 2.2.1. Trong việc sử dụng các công cụ của Chính sách tiền tệ. 23 2.2.2. Trong việc thực hiện các dịch vụ Ngân hàng 27 3. Đánh giá về chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay .29 III. Một số giải pháp khắc phục 41 Kết luận .44 Chương 1. Lí luận chung về hệ thống ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ. A. Hệ thống ngân hàng trung ương 1. Khái niệm ngân hàng trung ương(NHTW). Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là cơ quan phát hành tiền của chính phủ, cơ quan kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và tín dụng của nền kinh tế. II. Các chức năng của NHTW Theo luật ngân hàng nhà nước Việt nam tháng 12 năm 1997, ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của chính phủ và là NHTW của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ 1. Là ngân hàng phát hành Ngân hàng phát hành xuất hiện, việc phát hành tiền được ấn định ở các ngân hàng phát hành, sau đó được ấn định vào một ngân hàng. Khi NHTW ra đời, NHTM đã đóng vai trò độc quyền phát hành tiền, có nhiệm vụ đảm bảo thống nhất an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ. -4-
  5. Giấy bạc và tiền kim khí do NHTW phát hành vào lưu thông là phương tiện thanh toán hợp pháp trong mỗi Quốc gia và được thanh toán không hạn chế . Độc quyền phát hành tiền của NHTW không chỉ thể hiện quyền lực của NHTW mà còn nhấn mạnh trách nhiệm của NHTW trong việc phát hành tiền để đảm bảo phát triển kinh tế và lưu thông tiền tệ ổn định. 2. Là ngân hàng của các ngân hàng Sự ra đời và hoạt động của hệ thống ngân hàng 2 cấp đã tạo nên mối quan hệ đặc biệt giữa NHTW với các NHTM và các tổ chức tín dụng (gọi tắt là NH). Đó là mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và khách thể chịu sự quản lý. Trong mối quan hệ này NHTW đóng vai trò là người quản lý vĩ mô đồng thời là một tác nhân kinh tế làm hậu thuẫn đối với các ngân hàng. Việc kết hợp quản lý bằng một hệ thống pháp chế, chính sách với việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ thông qua cơ chế thị trường, NHTW thực hiện chức năng là NH của các NH nhằm điều khiển toàn bộ hệ thống NH trong cả nước hoạt động một cách an toàn, năng động và có hiệu quả trong kỷ cương pháp luật. Nâng cao vai trò của hệ thống NH trong việc đảm bảo cung cấp cho nền kinh tế những dịch vụ tái chính tốt nhất tạo mọi điều kiện đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. 3. Là ngân hàng của Nhà nước. NHTW thực hiện cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho Chính phủ: - Làm thủ quỹ cho kho bạc Nhà nước thông qua quản lý tài khoản của kho bạc, các khoản thu của kho bạc dưới dạng thuế, phí, thu khác được gửi vảo tài khoản tại NHTW. NHTW có trách nhiệm theo dõi thực hiện chi trả theo yêu cầu của kho bạc, trong thời gian kho bạc chưa sử dụng NHTW được tạm thời sử dụng số dư nhàn rỗi này. - Bảo quản dự trữ Quốc gia về: Ngoại tệ, vàng bạc, đá quý và tái sản quý khác, các chứng khoán do các tổ chức trong nước hoặc nước ngoài phát hành. - Làm đại lý cho Chính phủ trong việc đấu thầu, phát hành và thanh toán tín phiếu, trái phiếu, công trái của Chính phủ. - Cho ngân sách Nhà nước vay trong những trường hợp cần thiết. - Làm tư vấn cho Chính về những vấn đề kinh tế tiền tệ và đại diện cho Chính tại các tổ chức tài chính Quốc tế. Thực hiện quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng và hoạt động ngân hàng. III. Vai trò quản lý vĩ mô của NHTW -5-
  6. NHTW khi thực hiện những chức năng của mình nhằm thực thi chính sách tiền tệ nó sẽ phát huy vai trò quan trọng của mình góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội thức đẩy kinh tế xã hội phát triển. 1. NHTW có trách nhiệm xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ Quốc gia Chính sách tiền tệ Quốc gia là chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền cung ứng nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị của đồng tiền, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm. NHTW có một vai trò quan trọng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ. Vì mọi hoạt động của NHTW đều ảnh hưởng đến cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế. Như vậy thực thi chính sách tiền tệ là NHTW sử dụng công cụ một cách hiệu quả để điều chỉnh lượng tiề cung ứng cho phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và chủ động kiểm soát lượng tiền trong nền kinh tế để đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Thông qua tác động sâu sắc đến các yếu tố: Tín dụng, lãi suất, tỷ giá Các yếu tố này đã ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động trong nền kinh tế. 2. NHTW thực hiện quản lý và kiểm soát các tổ chức tín dụng. NHTW là cơ quan thi hành pháp luật, đồng thời là cơ quan ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là cơ quan ban hành các văn bản quy chế về tổ chức hoạt động, về cơ chế nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối để hệ thống tài chính hoạt động trong kỷ cương pháp luật, theo một chế độ thống nhất, tạo môi trường pháp lý và những điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính hoạt động có hiệu quả cạnh tranh lành mạnh để tồn tại và phát triển. Họat động kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt quan hệ sâu rộng đến các hoạt động kinh tế khác. Với tư cách là cơ quan quản lý vĩ mô, NHTW có vai trò vô cùng quan trọng trong việc theo dõi, thanh tra, kiểm soát các hoạt động ngân hàng, áp dụng các biện pháp có hiệu quả để bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động theo kỷ cương pháp luật, tôn trọng các ưquy định của các quy định của NHTW. Trong quan hệ kinh tế - tiền tệ với các nước và các tổ chức tài chính Quốc tế, chỉ đạo và tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng quan hệ kinh doanh trên thị trường Quốc tế, phát triển các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ tài chính nhằm phục vụ đắc lực cho việc thực hiện chiến lược kinh tế mở, nhất là phát triển đầu tư, thương mại quốc tế IV. Mô hình tổ chức của NHTW -6-
  7. Tuỳ thuộc vào lịch sử truyền thống đặc điểm ra đời,chế độ chính trị,đặc điểm kinh tế của từng quốc gia mà NHTW có thể tổ chức theo mô hình tuỳ thuộc hay độc lập với Chính phủ. 1. Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ Theo mô hình này thì NHTW là cơ quan nằm trong bộ máy của Chính phủ.Chính phủ chi phối trực tiếp NHTW về nhân sự ,về tài chính và các quyết định các vấn đề liên quan đến việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Đối với mô hình này, Chính phủ sẽ bổ nhiệm người điều hành NHTW, quy định hệ thống tổ chức, bộ máy quản trị điều hành NHTW. Hoạt động của NHTW phụ thuộc vào yêu cầu của Chính phủ. Mô hính này có nhược điểm: NHTW không hoàn toàn chủ động trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, sự phụ thuộc làm hạn chế mục tiêu ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế đặc biệt là khi ngân sách bội chi thường xuyên, thường Chính phủ sẽ yêu cầu NHTM bù đắp. Mô hình này được thể hiện theo sơ đồ: Các thành viên Bộ máy Chính phủ - Hội đồng chính sách tiền tệ - Chủ tịch NHTW Thống đốc NH 2. Mô hình tổ chức NHTW độc lập Chính phủ. Theo mô hình này NHTW không nằm trong bộ máy của Chính phủ mà trực thuộc Quốc hội. NHTW quan hệ với Chính phủ là tương đối độc lập, NHTW có quyền quyết định việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt các mục tiêu chính sách tiền tệ tiền đã đề ra mà không bị áp lực của Chính phủ vì chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, NHTW hiên nay không hẳn được tổ chức theo mô hình độc lập với Chính phủ là có thể độc lập hoàn toàn không bị áp lực chính trị của thế lực cầm quyền mà mức độ độc lập là phụ thuộc vào sự chi phối của người đứng đầu Nhà nước đến cơ chế lập pháp và tổ chức của NHTW. Vì vậy không có một mô hình nào thích hợp tuyệt đối cho tất cả các Quốc gia, việc lựa chọn NHTW tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa NHTW với Chính phủ và do chế độ chính trị của Quốc gia quyết định. Như vây, cùng với sự đổi mới của nên kinh tế NHNN đã từng bước hoàn thiện các chức năng của NHTW và phát huy vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. B. Chính sách tiền tệ . -7-
  8. I. Khái niệm về chính sách tiền tệ. Có thể nói, chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trunl;g ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến các khối lượng tiền trong lưu thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định. Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của nền kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong kỳ tới phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá. Chính sách tiền tệ có thể được điều hành theo hai hướng: Chính sách thắt chặt tiền tệ và chính sách mở rộng tiền tệ. + Chính sách thắt chặt tiền tệ là chính sách thu hẹp mức cung ứng tiền nhằm hạn chế chi tiêu đàu tư và chi tiêu dùng, qua đó có thể kiểm soát kạm phát, chống sự phát triển kinh tế quá nóng. Khi thắt chặt tiền tệ, một mặt Nhân hàng Trung ương làm giảm vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, hạn chế sự sẵn có của các nguồn vốn dẫn tới giảm chi tiêu dùng và đầu tư. Mặt khác khi lãi suất thị trường được đẩy tăng lên, lãi suất thực tế tăng cũng làm hạn chế nhu cầu chi tiêu dùng, chi đầu tư, qua đó làm giảm tổng cầu, dẫn tới việc giảm lạm phát, hạn chế sự phát triển quá nóng của nền kinh tế. + Chính sách mở rộng tiền tệ là chính sách tăng mức cung ứng tiền, qua đó mở rộng các hoạt động đầu tư, tiêu dùng, nhằm tránh tình trạng thiểu phát của nền kinh tế. Sự tác động của chính sách tiền tệ mở rộng trước hết thông qua việc giảm lãi suất thị trường, hạ thấp phí tổn về vốn tín dụng để kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng. Việc mở rộng tiền tệ còn tăng cường vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, mở rộng khả năng tài chính cung cấp cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng chi tiêu dùng và đầu tư. Ngân hàng Trung ương cũng có thể mở rộng tiền tệ bằng cách nới lỏng các hạn chế trong việc cấp tín dụng cho người vay (điều kiện vay vốn) Chính sách tiền tệ mở rộng không chỉ tác động tới tăng chi tiêu dùng và tăng chi đầu tư mà còn tác động tới tăng xuất khẩu ròng. -8-
