Bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên về công tác giáo viên chủ nhiệm trong trường Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông (Quyển 2)

doc 225 trang ngocly 4080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên về công tác giáo viên chủ nhiệm trong trường Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông (Quyển 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docboi_duong_can_bo_quan_ly_giao_vien_ve_cong_tac_giao_vien_chu.doc

Nội dung text: Bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên về công tác giáo viên chủ nhiệm trong trường Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông (Quyển 2)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG CÁN BỘ QUẢN LÝ, GIÁO VIÊN VỀ CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (Tài liệu lưu hành nội bộ) Quyển 2 Hà Nội, tháng 6/2011 1
  2. Chủ biên : PGS.TS Nguyễn Thanh Bình Tham gia: PGS.TS. Đào Thị Oanh TS. Vũ Thị Sơn Ths. Nguyễn Thị Hằng LỜI MỞ ĐẦU Trước thực tế chất lượng giáo dục nhân cách HS và giáo viên chủ nhiệm gặp nhiều khó khăn trong việc quản lí và giáo dục HS, Vụ TrH, Bộ GD-ĐT đã tổ chức Hội thảo về nâng cao năng lực công tác chủ nhiệm lớp ở trường Trung học tại TP Đà Lạt, tháng 01/2011 nhằm thăm dò nhu cầu về nội dung bồi dưỡng nâng cao năng lực cho GVCN ngay trong dịp hè năm 2011. Theo đó có13 kĩ năng được chọn ở mức độ ưu tiên hơn (đa số ý kiến cho là rất cần) đó là: Nhóm kĩ năng giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi công tác chủ nhiệm - Vai trò, chức năng của GVCN vừa là nhà GD vừa là nhà quản lý tập thể HS 2
  3. - Kĩ năng tổ chức giáo dục KNS cho HS -Kĩ năng ngăn ngừa và giải quyết những xung đột trong tập thể lớp - Kĩ năng tổ chức giờ sinh hoạt lớp - Kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt và HS có hành vi không mong đợi - Kĩ năng xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp ( kế hoạch năm, học kì, tháng, tuần) - Kĩ năng xử lí tình huống giáo dục - Kỹ năng tìm hiểu đặc điểm học sinh - Đặc điểm tâm lí- xã hội của HS THCS/ THPT hiện nay - Kĩ năng phối hợp với cha mẹ HS Nhóm kĩ năng mềm - Kĩ năng lắng nghe tích cực và cảm thông - Kĩ năng kiểm soát/làm chủ cảm xúc của bản thân - Nhận thức hậu quả sự thiếu trách nhiệm của GVCN Trên cơ sở đó, Vụ TrH và nhóm nghiên cứu ở Viện Nghiên cứu sư phạm, ĐhSPHN đã thống nhất những nội dung này được biên soạn thành: Tài liệu tập huấn và tài liệu tự đọc cho GVCN Tài liệu dành cho GVCN tự đọc này bao gồm những nội dung sau: 1. Vai trò, chức năng của GVCN 2. GVCN vừa là nhà GD vừa là nhà quản lý tập thể HS. 3. Nhận thức hậu quả sự thiếu trách nhiệm của GVCN 4. Đặc điểm nhân cách của HS THCS/ THPT hiện nay 5. Kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt và HS có hành vi không mong đợi 6. Kĩ năng lắng nghe tích cực và cảm thông 7. Kĩ năng tạo động lực học tập và hoàn thiện nhân cách cho HS 8. Kĩ năng quan hệ, hợp tác với phụ huynh HS Tài liệu được sử dụng để GVCN tự học cho nên ở mỗi vấn đề chúng tôi đều xác định mục tiêu, nội dung cơ bản, câu hỏi để GVCN trả lời và tự đánh giá mức độ nắm vấn đề của bản thân. Trong phần nội dung, tùy từng vấn đề các tác giả cố gắng hướng vào trả lời 3 câu hỏi cốt lõi sau: 1. Vì sao phải làm việc này? Nội dung trả lời cho câu hỏi này đề cập đến những luận cứ lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao nhận thức cho giáo viên chủ nhiệm lớp 2. Làm cái gì? (Nội dung phải làm) 3. Làm như thế nào? ( Cách thức thực hiện) Nội dung trả lời cho 2 câu hỏi sau nhằm nâng cao năng lực cho GVCN 3
  4. Đăc biệt là nội dung tài liệu đãcập nhật những cách tiếp cận phù hợp với đổi mới tư duy “hướng vào người học” trong giáo dục hiện nay Chắc chắn cuốn tài liệu này còn những điều chưa đáp ứng nhu cầu của GVCN. Rất mong được sự chia sẻ, góp ý của những người đọc và sử dụng. Thay mặt nhóm tác giả Chủ biên PGS.TS Nguyễn Thanh Bình MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Vai trò, chức năng của GVCN 2. GVCN vừa là nhà GD vừa là nhà quản lý tập thể HS. 3. Nhận thức hậu quả sự thiếu trách nhiệm của GVCN 4. Đặc điểm nhân cách của HS THCS/ THPT hiện nay 5. Kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt và HS có hành vi không mong đợi 6. Kĩ năng lắng nghe tích cực và cảm thông 7. Kĩ năng tạo động lực học tập và hoàn thiện nhân cách cho HS 8. Kĩ năng quan hệ, hợp tác với phụ huynh HS 4
  5. Một số từ viết tắt 1 Ban giám hiệu BGH 2 Cha mẹ học sinh CMHS 3 Kĩ năng hợp tác KNHT 5 Hoạt động ngoài giờ lên lớp HĐNGLL 6 Hoạt động giáo dục HĐGD 7 Học sinh HS 8 Hội đồng giáo dục HĐGD 9 Giáo dục-Đào tạo GD-ĐT 10 Giáo viên GV 11 Giáo viên chủ nhiệm GVCN 5
  6. 12 Giáo viên trung học GV TrH 13 Giáo dục GD 14 Giáo dục học GDH 15 Giáo dục và thời đại GD & TĐ 16 Lực lượng giáo dục LLGD 17 Thanh niên cộng sản TNCS 18 Trung học phổ thông THPT 19 Trung học cơ sở THCS 6
  7. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG1 A. MỤC TIÊU Sau khi đọc xong nội dung này GVCN trình bày được: 1. Vị trí, vai trò của người GVCN lớp trong trường trung học 2. Chức năng và nhiệm vụ của người GV được quy định trong văn bản pháp lí và thực tiễn giáo dục 3. Yêu cầu về đạo đức và năng lực đối với người GVCN. B. NỘI DUNG 1.Phân biệt GVCN và công tác GVCN Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được tổ chức để giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp học. Hình thức tổ chức dạy học, giáo dục theo lớp được hình thành từ thế kỉ XVI do nhà giáo dục Tiệp Khắc Comenxki đề xướng. Để quản lý lớp học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang giảng dạy làm chủ nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) được hiệu trưởng lựa chọn từ những GV có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín trong học sinh, được Hội đồng giáo dục nhà trường nhất trí phân công chủ nhiệm các lớp học xác định để thực hiện mục tiêu giáo dục. Như vậy khi nói đến người GVCN là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người làm công tác chủ nhiệm lớp, còn nói công tác chủ nhiệm lớp là đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người GVCN phải làm, cần làm và nên làm. 2. Vị trí, vai trò của GVCN 2.1. GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh (CMHS) quản lý và chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp. Với tư cách là người đại diện cho tập thể các nhà sư phạm, giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm truyền đạt tới học sinh của lớp chủ nhiệm tất cả yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường tới tập thể và từng học sinh của lớp chủ nhiệm. Đồng thời, giáo viên chủ nhiệm có khả năng biến những chủ trương, kế hoạch đào tạo của nhà trường thành chương trình hành động của tập thể lớp và của mỗi học sinh. Mỗi giáo viên chủ nhiệm còn là một thành viên tham mưu của Hội đồng sư phạm có trách nhiệm phản ánh đầy đủ thông tin về lớp chủ nhiệm cũng như từng thành viên trong tập thể lớp, đề xuất các giải pháp giáo dục học sinh, giúp cán bộ 1 Nguyễn Thanh Bình-Viện Nghiên cứu sư phạm – Trường ĐHSP Hà Nội 7
  8. quản lý, lãnh đạo nhà trường đưa ra các định hướng, giải pháp quản lý, giáo dục học sinh hiệu quả. 2.2. Đối với HS và tập thể lớp, GVCN là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần gũi nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự quản là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn và tính tự giác của mọi HS trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm lớp còn là người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng học sinh của lớp phản ánh với hiệu trưởng, với các tổ chức trong nhà trường và với các giáo viên bộ môn.Giáo viên chủ nhiệm với tư cách là đại diện cho lớp còn có trách nhiệm bảo vệ, bênh vực quyền lợi mọi mặt học sinh của lớp. Ví dụ: những oan ức, sự hiểu lầm của thầy, cô giáo vì một lẽ nào đó. Ai là người giúp các em giải tỏa những băn khoăn vướng mắc trong những quan hệ như vậy, không ai tốt hơn là giáo viên chủ nhiệm. Như vậy, GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng (Ban giám hiệu), giữa các tổ chức trong nhà trường, giữa các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh. Nói một cách khác, giáo viên chủ nhiệm là người đại diện hai phía, một mặt đại điện cho Hội đồng sư phạm, mặt khác lại đại diện cho tập thể học sinh trong quá trình thực hiện công tác chủ nhiệm lớp. 2.3. GVCN là người cố vấn cho công tác đội và công tác Đoàn ở lớp chủ nhiệm GVCN giữ vai trò là người cố vấn cho Ban chỉ huy chi đội của lớp chủ nhiệm ở trường THCS, và là người cố vấn cho Ban chấp hành chi đoàn ở trường THPT. GVCN có thể tư vấn cho đội ngũ này về việc lập kế hoạch và tổ chức các hoạt động theo tôn chỉ, mục đich của từng tổ chức, đồng thời kết hợp với các hoạt động giáo dục trong kế hoạch của lớp sẽ đem lại hiệu quả cao. 2.4. Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường, GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách học sinh và là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội. GVCN vừa đưa ra những định hướng, mục tiêu phát triển, giáo dục HS vừa phải tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có liên quan nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của lớp chủ nhiệm, giáo dục HS hiệu quả. Giáo viên chủ nhiệm cũng là người triển khai những yêu cầu giáo dục của nhà trường đến với gia đình, cha mẹ học sinh, đồng thời cũng là người tiếp nhận các thông tin phản hồi từ học sinh, gia đình học sinh, các dư luận xã hội về học sinh trở lại với nhà trường để giúp lãnh đạo nhà trường có giải pháp quản lý, phối hợp hiệu quả, đồng thời tạo lập mối liên hệ thông tin đa chiều giữa nhà trường – gia đình học sinh – xã hội. 3. Chức năng của người GVCN. Trong lí luận GDH truyền thống công tác chủ nhiệm lớp chủ yếu được xem xét từ bình diện của giáo dục học (GDH), mà ít được quan tâm phân tích từ bình diện quản 8
  9. lí, trong khi đó hai chức năng này bổ trợ và quy định lẫn nhau.GVCN thực hiện chức năng quản lí toàn diện tập thể lớp để thực hiện chức năng giáo dục từng cá nhân có hiệu quả. Vì vậy, cần quan tâm tìm hiểu chức năng lãnh đạo, tổ chức, quản lí của người GVCN. Chức năng lãnh đạo và quản lí là không giống nhau. Người quản lý có chức năng tổ chức thực hiện để đạt mục tiêu, còn lãnh đạo có chức năng định ra đường lối, chiến lược và phương pháp hoạt động, đồng thời tác động, ảnh hưởng, động viên người bị lãnh đạo thực hiện mục đích chung. Tuy vậy, cả hai chức năng này được tích hợp hài hòa ở chủ thể quản lý là người GVCN. Người GVCN thực hiện chức năng quản lí khi là đại diện cho Hiệu trưởng, Hội đồng nhà trường thực hiện các chủ trương, kế hoạch chung của trường, nhưng lại là người lãnh đạo khi phải xác định tầm nhìn cho sự phát triển của HS trong lớp chủ nhiệm với tư cách là người đứng đầu một tập thể lớp, đưa tập thể lớp phát triển thành một tập thể phát triển và thân thiện (chức năng này được phân tích sâu ở nội dung 2 “GVCN – nhà quản lí, nhà giáo dục”). Nhìn tổng thể, theo tác giả, chức năng của người GV chủ nhiệm lớp là lãnh đạo, tổ chức, quản lí, giáo dục tập thể lớp trên cơ sở tổ chức các hoạt động GD, các mối quan hệ GD của HS theo mục tiêu giáo dục nhân cách HS toàn diện trong tập thể phát triển và môi trường học tập thân thiện. Quan niệm trên đã phản ánh sự thống nhất giữa: - Chức năng quản lí và chức năng giáo dục, - Tổ chức các hoạt động GD và các quan hệ của HS theo định hướng phát triển toàn diện nhân cách - Giáo dục tập thể và giáo dục cá nhân, - Tập thể phát triển với môi trường học tập thân thiện [2]. 4. Nhiệm vụ của GVCN 4.1.Nhiệm vụ của GV CN lớp được quy định trong các văn bản pháp lí [5]. a.Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của mọi học sinh. b. Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh của lớp. c.Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ. d.Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng Trong 3 năm học gần đây khi thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa THPT, thì GV chủ nhiệm còn có thêm nhiệm vụ: “Theo dõi tình hình tổ chức dạy và học tự 9
