Bài giảng Năng lượng tái tạo (Bản đầy đủ)

doc 106 trang ngocly 1520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Năng lượng tái tạo (Bản đầy đủ)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_giang_nang_luong_tai_tao_ban_day_du.doc

Nội dung text: Bài giảng Năng lượng tái tạo (Bản đầy đủ)

  1. CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG MỚI CÓ TÍNH TÁI TẠO CÁC CƠ SỞ VÀ NHỮNG KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN N 1. Định nghĩa khái niệm và giải thích 1.1 Dẫn dắt 1.2 Năng lượng mặt trời 1.2.1 Quang điện 1.2.2 Nhiệt năng từ mặt trời 1.3 Năng lượng gió 1.4 Thuỷ năng 1.5 Địa nhiệt 1.6 Năng lượng mang tính tái tạo từ các hợp chất hữu cơ 1.6.1 Khái quát 1.6.2 Sự cháy của các hợp chất hữu cơ 1.6.3 Sự lên men của các hợp chất hữu cơ 1.6.4 Sự cung cấp dầu từ các hợp chất hữu cơ 2. Tiềm năng cũng như tình hình triển khai ứng dụng cho đến nay 2.1 Năng lượng mặt trời 2.2 Năng lượng gió 2.3 Thuỷ năng 2.4 Địa nhiệt 2.5 Năng lượng được tạo ra từ các hợp chất hữu cơ 3. Các viễn cảnh trong tương lai 1
  2. 1. Định nghĩa khái niệm và giải thích 1.1 Dẫn dắt Hầu như tất cả các nguồn năng lượng mà con người hiện nay đang sử dụng xét cho cùng đều xuất phát hay có liên quan tới mặt trời (chỉ trừ năng lượng nguyên tử, địa nhiệt và các nhà máy phát điện hoạt động bằng năng lượng thuỷ triều). Người ta chia ra thành 2 nhóm năng lượng chính: - Năng lượng từ những nguồn năng lượng được sinh ra từ quá trình hoá thạch như dầu hay khí đốt - Năng lượng mới mang tính tái tạo từ những nguồn năng lượng như Mặt trời, Gió, Hợp chất hữu cơ và nhiệt năng của trái đất. Các nguồn năng lượng được tạo ra từ quá trình hoá thạch chính là năng lượng mặt trời được biến đổi, lưu trữ trong các hợp chất hữu cơ. Ngược lại ở các nguồn năng lượng mới mang tính tại tạo thì năng lượng mặt trời được sử dụng dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Hiện nay có những khả năng sử dụng năng lượng mới mang tính tái tạo như sau: - Năng lượng mặt trời - Năng lượng gió - Thuỷ điện hay năng lượng từ sức nước - Địa nhiệt - Năng lượng từ các hợp chất hữu cơ Hiện nay mức tiêu thụ năng lượng trên thế giới tổng cộng là 1,07 x 1011 MWh. Trong đó mức tiêu thụ điện năng là 1,87 x 109 MWh Chiếm khoảng 17% mức năng lượng tiêu thụ tổng cộng. Có thể thấy rằng trong những năm tiếp theo thì mức tiêu thụ năng lượng tổng cộng nói chung cũng như mức tiêu thụ điện năng nói riêng sẽ tăng lên rất mạnh trên phạm vi toàn thế giới. 1.2 Năng lượng mặt trời Năng lượng mặt trời là năng lượng được tạo ra từ các phát ứng hạt nhân của mặt trời. Năng lượng này có thể thu được dưới dạng bức xạ điện từ chiếu xuống trái đất. 2
  3. Ở biên giới khí quyển thì cường độ (Công suất) của bức xạ mặt trời có giá trị là 1,367 kW/m². Nếu các tia bức xạ mặt trời chiếu vuông góc tới một mặt phẳng trên bề mặt trái đất thì cường độ bức xạ chỉ còn vào khoảng 1 kW/m². Thông qua các tia bức xạ mặt trời có thể thu được 1 mức năng lượng hàng giờ là 1,74 x 1011 MWh trên trái đất. Hay nói cách khác là trái đất nhận một công suất là 1,74 x 1011 MW. Năng lượng mặt trời này dùng chủ yếu để làm ấm bầu khí quyển, trái đất và nước. Chỉ có khoảng 1 - 2 % năng lượng mặt trời được biến thành năng lượng gió. Và khoảng 0,02 – 0, 03 % năng lượng mặt trời được sử dụng để tạo ra các hợp chất hữu cơ. 1.2.1 Quang điện Quang điện là hiện tượng biến các chùm tia bức xạ mặt trời thành điện năng nhờ vào hiệu ứng quang điện trong các tế bào quang điện. Cách tạo điện năng này hoàn toàn không gây ra tiếng ồn và không gây ra sự toả hơi hay mùi. Tế bào quang điện có cầu tạo từ rất nhiều lớp mỏng được chế tạo từ vật liệu bán dẫn. Vật liệu cơ bản của tế bào quang điện là Silic. Lượng tử ánh sáng mặt trời chiếu lên tế bào quang điện và kích thích các electron tự do thoát ra khỏi vật liệu bán dẫn. Các electron tự do này sẽ được dẫn theo một kênh dẫn đặc biệt và sẽ tạo ra được dòng điện. 1.2.2 Nhiệt năng từ mặt trời Nhiệt năng từ mặt trời sẽ được dùng để làm nóng nước được chứa trong các bộ thu nhiệt mặt trời đặc biệt. Nước được làm nóng trong các bộ thu nhiệt mặt trời này có thể sử dụng cho sinh hoạt hay cho sưởi ấm. Để làm nóng nước cho sinh hoạt thì với các điều kiện khí hâu ở Đức thì trung bình các thiết bị thu nhiệt cần phải có một diện tích thu nhiệt vào khoảng 1,5 – 2,0 m 2/ 1 người. Đối với các thiết bị thu nhiệt dùng cho sưởi ấm thì diện tích thu nhiệt phải lớn hơn từ 2 đến 3 lần. 1.3 Năng lượng gió Năng lượng gió chính là động năng của khối không khí trong khí quyển. Động năng này xuất hiện do sự bức xạ không đều của mặt trời lên trái đất. Do sự bức xạ không đều này mà sự làm ấm khác nhau của khí quyển, nước và mặt đất sẽ bị tác động. 3
  4. Do sự khác nhau về áp suất và nhiệt độ cũng như quá trình quay của trái đất, khối không khí sẽ chuyển động và sẽ tạo ra những dòng không khí khác nhau vào các thời gian khác nhau trong năm. Có thể sử dụng động năng của khối không khí chuyển đông này của các thiết bị phát điện sử dụng năng lượng gió hay các máy chạy bằng sức gió. 1.4 Thuỷ năng Thuỷ năng chính là khai thác năng lượng của dòng nước chảy. Năng lượng của dòng nước chảy với sự giúp đỡ của những máy móc rất khác nhau sẽ được biến đổi thành năng lượng cơ học. Trước kia năng lượng cơ học này thường được sử dụng trực tiếp. Tuy nhiên ngay này năng lượng cơ học này thường được biến đổi tiếp thành điện năng. Với sự trợ giúp của năng lượng mặt trời, nước sẽ bay hơi và chuyển đến các vùng cao dưới dạng các cơn mưa. Và khi chảy từ những vùng cao này trở lại về biển, thì thế năng sẽ được biến thành động năng và năng lượng này có thể sử dụng được. Việc sử dụng thuỷ năng có thể được thực hiện với các thiết bị bánh xe nước đơn giản hay nhưng tuốc bin hiện đại. Công suất tạo ra được sẽ phụ thuộc vào độ cao của thác cũng như phụ thuộc vào thể tích nước chảy qua. 1.5 Địa nhiệt Địa nhiệt hay còn gọi là nhiệt năng