  9. Khi lãi suất đồng nội tệ có xu hướng giảm xuống sẽ làm giảm giá của nội tệ so với ngoại tệ và do vậy kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Kết quả ở đây là chi tiêu ròng của nước ngoài về hàng hoá, dịch vụ trong nước tăng làm tăng cầu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ tác động vào nền kinh tế thông qua việc tác động vào thái độ, dự tính của các nhà đầu tư, người tiêu dùng trên cơ sở việc điêù chỉnh mức cung tiền tệ mà chủ yếu là thông qua kênh tín dụng. Trong trường hợp kinh tế phát triển tốt việc giảm bớt khả năng tài chính bằng chính sách tiền tệ sẽ có tác động mạnh đến hoạt động đầu tư, tiêu dùng (nhất là trong điều kiện vốn thay thế bị hạn chế). Chính vì vậy chính sách tiền tệ đặc biệt có hiệu quả cao khi cần chống lạm phát cao, hạn chế sự phát triển quá nóng của nền kinh tế. Nhưng trong điều kiện kinh tế trì trệ nhu cầu đầu tư tư nhân và tiêu dùng giảm mạnh, nền kinh tế khó hấp thụ được khả năng tài chính được tạo ra do mở rộng tiền tệ. Chính sách tiền tệ có hiêu quả trong việc kích thích chi tiêu đầu tư và tiêu dùng. Chính sách tiền tệ quốc gia tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng thương mại, cùng với việc kiểm soát tỉ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thương, nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn dịnh tiền tệ, giữ vững sức mua đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Một chính sách tiền tệ hoàn chỉnh là một chính sách mà việc cung ứng tiền cho lưu thông để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ môi trường sinh thái thông qua công cụ lãi suất và việc đảm bảo việc làm và thất nghiệp ở mức tự nhiên, đồng thời đảm bảo mức tăng trưởng. Với mỗi quốc gia thì các mục tiêu này là khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể khi hoạch định chính sách. II. Công cụ của chính sách tiền tệ. Theo các quy luật kinh tế sự cân bằng chỉ là tạm thời, nền kinh tế luôn biến động theo chu kỳ. Do đó nhìn chung, Ngân hàng Trung ương có thể sử dụng hai loại chính sách tiền tệ: -9-
  10. + Chính sách nới lỏng tiền tệ được thực hiện khi nền kinh tế có tình trạng suy thoái nhằm cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, hạ lãi suất, khuyến khích đầu tư phát triển, tạo công ăn việc làm. + Chính sách thắt chặt tiền tệ khi nền kinh tế phát triển quá nóng nhằm giảm cung ứng tiền, nâng lãi suất, hạn chế đầu tư, kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Trung ương là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, mà chính sách tiền tệ chỉ có thể tác động vào thị trường tiền tệ qua đó tác động đến tổng cầu và sản lượng nên việc kiểm soát của Ngân hàng Trung ương tập trung chủ yếu vào mức cung tiền hoặc lãi suất. Để tác động đến hai nhân tố này Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ trực tiếp hoặc công cụ gián tiếp. 1. Các công cụ trực tiếp. Là các công cụ mà Ngân hàng Trung ương có thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ mà không phải thông qua công cụ khác. a. ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay. Đây được coi là công cụ bổ trợ mà Ngân hàng Trung ương sử dụngđể trực tiếp điều khiển và chi phối toàn bộ lãi suất tín dụng trong nền kinh tế Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hàng kinh doanh phải thi hành. Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được lượng tiền gửi lớn làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất quy định thấp, sẽ làm giảm lượng tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Tuy nhiên biện pháp này làm cho các Ngân hàng thương mại mất tính chủ động linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở Ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng. Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc các ngân hàng kinh doanh chấp hành . Khi muốn tăng khối lượng cho vay, Ngân hàng Trung ương giảm mức lãi suất cho vay để khuyến khích các nhà đầu tư vay vốn. Khi cần hạn chế đầu tư, Ngân hàng Trung ương sẽ ấn định mức lãi suất cao. Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ những phương án kém hiệu quả. -10-
  11. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các ngân hàng thương mại bị động trong kinh doanh. Việc áp dụng khung lãi suất tiền gửi và cho vay nhìn chung ngày càng ít được áp dụng trong cơ chế thị trường, bởi vì trong cơ chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó gửi được vận động theo quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường. b. ấn định hạn mức tín dụng. Nhiều nhà kinh tế cho rằng việc tăng tín dụng đối với nền kinh tế do các ngân hàng thương mại thực hiện là không ảnh hưởng đến lạm phát và giá cả. Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng mà ngân hàng trung ương có thể cung ứng cho nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ đó. Sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế. Song trong nền kinh tế thị trường, Cung - cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu. c. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư. Trong điều kiện ngân sách bị thiếu hụt, ngân hàng trung ương phải phát hành tiền để bù đắp sự thiếu hụt ấy. Phát hành tiền trực tiếp cho đầu tư, có thể qua ngân sách nhà nước hoặc qua con đường tín dụng ngân hàng. Biện pháp này cần thiết trong điều kiện kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực nếu việc phát hành này được sử dụng để khơi dậy các tiềm năng về tài nguyên và con người. Tuy nhiên biện pháp này sẽ làm gia tăng lạm phát do đó làm tăng lượng tiền trong lưu thông. Do đó cần phải được loại trừ trong điều kiện kinh tế bình thường. d. Phát hành trái phiếu ngân hàng để làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Trong điều kiện không thể áp dụng biện pháp khác, chính phủ có thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt lượng tiền trong lưu thông. 2. Các công cụ gián tiếp. Là những công cụ mà tác dụng của nó có được là nhờ cơ chế thị trường. Ba công cụ mà NHTW có thể sử dụng để điều tiết cung ứng tiền tệ: Nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ này ảnh hưởng lớn đến cơ số tiền tệ; lãi suất tái chiết khấu, thay đổi lãi suất này ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ bằng cách ảnh hưởng đến -11-
  12. lượng vay chiết khấu của NHTM; việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng bằng cách ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ. Sau đây, chúng ta sẽ đi tìm hiểu xem Ngân hàng Trung ương đã sử dụng những công cụ đó trong thực tế như thế nào để tác động đến các hoạt động kinh tế. a. Dự trữ bắt buộc. Là phần tiền gửi mà các Ngân hàng Thương mại phải đưa vào dự trữ theo luật định. Phần dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng ở Ngân hàng Trung ương và để tại quỹ của mình với mục đích góp phần đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng Thương mại và dùng để kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân hàng này. Ngân hàng Trung ương là cơ quan duy nhất được phép ra quyết định về thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, những thay đổi đó tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra những thay đổi trong số nhân tiền tệ. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng Thương mại, từ đó giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần giảm cầu để cân bằng với giảm cung xã hội. Trong trường hợp tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống sẽ mở rộng khả năng cho vay của Ngân hàng Thương mại, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung ứng tiền. Như vậy, khi thay đổi quy mô của tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, Ngân hàng Trung ương đã khống chế một cách gián tiếp những mạnh mẽ đến mức cung tiền. b. Lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất quy định của Ngân hàng Trung ương cho các Ngân hàng Thương mại vay để đảm bảo có đầy đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các Ngân hàng Thương mại . Việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương có thể tác động đến khả năng vay của Ngân hàng Thương mại và do đó làm cho cung ứng tiền tăng lên hoặc giảm xuống. Khi lãi suất tái chiết khấu tăng, các Ngân hàng Thương mại sẽ giảm lượng vay ở Ngân hàng Trung ương, do đó sẽ làm giảm cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, nếu lãi suất chiết khấu giảm, các Ngân hàng Thương mại sẽ tăng lượng vay ở Ngân hàng Trung ương để tăng dự trữ mở rộng ở số tiền tệ và làm lượng tiền cung ứng tăng lên. c. Nghiệp vụ thị trường mở. -12-
  13. Thị trường mở là thị trường của Ngân hàng Trung ương được sử dụng để mua bán các giấy tờ có giá. Khi muốn tăng lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Trung ương sẽ mua một lượng giấy tờ có giá nhất định. Kết quả là đã đưa vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng dự trữ của các Ngân hàng Thương mại, do đó làm tăng khối lượng cho vay và mức cung tiền tăng lên gấp bội. Ngược lại khi muốn giảm lượng tiền trong lưu thông thì các Ngân hàng Trung ương bán lượng giấy tờ có giá đang nắm giữ. Việc các Ngân hàng Thương mại mua giấy tờ có giá của Ngân hàng Trung ương sẽ làm giảm dự trữ của mình và sẽ giảm lượng tiền cung ứng. Chẳng hạn như việc mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu ngân hàng nhằm tác động khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các Ngân hàng Thương mại là các tiêu chuẩn tài chính nhằm hạn chế tiềm năng tín dụng và khả năng thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ. Thông thường trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển, nghiệp vụ thị trường mở được chỉ đạo sát sao từng giờ. Việc mua bán các loại trái phiếu được tiến hành liên tục nên nó ảnh hưởng thường xuyên đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng Thương mại và hình thành nên lãi suất vốn trong toàn quốc. Lãi suất là cơ sở cho lãi suất tín dụng và tác động lên các lãi suất thị trường vốn. Thị trường mở đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý nhất định. Môi trường hoạt động tốt nhất cho nghiệp vụ thị trường mở là thị trường chứng khoán. Tại thị trường này, Ngân hàng Trung ương hoàn toàn chủ động mua bán các loại trái phiếu cổ phần lưu thông trên thị trường. Vì vậy, công cụ này rất hữu hiệu đối với các nước kinh tế phát triển có thị trường tài chính hoàn chỉnh. -13-