  10. chọn của lớp mình phụ trách; Theo dõi kết quả học tập tự chọn của học sinh, tổng kết, xếp loại và ghi kết quả học tập của HS theo quy định” [4]. Như vậy nhiệm vụ của GV chủ nhiệm lớp được quy định trong các văn bản pháp lí của Bộ GD & ĐT còn sơ sài mới chỉ ở khía cạnh tìm hiểu, nắm vững và tác động phù hợp đến HS ( phản ánh chức năng giáo dục); phối hợp với các lực lượng giáo dục ( phản ánh chức năng tổ chức, điều phối); đánh giá, hoàn thành hồ sơ HS và cung cấp thông tin phản hồi cho lãnh đạo nhà trường ( Thực hiện chức năng quản lí). 4.2. Những công việc GVCN phải thực hiện trong thực tế Trên thực tế, GVCN phải thực hiện rất nhiều công việc. Hầu hết giáo viên cho rằng, công tác chủ nhiệm lớp là công việc bận rộn, vừa dễ vừa khó, vừa đơn giản vừa phức tạp, là một công việc khó khăn vất vả và chiếm nhiều thời gian, sức lực của mỗi giáo viên. Tùy theo quan niệm về trách nhiệm của GVCN và tâm huyết nghề nghiệp mà mỗi GVCN thực hiện công tác chủ nhiệm ở các mức độ và theo những cách đa dạng khác nhau. Quan niệm công tác chủ nhiệm là dễ và đơn giản nếu người GVCN chỉ thực hiện có chừng mực những công việc được quy định trong công tác chủ nhiệm lớp, lặp đi lặp lại với những công việc như: làm việc theo kế hoạch chung, theo đợt phát động và tổng kết thi đua, tham dự những tiết chào cờ, tổ chức những giờ sinh hoạt lớp hàng tuần, tổ chức những buổi họp phụ huynh học sinh trong từng học kì, đôi khi gặp gỡ trao đổi với cha mẹ và HS cá biệt, đánh giá HS, ghi sổ chủ nhiệm, sổ liên lạc, phê học bạ hay thu tiền học phí, Bên cạnh đó, lại có những GVCN làm những việc thấy cần phải làm vì HS với tâm huyết, tinh thần trách nhiệm cao.Những GVCN như vậy sẽ thấy công tác chủ nhiệm vô cùng khó khăn và phức tạp, chiếm nhiều thời gian và tâm trí của họ. Khái quát những công việc mà GVCN lớp đã làm trong thực tiễn giáo dục hiện nay, bao gồm: - Lập kế hoạch năm học dựa trên kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học chung của nhà trường. Trên thực tế GVCN xây dựng kế hoạch còn mang tính hình thức, hoặc duy ý chí , chưa theo quy trình khoa học, có tính đến các yếu tố mục tiêu, điều kiện nên tính khả thi và hiệu quả còn hạn chế. Do đó, nảy sinh nhu cầu từ thực tế của GVCN và các các nhà quản lý GD là cần trang bị năng lực ( kĩ năng) xây dựng các loại kế hoạch cho GVCN. - Tìm hiểu các thông tin, phân loại học sinh lớp chủ nhiệm (hoàn cảnh gia đình, đặc điểm HS về các mặt học lực, đạo đức, sức khỏe dự báo và diễn biến trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh), trong đó đặc biệt quan tâm đến học sinh là con thương binh, học sinh nghèo vượt khó Trên thực tế việc tìm hiểu HS và lớp chủ nhiệm cũng hết sức đa dạng. Nhìn chung GVCN sử dụng phương pháp trò chuyện hoặc phiếu khai những thông tin cơ bản về gia đình HS. Làm thế nào để hiểu đầy đủ, chính xác về HS và các yếu tố ảnh hưởng đến học 10
  11. tập và phát triển nhân cách HS cũng còn đang là vấn để cần được nâng cao năng lực cho GVCN. - Tổ chức đội ngũ cán bộ tự quản và xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Đội ngũ cán bộ lớp là những người trợ giúp đắc lực giúp GVCN thực hiện chức năng của mình, nhưng họ không phải là công cụ, hay cánh tay nối dài của GVCN. Trong thực tế đã có những GVCN sử dụng đội ngũ cán bộ lớp chưa thực sự đúng mục đích, nên đã gây mâu thuẫn giữa đội ngũ tự quản với các HS khác trong lớp, đặt họ vào những tình thế khó xử. Đội ngũ cán bộ lớp là những người được GVCN bồi dưỡng năng lực tổ chức và quản lý tập thể lớp để đảm bảo sự thống nhất giữa quản lý của GVCN và tự quản của HS. Xây dựng tập thể HS phát triển và thân thiện vừa là mục đích vừa là phương tiện để giáo dục nhân cách từng HS, đồng thời đưa tập thể đến trạng thái phát triển cao hơn là nhiệm vụ của GVCN. Nguyên tắc giáo dục trong tập thể bằng tập thể cần được quán triệt trong công tác chủ nhiệm lớp. - Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nội dung, hoạt động giáo dục toàn diện (hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chương trình, hoạt động sinh hoạt dưới cờ, giờ sinh hoạt lớp, hoạt động tư vấn trong công tác hướng nghiệp, dạy nghề ) - Liên kết với các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường để đảm bảo sự thống nhất trong giáo dục học sinh và tăng cường sức mạnh đồng bộ nhằm đem lại hiệu quả. - Đánh giá kết quả giáo dục và học tập của HS lớp chủ nhiệm trong suốt quá trình cũng như khi sơ kết, tổng kết năm học. Cách nhìn nhận và đánh giá học sinh của đa số GVCN hiện nay vẫn theo nếp cũ, đơn giản học sinh ngoan là phải biết nghe lời. Một số GVCN cũng chưa có ý thức nâng cao năng lực chủ nhiệm của mình, nâng cao những hiểu biết về xã hội, hiểu biết về thế hệ trẻ mà mình đang có trọng trách giáo dục.Từ đó dẫn đến những đánh giá về học sinh còn chưa đầy đủ, phiến diện và thiếu khách quan.(Trích trong báo cáo hội thảo về GVCN của GV trường THPT Hưng yên).[6] - Quản lí, giám sát việc ghi chép, bảo quản các loại hồ sơ của HS theo quy định của trường ( Sổ lên lớp hàng ngày, Sổ điểm lớp (Lý lịch trích ngang của học sinh, kiểm diện, điểm số, hạnh kiểm, ) Kế hoạch học tập của lớp theo học kỳ, năm học; Thời khoá biểu lớp (diễn biến học tập của học kì và cả năm, phân công giảng dạy), sổ liên lạc, học bạ (giám sát các giáo viên ghi sổ học bạ, GVCN viết nhận xét và xếp loại học lực, hạnh kiểm, ) 5. Các yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm lớp hiện nay 5.1. Về đạo đức nghề nghiệp Nếu như GV dạy các môn học quan tâm nhiều hơn đến kết quả nắm kiến thức và khả năng vận dụng kiến thức đó thì người GVCN thực sự là nhà giáo dục, ảnh hưởng của họ đến nhân cách HS đến hiệu quả giáo dục còn lớn hơn cả người Hiệu 11
  12. trưởng. Chính vì vậy mức độ phát triển nhân cách, đạo đức nghề nghiệp của người GVCN rất quan trọng, tác động của nó đến kết quả giáo dục không thua kém gì năng lực sư phạm, vì đặc thù của nghề này là nhân cách, đạo đức GV cũng trở thành phương tiện giáo dục. Những yêu cầu về nhân cách, đạo đức người GV, kể cả những điều cấm GV không được vi phạm đã được đề cập ở nhiều văn bản pháp quy từ Luật cho đến những văn bản dưới Luật. Người GVCN tối thiểu cũng phải đảm bảo những yêu cầu về đạo đức, nhân cách đã được quy định trong các văn bản này. Cụ thể là: Điều 72. Nhiệm vụ của nhà giáo trong Luật giáo dục (2005) đã quy định[7]: Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ trường phổ thông. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, đổi mới phương pháp giáo dục Điều này cũng tương đương với Điều 31 về Nhiệm vụ của GV trung học Điều 70 (về những tiêu chuẩn nhà giáo phải có), Điều 72 (về nhiệm vụ của nhà giáo), Đặc biệt Điều 75 (về các hành vi nhà giáo không được làm) đã quy định: Nhà giáo không được có các hành vi sau đây: Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm hại thân thể người học. Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện của người học. Xuyên tạc nội dung giáo dục. Ép buộc HS học thêm để thu tiền. Năm 2008 Bộ GD ĐT còn ban hành Quy định đạo đức nhà giáo[8], trong đó: Điều 3. Phẩm chất chính trị 1. Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. 2. Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của tổ chức, có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung. 3. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp 12
  13. 1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo, có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác, có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng. 2. Tận tụy với công việc, thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành. 3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học, thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí. 4. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc, thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục. Điều 5. Lối sống, tác phong 1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 2. Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội, biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ. 3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học, có thái độ văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học, giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo. 4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch sự, phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người học. 5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ, đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học, kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật. 6. Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau, biết quan tâm đến những người xung quanh, thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng. Điều 6. Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo 1. Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy chế, quy định, không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân. 2. Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục. 13
  14. 3. Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp. 4. Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học, đồng nghiệp, người khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng nghiệp và người khác. 5. Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định. 6. Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học và nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường. 7. Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi. 8. Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập thể và trong sinh hoạt tại cộng đồng. 9. Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước. 10. Không trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc, không đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm quy chế chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỷ cương, nề nếp của nhà trường. 11. Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như: cờ bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan, không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy, độc hại. 5.2. GVCN cần quán triệt đường lối, chính sách, mục tiêu, nguyên lí giáo dục của Đảng, Nhà nước, đồng thời phải nắm vững quy chế, điều lệ nhà trường phổ thông, mục tiêu giáo dục của bậc học, của khối lớp về kế hoạch, chương trình hoạt động của nhà trường trong năm học và mỗi học kì để vận dụng vào việc tổ chức hoạt động giáo dục HS. Ngoài ra, GVCN còn phải tính đến các hoạt động văn hóa, chính trị, xã hội của địa phương trong từng năm học để phối hợp tổ chức các hoạt động lôi cuốn HS tham gia nhằm giáo dục HS, cũng như góp phần phát triển cộng đồng. 5.3. Thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp chủ nhiệm để xây dựng hồ sơ học sinh và lập kế hoạch phát triển tập thể. GVCN cần tìm hiểu đặc điểm cá nhân, đặc điểm phát triển trí tuệ, xã hội, xúc cảm- tình cảm và thể chất của học sinh, hoàn cảnh học sinh lớp mình phụ trách để hiểu rõ đặc điểm chung về tập thể lớp chủ nhiệm cũng như những đặc điểm riêng, nhu cầu của từng cá nhân HS. Trên cơ sở đó tìm ra những cách tiếp cận, để thiết kế nội dung và chiến lược giáo dục, phương pháp tác động phù hợp, cũng như khuyến khích kỉ luật tích cực và ý thức tự giáo dục ở mỗi HS. Đây là một trong những biểu hiện của quan điểm trong giáo dục “Hướng vào học sinh” hay là “ Học sinh là trung tâm” 14
  15. Để làm được việc này có hiệu quả, GVCN cần có kĩ năng sử dụng các phương pháp thu thập và xử lí thông tin đa dạng đảm bảo tính khách quan. Chính vì vậy Chuẩn nghề nghiệp GVTrH đã yêu cầu GV phải có năng lực tìm hiểu đối tượng, có phương pháp thu thập và xử lí thông tin thường xuyên về nhu cầu và đặc điểm của học sinh, sử dụng các thông tin thu được vào dạy học, giáo dục(Tiêu chí 6.). Thông qua tìm hiểu thực trạng hoạt động nghề nghiệp của GV chủ nhiệm lớp ở trường THPT cho thấy: cách thức điều tra phổ biến là: ở khối đầu cấp (khối 10), GVCN thường xem lại học bạ của các học sinh ở lớp dưới , xem lại điểm tuyển sinh có trong hồ sơ học sinh. Ở các lớp trên ( lớp 11,12) GVCN tìm hiểu kết quả học tập và rèn luyện của học sinh lớp dưới qua trao đổi với GVCN lớp cũ. Ngoài ra, GVCN còn tìm hiểu học sinh thông qua phần tự khai của các em. GVCN đến tận nhà, tiếp xúc với cha mẹ học sinh để tìm hiểu về các em, nhìn chung hiện nay ít được sử dụng [2]. Vì vậy, GVCN cần được hướng dẫn phương pháp thu thập thông tin về HS và hoàn cảnh gia đình một cách đầy đủ, khách quan, chính xác. 5.4. Với chức năng quản lí, GVCN phải biết lập kế hoạch năm học và các kế hoạch giáo dục ngắn hạn khác để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, các chủ trương, nhiệm vụ nhà trường giao cho. Đây là nhiệm vụ trung tâm của GV chủ nhiệm lớp nhằm tổ chức có hiệu quả các hoạt động GD học sinh lớp chủ nhiệm. Lâu nay việc lập kế hoạch còn mang tính hình thức, bây giờ GVCN cần có kĩ năng lập kế hoạch khoa học hơn, trong đó các thành tố mục tiêu, nội dung, nguồn lực, biện pháp, thời gian thực hiện, kết quả dự kiến được xác định tường minh, cụ thể, đảm bảo tính khả thi. Sau đó là chỉ đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch và giám sát, đánh giá việc thực hiện những kế hoạch này. Chuẩn nghề nghiệp GVTrH yêu cầu “Kế hoạch các hoạt động giáo dục được xây dựng thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế, thể hiện khả năng hợp tác, cộng tác với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường” ( Tiêu chí 16). Chính vì vậy GVCN phải có năng lực tìm hiểu môi trường giáo dục để tính đến vừa như là điều kiện, nội dung tổ chức giáo dục ngay từ khi lập kế hoạch chủ nhiệm ” Có phương pháp thu thập và xử lí thông tin về điều kiện giáo dục trong nhà trường và tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương, sử dụng các thông tin thu được vào dạy học, giáo dục” (Tiêu chí 7. Chuẩn nghề nghiệp GVTrH). Tìm hiểu thực trạng hoạt động nghề nghiệp của GVCN cho thấy: Phần lớn GV chưa nhận thức được ý nghĩa của việc lập kế hoạch, nên đã làm một cách hình thức, thậm chí chép lại của nhau những kế hoạch chung (năm,học kì), kể cả kế hoạch tháng [2]. 5.5. Xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Đây là chức năng đặc trưng và cũng là yêu cầu đối với GVCN mà các giáo viên bộ môn không thể thay thế. Để giáo dục và phát triển toàn diện từng HS, GVCN tất yếu phải xây dựng và phát triển tập thể lớp. Nhiệm vụ của người GVCN đưa tập thể lớp từ trạng thái này đến trạng thái phát triển 15
