Đề cương nội dung sách giáo trình an toàn và bảo hộ lao động trong ngành xây dựng (Phần 2)

pdf 77 trang ngocly 3100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương nội dung sách giáo trình an toàn và bảo hộ lao động trong ngành xây dựng (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_cuong_noi_dung_sach_giao_trinh_an_toan_va_bao_ho_lao_dong.pdf

Nội dung text: Đề cương nội dung sách giáo trình an toàn và bảo hộ lao động trong ngành xây dựng (Phần 2)

  1. Chương VI. An toàn điện Nguyên tắc cơ bản nhất trong các hệ tiêu chuẩn về an toàn xây lắp điện là phải bảo vệ được những điều sau đây : + Bảo vệ chống điện giật + Bảo vệ chống các tác động nhiệt do điện gây ra + Bảo vệ chống dòng điện có điện áp quá mức được phép + Bảo vệ chống rò điện ra các vật và môi trường để có thể gây tai nạn + Bảo vệ chống nhiễu loạn điện áp. Những điều trên đây nhằm bảo vệ con người, bảo vệ tài sản và đảm bảo an toàn cho mọi hoạt động. 1. Tai nạn do điện có thể có trên công trường Việc sử dụng điện trên các công trường làm cho năng suất lao động lên cao. Cơ giới hoá thi công không thể tách rời việc sử dụng điện. Điện là năng lượng chính để làm các động cơ hoạt động. Việc sử dụng điện mang lại lợi ích to lớn cho sản xuất nhưng phải tiến hành những biện pháp phòng ngừa tai nạn do điện gây ra cho người sản xuất. Một tỷ lệ cao ( trên 70%) với các vụ cháy là do các trang bị điện không hợp chuẩn. Trong những tai nạn về điện thì không ít hơn 30% vụ gây chết người. Việc loại trừ tai nạn về điện cần được tính toán ngay từ khi thiết kế các biện pháp thi công. Mọi khả năng gây tai nạn do điện sinh ra cần được phòng 117
  2. ngừa trước. Cần lập biện pháp phòng ngừa và kiên quyết thực hiện những biện pháp phòng ngừa tai nạn về điện làm cho sản xuất được an toàn và điều này cũng chính là góp phần cho sản xuất đạt các mục tiêu của nó. Tai nạn do điện có thể gây ra trên công trường quy tụ lại ba dạng chính: Da người bị tiếp xúc trực tiếp với dây dẫn hoặc thiết bị đang mang điện. Da tiếp xúc trực tiếp vói kim loại của thiết bị điện có cách điện nhưng phần cách điện bị hư hỏng. Thân thể người lao động tiếp xúc với điện dò rỉ trong đất do dây điện bị đứt chạm xuống đất mà sự tiêu tán dòng điện chưa đáp ứng các yêu cầu về an toàn. Hiện tượng này gọi là “điện áp bước”. Còn một dạng tai nạn đã xảy ra do người lao động không tuân thủ nghiêm túc các quy trình đóng cắt điện. Đóng hoặc cắt điện mà không kiểm tra kỹ những mối liên quan đến mạch điện sẽ được thao tác: đóng điện khi có bộ phận đang vận hành các thao tác trong mạng mà không được báo trước. Ngắt điện đột ngột làm người thi công không chuẩn bị trước phương pháp đề phòng tai nạn cũng như các thao tác sản xuất thích hợp. 2. Tác hại của dòng điện đi qua cơ thể người Dòng điện có điện áp trên 36 vôn đi qua cơ thể người gây ra sự huỷ hoại các tế bào của người hoặc làm hệ thần kinh có những phản xạ tiêu cực. Sự ảnh hưởng đến sức khoẻ con người do dòng điện gây ra tuỳ thuộc điện áp, điện trở của người, cường độ dòng điện của dây tải điện, tấn số và loại òng điện. Sự tác hại của dòng điện đi qua cơ thể lại phụ thuộc đường đi của dòng điện và thời gian tác động của dòng điện. Những điều kiện ngoại vi như độ 118
  3. ẩm của môi trường, vật liệu của kết cấu mà cơ thể tiếp xúc như sàn nhà, ghế ngồi Điện áp sử dụng khá phổ biến của các máy móc và trang bị mang điện trên công trường xây dựng thường là 127, 220 và 380 vôn, hiện nay có thể dùng đến 1000 vôn. Điện truyền được qua cơ thể thông qua lớp sừng ngoài da. Nếu da khô thì điện trở của lớp sừng này từ 60.000 đến 400.000 Ohm/cm2. Nếu da bị ướt hoặc có mồ hôi, điện trở của lớp sừng ngoài da chỉ còn trên dưới 100 Ohm/cm2. Da nhiều mồ hôi thì điện trở lớp sừng ngoài da còn 1000 Ohm/cm2. Điện áp cao thì lớp sừng ngoài da bị huỷ hoại nhanh. Điện áp thấp thì lớp sừng huỷ hoại chậm hơn. Trong tính toán , thường lấy điện trở của lớp sừng ngoài da là 1000 Ohm/cm2. Khi da bị ẩm hoặc nhiều mồ hôi thì điện trở của da giảm rõ rệt. Dòng điện qua cơ thể người ta gây ra những phản ứng làm thay đổi trạng thái thần kinh, biến đổi thành phần máu hay gây cháy bỏng. Người ta bắt đầu cảm thấy có dòng điện qua cơ thể khi cường độ dòng điện khoảng 0,6 ~ 1,5 mA với dòng xoay chiều, tần số công nghiệp là 50 hertz và 5~7 mA đối với dòng điện một chiều. Tác hại của dòng điện qua cơ thể người tuỳ thuộc dòng điện mới tiếp xúc ( dạng 1 ), dòng điện dẫn qua cơ thể ( dạng 2 ) và dòng điện bị giữ lại cơ thể ( dạng 3). Dòng điện mới tiếp xúc với cơ thể( dạng 1 ) người ta thường nằm trong khoảng 0,6 ~ 5 mA. Dòng điện mới tiếp xúc với cơ thể được coi là khi người ta còn có khả năng tự tách mình ra khỏi mạng điện. Dòng điện dẫn qua cơ thể ( dạng 2) trong phạm vi 15 mA với dòng điện xoay chiều và 50 ~ 80 mA với dòng một chiều. Dòng điện lưu giữ lại trong cơ thể ( dạng 3) khoảng 15~20 mA với dòng xoay chiều và 80 mA với dòng một chiều. Dòng điện dẫn qua cơ thể người ta ( dạng 2) có thể coi là ít nguy hiểm vì không gây tác 119
  4. hại ngay. Nhưng nếu không tách được dòng điện nhanh khỏi cơ thể thì số trị của dòng điện bị tăng làm cho cơ thể bị tê liệt. Dòng điện lưu giữ lại trong cơ thể ( dạng 3) rất nguy hiểm vì dòng này gây ra co giật hệ thống thần kinh, cơ bắp bị co dật mạnh và sau đó bị tê liệt, trước mắt là cơ thể không thể tự điều khiển được. Hiện tượng tiếp theo là ngưng tim, ngưng thở. Nhiêù nghiên cứu về tai nạn điện cho thấy chỉ cần dòng xoay chiều 25 ~ 30 mA đã rất nguy hiểm. Trên 50 mA có thể gây ra tai nạn nặng đến mức chết người. Dòng điện trên 0,1 A , tức là 100 mA thường gây chết người. Về tần số thì tần số điện phổ thông là 50 hoặc 60 Hertz rất nguy hiểm. Tần số cao lên độ nguy hiểm lại giảm đi. Khi tần số dòng điện trên 1000 Hertz thường không gây ra ảnh hưởng đến hệ thần kinh mà chỉ gây bỏng cục bộ. Trong y tế, nhiều loại thiết bị điện lại lợi dụng tần số điện cao để điều trị một số bệnh. Vị trí của cơ thể tiếp xúc với dòng điện hết sức quan trọng vì nó tạo ra luồng điện dẫn qua cơ thể. Ta hình dung ra dòng điện qua cơ thể phải dẫn từ nguồn có điện đến đất hoặc vật kim loại để dẫn tiếp. Thông thường, dòng điện đi từ tay phải, qua cơ thể dẫn xuống chân để nối với đất là luồng nguy hiểm nhất đối với cơ thể người. Luồng này dẫn dòng điện qua tim và phổi nên dễ gây tử vong. Luồng điện đi qua người từ chân nọ sang chân kia để dẫn tiếp ít nguy hiểm hơn vì dòng điện ngắn nhất không đi qua các bộ phận điều khiển sự sống quan trọng trước mắt của cơ thể như tim, óc, phổi. Thời gian tác động của dòng điện qua cơ thể càng dài, càng nguy hiểm. Dòng điện qua cơ thể ngắn hơn 0,2 giây chưa gây nguy hiểm. Từ 0,5 giây bắt đầu gây nguy hiểm cho người. 3. Tai nạn điện với hệ thống dây dẫn : trên không và cáp ngầm 120
  5. Trong mạng điện xoay chiều có điện áp dưới 1000V, mỗi dây dẫn điện làm cách li với đất. Trị số điện trở cách điện của các dây dẫn được lấy theo kết quả tính toán là 1000 Ohm/V . Vôn ở dây là điện áp của mạng. Có thể lấy điện trở của dây dẫn là Rcd = 1000 Ohm. Điện trở của dây dẫn đối với đất khi cho thế năng của đất là 0 bao gồm điện trở cách điện của dây dẫn, của các điện trở mắc vào dây trên đường từ dây dẫn đến đất có tổng điện trở là Rcd . Dòng điện đi qua dây dẫn có điện trở Rcd gọi là dòng điện rò . Trị số của dòng điện rò được giới hạn là 10A. Khi người bị chạm với một cực ( một dây ) đối với phần dẫn điện điện trở của người coi như mắc song song với điện trở cách điện của pha đó. Nếu chạm phải hai dây trong mạng ba pha hoặc một pha với dây trung hoà, tạo nên mạch kín mà người coi như nối tiếp với mạch điện rất nguy hiểm đến tính mạng. Sau đây là một vài khái niệm định lượng trong tính toán: Khi người chạm phải một pha có điện, mạch điện đang có các điện trở khác thì dòng điện đi qua người có điện trở Rn sẽ là: U In = 2Rn+Rcd = [A] Khi tiếp xúc với một pha không có điện trở khác hay hai pha ở hai vị trí khác nhau , có thể coi người là vật dẫn điện có điện trở Rn được mắc theo kiểu nối tiếp , lúc này sẽ có dòng điện qua người sẽ là: U In = ,(A) Rn Nếu điện trở của người chỉ là 1000 Ohm hoặc nhỏ hơn thì người chắc chắn sẽ bị tử vong. Tai nạn về điện xảy ra với người do dây dẫn trần trên không thường hay gặp là bộ phận cơ thể người chạm phải dây dẫn điện. Người cầm hay mang vác 121
  6. thanh kim loại hoặc cây dài , ẩm, va chạm phải dây dẫn trên không cũng là lý do để điện giật. Đã có nhiều tai nạn khi xây dựng dưới hoặc gần đường điện trên không, công nhân chuyển những thanh thép dài để va chạm phải dây dẫn nên bị điện giật. Không ít trường hợp công nhân thao tác trên đầu cột cao mà dây dẫn đang mang điện bị điện giật do va chạm với dây điện. Một dạng tai nạn có thể xảy ra do đường điện trên không cắt ngang trên đường lộ bên dưới không đảm bảo khoảng cách giữa mặt đường đến đường dây theo đúng quy định để vướng với phương tiện xe cộ di chuyển bên dưới, nhất là khi xe chất tải quá cao. Đường dây dẫn trên không vượt qua đường giao thông bên dưới phải đảm bảo độ cao tối thiểu là 6 mét. Phải có tín hiệu treo trên dây điện nhắc nhở độ cao của dây dẫn theo đúng quy định về đường dây điện vượt ngang đường lộ. Đối với dây cáp đi ngầm tai nạn thường xây ra do máy đào đất hoạt động va chạm với dây cáp dẫn. Khi lập biện pháp thi công đào đất cần cắm chỉ giới cho máy đào để không gây tai nạn dạng này. Trong nhiều trường hợp, phải ngắt điện trong dây cáp khi thi công đào đất gần đường cáp để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công nhân đào đất cũng như cho đường cáp. Máy móc nặng di chuyển đè lên đường cáp ngầm bên dưới mà đường cáp chôn không đủ độ sâu cần thiết hoặc cáp không đi trong ống bảo vệ đúng quy cách cũng là nguyên nhân gây đứt cáp, điện bị rò qua đất gây tai nạn. Đường cáp cắt ngang đường giao thông phải chôn ở độ sâu sao cho áp lực của xe cộ di chuyển bên trên không làm cáp bị dãn dài gây nguy hiểm. Cáp đi dưới đường giao thông phải luồn trong ống thép hoặc ống bê tông mà đường kính ống phải lớn hơn đường kính của dây cáp tối thiểu ba lần. 4. Tai nạn điện khi vận hành thiết bị điện 122
  7. Khi vận hành thiết bị điện cần được trang bị các nghi khí cách điện , đảm bảo an toàn tuyệt đối. Công nhân phải đứng làm các thao tác trong môi trường khô ráo, chân đứng có thảm cách điện. Chân phải mang giày đảm bảo độ cách điện. Tay người công nhân phải đi găng cách điện. Phải mang kính và có mũ cách điện. Khi tiếp xúc với các bộ phận kim loại đang có điện phải dùng các dụng cụ chuyên có độ cách điện thoả đáng. Những dụng cụ này phải được thường xuyên kiểm tra độ cách điện đáp ứng các yêu cầu về an toàn sử dụng điện. Hiện nay phần vận hành thiết bị điện đã tự động hoá cao, điều khiển bằng máy tính. Cần khai thác hết khả năng này. Khi điều khiển hệ thiết bị điện lẻ theo phương pháp thủ công, phải đảm bảo các điều kiện trang bị cho công nhân như yêu cầu trên. Tai nạn hay xảy ra khi vận hành thiết bị điện và biện pháp ngăn ngừa phải như sau: Môi trường vận hành ẩm ướt. Với những điều kiện môi trường ẩm ướt, phải có biện pháp thích ứng mới được vận hành. Trang bị cá nhân không đủ đáp ứng các yêu cầu cách điện cho mọi bộ phận cơ thể có khả năng va chạm với các bộ phận mang điện. Không đủ điều kiện trang bị an toàn, không vận hành thiết bị điện. Va đập dụng cụ kim loại đang cầm tay vào các bộ phận có điện. Phải hết sức chú ý khi thao tác và mọi dụng cụ phải có tay cầm đủ cách điện với điện áp tương ứng. Khi lên cao , mặt đứng không đủ vững chãi, không đủ độ cách điện. Phải có sàn đứng vững chãi và mặt chân đứng phải có lớp thảm hoặc lớp đệm cách điện. 123
  8. Mọi công việc vận hành thiết bị điện cần đứng trên cao phải có một tổ công tác ít nhất hai người, một người thao tác và một người cảnh giới, nhắc nhở điều kiện an toàn. Mọi thiết bị điện phải có nối đất để dòng điện song song qua người nếu xảy ra là nhỏ, không đủ gây tử vong hay tai nạn. 5. Tai nạn điện do thao tác kỹ thuật Người công nhân vận hành các thiết bị điện và thi công sử dụng điện phải được huấn luyện về an toàn sử dụng điện. Mọi thao tác của công nhân phải thuần thục, hạn chế tối đa các thao tác do không thuần thục mà va chạm với các thiết trí điện. Người công nhân phải được trang bị cách điện cho cá nhân đầy đủ và chỉ thi công khi đã mang đầy đủ các trang bị bảo vệ cách điện. Trèo cao trên cột điện, trên sàn thao tác các thiết trí điện phải mang dây an toàn đúng quy định, phải sử dụng đầy đủ trang bị an toàn cho cá nhân như mũ, kính, găng, giày, quần áo. Không bao giờ được làm một mình trên cao mà phải làm theo tổ công tác ít nhất là hai người, một người thi công và một người cảnh giới tai nạn. Trước khi thực hiện thao tác kỹ thuật điện cần kiểm tra mọi điều kiện an toàn. Khi có nghi ngờ, thí dụ chưa rõ ở cuối nguồn điện có ai đó đang thi công hay không, cần kiểm tra trước khi tiến hành đóng điện. Chỉ nối mạch điện khi mọi điều kiện về an toàn đảm bảo tuyệt đối. 6. Tai nạn điện do nơi làm việc bị ẩm hoặc thấm nước Môi trường làm việc liên quan đến an toàn sử dụng điện được chia thành ba nhóm: 124