  14. Chương 2. Thực trạng ngân hàng trung ương với việc thực thi chính sách tiền tệ để điều tiết nền kinh tế vĩ mô ở việt nam. I. SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VIỆT NAM. 1. Sự ra đời. Từ cuối thế kỷ 19 trở về trước ở Việt Nam chưa có một ngân hàng nào xuất hiện do kinh tế nghèo nàn lạc hậu, mang nặng tính tự cung, tự cấp, thương mại kém phát triển nên hầu như nhu cầu giao dịch tiền tệ không đáng kể. Cuối thế kỷ 19 khi Pháp xâm chiếm nước ta và thiết lập xong nền đô hộ. Do các hoạt động kinh tế của Pháp phát triển mạnh nên Pháp phải lập các ngân hàng để hỗ trợ các hoạt động kinh tế. Lúc đầu có hai ngân hàng được Pháp thành lập , trụ sở chính được đặt tại chính quốc nhưng chi nhánh ở khắp Việt Nam. Đó là: Ngân hàng Đông Dương và Pháp- Hoa ngân hàng . Đến năm 1927 ở miền nam Việt Nam, một nhóm tư bản tài chính Việt Nam thành lập tại Sài Gòn một ngân hàng lấy tên là: An Nam Ngân Hàng( sau đó đổi tên thành Việt Nam Ngân Hàng). Trong khoảng thời gian từ 1945 đến tháng 5-1951, tại Việt Nam không có một loại hình ngân hàng nào. Mọi hoạt động thuộc lĩnh vực tiền tệ- tín dụng đều do bộ tài chính đảm nhiệm Tháng 2-1951 chính phủ đã đề ra mục tiêu cho công tác tài chính là thống nhất quản lý thu- chi ngân sách nhà nước, thành lập ngân hàng quốc gia để phát hành giấy bạc ngân hàng, làm nhiệm vụ quản lý tiền tệ và thi hành chính sách tín dụng nhằm phát triển kinh tế Ngày 6-5-1951 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/ SL thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam và đồng thời ký sắc lệnh 17/ SL quy định:” Mọi công việc của Nha Ngân Khố và Nha Tín Dụng sản xuất giao cho ngân hàng quốc gia phụ trách”. -14-
  15. Sự ra đời của ngân hàng quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử trong lĩnh vực tiền tệ- tín dụng ở nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử, dưới chính thể dân chủ mới, Việt Nam đã thành lập được một ngân hàng mang đầy đủ tính chất độc lập- tự chủ của đất nước. 2. Quá trình phát triển của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Trung ương của Việt Nam với tên gọi là ngân hàng nhà nước Việt Nam được thành lập từ năm 1951 trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Nó là hệ thống ngân hàng một cấp phù hợp với cơ chế quản lý của nền kinh tế theo kế hoạch tập trung và mang tính bao cấp triệt để. Hệ thống ngân hàng một cấp này chỉ có một ngân hàng duy nhất là ngân hàng nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý, vừa thực hiện chức năng kinh doanh, cơ cấu mạng lưới theo cơ cấu quản lý hành chính. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, năm 1998 hệ thống ngân hàng một cấp được chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Tuy nhiên, chỉ sau khi ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng( ngày 23-5-1990), thì hệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt Nam mới thực sự được xây dựng phù hợp với mô hình ngân hàng hai cấp của nền kinh tế thị trường. Khái niệm NHTW lần đầu tiên được đề cập trong pháp lệnh ngân hàng( 5-1990) và trong luật ngân hàng nhà nước( 12-1997). “Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của chính phủ và là ngân hàng trung ương của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và làm dịch vụ tiền tệ cho chính phủ”. Ngân hàng nhà nước Việt Nam là thành viên của hội đồng chính phủ. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của ngân hàng nhà nước Việt Nam là hội đồng quản trị gồm 10 thành viên. Chủ tịch là thống đốc, phó chủ tịch là phó thống đốc ngân hàng nhà nước, 4 uỷ viên cấp thứ trưởng đại diện cho bộ tài chính, bộ thương mại, bộ kế hoạch và đầu tư, còn 4 uỷ viên khác được chọn trong số các chuyên -15-
  16. gia kinh tế- tiền tệ. Ngoài chủ tịch hội đồng quản trị là thống đốc được bổ nhiệm như thành viên khác của chính phủ còn các thành viên khác do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của thống đốc ngân hàng. Nhiệm kỳ của hội đồng quản trị là 5 năm. Điều hành công việc hàng ngày của ngân hàng nhà nước là thống đốc và một số phó thống đốc cùng với hoạt động cấp trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương MỘT VÀI CHỈ SỐ VỀ QUY MÔ VÀ HIỆU SUẤT HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC (Nguồn tạp chí ngân hàng số 1+2 năm 2000) Quốc gia Huy động vốn/GDP Tín dụng/GDP Tín dụng/Huy động vốn Năm Năm Năm Năm Năm Năm 1992* 1998* 1992* 1998* 1992* 1998* Indonesia 68% 91% 74% 128% 1,22 1,06 Hàn Quốc 37% 54% 58% 78% 1,58 1,44 Singapore 83% 105% 61% 85% 0,74 0,89 Thái Lan 68% 91% 74% 128% 1,08 1,40 Trung Quốc 73% 117% 95% 125% 1,30 1,07 Việt Nam 23,0% 34,0% 27,0% 33,0% 1,14 0,98 Nguồn: IMF (tính toán từ IFS-July 1999, *) Việt Nam là năm 1996 và 1999, ) số liệu Việt Nam suy ra từ báo cáo thường niên các năm và ước tính. Huy động vốn ngày càng đóng vai trò tích cực hỗ trợ thực hiện tốt các mục tiêu chính sách tiền tệ. Kể từ cuối năm 1993, khi Ngân hàng nhà nước tổ chức hình thànhđược thị trường nội tệ liên Ngân hàng và sau đó gần một năm là thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng có điều kiện làm quen với cơ chế tự điều hòa vốn với nhau, nâng cao hiệu suất vốn khả năng trong toàn hệ thống, hạn chế đến mức thấp nhu cầu tái cấp vốn từ Ngân hàng nhà nước. Phối hợp với bộ tài chính đến tháng 6/1995, Ngân hàng nhà nước chính thức đấu giá tín phiếu kho bạc, tạo thêm công cụ huy động vốn trên thị trường tiền tệ đồng thời góp phần lành mạnh hoá ngân sách. Bên -16-
  17. cạnh đó, việc phát hành trái phiếu kho bạc hay công trái chính phủ diễn ra khá thường xuyên bổ sung thêm bộ phận lớn nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế. Trên cơ sở nguồn vốn huy động khá dồi dào, tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế cũng gia tăng mạnh mẽ, đồng thời chuyển từ cho vay chủ yếu đối với các xí nghiệp quốc doanh sang cho vay với mọi thành phần kinh tế. Cơ cấu tín dụng đổi mới theo hướng tăng cường đầu tư cho các ngành sản xuất, dịch vụ, chuyển từ cho vay ngắn hạn là chủ yếu sang đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn. Các Ngân thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh, các quỹ tín dụng nhân dân mở rộng cho vay hộ nông dân, cho vay tạo việc làm, cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay hỗ trợ xây dựng nhà ở đồng bằng sông Cửu long, cho vay phát triển kinh tế trang trại, cho vay đóng mới tàu thuyền đánh bắt xa bờ và các mục tiêu kinh tế xã hội khác. Việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi vào ngân hàng và cung ứng tín dụng ngày càng nhiều, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình tiền tệ hoá nền kinh tế. Bên cạnh cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua con đường tín dụng, hàng năm Ngân hàng trung ương còn phải bổ sung một phần tiền cung ứng khi chuyển đổi lượng ngoại tệ ròng kết dư nhằm phục vụ mục tiêu ổn định sức mua đối với đồng tiền VN. Mặt khác, hiện nay về cơ bản việc phát hành tiền bù đắp thâm hụt ngân sách của Ngân hàng nhà nước đã được chấm dứt, kết quả là tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán M2 hàng năm nhìn chung ổn định phù hợp với các động thái tăng trưởng và lạm phát. Việc điều hành chính sách tiên tệ luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tài chính, chính sách xuất nhập khẩu ) ngay từ giai đoạn hoạch định dến quá trình thực thi. Nhờ vậy đảm bảo hỗ trợ tốt thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kì và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực, gây trở ngại và hạn chế hiệu năng của chính sách tiền tệ. Hơn nữa bản thân chính sách tiền tệ chỉ phát huy tốt hiệu lực vốn có khi các bộ phận của nó được xử lý hết sức linh hoạt và đồng bộ. Nếu như trước đây Ngân hàng nhà nước phải dùng mệnh lệnh hành chính để tăng giảm lãi suất, tỉ giá, tăng giảm lượng cung tiền trên thị trường thì nay, với việc hoàn thiện từng bước các công cụ của chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương dựa vào tín hiệu thị trường để điều hành chính sách tiền tệ. Đây là bước tiến căn bản của Ngân hàng trung ương trong quản lý thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền -17-
  18. tệ theo cơ chế thị trường. Mặc dù việc điều hành chính sách tiền tệ đó chưa được hoàn hảo song chúng đã phát huy tác dụng đưa lại hiệu quả cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng và huy động vốn cho nền kinh tế ước tính đến hết tháng 12/2000 dư nợ cho vay tăng 21% và vốn huy động tăng 25% so với năm 1999. So sánh với 3 năm gần đây, năm 1999 dư nợ tín dụng tăng19,2%, vốn huy động tăng 34%; năm 1998dư nợ tăng16,4%, vốn huy động tăng 34%; năm 1997 dư nợ tăng 22%, còn vốn huy động tăng 25,7%. Như vậy trong năm 2000, tín dụng tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ trong khi nợ quá hạn được kiềm chế. Đến hết năm 2000, tỷ lệ nợ quá hạn của toàn bộ hệ thống ngân hàng giảm gần 2% so với 1999;11,7%so với tổng dư nợ. 1. Về lãi suất. Ngày 2/8/2000, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã ra quyết định số 241/2000/ QĐ-NHNN về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của các tài sản tín dụng đối với Ngân hàng, chấm dứt việc điều hành lãi suất theo cơ chế “trần lãi suất cho vay” sang điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản. Đây là một bước tiến quan trọng của quá trình tự do hoá lãi suất . Trong 6 tháng đầu năm 2001, Ngân hàng Trung ương tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đối với VNĐ, giảm lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn phù hợp với thực tiễn, giảm lãi suất cơ bản để mở rộng tín dụng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thực hiện tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Các Ngân hàng Thương mại được chủ động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh lãi suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Đối với VNĐ, lãi suất cơ bản đã ba lần giảm từ 0,75%/tháng xuống còn 0,65%/tháng nhưng vẫn giữ nguyên biên độ 0,3% tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% tháng đối với cho vay trung và dài hạn. Đối với ngoại tệ, năm tháng đầu năm tiếp tục điều hành lãi suất cho vay bằng Đôla dựa trên cơ sở lãi suất SIBOR (lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng Singapo) cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn; 2,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Từ 1/6/2001 Ngân hàng Nhà nước đã có quyết định bỏ cơ chế khống chế biên độ cho phép các tổ chức tín dụng dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn ngoại tệ trong nước mà thoả thuận với từng khách hàng mức lãi suất cho vay phù hợp. Riêng đối với lãi suất vay tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tại tổ -18-