của trái đất là năng lượng lưu trữ dưới dạng nhiệt năng nằm ở dưới bề mặt của lớp vỏ trái đất. Khái niệm địa nhiệt mô tả quá trình khai thác nhiệt năng tự nhiên này và biến nó thành các dạng năng lượng cần thiết khác. Khả năng khai thác sử dụng năng lượng từ địa nhiệt tuỳ vào những vùng khác nhau cũng sẽ rất khác nhau. Ví dụ ở những vùng có núi lửa đang hoạt động việc khai thác sử dụng rất đơn giản, trong khi ở những khu vực khác cần phải khoan sâu tới hàng nghìn mét để có thể khai thác được nhiệt năng này. Ở những lớp đất phía trên (Độ sâu 20 m tính từ bề mặt trái đất) thì địa nhiệt được xác định là phụ thuộc chủ yếu vào bức xạ của mặt trời. Ở những lớp đất sâu hơn do sự chênh lệch nhiệt độ giữa nhân trái đất và lớp bề mặt trái đất, nhiệt năng của trái đất sẽ được truyền từ phía sâu ra ngoài. Ở Đức thì cường độ truyền nhiệt năng này vào khoảng 60 - 80 mW/m². Sự nóng lên sẽ phụ thuộc vào độ sâu và có giá trị vào khoảng 3 °C / 100 m chiều sâu. Địa nhiệt được sử dụng chủ yếu cho mục đích sưởi ấm. 4
  5. Để sưởi ấm các ngôi nhà thì nước ngầm có nhiệt độ từ 8 – 10 0C từ độ sâu tới 30 m sẽ được sử dụng. Nước ngầm này sẽ được xử lý tới nhiệt độ sưởi ấm nhờ vào một bơm nhiệt. Trong trường hợp cần lượng nhiệt năng lớn để cung cấp cho cả một vùng nào đó thì phải thực hiện khoan các lỗ với chiều sâu hàng nghìn mét. Ngoài ra cũng cần phải thực hiện các lỗ khoan như vậy trong trường hợp muốn dùng nhiệt năng của trái đất để làm bay hơi nước dùng cho các tuốc bin hơi nước nhằm tạo ra điện năng. 1.6 Năng lượng mang tính tái tạo từ các hợp chất hữu cơ 1.6.1 Khái quát Hợp chất hữu cơ được tạo ra thông qua sự quang hợp ở các thực vật. Như vậy hợp chất hữu cơ xuất hiện thông qua sự biến đổi trực tiếp ánh sáng mặt trời thành năng lượng. Có thể khai thác sử dụng hợp chất hữu cơ từ những lĩnh vực sau đây: - Các sản phẩm thực vật từ nông nghiệp hay lâm nghiệp - Các sản phẩm chất thải như ngũ cốc, rơm, gỗ, vỏ bào từ nông nghiệp hay lâm nghiệp - Các chất thải ví dụ như chất thải từ quá trình chế tạo các sản phẩm thực phẩm hay các chất thải được thu thập khác Các chất thải sinh học có thể được sử dụng bằng 2 cách khác nhau để tạo ra năng lượng tuỳ thuộc vào hàm lượng xenlulo: - Tạo ra năng lượng bằng cách đốt - Tạo ra năng lượng bằng cách lên men 1.6.2 Sự cháy của các hợp chất hữu cơ Khoảng 80% chất hữu cơ sẵn có hiện nay có cấu tạo từ gỗ và những chất hữu cơ này sẽ được đốt nhằm tạo ra năng lượng. Năng lượng tạo ra được từ quá trình đốt cháy này được sử dụng cho các nhu cầu sưởi ấm hoặc tạo ra điện nặng. Quá trình đốt cháy về bản chất chính là sự oxy hoá hợp chất các bon trong hợp chất hữu cơ thành CO2. Quá trình oxy hoá này sẽ giải phóng nhiệt năng. Ở quá trình sản xuất điện năng từ các hợp chất hữu cơ thì nhiệt năng được giải phóng từ quá trình oxy hoá này sẽ dùng để tạo ra hơi nước tư nước chứa trong các bình chứa. Hơi nước này sẽ được dẫn vào các tuốc bin chạy bằng hơi nước để tạo ra điện năng. 5
  6. 1.6.3 Sự lên men các hợp chất hữu cơ. Sự lên men các hợp chất hữu cơ là sự phân huỷ của các vật liệu hữu cơ với hàm lượng xenlulo thấp nhờ vào các vi sinh vật trong điều kiện không có oxy và có sự cung cấp nhiệt năng. Quá trình lên men này sẽ tạo ra các khí sinh học. Khí sinh học có cấu tạo từ Methan (Chiếm 60 -70 %) và CO2 (Chiếm 30 – 40 %). Khí sinh học này có thể được đốt cháy để cung cấp nhiệt năng hoặc dùng để chạy các động cơ nhằm tạo ra điện năng. Các hợp chất hữu cơ dùng cho việc lên men chủ yếu là các sản phẩm từ nông nghiệp như ngũ cốc hay các chất thải như chất thải từ sinh hoạt hàng ngày hoặc là phân dưới dạng lỏng. Quá trình lên men diễn ra theo 3 mức: Thuỷ phân, Tạo thành axid acetic và tạo thành methan. Các phần chất thải hữu cơ còn lại sau quá trình lên men này có thể được tái sử dụng làm phân bón trong nông nghiệp. 1.6.4 Sự biến thành dầu của các hợp chất hữu cơ Các sản phẩm nông nghiệp có chứa hàm lượng dầu thực vật lớn như đậu nành, cây cải dầu có thể được ép để tạo ra dâu thực vật. Dầu thực vật nay có thể dung để chạy các động cơ nhằm tạo ra năng lượng 2. Tiềm năng cũng như tình hình triển khai ứng dụng cho đến nay 2.1 Năng lượng mặt trời Mặt trời cung cấp một lượng năng lương hàng năm là : 1,52 x 1015 MWh. Lượng năng lượng này lớn gấp 2000 – 3000 lần nhu cầu năng lượng hiện này ( 6 x 1011 MWh) Các tính toán chỉ ra rằng chỉ với ít hơn 0,3 % diện tích sa mạc hiện có ở Bắc Phi thì có thể đáp ứng được nhu cầu điện năng toàn bộ cho vùng Bắc Mỹ và Châu Âu. 2.2 Năng lượng gió 1- 2% năng lượng bức xạ từ mặt trời được chuyển thành năng lượng gió. Lượng năng lượng biến chuyển thành năng lượng gió này có giá trị là 1013 MWh Giả thiết rằng một khu công viên gió với diện tích vào khoảng 100 ha có thể tạo ra một lượng điện năng là 45 x 10 6 kWh hàng năm thì người ta cần phải có một diện tích đất tổng công là khoảng 60 000 ha để có thể thoả mãn được nhu cầu điên năng trên thế giới hàng năm là vào khoảng 27 x 106 MWh. Diện tích này chỉ bằng 0,001 % diện tích tổng cộng của Việt Nam. 6