  9. Các phòng ít nguy hiểm về điện là phòng có môi trường không khí tương đối khô. Độ ẩm tương đối của không khí không quá 75% khi nhiệt độ từ 5 ~ 25oC. Sàn của loại phòng này có điện trở lớn và không khí không có các loại bụi dẫn điện bay lơ lửng. Phòng nguy hiểm nhiều là phòng có độ ẩm lớn trên 75%, nhiệt độ trung bình trên 25oC. Độ ẩm tương đối có lúc nhất thời tăng đến bão hoà như các phòng hấp hơi, phòng đang bảo dưỡng bê tông bằng hơi nước nóng. Một số phòng khô, có hoặc không có lò sưởi và trong phòng được phun ẩm nhất thời. Những phòng có nhiều bụi dẫn điện như phòng nghiền than, xưởng chuốt cốt thép cũng là phòng nguy hiểm nhiều về mặt an toàn điện. Những phòng nguy hiểm còn là phòng có nhiệt độ trên 30oC làm người lao động trong đó luôn chảy mồ hôi. Khi người có mồ hôi, khi va chạm với điện thì mối nguy hiểm tăng gấp bội. Phòng đặc biệt nguy hiểm là các phòng rất ẩm. Độ ẩm tương đối của loại phòng này xấp xỉ 100%, mặt tường, mặt trần thường xuyên có lớp nước ngưng tụ. Phòng thường xuyên ẩm mà sàn lại dẫn điện như bằng tôn dập chống trơn hoặc có những sàn đứng thao tác bằng tôn. Những phòng gia công chất nổ cũng như các phòng có hơi dễ bắt cháy nổ, các phòng có nhiều bụi khi tạo với không khí thành các hỗn hợp nổ thí dụ như trong các gian nhà kho chứa chất nổ trên công trường thuỷ điện. Tại những phòng này, đường dây dẫn điện phải được thiết kế có độ cách điện cao. Trong mỗi ống dẫn chứa dây điện chỉ được có một dây, không được bố trí nhiều dây dẫn điện. Mọi khí cụ điện đều được chứa trong các hộp mà điều kiện cách điện đủ đảm bảo không gây ra hiện tượng phóng điện. 125
  10. Công nhân thao tác và lao động trong những môi trường nguy hiểm cần được trang bị quần áo đủ độ an toàn cách điện. ánh sáng trong những phòng này cần đầy đủ để nhìn rõ mọi chi tiết của dụng cụ, đồ vật , máy móc đang vận hành và chứa đựng trong phòng. 7. An toàn khi hàn Máy hàn hồ quang điện sử dụng công suất điện lớn, dòng điện qua dây hàn có cường độ cao ( xấp xỉ 100 A ) . Quá trình hàn, đầu que hàn hoặc mỏ hàn phát ra ánh sáng hồ quang đồng thời phát ra các tia hồng ngoại và tia cực tím. ánh sáng hồ quang và các loại tia hồng ngoại, tia cực tím làm hại mắt và da của cơ thể người. Kim loại bị chảy do nhiệt độ cao dưới tác động của dòng điện hoặc hơi cháy làm bắn văng ra xỉ hàn ( gọi là tia lửa hàn) có thể gây bỏng và cháy. Dây dẫn điện hàn thường trải ngay trên mặt sàn đi lại vì máy hàn và vị trí vật được hàn không cố định. Phải thường xuyên kiểm tra độ cách điện của dây dẫn dòng điện hàn. Nếu có dấu hiệu bị trầy, xước phải dán băng cách điện kịp thời, không để điện rò rỉ ra bên ngoài. Nhiều vụ cháy như vụ cháy kho lốp ô tô tại công trường sông Đà, nhà Trung tâm thương mại ITC thành phố Hồ Chí Minh năm 2002 do tia lửa hàn gây ra. Công nhân hàn và người phụ hàn phải đeo kính và mặt nạ để bảo vệ mắt và mặt khỏi bị ánh sáng và các dạng tia làm hại. Công nhân hàn phải mang găng tay đủ dài để bảo vệ tay khỏi bị sức nóng của tia lửa hàn, của kim loại nóng chảy và bức xạ. Công nhân cần mang giày cao cổ để chống tia lửa bắn vào chân. Phải làm những vách ngăn không để người qua lại nhìn trực tiếp 126
  11. vào tia hồ quang. Người vô ý nhìn trực tiếp vào ngọn lửa hồ quang khi đang hàn có thể bị tổn thương mắt do tia bức xạ và các tia cực tím, tia hồng ngoại. Hàn hơi thường dùng khí axêtylen và ôxy. Bình chứa từng loại khí cần để tách biệt vì hốn hợp hai khí này, nếu rò rỉ có thể gây nổ mạnh. Các bình khí hàn phải để xa nguồn nhiệt và ánh nắng mặt trời. Kho chứa các bình khí phải có thông gió thật tốt. Những bình đang dùng phải đặt trên giá hay xe đẩy, không được để đứng đơn độc tự do. Thiết bị cắt ngọn lửa tạt lại của thiết bị hàn hơi phải được lắp trên van điều chỉnh của bình và van một chiều phải được lắp ở đầu ống dẫn, phía có ngọn lửa. ống dẫn khí phải tốt, dễ phân biệt và được bảo vệ chống nóng và chống bị va chạm, bụi bẩn hoặc bị dầu, mỡ bám. Mọi mối nối ( măngxông ) phải chặt, khít, không được rò rỉ. Khi bình axêtylen bị phát nóng, phải khoá van ngay tức thì, phát lệnh báo động sơ tán người khỏi khu vực sẽ nguy hiểm và tìm nước làm lạnh bình nhanh chóng đồng thời phát lệnh báo động cháy, gọi cứu hoả. Khi công nhân đang sử dụng các công cụ cầm tay có điện, phải tắt điện ở các công cụ này trước khi đặt công cụ xuống đất. Tuyệt đối không được để diêm hay bật lửa trong túi khi hàn. Khi hoàn thành các thao tác hàn, phải khoá các van cẩn thận. Không được dùng khí ôxy để phủi bụi trên quần áo. Khi hàn trong môi trường kín, kim loại được hàn trước đây đã sơn, do nhiệt độ cao, khí độc sẽ bốc hơi làm nguy hại cho công nhân. Khi sử dụng một số loại que hàn đặc biệt cũng có thể có khí độc bốc ra gây hại cho công nhân khi hít thở. Nếu môi trường hàn không thể thông gió được thì người lao động phải được trang bị mặt nạ và được cung cấp dưỡng khí. Nếu kim loại hàn có che phủ bề mặt bằng các hợp chất có chứa kim loại chì, kẽm, thuỷ ngân, cadmi thì môi trường hàn nhất thiết phải trang bị hút khói vì những hỗn hợp 127
  12. có các kim loại này rất độc, rất nguy hiểm. Tốt nhất, trước khi hàn những kim loại có phủ bằng sơn hay chất dẻo, hãy tẩy sạch sơn và chất dẻo rồi mới tiến hành hàn. 8. An toàn điện khi hàn trong nước Có hai cách hàn dưới nước là: Cách hàn ướt Cách hàn khô Cách hàn dưới nước theo kiểu hàn ướt là hàn trực tiếp trong môi trường nước. Que hàn là loại đặc biệt dùng để hàn dưới nước giống như hàn trên cạn. Hàn kiểu này hiệu quả cao và khá kinh tế. Năng lượng dùng để hàn bố trí trên xuồng ngay trên mặt nước mà bên dưới tiến hành công tác hàn. Nguồn điện hàn là dòng điện không đổi. Dòng điện đạt từ 300 ~ 400 A. Động cơ của loại máy hàn này chuyên dùng để phát ra nguồn điện cho việc hàn dưới nước. Thợ hàn trong nước phải mặc quần áo thợ lặn, cơ thể hoàn toàn cách biệt với nước. Mọi trang bị điện như dây dẫn, mỏ hàn, phải cách nước tuyệt đối. Việc bố trí mạch hàn như sau: 128
  13. Máy phát điện Mỏ hàn - + Que hàn nơi hàn Cầu dao Hàn theo quy trình ướt rẻ và cũng có hiệu quả cao nên được sử dụng phổ biến. Tốc độ hàn nhanh và công tác chuẩn bị tốn ít thời gian. Tuy nhiên kim loại nhúng trong môi trường nước nên bị nguội nhanh, sự phân bố phân tử kim loại không như mẫu kim loại ban đầu mà bị giòn. Tuy nhiên các điều kiện về an toàn lao động khá ngặt nghèo. Như mô tả quá trình công tác hàn thì việc trang bị an toàn cần rất cẩn thận. Những tai nạn có thể xảy ra là bỏng da, rò điện là khả dĩ. Cách hàn khô được chuẩn bị hết sức kỹ càng. Phải làm một buồng kín bọc quanh kết cấu cần hàn. Trong buồng bơm đầy khí, thường là khí helium chứa ôxy có áp suất 0,5 bary.Buồng này gọi là buồng áp lực cao. Công tác hàn tiến hành trong buồng kín này nên chất lượng đảm bảo tốt. Việc hàn xảy ra dưới áp suất cao cân bằng với áp suất của môi trường nước bên ngoài buồng kín chứa kết cấu hàn. 129
  14. Đang hàn dưới nước theo quy trình ướt ảnh đang hàn dưới nước theo quy trình khô Các điều kiện về an toàn rất ngặt nghèo. Người phải hàn trong buồng kín và chịu cảnh áp lực cao, nóng cũng như ánh sáng chói chang của tia lửa hàn. Các chất khí hydro và ôxy sinh ra khi hàn dễ gây nổ mà sinh ra tai nạn. Khí nitơ tạo ra trong quá trình hàn sẽ lưu trong máu làm cho người lao động bị ảnh hưởng sức khoẻ. Người thợ hàn phải được huấn luyện về nghề nghiệp, kỹ năng cũng như rèn luyện sức khoẻ để có thể chịu dựng được điều kiện lao động. Trang bị bảo hộ được chú trọng đúng mức để tránh đến mức tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ người công nhân. 130
  15. Trang bị tạo ra buồng kín đòi hỏi đồng bộ và phức tạp nên giá thành cuối cùng của đường hàn khá cao. Chỉ khi nào đòi hỏi chất lượng rất đặc biệt mới dùng phương pháp hàn khô. 9. Huấn luyện về thiết kế, lắp đặt cũng như lao động trong môi trường có điện để đảm bảo an toàn trong xây lắp điện. Khi thiết kế hệ thống điện trên công trường , phải đặt thiết bị bảo vệ như aptomat hoặc cầu dao điện tổng cho đường dây điện chính trong nhà, cho từng đường dây điện phụ, cho từng thiết bị có công suất lớn. Phải đặt cầu chì trước từng ổ cắm điện, đảm bảo khi có chạm chập cắt ngay được nguồn điện. Tiết diện dây dẫn phải chọn sao cho có đủ khả năng tải dòng điện đến các thiết bị, dụng cụ điện mà nó cung cấp. Không dùng dây có tiết diện nhỏ cho các dụng cụ điện có công suất quá lớn để tránh gây hoả hoạn. Không dùng phụ tải quá mức cho phép của công suất thiết kế vì sẽ gây quá tải dẫn đến cháy thiết bị, dây dẫn, gây cháy nổ. Không dùng dây điện, thiết bị điện trong nhà có chất lượng kém. Những thiết bị điện, đồ điện trong nhà quá cũ cần phải được kiểm tra thường xuyên để có kế hoạch đại tu hoặc thay thế. Không dùng bếp điện để đun nầu mà không có người trông coi. Thiết bị đồ điện, đồ điện dùng trong nhà khi không sử dụng phải ngắt ra khỏi nguồn điện. Trước khi ra khỏi nhà hoặc trước khi đi ngủ phải kiểm tra lại các thiết bị, đồ điện, đèn, quạt. Không để trẻ nhỏ, người mắc bệnh tâm thần sử dụng các thiết bị điện, đồ dùng điện trong nhà. Không lắp đặt hoặc để các thiết bị . đồ dùng điện có toả nhiệt như chấn lưu, bóng đèn, bàn ủi, bếp điện trên các vật dụng dễ cháy như gỗ, giấy, giấy các 131
  16. tông, tấm xốp để ngăn ngừa hoả hoạn. Khi nối dây phải nối so le và quấn băng keo cách điện cẩn thận. Không đặt các chất dễ cháy ( gaz, xăng, dầu , giấy) gần các thiết bị, dụng cụ điện như đèn, bàn ủi, bếp điện, ổ cắm điện. Khi xảy ra cháy do chập điện, phải nhanh chóng ngắt cầu dao điện tổng, báo cho mọi người xung quanh biết, báo cho cảnh sát PCCC và dùng phương tiện chữa cháy tại chỗ dập lửa. Cấm dùng nước chữa lửa khi chưa cắt điện. 10. Biển báo và những giải pháp an toàn cơ bản cho hệ thống điện tạm trên công trường Để chống điện giật, vị trí những vật dẫn điện phải đặt ở nơi thích hợp. Những ổ cắm phải đặt ở độ cao trên 1,2 mét. Hệ thống đầu mối điện phải để trong không gian có bảo vệ như tủ chứa, phòng riêng. Phải chống điện giật do con người tiếp xúc gián tiếp qua kim loại khi dòng điện bị rò. Phải làm các tấm che chắn nơi chứa thiết bị điện mà nếu con người vô ý có thể va chạm ngoài ý muốn. Các vật dẫn điện phải được cách điện với mức cách điện đủ an toàn cho người. Với những phụ tải thường xuyên tiếp súc với người được gọi là thiết bị nhóm II, như quạt máy, ổ đóng ngắt điện, những thiết trí mà người hay tiếp súc phải làm bằng vật liệu không dẫn điện như êbônít hay loại nhựa tương ứng. Bảo vệ chống các tác động nhiệt thường dùng các thiết trí che chắn. Chủ yếu chống các tác động nhiệt nhằm chống cháy. Không được lắp đặt đường dây điện, bảng điện trên đường thoát hiểm. Vật liệu xây dựng sử dụng tại lối thoát hiểm phải là vật liệu khó cháy. Lưu ý rằng dòng điện rò có thể không đủ lớn để gây điện giật, làm ảnh hưởng đến an toàn của con người nhưng nếu kéo dài có thể gây ra cháy. 132
  17. Trong hệ thống các thiết bị điện phải lắp các thiết trí tự động ngắt mạch khi có sự cố. Tại những đầu mối của công trình điện như * Các thiết bị phân phối và trạm biến áp trong nhà , trạm biến áp ngoài trời * Các bộ chỉnh lưu * Các máy điện , thiết bị khởi động , điều chỉnh và bảo vệ * Thiết bị điện của máy trục * Các hệ thống thanh cái * Các thiết trí điện phân * Đầu mối các thiết bị chiếu sáng * Đầu nguồn đường dây điện 1 chiều và xoay chiều * Đầu đường cáp điện lực * Đầu đường dây dẫn điện trên không. phải có bảng ghi rõ tên của đầu mối này, các tính năng kỹ thuật chủ yếu của toàn bộ đầu mối, sơ đồ hệ thống các thiết bị đặt trong đầu mối, chỉ dẫn vận hành và an toàn khi thao tác. Bảng đủ độ lớn để chữ viết không quá nhỏ hoặc quá dày đặc. Khổ chữ cao ít nhất 2 cm, nét dày trên 2 mm. Đường dây trần qua lộ giao thông, tại điểm thấp nhất của đường dây phải treo một tấm biển có kích thước 0,8 x 0,5 mét bằng vật liệu cách điện, nền sơn màu da cam nhạt. Trên biển phải ghi dòng trên cùng hai chữ “ nguy hiểm” , dòng dưới ghi độ cao hiện nay của dây tại điểm cắt này ( đơn vị mét) so với mặt đường, tiết diện dây và điện áp tải. 11. Hệ thống tiếp đất 133
  18. Tại nơi bắt đầu của dây tiếp địa phải có biển báo đánh dấu. Có sơ đồ đường tiếp địa chôn ngầm gắn trên tường để có thể nhận biết phần nằm dưới đất. Ký hiệu nơi bắt đầu của dây tiếp địa. Một số ký tự trong hệ thống tiếp đất: T là ký tự đầu ghi cho được nối với hệ thống tiếp địa. I là ký tự đầu ghi cho được tách rời T là ký tự thứ hai cho được nối trực tiếp với đất N là ký tự thứ hai cho được nối với trung tính tại gốc hệ thống lắp đặt. TN-C là ký tự thể hiện dây trung tính (N) và dây đất (PE) nối với nhau (PEN). TN-S là ký tự thể hiện dây trung tính (N) và dây đất (PE) không nối chung TN-C-S là ký tự thể hiện TN-C hướng ngược và TN-S hướng thuận trong cùng hệ thống ( ngược lại với TN-S hướng ngược và TN-C hướng thuận là không được phép. 134