  19. chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn khống chế ở mức thấp nhằm khống chế việc nắm iữ đô la trong tài khoản và hạn chế đô la hoá trong điều kiện hạn chế tỷ lệ kết hối giảm từ 50% xuống còn 40% như hiện nay. Cùng với việc điều hành theo lãi suất cơ bản, trong 6 tháng qua ngân hàng nhà nước đã liên tục hạ lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn (lãi suất tái cấp vốn giảm từ 0,5% xuống còn 0,4%/tháng; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 0,45% xuống còn 0,35%/tháng). Một thời gian dài các Ngân hàng Thương mại cổ phần gặp rất nhiều khó khăn trong công tác chiết khấu nhưng nay với cơ sở “nới lỏng” của Ngân hàng Nhà nước đã dễ dàng hơn trong việc vay vốn theo hình thức tái chiết khấu. Như vậy chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đã tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh giữa các Ngân hàng Thương mại có lợi cho người gửi tiền và người vay vốn, thúc đẩy chu chuyển vốn, hình thành lãi suất bình quân hợp lý trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Diễn biến lãi suất cơ bản của NHNNVN. (đơn vị: %/tháng-các thời điểm điều chỉnh). 0.8 0,7 0,75 0,725 0,70 0,6 0,65 0,60 0,5 0,4 0,3 0,2 0,1 0 1/8/2000 1/3/2001 1/4/2001 1/6/2001 1/10/2001 -19-
  20. Diễn biến lãi suất chủ đạo của SIBOR. 7,5 7,0 6,5 6,0 5,5 5,0 4,6 4,0 3,5 3,0 2,5 2/1/2001 1/3/2001 16/5/2000 3/1/2001 31/1/2001 20/3/2001 18/4/2001 15/5/2001 27/6/2001 21/8/2001 11/9/2001 2. Hạn mức tín dụng. Công cụ này được Ngân hàng nhà nước áp dụng từ năm 1994 và đã có tác động hiệu quả đến việc hạn chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán trong những năm 1995-1997 và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên từ cuối năm 1997 và đầu năm 1998, công cụ hạn mức tín dụng đã dần mất đi vai trò của nó trong việc hạn chế việc hạn chế gia tăng của tổng phương tiện thanh toán . Hơn nữa việc mở rộng tổng phương tiện thanh toán trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo ra khó khăn cho các Ngân hàng Thương mại trong việc mở rộng tín dụng . Do vậy từ quý II- 1998, ngân hàng nhà nước đã không áp dụng hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ. Mặc dù vậy mức tăng trưởng tín dụng vẫn tiếp tục được theo dõi để có những giải pháp kịp thời nhằm hạn chế sự gia tăng khi nó có xu hướng tăng cao. 3. Sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc. Kể từ khi ban hành pháp lệnh ngân hàng năm 1989, hệ thống ngân hàng được tách làm hai cấp thì công cụ dự trữ bắt buộc lần đầu tiên được sử dụng ở nước ta. Tại điều 45 pháp lệnh NHNN đã quyết định tỷ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là 10%, tối đa là 35% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Pháp -20-
  21. lệng dã quy định như trên nhưng trên thực tế trong thời gian dài tỷ lệ 10% được áp dụng một cách cố định mặc dù chính sách tín dụng đã có nhiều thay đổi. Đầu năm 1994, NHTW đã có quyết định bổ sung tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi không kì hạn là 13%, đối với loại tiền gửi có kì hạn là 7%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có xu hướng ngày càng giảm dần. Trong năm 2000, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp nhất từ trước đến nay, tỷ lệ này quy định là 5% trên tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng đối với các tổ chức tín dụng ở đô thị và 1% đối với các tổ chức tín dụng ở nông thôn. Do sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu vốn năm 2000, NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 5% đang thực hiện đến tháng 10/2000 lên 8% vào tháng 11 và chuyển tiếp tới 12% bắt đầu áp dụng từ 12/2000. Mục đích của việc tăng tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ nhằm ngăn chặn làn sóng công chúng dịch chuyển tiết kiệm bằng VND sang USD, đồng nghĩa tăng nguồn vốn VND đáp ứng nhu cầu vốn đang tăng của nền kinh tế. Cuộc diều chỉnh tỷ lệ DTBB của NHNN đã thúc ép các ngân hàng huy động tiết kiệm USD phải hạ xuống đặc biệt đối với kì hạn 6 hoặc 9 tháng bởi lãi suất phải trả sau khi trích DTBB của các kì hạn này lên tới 5,91% đến 6,25%/năm (tương đương với lãi suất trả cho khách hàng là 5,2 đến 5,5%/năm). Như vậy điều này đã có tác động rất lớn đối với việc điều hành tỷ giá trong thời gian qua, giúp cho lãi suất VND có xu thế có lợi hơn lãi suất USD, hạn chế phần nào tình trạng đô la hoá nền kinh tế. 4. Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn. Trong giai đoạn trước tháng 3/1997, lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn còn mang tính bị động và có sự phân biệt giữa các ngân hàng. Kể từ tháng 3/1997, cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được ngân hàng trung ương quan tâm trong việc điêù tiết cung ứng tiền. Hiện nay, lãi suất tái cấp vốn hạ từ 0,5%xuống 0,4%/tháng , lãi suất tái chiết khấu giảm từ 0,45% xuống 0,35%/tháng. Đây là một giải pháp nhằm tác động đến xu thế hình thành lãi suất tín dụng của thị trường. NHNN đã thay đổi cơ chế tái cấp vốn dưới hình thức cho vay có đảm bảo bằng cầm cố tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác thay cho việc thế chấp chứng từ, thế chấp hồ sơ tín dụng và cho vay chỉ định trước đây. Song trên thực tế mới chỉ có các NHTM quốc -21-
  22. doanh được vay, còn các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn đứng ngoài cuộc. 5. Ngiệp vụ thị trường mở. Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2000, tham gia vào thị trường này là NHNN, các NHTM và các tổ chức tín dụng khác. Đến nay, NHNNchỉ cấp giấy phép hoật động cho 14 thành viên, bình quân 10 ngày tổ chức một phiên giao dịch. Đến đầu tháng 12/2000, NHNNđã tổ chức được 13 phiên giao dịch với tổng khối lượng tín phiếu mua bán là 1428 tỷ đồng ( trong đó mua vào 878 tỷ, bán ra là 550 tỷ đồng ), lãi suất giao dịch từ 4,95% lên 5,58%. Các loại giấy tờ có giá được lưu thông trên thị trường mở là tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do thống đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thời kì (quy chế ngiệp vụ TTM, điều 8). Thị trường mở ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi. TTM cho phép NHTW có khả năng linh hoạt hơn trong việc xác định thời điểm và khối lượng giao dịch tiền tệ theo ý muốn, khắc phục những hạn chế của các công cụ kiểm soát tiền tệ trực tiếp. Bởi vì khi thị trường phát triển thì các công cụ kiểm soát trực tiếp có xu hướng kém hiệu quả hơn. Như vậy, NHNN bước đầu sử dụng khá hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ theo xu hướng thay thế và giảm dần tính trực tiếp, cứng nhắc và ít hiệu lực để chuyển sang phát huy tính gián tiếp, linh hoạt, thích hợp và đồng bộ của một số công cụ. Ngoài ra, NHNN còn sử dụng những công cụ mang tính giải pháp bổ trợ, tuỳ thuộc vào diễn biến của nền kinh tế mà phải áp dụng hoặc cần áp dụng như chính sách ngoại hối, đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước - Đấu thầu tín phiếu kho bạc Trong năm 2000, NHNN đã tổ chức 43 phiên đấu thầu là 6500 tỷ đồng , trong khi tổng số vốn đăng kí dự thầu là 12000 tỷ đồng, tổng khối lượng trúng thầu là 4800 tỷ đồng. Lãi suất trúng thầu đầu năm là 6%/ năm, đến giữa năm giảm xuống còn 4,9% và cuối năm tăng 5,3% lên 5,35%/năm. Song kết quả trúng thầu chỉ tập trung vào một số NHTM quốc doanh, riêng ngân hàng công thương Việt Nam chiếm tới 50%. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đã tác động trực tiếp vào vốn khả dụng của NHTM, đồng thời ngân sách nhà nước huy -22-
  23. động được khối lượng vốn khá lớn cho đầu tư phát triển với lãi suất thấp và tiết kiệm chi phí. - Tỷ giá hối đoái. Thông qua việc can thiệp và công bố tỷ giá giao dịch thường xuyên trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN đã diều chỉnh tỷ giá giữa VND và USD từ từ, đều đặn qua các phiên giao dịch, tránh tạo ra cú sốc đột ngột, điều hành tỷ giá theo sự nhạy cảm dựa trên các tín hiệu thị trường phù hợp với điều kiện quốc tế cũng như hoàn cảnh Việt nam. Hiện nay, biên độ của tỷ giá hối đoái chỉ có + 0,1 nên tỷ giá hối đoái thường giao động từ 10 đến 20 đồng /1 USD . Đến cuối năm 2000, tỷ giá trên cả ba thị trường đã tăng so với đầu năm như sau: - Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tăng 3,1% - Thị trường mua bán của các NHTM tăng 21,9% - Thị trường tự do tăng 3,96% Như vậy qua những phân tích trên chúng ta thấy chính sách tiền tệ đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những vướng mắc trong việc điều hành chính sách tiền tệ. III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VIỆC ĐIỀU HÀNH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. 1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. Để phù hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế của đất nước, đòi hỏi phải đổi mới việc xây dung chính sách tiền tệ. Trước hết việc xác định và lựa chọn mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ đã được thực hiện phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu của chính sách tiền tệ đã hướng vào kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Thực tế cho they sự ổn định của tiền tệ, ổn định của hệ thống tài chính là điều kiện hàng đầu cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam trước những năm 1990 đã nằm trong tình trạng lạm phát ra tăng với tốc độ phi mã. Đồng tiền Việt Nam mất giá trầm trọng, nền kinh tế suy thoái. Thêm vào đó, sự -23-
  24. đổ vỡ của hàng loạt quỹ tín dụng nhân dân đã làm giảm lòng tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng và giá trị của Đồng Việt Nam. Đó chính là lý do giải thích cho việc lựa chọn các mục tiêu trên của chính sách tiền tệ. Đồng thời, chính việc lựa chọn mục tiêu cho việc điều hành chính sách tiền tệ là bằng chứng cho sự hoà nhịp của hệ thống Ngân hàng với tiến trình đổi mới đất nước. 2. Điều hành chính sách tiền tệ. Nhằm thực hiện các mụa tiêu chính sách tiền tệ đã lựa chọn, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của NHTW là quản lý và điều hành khối lượng tiền cung ứng. Đối với Việt Nam, việc quản lý, vận hành cơ chế cung ứng tiền, điều hành, kiểm soát tiền tệ đã được đổi mới từng bước theo nội dung và nguyên tắc hoàn toàn khác so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong thời kỳ bao cấp, chỉ tiêu phát hành tiền do chính phủ quy định và thường xuyên được bù đắp cho thâm hụt chi tiêu của chính phủ. Do đó tổng mức cung tiền vượt quá tổng cầu trong nền kinh tế dẫn đến vòng xoáy lạm phát giá- lương- tiền. Việc không kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền qua kênh tín dụng; chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng thấp làm cho nhu cầu tiền lớn, gây khó khăn cho ngân hàng nhà nước trong việc điều hoà tiền mặt. Từ năm 1990 ngân hàng nhà nước đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Đồng thời ngân hàng nhà nước đã lựa chọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chủ động điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng được chính phủ phê duyệt hàng năm. Do vậy đã cung ứng đủ phương tiện thanh toán đảm bảo sản xuất lưu thông không bị ách tắc, kinh tế tăng trưởng, đẩy lùi được lạm phát phi mã. Đặc biệt từ năm 1993, ngân hàng nhà nước đã thực hiện quản lý, điều hành hiệu quả lượng tiền cung ứng, sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm soát lạm phát ở mức một con số. -24-