  7. 2.3 Thuỷ năng Hiện nay trên thế giới thuỷ năng đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu về điện năng. Điện năng được tạo ra từ thuỷ năng là 5,4 x 10 6 MWh/năm. Chính vì vậy có thể nói rằng hiện nay trong các nguồn năng lượng mới có tính tại tạo thì thuỷ năng đóng góp phần lớn nhất đối với quá trình tạo ra điện năng. Các chuyên gia cho rằng tiềm năng có thể khai thác được của thuỷ năng còn có thể cao hơn mức khai thác hiện nay đến 5 lần và như vậy nếu khai thác được hết tiềm năng của thuỷ năng thì có thế đáp ứng được toàn bộ nhu cầu điện năng hàng năm trên toàn thế giới. Tuy nhiên việc khai thác thuỷ năng còn phụ thuộc rất lớn vào những tác động về mặt sinh thái tới môi trường. 2.4 Địa nhiệt Tiềm năng khai thác nhiệt năng từ trái đất là vô tận. Tuy nhiên hiện nay do các lý do về chi phí, quá trình khai thác địa nhiệt không có khả năng cạnh tranh với các dạng năng lượng khác. Tuy nhiên với sự thiếu hụt của các nguồn năng lượng được tạo ra từ quá trình hoá thạch cũng như sự đắt lên của các nguồn năng lượng do sự thiếu hụt này thì trong tương lại nguồn năng lượng dự trự này sẽ được khai thác rất mạnh. 2.5 Hợp chất hữu cơ Trung bình thì các thực vật có thể tạo ra được một năng lượng thực là 5,8 kWh trên 1 m² . Nếu tính trên tổng các diện tích có trông cây (thực vật) trên trái đất thì thì thực vật có thể tạo ra một năng lượng là 1,91 x 107 MWh Như vậy năng lượng có thể tạo ra từ thực vật trong 1 năm là 1,67 x 10 11 MWh và năng lượng này lớn hơn nhu cầu năng lượng hàng năm là 1,07 x 1011 MWh. Chính vì vậy trong tương lai hợp chất hữu cơ sẽ có một đóng góp đáng kể vào quá trình tạo ra năng lượng. Điều này cũng đúng ngay cả trong trường hợp chỉ có các chất thải rắn từ nông nghiệp, lâm nghiệp cũng như các chất thải từ các sản phầm thực phẩm hay các chất thải đô thị được sử dụng. 3. Các viễn cảnh trong tương lai 7
  8. CÁC CƠ SỞ LÝ THUYẾT Tiến sỹ kỹ thuật Peter Henigin Năng lượng và công suất Năng lượng chính là „Công“ được lưu trữ trong một hệ thống hoặc là khả năng của một hệ thống để thực hiện một „Công“ nào đó (Ví dụ: năng lượng cơ học dưới dạng động năng, thế năng, nhiệt năng, năng lượng dính kết). Đơn vị của hệ năng lượng theo hệ đơn vị chuẩn SI là Joule (J). Đối với các thiết bị phát điện bằng sức gió thì thường áp dụng các đơn vị sau đây để biểu thị cho năng lượng như kWh hay MWh. Công suất là năng lượng hay „Công“ trên một đơn vị thời gian. Đơn vị của công suất theo hệ đơn vị chuẩn SI là watt (W) Đối với các thiết bị phát điện sử dụng năng lượng gió thì thường sử dụng các đơn vị là kW hay MW Tính chuyển đổi: 1 MW=103 kW = 106 W Công suất gió Theo định luật về lực của Newton (Định luật 2 Newton) thì K = ma [N] (1) Với K - Lực m - Khối lượng a - Gia tốc Chú ý là „Công“ chính là tích phân quãng đường của lực nên có công thức Et = ½ m v ² [Ws] (2) Với v - vận tốc 8
  9. Đối với công suất gió thì công thức (2) có nghĩa là lượng không khí với khối lượng m chuyển động với vận tốc là v sẽ có một động năng Et trên một đơn vị thời gian. Hình 1: Dòng không khí Căn cứ vào hình 1 thì thể tích không khí V đi qua một tiết diện ngang A với vận tốc v sẽ là V = A V [m³/s] (3) Khối lượng không khí M và mật độ không khí sẽ được tính theo công thức (4) M = v A [kg/s] (4) Do vậy ta có công thức (5) Et = ½ v ³ A [W] (5) Với Et - lượng năng lượng trên một đơn vị thời gian cũng như P0 = ½ v ³ A [W] (6) Từ công thức (5), (6) có thể rút ra một kết luận rất quan trọng là công suất gió sẽ tỷ lệ với luỹ thừa bậc 3 của vận tốc gió. Hình 2 chỉ rõ sự tăng lên của công suất gió trên mỗi một m² tương ứng với sự tăng lên của vận tốc cho trường hợp mật độ không khí 1, 225 kg/m³ (Đây chính là mật độ không khí khô tại áp suất khí quyển ở chiều cao mặt nước biển với nhiệt độ không khí là 15 °C) 9
  10. Hình 2: Công suất gió Công suất của thiết bị WEA Để xác định được công suất của thiết bị WEA thì cần phải áp dụng các định luật sau đây: a) Phương trình về tính liên tục ở dạng phương trình (4) M = V F [kg/s] (7) b) Định luật về lực của Newton (Định luật 2 Newton) ở dạng phương trình (2) Et = ½ m v ² [W] (8) c) Rút ra từ định luật bảo toàn động lượng theo hình 3: v1 v2 v (m/ s) (9) - Với v1 - Vận tốc gió trước khi gặp thiết bị WEA 2 - Với v2 - Vận tốc gió sau khi gặp thiết bị WEA - Với v - Vận tốc gió khi gặp (tại) thiết bị WEA V2 10
  11. Hình 3: Bảo toàn động lượng Phần năng lượng được sử dụng bởi thiết bị WEA trên một đơn vị thời gian hay nói cách khác là công suất P được tạo ra bởi thiết bị WEA sẽ chính là hiệu số giữa phần công suất gió trước khi gặp và sau khi gặp thiết bị WEA. E = E1– E2 = P [W] = ½ m v1² - ½ m v2² [W] = ½ m (v1² - v2²) [W] (10) Từ phương trình (10) có thể thấy rằng E sẽ đạt giá trị lớn nhất nếu như v2 = 0, tuy nhiên điều này về mặt vật lý là không thể vì nếu như v2 = 0 thì theo phương trình về tính liên tục thì v1 cũng phải bằng 0. Sẽ hợp lý hơn về mặt vật lý nếu như có được một tỷ lệ tối ưu giữa v1 và v2 và với tỷ lệ tối ưu này thì công suất của thiết bị WEA sẽ là lớn nhất. Nếu sử dụng các phương trình (7), (9) và (10) thì ta có: P = ¼ F (v1 + v2)(v1² - v2²) [W] Nếu như so sánh về mặt tỷ lệ giữa P với công suất tổng cộng P0 của gió thổi qua một bề mặt có diện tích F mà không gặp phải một sự cản trở nào (Phương trình 6) thì ta có: P / P0 = ¼ F(v1 + v2)(v1² - v2²) ½ F v1³ [-] (12) Với một vài biến đổi đơn giản tiếp theo ta thu được: P / P0 = ½ (1– (v2 / v1)²)(1 + (v2 / v1)) [-] (13) Nếu như biểu diễn P / P0 như là một hàm số của v2/v1 thì ta thu được một đồ thị biểu diễn như ở hình 4 Hình 4: Tỷ lệ P/P0 11
  12. Từ hình 4 có thể dễ dàng nhận thấy rằng giá trị lớn nhất của hàm P / P0 là 16/27 đạt được tại giá trị v2/v1 = 1/3. Điều này có nghĩa là, công suất lớn nhất có thể của 1 thiết bị WEA sẽ đạt được nếu như v2/v1 = 1/3 và công suất lớn nhất có thể sẽ vào khoảng 59%. Hệ số về công suất này trong thực tế không thể đạt được ở những thiết bị WEA cỡ lớn (Tuy nhiên trong những trường hợp này thì hệ số công suất cũng lớn hơn 0,5). Việc rút ra những vấn đề trên đây được dựa theo các công trình được công bố từ năm 1922 đến năm 1925 của Albert Betz. Chính vì vậy các kết quả nguyên bản đôi khi cũng còn được gọi là định luật Betz`sches. 12
  13. NHỮNG SUY NGHĨ MANG TÍNH NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN BIÊN CHO VIỆC LỰA CHỌN ĐỊA ĐIỂM Tiến sỹ kỹ thuật Peter Henigin Các tiêu chuẩn liên quan: 1. Điều kiện gió 2. Khoảng cách tới các công trình dân cư 3. Kết nối vào mạng lưới hoặc hoạt động riêng biệt 4. Độ nhấp nhô và sự dịch chuyển 5. Sơn văn học (Khoa học nghiên cứu về núi) 6. Các khó khăn cản trở 7. Sự chuyển động không đều của không khí 8. Chỗ khuất gió 9. Tỷ suất tác động (tỷ số giữa năng lượng thực tế mà 1 WEA tạo ra và năng lượng lớn nhất về mặt lý thuyết mà 1 WEA tạo ra) 13