  19. Việc lựa chọn hệ thống tiếp đất tuỳ thuộc tiêu chuẩn của các nước. Nước ta chưa có các tiêu chuẩn cho hệ thống này nên Bộ Xây dựng đang khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn của thế giới IEC 60364. Có hai hình thức nối đất bảo vệ cho thiết bị điện: + Nối đất bảo vệ trực tiếp: Nối bộ phận kim loại trên vỏ thiết bị điện bằng dây kim loại lúc bình thường, không có điện với cực nối đất bằng sắt, thép chôn dưới đất có điện trở nhỏ đối với dòng điện rò qua đất và điện trở cách điện ở các pha không bị hư hỏng. Hình thức này thường áp dụng ở mạng 3 pha có trung hoà cách điện. Dòng điện rò trong các mạng với trung hoà cách điện có điện áp dưới 1000V, không lớn quá 10A, cực nối đất với điện trở tính toán nhỏ (<4 Ohm) sẽ đảm bảo hạ điện áp tiếp súc đến trị số an toàn U = 10 x 4 = 40V. Điện áp tiếp súc thân máy này là điện áp tối đa trong mạng có trung hoà cách điện khi tính điện trở của cực nối đất và trị số tối đa của dòng điện rò. Khi dòng điện rò không quá 4 ~ 6 A thì điện áp tiếp súc mà người vô ý mắc phải còn giảm nữa. Trong trường hợp tiếp súc như thế, người chạm vào mạng điện coi là mắc vào mạng điện rò song song với cực nối đất. Khi đó : In Rn = Ir Rnđ R nd hay : In = Ir R n Trong đó: In là cường độ dòng điện đi qua người ( A ) Ir là cường độ dòng điện rò ( A ) 135
  20. Rn là điện trở tính toán của người ( Ohm) Rnđ là điện trở của cực nối đất Thí dụ : Nếu chọn trị số điện trở tính toán của người là Rn = 1000 Ohm ; Rnđ = 4 Ohm ; Ir = 10 A thì dòng điện đi qua người sẽ là : 4 = 10. = 0,039A In 10 + 4 Nếu người lao động được trang bị quần áo, giày bảo hộ thì dòng điện qua người còn nhỏ hơn nữa nên khi có nối đất sẽ không gây nguy hiểm cho người và thậm chí cũng không ảnh hưởng đến sức khoẻ nữa. + Kiểu nối đất bảo vệ qua dây trung hoà dùng dây dẫn nối vỏ kim loại của thiết bị điện vào dây trung hoà. Thường cách nối này hay dùng cho mạng có điện áp dưới 1000 V, 3 pha 4 dây với dây trung hoà đã nối đất. Khi có sự cố, thủng cách điện chẳng hạn, xuất hiện dòng điện trên thân của thiết bị điện như thân máy thì lập tức một trong các pha sẽ gây đoản mạch và làm cháy cầu chì bảo vệ hoặc bộ phận tự động tác động cắt điện khỏi máy. Khi tiếp súc với thân máy trong thời điểm đoản mạch, người sẽ mắc song song với mạng kín và dòng điện qua người sẽ là : rk In = Idm ;(A) R n + rg + rs + R nd + rk Trong đó: rk là điện trở nhạy của dây trung hoà ( Ohm ) rg điện trở của giây (Ohm) 136
  21. Idm dòng điện đoản mạch (A) Các mạng có điện áp dưới 1000V có liên hệ với mạng điện có điện áp trên 1000V qua máy biến áp phải có dây trung hoà nối đất hoặc phải có dây trung hoà hay các pha nối đất qua cầu chì xuyên thông. Đồng thời dây trung hoà phải thực hiện nối đất lặp lại cách nhau không quá 1000 mét với các cực nối đất có điện trở không quá 4 Ohm. Khi dây trung hoà ở trong phần đoản mạch có nối đất lặp lại, trị số dòng điện đi qua người cũng tương ứng giảm đi. Tuy nhiên khi dòng điện đoản mạch lớn, trị số dòng điện qua người trước khi cầu chì bảo vệ đứt có thể gây nguy hiểm. Trong trường hợp này phải sử dụng cơ cấu cắt điện tự động. 12. Chống sét tạm khi xây dựng Chống sét ở đâyđề cập đến chống sét trên công trường. Chống sét cho nhà vĩnh cửu thuộc chuyên đề riêng. Chống sét trên công trường chủ yếu bảo vệ khỏi sự phóng điện của tĩnh điện khí quyển, bảo vệ cho người và tài sản trên công trường. Nguy hiểm nhất là sét đánh trực tiếp. Cường độ của tia lửa điện của sét đến 200.000 A và điện áp tới 150 triệu Vôn. Tia lửa điện của sét có thể phóng xa tới hàng cây số. Thời gian phóng điện của sét từ 0,1 ~ 1 giây đồng hồ và nhiệt độ đến 6000 ~ 10.000 oC. Tĩnh điện khí quyển xuất hiện là do sự ma sát của hơi nước và sau đó của các hạt nước với không khí trong các lớp không khí ẩm. Khi hạt nước di chuyển trong đám mây sẽ tích điện và đám mây sẽ mang điện tích đó. Tác dụng tương hỗ của các hạt nước mang điện và các luồng không khí sẽ phân chia ra các hạt lớn mang điện tích dương, hạt nhỏ mang điện tích âm. Hạt nhỏ tích điện âm và hạt lớn lắng đọng xuống phía dưới tạo thành các đám mây tích 137
  22. điện dương. Khi đám mây tích điện dương di chuyển, do hiện tượng cảm ứng tĩnh điện mà trên mặt đất sẽ tích điện âm. Như vậy, trong thiên nhiên hình thành loại tụ điện đặc biệt với lớp không khí ở giữa, các bề mặt tụ điện là mây và mặt đất. Khi thế hiệu đạt tới trị số cực hạn sẽ sinh ra sự phóng tia lửa điện kèm theo tia chớp chói loà và tiếng nổ dữ dội. Trước khi xuất hiện sự phóng điện thì ở mặt đất, điện tích cảm ứng âm lướt qua những phần nhô lên khỏi mặt đất của các ngôi nhà, những điểm cao của công trình, tạo nên hiện tượng ion hoá không khí trên đường đi tới các đám mây và làm giảm điện trở riêng của lớp không khí tạo sẵn hành lang cho tia lửa điện phóng qua. Khả năng của những điểm cao của công trình bị sét đánh trực tiếp càng lớn khi khoảng cách giữa điểm cao với đám mây tích điện càng gần. Ngoài ra khả năng sét đánh còn phụ thuộc vào cấu tạo địa chất ở tầng sát mặt đất, vào các yếu tố khí quyển và các yếu tố hình học khác. Vùng có quặng pyrit dễ bị sét đánh hơn các khu vực khác. Khi công trình không được bảo vệ chống sét , nếu có sét đánh trực tiếp , công trình sẽ bị phá hoại hoặc do không khí bị đốt nóng chớp nhoáng sẽ lan rộng nhanh, tạo ra làn sóng không khí đốt nóng công trình. Nhiệt lượng tăng nhanh và đột ngột là nguyên nhân phá hỏng công trình. Sét đánh trực tiếp là biểu thị của tia lửa điện sét. Hiện tượng tĩnh điện và cảm ứng điện từ cũng là biểu thị nữa của sét. Cảm ứng tĩnh điện gây ra do tác dụng của các đám mây mang điện lên các công trình trên mặt đất và kèm theo tia lửa giữa các bộ phận kim loại của kết cấu và thiết bị. Cảm ứng điện từ xuất hiện khi tia chớp phóng điện làm phát sinh ra từ trường nam châm trong không gian thay đổi theo thời gian. Từ trường nam châm gây ra cảm ứng trong các vòng tạo ra một dòng điện trong các vật kim loại kéo dài. Tuy nhiên dòng điện này không lớn nên ít nguy hiểm mà khi có các vòng kim loại không kín, có thể xảy ra hiện tượng phóng 138
  23. điện làm đốt nóng kim loại gây nguy hiểm. Những tia lửa do phóng điện này có thể gây nổ , nếu không gian chung quanh có hơi như cácbua hydro , sẽ tạo nổ. Làm thu lôi là giải pháp thông dụng để chống sét. Sét rất hay đánh vào các công trình đã nối đất vì tính dẫn điện khi đó lớn tới vô cùng. Trang bị cho một hệ chống sét gồm bộ phận thu sét, bộ phận dẫn sét và bộ phận tiêu sét. Bộ phận thu sét có thể là thanh kim, dây hoặc lưới. Thanh kim thường dùng bằng thép, đường kính lớn trên 20 mm, dài 2,5 mét đầu trên nhọn, đầu dưới gắn vào điểm tựa chắc chắn như đỉnh cột cao, điểm cao nhất của công trình. Có thể làm những trụ thu lôi đứng độc lập cao vọt lên khu vực muốn bảo vệ. Dây là biện pháp thu sét nhờ dây kim loại có đường kính trên 12 mm, nối giữa hai điểm tựa chắc chắn, cao trên các điểm cao nhất của công trình tối thiểu 2 mét. Lưới thu lôi là những kim thu lôi ngắn ( 0,75 ~ 1,00 mét, đường kính 14 mm ) hướng lên trời, đầu dưới kim ngắn nối với dây thép có đường kính 14 mm. Hàn các kim ngắn này với dây nối theo đúng tiêu chuẩn hàn nối ( đường hàn dài 140 mm nếu hàn một má, 50 mm nếu hàn hai má). Khoảng cách giữa những kim này là 2 mét. Lưới đặt quanh chu vi đỉnh nhà hoặc chạy trên sống nóc nhà. Bộ phận thu sét không được sơn. Muốn bảo vệ chống gỉ nên mạ kẽm hay thấm kẽm. Ngoài ra, kim thu sét có thể bằng thép tròn, thép dẹt, thép ống hoặc thép góc với tiết diện của phần kim loại ở mũi kim không nhỏ hơn 100 mm2 ( nếu thép dẹt , bề dày không nhỏ hơn 3,5 mm ; nếu thép ống , bề dày ống không nhỏ hơn 3 mm ) và chiều dài hiệu dụng của kim không ngắn hơn 200 mm. Công trình có kim thu sét nằm ở môi trường có ăn mòn , tiết diện đỉnh kim không nhỏ hơn 150 mm2 ( thép dẹt chiều dày không nhỏ hơn 4 mm và thép ống , chiều dày thành ống không mỏng hơn 3,5 mm). 139
  24. Mũi kim thu sét không cần vuốt nhọn nhưng nếu là ống thì phải dùng kim loại vít kín mũi kim lại. Kim thu sét có thể mạ kẽm, mạ thiếc hoặc sơn dẫn điện. Tại những môi trường đặt kim có ăn mòn thì kim thu sét phải mạ kẽm. Lắp đặt kim thu sét phải đảm bảo chắc chắn trong suốt quá trình sử dụng nhất là phải chịu được các tác động ngang do gió , lốc và các tác động cơ học khác. Nếu đặt kim trên cột gỗ , cột bê tông cốt thép thì mũi đỉnh phải cao hơn đầu trên của cột ít nhất là 200 mm và kim phải đưọc gắn chắc chắn vào cột. Dây thu sét là dây nối những kim thu sét chống sét đánh thẳng lắp đặt trên mặt bằng cao nhất của công trình , tạo nên vùng bảo vệ sét cho công trình phải làm bằng thép , tiết diện dây không được nhỏ hơn 50 mm2. Dây cũng không nên làm có tiết diện lớn hơn 75 mm2 và phải được sơn dẫn điện. Dây thu sét đặt ở môi trường không khí có hoá chất ăn mòn thì tiết diện dây thu sét phải mở đến 75 mm2. Việc cố định dây thu sét vào kết cấu công trình phải đảm bảo chắc chắn về mặt cơ học và tiếp xúc tốt. Dây thu sét có thể tạo thành hình lưới đặt trên cọc đỡ bằng thép tròn cách nhau từ 1 ~ 1,5 mét và dây thu sét này phải đặt cao trên mái công trình ít nhất 0,60 mét. Cọc đỡ dây hoặc lưới thu sét phải được kiểm tra đảm bảo cho: + Mái không bị chọc thủng sinh dột, + Không làm hư hỏng các lớp chống thấm, + Không cản trở đến việc thoát nước trên mái khi mưa, và + Dây không căng quá và khi dây qua khe lún phải có đoạn uốn cong từ 100 mm đến 200 mm tránh sự co kéo làm dây quá căng. 140
  25. Bộ phận dẫn sét thường làm bằng dây kim loại. Dây dẫn sét xuống đất có thể làm bằng thép tròn , thép dẹt tiết diện không được nhỏ hơn 35 mm2 và bề dày thép dẹt không được nhỏ hơn 3 mm. Nếu từ bộ phận thu sét chỉ đặt một dây dẫn xuống đất thì tiết diện dây này không được nhỏ hơn 50 mm2. Những nơi môi trường không khí có lẫn hoá chất ăn mòn thì tiết diện không nhỏ hơn 50 mm2 và thép dẹt không mỏng hơn 3,5 mm. Cầu nối và dây nối của thiết bị chống sét và đai san bằng điện áp có thể làm bằng thép tròn , thép dẹt tiết diện không nhỏ hơn 28 mm2 và bề dày thép dẹt không mỏng hơn 3 mm. Nơi không khí có hoá chất ăn mòn tiết diện dây không bé hơn 35 mm2 và thép dẹt không mỏng hơn 3,5 mm. Dây nối , cầu nối và dây nối cần được sơn chống gỉ . Dây nối từ bộ phận thu sét xuống bộ phận tiếp đất phải chọn lộ nào ngắn nhất , không nên có những đoạn phải uốn nhọn hay gấp khúc . Trường hợp không thể làm khác được mà phải uốn thì khoảng cách giữa hai đoạn dây bị uốn phải cách nhau ít nhất là 1/10 chiều dài của đoạn dây phải uốn . Các cọc đỡ dây gắn vào kết cấu công trình không xa nhau quá , phải nhỏ hơn 1,5 mét và khoảng cách từ dây đến mặt kết cấu phải lớn hơn 50 mm. Nên chọn vị trí đặt dây này ở chỗ ít người qua lại và phải cách lỗ cửa đi , cửa sổ ít nhất là 1,5 mét. Lối đi có nhiều trẻ em qua lại như tại các nhà trẻ, trường học thì dây dẫn phải cách lối đi ít nhất là 5 mét. Nơi nào mà không cách ly được người và súc vật với dây dẫn thì phải đặt dây dẫn trong ống cách điện trong phạm vi không gian từ mặt đất đến độ cao 2,5 mét. Đầu nối dây dẫn sét vào bộ phận tiếp đất có thể có chỗ nối tháo rời được với mục đích kiểm tra điện trở của bộ phận nối đất . Hai đầu dây của bộ phận nối và bộ phận tiếp đất phải hàn với hai thanh nối bằng thép dẹt 141
  26. dày trên 6 mm, rộng trên 30 mm có lỗ bắt bu lông nối với số lỗ ít nhất là 2 để lắp 2 bu lông nối loại M12. Khoảng cách giữa 2 lỗ bu lông là 40 mm . Phải thường xuyên kiểm tra độ xiết chặt của những bu lông này. Khi công trình chỉ có một dây dẫn từ bộ phận thu sét xuống bộ phận tiếp đất thì không được làm đoạn nối mà phải là một dây nối liền và mọi liên kết đều là liên kết hàn cố định. Bộ phận tiêu sét còn gọi là tiếp đất của hệ thu lôi là bộ phận hết sức quan trọng. Bộ phận nối đất chống sét có thể làm bằng thép tròn , thép dẹt , thép ống với phần tiết diện kim loại không nhỏ hơn 100 mm2. ( bề dày thép dẹt , thép góc và thành ống không mỏng hơn 4 mm). Nếu đất có tính chất ăn mòn thì tiết diện trên phải lớn hơn 100 mm2. Bộ phận nối đất có thể được sơn dẫn điện , mạ thiếc, mạ kẽm nhưng tuyệt đối không được sơn cách điện hoặc sơn bitum , sơn hắc ín hay bất kỳ loại sơn nào có tính chất cản trở việc dẫn điện. Người thiết kế qui định điện trở yêu cầu của bộ phận nối đất tuỳ theo điện trở của đất tại khu vực công trình. Cần kiểm tra lại trị số điện trở suất của đất ( ρ đ. Ω . Cm ) tại hiện trường. Mọi số liệu cho sẵn trong các Sổ tay chỉ để tham khảo và thiết kế kỹ thuật mà thôi. Trị số điện trở suất tính toán ( ρ đ.tt ) bằng trị số điện trở suất đo đạc ( ρ đ ) nhân với hệ số thay đổi điện trở suất (  ), còn được gọi là hệ số thời tiết hay là hệ số mùa . Hệ số thay đổi điện trở suất của đất theo thời tiết của các kiểu nối đất cho trong bảng sau: Độ sâu đặt bộ Hệ số thay đổi Hình thức nối đất phận nối đất (m) điện trở suất () Ghi chú Thanh ( tia ) đặt 0,5 1,40  1,80 Trị số nhỏ ứng với nằm ngang ( nối ___ ___ đất khô ( đo vào 142