  16. cao hơn.Tập thể phát triển là tập thể ở giai đoạn có tính tự quản cao, có dư luận tập thể lành mạnh, các mối quan hệ trong tập thể gắn bó và mang tính nhân văn. Tập thể phát triển cũng đồng thời là môi trường học tập thân thiện, chứa đựng văn hóa của mình. Trong chiều sâu văn hóa của tập thể là những giá trị, hệ thống các chuẩn mực và niềm tin của HS. Biểu hiện bên ngoài của văn hóa tập thể là các chuẩn mực hành vi, truyền thống, thói quen được tập thể chấp nhận làm nên bộ mặt riêng của lớp học có tác động giáo dục và phát triển từng nhân cách HS.Đó chính là văn hóa học đường. Môi trường học tập thân thiện là môi trường mà HS được quan tâm mọi mặt, được đảm bảo an toàn, môi trường học tập chất lượng tốt,giúp HS phát huy hết tiềm năng Trong chuẩn nghề nghiệp GV đã yêu cầu GV “Tạo dựng môi trường học tập: dân chủ, thân thiện, hợp tác, cộng tác, thuận lợi, an toàn và lành mạnh”. (Tiêu chí 13). Trong tập thể như vậy, GVCN giáo dục động cơ học tập, giá trị, hành vi tích cực, lành mạnh cho HS thuận lợi hơn. Sứ mạng của người GV trong thế kỉ XXI là phải biết khơi dậy nhu cầu học hỏi và tự hoàn thiện của HS. Thông qua tìm hiểu thực trạng hoạt động nghề nghiệp của GV chủ nhiệm lớp ở trường THPT cũng cho thấy: GV quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lớp để thực hiện nhiệm vụ tự quảnnhưng lại chưa quan tâm đến việc xây dựng dư luận tập thể lành mạnh.Vì vậy, đa số cán bộ lớp bị áp lực giữa một bên là GV và một bên là sự không đồng thuận của đa số HS trong lớp[6]. Cần phải giúp GVCN nhận thức được sự thống nhất giữa xây dựng tập thể phát triển với văn hóa tổ chức của nó và xây dựng môi trường học tập thân thiện cũng như biết cách triển khai nhiệm vụ này trong thực tiễn. 5.6. Tổ chức các hoạt động giáo dục và các hình thức giao lưu đa dạng. Bên cạnh việc sử dụng hệ thống các mối quan hệ và các giá trị, truyền thống trong tập thể để giáo dục HS, GVCN còn phải tổ chức giờ sinh hoạt lớp, hoạt động GD ngoài giờ lên lớp theo chủ đề và các loại hình hoạt động GD đa dạng khác phù hợp với mục tiêu giáo dục của hoạt động (mục tiêu trội mà hoạt động đó có ưu thế và mục tiêu giáo dục toàn diện mà hoạt động đó có tiềm năng). Đây là một nhiệm vụ cơ bản của GVCN.Thông qua tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, đa dạng để giáo dục hành vi, thói quen ứng xử văn hóa cho HS về các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, lao động đồng thời, qua đó phát triển tập thể lớp và từng HS. Tiêu chí 18 trong Chuẩn nghề nghiệp giáo viên TrH yêu cầu GV “Thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng” và “Thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua các hoạt động trong cộng đồng như: lao động công ích, hoạt động xã hội theo kế hoạch đã xây dựng” (Tiêu chí 19). Trong xã hội hiện đại, GVCN rất cần chú trọng giáo dục những giá trị sống và kĩ năng sống (KNS) cho HS để các em có thể tránh được những rủi ro, vượt qua những thách thức trong cuộc sống. Cần phối hợp tổ chức các chủ đề giáo dục những KNS phù hợp với từng lứa tuổi, vùng miền và giáo dục KNS theo tiếp cận Bốn trụ cột trong giáo dục thế kỉ XXI “ Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình, Học để chung sống với mọi người” 16
  17. Trên thực tế, đa số GV chủ nhiệm không thực hiện đầy đủ và thực hiện một cách hình thức các chủ đề hoạt động ngoài giờ lên lớp. 5.7. Phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột trong lớp Sự bất hòa và những xung đột nảy sinh là điều khó tránh trong các mối quan hệ giữa các thành viên của tập thể. Thực tiễn bạo lực học sinh trong nhà trường hiện nay đang làm mọi người đều bức xúc và để lại hậu quả nặng nề về tâm lí, tinh thần học sinh. Do đó GVCN cần lưu tâm ngăn ngừa và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn có thể trong tập thể lớp chủ nhiệm. Một tập thể phát triển có văn hóa tổ chức, là môi trường học tập thân thiện thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết trên nền của sự thiện chí, tôn trọng, thừa nhận lẫn nhau . 5.8. Đánh giá kết quả tu dưỡng, học tập và sự tiến bộ của HS về các mặt giáo dục. Quy chế đánh giá xếp loại học sinh THCS và THPT ban hành theo Quyết định số 40/2006/ QĐ-BGDDT ngày 05 tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT) quy định một số việc phải làm cụ thể của GVCN về đánh giá kết quả học tập và đạo đức của HS để xếp loại mang tính quản lí hành chính. Theo quan điểm đánh giá để phát triển HS, người GVCN hiện nay cần thường xuyên thu thập và xử lí thông tin để khích lệ HS vươn lên, hoặc điều chỉnh kịp thời những hành vi không mong đợi của các em. Ngoài yêu cầu đánh giá khách quan, công bằng, đánh giá HS còn cần hướng đến làm tăng lòng tự tin, muốn tự hoàn thiện của các em. GVCN cần nhìn HS theo quan điểm động và phát triển. Quan trọng nhất là GVCN cần phân biệt giữa đánh giá hành vi và đánh giá nhân cách HS, tránh từ hành vi không mong đợi đơn lẻ của HS quy kết thành đặc điểm nhân cách. Chuẩn nghề nghiệp GVTrH đã yêu cầu “Đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức của học sinh một cách chính xác, khách quan, công bằng và có tác dụng thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của học sinh” (Tiêu chí 21). Qua khảo sát cho thấy:Đa số GVCN chưa đi vào chiều sâu đánh giá HS, mục đích của đánh giá chỉ nhằm xếp loại, chưa quan tâm tư vấn cho HS những điểm mạnh, điểm chưa hoàn thiện để HS tiếp tục phấn đấu, tu dưỡng tiếp theo 5.9. Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường xây dựng môi trường giáo dục, tổ chức giáo dục và đánh giá học sinh. GVCN thường xuyên cần kết hợp với GV bộ môn để giáo dục HS và tổ chức hoạt động tự học nhằm không ngừng nâng cao chất lượng học tập cho HS lớp mình.GVCN cũng phải phối hợp với tổ chức Đoàn, các tổ chức xã hội khác để GD đạo đức, nề nếp, lối sống cho học sinh; tổ chức và đưa HS vào hoạt động xã hội.Đặc biệt, GVCN cần phối hợp với cha mẹ HS để xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, dựa trên tình cảm, quan hệ huyết thống, tác động giáo dục đến con, em theo mục tiêu giáo dục, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của HS. Quy chế đánh giá xếp loại học sinh THCS và THPT ban hành theo Quyết định số 40/2006/ QĐ-BGDDT ngày 05 tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT) cũng quy định trách nhiệm GVCN phải “Phối hợp với Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Ban Đại diện cha mẹ học sinh 17
  18. của lớp để tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh” ( Điều 19), đồng thờiChuẩn nghề nghiệp GVTrH cũng yêu cầu GV “Phối hợp với gia đình và cộng đồng trong hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường” (Tiêu chí 22). GVCN phối hợp với các lực lượng xã hội để xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và tổ chức các hoạt động giáo dục HS. Qua điều tra cho thấy: GVCNphối hợp nhiều nhất với cán bộ Đoàn trường, sau đó là với cha mẹ HS để thông báo về tình hình học tập, hạnh kiểm của học sinh.Đôi khi GVCN có phối hợp với GV môn học và Ban đại diện cha mẹ HS Theo Điều lệ nhà trường GV chủ nhiệm có quyền dự các giờ học, hoạt động giáo dục khác của học sinh lớp, trên thực tế GVCN chưa thực hiện quyền này để hiểu và phối hợp với các GV khác giáo dục, phát triển tập thể lớp chủ nhiệm. 5.10. Cập nhật hồ sơ công tác giáo viên chủ nhiệm và hồ sơ học sinhbằng công nghệ thông tin. Bộ GD-ĐT cũng quy định về hồ sơ học sinh, sinh viên và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ học sinh, sinh viên (Ban hành kèm theo Quyết định số 58/2007/QĐ-BGDĐT ngày 12 tháng 10 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Việc tổ chức ứng dụng và khai thác công nghệ thông tin trong công tác quản lí học sinh, sinh viên ở các trường là một trong những tiêu chuẩn xét thi đua năm học đối với các cơ sở giáo dục. Một mặt, việc cập nhật hồ sơ công tác giáo viên chủ nhiệm và hồ sơ học sinh không chỉ là thực hiện yêu cầu từ góc độ quản lí hành chính, mặt khác cập nhật hồ sơ học sinhđể theo dõi sự phát triển của các em và khi cần thiết có thể kịp thời can thiệp điều chỉnh. Trong xã hội hiện đại HS gặp nhiều thách thức về tâm lí, tinh thần, trong khi trong nhà trường nhìn chung chưa có đội ngũ cán bộ thực hiện chức năng tâm lí học đường, nên GVCN cần phải thực hiện chức năng tư vấn/ thậm chí là tham vấn để HS tự giải quyết vấn đề bằng chính nội lực của mình. 6. Chức năng, nhiệm vụ của GVCN trong trường phổ thông ở một số nước[9]. 6.1. Chức năng, nhiệm vụ của GVCN trong hệ thống giáo dục của Nhật và Trung quốc có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam và khá nặng.Chức năng, nhiệm vụ của GVCN đều có liên quan đến tổ chức, quản lý lớp học và chịu trách nhiệm về quá trình giáo dục toàn diện HS. Một số chức năng, nhiệm vụ chính của GVCN là: - Lãnh đạo, tổ chức, quản lý lớp chủ nhiệm theo các quy định của nhà nước và nhà trường. - Hướng dẫn, trợ giúp HS về mọi mặt trong học tập và đời sống tinh thần, các mối quan hệ xã hội - Giáo dục tư tưởng, đạo đức, kỉ luật cho HS. - Thực hiện các chức năng tư vấn tâm lí, tình cảm nghề nghiệp cho HS. - Trợ giúp BGH nhà trường trong việc thực hiện kế hoach giảng dạy và các chính sách, biện pháp giáo dục. 18
  19. - Cùng chia sẻ trách nhiệm giáo dục HS với cha mẹ HS. Ở Nhật Bản, GVCN còn có trách nhiệm với HS trong thời gian các em không ở trong trường, nếu HS có vấn đề gì như tai nạn, hoặc liên quan đến pháp luật, cảnh sát không chỉ liên hệ với gia đình mà còn báo cho cả GVCN. 6.2. Còn ở các nước như Mỹ, Úc, GVCN hướng dẫn HS có thể nhận được sự trợ giúp, hướng dẫn từ nhiều nguồn khác nhau, không chỉ duy nhất là GVCN nên công tác chủ nhiệm lớp đỡ phức tạp, nhưng GVCN chủ động và linh hoạt hơn. Hơn nữa sĩ số HS trong lớp ở các nước này ít (không quá 25 HS) nên GVCN có điều kiện tiếp cận cá nhân và hiểu HS thuận lợi hơn. Ở Úc GVCN cần quan tâm đảm bảo môi trường an toàn, thuận lợi cho HS học tập, đồng thời GVCN phải lập hồ sơ cá nhân của từng HS để theo dõi quá trình phát triển, tiến bộ của từng em. Ở cả Úc và Mỹ, GVCN cần phát hiện kịp thời những vấn đề, khó khăn của HS và phối hợp với chuyên gia tư vấn, cán bộ xã hội, các đơn vị trợ giúp khác để chăm sóc sức khỏe tinh thần cho HS. Do được chia sẻ trách nhiệm nên GVCN ở các nước này thường tập trung vào giám sát, quản lý lớp học, hỗ trợ chung cho các hoạt động học tập chính khóa và ngoại khóa của HS. 19
  20. C. CÂU HỎI 1. GVCN có vai trò và vị trí như thế nào? 2. GVCN có những chức năng và nhiệm vụ gì? 3. Những yêu cầu về đạo đức và năng lực đối với GVCN hiện nay? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) Nguyễn Thanh Bình. Một số vấn đề trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện nay. NXB ĐHSPHN.2011 2) Nguyễn Thanh Bình( 2010) Công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT. MS.SPHN-09-465NCSP 3) Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học phổ thông (Ban hành kèm theo Thông tư số 30 /2009 /TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) 4) Công văn số 7092/BGDĐT-GDTrH về việc Hướng dẫn dạy học tự chọn cấp THCS và THPT năm học 2006-2007 5) Điều lệ trường Trung học cơ sở, trường Trung học phổ thông vàtrường phổ thông có nhiều cấp học”do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theoQuyết định số: 07/2007/QĐ-BGD&ĐT 6) Kỉ yếu hội thảo về công tác chủ nhiệm lớp do Cục nhà giáo kết hợp với Dự án THCS II tổ chức năm 2010 7) Luật giáo dục 2005. 8) Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/08 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc ban hành Quy định đạo đức nhà giáo 9) Bùi Thanh Xuân. Về công tác GVCN ở một số nước. Bài viết cho hội thảo của đề tài “ Phương hướng nâng cao năng lực giáo dục cho đội ngũ GVCN lớp ở trường phổ thong”. B.2010-37-79TĐ.