  14. 1. Điều kiện gió: Thông số quan trọng nhất quyết định một địa điểm nào đó có thích hợp cho việc lắp đặt thiết bị phát điện chạy bằng năng lượng gió (WEA) hay không chính là các điều kiện gió. Tiêu chuẩn quan trọng nhất biểu thị điều kiện gió chính là vận tốc gió trung bình ( xem hình 1). Vận tốc gió trung bình sẽ cho biết gió theo phương ngang thổi tại một địa điểm xác định trong khoảng thời gian quan sát tổng cộng (Ví dụ 1 năm) với độ mạnh trung bình như thế nào. Vận tốc gió trung bình này sẽ được tính theo công thức sau: 1 l v vn l n 1 với v - vận tốc gió trung bình (m/s) l - Số lần đo vận tốc gió trong 1 năm n - Chỉ số của mỗi lần đo Vận tốc gió trung bình này bị ảnh hưởng bởi các thông số rất khác nhau như độ nhấp nhô, sơn văn học, sự chuyển động không đều của không khí Sau đây chúng ta sẽ đi lần lượt vào những thông số ảnh hưởng này. 2. Khoảng cách tới các công trình dân cư: Có tổng cộng 3 tác động làm phiền tới con người mà các thiết bị WEA có thể gây ra như sau: a) Tác động tới tầm nhìn b) Ảnh hưởng về tiếng ồn c) Hiệu ứng “Bóng râm chuyển động” Tác động về tầm nhìn phụ thuộc vào độ lớn của thiết bị. Tác động về tầm nhìn hoàn toàn phụ thuộc chủ quan vào những người quan sát, liệu họ cảm thấy độ lớn như vậy là hợp lý hay là với độ lớn như vậy thì cảm thấy bị quấy rầy. Tác động về tiếng ồn xuất hiện do sự phát ra tiếng ồn trong quá trình quay của các cánh quạt của rotor. Tuy nhiên những tiếng ồn này ở khoảng cách 100 m thì hầu như không thể cảm nhận thấy do bị lẫn với các tiếng ồn nhiễu khác từ môi trường xung quanh như 14
  15. tiếng ồn của cây cối hay các tiếng ồn của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Các thiết bị WEA có thể tạo ra hiệu ứng „Bóng râm chuyển động“ phụ thuộc vào hướng gió, tình trạng nắng cũng như tình trạng hoạt động. Ở Đức thời gian kéo dài tối đa cho phép theo luật định của hiệu ứng „Bóng râm chuyển động“ là 30 phút một ngày hoặc 30 giờ một năm. 3. Kết nối vào mạng lưới hoặc hoạt động riêng biệt: Do độ lớn về mặt công suất, những thiết bị WEA loại lớn (công suất lớn hơn 1 MW) sẽ được nối kết vào mạng lưới. Thích hợp phổ biển cho sự kết nối này là các đường dây 10 đến 30 kV. Tuy nhiên cũng cần kiểm tra khả năng tiếp nhận đối với hệ thống đường dây có sẵn như thế nào. Nếu giá trị này bị vượt qua thì cần thiết phải nâng công suất của hệ thống đường dây. Hoạt động riêng biệt (Năng lượng điện tạo ra bởi các thiết bị WEA sẽ không được nối kết vào mạng lưới có sẵn hay mạng lưới sẽ được xây dựng) thường xuất hiện ở những thiết bị WEA cỡ nhỏ khi có những nhu cầu về năng lượng không đổi hoặc có thể đạt được những thiết bị lưu trữ năng lượng (Ví dụ giống như hệ thống trữ nước trên đảo, xem hình 2). 4. Độ nhấp nhô và sự dịch chuyển Độ nhấp nhô của bề mặt đất càng lớn thì gió càng bị cản lại mạnh. Điều này xuất hiện rất rõ nét trong đối với những khu vực có công trình xây dựng lớn hay những khu rừng. Ngược lại đối với những bề mặt nước phẳng rộng lớn (ví dụ như mặt biển) thì gió hầu như không bị cản trở. Để có thể mô phỏng được vận tốc gió trung bình thì độ nhấp nhơ bề mặt đất được chia thành các cấp (xem bảng sau đây) Bảng 1: Cấp nhấp nhô và chiều cao nhấp nhô Cấp nhấp Chiều cao Chỉ số năng Kiểu bề mặt đất nhô nhấp nhô lượng [m] [%] 0 0,0002 100 Mặt nước 0,5 0,0024 73 Những địa hình thoáng với các bề mặt phẳng ví dụ như bê tông, đường băng hạ cánh, các thảm cỏ được cắt 15
  16. tỉa. 1 0,03 52 Những vùng đất nông nghiệp thoáng không có hang rào với những ngôi nhà nằm phân tán ở xa. Các gò đồi rất thấp 1,5 0,055 45 Những vùng đất nông nghiệp với một ít nhà và các rào chắn với chiều cao 8m ở khoảng cách xấp xỉ 1250 m xung quanh 2 0,1 39 Những vùng đất nông nghiệp với một ít nhà và các rào chắn với chiều cao 8m ở khoảng cách xấp xỉ 500 m xung quanh 2,5 0,2 31 Những vùng đất nông nghiệp với một ít nhà và các rào chắn với chiều cao 8m ở khoảng cách xấp xỉ 250 m xung quanh 3 0,4 24 Các làng, thành phố nhỏ hay những vùng đất nông nghiệp với rất nhiều rào chắn caom các khu rừng. Những khu vực rất nhấp nhô không bằng phẳng 3,5 0,8 18 Các thành phố lớn với các toà nhà cao 4 1,6 13 Những thành phố lớn với các toà nhà cao, có sự ngăn cản di chuyển của mây Do độ nhấp nhô, càng gần mặt đất vận tốc gió sẽ càng giảm đi. Diễn biến này được gọi là hiện tượng dịch chuyển của gió. Hiện tượng này có liên quan rất quan trọng tới các thiết bị WEA vì các cánh quạt của rotor sẽ chịu tại rất khác nhau phụ thuộc vào sự dịch chuyển của gió. Những mối quan hệ chính xác hơn về hiện tượng dịch chuyển của gió 16
  17. (bao gồm cả các công thức) sẽ được trình bày trong bài giảng „Các cơ sở lý thuyết của năng lượng gió“ 5. Sơn văn học Sơn văn học mô tả địa hình của một khu vực nào đó. Do vậy nó có ảnh hưởng lớn đối với vận tốc gió. Các thiết bị WEA thường được lắp đặt trên các đỉnh đồi núi vì ở đây vận tốc gió lớn hơn các khu vực xung quanh. Điều này đặc biệt đúng trong những trường hợp trước đỉnh đồi núi theo hướng gió chính không có những vật cản có chiều cao tương ứng. Ở nơi có những vật cản này thì gió sẽ bị cản lại do sự nhấp nhô của địa hình hay do chính những vật cản chắn gió này (Xem hình 3) Hiệu ứng „Đường hầm“ xuất hiện khi một thiết bị WEA được lắp trên đỉnh đồi núi ở hướng gió chính. Trong trường hợp này, dòng không khí đến sẽ bị nén lại dẫn đến vận tốc sẽ tăng lên. Do vậy nó sẽ thổi qua „rào chắn“ với vận tốc lớn hơn (Xem hình 4). Điều này đã chỉ ra rằng sự lựa chọn địa điểm đúng đắn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố đầu vào. Ngược lại, ở sự lựa chọn địa điểm sai không thích hợp thì thường yếu tố sơn văn học không được chú ý đầy đủ dẫn đến vận tốc gió thấp hơn giá trị dự đoán lý thuyết. 6. Sự chuyển động không đều của không khí Sự chuyển động không đều của không khí xuất hiện khi dòng không khí bị làm chệch hướng bởi các rào chắn. Do các rào chắn này vận tốc của gió sẽ bị giảm đi đến mức sau các rào chắn sẽ xuất hiện hiện tượng chuyển động không đều của không khí (Không khí chuyển động hỗn loạn). Chính vì vậy cần đặc biệt chú ý để không có các rào chắn trước các thiết bị WEA do những rào chắn này sẽ làm giảm vận tốc gió cũng như gây ra hiện tượng chuyển động không đều của không khí (Xem hình 5) 7. Chỗ khuất gió: Những khu vực đằng sau các rào chắn, nơi gió thổi với vận tốc thấp được gọi là những vùng khuất gió. Ở những vùng này vận tốc gió phụ thuộc vào tỷ lệ lỗ rỗng của rào chắn. Ví dụ các ngôi nhà do tính chất của nó sẽ không có các lỗ rỗng trong khi các cây cối do bản chất tự nhiên sẽ có các „lỗ rỗng“ cho phép gió đi qua. Chính vì vậy các cây cối ít cản gió hơn so với các ngôi nhà (xem hình 6). 17