  27. đất kéo dài ) 0,80 - 1,00 1,25  1,45 mùa khô ) Cọc đóng thẳng 0,80 Trị số lớn ứng với đứng Tính từ mặt đất loại đất ẩm ( đo đến đầu mút trên 1,20  1,40 vào mùa mưa ) cùng của cọc Thông thường nên chọn hình thức nối đất theo chỉ dẫn dưới đây: (a) Khi trị số điện trở suất đất không lớn quá 3 x 104 Ω . Cm thì sử dụng hình thức nối đất cọc chôn thẳng đứng , chiều dài cọc từ 2,5 đến 3 mét , đầu trên của cọc phải đóng ngập sâu trong đất từ 0,50 đến 0,80 mét. Nếu lớp đất ở sâu có điện trở nhỏ , từ 3 x 104 Ω . Cm trở xuống hoặc có mạch nước ngầm cần sử dụng hình thức cọc chôn sâu và có thể tăng chiều dài cọc đến 6 mét. Trong trường hợp này có thể sử dụng cọc bê tông cốt thép và các móng bằng bê tông cốt thép của công trình để làm bộ phận nối đất chôn sâu. Trường hợp lớp đất trên có trị số điện trở nhỏ, các lớp đất dưới là đá , sỏi hoặc có điện trở suất lớn thì dùng hình thức nối đất thành tia đặt nằm ngang theo kiểu nối đất kéo dài chôn ở độ sâu 0,50 đến 0,80 dưới mặt đất , chiều dài mỗi thanh không nên lấy quá trị số chiều dài tới hạn , ứng với các trị số điện trở suất như bảng sau đây: Ω .Cm <5x104 5x104 10x104 20x104 40x104 lth , mét 25 35 50 80 100 Trường hợp phải tăng số thanh (tia) cũng không nên tăng quá 4 thanh tia và góc tạo thành giữa các thanh trên mặt bằng không nên nhỏ hơn 90o. Nên ưu tiên sử dụng hình thức nối đất kéo dài. 143
  28. (b) Khi điện trở suất của đất bằng từ 3 đến 7x104 Ω .Cm, cần sử dụng hình thức nối đất hỗn hợp ( cọc kết hợp với thanh ). Có thể sử dụng nối đất hỗn hợp kiểu hình vuông , hình chữ nhật , hình tròn . Các cọc chỉ nên đóng trong khoảng 2:3 chiều dài của thanh , tính từ đầu thanh , phía nối với dây xuống. (c) Khi trị số điện trở suất của đất lớn hơn 7 x 104 Ω .Cm , hoặc đất có nhiều đá tảng , đá vỉa cho phép kéo dài thanh tới chỗ có trị số điện trở suất nhỏ như hồ , ao , sông , suối nhưng không nên kéo quá 100 mét. (d) Có thể dùng biện pháp nhân tạo để cải thiện độ dẫn điện ở những vùng có điện trở suất cao như dùng muối ăn ( NaCl ) pha nước để tưới cho khu đáat chung quanh dây nối đất . Theo quan điểm của chúng tôi ( tác giả bài giảng này) nếu dùng phương pháp này thì phải ghi chú và nhắc nhở rằng cứ 3~5 năm lại phải kiểm tra điện trở suất của đất và bổ sung muối nếu không sẽ nguy hiểm vì điện trở suất của đất ngày càng tăng do nồng độ muối giảm do mưa . Trong việc thi công bộ phận thu sét , bộ phận dẫn sét , bộ phận tiếp đất thì việc hàn nối hết sức quan trọng . Một trong những điều hết sức chú ý khi kiểm tra chất lượng hệ chống sét là kiểm tra chất lượng mối hàn. Mối hàn phải đảm bảo chiều dài đường hàn , đảm bảo không rỗ , không ngắt quãng , không bọt xỉ , chiều cao đường hàn phải đáp ứng đầy đủ. Thu lôi là hệ thống hết súc quan trọng để bảo vệ người và tài sản trên công trường chống sét đánh trực tiếp. Cần đảm bảo các yêu cầu sau đây khi thiết kế và lắp đặt hệ thu lôi: 144
  29. (i) Bộ phận thu sét phải đảm bảo kiểu dáng đã chọn , vị trí đặt thiết bị , kích thước vật liệu , kiểm tra lớp mạ của đầu kim , các mối hàn , nối . (ii) Bộ phận dẫn sét : vị trí bố trí , qui cách và số lượng dây dẫn xuống đất , khoảng cách an toàn đến những vị trí cần tránh , phương thức neo gắn dây dẫn vào công trình , phương thức nối dây dẫn sét , phương thức sơn , mạ , phủ tiếp xúc . (iii) Bộ phận nối đất : qui cách vật liệu , cách hàn , nối , khoảng cách an toàn đến các thiết bị kim loại trong nhà , phải dùng dụng cụ đo điện trở đất để kiểm tra các trị số điện trở nối đất. Khi đặt thiết bị chống sét độc lập, trị số điện trở nối đất xung kích phải đạt các yêu cầu sau đây : 4 * Không quá 20 Ω nếu tt 5.10 Ω .cm Nếu đặt thiết bị chống sét ngay trên công trình và những công trình đó không thường xuyên có người ở hoặc làm việc , trị số điện trở nối đất xung kích qui định như sau: 4 * Không quá 20 Ω nếu tt 5.10 Ω .cm Nếu đặt thiết bị chống sét trên công trình có người ở và làm việc thường xuyên thì điện trở xung kích qui định như sau: 4 * Không quá 10 Ω nếu tt 5.10 Ω .cm Nhà có mái kim loại , được phép dùng mái làm bộ phận thu nếu chiều dày của mái : * Lớn hơn 4 mm với công trình có nguy cơ nổ , cháy. * Lớn hơn 3,5 mm với công trình ít nguy cơ nổ, cháy. 145
  30. Mái kim loại phải đảm bảo gắn kết dẫn điện toàn mái và cứ 20~30 mét lại nối với dây dẫn sét xuống bộ phận nối đất , toàn nhà ít nhất có 2 dây nối xuống bộ phận nối đất. Cần kiểm tra khi thiết bị chống sét đặt ngay trên công trình : * Các bộ phận dẫn điện của thiết bị chống sét ở phía trên mặt đất phải đặt xa các đường ống, đường dây điện lực, điện thoại, ăng ten dẫn vào công trình và các bộ phận kim loại có kích thước lớn của công trình với khoảng cách tối thiểu là 2 mét. Với những bộ phận kim loại của công trình nếu không thực hiện được khoảng cách nêu trên thì cho phép nối chúng với thiết bị chống sét nhưng phải thực hiện đẳng thế từng tầng. Giải pháp nối nên hạn chế đến tối thiểu. * Khoảng cách trong đất từ các bộ phận kim loại của thiết bị chống sét tới các đường ống kim loại , đường cáp ngầm dẫn vào công trình không được nhỏ hơn 3 mét. Nếu không đảm bảo được khoảng cách trên thì được nối chúng với nhau ở nới gần nhất nhưng phải giảm trị số điện trở nối đất còn 1 Ω . Trường hợp này nhất thiết phải sử dụng cáp dẫn điện vào nhà là loại có vỏ kim loại sau đó nối phần vỏ kim loại với bộ phận nối đất của chống sét. 13. Sơ cứu người bị tai nạn điện Biện pháp tốt nhất khi có người bị tai nạn điện là ngắt nguồn điện đang dẫn đến người bị tai nạn. Khi không thể ngắt nguồn điện dẫn đến nguồn gây tai nạn thì tìm mọi cách cách ly nạn nhân khỏi dòng điện. Những vật dùng để cách ly nạn nhân với nguồn điện nên là các thanh gỗ, thanh tre, thanh nhựa dài và đủ cứng để đẩy 146
  31. dây điện hoặc đẩy người cách ly khỏi dòng điện. Những thanh này phải khô và không dẫn điện. Người làm các thao tác đẩy phải đứng trên nơi khô ráo, tay nên có găng không dẫn điện hoặc dùng quần áo khô, ny lông lót bàn tay khi cầm vào vật để cách ly nạn nhân. Nếu thấy nạn nhân có hiện tượng ngừng thở, phải nhanh chóng làm hô hấp nhân tạo, sau đó gọi y sĩ, bác sĩ y khoa và gọi cho những nơi cấp cứu. Phải làm hô hấp nhân tạo đến khi có người chuyên trách cấp cứu đến . Công nhân cần được huấn luyện về sơ cứu và hô hấp nhân tạo khi học nội quy an toàn sử dụng điện và trước khi được giao công việc liên quan đến điện. Hô hấp nhân tạo hay còn gọi là thổi ngạt Chương VII . An toàn chống ngạt 1. Môi trường lao động kín và thiếu ôxy 2. Môi trường lao động có khí từ các nguồn khác nhau xuất hiện trong quá trình lao động 3. Công tác kiểm tra môi trường lao động không bình thường 147
  32. 4. Các giải pháp đảm bảo không khí và chống cháy nổ, độc hại khi có khí lạ 5. Phải bố trí từ 2 công nhân trở lên lao động trong môi trường kín 6. Trang bị bảo hộ và cứu hộ khi có sự cố Chương VIII . An toàn chống chất độc 1. Nguyên nhân gây trúng độc Chất độc gây nguy hiểm cho người lao động khi làm việc là hoá chất tác động lên cơ thể dưới các dạng tiếp súc với hoá chất ở thể đặc, thể lỏng hoặc thể hơi. Hoá chất này gây ra sự phá huỷ tế bào, làm ảnh hưởng đến sự sống bình thường. Chất độc có thể gây ra nhiễm độc hoặc làm tê liệt hệ thần kinh, khiến cho người lao động bị mê man, không còn nhận thức được sự việc một cách bình thường. Chia ra : nhiễm độc cấp tính (đột xuất) và nhiễm độc mạn tính (có chu kỳ). Nhiễm độc cấp tính xảy ra khi một lượng chất độc xâm nhập cơ thể gây tác hại cho người trong thời gian đủ ngắn. Nhiễm độc mạn tính xảy ra khi chất độc xâm nhập cơ thể nhiều lần, lâu dài với số lượng mỗi lần không đủ nhiều để gây ra nhiễm độc cấp tính. Khi nhiễm độc mạn tính, chất độc tích tụ làm cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp. Mọi dạng nhiễm độc đều được coi là chịu tác hại nghề nghiệp. Tính chất độc hại của hoá chất đối với cơ thể phụ thuộc thành phần hoá học và cấu tạo của nó, phụ thuộc tính chất hoá lý, trạng thái vật lý của hoá chất, 148
  33. nồng độ và đường dẫn hoá chất vào cơ thể. Mức độ gây độc còn phụ thuộc đặc điểm và tình trạng cơ thể và các điều kiện khi sản xuất. Sự xâm nhập của chất độc vào cơ thể có thể qua da , qua đường tiêu hoá do ăn uống, qua đường thở hít. Sự xâm nhập chất độc qua đường thở được coi là nguy hiểm nhất vì niêm mạc ở mũi, mồm, họng có khả năng hấp phụ lớn. Chất độc có thể được chứa trong vật chứa, có thể bay lơ lửng trong không gian môi trường, có thể khuyếch tán trong khí quyển của môi trường lao động. Chất độc hay gặp khi lao động chia thành hai nhóm: Chất độc rắn như chì, thạch tín, một số loại bột sơn. Chất độc lỏng và khí bốc hơi như ôxyt cácbon, xăng, benzen, sulfua hydro, cồn, ête, sulfurơ, axêtylen . . . Độc tố gây hại được chia thành 4 nhóm: + Chất độc phá huỷ da bọc ngoài cơ thể và niêm mạc ở tai, mũi, họng, mắt. Những chất độc loại này phổ biến là axit hoặc họ axit như axit clohydric (HCl), axit sulfuaric ( H2SO4), Crômát ( CrO3) . . . + Chất độc phá huỷ các cơ quan hô hấp. Những chất độc hại loại này có thể kể đến SiO2 , NH3, SO2 . . . + Chất độc tác động vào máu. Những chất độc hại loại này như : oxyt cácbon mà oxyt cacbon phản ứng với huyết sắc tố của máu làm máu mất khả năng chuyển ôxy từ phối đến các tế bào. + Chất độc tác động lên hệ thần kinh. Thường chất độc tác động lên hệ thần kinh ở dạng bốc hơi nhanh như hơi cồn, ête, sulfua hydro, diluăng, axeton thấy nhiều trong các họ sơn . Tuy 149
  34. nhiên phải kể đến rượu và các đồ uống có cồn cũng tác động lên hệ thần kinh nhanh chóng. 2. Kiểm tra môi trường lao động cũng như thực phẩm, đồ uống trước khi lao động và ăn uống. Chất độc trong môi trường lao động có thể có trước khi lao động nhưng có thể phát sinh trong quá trình lao động. Hoá chất độc phải cất chứa trong các vật bao thích hợp như thùng, bồn, chai lọ, bình và đủ kín. Bao chứa phải nguyên vẹn, không rách, không sứt mẻ và có nắp nút đậy kín. Môi trường lao động phải thoáng khí và nếu có yêu cầu phải được thông gió. Trong nội quy an toàn lao động cho nơi làm việc mà môi trường có khả năng nhiễm độc phải quy định chế độ kiểm tra nồng độ chất độc và bụi trong không khí. Khi phát hiện rằng chất độc vượt quá nồng độ được phép phải áp dụng biện pháp hạ nồng độ đến mức mà tiêu chuẩn vệ sinh lao động cho phép. Ngộ độc thức ăn là tai hoạ của nhiều doanh nghiệp có số công nhân đông mà bữa ăn giữa ca đặt của một hay nhiều nhà hàng cung cấp. Nguồn gốc của việc ngộ độc tập thể là thức ăn không đảm bảo điều kiện vệ sinh thực phẩm. Nơi chế biến thức ăn không đảm bảo vệ sinh, dụng cụ để gia công hay cất chứa thực phẩm không đủ mức sạch sẽ cần thiết. Thực phẩm lưu giữ, cất chứa không đủ điều kiện về môi trường nên biến chất do tác động của vi khuẩn. Việc đặt hàng cung cấp thực phẩm phải có yêu cầu nghiêm ngặt về vệ sinh, về bảo quản, về cất chứa, về di chuyển. Phải có người chuyên trách có nghiệp vụ để kiểm tra thường xuyên và đột xuất quá trình cung ứng bữa ăn giữa ca cho công nhân. Trong hợp đồng cung ứng bữa ăn giữa ca làm việc phải ghi rõ trách nhiệm bên cung ứng về các điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm cúng 150
  35. như trách nhiệm hình sự khi có sự cố. Đây là vấn đề sức khoẻ và sự an toàn sinh mạng người lao động, không thể xem nhẹ ý thức và sự thực hiện vệ sinh thực phẩm. Để đáp ứng yêu cầu vệ sinh công nghiệp , phải xây dựng quy chế kiểm tra chất lượng môi trường lao động định kỳ và đột xuất. Sự ngăn nắp, sạch sẽ, ánh sáng, độ ồn, nồng độ các hơi độc, bụi trong không khí là các tiêu chí phải kiểm tra. Khi phát hiện thấy các tiêu chí không đáp ứng các điều kiện về môi trường lao động, phải có giải pháp khắc phục tức thời cho đến khi môi trường đảm bảo các điều kiện an toàn lao động. Phân tích môi trường không khí ở nơi lao động còn cung cấp cho người thiết kế dữ liệu để kiểm tra và xác định các thông số khi tính toán hệ thống thông gió. Kiểm tra chất lượng môi trường sau khi đã lắp đặt và vận hành hệ thống thông gió còn có tác dụng xác định hiệu quả của hệ thống thông gió, đánh giá độ kín của các máy móc kỹ thuật có chứa chất độc trong quá trình sản xuất. Có bốn phương pháp phân tích môi trường không khí hay được sử dụng là: Phân tích trong phòng thí nghiệm Phương pháp chỉ báo Phương pháp thử nhanh Phương pháp tự động. Từng phương pháp có các dụng cụ, trang thiết bị chuyên dùng và phải là người có nghiệp vụ chuyên mới được lắp đặt và tiến hành kiểm tra. Hiện nay có nhiều loại thiết bị để dò tìm chất độc ( detecteur ) cũng như máy đo nồng độ chất độc khuyếch tán trong môi trường lao động. Khi sử dụng cần tuân thủ các catalogues của máy để lắp đặt, vận hành và sử dụng. Một trong những thiết bị được sử dụng khá phổ biến trên các công trường là 151