  21. GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM - NHÀ QUẢN LÍ, NHÀ GIÁO DỤC2 I. MỤC TIÊU Sau khi đọc xong nội dung này GVCN sẽ: 1. Trình bày được vai trò của người GVCN lớp trong nhà trường THCS, THPT với tư cách là nhà quản lý tập thể HS 2. Trình bày được vai trò của người GVCN lớp trong nhà trường THCS, THPT với tư cách là nhà giáo dục 3. Nhận thức rõ trách nhiệm của người GVCN và tự giác học hỏi, phát triển các năng lực và phẩm chất cần thiết để có thể làm công tác chủ nhiệm hiệu quả. II. NỘI DUNG 1. Giáo viên chủ nhiệm với tư cách là người quản lý tập thể HS Giáo viên chủ nhiệm là người thay thế Hiệu trưởng quản lý toàn diện tập thể học sinh một lớp học để triển khai các tác động giáo dục, các hoạt động giáo dục nhằm đạt được mục tiêu giáo dục. Nói như vậy có nghĩa là GVCN không chỉ quản lý toàn diện tập thể lớp, mà còn quản lý các hoạt động giáo dục toàn diện học sinh ở lớp mình. Chức năng quản lý tập thể lớp của GVCN thể hiện khác nhau ( trực tiếp hay gián tiếp) ở các giai đoạn phát triển khác nhau của tập thể HS, khi đội ngũ tự quản đã vững vàng và tập thể đã ở giai đoạn phát triển thì vai trò quản lý trực tiếp của GVCN chuyển dần sang quản lý gián tiếp, phát huy cao độ vai trò tự quản của đội ngũ cán bộ lớp, tổ và từng thành viên trong tập thể lớp. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt nhận dạng những công việc mà GVCN thực hiện với tư cách là nhà quản lý. 1.1. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm [1]. Với tư cách là nhà quản lý trước hết GVCN phải xây dựng kế hoạch chủ nhiệm, bao gồm lập kế hoạch năm học và các kế hoạch giáo dục ngắn hạn để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, các chủ trương, nhiệm vụ nhà trường giao cho, đồng thời để phát triển tập thể lớp chủ nhiệm.Nếu xây dựng được kế hoạch chủ nhiệm tốt, GVCN cùng lớp sẽ xác định được rõ ràng định hướng tương lai cần đạt của lớp học; đề ra được các hoạt động ưu tiên và tập trung sức mạnh vào những ưu tiên này. Kế hoạch chủ nhiệm lớp là chương trình hành động trong tương lai của lớp chủ nhiệm, nhằm xác định một cách chính xác Tập thể lớp của chúng ta muốn đi đến đâu và cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt được điều đó. Kế hoạch chủ nhiệm của GVCN theo lớp trong suốt 3 hay 4 năm trong 1 bậc học ( THCS hay THPT) được gọi là kế hoạch chiến lược và xây dựng cho 1 năm học được gọi là kế hoạch năm học. 2 PGS.TS. Nguyễn Thanh Bình - Viện Nghiên cứu sư phạm – Trường ĐHSP Hà Nội 28
  22. Trong kế hoạch năm học có kế hoạch công tác cho từng tháng, từng tuần gọi chung là Kế hoạch tháng, Kế hoạch tuần. Bản kế hoạch có định rõ đầu vào mục tiêu (các điều kiện) và đầu ra (sản phẩm), các hoạt động cùng với tiến độ, phân công trách nhiệm (thực hiện vào thời điểm nào? ở đâu? Do những ai thực hiện). Trong quá trình lập kế hoạch, các câu hỏi cơ bản sau sẽ được trả lời: - Lớp chúng ta đang ở đâu? - Lớp chúng ta sẽ đi tới đâu? -Lớp chúng ta sẽ làm gì? làm như thế nào ? bằng phương tiện nào để tới được đó ? - Làm thế nào để biết lớp chúng ta đi đúng hướng và tới đích? Dựa trên yêu cầu, nhiệm vụ năm học cùng với các chỉ tiêu mà nhà trường định hướng kết hợp với kết quả nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm của học sinh (cá nhân và tập thể), các điều kiện, nguồn lực ( từ trong tập thể lớp, trong trường và XHHGD từ gia đình và các lực lượng XH khác), và quan trọng là mong muốn của tập thể lớp cùng GVCN dự kiến sẽ đạt được những mục tiêu nào mà xây dựng kế hoạch. Yêu cầu về những kịch bản ( kế hoạch) phát triển của tập thể lớp mang tính khoa học, khả thi cũng như cách xây dựng những kế hoạch như vậy đã được đề cập trong module “ Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp” thuộc tài liệu tập huấn nâng coa năng lực cho GVCN. Tuy nhiên ở đây để GVCN có cái nhìn tổng quát và hệ thống về quá trình phát triển tập thể HS cần đề cập đến đặc điểm của tập thể HS. Theo lí luận giáo dục tập thể học sinh phát triển qua 3 giai đoạn: - Giai đoạn đang hình thành thì xây dựng tập thể là mục tiêu của GVCN và mọi thành viên trong lớp. Ở giai đoạn này, quan trọng nhất là hình thành được mục tiêu chung, xây dựng đội ngũ tự quản, tổ chức các hoạt động giáo dục. - Giai đoạn đã hình thành: Có kỉ luật và dư luận tập thể lành mạnh. Từ giai đoạn này tập thể đã trở thành phương tiện giáo dục, và giáo dục trong tập thể, thông qua tập thể trở thành nguyên tắc tổ chức giáo dục HS. Giai đoạn này tập thể lớp đã hình thành được các yếu tố của môi trường học tập thân thiện. - Giai đoạn phát triển : Các mối quan hệ trong tập thể mang tính nhân văn, thực sự trở thành môi trường thân thiện đối với sự phát triển của mỗi cá nhân trong tập thể. Các chuẩn mực trong quan hệ, giá trị, truyền thống chung của tập thể - văn hóa tổ chức của tập thể trở thành nội dung, chất liệu để giáo dục phẩm cách của từng thành viên trong đó. Giai đoạn này có thể tương đương với tập thể có môi trường thực sự thân thiện. Theo đó khi xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp với nội dung phát triển tập thể HS, GVCN cần: - Xác định mục tiêu chung và viễn cảnh, văn hóa của tập thể lớp. Mục tiêu chung là yếu tố đầu tiên để đoàn kết mọi thành viên trong lớp. Vì vậy, ngay từ khi mới nhận lớp chủ nhiệm GVCN cùng toàn thể lớp thảo luận để trả lời các câu hỏi: 29
  23. + Hiện tại lớp ta đang ở trạng thái/ giai đoạn phát triển nào? + Chúng ta sẽ phát triển lớp đạt được các mức độ nào trong thời hạn xác định (một học kì? Một năm học? 3 hay 4 năm học) Vì sao? + Làm thế nào để chúng ta đạt được các tiêu chí trong mục tiêu phát triển đó? Đích cuối cùng của bất kì tập thể lớp nào cũng cần phấn đấu để trở thành tập thể đoàn kết và là môi trường thân thiện, trong đó hiện hữu các yếu tố về văn hóa tổ chức , giá trịcủa tập thể lớp. 1.2. Tổ chức bộ máy tự quản Sự trưởng thành của mỗi tập thể HS gắn liền với năng lực tự quản của tập thể đó. Một tập thể học sinh chỉ trở nên vững mạnh trước hết chọn ra được lực lượng cốt cán (gồm đội ngũ cán bộ lớp, ban chấp hành chi đoàn, tổ trưởng ). GVCN cần có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tự quản thông qua thực hiện các nhiệm vụ, các hoạt động. Các biện pháp cụ thể như sau: - Hình thành đội ngũ cán bộ tự quản trên cơ sở cơ cấu tổ chức lớp đã được thiết lập (các tổ chức có thể là cố định, có thể là tạm thời nhưng cần thiết) để đạt được kết quả hoạt động chung, mục tiêu của tập thể. Lựa chọn đội ngũ cán bộ tự quảntheo quan điểm: chọn đúng người, giao đúng việc dựa trên sự lựa chọn dân chủ, bình đẳng, khuyến khích sự ứng cử với những cương lĩnh, kế hoạch hành động phù hợp với từng vị trí. - Đảm bảo có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho từng vị trí, vai trò trách nhiệm. - Đảm bảo mỗi em nhận thức được vị trí, trách nhiệm ( nội dung công việc phải thực hiện) của mình trong cả vai trò độc lập và vai trò phối hợp theo quan hệ dọc, ngang với những vị trí khác trong tập thể lớp trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ có mối quan hệ phụ thuộc tích cực. - Đảm bảo mỗi em được bồi dưỡng phương pháp lập kế hoạch, tổ chức công việc, ghi chép, thông qua hướng dẫn của GVCN, phát huy tối đa sự chủ động, sáng tạo của từng em và thường xuyên rút kinh nghiệm qua thực tiễn công việc. - Đảm bảo luân phiên vai trò tự quản của HS sao cho nhiều HS có cơ hội thể hiện khả năng và rèn luyện kĩ năng quản lí, gương mẫu đối với các bạn, đồng thời qua đó HS nào cũng được trải nghiệm đầy đủ các vị thế. Đây cũng chính là một biện pháp hình thành, giáo dục kỉ luật tích cực cho HS. Sau đây là ví dụ phân công trách nhiệm cho từng vị trí trong bộ máy tự quản[6]: Lớp trưởng là người chịu sự điều hành, quản lý trực tiếp của GVCN lớp. Chịu trách nhiệm trước GVCN điều hành, quản lý toàn bộ các hoạt động của lớp và từng thành viên trong lớp, cụ thể: + Tổ chức, quản lý lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo quy định của nhà trường. 30
  24. + Theo dõi, đôn đốc lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh quy chế, quy định, nội quy về học tập và sinh hoạt của nhà trường. Xây dựng và thực hiện nề nếp tự quản trong HS. + Tổ chức, động viên giúp đỡ những HS gặp khó khăn trong học tập, rèn luyện và đời sống. + Chủ trì các cuộc họp lớp để đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, bình xét học bổng, đề nghị thi đua khen thưởng đối với tập thể và cá nhân HS trong lớp. Cụ thể là : Quản lý 15 phút đầu giờ, theo dõi chung các hoạt động của lớp, tổng hợp kết quả thi đua và điều hành tiết sinh hoạt cuối tuần. Lớp phó phụ trách học tập: Theo dõi nề nếp học tập chung và tổng hợp để đánh giá hoạt động học tập vào tiết sinh hoạt cuối tuần. Lớp phó phụ trách lao động: Phân công, theo dõi, đôn đốc công tác lao động, vệ sinh lớp và khu vực, phân công chăm sóc công trình măng non, tổng hợp để đánh giá vào tiết sinh hoạt cuối tuần. Lớp phó phụ trách Văn - Thể: Theo dõi, đôn đốc các hoạt động văn nghệ, thế dục giữa giờ, tổng hợp để đánh giá vào tiết sinh hoạt cuối tuần. Tổ trưởng: Điều hành các hoạt động của tổ theo sự phân công của lớp trưởng, lớp phó. Theo dõi điểm của các bạn qua phiếu điểm, ký và trả phiếu điểm vào thứ 7 và thu vào thứ 2 hàng tuần. Tổ phó: Kết hợp cùng tổ trưởng đôn đốc các hoạt động của tổ, điều hành tổ khi tổ trưởng vắng. Bàn trưởng: Kiểm tra sách, vở, đồ dùng học tập, trang phục học sinh của bàn. Nhiệm vụ đội cờ đỏ: Theo dõi kiểm tra, đánh giá, giữ trật tự, kỉ luật, thực hiện nội quy của lớp và tổ, báo cáo kết quả hang tuần, tháng cho lớp trưởng và báo cáo trước lớp - Các cán sự chức năng như cán sự môn học thì có nhiệm vụ lien hệ với GV bộ môn, đề đạt nguyện vọng của lớp, xin ý kiến GV bộ môn nhằm giúp lớp học bộ môn có hiệu quả; còn cán sự vệ sinh chịu trách nhiệm kiểm tra đôn đốc vệ sinh lớp và cá nhân, vệ sinh môi trường hàng ngày, cán sự tài chính chịu trách nhiệm thu giữ quỹ lớp, quản lí chi tiêu cho các hoạt động chung của lớp, cán sự văn nghệ chăm lo phong trào văn nghệ cho lớp, cán sự thể thao đôn đốc thể dục giữa gi, chăm lo phong trào thể thao - Thư kí lớp: Bảo quản, ghi chép nhật kí, nghị quyết, biên bản họp lớp [5] Như vậy, mỗi học sinh trong lớp đều có thể tham gia làm cán sự lớp từ lớp trưởng đến bàn trưởng, trong thời gian 1,5 đến 2 tháng, sau đó lại đổi nhiệm vụ ở các vị trí khác. Với các vị trí từ lớp trưởng đến bàn trưởng trong 1 năm học GVCN có thể đảo vị trí từ 4 đến 5 lần và tất cả các học sinh trong lớp đều được tham gia làm cán sự lớp đến 3 lần ở những vị trí khác nhau. Sau mỗi lần đảo nhiệm vụ của các em ở các vị trí cán sự lớp khác nhau, sao cho học sinh nhút nhát cũng có cơ hội đảm nhiệm các công việc đơn giản như bàn trưởng để các em tự tin và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ ở mức cao hơn.GVCN cùng cả lớp đánh giá việc thực hiện chức trách nhiệm vụ của từng em và 31
  25. rút kinh nghiệm, qua đó các em biết chia sẻ, học tập lẫn nhau, và tinh thần tập thể, đoàn kết, thân thiện được nâng cao. GVCN nên khuyến khích mỗi học sinh phát huy sáng tạo, cách điều hành riêng khi thực hiện nhiệm vụ của mình để đảm bảo hiệu quả. Để ban cán sự lớp có thể theo dõi chặt chẽ các mặt hoạt động của học sinh trong lớp, GVCN cần chuẩn bị cho ban cán sự lớp một số sổ sách với các tiêu chí cần thiết cho từng chức danh để các em có thể ghi chép những công việc diễn ra hàng ngày và báo cáo cho GVCN vào cuối tuần. Trong giai đoạn đầu hình thành tập thể GVCN cần thường xuyên đối thoại với đội ngũ cốt cán. Cứ mỗi cuối tuần, giáo viên chủ nhiệm lại tổ chức một cuộc “đối thoại nóng” với cán bộ lớp, vừa để nắm được một cách cụ thể chi tiết hơn tình hình của từng học sinh trên lớp, đánh giá và rút kinh nghiệm để điều chỉnh kịp thời,vừa tạo cơ hội để các cán bộ lớp thể hiện tâm tư nguyện vọng GVCN là người cố vấn và bồi dưỡng hỗ trợ đội ngũ tự quản, giúp các em phân tích, đánh giá, khái quát hóa kinh nghiệm hoạt động tự quản, khắc phục khó khăn, xây dựng và giữ gìn uy tín. GVCN không được khoán trắng cho đội ngũ tự quản, hoặc biến đội ngũ cán bộ tự quản thành công cụ quản lý lớp, tạo ra sự đối lập giữa đội ngũ tự quản với các thành viên khác trong tập thể. Kinh nghiệm thực tế của một số GVCN thể hiện trong báo cáo kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm cho thấy: họ đã có thể phân cấp quản lý cho đội ngũ cán bộ lớp những trách nhiệm to lớn như sau[3].: + Tổ chức cho lớp tham gia đầy đủ các phong trào của các đoàn thể và nhà trường tổ chức. + Giải quyết những vướng mắc tồn tại, những việc phát sinh khác của lớp, giữ vững đoàn kết nội bộ trong lớp. + Thường xuyên liên hệ phối hợp với giáo viên giảng dạy các môn học đối với lớp để nắm tình hình học tập, rèn luyện của các bạn trong lớp. + Báo cáo kịp thời với giáo viên chủ nhiệm về tình hình chung cũng như việc bất thường của lớp, đề xuất các giải pháp xử lý. Nếu đội ngũ cán bộ lớp đảm nhiệm được những trách nhiệm này thì có thể thấy GVCN chỉ giữ vai trò cố vấn, quản lý gián tiếp tập thể lớp mà thôi. GVCN quản lý thông qua chức năng cố vấn hoạt động tự quản của HS: Phát huy sự tham gia và quyền Ra quyết định cho HS. Lúc này GVCN không trực tiếp tham gia điều khiển công việc của lớp mà ủy quyền cho đội ngũ cán bộ lớp, tổ tự quản và tổ chức mọi hoạt động của HS. Bằng cách đó GVCN đã đào tạo được kĩ năng quản lý cho HS ngay từ khi các em đang học phổ thông và sẽ là hành trang rất hữu ích cho các em bước vào đời. Thực hiện chức năng tổ chức, quản lý những GVCN có kinh nghiệm còn quan tâm đến việc lập sơ đồ tổ chức lớp học, mà cụ thể hơn là bố trí và luân chuyển vị trí ngồi học của các thành viên trong tập thể lớp. Việc phân công chỗ ngồi và luân chuyển vị 32