  18. 8. Tỷ suất tác động (tỷ số giữa năng lượng thực tế mà 1 WEA tạo ra và năng lượng lớn nhất về mặt lý thuyết mà 1 WEA tạo ra) Nếu như các thiết bị WEA được bố trí liên tiếp nhau trong hướng gió chính thì cũng có thể gây ra hiện tượng „Rào chắn“. Do các WEA phía trước sẽ cản gió của WEA phía sau. Những phát biểu chính xác hơn về hiện tượng này sẽ được trình bày trong bài giảng „Những cơ sở lý thuyết của năng lượng gió - Kỹ thuật thiết bị - Kỹ thuật xây dựng“. Tuy nhiên về mặt kinh nghiệm thì khoảng cách giữa 2 thiết bị WEA trong hướng gió chính phải bằng 7 lần đường kính rotor và khoảng cách giữa 2 thiết bị WEA vuông góc với hướng gió chính phải bằng 4 lần đường kính rotor (xem hình 7). Với sự giúp đỡ của các mô hình tương ứng cũng như các hiểu biết về các thông số khác nhau ví dụ hướng gió có thể xác định được sự mất mát về năng lượng. 18
  19. KINH TẾ VÀ TÀI CHÍNH Wolfgang Fettig Mục lục 1. Những kiến thức cơ bản 1.1 Các dữ liệu lịch sử về sự phát triển của „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ 1.2 Các giai đoạn dự án để phát triển một „Công viên gió“ (1 địa điểm tập trung rất nhiều thiết bị phát điện chạy bằng sức gió – WKA) 1.3 Các đối tác tham gia và nhiệm vụ của các đối tác 1.4 Luật công ty và luật hợp đồng 2. Tính kinh tế của các dự án „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ 2.1 Các mong đợi về mặt kinh tế 2.2 Chi phí đầu tư 2.3 Chí phí vận hành 2.4 Các khả năng của việc tối ưu hoá lợi suất 3. Nguồn tài chính của các dự án “Phát điện sử dụng năng lượng gió” 3.1 Nguồn tài chính cho việc phát triển dự án 3.2 Nguồn tài chính của dự án 3.3 Nguồn tài trợ và các phụ cấp 4. Bài tập 5. Phụ lục 19
  20. 1. Những kiến thức cơ bản Việc sử dụng năng lượng của gió nhằm tạo ra năng lượng cần thiết cho cuộc sống của con người đã có truyền thống lâu đời, hàng nghìn năm. Trong vòng hai thập kỷ vừa qua, quá trình sử dụng năng lượng gió để sản xuất điện và để tạo ra các nguồn nhiệt đã trải một quá trình phục hưng bền vững chưa từng có. Điều này bắt nguồn từ sự cạn kiệt của các nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu khác cũng như sự thay đổi về khí hậu của trái đất. Chương đầu tiên của bài giảng về „Kinh tế và tài chính của năng lương gió“ sẽ chuyển giao cho người nghe một vài dữ kiện lịch sử cũng như các kiến thức cơ sở về chủ đề này. 1.1 Các dữ liệu lịch sử về sử phát triển của „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ 1.1.1 Quá trình phát triển lịch sử của „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ Quá trình phát triển của việc sự dụng năng lượng gió nhằm sản xuất ra điện năng đã bắt đầu vào những năm 70 với những thí nghiệm đầu tiên. Tuy nhiên sự phát triển bùng nổ của lĩnh vực này diễn ra vào những năm 80. Trong khoảng thời gian này, người ta bắt đầu thực hiện tài trợ cho những nghiên cứu sử dụng năng lượng gió để tạo ra năng lượng điện. Với luật cung cấp điện ra đời vào năm 1991, thì sự phát triển bùng nổ liên tục cho đến tận thời điểm hiên nay của sử dụng năng lượng gió đã bắt đầu trước hết ở Đức và hiện nay là trên phạm vi quốc tế. Điểm cốt lõi của luật cung cấp điện là trách nhiệm của người điều hành mạng lưới cung cấp điện đối với như cầu điện năng cũng như các quy tắc có liên quan về giá thanh toán của điện năng đã được cung cấp. Sự phát triển này được thúc đẩy một lần nữa vào năm 2001 với việc thông qua luật về các nguồn năng lượng mới mang tính tái tạo ở Đức (viết tắt là EEG) và sự phát triển này chỉ bị thay đổi chút ít do các điều luật sửa đổi bổ xung vào năm 2004. Theo điều luật bổ xung này thì giá thanh toán không đổi trong thời gian hoạt động 20 năm kể từ năm bắt đầu hoạt động đã được xác định. Giá thanh toàn này (hiện nay khoảng 8.1 cent/kWh) thì thấp hơn khoảng 2% so với sự giảm hàng năm. Với điều này mọi người muốn đảm bảo tạo ra sự tăng năng suất ở quá trình chế tạo thiết bị. 20
  21. Hình vẽ: Công suất điện năng được tạo ra từ năng lượng gió (MW) trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm 2006 (Nguồn: Hiệp hội liên bang về năng lượng gió e.V. BWE, 1/2007) Dưới tác động của những quyết định mang tính chính trị này, cho đến cuối năm 2003 có đến khoảng 2/3 các thiết bị phát điện sử dụng năng lượng gió ở Châu Âu được lắp đặt ở CHLB Đức. Từ thời điểm đó hiện nay ở Đức có khoảng 18685 thiết bị WEA với công suất lắp đặt vào khoảng 20621 MW. Như vậy ở Đức năng lượng gió giúp đáp ứng được 5.7% năng lượng điện tiêu thụ. Hình vẽ: Quá trình phát triển của công suất được lắp đặt trên toàn thế giới (Nguồn: Nghiên cứu về năng lượng gió 2006, viên năng lượng gió CHLB Đức DEWI GmbH) 1.1.2 Quá trình phát triển kỹ thuật của thiết bị phát điện sử dụng năng lượng gió 21