  25. 3. Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Từ năm 1991 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới ngân hàng, hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ cũng được hình thành và phát triển. Trong điều kiện thị trường tiền tệ và thị trường tài chính chưa phát triển. Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp kết hợp với các công cụ gián tiếp và từng bước đổi mới chuyển từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước. 3.1. Công cụ dự trữ bắt buộc. Công cụ dữ trữ bắt buộc được chính thức thực hiện từ năm 1992. Kể từ thời điểm đó cho đến nay, công cụ dự trữ bắt buộc đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện. Ban đầu, theo quy định của hệ thống ngân hàng nhà nước năm 1992 tiền dự trữ bắt buộc được duy trì tại một tài khoản riêng và tỷ lệ dữ trữ bắt buộc là 10% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Theo đó, vai trò của tỷ lệ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát cung ứng tiền nhưng lại hạn chế ngân hàng nhà nước trong việc dự báo nhu cầu tăng, giảm dự trữ của các NHTM và vốn của các NHTM không được sử dụng linh hoạt. Để khắc phục các hạn chế trên, năm 1995 các công cụ này đã được đổi mới như sau: tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% áp dụng cho các loại tiền gửi dưới 1 năm, và trong cơ cấu tiền dự trữ bắt buộc có 70% phải gửi tại ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số lượng tiền dự trữ bắt buộc phải gửi tại ngân hàng nhà nước( duy trì hàng ngày). Với những đổi mới này, ngân hàng nhà nước có thể dự báo nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng thông qua theo dõi mức dự trữ vượt. Tuy nhiên, việc khống chế theo ngày cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên cứng nhắc, các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt do đó hạn chế -25-
  26. khả năng sử dụng vốn của các tổ chức tín dụng. Từ năm 1999, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được áp dụng mở rộng thêm với các đối tượng: Ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0- 20% và đặc biệt số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình quân số dư tiền gửi tại ngân hàng nhà nước trong kỳ duy trì. Với cách tính dự trữ bắt buộc mới, các tổ chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn trước đây, đồng thời ngân hàng nhà nước có thể dự đoán được nhu cầu của các NHTM, tăng khả năng kiểm soát tiền tệ của ngân hàng nhà nước. Đặc biệt, trong năm 2000-2001, công cụ dự trữ bắt buộc tiếp tục được điều hành phù hợp với diễn biến tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối của ngân hàng nhà nước. Việc điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ, đồng thời giảm dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND đã có tác dụng lớn trong việc điều hành lãi suất và tỷ giá, góp phần thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi VND, do đó hạn chế dòng chuyển đổi từ VND sang USD. Để phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, đặc biệt là xu hướng giảm mạnh lãi suất trên thị trường quốc tế tháng 12 năm 2001, ngân hàng nhà nước đã quyết định điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ xuống còn 10% nhằm tăng khả năng huy động ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. 3.2. Công cụ tái cấp vốn. Để nâng cao hiệu quả sử dụng của công cụ này, ngân hàng nhà nước đã từng bước đổi mới theo hướng tỷ trọng tái cấp vốn theo hình thức thế chấp các chứng từ có giá tăng dần, còn tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định ngày càng giảm. Trên thực tế, bên cạnh hai hình thức tái cấp vốn trên, ngân hàng nhà nước đã thực hiện cho vay thanh toán bù trừ, một hình thức tái cấp vốn ngắn hạn để bù đắp thiếu hụt thanh toán tạm thời của các NHTM từ năm 1991. Với hình thức cho vay thế chấp chứng từ, chứng từ thế chấp cũng được mở rộng. Từ ban đầu, chứng từ thế chấp chỉ bao gồm tín phiếu kho bạc chưa đến hạn thanh toán, -26-
  27. khế ước cho vay ngắn hạn( theo quyết định 285/ QĐ-NH14 ngày 10/11/1994 của thống đốc ngân hàng nhà nước). Đến năm 1997, ngân hàng nhà nước bổ sung thêm hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại ngân hàng nhà nước. Hiện nay, theo quy định của luật ngân hàng nhà nước, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng gồm: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, triết khấu, tái triết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn. Đặc biệt, việc quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được đổi mới: từ năm 1994 đến đầu năm 1997, lãi suất tái cấp vốn được quy định theo tỷ lệ % trên lãi suất cho vay áp dụng đối với dự án cho vay của tổ chức tín dụng( bằng từ 60%-100% lãi suất cho vay ghi trên khế ước). Nhưng từ cuối tháng 5 năm 1997 đến nay, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến cung cầu vốn trên thị trường. Hiện nay, để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ NHNN nhằm thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ. Thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái triết khấu xuống mức 0,4%/ tháng và 0.35%/ tháng tương ứng. 3.3. Nghiệp vụ thị trường mở. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành chính sách tiền tệ, sau một quá trình chuẩn bị, ngày 12 tháng 7 năm 2000. NHNN đã chính thức khai trương nghiệp vụ thị trường mở. Đây là một bước tiến mới trong điều hành chính sách tiền tệ theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp để phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước. Hiện nay, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở đã tăng cường sử dụng với việc tăng định kỳ giao dịch lên 2 phiên/ tuần thay cho 1 phiên/ 10 ngày thực hiện vào năm 2000. Tuy nhiên trong số gần 50 phiên giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở trong cả năm 2001, thì trên 40 phiên NHNN chào mua với doanh số hơn 3000 tỷ đồng để kịp thời bơm thêm vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, bên cạnh việc đưa nghiệp vụ SWAP vào hoạt động, việc NHNN liên tục thực hiện -27-
  28. chào mua giấy tờ có giá với khối lượng lớn đã giúp các tổ chức tín dụng khắc phục được khó khăn về nguồn vốn VND. Mặc dù doanh số giao dịch qua các phiên giao dịch chưa lớn, số lượng thành viên tham gia và lượng hàng hoá có thể sử dụng trên thị trường còn hạn hẹp, nhưng kết quả các phiên giao dịch cho thấy việc sử dụng các công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã có những dấu hiệu tích cực, góp phần tác động đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3.4. Lãi suất. Năm 1992, NHNN đã thực hiện bước chuyển đổi quan trọng chuyển từ chính sách lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương tạo đòn bẩy cho các NHTM chuyển từ hoạt động kinh doanh thua lỗ sang có lãi. Năm 1996, NHNN thực hiện tự do hoá lãi suất tiền gửi và quy định trần lãi suất cho vay nhằm hoàn thiện công cụ lãi suất dần tiến tới mục tiêu tự do hoá lãi suất. Tháng 8 năm 2000, NHNN đã thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành lãi suất. Thay thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Với cơ chế điều hành lãi suất này được coi là phù hợp với mức độ phát triển của thị trường tiền tệ và khả năng kiểm soát của NHNN. Năm 2001, để khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng, thực hiện chủ trương kích cầu của chính phủ, NHNN đã bốn lần điều chỉnh lãi suất cơ bản từ mức 0,75%/ tháng xuống 0,6%/ tháng. Tháng 6 năm 2002 Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định 546/QĐ- NHNN về việc thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng VND. Theo tinh thần quyết định này, tất cả các ngân hàng được toàn quyền quyết định lãi suất cho vay của ngân hàng mình. NHNN vẫn công bố lãi suất cơ bản để các NHTM tham khảo. -28-
  29. 3.5. Về tỷ giá. Trong hơn 10 năm qua, NHNN đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ cơ chế điều hành tỷ giá. Từ năm 1994, cùng với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN đã bắt đầu thực hiện điều hành tỷ giá theo cơ chế mới thay cho chế độ đa tỷ giá trước đây. Theo đó, NHNN bắt đầu công bố tỷ giá chính thức giữa đồng ngoại tệ và đồng Việt Nam, tỷ giá mua bán trên thị trường được phép dao động trong biên độ dao động cho phép. Trên thực tế, trong các năm 1997- 1998, việc NHNN chủ động điều chỉnh biên độ giao dịch và tiếp theo việc NHNN ấn định tỷ giá chính thức trên cơ sở tỷ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng khiến cho cho tỷ giá phù hợp hơn với tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Do đó đã góp phần hạn chế ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam, góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô với tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1998 ở mức 6%, lạm phát được kiềm chế ở mức 9,2%. Năm 1999, NHNN thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá theo các nguyên tắc thị trường bằng việc hàng ngày công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch giữa VND và USD không vượt quá 0,1% so với tỷ giá do NHNN công bố. Năm 2001, tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt, bám sát biến động của lãi suất USD trên thị trường quốc tế và cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. Ngày 8/ 9/ 2001, NHNN đã quyết định mở rộng kỳ hạn thực hiện các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi của tổ chức tín dụng, và điều chỉnh mức gia tăng tỷ giá hoán đổi, kỳ hạn với trần tỷ giá giao ngay. Điều này đã giúp cho các tổ chức tín dụng có điều kiện thực hiện linh hoạt các giao dịch ngoại hối, các tổ chức tín dụng được chủ động hơn trong kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo vai trò kiểm soát của NHNN. Trong bối cảnh diễn biến thị trường quốc tế có nhiều biến động, việc điều hành tỷ giá linh hoạt và can thiệp kịp thời của NHNN trên thị trường ngoại tệ -29-