  26. trí ngồi học cũng là một công việc rất quan trọng tạo điều kiện thuận lợi từng HS trong lớp học tập và cho đội ngũ cán bộ lớp, tổ tự quản kỉ luật lớp học, đồng thời góp phần xây dựng quan hệ giúp đỡ, gắn bó với nhau giữa HS trong lớp học. GVCN cần linh hoạt bố trí để : HS yếu kém, chậm tiến ngồi trước; HS khá giỏi ngồi sau. HS thấp ngồi bàn trước, cao bàn sau; HS mắt yếu ngồi gần bảng. Ban cán sự ngồi đan xen ở giữa, trước và sau. Trong một học kì GVCN cần điều chỉnh đổi luân phiên từ 2 đến 3 lần. Mỗi lần thay đổi là một lần thiết lập lại sơ đồ lớp để trên bàn giáo viên để giáo viên bộ môn kết hợp tổ chức hoạt động trong mỗi tiết dạy cho phù hợp. Những em trong Ban cán sự lớp ngồi sau có thể quản lí, theo dõi, nhắc nhở các bạn khác trong các giờ học. Những em học sinh yếu kém ngồi đầu sẽ được giáo viên bộ môn quan tâm theo dõi và giúp đỡ kịp thời, như thế mỗi em sẽ có cơ hội thể hiện mình bằng cách từ bỏ thói quen thụ động, trông chờ, ỷ lại trong học tập. 1.3. Giáo viên chủ nhiệm thực hiện chức năng quản lý qua vai trò là người tổ chức triển khai kế hoạch chủ nhiệm bao gồm các loại kế hoạch, trong đó quan trọng nhất là thiết kế và tổ chức, quản lý, điều phốicác hoạt động giáo dục đa dạng như: Hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ đề, hoạt động văn nghệ, sinh hoạt trại, sinh hoạt dã ngoại, sinh hoạt từ thiện, tham gia các phong trào tình thương, tìm hiểu về quê hương - đất nước, về lịch sử - văn hóa ( Cách thức tổ chức sẽ đề cập cụ thể ở phần GVCN là nhà GD) . Khi tổ chức các hoạt động này, GVCN thể hiện tất cả chức năng quản lý từ khâu:thiết kế - lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động GD cho đến khâu kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động . 1.4. Giám sát, thu thập thông tin thường xuyên về lớp chủ nhiệm Chức năng quản lý của giáo viên chủ nhiệm còn thể hiện là người quản lý, theo dõi, đôn đốc và nắm bắt kịp thời mọi thông tin có liên quan đến lớp chủ nhiệm (thậm chí còn phải thường xuyên lưu tâm đến việc kiểm tra phòng học, cần thang cửa sổ, bàn ghế, những vật dụng trong phòng học có đảm bảo an toàn không? đã được vệ sinh sạch sẽ chưa, cây hoa trong lớp đã được chăm sóc chưa, bàn ghế đã được lau dọn bảo quản chưa? ). Trong những tuần đầu tiên của năm học GVCN luôn có mặt ở lớp chủ nhiệm vào đầu giờ học 10 -15 phút để xem xét tình hình lớp, phải bám lớp trong các hoạt động tập thể như chào cờ, lao động hay các hoạt động ngoại khóa khác. Giáo viên chủ nhiệm nắm bắt tình hình diễn biến của học sinh từng ngày qua đội ngũ tự quản của lớp, giáo viên bộ môn, qua sổ ghi đầu bài, sổ trực của Đoàn, Đội, cờ đỏ, tổ giám thị phụ trách theo dõi về trật tự kỉ luật của học sinh trong nhà trường để kịp thời động viên, biểu dương những mặt tốt của học sinh, nhắc nhở học sinh vi phạm nội quy nhà trường và giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh, hoặc phản ánh nhu cầu, tâm tư nguyện vọng của lớp lên hiệu trưởng nhà trường, với giáo viên bộ môn và các lực lượng khác trong nhà trường, gia đình, xã hội. 1.5. Đánh giá 33
  27. Đánh giá là một trong các chức năng của quản lý.Nhiệm vụ GVCN đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của HS lớp chủ nhiệm đã được quy định trong Điều lệ nhà trường. Tuy nhiên cần hiểu việc đánh giá của GVCN không chỉ sau mỗi học kì hay năm học, mà bao gồm cả đánh giá thường xuyên trong suốt quá trình HS học tập và tu dưỡng. Đánh giá kết quả cuối cùng sau mỗi học kì, hay kết thúc năm học đã có những văn bản hướng dẫn của các cấp quản lý giáo dục, nhưng đánh giá quá trình lại do GVCN và tập thể lớp quyết định. Vì vậy, GVCN và lớp cần phải xây dựng tiêu chí đánh giá sao cho vừa đo được đúng bản chất cái cần đo, đồng thời đảm bảo tính khách quan, công bằng trong đánh giá sự tiến bộ của từng HS cũng như phong trào chung, hay sự phát triển của tập thể. Phương thức đánh giá đảm bảo sự tham gia tự đánh giá của HS theo cơ chế hàng tuần dựa vào tiêu chí đã được thống nhất các tổ đánh giá xếp loại hàng tuần, lớp trưởng tổng hợp tình hình từ các tổ trưởng và lớp phó sau đó báo cáo cho GVCN và tập thể lớp. GVCN là người tổng kết, nhận xét chung và biểu dương các thành tích đạt được đồng thời rút kinh nghiệm những điều còn tồn tại qua từng tuần,tháng, học kì và cả năm học. Một nội dung rất quan trọng trong đánh giá là: GVCN cùng tập thể HS xác định xem sau mỗi chặng đường trong năm học tập thể lớp đã đạt đến trình độ phát triển nào dựa trên các tiêu chí: Các giá trị, truyền thống mà lớp đã có; Mức độ tự quản của HS, tính chất các mối quan hệ giữa các thành viên trong tập thể, tác động của dư luận tập thể/ ảnh hưởng giáo dục của tập thể đối với từng thành viên trong đó để xem có đạt được mục tiêu đã đặt ra trong kế hoạch hay không? Nếu không thì cần điều chỉnh gì hay có những biện pháp khắc phục nào? 1.6. Cập nhật hồ sơ công tác giáo viên chủ nhiệm và hồ sơ học sinh không chỉ là thực hiện yêu cầu từ góc độ quản lí hành chính, mặt khác cập nhật hồ sơ học sinhđể theo dõi sự phát triển của các em và khi cần thiết có thể kịp thời can thiệp điều chỉnh. 1.7. Vai trò quản lý của GVCN còn thể hiện ở vai trò cố vấn cho BCH chi đoàn Đoàn, BCH chi Đội trong lớp chủ nhiệm. GVCN là người lĩnh hội các chủ trương, kế hoạch công tác, phong trào của nhà trường và các đoàn thể trong trường, đồng thời cũng là người đồng chí của đoàn viên HS, người phụ trách đội viên nên hội tụ những hiểu biết, kinh nghiệm và tư cách làm cố vấn cho các tổ chức chính trị trong đơn vị lớp. - Vai trò cố vấn thể hiện không chỉ ở khâu lựa chọn đội ngũ cán bộ như Ban chấp hành chi đoàn, hay Ban chỉ huy chi đội, mà còn trong việc tổ chức các hoạt động và lồng ghép, phối hợp các nội dung hoạt động của Đoàn, Đội với nội dung giáo dục của lớp như thế nào để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất, để cùng đạt mục tiêu chung của tập thể lớp. - Vai trò cố vấn của GVCN cần được thể hiện đúng nghĩa không can thiệp thô bạo, mà để các em tự quyết. Ví dụ, GVCN tham mưu để đề cử được những ứng viên có năng lực thúc đẩy các phong trào Đoàn, Đội và tập thể lớp phát triển, nhưng đội 34
  28. ngũ cán bộ của các tổ chức này cần để cho đại hội tự bầu ra theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. - Ngoài ra, GVCN còn phải nắm bắt thông tin, cập nhật mọi công tác do trường, Đoàn thanh niên đề ra để nhắc nhở, đôn đốc học sinh trong lớp thực hiện kịp thời. 1.8. Tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường, cũng như khai thác tiềm năng của các lực lượng này vào việc thực hiện mục tiêu chung của tập thể lớp cũng là một khía cạnh thể hiện vai trò quản lý của GVCN. Muốn vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải nắm chắc về đặc điểm tình hình của lớp để có cách tổ chức, quản lý, điều phối các hoạt động. Từ những phân tích trên cho thấy GVCN phải thực hiện vai trò quản lý lớp chủ nhiệm với các nhiệm vụ đa dạng và phức tạp. Trách nhiệm quản lý của GVCN còn đòi hỏi đảm bảo an toàn cho HS trong mọi hoạt động do lớp tổ chức.Sự kiện sau đây là một minh chứng cho sự phức tạp và rủi ro trong quản lý lớp chủ nhiệm, đồng thời cũng là bài học kinh nghiệm cho GVCN. Buổi chia tay đẫm máu của nhóm học sinh 12 5 học sinh lớp 12A11 trường PTTH Nam Kỳ Khởi Nghĩa phải nhập viện vì những vết thương khá nặng sau khi bị bảo vệ trung tâm thương mại Lotte Mart 940 Lê Đại Hành (P.15,Q.11,TP.HCM) hành hung dã man vào tối 30/5. Tiệc chia tay đầy bạo lực Phóng viên có mặt tại khoa cấp cứu Bệnh viện Trưng Vương ghi nhận 5 học sinh này gồm các em: Trần Hoàng Ân, Nguyễn Quốc Vinh, Võ Thị Kim Hiền, Lâm Chí Minh và Nguyễn Văn Trường. Trong đó nặng nhất là Trần Hoàng Ân bị đánh vỡ kính cận móp trán, sưng mắt và nôn ra máu. Tiếp xúc với nhà giáo Trần Thị Kim Dung, giáo viên chủ nhiệm lớp 12A11, bà cho biết, lúc 17h30 bà và một đồng nghiệp đã tổ chức họp lớp để các em chia tay nhau nhân dịp hè. Còn hai ngày nữa (ngày 1/6) là các em thi tốt nghiệp hoàn tất chương trình 12 năm học. Có tất cả 41 học sinh tham gia, thuê trọn một sảnh tại lầu 5 của trung tâm thương mại Lotte Mart. Do bận việc phải về sớm nhưng đến 19h30 thì bà nhận được tin các em bị bảo vệ đánh đã tức tốc đến ngay bệnh viện. Tìm hiểu vụ việc, em Nguyễn Trung Hiếu Nghĩa thuật lại, sau khi dự tiệc xong toàn bộ 41 học sinh ra thang cuốn để ra về. Tại khu vực thang cuốn lầu 5, các học sinh cười nói lớn tiếng và cùng nhau hô vang “12A11 không sợ khó, 12A11 thi là đậu” đã bị bảo vệ nhắc nhở không được làm ồn. Tuy nhiên, sau khi xuống đến tầng 3 thì thang cuốn ngừng hoạt động, gần 20 bảo vệ trang bị công cụ hỗ trợ trong đó có dùi cui và roi điện xuất hiện. Các bảo vệ lớn tiếng chửi các em bằng những ngôn ngữ không được lịch sự và các em phản ứng. 35
  29. Thế là một cuộc rượt đuổi xảy ra. Các em học sinh chạy xuống tầng hầm để lấy xe đã bị dồn vào hành lang và tại đây các bảo vệ đã dùng những gì có trong tay đánh vào học sinh. Một số chạy được đã bị rượt theo đánh đập dã man gây chấn thương nghiêm trọng. Em Lâm Chí Minh được bác sĩ điều trị Nguyễn Khánh Nho xác định: chấn thương sưng nề vùng mũi, chấn thương đầu, mặt. Sự việc chỉ chấm dứt khi công an phường 15 xuất hiện. Có 2 bảo vệ và nhiều học sinh được công an mời về phường để lấy lời khai, đồng thời chuyển các học sinh bị thương đến cấp cứu tại bệnh viện. Bình chân như vại Gần 100 người là phụ huynh và học sinh đã có mặt trước trụ sở công an phường. Tại đây chúng tôi được hai học sinh vừa xuất viện do chấn thương chưa nghiêm trọng là Lâm Chí Minh và Nguyễn Văn Trường cho xem những vết thương trên người. Em Trường vạch áo, một vết bầm trên lưng được em mô tả đã bị bảo vệ dùng cán vá (vá xúc cát) đánh mạnh vào lưng. Em Minh thì mang những vết trầy xước ở cổ và vùng mặt do bị đánh bằng mũ bảo hiểm, roi điện và dùi cui Nhiều phụ huynh đã bày tỏ sự bức xúc trước hành động thô bạo của bảo vệ trung tâm thương mại Lotte Mart. Ông Huỳnh Thành, phụ huynh em Huỳnh Vĩnh Phước đề nghị chính quyền phải giải quyết vấn đề một cách rốt ráo. Ông nói, chỉ còn 2 ngày nữa là các cháu thi tốt nghiệp cuối cấp vậy mà các bảo vệ đã nhẫn tâm gây cho các cháu những thương tích nghiêm trọng. Ông cũng đề nghị cần phải làm rõ nhưng hành vị xâm phạm thân thể mà các bảo vệ đã hành xử với các cháu học sinh. Một phụ huynh bức xúc: “Việc bảo vệ đánh khách hàng một lần nữa chứng minh cung cách thiếu nghiêm túc của Lotte Mart. Chúng tôi yêu cầu ban giám đốc của trung tâm thương mại này phải có động thái tích cực và tỏ ra hiểu biết để xứng tầm với một đơn vị kinh doanh có tầm cỡ quốc tế”. Một phụ huynh khác nói, các cháu có khuyết điểm thì bảo vệ có thể nhắc nhở bằng lời nói hoặc một vài cử chỉ mang tính răn đe hơn là đánh đập. Đến 22h30, phụ huynh và học sinh vẫn còn khá đông trước trụ sở công an phường. Tại bệnh viện, thân nhân các em học sinh đang nằm viện tỏ ra rất lo lắng. Làm sao các em có thể đến trường thi với những vết thương trên người. “Chắc chắn sẽ có một số em không thể dự thi được. 12 năm học các em mong đến ngày thi tốt nghiệp nhưng không thể mang những vết thương vào phòng thi. Vậy mà nhiều giờ sau khi sự cố xảy ra chúng tôi vẫn chưa thấy một đại diện nào của Ban giám đốc Lotte Mart xuất hiện” - cô giáo Dung bức xúc nói. Nguồn Theo VietNamNet Thứ ba, ngày 31 tháng 5 năm 2011 36