  22. (Chiều cao trục, công suất và đường kính rotor) Vào những năm 80 xu hướng chủ yếu là phát triển những thiết bị có công suất 30 đến 50 kW. Vào những năm 90 công suất được nâng lên từ 150 đến 250 kW. Cho đến những năm cuối thập niên 90 người ta đã bắt đầu chế tạo những thiết bị có công suất lớn hơn 500 kW cho đến 900 kW. Kể từ những năm bắt đầu thiên niên kỷ mới đến nay, các nhà chế tạo đã nâng được công suất của thiết bị lên đến mức MW. Hiện này công suất của những thiết bị được lắp đặt cỡ trung vào khoảng 2 MW và những thiết bị cỡ lớn có thể có công suất lên đến 6 MW (Xem hình vẽ) Hình vẽ: Công suất lắp đặt trung bình trên mỗi thiết bị phát điện sử dụng năng lượng gió WEA và hàng năm ở Đức (Nguồn: Viện năng lượng gió CHLB Đức DEWI GmbH, 2007) Một sự phát triển tương tự về mặt công suất có thể thấy ở chiều cao của trục và đường kính của rotor. Các thiết bị loại lớn hiện nay được chào bán trên thị trường có chiều cao trục vào cỡ 160 m và đường kính rotor vào cỡ 112 m. 22
  23. Hình vẽ: Diễn biến phát triển của công suất danh nghĩa (kW), đường kính rotor và chiều cao trục (m) trong khoảng thời gian từ 1980 đến 2005. Nếu sử dụng thang loga thì có thể thấy các mối quan hệ này có dạng gần như là tuyến tính (Nguồn: www.weltderphysik.de, 2006) 1.1.3 Sự phát triển của hiệu suất (Thu nhập và chi phí) Sự phát triển về mặt công nghệ kỹ thuật như đã nói ở trên đã đem lại sự tăng thêm về mặt năng suất rất lớn trong những năm vừa qua. Vào những năm 1990 giá mua 1 thiết bị WEA vào khoảng 1260 Euro/kW thì đến năm 2004 giá mua 1 thiết bị WEA đã giảm xuống còn 890 Euro/kW (giảm hơn 29%). Khi so sánh giá thành tài sản của 1 thiết bị WEA với thời gian làm việc trong 1 năm đã được định trước (Đơn vị Euro/1kWh) từ năm 1994 đến năm 2004 thì có thể thấy 1 xu hướng là giá thành tài sản giảm 53% từ 0,8 Euro/1kWh xuống còn 0,38 Euro/1kWh. Hình vẽ: Giá thành thiết bị WEA tính trên 1 kWh trong 1 năm làm việc xác đinh (Địa điểm tham khảo) (Nguồn hiệp hội liên bang về năng lượng gió e.V. BWE, 2006) Như vậy có thể thấy rõ rằng hiện này với những thiết bị cỡ lớn với công suất từ 2 – 3 MW thì tại một địa điểm xác định có thể tạo ra được nhiều điện năng hơn 20 lần với giá thành giảm đi rõ rệt so với thời điểm trước đây 20 năm. 1.1.4 Những yếu tố về mặt kinh tế của „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ từ các ví dụ của CHLB Đức Sự phát triển bùng nổ hiện nay của „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ không chỉ ở Đức mà trên toàn thế giới thể hiện những yếu tố về mặt kinh tế đầy hứa hẹn. Các công 23
  24. ty Đức về lĩnh vực „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ đã nâng doanh thu trong 3 năm vừa qua từ khoảng trên 3 tỷ Euro lến đến xấp xỷ 5 tỷ Euro. Tính trên phạm vi toàn thế giới thì doanh thu của các công ty từ khoảng trên 6 tỷ Euro vào năm 2004 đã tăng lên vào khoảng 18 tỷ Euro vào năm 2007. Nhờ vào sự phát triển ở quy mô lớn này mà có thể tạo ra được nhiều chỗ làm việc mới. Ở Đức vào năm 2006 có hơn 70000 người làm việc trong lĩnh vực năng lượng sức gió. Ngoài ra theo tính toán vào năm 2020 phải tạo ra được 112 000 chỗ làm việc trong lĩnh vực năng lượng sức gió. Hình vẽ: Số chỗ làm việc trong ngành năng lượng sức gió (Nguồn: Hiệp hội liên bang năng lượng gió e. V. BWE, 2005) Theo tính toán của Hiệp hội liên bang năng lượng gió của Đức thì đối với quá trình đầu tư, mỗi triệu Euro giá trị gia tăng sẽ giúp tạo ra 10,5 chỗ làm việc. Trong khi đó thì quá trình vận hành, bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị thì cần ít vốn hơn và với mỗi triệu Euro doanh thu thì có thể tạo ra 14,9 chỗ làm việc. Những người tạo ra việc làm ở đây chủ yếu là các công ty vừa và nhỏ. Tuy nhiên do các mối liên quan truyền thống với các ngành chế tạo máy, lắp đặt thiết bị cũng như chế tạo thiết bị cũng như ngành công nghiệp kim loại, ngành năng lượng sức gió đảm bảo sẽ tạo ra rất nhiều chỗ làm trong tương lai. Dọc theo chuỗi giá trị giá tăng tổng cộng thì các chỗ làm của ngành năng lượng gió yêu cầu những nhân viên với các phẩm chất nghề nghiệp rất khác nhau từ người thợ thủ công đến người thợ kỹ thuật, kỹ sư cho đến các luật sư, nhà khoa học, nhà kinh tế, từ thợ hàn, thợ lắp điện đến các nhà kỹ thuật về chất dẻo. Ngoài ra cũng cần đến kỹ sư 24
  25. kinh tế xí nghiệp, người bán hàng, các chuyên gia IT và các nhà vật lý. 1.2. Các giai đoạn dự án để phát triển một „Công viên gió“ (1 địa điểm tập trung rất nhiều thiết bị phát điện chạy bằng sức gió - WEA) Đặc trưng của việc phát triển một công viên gió nằm ở điểm phải luôn trải qua các giai đoạn dự án mang tính tuần hoàn. Nó gồm các giai đoạn như tìm kiểm địa điểm với sự đảm bảo bằng hợp đồng, giai đoạn xin cấp phép, giai đoạn xây dựng lắp đặt thiết bị và tiếp theo đó là giai đoạn hoạt động trong nhiều năm của thiết bị. Giá trị giá tăng của dự án cũng phát triển cũng với các giai đoạn của dự án, điều này có nghĩa là sau khi mỗi giai đoạn của dự án được hoàn thành thì giá trị của dự án cũng sẽ tự động được nâng cao lên. Những bước quan trọng nhất nằm ở các giai đoạn mang tính thương mại có liên quan sẽ được vạch ra tiếp theo. 1.2.1 Lựa chọn địa điểm và đảm bảo địa điểm 1.2.1.1 Các tiêu chuẩn của việc lựa chọn địa điểm (Bảng liệt kê những mục cần kiểm tra) Việc lập kế hoạch của một dự án công viên gió luôn bắt đầu bằng việc tìm kiếm một địa điểm thích hợp. Với sự giúp đỡ của một danh sách liệt kê các tiêu chuẩn như ở bảng dưới đây, có thể tìm ra được các địa điểm mà ở đó về cơ bản có khả năng sử dụng các thiết bị WEA và có vẻ là sẽ hứa hẹn các thành công. Sau đó việc lập kế hoạch xin phép sẽ diễn ra dựa trên các cơ sở đã được đảm bảo chắc chắn ở bước làm việc tiếp theo. Tiêu chuẩn Thông tin Vị trí ngoài trời nếu có thể thì nằm ở những địa điểm cao Ít có sự chiếu trực giao chuyển động, ví dụ không có những thung lũng sâu Địa văn học Ít có những rào chắn cây cối, ví dụ không có rừng ở xung quanh thì tốt hơn là xuất hiện những cây cao Có dòng chảy đến của không khí hoàn toàn tự do từ hướng gió 25