  30. liên ngân hàng đã góp phần ổn địng tỷ giá, có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. 3.6. Công cụ hạn mức tín dụng. Được NHNN áp dụng từ năm 1994, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế là lạm phát có xu hướng tăng cao, tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh. Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, NHNN chưa thể sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để hạn chế số nhân tiền tệ, qua đó kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán. Trên thực tế, việc áp dụng công cụ hạn mức tín dụng trong các năm từ 1994- 1997 đã góp phần kiểm soát mức độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán, góp phần kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, hạn mức tín dụng chỉ được phân bổ đối với một số các NHTM nên phần nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Nhất là trong các năm từ 1998 đến nay, trong điều kiện nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam rất lớn, lạm phát có xu hướng giảm thấp, việc áp dụng công cụ này phần nào ảnh hưởng đến việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Do đó, từ quý II năm 1998, NHNN đã quyết định không sử dụng công cụ hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ mà chỉ dùng đến hạn mức tín dụng khi cần phải hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh chóng có nguy cơ lạm phát cao. Đánh giá chung: Nhìn lại thực tế hơn 10 năm qua có thể thấy rằng việc kiểm soát tiền tệ của NHNN đã từng bước đổi mới với những bước đi thận trọng, phù hợp với điều kiện thị trường nước ta. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ vẫn còn một số hạn chế nhất định: -Tái cấp vốn thực hiện chủ yếu với các NHTM quốc doanh theo hình thức chỉ định, việc tiếp cận của các NHTM khác với kênh tái cấp vốn từ NHNN còn hạn chế vì các đơn vị này thường không đủ điều kiện tham gia tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phát huy hiệu quả điều tiết thị trường, kích thích -30-
  31. tăng hoặc giảm nhu cầu tiền tệ. -Dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng đối với tiền gửi dưới 12 tháng khiến cho khả năng kiểm soát M2 của NHNN còn hạn chế, việc quy định trả lãi cho tiền gửi dự trữ vượt không thực sự khuyến khích các NHTM sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Số lượng rất ít tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở cùng với nguồn hàng hoá trên thị trường hạn hẹp làm cho tác động của nghiệp vụ thị trường mở đến các điều kiện thị trường còn hạn chế -31-
  32. Chương 3. Các giải pháp nâng vai trò của NHTW trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt nam hiện nay. I. Những quan điểm định hướng hoàn thiện. Ngay từ đầu năm 1999, từ Chính phủ cho đến các cấp bộ ngành được hướng vào tạo lập điều kiện cơ bản để thực hiện nhanh chóng việc cụ thể hoá chính sách tài chính- tiền tệ tích cực (theo nguyên tắc nới lỏng, linh hoạt, đồng bộ và hiệu lực). Những cơ chế, quy chế, thể lệ hợp thức hơn, mang đầy đủ hiệu lực pháp lý hơn được áp dụng. Từng bước chuyển nhanh, chuyển mạnh điều hành chính sách tài chính - tiền tệ bằng những biện pháp hành chính, mệnh lệnh còn khá phổ biến sang sử dụng có hiệu quả những biện pháp kinh tế, những công cụ chính sách thị trường là chủ yếu. Đề cao hiệu quả kinh tế, an toàn và chủ động phòng ngừa rủi ro, phát triển mạnh mẽ thị trường tiền tệ và tăng cường “độ sâu tài chính” của hệ thống tiền tệ quốc gia. Đi đôi với những biện pháp như vậy là mở rộng phân công, phân cấp, phân quyền của các tổ chức thanh tra, giám sát tài chính, chú trọng kiểm soát tài chính-ngân hàng, đảm bảo sự minh bạch trong chế độ thông tin, báo cáo tài chính, kế toán Để tiếp tục ổn định tiền tệ trong điều kiện lạm phát thấp, trước hết có sự tập trung cải thiện cơ bản NSNN, giảm thiểu mức thâm hụt, tiết kiệm triệt để tiêu dùng phi sản xuất để tăng tỷ phần tích luỹ, dành vốn đầu tư phát triển kinh tế ở tất cả các khu vực nhà nước, doanh nghiệp và dân cư. Triển khai việc cải cách thuế, áp dụng hai loại thuế mới (thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp) có hiệu lực từ ngày 1/1/1999 nhằm tạo sự bình đẳng về thuế giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với các doanh nghiệp trong nước và giữa các thành phần kinh tế với nhau, hỗ trợ thực hiện chính sách “kích cầu” và khuyến khích đầu tư của Nhà nước đồng thời bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. Khẩn trương chấn chỉnh hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng và đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng. Thí điểm đưa vào hoạt động thị trường vốn (thị trường chứng khoán) trên cơ sở khuôn khổ pháp lý ban đầu (Nghị định Chính phủ) vào cuối năm 1999. Chủ động hoàn thiện tỷ giá hối đoái và lãi suất ngân hàng theo hướng từng bước thả nổi có điều tiết và tự do hoá có chọn lọc (trên cơ -32-
  33. sở tách bạch giữa tín dụng kinh doanh và tín dụng chính sách). Có phương án bảo toàn giá trị tiền gửi gắn liền với kiện toàn hệ thống thanh toán qua ngân hàng. Hoàn thành dứt điểm xử lý nợ nần dây dưa khu vực tài chính công, giải toả tài sản thế chấp vay ngân hàng đóng băng, đẩy mạnh cơ cấu vốn, tài sản ngân hàng. Hạn chế hệ thống ưu đãi lãi suất trước đầu tư, chuyển sang phương thức tín dụng ngân hàng và chính sách ưu đãi sau đầu tư đối với một số lĩnh vực cần ưu tiên trên diện rộng. Nhà nước sẽ hỗ trợ vốn ban đầu thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng và các hình thức bảo đảm đầu tư khác để tạo thuận lợi cho mọi doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ nông dân dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn vay và sử dụng vốn một cách an toàn, và hiệu quả, Thường thì các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ hiếm khi được giải quyết triệt để, đặc biệt đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt nam. Sự đan xen phức tạp của chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn hơn trước có thể đưa đến những thay đổi về ngắn hạn, kèm theo những thoả hiệp, nhân nhượng tình thế trong điều hành chính sách. Tuy nhiên về trung, dài hạn, mục tiêu cuối cùng và mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ vẫn phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Đặc biệt là việc hoàn thiện chính sách tiền tệ sẽ lệ thuộc vào khả năng tiếp cận và vận dụng vào hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của NHNN, gắn liền với quá trình đẩy mạnh, đổi mới, hiện đại hoá công ngân hàng hiện nay. Để thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả theo những định hướng đã nêu trên, trong thời gian tới căn cứ vào diễn biến của thị trường tiền tệ thế giới và tình hình kinh tế đất nước, việc điều hành qua công cụ chính sách tiền tệ cần được hoàn thiện và linh hoạt hơn, II. GIẢI PHÁP SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ, CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT. 1. Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Nếu như trước đây, ngân hàng nhà nước phải dùng” mệnh lệnh hành chính” để tăng- giảm lãi suất, tỷ suất, tăng giảm lượng cung tiền trên thị trường Thì nay với việc hoàn thiện một bước các công cụ của chính sách tiền tệ, ngân hàng nhà nước dựa vào tín hiệu thị trường điều hành chính sách tiền tệ. Đây là bước tiến căn bản cuẩ ngân hàng nhà nước trong quản lý thông qua các -33-
  34. công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, qua việc điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản đối với VNĐ và thả nổi lãi lãi suất ngoại tệ, điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều hành chính sách tỷ giá . Dù chưa hoàn hảo cũng cho they các công cụ chính sách tiền tệ đã phát huy tác dụng, đưa lại hiệu quả cho nền kinh tế. Căn cứ vào diễn biến của thị trường tiền tệ thế giới và tình hình kinh tế đất nước, việc điều hành qua công cụ chính sách tiền tệ cần được hoàn thiện và linh hoạt hơn, nhất là về lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc .đảm bảo thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia. 1.1. Cần theo dõi, bám sát diễn biến thị trường để có sự điều chỉnh lãi suất cơ bản và biên độ phù hợp làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò là tín hiệu để điều tiết lãi suất thị trường, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bỏ biên độ của lãi suất cơ bản, tiến tới tự do hoá lãi suất VND. Thực hiện điều chỉnh lãi suất tái triết khấu và tái cấp vốn phù hợp với diễn biến thị trường theo hướng nới lỏng thận trọng chính sách tiền tệ, đồng thời hoàn thiện cơ chế tái cấp vốn. 1.2. Cần sử dụng một cách linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo tín hiệu thị trường nhằm tác động đến việc gia tăng tổng phương tiện thanh toán và kích thích tăng trưởng tín dụng tác động đến diễn biến lãi suất thị trường theo định hướng điều hành chính sách tiền tệ. Thời gian tới, ngân hàng nhà nước cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng ngoại tệ để tăng nguồn huy động ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại, nhằm giảm bớt tình trạng găm giữ ngoại tệ trong dân chúng và các tổ chức kinh tế. 1.3. Cần hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở bằng việc rà soát lại quy chế về nghiệp vụ thị trường mở nhằm mở rộng thời hạn còn lại của các chứng từ có giá, tạo điều kiện để cung ứng vốn cho các tổ chức tín dụng với thời hạn dài hơn, qua đó giúp các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay nền kinh tế, tiếp tục chào mua các giấy tờ có giá ngắn hạn để bơm thêm tiền trung ương vào nền kinh tế qua cacs tổ chức tín dụng, tăng cường hình thức mua đứt các chứng từ có giá. -34-