  36. thiết bị dò tìm theo nguyên lý cầu điện. Nguyên tắc hoạt động của cầu điện như sau: Pin 1 cung cấp điện nguồn. Thoạt đầu, thế điện kế 2 điều chỉnh cho kim chỉ ở số 0 và điều chỉnh cho nhiệt độ ở các dây xoắn nhờ biến trở 3. Hai nhánh trên của cầu mắc vào những dây bạch kim xoắn gồm dây so sánh 9 và dây đo 10 đặt trong các ống thuỷ tinh 11 và 12. Hai nhánh dưới mắc các điện trở tương ứng 5 và 6 có điện trở bằng điện trở của các dây bạch kim. Nếu cầu điện cân bằng thì dòng điện không đi qua đường chéo của cầu và kim điện kế số 4 không dịch chuyển. Đốt chất xúc tác khí cần phân tích chứa trong ống 12, nhiệt độ dây bạch kim 10 tăng , điện trở của nó giảm và gây ra chênh lệch trong cầu điện, khi đó xuất hiện dòng điện đi qua điện kế 4 được thể hiện qua kim chỉ của điện kế bị lệch đi. Tuỳ thuộc độ dịch chuyển của kim chỉ mà xác định được nồng độ chất khí độc theo bảng quy ước thang độ chia mà nhà sản xuất thiết bị định trước. Các điện trở phụ 7 và 8 sử dụng khi cần thay thang độ đo. 152
  37. Chú thích trong hình vẽ: 1 : Bộ pin 2 : Điện kế 3: Biến trở 4: Điện kế 5: Các điện trở 6: Điện trở 7,8: Điện trở phụ 9: Dây bạch kim xoắn 10: Dây đo 11, 12: ống bằng thuỷ tinh 3. Khử độc hoặc giải độc trước khi lao động và ăn uống Tốt nhất cho người lao động là nơi làm việc mà quá trình lao động của công nhân không phải tiếp súc trực tiếp với chất độc, chất khí sản sinh ra và lan toả trong môi trường. Khi bắt buộc phải làm việc trong môi trường có khả năng sinh độc, cần tìm biện pháp hạn chế độc hại như sử dụng các dụng cụ phụ trợ làm kín nguồn bốc hơi như dùng ống nhựa mềm dẫn chất lỏng bốc hơi độc, không cho chất bốc hơi độc tiếp súc với không khí trực tiếp. Cần thiết thông gió và có thể phải dùng tủ hút, phễu hút không khí có lan toả hơi độc, dẫn cho đi qua bộ phận làm giảm độ độc rồi mới dẫn thải ra ngoài môi trường thoáng, rộng. Những nơi mà quá trình lao động sản sinh ra bụi hay hơi độc phải được cách ly như khu vực sơn cánh cửa, nơi tẩy sơn cũ, nơi dùng cát đặc biệt phun làm sạch kim loại. Phải bố trí những phòng kín có hút và khử mùi chuyên dùng để sơn những cánh cửa có thể tháo rời được, các phòng pha chế sơn cũng như phòng pha chế hoá chất bốc hơi độc hại khác. Nên đầu tư những thiết bị 153
  38. tự động để các thao tác gia công là tự động hoá, giảm đến mức tối đa việc sử dụng người. Khi phải dùng người thì người nên đứng ngoài khu vực có mùi độc hại mà lùa tay qua găng mềm để tiến hành các thao tác chứa bên trong môi trường có độc hại. Khi phải để người tham gia trong môi trường, người phải có trang bị lao động rất đầy đủ như quần, áo, găng. giày và nhất là phải dùng mặt nạ có ống dẫn dưỡng khí từ nguồn cấp khí sạch vào trong mặt nạ. Cần khử độc do thuỷ ngân bằng cách thường xuyên làm sạch môi trường nhờ rửa sàn nhà và tường, bàn ghế bằng nước pha dung dịch loãng ôxyt mănggan kali 1% pha thêm axit nitric 5 mg/l . 4. Sơ cứu và cấp cứu khi trúng độc Khi có người bị trúng độc, cần nhanh chóng phải đưa người ra khỏi môi trường nhiễm độc để cho cơ thể không còn bị tiếp súc với chất độc. Môi trường mà người lao động được nghỉ ngơi là môi trường thoáng, mát. Nhanh chóng cởi bỏ quần áo và các trang bị đã tiếp súc với chất độc. Phải rửa mặt và chân tay bằng nước kháng độc nếu cơ thể không bị tổn thương do chất độc gây ra. Khi cơ thể bị tổn thương thì việc rửa sẽ do nhân viên y tế chuyên trách thực hiện. Xúc miệng bằng nước sạch và chưa được uống. Đưa người bị trúng độc đến cơ sở y tế điều trị. Nếu nạn nhân bị bỏng do tiếp súc với chất độc như vôi sống, clo cần rửa bằng nước có axit loãng để trung hoà kiềm trong vôi rồi bôi thuốc mỡ sát trùng hoặc các loại thuốc có bọt mềm bảo vệ da và làm da dịu. Cần phân biệt ba mức bỏng là: Bỏng độ 1, da bị đỏ và xưng, có cảm giác đau. Bỏng độ 2 trên da xuất hiện các nốt mọng làm cho cơ thể bị các bệnh về da. Bỏng độ 3, da có chỗ bị huỷ hoại sâu và có một số phần da bị chết. 154
  39. Tuỳ mức độ bỏng mà có cách cấp cứu chuyên do nhân viên y tế quyết định. Bỏng có thể do chất độc hoá, bị nhiệt độ cao hoặc hỗn hợp. Sử dụng tốt các trang bị bảo hộ là biện pháp ngăn ngừa tai nạn nhiễm độc tốt. Chương IX . An toàn chống ngập nước 1. Lý do ngập Công nhân làm việc trong khu vực mà sát ngay bên cạnh có nguồn nước áp suất cao hơn sẽ bị đe doạ ngập nước khi kết cấu ngăn giữ nước bị sự cố, hư hỏng. Nhiều nơi làm việc có ống nước đường kính lớn dẫn nước có áp suất cao , khi hư hỏng, nước có thể ập ra làm ngập môi trường làm việc, gây nguy hiểm cho người lao động. Phải thường xuyên kiểm tra chất lượng của kết cấu ngăn giữ nước, tránh nguy cơ gây sự cố làm ngập môi trường lao động của công nhân. 2. Trang bị máy bơm thoát nước dự phòng và biện pháp ngăn nước Tại những mặt bằng, nhất là mặt bằng kín, phải thiết kế hệ thoát nước thường xuyên và hệ thoát nước khẩn cấp khi có sự cố. Cần đặt giả thiết nếu kết cấu ngăn nước bị hư hỏng thì lưu lượng nước ập vào nơi làm việc có khả năng là bao nhiêu để thiết kế công suất máy bơm thoát khi khẩn cấp. Đường ống dẫn nước thoát cũng như hệ mương thoát phải đảm bảo thoát kịp nước khi bơm khẩn cấp. Hệ thống đường điện vận hành máy bơm này phải bố trí đủ cao và có độ cách điện thoả đáng để không bị hư hỏng trong quá trình bơm cũng như đủ độ an toàn vận hành. 155
  40. 3. Lối thoát hiểm khi xuất hiện nước ngập bất ngờ 4. Làm việc khi ngâm mình dưới nước 5. Sơ cứu và cấp cứu khi có người gặp tai nạn Chương X . An toàn với vi sinh vật 1. Môi trường nhiễm khuẩn nặng 2. Biện pháp khử trùng và làm sạch môi trường trước khi lao động 3. Kiểm tra chất lượng môi trường trước khi lao động 4. Làm việc trong môi trường có vi sinh vật và cống ngầm 5. Sơ cứu và cấp cứu khi bị tác động nặng của vi khuẩn Chương XI . An toàn khi sử dụng hoá chất 1. Kiểm tra môi trường trước khi lao động 2. Khử độc hại cho môi trường không khí và khu vực đổ hoá chất trên mặt đất, mặt nền 3. Hơi hoá chất trong môi trường lao động 4. ảnh hưởng của hoá chất đến thần kinh và sức khoẻ 5. Lao động trong môi trường có hơi hoá chất 6. Sơ cứu và cấp cứu cho nạn nhân bị tai nạn do hoá chất gây ra 156
  41. Chương XII . An toàn khi sử dụng máy và dụng cụ 1. Các dạng tai nạn hay xảy ra cho người liên quan đến máy móc 2. Che chắn với các bộ phận động của máy 3. Ô tô vận tải vật liệu khi đổ hàng và khi quay đầu xe 4. Xe siêu trường, siêu trọng cũng như chất hàng hoá quá khổ 5. Cần trục và cần trục tháp 6. Máy làm đất các dạng, loại 7. Các máy thi công khác : bê tông, trộn vữa, máy đầm, máy cắt, cưa và các máy công cụ cơ khí. . . 8. Móng máy hoặc bệ kê máy 9. Điện áp sử dụng cho các máy di động 10. Máy hàn Phần thứ IV . các biện pháp an toàn lao động với các công nghệ đặc thù Chương I . Thi công từ mặt đất trở xuống 1. Lộ thiên 2. TopDown 3. Cut & Cover 4. Lao ngầm qua sông đoạn kết cấu đúc sẵn 5. Chống thấm cho công trình ngầm 6. Giếng chìm và giếng chìm hơi ép 7. Nổ grizou 8. Thiếu sáng 9. Bục nước, ngập đột xuất 157
  42. Chương II . Nhà cao tầng 1. Đèn báo . biển báo 2. Giáo ngoài , sự gắn kết của giáo ngoài và phương tiện vận chuyển cao với công trình 3. Vận chuyển cao cho hàng hoá và cho người: cần cẩu tháp, cần cẩu leo, thăng tải 4. Rơi từ cao qua các phương khi thi công, ngẫu nhiên và khi gió bão 5. Lưới căng bảo vệ 6. Hố, lỗ rỗng trên sàn 7. Thi công trong hố thang máy 8. Thang emergency Chương III . Dẫn và chứa cacbua hydro và xăng dầu 1. Bồn ( citerne ) khi tĩnh và khi trên xe di chuyển . 2. ống 3. Bể chứa : vấn đề con thở lớn và con thở nhỏ 4. Phá bỏ các phương tiện đã chứa xăng, dầu trước đây Chương IV . Nồi áp lực và nồi hơi 1. Các dạng sự cố gây nổ nồi hơi và trang thiết bị có áp 2. Biện pháp ngăn ngừa sự cố nổ 3. Sơ cứu và cấp cứu khi có tai nạn 158
  43. Chương V . Thi công cầu - đường 1. Đường : Những sự cố và tai nạn khi thi công đường 2. Các biện pháp ngăn ngừa tai nạn khi thiết kế 3. Báo hiệu khu vực và nơi nguy hiểm 4. Giải pháp ngăn ngừa tai nạn trong quá trình thi công đường 5. Cầu : Những dạng tai nạn đặc thù 6. Biện pháp ngăn ngừa tai nạn thể hiện ngay trên bản thiết kế 7. Biển báo nơi nguy hiểm 8. Giải pháp ngăn ngừa tai nạn 9. Sơ cứu và cấp cứu Chương VI . Các nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng 1. Những tai nạn đặc thù trong nhà máy sản xuất xi măng 2. Phương pháp phòng chống tai nạn trong nhà máy xi măng 3. Những tai nạn đặc thù khi vận hành các trang, thiết bị thuộc các quá trình sản xuất gốm sứ 4. Phương pháp phòng, chống tai nạn trong các quá trình sản xuất gốm sứ 5. Những tai nạn đặc thù khi vận hành trang, thiết bị trong các quá trình sản xuất thuỷ tinh 6. Phương pháp phòng chống tai nạn qua các quá trình sản xuất thuỷ tinh 159
  44. Chương VII . Công trình biển Khái niệm: Công trình biển có những đặc điểm nổi bật về an toàn, ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình thiết kế, chế tạo cấu kiện, thi công và khai thác. Những đặc điểm đó là: Tính đa dạng về kiến trúc, quy mô xây dựng Tính xa bờ và tính độc lập đến mức cô lập. Đòi hỏi tính bền vững cao vì nhiều yếu tố ngẫu nhiên. Công trình có độ cao lớn trên mặt biển, luôn chịu các tác động của sóng, gió, động đất và chung quanh không có vật cản gió. Môi trường có tính ăn mòn cao, không chỉ nước biển mà không khí biển cũng chứa nhiều chất ăn mòn. Quá trình khai thác cũng như thăm dò rất hay gây ô nhiễm nước biển do dầu tràn, phụt dầu, thải loại chất thải công nghiệp. Giải pháp kết cấu hoàn toàn phụ thuộc giải pháp thi công. Triển khai thi công ngoài biển, không những chịu những dao động của sóng, gió mà còn xa nguồn tiếp tế vật tư, phương tiện cũng như mọi sự hỗ trợ về cấp cứu, y tế. Điều kiện an toàn thi công thường xuyên bị uy hiếp. Tai nạn rất hay xảy ra. Sự duy tu , bảo dưỡng thiết bị thi công, nhu cầu nhiều đồ gá lắp chuyên dụng bị hạn chế vì xa bờ. Điều kiện giám định chất lượng cần hết sức coi trọng để bảo đảm sản xuất và an toàn cho người lao động trên biển. 160
  45. Tính an toàn trong quá trình khai thác đòi hỏi cao mà ở biển lại rất dễ bị mất an toàn. Vấn đề cháy , nổ là yếu tố thường trực. Sự đi, lại, giao thông trên biển không dễ dàng. Đi lại bằng hàng không tần suất tai nạn không nhỏ. Đời sống tinh thần tẻ nhạt, sự kết hợp lao động và nghỉ ngơi để tái sản xuất sức lao động cần hết sức lưu tâm. Đặc điểm về thi công công trình biển Công trình biển không dính vào đất liền, điều kiện thi công trên nước nên phức tạp và khó khăn nên cần tận dụng mọi điều kiện làm việc chế sẵn trên bờ. Việc thi công trên biển càng ít thao tác, càng tốt. Những bước chủ yếu cho việc thi công trên biển là: Thi công trên bờ gồm các khâu chuẩn bị nguyên vật liệu, gia công cấu kiện, lắp ghép thành khối phù hợp với khả năng và phương tiện vận chuyển Vận chuyển cấu kiện, khối công trình, phương tiện thi công, bán thành phẩm ra vị trí xây dựng Tạo dựng điều kiện thi công trên biển Lắp dựng công trình từ khâu chìm đến nổi. Lắp dựng thiết bị vận hành khoan và thu hồi sản phẩm, hệ thống chứa, hệ thống neo chuyển. Các yêu cầu về an toàn trong việc xây dựng công trình biển: Sự an toàn công trình biển là thể thống nhất của toàn bộ quá trình đầu tư và xây dựng: 161
  46. Không thể tách rời sự an toàn của công trình chỉ trong khâu thi công mà phải hình dung sự an toàn của công trình trong toàn bộ các khâu từ khảo sát, thiết kế đến thi công và vận hành. Nếu tách rời từng khâu sẽ sinh phiến diện mà để xảy ra sai sót. Các số liệu sử dụng cho thiết kế phải đảm bảo độ tin cậy cao. Ngoài yếu tố về trữ lượng dầu khai thác còn phải tìm hiểu các số liệu về xây dựng công trình một cách rất chi tiết , tỷ mỷ. Những dữ liệu cơ bản cần xác định với việc xây dựng công trình biển là các dữ liệu về gió , sóng bao gồm sóng tiền định và sóng ngẫu nhiên, hải lưu do các tác động dòng chung, dòng triều và dòng do bão. Các tác động ảnh hưởng đến tính toán công trình biển như sinh vật bám trên bề mặt công trình biển, sự ăn mòn vật liệu của nước biển, nhiệt độ không khí và nước khu vực xây dựng, động đất, nồng độ và thành phần hoá của nước biển, số liệu khí hậu như lượng mưa, số ngày nắng, hướng gió, sương mù, mây, các số liệu về khí tượng của khu vực xây dựng . Số liệu địa chất đáy biển khu vực xây dựng, tình trạng đáy biển như độ sâu, cấu trúc địa tầng, sinh thái và các công trình của con người đã có tại nơi xây dựng. Giải pháp thiết kế chung phải phù hợp với quy mô công trình, tình hình chung tại vị trí xây dựng bao gồm luồng lạch, giao thông, khí tượng, khí hậu, địa chất, độ nông, sâu, trữ lượng và thời hạn dự báo khai thác, các phương tiện, thiết bị sử dụng. Chọn giải pháp thiết kế cần lưu tâm đến những vấn đề chủ yếu là cấu trúc nâng đỡ, biện pháp bảo đảm an toàn khi làm việc, tiện nghi cho lao động và sinh sống trên biển. Vấn đề sử dụng vật liệu xây dựng quyết định hình thái công trình. Xác định tải trọng và lựa chọn tổ hợp tải trọng để đảm bảo cho công trình đủ an toàn và kinh tế. Có 5 loại tải trọng chính như sau: 162