  26. chính Không có những gò cao trong khoảng từ 4 đến 5 km ngang với hướng gió chính Đối với mỗi thiết bị WEA phải có ít nhất 10 hecta Phải đảm bảo khoảng cách tối thiếu 1000 m (Cũng tương tự đối với các công trình xây dựng đặc biết khác) Để tránh ảnh hưởng của bóng râm: Các công trình xây dựng cần nằm cách vị trí lựa chọn tối thiểu 1000 m Vị trí đến khu vực dân cư - Theo hương tây ngang với thiết bị WEA: Bóng râm vào buổi sáng - Theo hướng đông ngang với thiết bị WEA: Bóng râm vào buổi tối Có thể đi vào bằng các đường giao thông, có khả năng xây dựng các đường giao thông cho xe hạng nặng, đường không có những góc cua lớn, chiều rộng tối thiểu của đường giao thông từ 3,5 m đến 4 m Kiểm tra vị trí tới mạng lưới điện trung thế, theo kinh nghiệm đối Cơ sở hạ tầng với mỗi MW lắp đặt thì khoảng cách tới điểm cung cấp điện tiếp theo không được vượt quá 0,5 km. Vị trí tới các khu vực bảo tồn (Khu vực bảo tồn thiên nhiên, khu vực bảo tồn cảnh quan) Vị trí tới sân bay, cột thông tin liên lạc, các cột thu phát truyền hình ( tuân theo nguyên tắc „càng xa càng tốt“) Tiêu chuẩn Thông tin Kiểm tra xem liệu đã có sẵn sự quan tâm đến sử dụng năng lượng Điều kiện tiên gió trong các qui hoạch vùng, qui hoạch sử dụng đất và qui hoạch quyết của công trình xây dựng việc lập kế hoạch Thu hồi những vùng đất ưu tiên hoặc những khu vực dự trữ bổ 26
  27. xung theo qui hoạch vùng Kiểm tra xem có những thông tin về những vùng tập trung cho việc sử dụng các thiết bị WEA hay không? Nếu như không có thì việc xin cấp phép phải diễn ra dưới hình thực một đặc quyền theo điều luật BauGB § 35 Những vùng có ý nghĩa tập trung cần được chú ý (Theo các tiêu chuẩn FFH cũng như các tiêu chuẩn bảo vệ loài chim – vùng „Special Protected Areas“) Tiêu chuẩn Thông tin Kiểm tra xem liệu đã có sẵn sự quan tâm đến sử dụng năng lượng gió trong các qui hoạch vùng, qui hoạch sử dụng đất và qui hoạch công trình xây dựng Thu hồi những vùng đất ưu tiên hoặc những khu vực dự trữ bổ Điều kiện tiên xung theo qui hoạch vùng quyết của Kiểm tra xem có những thông tin về những vùng tập trung cho việc việc lập kế sử dụng các thiết bị WEA hay không? Nếu như không có thì việc hoạch xin cấp phép phải diễn ra dưới hình thực một đặc quyền theo điều luật BauGB § 35 Những vùng có ý nghĩa tập trung cần được chú ý (Theo các tiêu chuẩn FFH cũng như các tiêu chuẩn bảo vệ loài chim – vùng „Special Protected Areas“) Bảng : Các tiêu chuẩn để lựa chọn địa điểm cho các thiết bị WEA 1.2.1.2 Kiểm tra địa điểm - kiểm tra tính khả thi về mặt thương mại Nếu như các câu hỏi trong bảng các danh mục cần kiểm tra ở trên được xác nhận thì có thể tiến hành bước tiếp theo, đó là kiểm tra địa điểm về mặt thương mại và kỹ thuật. Công việc kiểm tra này sẽ bao gồm sự giải thích rõ ràng hơn về mặt kỹ thuật và mặt pháp lý theo yêu cầu (Tham khảo bài giảng 13.12.07) cũng như sự đánh giá về mặt kinh tế của địa điểm. 27
  28. Sự đánh giá về mặt kinh tế đầu tiên sẽ được thực hiện thông qua sự tiêu thụ tại địa điểm căn cứ theo các giá trị cơ bản còn „thô“. Điều này sẽ giúp đạt được một sự lựa chọn thông minh. Ngay khi những đánh giá đầu tiên đã được thực hiện cũng như danh mục cần kiểm tra của địa điểm lựa chọn đã có sẵn trong tay thì về mặt nguyên tắc tính kinh tế sẽ được tính toán một cách so sánh. Việc tính toán này được thực hiện dựa trên cơ sở của việc chú ý tới các mặt như tính toán giá thành đầu tư, lập kế hoạch về khả năng thanh toán bằng tiền mặt của nhiều năm, lãi và lỗ của từng năm hoạt động. Ngoài ra những câu hỏi cũng được đặt ra cho nhà đầu tư nhằm giúp nhà đầu tư có được những thông tin cần thiết phục vụ cho các kỹ sư trong quá trình thiết kế bố cục địa điểm như số lượng thiết bị WEA và kiểu thiết bị WEA thích hợp, các thông số về kích thước của địa điểm, đường giao thông Các giá trị „Cơ bản“: Các giá trị „Cơ bản“ là những giá trị kinh nghiệm còn rất „thô“ được rút ra từ những dự án „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ khác trong nhưng năm vừa qua. Nó giúp cho việc đánh giá chất lượng của một địa điểm nào đó. Những giá trị „Cơ bản“ quan trọng nhất gồm: Vận tốc gió ở chiều cao trục > 6,0 m/s Giá thành đầu tư trên 1 MW 1,25 – 1,4 Mio. € Giá thành đầu tư trên 1 kW điện năng < 0,65 – 0,68 €/kWh. cung cấp Phí thuê đất (Vùng nội địa – Bờ biển) khoảng 3-5% doanh thu Khoảng cách tới mạng lưới 20 kV < 500 – 800 m/MW Tính toán về mặt kinh tế (Xem chương 2) Tính kinh tế của một dự án được xác định quá chi phí đầu tư cũng như qua trình hoạt động của thiết bị trong nhưng năm sau đó. Một sự chi phí đầu tư hợp lý sẽ cho phép giảm được khấu hao hàng năm và ngược lại. Chí phí đầu tư gồm 2 phần: chi phí xuất phát từ giá cả của thiết bị ( chiếm khoảng 70% đến 80% chi phí đầu tư) và các chi phí đầu tư phụ khác. Các phần của sự phân bố chi phí đầu tư thay đổi tuỳ vào từng dự án cụ thể, phụ thuộc vào kiểu thiết bị WEA (Độ 28
  29. lớn, khái niệm), địa điểm cụ thể (Bờ biển, khu vực nội địa, khu vực núi) cũng như số lượng thiết bị WEA trong công viên gió. Hình vẽ: Cấu trúc giá thành của các thiết bị WEA có công suất 1,2 MW ở Đức (Nguồn: Công ty TNHH Viện năng lượng gió DEWI, CHLB Đức 2002) Các chi phí phí đầu tư phụ khác như chi phí cho việc lập kế hoạch, nền móng, kết nối vào mạng lưới điện và khai thác khu đất có sự khác biệt so với chi phí về thiết bị (Trung bình bằng 1/4 chi phí đầu tư). Từ quan điểm của người phát triển dự án thì các phần chi phí cho việc kết nối cũng như nền móng rất quan trọng do những rủi ro có thể có liên quan đến tính chất của nền đất. Ở một chừng mực nào đó thì hai thành phần chi phí quan trọng nhất của chi phí đầu tư phụ này phải được làm sáng tỏ một cách chính xác nhất. Hình: Chi phí đầu tư phụ của các thiết bị WEA trong khoảng thời gian từ 1994 đến 2001 (Nguồn: Hiệp hội liên bang năng lượng gió e. V. BWE, 2002) Việc xác định lỗ lãi được xác định từ lượng điện năng thu được (được xác nhận bởi các chuyên gia về năng lượng gió) cũng như từ các chi phí cho việc hoạt động vận hành của thiết bị. Chi phí cho việc hoạt động vận hành của thiết bị bao gồm các chi phí cho bảo trì bảo dưỡng thiết bị, chi phí cho sửa chữa cũng như thay thế các chi tiết bị mòn, chi 29