  35. Ngân hàng nhà nước cũng cần thay đổi quy chế để mở rộng đối tượng nhằm tăng số lượng thành viên tham gia, đa dạng hoá hàng hoá được mua- bán trên thị trường để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động sôi động hơn. 1.4. Theo dõi các diễn biến trên thị trường tiền tệ để có biện pháp xử lý kịp thời phù hợp với các biến động trên thị trường ngoại hối nhằm hình thành tỷ giá hợp lý, khuyến khích xuất khẩu, tăng giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ cho nhà nước. Điều chỉnh để tỷ giá ngoại tệ sát với thị trường, ổn định tỷ giá ở mức phù hợp với thị trường, có sự giao động tăng- giảm tỷ giá để xoá đi tình trạng găm dữ ngoại tệ đang diễn ra như hiện nay. 2. Nghiệp vụ thị trường mở. 2.1. Mở rộng thêm nhiều loại hàng hoá. Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng hoá( như các loại trái phiếu, các chứng khoán do tổ chức tín dụng nhà nước phát hành ) có thể sử dụng trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở. Tuy không phải là nhiều, nhưng các loại trái phiếu hiện có có thể giao dịch ở thị trường mở không phải là ít. Riêng tín phiếu kho bạc( thời hạn dưới 1 năm) và trái phiếu kho bạc( thời hạn 1 năm) từ tháng 5/ 1995 đến tháng 9/ 2000 được đấu thầu qua ngân hàng nhà nước với 39 đợt đấu thầu là 18.282,8 tỷ đồng trong đó 11.126,7 tỷ đồng là trái phiếu kho bạc, 4.156,7 tỷ đồng là tín phiếu. Nếu được phép giao dịch thì loại trái phiếu kho bạc này sẽ là một loại hàng hoá tốt cho thị trường mở. Ngoài ra các loại trái phiếu ngân hàng, trái phiếu công ty đã phát hành nên được chấp nhận ở thị trường mở. Rõ ràng sự khan hiếm về hàng hoá của thị trường mở đã làm cho thị trường này không thể hiện đúng bản chất vốn có của nó. Tuy nhiên nếu như nghiệp vụ thị trường mở được phép sử dụng các trái phiếu kho bạc đã phát hành khi chúng còn thời gian đáo ngắn hạn thì luôn chuyển vốn sẽ đa dạng hơn. 2.2. Phương thức giao dịch. -35-
  36. Cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường cần được rà soát lại để kịp thời điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện để thu hút thành viên tham gia thị trường mở. Phương thức giao dịch phù hợp nhất với nghiệp vụ thị trường mở là mua bán có kỳ hạn mà NHTW là người chủ động quyết định mua bán với số lượng bao nhiêu, thời gian bao lâu, theo phương thức nào tuỳ theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong tong thời kỳ. Theo quy chế nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể thực hiện đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Việc đấu thầu khối lượng xảy ra khi lãi suất cố định được tính toán và chỉ đạo, còn đấu thầu lãi suất sẽ xác định lãi suất sẽ trúng thầu tại thời điểm mà khối lượng cần bơm vào hay hút ra khỏi lưu thông đạt được. Chính các mức lãi suất này sẽ quyết định giá của giấy tờ có giá trị trên thị trường mở. Để khuyến khích các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng nhà nước cần kết hợp hai hình thức đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. 2.3. Ổn định thị trường liên ngân hàng. Thị trường mở và nghiệp vụ thị trường mở chỉ thực sự hữu hiệu trên cơ sở thị trường liên ngân hàng phát triển. Trong lịch sử, thị trường liên ngân hàng hoạt động trước khi thị trường mở hoạt động. Thị trường liên ngân hàng chính là nơi xác định nhu cầu và khả năng vốn khả dụng của các NHTM, nơi mà NHTW nắm bắt được một cách nhanh nhạy nhu cầu vốn của nền kinh tế qua hoạt động của NHTM để quyết định sử dụng công cụ chính sách tiền tệ thích hợp. ở Việt Nam, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có vai trò khá lớn trong luân chuyển vốn ngoại tệ, xác định và điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Song hiện nay, thị trường nội tệ liên ngân hàng gần như đóng băng, điều này đã làm giảm đáng kể khả năng quản lý của ngân hàng nhà nước, cũng như sự phối hợp giữa các thị trường chứng khoán- thị trường mở, thị trường tiền tệ. Vì vậy, việc hoàn thiện thị trường liên ngân hàng cần phải được xem là cơ sở cho các hoạt động khác của ngân hàng nhà nước trong bối cảnh các thị trường tài chính đã thiết lập và đi vào -36-
  37. hoạt động, hệ thống ngân hàng sẽ có sự cải cách mạnh mẽ, xu thế hội nhập quốc tế sẽ trở thành hiện thực ở Việt Nam. Hoàn thiện hệ thống liên ngân hàng nên là một mối quan tâm đặc biệt của ngân hàng nhà nước trong thời gian tới. 2.4. Tạo ra được một sân chơi bình đẳng. Để cho các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh tham ra nghiệp vụ thị trường mở một cách thực sự thì ngân hàng nhà nước phải tạo cho họ một sân chơi bình đẳng, tức là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Ngoài ra cần phải tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng cho các tổ chức tín dụng về nghiệp vụ này. Các NHTM quốc doanh được vay theo chỉ định, nên có nhiều lợi thế trong giao dịch trên thị trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có lãi suất lợi hơn. Các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng ít được ưu thế này. Điều này không kích thích cầu tín dụng, tạo ra phân biệt đáng kể trên thị trường. 3. Chính sách lãi suất. Trước xu hướng hội nhập quốc tế, việc điều hành lãi suất, tỷ giá cần được thực hiện linh hoạt theo hướng tiến tới mục tiêu tự do hoá. Việc điều hành lãi suất cần tiếp tục gắn liền với điều hành tỷ giá. Riêng đối với tỷ giá, thay cho việc gắn đồng tiền Việt Nam với đồng USD, tỷ giá chính thức nên gắn với rổ tiền tệ( gồm USD và một số đồng tiền của các bạn hàng lớn như Nhật, NIE, khối EU và các nước trong khu vực). Hơn nữa, ngân hàng nhà nước cần có các biện pháp tiếp tục phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tỷ giá thực sự do các lực lượng thị trường quyết định. II. GIẢI PHÁP SỬ DỤNG KẾT HỢP CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI CÁC CHÍNH SÁCH VĨ MÔ KHÁC. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách vĩ mô, chính sách tiền tệ là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế- tài chính vĩ mô của nhà nước. Chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà NHTW thông qua các hoạt động của -37-
  38. mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định Bên cạnh chính sách tiền tệ, chính phủ cũng có thể sử dụng nhiều chính sách khác như: chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại nhằm đạt các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Để chống lạm phát cao, chính phủ có thể cắt giảm chi tiêu ngân sách và tăng thuế; khi thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh chóng với lượng công ăn việc làm cao, chính phủ có thể tăng chi tiêu ngân sách nhà nước và giảm thuế. Chính sách thu nhập bao gồm những hướng dẫn của chính phủ và những biện pháp kiểm soát trực tiếp về tiền lương, giá cả. Chính sách kinh tế đối ngoại chủ yếu nhằm điều chỉnh xuất khẩu ròng cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế. Trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô, quan trọng nhất là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ tác động vào nền kinh tế thông qua việc tác động vào thái độ, dự tính của các nhà đầu tư, người tiêu dùng trên cơ sở việc điều chỉnh mức cung tiền tệ mà chủ yếu là thông qua kênh tín dungj. Trong trường hợp kinh tế phát triển tốt việc giảm bớt khả năng tài chính bằng chính sách tiền tệ sẽ có tác động mạnh đến hoạt động đầu tư, tiêu dùng( nhất là trong điều kiện vốn thay thế bị hạn chế). Chính vì vậy chính sách tiền tệ đặc biệt có hiệu quả cao khi cần chống lạm phát cao, hạn chế sự phát triển quá nóng của nền kinh tế. Nhưng trong điều kiện kinh tế trì trệ nhu cầu đầu tư tư nhân và tiêu dùng giảm mạnh, nền kinh tế khó hấp thụ được khả năng tài chính được tạo ra do mở rộng tiền tệ. Chính sách tiền tệ có hiệu quả thấp trong việc kích thích chỉ tiêu đầu tư và tiêu dùng. Chính sách tài chính mở rộng có tác dụng mạnh hơn trong trường hợp thiểu phát khi thực hiện tăng chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Mặt khác tự bản thân chính sách tài chính đã có sẵn các nhân tố tự ổn định như các chương trình trợ cấp xã hội, hệ thống thuế thu nhập luỹ tiến( tự động điều tiết thu nhập khả dung: hạn chế bớt khi kinh tế tăng trưởng cao và tăng lên khi kinh tế trì trệ). -38-
  39. Tuy nhiên, chính sách tài chính mở rộng trong nhiều trường hợp tỏ ra không có hiệu quả. Việc tăng chi tiêu của chính phủ tập chung chủ yếu vào hai lĩnh vực cơ bản là chi tiêu dùng và chi đầu tư phát triển. Trong khi chi cho tiêu dùng của chính phủ không có tác dụng nhiều đối với sự gia tăng của sản lượng tiềm năng thì chi cho các dự án đầu tư thường bị chậm trễ. Do việc thực hiện các dự án đầu tư phải mất thời gian tương đối dài cho các công việc có liên quan như xây dung dự án, chuẩn bị mặt bằng, thi công nên khi kinh tế suy thoái chi tiêu cho các công trình này tăng chậm, đến khi các công trình xây dựng xong có thể kinh tế đã vượt qua suy thoái. Sự chi tiêu như vậy có thể làm cho chính sách tài chính trở thành một nhân tố làm trầm trọng thêm chứ không phải là một nhân tố ổn định chu kỳ kinh tế. Mặc dù giảm thuế là một biện pháp để kích thích chi tiêu, chống thiểu phát, nhưng trên thực tế những quyết định giảm thuế của chính phủ thường được đưa ra sau thời gian dài thảo luận và phê duyệt nên ít có tác dụng ngăn chặn tình trạng thiểu phát. Ngược lại so với chính sách tài chính, những công cụ mà chính sách tiền tệ sử dụng như lãi suất .có liên quan đối với mọi chủ thể trong xã hội nên có tác động mạnh mẽ hơn đối với tổng cầu. Việc điều hành chính sách tiền tệ cũng ít bị chậm trễ hơn do không bị ràng buộc nhiều bởi khía cạnh hành chính và chính trị như chính sách tài chính, những quyết định đưa ra trong thực thi chính sách tiền tệ dựa trên cơ sở thống kê đầy đủ và thường xuyên đã nâng cao tính linh hoạt và hiệu quả của chính sách tiền tệ. Nhằm phát huy của chính sách tiền tệ, đặc biệt trong trường hợp thiểu phát, NHTW phải có những dự báo tương đối chính xác về chu kỳ kinh doanh để chủ động chuyển hướng chính sách tiền tệ cho phù hợp. NHTW cũng phải có khả năng sử dụng những công cụ gián tiếp để điều tiết mức cung tiền tệ một cách linh hoạt, phát huy cơ chế tự điều chỉnh của các lực lượng thị trường và năng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung. Mặt khác, hệ thống ngân hàng cũng cần được kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo sự hoạt động, lành mạnh và có -39-
  40. hiệu quả, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện cho khả năng tài chính được mở ra có thể được hấp thụ tốt khi kinh tế trì trệ. Sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và các chính sách khác cũng là điều kiện để phát huy vai trò to lớn của chính sách tiền tệ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. III. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC. 1. Củng cố, đổi mới ngân hàng nhà nước Việt Nam. 1.1. Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Việc hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian tới không thể tách rời quá trình hoàn thiện hệ thống ngân hàng nói chung và bộ máy tổ chức điều hành của NHNN nói riêng. Bởi lẽ, hệ thống ngân hàng- trước hết là bộ máy tổ chức NHTW tương đối độc lập, lành mạnh và vững chắc. Thực thi chính sách tiền tệ thận trọng, điều hành linh hoạt lãi suất và tỷ giá, sử dụng tích cực hơn các công cụ gián tiếp, theo cơ chế thị trường thay thế dần các biện pháp hành chính trực tiếp, để vừa giữ vững ổn định vĩ mô, vừa tao lập môi trường thuận lợi và thông thoáng cho sản xuất kinh doanh, cho hoạt động tín dụng- ngân hàng. Hoàn thiện hệ thống thị trường tiền tệ thứ cấp, chú trọng thị trường liên ngân hàng về nội tệ và ngoại tệ. Phát triển các công cụ tài chính của thị trường này, đặc biệt là các công cụ, các giao dịch phòng tránh rủi ro về tỷ giá hối đoái. 1.2. Cải tiến công tác thanh tra của ngân hàng nhà nước cả về nội dung và mô hình tổ chức. Giám sát các tổ chức tín dụng yếu kém. Có phương án và bước đi cụ thể để củng cố, phục hồi, sáp nhập, hoặc giải thể những tổ chức này, xử lý nghiêm minh những tổ chức và cá nhân hoạt động bất minh, trái pháp luật, làm cho hệ thống ngân hàng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Đảm bảo từng bước thực hiện được nhiệm vụ hạn chế kiểm soát rủi ro của cả hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính. Hướng cơ cấu lại và cải tiến cơ -40-