  30. 2. Giáo viên chủ nhiệm với tư cách là nhà giáo dục Với tư cách là nhà giáo dục, GVCN cần phải: 2.1.Phát triển tập thể HS thành môi trường lớp học thân thiện Vì sao cần xây dựng tập thể HS thành môi trường học tập thân thiện? GVCN được giao chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục của cả lớp, như vậy đương nhiên GVCN phải tổ chức tác động giáo dục đến tất cả HS của lớp trong tính chỉnh thể của nó. Hơn nữa, muốn giáo dục học sinh trong lớp GVCN không thể giáo dục riêng rẽ từng HS, mà phải tổ chức xây dựng lớp thành một tập thể đoàn kết, thân thiện, biết tự quản lý các nhiệm vụ của tập thể lớp, để từ đó tập thể tác động đến từng cá nhân. Chính vì vậy giáo dục trong tập thể, thông qua tập thể, bằng tập thể và phương pháp tác động song song đã trở thành một nguyên tắc tổ chức giáo dục trong lí luận giáo dục. Một tập thể phát triển là môi trường lí tưởng để HS học tập và phát triển nhân cách. - Trong các nghiên cứu về giáo dục hiện nay cho thấy môi trường học tập, giáo dục trở thành một yếu tố đảm bảo chất lượng. Môi trường học tập thân thiện trong đó các mối quan hệ/ tương tác giữa GV-HS và giữa HS với nhau tuân thủ các nguyên tắc dân chủ, tôn trọng quyền và nhu cầu có không khí thân thiện nhằm tạo ra môi trường cảm thông, chia sẻ, hợp tác trong lớp học là yếu tố không thể thiếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học, giáo dục. Mô hình trường học thân thiện với các thành tố: hòa nhập, bình đẳng, hoan nghênh và chào đón, tôn trọng tất cả HS không có sự phân biệt về giới tính, thể chất , trí tuệ, tâm lí, hoàn cảnh xuất thân và những đặc điểm khác. Môi trường học tập thân thiện còn là môi trường học tập an toàn, gần gũi, yêu thương, tôn trọng, không phân biệt đối xử với tất cả HS thuộc các thành phần xã hội tôn giáo khác nhau. GV đáp ứng nhu cầu đa dạng của HS trong học tập và cách ứng xử đối với các em. Mối quan hệ giữa GV và HS dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ và đồng cảm; đảm bảo sự tham gia, có chương trình học tập chất lượng và phù hợp đang được thực nghiệm ở hơn 40 quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng đang phát động phong trào xây dựng trường học thân thiện. Theo đó nội dung xây dựng tập thể và môi trường học tập thân thiện bao gồm[1].: Xây dựng văn hóa và truyền thống của lớp Văn hóa lớp học được hiểu là một tập hợp các chuẩn mực, các giá trị, niềm tin và hành vi ứng xử, đặc trưng của một lớp học, tạo nên sự khác biệt với các lớp học khác, một phong cách riêng để mỗi khi nhắc về lớp mình, mọi thành viên đều có thể nhớ được và tự hào về truyền thống, phong cách đặc trưng của lớp mình. Như vậy, văn hóa của một tập thể lớp liên quan đến toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của lớp học. Nó biểu hiện trước hết ở tầm nhìn, sứ mạng, triết lí, mục tiêu, các giá trị, phong cách quản lí lớp, bầu không khí tâm lí trong lớp học, thể hiện thành hệ thống các chuẩn mực, các giá trị, niềm tin và hành vi ứng xử, được xem là tốt đẹp và được mỗi thành viên trong lớp học chấp nhận và trở thành truyền thống mà mọi người trong lớp đều 37
  31. trân trọng giữ gìn, để mỗi khi nhắc về lớp mình, mọi thành viên đều có thể nhớ được và tự hào về truyền thống, phong cách đặc trưng. Vì vậy, ngay từ đầu năm học GVCN cùng mọi thành viên trong lớp cần xác định cụ thể các vấn đề như: - Các giá trị chung của tập thể lớp? - Truyền thống nào của lớp học cần tạo dựng, giữ gìn và phát huy ? - Các mối quan hệ trong tập thể lớp phải như thế nào ? - Hiện tượng tiêu cực nào trong quan hệ cần xóa bỏ, hiện tượng nào cần ủng hộ, khuyến khích? - Các viễn cảnh của tập thể lớp cần đạt được? Lôi cuốn sự tham gia của HS trong việc xây dựng nội quy lớp học Nội quy, nề nếp kỷ luật là những điều rất cần thiết để giáo dục, nuôi dưỡng, và bảo đảm sự phát triển lành mạnh, an toàn cho HS em. Chính vì vậy, việc thiết lập nội quy, quy tắc ứng xử trong lớp học là rất quan trọng. Nội quy, nề nếp một mặt cũng phản ánh văn hóa, truyền thống của tập thể lớp, mặt khác là cơ sở cho HS hiểu xem những hành vi nào là phù hợp, những hành vi nào là không phù hợp và đâu là giới hạn không được vượt qua. Việc lôi cuốn HS tham gia vào quá trình ra quyết định trong lớp học có ý nghĩa quan trọng.Sự tham gia của HS là một nét đặc trưng của môi trường học tập thân thiện. Đồng thời, nếu HS được tham gia xây dựng nội quy thì các em mới tự giác thực hiện chính những điều mình tự nguyện đặt ra, mà không bị cảm giác bị áp đặt. Cách thực hiện Căn cứ vào Điều lệ và nội quy của nhà trường, nhiệm vụ năm học, GVCN yêu cầu HS quán triệt và có thể bổ sung thêm những giá trị , chuẩn mực khác tạo nên văn hóa riêng của tập thể lớp. Điều này lại có mối quan hệ mật thiết với tầm nhìn, viễn cảnh, mục tiêu đặt ra trong kế hoạch phát triển tập thể lớp. Các bước tổ chức xây dựng nội quy lớp học với sự tham gia của mọi HS có thể được tổ chức như sau: Bước 1: GVCN nêu vấn đề, các tổ thảo luận các câu hỏi: - Em mong muốn lớp mình trở nên như thế nào? - Em mong muốn gì ở GV và bạn bè? - Để đạt được những điều mong đợi đó mỗi người nên làm gì? Không nên làm gì? Bước 2: Làm việc chung toàn lớp - Yêu cầu các tổ trình bày ý kiến của mình trước lớp - GV cùng cả lớp dựa trên ý kiến của các tổ thảo luận xây dựng, thống nhất nội quy của lớp. - GV cùng cả lớp tiếp tục thảo luận về chế độ khen thưởng, kỉ luật đối với những hành vi đáng khen và đáng chê trên cơ sở các câu hỏi sau: - Ai sẽ giám sát việc thực hiện nội quy lớp học? 38
  32. - Điều gì sẽ cản trở việc thực hiện nội quy lớp học? Mỗi người cần phải vượt qua những thách thức, thói quen nào? Liệu có thể vượt qua hoặc thay đổi không ? - Nếu vi phạm nội quy thì sẽ xử lí như thế nào? Nếu thực hiện tốt nội quy thì sẽ được khen thưởng như thế nào? Bước 3: Viết nội quy lớp học bằng chữ đẹp, khổ lớn, trang trí bắt mắt và treo Nội quy lớp học ở vị trí ai cũng có thể đọc được. Có thể bổ sung thêm kế hoạch xây dựng những hành vi tốt và loại bỏ những hành vi không tốt bằng cách sử dụng những phiếu màu ghi những việc nên làm ( màu xanh) , không nên làm ( màu đỏ).và dán lên tờ giấy khổ to. Hàng tuần , hàng tháng có thể rà soát xem có thể loại trừ những việc đã thực hiện tốt ( ví dụ không còn hiện tượng đi học muộn nữa thì có thể bỏ quy định này và bổ sung quy định về những vấn đề mới nảy sinh) Khích lệ mọi thành viên trong lớp suy nghĩ về trách nhiệm của bản thân và hành động vì sự phát triển của tập thể lớp Sau khi đã cùng các thành viên trong lớp xác định mục tiêu, viễn cảnh, tầm nhìn cũng như văn hóa tổ chức của lớp mà thể hiện tập trung nhất ở nội quy lớp học, GVCN cần khích lệ mọi thành viên suy nghĩ xem mình có thể làm gì để cùng với các bạn trong lớp, cô giáo xây dựng được tập thể như mong muốn. Cần xây dựng những cam kết tập thể ( tổ) và cá nhân nhưng phải xuất phát từ nhận thức sâu sắc và ý chí quyết tâm của các em, tránh hình thức. Có thể thông qua một buổi thảo luận theo chủ đề về “trách nhiệm của học sinh lớp ” với các bước cụ thể như sau: - GVCN cùng HS điểm lại những nội dung cơ bản trong mục tiêu, nội quy, chuẩn mực, giá trị, truyền thống của lớp. - Từng thành viên (HS và GVCN) suy nghĩ xem mình có thể làm được gì để góp phần đạt được mục tiêu, duy trì và củng cố các giá trị , truyền thống, đảm bảo nội quy của lớp tạo ra môi trường học tập thân thiện, tập thể lí tưởng. Đồng thời từng HS viết ra lời hứa những điều mình có thể làm để tạo ra môi trường tập thể như mong đợi. Trong khi HS viết, GV cũng lập danh mục những việc mình cần làm, những rào cản cần khắc phục - Thảo luận việc làm theo lời hứa dễ hay khó? Bằng cách nào mỗi HS trong lớp có thể giúp mình và bạn giữ lời hứa? Sau khi cân nhắc cẩn thận chốt lại những việc có thể làm là khả thi. - Từng người đưa ra lời hứa trước lớp, những lời hứa này được treo ở vị trí ai cũng có thể thấy. - Hàng tuần, hàng tháng xem xét việc thực hiện lời hứa. Cố gắng tìm ra những mặt tích cực, tiến bộ dù rất nhỏ để động viên khen ngợi. - Chú ý điều chỉnh danh mục những lời hứa dựa trên những kết quả đạt được Xây dựng dư luận tập thể lành mạnh 39
  33. Thái độ, hành vi của con người được điều chỉnh bằng hai yếu tố: yếu tố bên ngoài là dư luận xã hội (hay dư luận tập thể) và yếu tố bên trong là ý thức về sự tất yếu phải hành động theo chuẩn mực xã hội, là lương tâm, trách nhiêm của từng cá nhân. Khi con người có ý thức tự giác, trình độ phát triển đạo đức, pháp luật cao thì có thể tự kiểm soát hành vi của mình bằng lương tâm, trách nhiệm, dù có người nhìn thấy hay không nhìn thấy họ đều hành động phù hợp với chuẩn mực xã hội. Còn những người ý thức tự giác chưa thật cao thì hành vi của họ có phù hợp với chuẩn mực của xã hội hay không còn phụ thuộc vào yếu tố kiểm soát bên ngoài là dư luận xã hội, hay dư luận tập thể - nơi mà họ là một thành viên. Chính vì vậy, để có thể giáo dục từng HS thông qua tập thể và bằng tập thể thì GVCN cần rất quan tâm đến việc xây dựng dư luận tập thể lành mạnh. Dư luận tập thể lành mạnh chính là những thái độ, ý kiến, quan điểm đúng, tiến bộ, vì sự tiến bộ của mỗi thành viên và sự phát triển chung của tập thể đối với những hành vi tốt và chưa tốt của các thành viên trong tập thể lớp. Những hành vi đúng, tốt thì được dư luận tập thể ủng hộ, khích lệ hoặc bảo vệ , còn những hành vi chưa đúng, hành vi tiêu cực thì sẽ bị dư luận tập thể phản đối. Dư luận tập thể lành mạnh không chỉ điều chỉnh được thái độ, hành vi của các thành viên trong đó, mà còn có khả năng định hướng suy nghĩ cho họ. Để hình thành được dư luận tập thể lành mạnh, trước hết mỗi thành viên trong tập thể cần có nhận thức rõ ràng về giá trị, có chính kiến và thái độ riêng, đồng thời có ý thức vì tập thể, luôn đứng về lẽ phải; biết bảo vệ cái chân, thiện, mĩ và biết lên án những hành vi, lối sống tiêu cực, cộng với sự đoàn kết nhất trí giữa các thành viên trong lớp. GVCN cần biết khuyến khích dư luận lành mạnh trong tập thể lớp chủ nhiệm bằng cách khơi dậy ý thức trách nhiệm và vì mục tiêu chung của tập thể, vì sự tiến bộ của bạn, tránh thái độ thiếu trách nhiệm, thờ ơ, vô cảm trước những hiện tượng xảy ra trong đời sống lớp học. Đồng thời, GVCN cũng cần nhạy cảm ngăn chặn những hiện tượng a dua theo số đông mà không dựa trên chính kiến về cái đúng, cái sai, về giá trị, phi giá trị, giá trị đích thực và không xác thực Vì sự a dua còn nguy hiểm hơn sự thờ ơ, vô cảm. Khi sử dụng dư luận tập thể để điều chỉnh thái độ, hành vi không mong đợi của HS, GVCN cần lưu ý là để HS nhận ra những thái độ, hành vi tiêu cực của mình không chỉ ảnh hưởng đến tập thể mà còn có hại đối với chính mình. GVCN cũng cần lưu ý tập thể khi muốn thể hiện thái độ, ý kiến, quan điểm đối với thái độ, hành vi không mong đợi của HS nào đó phải thể hiện sự thiện chí và tôn trọng nhân cách của bạn, đặc biệt là cần phân biệt giữa hành vi và nhân cách, không đồng nhất hành vi tiêu cực với giá trị nhân cách của bạn. Đặc biệt, dư luận tập thể lành mạnh cần được thể hiện trước những hành động tích cực ( ủng hộ, bảo vệ, khuyến khích) cũng như những hành động tiêu cực ( không đồng tình, ngăn cản, thậm chí là lên án) của bất cứ ai, không phụ thuộc bạn đó như thế nào, có vị thế nào trong lớp, xuất thân từ hoàn cảnh gia đình nào 40