  47. Tải trọng thường xuyên gồm tải trọng của bản thân kết cấu, trọng lượng ballat, thiết bị máy móc đặt thường xuyên và không thường xuyên nhưng trong thời gian dự báo trước khá dài hạn, áp lực thuỷ tĩnh . . . Tải trọng hoạt: tải trọng do nhu cầu khai thác, tải trọng cần trục, nguyên vật liệu chứa đựng nhất thời, neo cập tầu, máy bay trực thăng . . . Tải trọng do biến dạng là loại tải trọng tác động gián tiếp như nhiệt độ, co ngót, chùng ứng suất, lún không đều . . . Tải trọng do môi trường như sóng, gió, dòng hải lưu, động đất, sinh vật bám, băng tuyến . . . Tải trọng do sự cố như do nổ, cháy, rơi vật, mất áp suất, va chạm . . . Các tải trọng trên phải xét trong đầy đủ đối với các giai đoạn thi công và khai thác công trình. Khi lựa chọn tải trọng phải lưu tâm đến tính chất tác động. Cần phân biệt tải trọng trực tiếp hay gián tiếp, do môi trường hay do con người, có vị trí cố định hay di chuyển, có hiệu ứng động hay không, ngẫu nhiên hay tất nhiên, thường xuyên hay tạm thời. Trạng trhái tác động của tải trọng cần phân biệt là bình thường hay cực đại. Tuỳ theo phương pháp luận về tính toán mà lựa chọn hệ số độ tin cậy, lựa chọn hệ số tải trọng và tổ hợp tải trọng. Phương án thi công gắn liền với giải pháp thiết kế kết cấu công trình. Từng phương án chế tạo, vận chuyển, lắp dựng đòi hỏi có những trường hợp riêng về tải trọng. Cần rà xoát để không sót tải trọng nhưng cũng đảm bảo tính kinh tế của công trình. 6.3 Các yêu cầu an toàn cho người làm việc trên biển: Môi trường lao động trên biển không là môi trường truyền thống, quen thuộc với sinh hoạt của con người. Do đó, vấn đề bảo hộ cũng như bảo đảm cuộc sống trên biển cần được lưu tâm đặc biệt. 163
  48. Người làm việc trên biển phải được kiểm tra sức khoẻ và sức khoẻ phải đảm bảo lao động được. Người làm việc trên biển phải có tinh thần vững vàng. Do cuộc sống phải xa đất liền, xa những điều kiện cấp cứu phổ thông nên người lao động trên biển phải có tinh thần tự lo cho mình. Tại nơi làm việc trên biển phải bố trí y tế cấp cứu để có thể sử lý được những trường hợp thông thường. Người lao động trên biển phải được kiểm tra sức khoẻ định kỳ không châmh hơn 6 tháng/lần. Vấn đề phòng bệnh và chữa bệnh cấp cứu được đề ra nghiêm túc. Trong quá trình làm việc, sự di chuyển giữa các công trình hoặc giữa công trình biển với đất liền cần đảm bảo an toàn tuyệt đối. Quá trình bốc xếp hàng hoá, trục cẩu là quá trình hay gây tai nạn, phải có quy trình chặt chẽ, phải có quy định rất cụ thể và công nhân cần thao tác thành thạo và cẩn thận. Điều kiện lao động luôn tiếp súc với dầu, với khí dễ gây nổ, gây cháy cũng như phải tiếp súc với các chất độc hại nên cần hết sức cẩn thận và bảo đảm phương tiện cứu trợ kịp thời. Công tác lặn khá phổ biến với điều kiện lao động ở công trình biển. Sự phòng hộ cũng như quy trình để lặn phải được người lao động nắm vững và thực hiện các điều kiện an toàn lao động nghiêm túc. Sự bất trắc về thời tiết, khí hậu, thiên nhiên . Cần có biện pháp đề phòng rủi ro thoả đáng thì lao động trên biển giảm được nhiều mối lo lắng. Cần tuân thủ nghiêm ngặt phép sử lý khi có người bị tai nạn, khi có người rơi xuống biển cũng như khi gặp gió to, sóng lớn hoặc khi thấy có tín hiệu nghe nhìn lạ thường hay xảy đến. 6.4. Những tiêu chí cần lưu ý khi lắp đặt an toàn công trình biển: Khoảng cách an toàn của vị trí lắp đặt: 164
  49. Vị trí lắp đặt công trình biển phải cách luồng di chuyển thường xuyên của tàu thuyền của các luồng vào cảng, khu vực hoạt động của cảng tối thiểu là 30 mét. Kiểm tra đáy biển: Phải lặn để kiểm tra đáy biển nơi đặt công trình. Đáy công trình không được có các vướng vấp, cản trở sự xây dựng công trình. Không được có các mỏm đá, phay, mương , xác tàu đắm hoặc ngay cả những đường ống, cáp điện thoại, miệng giếng đã bỏ . . . Hạ cọc neo và ống dẫn hướng: Mọi biện pháp thi công phải dựa vào các thông số khảo sát về nền. Việc hạ cọc neo cho phép xác định lực khoan sâu và lực giật thí dụ của sóng gây ra. Đối với nền yếu có thể khoan càng sâu càng tốt và ít nhất đến độ sâu hơn chỗ đất mà cọc neo đủ chịu và sàn khoan hoạt động được. Có thể, khi cần thiết thì khoan bên trong các cọc và ống dẫn hướng. Hướng của công trình biển: Hướng của công trình biển phải đặt sao cho gió chủ đạo không thổi khí, thổi dầu hút từ giếng lên hắt về phía các động cơ đốt trong, bộ xả hơi và nồi hơi đặt trên dàn máy. Ngoài ra, bộ phận điều khiển từ xa, các bộ phận an toàn của miệng giếng, sân bay trực thăng, các điểm neo tầu dịch vụ phải bố trí xa miệng giếng. Hướng của dòng hải lưu phải thuận tiện cho điểm neo tàu dịch vụ. Hướng gió chủ đạo phục vụ tốt cho việc cất cánh và hạ cánh của sân đỗ trực thăng. 165
  50. Vị trí điểm kiểm soát chung của công trình phù hợp với hướng di chuyển của mặt trời vào các thời điểm trong ngày. Thường việc bố trí hướng của công trình biển phải xem xét kỹ trong mối liên quan đến sự vận hành cuả công trình biển. Nếu việc bố trí hướng có quá nhiều khó khăn thì phải lưu tâm đặc biệt đến sóng lừng. Khi có sóng lừng mọi thao tác trên sàn phải giảm đến mức tối đa, tuân theo những chỉ thị nghiêm ngặt khác để đề phòng việc phụt dầu hay phụt khí từ giếng. 6.5 Kiểm tra việc lắp đặt công trình biển: Trên công trình biển cố định hay di chuyển được phải lắp hệ thống dụng cụ kiểm tra để nhận biết được tính trạng ngang bằng vào bất kỳ thời điểm nào và thường xuyên. Với các công trình biển nổi, phải lắp các thiết bị kiểm tra độ lệch nghiêng về một bên ( list ), độ lệch dọc tàu, thuyền, độ chíu mũi hay hếch mũi tàu ( trim ). Phải có dụng cụ kiểm tra độ tròng trành ( rolling ) , biên độ nhấp nhô ( pitching ) cũng như độ căng của dây neo nếu sử dụng các loại dây neo truyền thống. 6.6 Tín hiệu hàng hải và hàng không Các công trình biển dù cho sử dụng vào bất kỳ mục đích nào đều phải làm tín hiệu để ban đêm nhận ra được từ bất kỳ hướng nhìn nào. Tín hiệu phải được cung cấp bằng hai nguồn điện : nguồn điện máy phát chính và nguồn điện phát bằng máy dự phòng. Ngoài ra còn nguồn phát bằng accu, đèn chính và đèn dự phòng khi đèn chính bị hỏng. Khi tín hiệu đèn bị hạn chế do tầm nhìn xa bị sương mù hoặc mưa, tuyết ,làm kém tầm nhìn rõ phải bổ sung bằng tín hiệu âm thanh như kèn báo, còi thổi theo chu kỳ. 166
  51. Tín hiệu đề nhận biết công trình biển phải nhận biết được từ mọi hướng. Chữ trên bảng tín hiệu phải có độ cao chữ trên 1 mét, chiều dày chữ trên 10 cm viết màu đen trên nền vàng. Những biển này phát sáng vào ban đêm để ban đêm vẫn nhận diện được công trình biển. Khi đặc biệt, tín hiệu nhận biết công trình biển được bổ sung bằng hệ thống phao. Mọi công trình biển mà các đặc trưng công trình hoặc địa điểm công trình gây nguy hiểm cho hàng không, đặc biệt là các công trình khoan, phải làm hệ tiêu cho máy bay. Nguồn điện cho tiêu báo hàng không cũng phải cung cấp từ hai nguồn như tín hiệu hàng hải. Một số quy định về tín hiệu được sử dụng rộng rãi trên thế giới như sau: Khi công trình cao trên 50 mét so vói mặt nước biển phải có giấy phép của cơ quan quốc phòng và cơ quan điều hành không lưu. Hệ tiêu báo ban ngày sử dụng nền trắng chữ đỏ hoặc nền trắng, chữ da cam. Khi dùng đèn thì dùng đèn mờ, ánh sáng màu đỏ, cường độ sáng không nhỏ hơn 10 nến, cường độ mạnh chỉ sử dụng ở những nơi đặc biệt. Số lượng đèn và sự bố trí phải sao cho từ mọi hướng có thể nhận ra được công trình biển . Những thông tin sau đây cần được thông báo cho nhà quản lý vùng biển để thông báo đi các phương tiện tàu, thuyền hoặc công trình biển liên quan: + Sự có mặt của công trình biển, sự rời chỗ hoặc sự nhô cao cản trở hàng hải và hàng không. + Mọi công việc tạo ra địa chấn như nổ mìn, gây trở ngại cho tàu chiến, tàu thương mại, tàu đánh cá, tàu công vụ hay tàu dạo chơi. 167
  52. Các dữ liệu phải thông báo thường xuyên về nơi quản lý vùng biển: + Ngày bắt đàu công tác và thời gian thực hiện công tác đó. + Nội dung công tác mà nếu không nắm được những thông tin này sẽ gây ra sự cố và các điều lưu ý khác. + Khoanh vùng công tác hay địa điểm của công trình biển. Phải xác định toạ độ địa lý thật chính xác. + Phương tiện sử dụng cùng với sự xuất hiện công trình biển như máy bay trực thăng, tàu dịch vụ, tàu hộ tống. Những thông tin mà đơn vị quản lý vùng biển phải nắm là: - Đặc tính chung của công trình - Số hiệu để nhận diện công trình - Đặc trưng tín hiệu hàng hải mà công trình phát tín hiệu - Đặc trưng của tiêu báo hàng không mà công trình phát báo. - Những cản trở cho việc đánh cá như việc neo, vòng vây , ván khuôn, cọc chìm, miệng giếng. 6.7 Tàu dịch vụ: Để phục vụ một công trình biển, thường có những tàu dịch vụ. Số lượng tàu và các đặc tính kỹ thuật của tàu được xác định theo các nhiệm vụ: loại công trình biển, và các điều kiện lắp đặt công trình biển vào vị trí, điều kiện khí tượng cụ thể tại vị trí đặt công trình biển, và nhiệm vụ của tàu dịch vụ phải đảm đương. Tàu dịch vụ phải đáp ứng được yêu cầu là có tính năng cơ động cao. Tàu dịch vụ phải dễ neo và dễ tháo neo, thuận tiện trong việc chuyển người và vật liệu trên biển. Cầu tàu phải có khả năng quan sát từ mọi phía. Máy chính, chân vịt guồng, bánh lái của tàu dịch vụ phải kiểm tra trực tiếp được ngay từ trên cầu tàu. Mặt sàn tàu để nhận hàng cũng như mạn tàu phải dọn sạch máy móc, trang bị, không được gồ ghề làm ảnh hưởng đến các thao tác bỏ neo, móc chuyển 168
  53. hàng. Nơi chứa hàng cố định phải thụt vào trong sàn tàu và thụt vào trong mạn tàu. Cầu tàu dịch vụ không được trượt nên mặt cầu tàu phải phủ lớp ván dọc dày từ 10 ~ 15 mm trên lớp ván ngang bên dưới dày 25 ~ 30 mm. Không được để hàng ở cầu tàu. Cầu tàu không được để cho nước chảy qua như máng dẫn nước, dàu là nước mưa hay nước do sóng đánh, sóng tràn. Điểm cặp mạn tàu để rỡ hàng hay cho người lên xuống tàu dịch vụ phải có biển báo cho mọi người cùng thấy. Loại công trình biển có sàn tự nâng, sự chênh lệch lớn giữa cao trình cầu, sàn công tác và cao trình tàu dễ gây ra va đập dây buộc tàu vào cọc cột của công trình biển cần được liệu định trước, tránh việc để dây neo buộc tàu làm ảnh hưởng đến kết cấu. Chú ý rằng khi tàu dịch vụ cặp mạn với công trình biển có thể xảy ra sự cố sóng đánh, gió tạt làm cho tàu va đập vào công trình làm hư hỏng tàu hay công trình. Chỉ cho tàu dịch vụ được cặp mạn công trình biển khi điều kiện sóng, gió, dòng chảy cho phép. Phải dự phòng điểm để rỡ hàng và lên xuống người ở hai điểm đối xứng nhau trên công trình biển để công việc không bị ảnh hưởng nhiều khi thời tiết xấu. 6.8 Máy bay trực thăng : Lựa chọn máy bay phụ thuộc nhiệm vụ xác định như dùng máy bay để chuyển người ốm, để di chuyển người, để tiếp tế nguyên liệu, lương thực, thực phẩm . . . Ngoài ra lựa chọn máy bay còn phụ thuộc cự ly phải di chuyển, sân đỗ có thể thiết kế được. Chứa xăng dầu phục vụ được cho máy bay là điều cần tính toán, cân nhắc. Cần trữ sao đủ lượng để di chuyển cho máy bay nhưng cũng cần lưu ý đến tính kinh tế của trang bị chứa. 169
  54. Máy bay một động cơ hay một tuốcbin bắt buộc phải lắp phao hay bố trí phao bơm tự động sao cho máy bay nổi càng lâu càng tốt khi phải hạ cánh xuống biển. Thời gian máy bay nổi phải đủ để mọi người thuộc đội bay và hành khách kịp sơ tán. Máy bay có hai động cơ hay hai tuốcbin có khả năng chỉ bay với một động cơ là loại máy bay an toàn cần khuyến khích sử dụng. Việc tiếp dầu cho máy bay muốn thực hiện trên công trình biển phải tuân theo chỉ dẫn sau đây: Phải đứng yên và phải nối xong hoàn chỉnh các ống tiếp dẫn trước khi bắt đầu việc bơm dầu cho máy bay. Phải chuẩn bị đầy đủ đồ cứu hoả và bộ phận cứu hoả sẵn sàng hoạt động. Phải kiểm tra độ tinh khiết của dầu sẽ bơm. Chỉ khi dầu ấy đạt các yêu cầu sử dụng mới được bơm. Để đảm bảo an toàn thì xăng dầu cất chứa ở công trình biển phải chứa trong khoang nước dằn hay bồn chứa riêng và phải hết sức lưu ý đến an toàn phòng hoả. Bồn chứa bên ngoài rất dễ làm dầu loang ra mặt biển, không được neo chung với hệ thống dập tắt lửa. Chứa các chất dễ cháy vào phuy, vào can phải tuân theo các điều kiên về an toàn. Phải thử nghiệm tất cả các dầu chứa trong phuy hay can, nếu đạt các yêu cầu sử dụng cho máy bay mới được dùng. Độ an toàn của máy bay rất phụ thuộc vào độ tinh khiết của dầu. Trước khi cho xăng, dầu vào máy bay, phải lọc và kiểm tra theo chế độ kiểm tra tại sân bay khi tiếp dầu cho máy bay trên sân bay đất liền. Nước lẫn trong dầu cũng như cặn bã, tạp chất phải được loại bỏ. ống tiếp dầu cho thùng chứa phải có thiết bị mở đóng ở đầu rót theo sự làm việc của máy bơm. Sân đỗ máy bay ở công trình biển phải bố trí xa các vật chướng ngại. Kích thước và sức chịu của sân bay phải kể đủ các tải trọng tác động. Kích thước sân bay phải phù hợp với loại máy bay lớn nhất mà công trình biển này yêu cầu. 170