  41. bản công tác thanh là tuân thủ các nguyên tắc quốc tế và thanh tra ngân hàng, đảm bảo ổn định hệ thống tài chính trong nước và quốc tế. Tạo lập các thiết chế cần thiết để đảm bảo an toàn cho hệ thống như hoàn thiện đồng bộ hơn khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng, trích lập và dự phòng rủi ro, đưa vào hoạt động tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ cũng như giám sát từ xa đảm bảo an toàn hệ thống không thể xảy ra sự cố ngoài tầm kiểm soát. Xử lý nợ tồn đọng, tăng năng lực tài chính, nâng cao trình độ quản trị điều hành. Tách bạch chức năng cho vay chính sách với vay thương mại, tôn trọng và đề cao quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng. 1.3. Hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng nhà nước. Nhanh chóng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tiếp tục cải cách hệ thống thanh toán, phát triển tin học, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, tiếp nhận nhanh với công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đây là nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể là nâng cao vị thế tương đối độc lập của NHTW trong việc thực thi các chính sách tiền tệ ; tạo điều kiện thực hiện các công cụ mới của chính sách tiền tệ như triết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, hoàn thiện thị trương liên ngân hàng cả nội tệ và ngoại tệ; nâng cao chất lượng và hiệu lực của công tác thanh tra, giám sát theo chuẩn mực quốc tế; thực hiện có hiệu quả với chi phí thấp các hoạt động kho quỹ, thanh toán, cung ứng, và thu hồi tiền mặt. Quá trình xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống NHNN cần đi đôi với cải cách hành chính, tinh giản biên chế, sắp xếp lại bộ máy, trong đó có việc sắp xếp lại một số doanh nghiệp nhà nước trực thuộc NHNN. 2. Củng cố, lành mạnh hoá hệ thống các tổ chức tín dụng, tiền tệ. Việc củng cố, chấn chỉnh và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng nhằm lành mạnh hoá cả hệ thống tài chính ngân hàng, phục vụ chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá: nâng cao khả năng cạnh tranh cả về năng lực tài chính, trình -41-
  42. độ công nghệ và năng lực quản lý, tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng Việc cơ cấu lại và phát triển các NHTM tại Việt Nam và các tổ chức tài chính khác là một trong những chương trình trọng tâm của chiến lược cải cách cơ cấu kinh tế ở nước ta từ nay đến năm 2010. Chương trình này đang được triển khai từng bước và sẽ hoàn thành về cơ bản trước năm 2005 để chuẩn bị cho hệ thống NHTM hội nhập thị trường tài chính khu vực vào năm 2006. Về cung ứng tiền: NHNN nghiên cứu hoàn thiện cơ chế cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế kịp thời và phù hợp với diễn biến thực tế. Thực hiện điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất triết khấu phù hợp với diễn biến thị trường theo hướng nới lỏng thận trọng chính sách tiền tệ, đồng thời hoàn thiện cơ chế tái cấp vốn. Về dự trữ bắt buộc: sử dụng một cách linh hoạt theo tín hiệu thị trường ngằm tác động tới việc gia tăng tổng phương tiện thanh toán và kích thích tăng trưởng tín dụng tác động tới diễn biến lãi suất thị trường theo định hướng điều hành chính sách tiền tệ. Thực hiện nghiệp vụ SWAP giữa các tổ chức tín dụng với NHNN để hỗ trợ thêm phương tiện thanh toán bằng VNĐ giúp các tổ chức tín dụng tăng khả năng thanh toán. Nghiệp vụ thị trường mở: Rà soát lại quy chế về nghiệp vụ thị trường mở nhằm mở rộng thời hạn còn lại của các chứng từ có giá tạo điều kiện để cung ứng vốn cho các tổ chức tín dụng với thời gian dài hơn, qua đó giúp cho các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay nền kinh tế. NHNN vẫn tiếp tục chào mua các giấy tờ có giá ngắn hạn để bơm thêm tiền trung ương vào nền kinh tế qua các tổ chức tín dụng, tăng cường hình thức mua đứt các chứng từ có giá trong giai đoạn này. Về tỷ giá: Theo dõi sát các diễn biến trên thị trường tiền tệ để có biện pháp sử lý kịp thời phù hợp với bén động trên thị trường ngoại hối nhằm hình thành tỷ -42-
  43. giá hợp lý, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và các dòng vốn, tăng giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ cho nhà nước, củng cố giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam. Về lãi suất: theo dõi, bám sát diễn biến thị trường để có sự điều chỉnh lãi suất cơ bản và biên độ phù hợp làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò là tín dụng để điều tiết lãi suất thị trường. Nghiên cứu để có giải pháp về sử lý mức vốn và thời hạn cho vay, trong đó có thể nâng tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn, nâng vốn điều lệ để tăng khả năng huy động và tăng cường huy động vốn trung và dài hạn. Các tổ chức tín dụng phải tích cực tìm các giải pháp mở rộng hình thức huy động vốn từ nền kinh tế quốc dân để tăng nguồn vốn mở rộng tín dụng, đồng thời chủ động tìm kiếm dự án có hiệu quả, hướng dẫn giải thích xây dựng đề án để vay vốn đầu tư cho khách hàng. IV. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ. 1. Đối với chính sách tỷ giá hối đoái. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo hướng giảm giá trị Đồng Việt Nam so với Đô la Mỹ để lập lại thế cân bằng so với các đồng tiền khác trong khu vực bằng cách nới lỏng biên độ giao động của tỷ giá về thực chất được sử dụng chủ yếu với mục đích giảm thiểu sự giao động quá mức của tỷ giá, chúng thường được nới lỏng khi liên tục bị sức ép của thị trường và thường không được nới lỏng hay xoá bỏ khi sức ép này không tồn tại. Tuy nhiên, đó chính lại là sai lầm trong chính sách tỷ giá hối đoái mà nhiều nước đang phát triển đã từng gặp phải. Một khi tỷ giá hối đoái đã bị sức ép do việc duy trì nó cố định quá lâu thì việc nới lỏng biên độ sẽ khiến cho tâm lý phá giá đồng tiền được củng cố với hậu quả là NHTW sẽ buộc phải xoá bỏ biên độ giao động và phá giá bị động đồng tiền với những tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Inđônêxia 1997- 1998; Nga 1998 là những minh chứng rõ nét cho điều đó. -43-
  44. 2. Cải cách hoạt động thị trường liên ngân hàng. Cải cách hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo hướng giảm độc quyền và nâng cao chất lượng của các nghiệp vụ kinh doanh và bảo hiểm tỷ giá, đặc biệt là nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ( SWAP). Đồng thời, từng bước cho phép thực hiện các nghiệp vụ tương lai( FUTURE) và quyền chọn nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư có được những công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối hữu hiệu; giảm thiểu được những tác động tiêu cực đối với sản xuất và kinh doanh do những biến động khó lường của tỷ giá hối đoái gây nên. 3. Nâng cao đa dạng hoá dự trữ ngoại tệ. Nâng cao và đa dạng hoá dự trữ ngoại tệ chính thức bằng các biện pháp khác nhau như trích từ nguồn thu xuất khẩu, can thiệp khi VND lên giá danh nghĩa; ký các hiệp định hoàn đổi tiền tệ quốc tế Dự trữ ngoại tệ là công cụ đắc lực cho phép NHNN điều tiết thị trường ngoại hối nhằm tránh những dao động đột biến của tỷ giá nhưng không cản trở xu hướng phát triển chung của thị trường. Trong bối cảnh Đôla Mỹ đang có những điều chỉnh so với các đồng tiền mạnh khác, đặc biệt là so với EURO, thì việc đa dạng hoá quỹ dự trữ ngoại tệ sẽ cho phép tránh được việc giá trị của quỹ bị giảm khi có sự thay đổi của tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền mạnh. 4. Tăng cường hợp tác tiền tệ. Tăng cường hợp tác tiền tệ với các tổ chức tiền tệ quốc tế( IMF, WB ) và với các nước trong khu vực như trao đổi thông tin, ký các hiệp định về hoán đổi tiền tệ nhằm ổn định thị trường và đề phòng những cú sốc bên trong cũng như bên ngoài. 5. Điều tiêt việc tăng cung ứng tiền tệ. Điều tiết việc tăng cung ứng tiền tệ một cách hợp lý nhằm ngăn chặn tình trạng vay và cho vay nội tệ quá mức( trong điều kiện lãi suất trong nước giảm), đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ việc cho vay để đầu tư vào khu vực sản xuất hàng -44-
  45. hoá phi thương mại như: bất động sản, thị trường chứng khoán hoặc những dự án mang tính rủi ro cao và kém hiệu quả. Vay và cho vay quá mức cũng chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản ở nhiều nước Đông á trong những năm 1990- 1996 và kết thúc bởi một cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ được coi là sâu sắc nhất trong vòng 1/2 thế kỷ qua. KẾT LUẬN Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan, nền kinh tế có nhịp độ tăng trưởng tương đối khá và kiềm chế lạm phát ở mức thấp. Có được những kết quả đó là nhờ vào việc đổi mới toàn diện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ ở nước ta còn chưa hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả sẽ không đảm bảo cho nó tránh được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường bên ngoài. Vì thế, hơn bao giờ hết chúng ta cần đánh giá, phân tích rút ra những bài học kinh nghiệm từ chính sách tiền tệ của các nước trên thế giới, để từ đó vận dụng được xác thực và đem lại hiệu quả cao. Việc nghiên cứu đề tài này giúp em hiểu sâu hơn về thực trạng và giải pháp điều hành, thực hiện chính sách tiền tệ trong công cuộc cải cách và phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. -45-
  46. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Kinh tế vĩ mô . Đại học Tài chính Kế toán Hà nội. 2. Nghiệp vụ ngân hàng trung ương. Học viên ngân hàng. 3. Kinh tế vĩ mô - Trần Đăng Hùng. 4. Kinh tế vĩ mô - Đại học Kinh tế Quốc dân. 5. Kinh tế học - Paul A.Samuelson-William D.Nordhans. 6. Kinh tế học - David Begg-Stanley Fischer-Rudiger Dombusch. 7. Các tạp chí có liên quan khác. -46-