  34. Dư luận tập thể cần được thể hiện một cách nghiêm túc thông qua cuộc họp chung của lớp. Trong đó các thành viên của tập thể được chia sẻ cởi mở, chân thành những chính kiến trước những thái độ, hành vi không mong đợi của bạn và biết lắng nghe bạn một cách tích cực, đồng thời có thái độ thiện chí khi nhìn nhận vấn đề của bạn. Xây dựng các mối quan hệ nhân văn Theo nhà tâm lí học Maslow, nhu cầu con người có nhiều và được phân chia theo 5 tầng : - Tầng thứ nhất (Physiological): là các nhu cầu thuộc về “thể lý” bao gồm các nhu cầu như: Đồ ăn, thức uống, thở, nghỉ ngơi, chỗ ở, quần áo, bài tíêt, tình dục. - Tầng thứ hai (Safety): nhu cầu an toàn về thân thể, sức khỏe, việc làm, tài sản - Tầng thứ ba (Love/belongging): nhu cầu xã hội như tình cảm, tình bạn, muốn được trực thuộc một nhóm cộng đồng nào đó. - Tầng thứ tư (Esteem): bao gồm các nhu cầu được kính trọng, được quý mến, tin tưởng, địa vị, danh tiếng, thành đạt - Tầng thứ năm (Self-actualization): là các nhu cầu tự thể hiện bản thân như khả năng trình diễn, khả năng sáng tạo Theo sự phát triển của lứa tuổi và trình độ phát triển của mỗi cá nhân, con người sẽ có và muốn được thỏa mãn các nhu cầu từ tầng thấp đến cao. Đối với học sinh THPT các em đã có đầy đủ các nhu cầu bậc cao và rất muốn được thỏa mãn những nhu cầu này trong nhóm, tập thể gồm các bạn cùng trang lứa. Khi xây dựng kế hoach chủ nhiệm, GVCN cần tính đến điều này trong sứ mạng coi đây là nhu cầu của HS trong lớp. Để thỏa mãn nhu cầu của HS từ tầng thứ hai đến tầng thứ năm, tập thể HS cần đạt đến giai đoạn phát triển, ở đó không chỉ có mục tiêu chung, đội ngũ tự quản tốt, có dư luận tập thể lành mạnh, có kỉ luật mà còn có hệ thống các mối quan hệ nhân văn dựa trên các giá trị như: tôn trọng, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết có tinh thần trách nhiệm, biết cách giải quyết các xung đột không bằng bạo lực , có không khí thân thiện nhằm tạo ra môi trường cảm thông, chia sẻ, hợp tác trong lớp học. Môi trường học tập thân thiện là môi trường hòa nhập bình đẳng, hoan nghênh và chào đón, tôn trọng tất cả HS không có sự phân biệt về giới tính, thể chất , trí tuệ, tâm lí, hoàn cảnh xuất thân và những đặc điểm khác. Môi trường học tập thân thiện còn là môi trường học tập an toàn, gần gũi, yêu thương, tôn trọng, không phân biệt đối xử với tất cả HS thuộc các thành phần xã hội tôn giáo khác nhau, trong đó GV đáp ứng nhu cầu đa dạng của HS trong học tập và ứng xử phù hợp đối với các em. Mối quan hệ giữa GV và HS dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau, sự giúp đỡ và đồng cảm. HS thấy vui và tự tin khi đến trường, các em thấy thoải mái, ham học; các em được tôn trọng, thừa nhận, và cảm thấy mình có giá trị từ đó các em thấy rõ trách nhiệm của mình; các em tích cực khám phá, liên tục trải nghiệm và tích cực tương tác với giáo viên, nhóm bạn và nỗ lực đạt thành tích học tập tốt nhất. 41
  35. Không phải ngẫu nhiên đến giai đoạn phát triển, tập thể lớp sẽ hình thành được hệ thống các mối quan hệ nhân văn, mà nó cần được đặt nền móng từ những giai đoạn trước. Các mối quan hệ dân chủ, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, tôn trọng trong tập thể giữa HS với nhau được hình thành theo cơ chế trải nghiệm và tập nhiễm từ quan hệ của GVCN đối với HS và giữa HS với nhau trong quá trình xây dựng tập thể. Tính chất của các mối quan hệ như vậy chính là nội dung giáo dục nhân cách, còn môi trường do các mối quan hệ như vậy tạo ra là điều kiện để mỗi cá nhân trong đó phát triển tự do và đầy đủ. Xây dựng hệ thống quan hệ nhân văn cũng như xây dựng môi trường học tập thân thiện là một quá trình, theo tiến trình phát triển của đời sống tập thể hệ thống quan hệ và môi trường học tập trong tập thể dần trở nên nhân văn hơn, thân thiện hơn. Trong quá trình hình thành và củng cố hệ thống các mối quan hệ như vậy, GVCN cần luôn nhạy bén phát hiện, ngăn chặn kịp thời nhưng biểu hiện thiếu nhân văn trong lớp chủ nhiệm. Trong công tác giáo dục tập thể lớp GVCN hết sức tránh để các em biến các cuộc thi đua thành “ganh đua”, các biểu hiện tiêu cực trong lớp học thường là + Sự buộc tội , đổ lỗi cho nhau. + Mâu thuẫn xung đột nội bộ không được giải quyết kịp thời. + Thiếu sự hợp tác, chia sẻ, học hỏi lẫn nhau. + Sự kiểm soát quá chặt chẽ đánh mất quyền tự do và tự chủ của mỗi cá nhân. + Sự quan liêu, nguyên tắc một cách máy móc. + Sự trách mắng học sinh vì các em không có sự tiến bộ. + Thiếu sự động viên khuyến khích, tin cậy và cởi mở. + 2.2.Triển khai các nội dung giáo dục toàn diện trong lớp chủ nhiệm Theo lý luận giáo dục truyền thống nội dung giáo dục toàn diện cho HS dựa trên các lĩnh vực hoạt động thực tiễn và văn hóa - xã hội bao gồm: Giáo dục trí tuệ Giáo dục đạo đức Giáo dục thẩm mĩ Giáo dục thể chất Giáo dục lao động Xã hội hiện đại làm nảy sinh nhiều vấn đề mới mà giáo dục cần phải trang bị cho người học những kiến thức, thái độ, kĩ năng ứng xử phù hợp để tránh rủi ro cho bản thân, nâng cao chất lượng cuộc sống, đồng thời giảm thiểu các tệ nạn xã hội như: giáo dục phòng tránh ma túy, HIV/AIDS, an toàn giao thông, giáo dục môi trường; giáo dục dân số và sức khỏe sinh sản, giáo dục giới tính và giới, GD quân sự 42
  36. Những nội dung giáo dục trên được triển khai tích hợp, lồng ghép qua các môn học, nhưng quan trọng hơn là được triển khai thông qua con đường ngoài giờ lên lớp dưới các hình thức đa dạng khác nhau. Tuy nhiên, trong thực tế cách tổ chức giáo dục hiện nay vẫn nặng về truyền thông nâng cao nhận thức, mà chưa đạt được mục tiêu làm thay đổi hành vi, do đó hiệu quả giáo dục thấp. Bốn trụ cột trong giáo dục thế kỉ XXI được xác định là “ Học để biết; Học để làm: học để tự khẳng định; Học để chung sống với mọi người” được xem là một cách tiếp cận kĩ năng sống đối với những nội dung cần giáo dục cho HS[4] Nếu GVCN có thể xác định từng nội dung giáo dục theo tiếp cận bốn trụ cột này thì hiệu quả giáo dục sẽ đảm bảo. Ví dụ: Nội dung giáo dục phòng tránh HIV/AIDS được xác định theo tiếp cận 4 trụ cột: 1. Học để biết ( kỹ năng nhận thức) - Hiểu thế nào là HIV/AIDS và văn bản pháp luật, quy định liên quan. - Nắm bắt được các thông tin trên thế giới về HIV/AIDS. - Hiểu được mối quan hệ giữa HIV và các yếu tố khác trong xã hội như: đói nghèo, quyền con người, bất ổn xã hội - Hiểu được những tác động của HIV/AIDS với xã hội (bất ổn xã hội, chi phí y tế, ) và cá nhân (bệnh tật, tuổi thọ, sức khỏe, khả năng miễn dịch ) - Sự cần thiết có kiến thức và kỹ năng về HIV/AIDS và phòng tránh HIV/AIDS cho bản thân và ở cộng đồng hướng đến một xã hội phát triển bền vững như : - ‘Tình dục an toàn’ là gì? - ‘Sử dụng kim tiêm an toàn’ là gì? - Liệu có bị nhiễm AIDS khi ‘tiếp xúc thông thường’ với người bị nhiễm bệnh không? - Cần làm gì nếu tôi có thể đã bị nhiễm HIV? - Sẽ làm gì nếu bạn biết ai đó bị nhiễm HIV hoặc AIDS? 2. Học để tự khẳng định (Chính là các các kỹ năng cá nhân) - Có trách nhiệm với hành vi của bản thân đối với phòng tránh HIV/AIDS một cách tích cực. - Tôn trọng và có thái độ đúng đắn với những người có HIV/AIDS. - Tự chủ, tự thực hiện hành vi phòng tránh HIV/AIDS. - Tự giải thích được vấn đề liên quan đến HIV/AIDS như nguyên nhân, hậu quả, biểu hiện .(HIV lây lan như thế nào?Làm thế nào bạn có thể nhận ra liệu ai đó có bị nhiễm HIV hay không? 3. Học cùng chung sống ( Chính là các kỹ năng xã hội) - Ngăn chặn những hành vi có thể dẫn đến lây nhiễm HIV/AIDS. - Cùng cộng đồng chăm sóc và hỗ trợ những người có HIV/AIDS. ) 43
  37. - Tạo ảnh hưởng đến những người có hành vi và thái độ tiêu cực với những người có HIV/AIDS.(kỳ thị, phân biệt, xa lánh ) - Cảnh báo cho người khác về những hậu quả do lối sống không lành mạnh có thể dẫn đến lây nhiễm HIV/AIDS. 4. Học để làm ( Các kỹ năng thực tiễn) - Có hành vi phù hợp nhằm phòng tránh HIV/AIDS như từ chối quan hệ tình dục không mong muốn, - Chống lại sự ép buộc sử dụng ma túy. - Tránh được các nguy cơ bị lây nhiễm HIV/AIDS bản thân và xã hội (sống lành mạnh, sử dụng bao cao su ) - Hành động chống lại phân biệt đối xử với người có HIV/AIDS. - Tìm kiếm những người tin tưởng để được giúp đỡ (người tư vấn, chính quyền ) - Xác định và sử dụng các dịch vụ y tế (khám bệnh và uống thuốc ) - Không dùng các đồ dùng có thể lây nhiễm HIV/AIDS. - Tự chăm sóc sức khỏe bản thân và sống lành mạnh. Rõ ràng nếu tổ chức giáo dục theo cách tiếp cận này thì nội dung giáo dục sẽ sâu sắc hơn và mục tiêu đạt được trong nội dung giáo dục này sẽ toàn diện hơn. Trong thực tế, GVCN đã tổ chức rất nhiều hình thức giáo dục đa dạng khác như: + Cho học sinh sưu tầm các tư liệu nói về truyền thống văn hóa của địa phương, bản sắc văn hóa dân tộc để phục vụ tiết sinh hoạt các em ít nhiều đã nắm được giá trị truyền thống, thuần phong mĩ tục của dân tộc; GVCN có thể đưa ra những tình huống xảy ra trong trường học cho các em tự đề ra các cách xử lí khác nhau trên cơ sở đó GVCN sẽ nắm bắt được cách cư xử, thái độ của các em, có thể uốn nắn kịp thời. Vào những tiết sinh hoạt cuối tuần GVCN có thể tranh thủ thời gian đọc các bài báo nói về tệ nạn nghiện game của học sinh và hậu quả của nó, hoặc những tấm gương học sinh nghèo vượt khó. + Tổ chức cho các em được giao lưu sinh hoạt với trẻ em nghèo bất hạnh, học sinh trường khuyết tật để các em có điều kiện hiểu thêm hoàn cảnh của những số phận kém may mắn tạo môi trương thân thiện giáo dục lòng nhân ái cho các em. Tuyên truyền vận động các em tham gia đóng góp ủng hộ cho các bạn học sinh vùng sâu vùng xa, học sinh khuyết tật. + Khuyến khích động viên các em tích cực tham gia các phong trào như hội thi học sinh thanh lịch, thi giọng hát hay, hội trại truyền thống qua những hoạt động này giúp các em có được kĩ năng sống đồng thời đó là những sân chơi bổ ích giúp các em thư giãn sau những giờ học căng thẳng. + Tổ chức cho các em tham quan bảo tàng, nhà truyền thống hay xem các bộ phim có tính giáo dục đạo đức cách mạng, lòng yêu nước 44
  38. + Tổ chức hội nghị học tốt, mời những học sinh có thành tích cao trong học tập viết tham luận trao đổi kinh nghiệm học tập qua đó giúp các em nhận thức được cần phải chăm học và có phương pháp phù hợp mới có thể đem lại thành tích cao trong học tập. Khi các em chăm học sẽ có những hành vi đạo đức tốt. + Tổ chức cho các em tham gia ngày chủ nhật xanh sach đẹp để giáo dục các em ý thức giữ gì vệ sinh môi trường cũng như ý thức cộng đồng 2.3. Tổ chức các hoạt động và giao lưu tập thể nhằm củng cố và phát triển tập thể Tính tập thể cũng như quan hệ gắn bó, hiểu biết, chia sẻ với nhau của mọi thành viên trong lớp được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động tập thể, những buổi thảo luận, bàn bạc có sự tham gia của toàn thể các thành viên trong tập thể để thực hiện mục đích chung, đạt được viễn cảnh và tầm nhìn của tập thể. Vì vây, GVCN cần xác định đủ và chính xác các hoạt động giáo dục phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh của lớp, trường và địa phương, có tính đến thứ bậc ưu tiên của từng loại hoạt động. Khi nảy sinh những vấn đề mà tập thể lớp phải đối mặt, GVCN cần tổ chức cho mọi thành viên cùng tham gia bàn cách giải quyết vấn đề. Đây là những cơ hội tốt để những giá trị, chuẩn mực, truyền thống, ( văn hóa tổ chức của lớp) được thể nghiệm, củng cố và dư luận tập thể lành mạnh, môi trường học tập thân thiện được phát triển. Những cuộc họp chung, các buổi thảo luận giải quyết vấn đề nảy sinh cũng chính là cơ hội để GVCN vận dụng phương pháp tác động song song đến những HS có những hành vi vi phạm nội quy, văn hóa tổ chức của lớp mình. Theo A.X. Macarenco “ Tác động song song” là GVCN không tác động trực tiếp đến HS có hành vi không mong đợi mà tác động thông qua dư luận của tập thể tổ, lớp giúp cá nhân nhận ra và điều chỉnh hành vi của mình. Phương pháp tác động song song sử dụng chỉ hiệu quả khi tập thể lớp đã phát triển ở từ giai đoạn 2 và tốt nhất là ở giai đoạn 3 – khi đã có dư luận tập thể lành mạnh. Khi tổ chức hoạt động giáo dục GVCN cần coi trọng các cách tiếp cận phức hợp, cùng tham gia và hợp tác để đảm bảo hiệu quả giáo dục. • Tiếp cận phức hợp: Khi tổ chức bất kì hoạt động giáo dục nào cũng cần không chỉ giới hạn mục tiêu của hoạt động ở một phương diện nào đó, mà cần hướng tới mục tiêu phức hợp. Ví dụ, khi tổ chức hoạt động lao động, không chỉ quan tâm đến việc hoàn thành công việc được giao, mà còn phải quan tâm đến mục tiêu giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, giáo dục cách tổ chức lao động khoa học Điều đó có nghĩa là mỗi loại hình hoạt động có mục tiêu trội của chính hoạt động đó, đồng thời còn có những mục tiêu kép khác hướng đến giáo dục nhiều mặt của nhân cách. Tiếp cận cùng tham gia là gì? Tham gia không chỉ mang nghĩa tham dự mà còn nhằm giảm mối quan hệ quyền lực giữa GV và HS, thể hiện sự tôn trọng con người, những hành động, ý kiến của HS được ghi nhận. GV cần lắng nghe ý kiến và kinh nghiệm của HS và đó là 45