  55. Hệ tiêu báo cho sân bay trực thăng bằng ánh sáng trên công trình biển như sau: Vàng bao ngoài của sân đỗ có dãy đèn bọc theo toàn hướng, đèn nọ cách đèn kia 3 mét. Bố trí màu đèn thì cứ một đèn xanh lại đến một đèn màu da cam. Cường độ sáng của đèn xanh là 10 nến, đền da cam là 25 nến. Nguồn điện cho hệ đèn báo hiệu ở sân bay phải dùng hai nguồn là nguồn chính và dự phòng. Phải chiếu sáng cho nơi đỗ máy bay sao chođủ sáng nhưng không làm loá mắt phi công. Chính giữa sân đỗ ghi chữ H mà chiều cao chữ là 3,6 mét, chiều rộng chữ là 1,8 mét, chiều dày nét chữ là 0,4 mét. Cần làm hiệu báo cho cầu vào sân bay, viết tên và nhóm số hiệu của công trình biển. Mọi bộ phận của công trình biển có khả năng gây cản trở cho máy bay trực thăng khi tiếp cận, khi hạ cánh cũng như khi cất cánh phải sơn báo hiệu màu da cam, đèn mờ màu đỏ. Phải gắn vào công trình trang bị báo hướng gió và một phong kế cố định hay xách tay để phi công biết được những thông tin về tốc độ và hướng gió. Cần trang bị thiết bị thu phát tín hiệu vô tuyến cho công trình biển để liên hệ với đất liền và vùng lân cận khi điều kiện nhìn rõ bị hạn chế. Trên tất cả công trình biển có người làm việc phải được trang bị vô tuyến để liên lạc vào bất kỳ giờ nào với các: cơ sở trên đất liền, với tàu dịch vụ và với máy bay trực thăng. Vô tuyến cấp cứu gọi khi nguy khốn dùng tín hiệu điện báo dùng chữ S O S trên tần số cấp cứu hàng hải MF 500 kHz. Gọi phôn cấp cứu dùng tiếng MAYDAY ( ngày tháng Năm ) trên tần số cấp cứu hàng hải 2182 kHz. Nguồn điện cho vô tuyến cấp cứu là nguồn độc lập với nguồn thông thường của công trình biển. Trên công trình biển phải thường xuyên chỉnh sóng để luôn luôn bắt khớp được với tần số thu và nhận giữa các phương tiện cần liên lạc với nhau. Khi cần phát tin cấp cứu, những phương tiện liên lạc thông 171
  56. thường phải ngừng để phát tín hiệu cấp cứu. Khi không ngưng được các liên hệ thông thường thì tuân theo một kỷ luật là cứ một số câu ngắn của liên lạc thông thường lại chuyển tin cấp cứu. Các thiết bị radio ( máy phát, máy thu, dây cáp . . . ) phải đặt ở khu vực dành riêng và phải là máy có tính năng chịu được thời tiết tại khu vực sử dụng. Anten thu phát phải đặt ở vị trí thuận lợi, xa khu để máy radio nói chung. Mọi nơi bố trí thiết bị quan trọng trên công trình biển có người làm việc thường xuyên phải được trang bị hệ thống báo động âm thanh ( còi, còi hú báo động ) mà ở bất kỳ một điểm nào trên công trình biển đều phải nghe được. Cần có nội quy định rõ khi nào thì phát lệnh ra sao, khu vực nào thì lệnh báo động kiểu nào và khi có báo động thì khách cũng như người lao động phải làm các vịêc gì. Hệ liên lạc nội bộ phải đủ độ tin cậy và có hiệu quả để sử dụng tại công trình cũng như thông báo tình hình an toàn trên công trường. Những phương tiện thông tin nội bộ thông dụng là: Mạng lưới truyền thanh chung Mạng lưới điện thoại nội bộ ( cổ điển hay máy tự động phát điện ) Mạng liên lạc nội bộ ( intercommunication ) Mạng truyền thanh và một số mạng điện thoại nội bộ có thể được cấp bằng nguồn điện thông thường, nguồn điện dự phòng hoặc hệ cấp điện hoàn toàn độc lập với hệ thống điện chung của công trình biển. 6.9. Những vấn đề về an toàn chung cho công trình biển (i) Nơi làm việc: Mặt đi lại thường xuyên phải có biển báo bằng đàn huỳnh quang. Lối đi lại cấp cứu cũng có biển báo theo quy định. Trừ sân bay trực thăng còn tất cả cầu, sàn công tác, mạn công trình, rìa lỗ lên, xuống hay lỗ trống trên sàn đều 172
  57. phải có lan can Lan can phải cứng cáp, chân được gắn chặt với nền. Chiều cao tối thiểu của lan can là 90 cm. Song song với mặt nền, cách mặt nền 15~20 mm lắp miếng ván có chiều rộng miếng ván 15 cm gắn vào trụ lan can mhư đường gờ của lan can. Tại khoảng cách giữa tay vịn trên đỉnh lan can và miếng ván gờ chân lan can phải có ít nhất là một thanh ngăn nữa đặt song song với tay vịn. Vì lý do rất đặc biệt mà không làm được lan can cho một chỗ công tác nào đó phải làm lan can tạm bằng xích hay lưới đảm bảo cho người làm việc trong khu vực được an toàn. Không được làm lan can tạm bằng thang gỗ để nằm ngang. Trên các lối đi lại phải khô ráo. Những nơi có khả năng bị ướt như sóng trào trên cầu hoặc trên mặt boong phải có lối thoát làm khô nhanh chóng mặt đi lại. Quanh sân đỗ của máy bay trực thăng phải có bộ phận bảo vệ cho người không ngã từ sân xuống bên dưới. Thường là dùng lưới sắt rộng 1,5 mét có thanh đỡ bằng thép , làm nhô rộng ra khỏi sân đỗ và quanh sân đỗ. Cầu vào sân đỗ của máy bay trực thăng phải làm chống trượt ( dùng sơn đặc chủng, làm nan trên mặt đi lại . . . ) Mọi chỗ đi lại như thang lên xuống có thể trơn do dầu mỡ, bùn, nước đều phải làm chống trơn , chống trượt. Hết sức chú ý đến sàn khu vực khoan, lối đi quanh thuyền bùn, nơi chứa xi măng, quanh những động cơ, lối đi lại ở cầu chính. Để người bị rơi xuống biển khi xảy ra ngã, phải bố trí một số thang thả từ trên công trình xuống mặt biển đến độ sâu dưới mặt nước là 1,5 mét trở lên trong mọi trường hợp mức nước. Những thang này gắn vào trụ đỡ công trình biển cố định, công trình biển có thể chìm được và công trình biển nửa chìm. Có thể gắn ở phía trong những cột tời của sàn tự nâng hoặc ở bên cạnh tàu khoan cũng như có thể theo trụ khoan lên lỗ trung tâm. 173
  58. (2) Công trình khoan: Công trình dưới mực nước biển phải được cố định để không thể dịch chuyển tự do gây tai nạn khả dĩ. Những bộ phận khi thiết kế cho trượt phải được trang bị bộ phận hãm dừng được tức thời và dừng hoàn toàn trong tư thế làm việc. Đường trượt phải có mấu chặn ở mút. Cầu tầu treo được nối hoặc lắp với phương tiện để sơ tán người lao động nhanh nhất từ trên dàn dầu khí. Phải bố trí phương tiện liên lạc giữa những người công nhân và trưởng dàn khoan bằng loa hay interphone. Trong những công trình biển nổi cần có trang bị để bó các cần khoan thành bó trong tháp hoặc trụ khoan tránh sự bung những cần khoan khi có dịch chuyển dàn khoan. Với các công trình nổi, cần có các trang bị dẫn hướng các puli kép di động trong các thiết bị nâng để chống lại sự tròng trành khi sàn dịch chuyển. Với miệng giếng chìm dưới nước, phải bố trí trên dàn khoan mặt bằng đủ để thao tác lắp miệng giếng sẽ đặt ngầm. Trước khi hạ chìm miệng giếng phải thử nghiệm trước khi hạ xuống đáy và tiến hành đậy. Cần có các biện pháp đặc biệt để bảo vệ các bó cáp mềm điều khiển các bộ phận khác nhau của miệng giếng vì các bó cáp này rất nhanh mòn và dễ đứt vì bị va đập, bị tròng trành, bị nhấp nhô. . . Các van điều khiển trong hệ thống ống dẫn dầu và khí nên sử dụng các then an toàn hoặc cần gạt điều khiển trong tủ kính. Số lượng và đặc tính của accu điều khiển van phải sao cho có thể thực hiện được trọn vẹn các thao tác điều khiển trước khi mang nạp. Các thiết bị thử nghiệm của công trình biển khai thác dầu phải để ở nơi thông gió tốt, đặt ngoài khu vực xếp hạng nguy hiểm. Thiết bị thử nghiệm có thể gồm những thứ: thiết bị đun nóng, máy phân ly, buồng thí nghiệm, ống nối, 174
  59. đuốc đốt dầu hay đuốc đốt khí. Thiết bị đun nóng đun bằng khí ( gaz) coi như miệng lửa cháy trần. Cấm bố trí thêm thiết bị khác trong vùng do ngọn lửa ấy mà phân loại thành vùng nguy hiểm. Nếu đun bằng hơi nước thì không bị hạn chế . Máy phân ly cần lắp thêm supap an toàn. Supap này đặt ở áp suất làm việc tối đa ( 2/3 áp suất thử nghiệm). Máy phân ly có một đầu nổ ứng với 110% áp suất làm việc cực đại. Lối thoát của supap và đầu nổ nối với một ống đủ dài để tránh nguy hiểm do nước có thể xì ra. Nếu ống này nối với đường dẫn tháo khí, phải bố trí sao để tránh được áp lực phản ngược của van và của đĩa nổ. Nếu máy phân ly bố trí ở nơi thông gió tốt, khí ở giếng có thể được dùng làm khí thí nghiệm. Các trường hợp khác, bắt buộc phải dùng nitro hay không khí nén. Thù đo lưu lượng phải hoàn toàn kín khi ở tình trạng đóng. Mọi ống lắp vào thùng đểu phải có van bảo hộ. Vòi chảy vào thùng bố trí sao cho dòng chảy đùn từ đáy lên. Thùng đo lắp hệ thống thở gồm: van giảm áp và một khoá ngọn lửa. Nếu lưu lượng dầu hoặc dịch thể đáng kể thì nối luôn ống đuốc vào thùng đo này. Trường hợp mà sản phẩm không cháy, chất lỏng chứa vào thùng theo quy định an toàn dạng cất chứa. Đuốc là một dạng thử nghiệm để nhận biết luồng dầu khí đang vận hành trong công trình biển khai thác dầu. Khoảng cách từ đuốc đến các vùng xếp hạng nguy hiểm tối thiểu là 15 mét. Cần lưu ý hướng gió chủ đạo để sao cho khi gió thổi vào ngọn lửa của đuốc thì ngọn lửa không bị táp vào công trình biển. Khi cần thiết, phải làm màn nước , ngăn bức xạ nhiệt ảnh hưởng đến công trình trong quá trình đốt sản phẩm. Miệng đuốc phải neo buộc chặt một cách đặc biệt, tránh tai nạn khi lưu lượng lớn. (3) Công trình khai thác: 175
  60. Với thiết bị có ngọn lửa để trần như nồi hơi, thiết bị đun phải đặt ngoài vùng phân hạng nguy hiểm và có lắp trang bị ngắt nguồn nhiên liệu tức thời và cách ly hoàn toàn buồng cháy với không gian chung quanh và làm lạnh ngay lập tức chỗ nguy hiểm. Những trang bị có thiết bị nhiệt đun có ngọn lửa trần càng đặt xa miệng giếng , máy phân ly, thùng chứa càng tốt. Nên làm những công trình riêng biệt cho các loại thiết bị này, công trình riêng biệt đặt cách công trình khai thác ít nhất 15 mét và qua lại nhau bằng cầu nối. Bồn chứa dầu thô không được bố trí trong công trình biển có người ở. Trên công trình đang có giếng khai thác, số lượng và sức chứa của các bồn chứa càng giảm, càng tốt. Nếu phải chứa lượng dầu thô lớn nên bố trí một hoặc nhiều bồn chứa tách riêng khỏi công trình đang khai thác và neo đặt xa công trình đang khai thác ít nhất 15 mét, Cầu nối là phương tiện giao thông giữa bồn chứa và công trình khai thác. Bồn đệm nối trực tiếp với máy phân ly, trực tiếp thu nhận áp lực và lưu lượng, được trang bị van an toàn và đĩa nổ có kích thước phù hợp và có bộ phận điều chỉnh cho phù hợp van an toàn. Miệng thở của bồn chứa phải có kích cỡ phù hợp và lắp khoá tắt lửa. Có thể nối dài chiều dài và bố trí sao cho hơi cacbuahydro xả vào không gian không gây rủi ro, nguy hiểm cho độ cao của cầu công trình. Bồn chứa và bồn đệm phải lắp trang bị báo mức dầu “ đã cao” để phát tín hiệu báo động đồng thời ngắt sự chảy đầy thêm dầu vào bồn. Các bồn chứa phải bảo vệ chống ăn mòn. Máy phân ly là thiết bị không cần sự giám sát thường xuyên của con người nên cần trang bị bộ phận ngắt mở tự động khi mức dầu quá cao hay quá thấp cũng như trường hợp áp lực quá cao hay sụt áp quá mức. Khi máy phân ly này hoạt động không tốt thì bộ phận đóng mở tự động sẽ dẫn luồng dầu sang máy phân ly khác, nên phải thiết kế sao cho có một số lượng thích hợp máy phân ly. Máy phân ly cần trang bị van an toàn có kích thước phù hợp và có 176
  61. thể điều chỉnh được. Ngoài ra cần lắp đĩa nổ phù hợp. Máy phân ly hoạt động thường xuyên nên cần bảo vệ chống ăn mòn tốt. Van an toàn bố trí cách ngọn lửa để trần 15 mét và khi hoạt động chỉ thoát ra khí và không có mọi chất lỏng không cháy, phải có ống dẫn cách miệng van 2 mét hướng về phía sao cho không gây ra tai nạn cho người hoặc gây cháy cho thiết bị. Nếu van an toàn thoát ra khí mà khoảng cách chưa đến 15 mét so với vị trí ngọn lửa trần hoặc khí thoát ra có tính chất độc hại thì đường thoát từ van an toàn phải nối với đường thoát một đoạn ống làm theo dạng ống khói có kích thước phù hợp và ống khói này phải được neo giữ. Vị trí của ống khói phải đặt sao cho phù hợp với hướng gió chủ đạo để không ảnh hưởng đến an toàn của người và công trình, đồng thời phải cách các ngọn lửa trần trên 15 mét. Để giảm tai nạn cháy và chống ô nhiễm nước biển, mỗi khi thấy xuất hiện chất lỏng không cháy chảy ra, chất lỏng không cháy này sẽ chuyển ra một thùng chứa riêng. Bơm điện được bảo vệ chống vượt tải nhờ khởi động từ. Đường ống dẫn cao áp của máy bơm phải lắp van an toàn. Bơm hút vận hành bằng gaz phải bảo đảm không gây tai nạn cho người. Bơm động cơ đốt trong đặt trong vùng phân hạng nguy hiểm phải trang bị thêm bộ phận làm lạnh bằng nước và được lắp cặp triệt tia đánh lửa hữu hiệu. Hệ thống các đường dẫn dầu, dẫn khí đặt ở biển ( ống đứng ) phải có giải pháp bảo vệ, chống ăn mòn, chống va chạm. Phải đánh dấu và tuyệt đối không buộc neo thuyền, neo tàu vào những ống ấy. Để tránh tai nạn rủi ro do tàu va chạm với miệng giếng, mọi giếng khai thác phải lắp van an toàn ngầm để đóng kín giếng khi có rủi ro ở miệng giếng hoặc trên mặt công trình biển. Trên công trình biển có nhiều giếng đang khai thác, phải lắp một hệ thống van an toàn để trong trường hợp khẩn cấp có thể đóng toàn bộ giếng từ một hay nhiều nơi đã định trước. 177
  62. Đuốc lửa được dùng khí khí thoát ra cần thiết phải đốt thành đuốc. Ngọn đuốc bố trí ở khoảng cách trên 15 mét và đủ xa công trình hay nơi nguy hiểm. Khi bố trí đuốc cần hết sức lưu tâm đến hướng gió sao cho lửa không táp vào công trình. Cacbuahydro lỏng vì lý do gì đó mà chảy xuống biển không bị khả năng đẩy theo chiều gió mà trôi về phía ngọn đuốc. Để tránh chất lỏng không cháy rớt ra không khí tự do gây tai nạn cho người và công trình phải trang bị ống ở máy phân ly thu gom chất lỏng dẫn về bồn chứa riêng. Đường dẫn thoát chất lỏng phải lắp khoá ngắt lửa hay thiết bị dạng tương tự để tránh việc lan lửa trong đường này khi khí bắt lửa vì lý do ngẫu nhiên nào đó, chẳng hạn như khi bị sét đánh. Trong hệ thống có thể được lắp dạng dập tắt lửa như dạng dùng khí CO2 hay loại bột nào đó có thể dập nhanh chóng ngọn lửa. Động cơ của máy nén khí được lắp riêng thiết bị an toàn ngưng chạy bằng cách khoá nhiên liệu và khoá không khí khi xảy ra: Nhanh quá tốc độ áp lực dầu không đủ Làm nguội kém Mức chất lỏng cao quá trong bộ phận lọc vào máy nén khí Không đủ áp lực hút áp lực quá mạnh ở phía nén Những máy nén khí phải đặt ở nơi thông gió hoàn toàn, Khi cần thiết thì bố trí ở nơi thông gió tối đa. Bộ phận xả khói của động cơ phải bố trí ở trong khu cách ly. Toàn bộ khu vực bố trí các bộ phận của máy nén khí được xép hạng nguy hiểm. Về các thiết bị điện thì công trình biển cố định phải tuân theo các quy định cho công trình biển trên đất liền. Công trình biển di chuyển thì sử dụng các quy định cho công trình điện ở tàu biển. 178
  63. Với các công cụ cẩu chuyển , ngoài đặc tính về sức nâng, các công cụ cẩu chuyển phải có tốc độ nâng nhanh, tránh các tác động của sóng xô. Trước khi cẩu hoạt động cần nâng thử tại chỗ, kết quả thử nghiệm ghi trong hồ sơ an toàn. Khi thí nghiệm, chọn giá trị vượt tải : Máy nâng dưới 20T, sức nâng danh nghĩa + 25%. Máy nâng từ 20~50T, sức nâng danh nghĩa + 5 tấn Trên 50 T, sức nâng danh nghĩa + 10%. Dây cẩu cần có cáp đủ dài để tối thiểu, khi đã thả hết rồi mà vẫn còn cuốn 3 vòng quanh trống tời. Quanh cần trục phải có khoảng không gian quang đãng dùng cho cần cẩu khi khởi động, để tiếp nhận hàng và đặc biệt là có chỗ để “ lồng ” chuyển người. Các phương tiện phòng hộ không được làm ảnh hưởng mọi thao tác của cần cẩu, nhất là khi người lái cẩu bị ảnh hưởng của mặt trời. Trong bán kính hoạt động của cần trục phải được chiếu sáng đầy đủ trong mọi thời điểm và không được có sự vướng cản tầm nhìn của công nhân vận hành. Trên đỉnh tháp cẩu phải có đèn tín hiệu tiêu báo. Cần trục phải có trang bị báo góc nâng của tay cần và bảng cho sức cẩu ứng với góc nâng tay cần ấy. Móc cẩu phải có cữ an toàn theo chiều cao nâng móc. 6.10 An toàn cho người trên công trình biển Với những công trình biển có người làm việc thường xuyên : Phải có trang bị và mọi người đều được huấn luyện để tự sơ cứu và hỗ trợ bạn khi có người bị thương và phương tiện để sơ tán nạn nhân khi cần thiết. Khi điều kiện được phép, có thể bố trí máy bay để sơ tán nạn nhân nhanh chóng. 179
  64. Những công trình loại này cần được trang bị dụng cụ hồi sức. Cần có y tá chuyên nghiệp và nhân viên cấp cứu đã được đào tạo và được cấp chứng chỉ cho phép hành nghề. Khi công trình biển có thợ lặn làm việc, cần có buồng thay đổi áp lực để đảm bảo công nhân lao động được thích nghi với điều kiện áp lực thích hợp khi làm việc. Công trình khi hoạt động không có người làm việc thường xuyên: Khi có người đến hiệu chỉnh tình trạng của công trình biển thì phải trang bị để có thể sơ cứu, chăm sóc người gặp phải tai nạn giống như công trình có người làm việc thường xuyên. Các phương tiện cứu sinh và di chuyển người: + Phương tiện cứu sinh độc lập với công trình giao cho các tàu dịch vụ đảm nhiệm như các tàu cung ứng, tàu chuyển người, tàu kéo moóc . . . hoặc cho máy bay bảo đảm nhiệm vụ chuyển người qua lại giữa công trình biển và đất liền. Mọi tàu chiến, tàu buôn, tàu đánh cá, tàu du lịch trong khu vực có công trình biển phải tuân theo luật hàng hải quốc tế là phải tham gia cứu hộ khi thấy công trình biển phát tín hiệu cấp cứu bằng điện báo SOS hay bằng radio theo tín hiệu âm thanh MAYDAY, Nhận được tín hiệu cấp cứu có nghĩa là nơi phát tín hiệu đang lâm vào tình trạng nguy hiểm đến sinh mạng con người. + Phương tiện cứu sinh đặt ngay tại công trình bao gồm phương tiện cá nhân như dây an toàn, phao cứu hộ hoặc phương tiện tập thể như xuồng, mảng, bóng cứu sinh. Những phương tiện cứu hộ phải được kiểm tra thường xuyên như kiểm tra hoạt động của động cơ của các xuồng cứu hộ có lắp động cơ, thả xuống nước xem độ nổi của các xuồng, kiểm tra sự kín của xuồng. . . 180
  65. Đôi khi còn sử dụng phương tiện cứu hộ là mảng. Mảng cứu hộ đủ độ bền để có thể ném thả mạnh xuống nước mà không hư hỏng. Mảng phải có dây móc để nối được từ một điểm ở công trình đến một điểm trên biển. Có thể dùng mảng chứa hơi nhưng phải đảm bảo sự an toàn của các ngăn chứa hơi. Mọi phương tiện cứu hộ trên công trình biển cần được kiểm tra chất lượng định kỳ và theo đúng kỳ kiểm tra, mọi phương tiện đều bảo đảm được kiểm tra. Những phương tiện khác dùng cho công việc di chuyển trên công trình biển như sau : + Lưới hạ hàng : là lưới bao phủ hàng hoá khi đưa từ trên công trình xuống các phương tiện chuyên chở nổi dưới biển. Lưới được cột chặt vào một điểm chắc chắn trên boong, đặt xa nơi có thể có khả năng cháy. Chiều dài lưới sao cho lưới có thể hạ hàng xuống phương tiện dưới biển. + Dây và thang dây được trang bị kèm với lưới hạ hàng và cũng thả từ điểm buộc trên boong xuống mặt biển để người có thể lên xuống xuồng từ công trình biển . Dây và thang dây phải được kiểm tra thường xuyên độ bền và tình trạng sử dụng được. Công trình biển có người làm việc không thường xuyên, khi người đến làm việc phải được trang bị dây an toàn, áo cứu hộ ( áo phao ), phao cứu hộ, và mảng cứu hộ đủ cho số người đến có thể di rời bằng mảng khi muốn. Những người đến công tác trên công trình biển loại này cần được trang bị phương tiên liên lạc ( máy vô tuyến xách tay) hay phương tiện phát tín hiệu ( pháo hiệu , còi hú . . .). Khi kiểm tra các phương tiện cứu hộ phải ghi biên bản trong nhật ký an toàn công trình biển, có lời ghi chú tình trạng, kích thước, số đo và những khuyết tật phát hiện được và những nhận xét khác. 181
  66. 6.11 Yêu cầu chung về an toàn làm việc trên các công trình biển: Để quản lý an toàn khi làm việc trên công trình biển phải phân định trách nhiệm rõ ràng. Chủ nhiệm công trình quyết định sự lựa chọn loại công trình và trang thiết bị. Chủ nhiệm công trình là người phải bảo đảm chế độ bảo dưỡng cũng như định ra chế độ kiểm tra xuốt quá trình vận hành công trình. Vận hành công trình có hiệu quả hay không, có an toàn hay không là trách nhiệm của chủ nhiệm công trình. Chủ nhiệm công trình có trách nhiệm đưa các quy định vào thực hiện. Trong quá trình vận hành, khai thác công trình biển, chủ nhiệm công trình được quyền uỷ nhiệm toàn phần hay một phần công việc cho người nhận thầu, điều này phải ghi rõ trong hợp đồng theo những phần liên quan. Trưởng dàn khoan là người chịu trách nhiệm chung về vận hành công trình. Người chỉ huy hàng hải phải chịu trách nhiệm khi chuyển dịch công trình hoặc máy rời khỏi giếng nếu công trình biển thuộc loại dịch chuyển được. Người trưởng dàn khoan phải chịu trách nhiệm về an toàn cho người làm việc trên dàn khoan cũng như trên các nơi phụ cận thuộc phạm vi điều phối của công trình dàn khoan. Trưởng dàn khoan phải thường xuyên kiểm tra tổng thể mọi thao tác và mọi người lao động trên dàn khoan phải tuân theo mệnh lệnh của trưởng dàn khoan. Khi có khách thăm, người trưởng dàn klhoan phải thông báo đầy đủ quy chế an toàn, hướng dẫn cho khách biết cách sử lý khi có sự cố, tai nạn. Bảng nội quy an toàn chung và riêng cho từng nơi phải được phổ biến cho từng người và phải treo, dán ở những nơi dễ thấy. Nội quy an toàn phải ghi đầy đủ các điều sau: + Kỷ luật trên boong + Điều lệ phòng chống cháy + Phòng ngừa tai nạn 182
  67. + Di chuyển, thoát người. Những quy định bắt buộc phải ghi rõ để tuân theo khi khẩn cấp đối với các trường hợp: Quanh khu vực nguy hiểm như đầu phun, sử dụng năng lượng nổ, thử nghiệm sản phẩm. . . Khi di chuyển, các quy định về đảm bảo sức khoẻ cho người di chuyển. Khi có trục trặc kỹ thuật, phải đề phòng những tình huống tai nạn gì có khả năng xảy ra. Nhóm cán bộ phụ trách an toàn ( an toàn viên ) phải có đầy đủ những người thuộc các nghề nghiệp khác nhau như trưởng cơ khí, thợ điện. . . Những người này chịu sự điều khiển của trưởng dàn khoan về mặt an toàn, nhưng có thể do phân công mà cấp phó dàn khoan đặc trách. Trưởng dàn khoan phải chịu trách nhiệm đào tạo nhân viên trong nhóm an toàn. Nếu trưởng dàn khoan thấy cần thiết thì được mới chuyên gia đào tạo. Chủ nhiệm công trình sẽ quyết định việc cho mời. Hồ sơ về an toàn trên dàn khoan phải ghi rõ các mục sau: Sự ổn định của dàn khoan Hệ kéo dắt các thiết bị di chuyển Sự chía ngăn và tình trạng các hầm và khoang chứa nước dằn cũng như các phương tiện bơm. Sự thông gió Phương tiện chống cháy và các vòi nước . Việc lắp đặt những trang bị chống cháy. Việc sắp xếp chỗ chứa và tính chất của các vùng nguy hiểm cũng như sự cố có thể xảy ra cho từng vùng. Sơ đồ và các chỉ dẫn sử dụng các thiết bị an toàn. Chương trình đào tạo, các bài tập thao diễn về an toàn cho mọi người. 183
  68. Sổ ghi chép theo dõi về công tác boả dưỡng dụng cụ, trang bị an toàn Các giá trị giới hạn của thiết bị an toàn khi vận hành, khi thay đổi neo đậu, khi di chuyển. Kết quả thử nghiệm, kiểm tra trang bị an toàn, kết quả thao diễn. 6.12 Các hoạt động trên công trình biển: Lệnh sản xuất: Chỉ có trưởng dàn khoan là người được phép ra lệnh sản xuất theo những điều kiện cụ thể của gió, các điều kiện khác của biển, điều kiện tầm nhìn; + Cho phép tiến hành hoặc đình chỉ công việc làm trên boong, đặc biệt đối với những việc có khả năng rủi ro nhiều như đặt ống dẫn, hạ ống, thử nghiệm, phụt, hạ ống dẫn, các việc liên quan đến miệng giếng. + Cho phép neo tàu dịch vụ + Cho phép thực hiện các thao tác chuyển dịch vị trí + Quyết định và đảm bảo trong các trường hợp gay cấn, trường hợp di chuyển người. Trưởng dàn khoan phải được sự hỗ trợ tích cực của tàu dịch vụ hay tàu cứu hộ, của máy bay trực thăng cũng như mọi phương tiện mà trưởng dàn khoan yêu cầu qua vô tuyến điện. Trưởng dàn khoan phải được thông báo đầy đủ về các thông số khí hậu, khí tượng do các trạm đo đạc thông qua vô tuyến điện như: Tốc độ gió, hướng gió Thiết bị đo khí áp và dữ liệu về khí áp Nhiệt độ không khí và nước biển Thiết bị đo chiêù cao, chu kỳ của sóng, tốc độ và hướng dòng chảy dưới biển. Tin tức về bão và áp thấp 184
  69. Trên công trình biển phải có nhân viên chuyên trách liên lạc vô tuyến cùng với trang bị vô tuyến đầy đủ. Nhân viên chuyên trách vô tuyến phải hướng dẫn cho nhiều người khác nắm được cách sử dụng liên lạc viễn thông. Khi trên công trình chỉ có ít người thì mọi người phải sử dụng thành thạo các phương tiện viễn thông. Trên công trình biển cần được trang bị một đồng hồ báo thức vô tuyến. Loại đồng hồ này rất cần thiết cho sự an toàn của người và công trình. 6.13 Biện pháp an toàn khi di chuyển công trình biển di động: Công trình biển di động muốn di chuyển phải có lệnh của cấp có thẩm quyền quyết định. Cần kiểm tra cẩn thận tải trọng trên công trình. Mọi thiết bị không cố định phải neo buộc kỹ càng. Những bồn chứa phải hoặc để rỗng hoàn toàn hoặc chứa đầy ắp và phải bảo đảm rằng bồn được đậy hết sức kín. Người làm các thao tác phục vụ việc di chuyển phải đáp ứng điều kiện làm việc trên biển ngay cả khi lộng gió và sẵn sàng có sự trợ giúp để hoàn thành mọi thao tác mà không nguy hiểm. Cần lưu ý để khi xảy ra tình huống mà khí hay dầu nếu có bị phụt thì cũng không hất vào đến công trình. Việc cặp mạn tàu vào công trình dù trong tình huống dòng nước biển ra sao cũng không được ảnh hưởng đến sự ổn định của công trình cũng như làm mất cân bằng của neo. Gió chủ đạo không làm nguy hiểm cho máy bay trực thăng. Khi di chuyển công trình số người cần thiết trên công trình phải giảm đến mức tối thiểu. Khi lai dắt không được gây trở ngại cho hoạt động hàng hải và phải tuân theo quy định về tín hiệu. Trong xuốt quá trình thao tác di chuyển phải bố trí một tàu đủ chứa toàn bộ số người ở công trình lên tạm trú. Mọi người thao tác trên công trình phải mặc áo cứu hộ. 185