  39. những ý kiến và kinh nghiệm có giá trị, làm cho các em ý thức về sự chọn lựa của mình, đồng thời cần phát triển các kĩ năng để các em tham gia một cách có ý nghĩa. Có sự khác biệt lớn giữa hoạt động học tập và hoạt động giáo dục. Hoạt động giáo dục cần phải thoải mái và cần phải thay đổi thái độ và hành vi của học sinh. Cần sử dụng các phương pháp tạo sự tương tác giữa GV và HS và giữa học sinh với nhau.Đồng thời cần quan tâm đến vai trò tham gia của người học trong việc thực hành kỹ năng.Trong tương tác và tham gia thực hành mỗi người đều là chủ thể tích cực. Để tăng cường sự tham gia còn cần tạo môi trường học tập vui vẻ, thoải mái, không có sự chỉ trách phê phán. Sự tham gia của HS vào các HĐGD có thể ở những mức độ khác nhau. Roger A. Hart đã đưa ra 8 mức độ khác nhau của “thang tham gia” mà HS có thể đạt được theo các nấc thang (xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp) sau đây: 8/ HS khởi xướng và cùng GV quyết định: là khi dự án, hoạt động hoặc chương trình do HS khởi xướng và việc ra quyết định sẽ được chia sẻ giữa HS và GV. Những dự án/hoạt động này trao quyền cho các em đồng thời giúp các em có thể tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm sống và kỹ năng của GV. 7/ HS khởi xướng và điều hành:là khi HS khởi xướng và điều hành dự án, hoạt động hoặc chương trình. GV chỉ tham gia với vai trò hỗ trợ. 6/ GV khởi xướng, quyết định cùng với HS:Là khi dự án, hoạt động hoặc chương trình được GV khởi xướng nhưng việc ra quyết định được chia sẻ với các em. 5/ HS được hỏi ý kiến và được thông báo:Là khi HS đưa ra ý kiến về dự án, hoạt động hoặc chương trình do GV xây dựng và thực hiện. HS được thông báo là ý kiến đóng góp của các em sẽ được sử dụng như thế nào và kết quả của quyết định do GV đưa ra. 4/ HS được giao nhiệm vụ và được thông báo: Là lúc mà HS được giao một vai trò cụ thể và được thông báo là các em sẽ được tham gia như thế nào và tại sao. 3/ Hình thức tượng trưng: Là lúc HS có vẻ như được có tiếng nói nhưng trong thực tế các em có rất ít hoặc không có sự chọn lựa là phải làm gì hoặc tham gia như thế nào. 2/ Hình thức trang trí:Là lúc HS được sử dụng để trợ giúp hoặc “cổ động” cho việc gì đó một cách tương đối gián tiếp, mặc dù GV không làm ra vẻ như việc đó do chính HS đưa ra. 1/ GV điều khiển:Là lúc GV sử dụng HS để hỗ trợ những ý định hoặc việc làm của mình và làm ra vẻ như những điều đó do chính HS đưa ra. Như vậy, theo thang này thì ở các mức từ 1 - 3 là những mức độ HS không có sự tham gia. Chỉ bắt đầu từ mức 4 mới thể hiện sự tham gia của các em vào quá trình hoạt động giáo dục. Tiếp cận hợp tác là gì? Để phát huy vai trò chủ động, tích cực của mọi HS, để tất cả HS kể cả những HS nhút nhát, bị “cô lập” được tham gia vào mọi khâu của quá trình tổ chức hoạt động thì cách thức tốt nhất là tổ chức hoạt động giáo dục theo phương thức hợp tác. 46
  40. Khi tổ chức hoạt động giáo dục theo phương thức hợp tác GV và các cán bộ Đội, Đoàn - những người đứng ra tổ chức hoạt động cần thực hiện những yêu cầu sau: - Động viên và tạo cơ hội để mọi HS được phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt động. HS cần được tham gia vào mọi khâu của quá trình hoạt động từ việc lập kế hoạch, phân công chuẩn bị, tiến hành hoạt động cho đến khâu đánh giá kết quả. - Đảm bảo sự phụ thuộc lẫn nhau giữa HS một cách tích cực: Đây là yêu cầu cơ bản của quan hệ hợp tác nhằm tạo ra tính tích cực, tinh thần trách nhiệm, sự phối hợp hoạt động và sự giúp đỡ lẫn nhau của các thành viên trong nhóm hợp tác. Để làm được điều đó, khi lựa chọn hoạt động, GV nên chọn những hoạt động có mục tiêu chung và các mục tiêu bộ phận; những hoạt động mà kết quả của nó chỉ có thể đạt được khi mọi thành viên trong nhóm cùng hoàn thành nhiệm vụ; Ngoài ra GV còn có thể tăng cường sự phụ thuộc tích cực giữa các em bằng cách tạo ra cho mỗi thành viên trong nhóm nguồn lực chia sẻ. Nghĩa là mỗi người trong nhóm chỉ có một phần của thông tin, tài liệu hoặc công cụ cần thiết để thực hiện hoạt động. - Tạo ra các kĩ năng cộng tác: Đây là kĩ năng rất cần thiết cho hoạt động hợp tác, vì sự thành công của nó phụ thuộc cơ bản vào sự hợp tác của các thành viên trong nhóm. Vì thế GV cần giúp cho HS trước tiên hiểu thế nào là kĩ năng cộng tác, sau đó giúp HS luyện tập các kĩ năng đó trong trò chơi, trong các tình huống giả định. Cuối cùng hướng dẫn các em thể hiện sự hợp tác trong các hoạt động giáo dục và GV cần luôn luôn theo dõi, xử lí sự phối hợp trong nhóm. - Luôn luân phiên vai trò chỉ huy và thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Sự luân phiên có thể tiến hành trong một hoạt động hoặc các hoạt động khác nhau. Điều này không chỉ tạo cơ hội mỗi em trải nghiệm các vai trò khác nhau để có kinh nghiệm hợp tác phong phú mà còn tránh tạo ra tâm lí, thói quen chỉ huy người khác hoặc chỉ biết thực hiện các yêu cầu của người khác một cách thụ động. - Khi phân nhóm HS nên phân chia theo nhóm hỗn hợp về năng lực, đạo đức, giới tính, sức khỏe Khi các em làm việc cùng nhau hướng tới mục tiêu chung sẽ giúp HS xoá bỏ những khác biệt. Các em sẽ học hỏi, bổ sung, giúp đỡ lẫn nhau và phát triển các mối quan hệ đoàn kết, thân thiện và hiểu biết lẫn nhau. Số lượng HS trong nhóm cũng cần được chú ý. Điều đó phụ thuộc vào yêu cầu của công việc, sao cho mỗi thành viên đều có nhiệm vụ và nằm trong mối quan hệ phụ thuộc tích cực với nhau. . Cách tổ chức hoạt động giáo dục theo phương thức hợp tác a. Bước chuẩn bị: - Xác định, đề xuất nhu cầu hoạt động GV có thể trực tiếp thu thập thông tin về mong muốn, nguyện vọng của HS trong lớp về hoạt động nào đó, hoặc khơi gợi để HS đề xuất những nội dung các hoạt động nên tổ chức. Từng HS cùng tham gia suy nghĩ, phát hiện và trao đổi để hình thành ý tưởng: định làm gì? 47
  41. - Xác định mục tiêu, các nhiệm vụ của hoạt động và mục tiêu hình thành, củng cố các kĩ năng hợp tác, lập kế hoạch và xác định cách thực hiện: Tùy theo trình độ phát triển của tập thể lớp, khả năng tự quản của HS, giáo viên có thể thu hút học sinh cùng xác định mục tiêu chung (trong đó có mục tiêu công việc và các kĩ năng hợp tác nào cần đươc củng cố hoặc hình thành) và các nhiệm vụ cụ thể. Giáo viên cần giải thích để các em hiểu rằng: mục tiêu là cái đích cần đạt, còn nhiệm vụ là cái phải làm để đạt tới đích, dẫn dắt các em cách suy nghĩ khi lập kế hoạch, lựa chọn cách thực hiện bằng cách đặt ra các câu hỏi lôgic: làm gì vào thời gian nào? Tại sao? Làm như thế nào cho có hiệu quả? Cần những điều kiện, phương tiện gì? Lôi cuốn các em cùng giải đáp các câu hỏi đặt ra, dần dần các em có thể độc lập ở khâu này. Ở đây GV phải chủ động lựa chọn mô hình hoạt động hợp tác định tổ chức sao cho phù hợp với mục đích đặt ra. GVcần kích thích, khơi gợi suy nghĩ của HS và lắng nghe ý kiến của họ, tìm ra những ý kiến hợp lí để khẳng định, khen ngợi giúp HS củng cố niềm tin vào bản thân, tăng thêm niềm vui và nhiệt tình đóng góp sức mình vào công việc chung. HS sẽ tích cực khi các em tìm thấy những điều bổ ích cho mình và khẳng được giá trị của mình. Tương tác thày-trò diễn ra dưới dạng trao đổi thông tin, ý tưởng, tư vấn, thừa nhận và khuyến khích. Ở đây những kĩ năng hợp tác giữa GV-HS và HS-HS được thể hiện trong nhóm kĩ năng trao đổi ý tưởng khi đề xuất vấn đề, xác định mục đích, nhiệm vụ, cách thức thực hiện và lập kế hoạch như sau: - Đối với giáo viên: + Nêu vấn đề, giải thích mục đích hoạt động, nêu yêu cầu. + Tổ chức, hướng dẫn HS cách phân tích mục tiêu chung thành những nhiệm vụ bộ phận có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. + Xác định số lượng HS trong mỗi nhóm phù hợp với nhiệm vụ mà nhóm được phân công, sao cho mỗi em đều có nhiệm vụ cụ thể và đảm bảo quan hệ hợp tác chặt chẽ. + Gợi mở, dẫn dắt HS biết xác định cách tiến hành, thực hiện nhiệm vụ. + Khuyến khích, động viên HS tham gia phát biểu ý kiến. + Bổ sung, điều chỉnh và kết luận biết dựa trên những ý kiến xác đáng của HS. - Đối với HS: + Biết trình bày ý kiến rõ ràng. + Lắng nghe và biết thừa nhận ý kiến người khác. + Biết ngắt lời và chấp nhận sự ngắt lời hợp lí. + Biết phản đối và đáp lại sự phản đối một cách lịch sự + Biết thuyết phục người khác. + Hiểu được mục đích, nhiệm vụ cụ thể và cách thực hiện trên cơ sở thảo luận chung và kết luận của GV. - Phân công: 48
  42. + Phân nhóm: Tuỳ từng nhiệm vụ bộ phận, GV cùng HS xác định mô hình nhóm và số người cần để thực hiện nó. Trên cơ sở đó, GV phân HS thành từng nhóm theo nguyên tắc nhóm hỗn hợp, dựa trên yêu cầu của từng nhiệm vụ cụ thể, phù hợp với khả năng và sở trường của từng HS, có tính đến sự tương hợp tâm lí sao cho mỗi HS có thể phát huy được mặt mạnh của mình và các em có thể bổ sung, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau, học tập những điểm mạnh của nhau, không gây ra tâm lí tự ti, lo lắng ở những HS ít khả năng hơn. GV cũng có thể để HS tham gia vào phân nhóm: HS có thể nói lên nguyện vọng được làm việc trong nhóm nào, sau đó GV điều chỉnh cho thích hợp. Việc cử nhóm trưởng có thể do GV chỉ định, song cũng có thể để cho các thành viên trong nhóm tự bầu tuỳ thuộc vào sự sáng suốt của HS. GV cần quan tâm giúp mỗi HS nắm vững các kĩ năng lãnh đạo bao gồm: đưa ra chỉ dẫn công việc của nhóm, xử lí đúng đắn những vấn đề nảy sinh, nhận xét, đánh giá xác thực điểm mạnh, yếu, đóng góp của từng thành viên trong nhóm và đảm bảo rằng tất cả các thành viên của nhóm được trải nghiệm vai trò nhóm trưởng. - Phân công nhiệm vụ: GV giao nhiệm vụ cho từng nhóm, việc phân công trách nhiệm đến từng cá nhân nên để cho nhóm trưởng và các thành viên trong nhóm tự làm. Kĩ năng hợp tác giữa GV-HS và HS-HS được thể hiện trong các kĩ năng hình thành nhóm sau đây: - Đối với GV: + Gợi ý cho HS các nguyên tắc hình thành nhóm: các thành viên khác nhau về khả năng, đạo đức, giới tính, sức khoẻ + Trao quyền cho HS đăng kí và lựa chọn lẫn nhau. + Điều chỉnh nhóm cho phù hợp với mục tiêu GD và yêu cầu công việc của nhóm. - Đối với HS: + Xác định được số lượng thành viên cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ nhóm một cách hợp lí. + Tự giới thiệu và giới thiệu những người khác vào nhóm trên cơ sở phù hợp về khả năng, hứng thú với yêu cầu của nhóm. + Lựa chọn được người có khả năng làm nhóm trưởng phù hợp với công việc. - Đối với nhóm trưởng: + Hiểu nhiệm vụ của nhóm. + Biết cụ thể hoá nhiệm vụ của nhóm thành các công việc có liên quan phụ thuộc nhau. + Biết phân công hợp lí nhiệm vụ cho từng thành viên trên cơ sở các công việc của nhóm tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực. + Biết tranh thủ ý kiến của mọi thành viên trong nhóm để tìm cách thực hiện nhiệm vụ nhóm có hiệu quả nhất. 49
  43. + Biết cụ thể hoá kế hoạch. b. Bước thực hiện: GV chịu trách nhiệm quản lí quá trình thực hiện nhiệm vụ của cả lớp, điều phối hoạt động của các nhóm, nhưng không thể bỏ qua các cá nhân. Mặc dù đã có sự phân cấp quản lí: nhóm trưởng phải chịu trách nhiệm về các thành viên của mình, nhưng GV vẫn có những quan hệ gián tiếp, thậm chí cả quan hệ trực tiếp trong tình huống GV buộc phải can thiệp. Có thể tổ chức quan hệ giữa các nhóm theo phương thức hợp tác hay cạnh tranh tùy thuộc vào tính chất của hoạt động đó. Đồng thời, quan hệ cạnh tranh hay hợp tác giữa các nhóm còn phụ thuộc vào thực tế của từng lớp. Nếu các em yếu về kĩ năng phối hợp, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các nhóm thì nên tạo ra các nhóm phụ thuộc lẫn nhau trong hệ thống mục tiêu chung. Nhưng khi các em biết cạnh tranh lành mạnh thì nên tổ chức quan hệ cạnh tranh giữa các nhóm dưới hình thức thi xếp loại nhất, nhì để tạo ra kì vọng cho mỗi nhóm. Khi tổ chức hoạt động dưới hình thức thi, cần chú ý các nhiệm vụ đặt ra cho các nhóm phải như nhau về mức độ khó khăn. Trong bước này GV đóng vai trò xúc tác, kích hoạt với các nhiệm vụ cụ thể như: theo dõi, động viên HS tự tin và khuyến khích tinh thần trách nhiệm của bản thân, cũng như tin vào khả năng và trách nhiệm của các bạn trong nhóm. GV là người giúp đỡ - thể hiện ở nhiệm vụ tư vấn, hướng dẫn HS, và GV còn là người uốn nắn, điều chỉnh, can thiệp khi quá trình hoạt động ở nơi nào đó xuất hiện những khó khăn, mâu thuẫn mà HS không tự giải quyết được. Song quan trọng hơn cả GV như người chỉ huy dàn nhạc, phải phối hợp, thống nhất hoạt động của các nhóm (trong đó có hành động của từng cá nhân) để chúng gắn kết và bổ sung cho nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Nhiệm vụ của GV khi HS làm việc theo nhóm: - Động viên, khích lệ học sinh thực sự đóng vai trò chủ thể, tích cực, sáng tạo trong HĐ. Cố gắng hoàn thành nhiệm vụ cá nhân với tinh thần trách nhiệm cao. - Hướng dẫn học sinh học cách hợp tác với nhau. Dành thời gian cho nhóm hội ý để điều chỉnh HĐ hợp tác (nếu thấy cần thiết). GV có thể di chuyển xung quanh HS để xem: + Các nhóm có hiểu nhiệm vụ phải làm gì không? + Các nhóm có hiểu cách làm không? + Các nhóm có xử dụng hợp lí các kĩ năng không? + Có ai cần sự giúp đỡ thêm không? Quan hệ hợp tác giữa GV-HS và HS - HS trong bước này thể hiện ở nhóm kĩ năng vận hành hoạt động cơ bản sau: - Đối với GV + Đưa ra chỉ dẫn công việc của lớp gồm: Nhắc lại mục tiêu của lớp, của từng nhóm. Nhắc nhở chú ý về mặt thời gian 50