  30. phí cho bảo hiểm, chi phi thuê các mảnh đất thuộc quyền sở hữu cá nhân Theo ước tính của hiệp hội năng lượng gió thì chi phí cho bảo trì bảo dưỡng và vận hành thiết bị chiếm từ 1.5 đến 2 % chi phí đầu tư. Trong khi các ngân hàng cho vay ước tính chi phí này vào khoảng 3%. 1.2.1.2 Bảo đảm địa điểm Sau khi đánh giá địa điểm cả về mặt kỹ thuật, về mặt qui hoạch cũng như về mặt thương mại thi cần phải đảm bảo được địa điểm. Ở đây xuất hiện những khả năng giúp cho đảm bảo địa điểm như mua khu đất hay lập hợp đồng cấp phép sử dụng và cho thuê khu đất (Tham khảo thêm mục 1.4.3) Việc đảm bảo khu đất phải được hoàn tất trước khi tiến hành xem xét các hợp đồng xây dựng vì các mong muốn sở hữu khu đất cũng như giá trị của khu đất sẽ tăng lên do việc sử dụng khu đất cho các thiết bị WEA. 1.2.2 Giai đoạn xin cấp phép: Giai đoạn xin cấp phép thực ra đã bắt đầu từ các suy nghĩ mang tính qui hoạch đầu tiên nhằm bố trí phác thảo công viên gió. Tuy nhiên giai đoạn xin cấp phép sẽ trở nên cụ thể hơn với việc chuẩn bị các giấy tờ cho hồ sơ xin cấp phép (Các thủ tục chính xác cụ thể cũng như các điểm đặc biệt cần lưu ý được nói kỹ hơn ở bài giảng của Dr. Ha và ngài Eymann) Từ quan điểm thương mại thì trong giai đoạn này cũng cần phải làm sáng tỏ ngay tiếp theo các vấn đề khác như nguồn tài chính của dư án (Vốn tự có và vốn từ bên ngoài), các khả năng cung cấp và các thoả thuận pháp lý . Ngoài ra với việc đệ trình xem xét cấp phép xây dựng thì giai đoạn xây dựng cũng có thể coi là bắt đầu một cách gián tiếp ngày từ giai đoan xin cấp phép. Mặt khác người lập kế hoạch cũng như người phát triển dự án bắt đầu cần sự thanh toán ứng trước từ những bước phát triển dự án này. 1.2.3 Từ việc xây dựng lắp đặt thiết bị cho đến việc bắt đầu đi vào hoạt động của thiết bị: Từ quan điểm thương mại thì giai đoạn xây dựng lắp đặt thiết bị được thể hiện thông qua việc bàn giao các hợp đồng xây dựng (Đường xá, nền móng, hệ thống cáp ), việc quản lý hợp đồng, việc thanh toán chuyển tiền, đặc biệt là việc kiểm tra chi phí và các thời hạn cũng như việc phối hợp liên tục cần thiết giữa nhà đầu tư, ngân hàng, nhà qui hoạch và người sở hữu khu đất. 30
  31. Quá trình đi vào hoạt động của thiết bị sẽ diễn ra sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng và thường nối tiếp ngay sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng với việc vận hành kiểm tra thiết bị trong một thời gian nhất định theo thoả thuận. Sau khi kết thúc giai đoạn vận hành kiểm tra thiết bị, thì sự tiếp nhận thiết bị có thể diễn ra. Với quá trình tiếp nhận thiết bị này thì thiết bị sẽ được chuyển giao chính thức về mặt pháp lý cho những nhà đầu tư và chủ sở hữu. Việc bắt đầu hoạt động của thiết bị WEA sẽ được ghi nhớ trong biên bản bàn giao. Việc hiện thực hoá một dự án „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ ở Đức thường kéo dài từ 18 đến 24 tháng kể từ khi bắt đầu tìm địa điểm, qua giai đoạn cấp phép cho đến giai đoạn thiết bị bắt đầu đi vào hoạt động. 1.2.4 Hoạt động của thiết bị và quản lý hoạt động: Kể từ năm bắt đầu đi vào hoạt động thì một công viên gió có tuổi thọ trung bình vào khoảng 20 năm. Trong khoảng thời gian này các thiết bị phải được điều hành cả về mặt kỹ thuật lẫn mặt thương mại. Chính vì vậy về mặt nguyên tắc việc quản lý hoạt động của thiết bị về mặt kỹ thuật cũng như mặt thương mại cần phải được thoả thuận với những người phát triển dự án (trong trường hợp lý tưởng là sẽ thoả thuận cho toàn bộ „tuổi thọ“ của thiết bị. Việc quản lý hoạt động của thiết bị nhằm bảo đảm sự hoạt động trôi chảy của thiết bị để có thể đạt được sự cung cấp điện năng cao nhất có thể. Việc quản lý này gồm: Quản lý hoạt động về mặt thương mại: - Trong khuôn khổ quản lý công ty thì bao gồm mọi nhiệm vụ quản lý dự án về mặt hành chính và kinh tế - Trong khuôn khổ vận hành của thiết bị thì gồm giám sát khả năng thanh toán bằng tiền mặt của công ty, thông báo cho nhà băng cũng như các cổ đông của công ty một cách liên tục về tình trạng tiền tệ của tệ - Hoàn thành tất cả các hợp động bảo dưỡng, dịch vụ cần thiết với nhà sản xuất thiết bị - Xử lý mọi nhiệm vụ liên quan đến bảo hiểm - Thực hiện việc yêu cầu thanh toán với các công ty cung cấp năng lượng - Kiểm tra các dữ liệu về sản lượng (So sánh giữa sản lượng thực tế và sản lượng danh nghĩa, xây dựng các bảng thống kê) 31
  32. - Lập các bảng quyết toán báo cáo tài chính hàng năm theo yêu cầu - Thông báo thường xuyên cho các nhà đầu tư về tình trạng điều hành hoạt động dưới hình thức các bản tin về công ty cũng như các buổi họp mặt các cổ đông của công ty. - Thực hiện việc quan hệ công chúng cho công ty. Quản lý hoạt động về mặt kỹ thuật: - Đảm nhiệm công việc giám sát từ xa thiết bị WEA - Bảo đảm việc thông tin liên lạc trong khu vực công viên gió - Tiến hành kiểm tra thường xuyên các thiết bị WEA - Sắp đặt và giám sát các công viên bảo dưỡng sửa chữa của nhà sản xuất thiết bị - Đảm nhiệm việc chẩn đoán sự cố cũng như khắc phục lỗi theo thoả thuận với các nhà sản xuất thiết bị - Thu thập, lưu trữ và phân tích các gián đoạn hoạt động của thiết bị - Tiến hành tuyển chọn và lưu trữ dữ liệu cũng như phân tích đánh giá các dữ liệu Chi phí cho giám đốc điều hành nằm trong khoảng từ 3 đến 5 % của doanh thu. 1.3 Các đối tác tham gia và nhiệm vụ của các đối tác: Ở việc phát triển một công viên gió thường có một số lượng lớn các đối tác tham gia. Các đối tác này cũng với nhiệm vụ và thẩm quyển tương ứng được trình bày cụ thể ở bảng dưới đây: 32
  33. Đối tác tham gia Nhiệm vụ Người phát triển dự án Phát triển dự án của một thiết bị WEA hay của một công viên gió tại một địa điểm về mặt tổ chức cũng như mặt kỹ thuật. Đặt ra dự án, tiến hành nghiên cứu tính khả thi cũng như thực hiện các tính toán về mặt kinh tế, thiết lập các khái niệm kinh tế, chuyển giao các nguồn vồn từ bên ngoài cũng như các nguồn vốn riêng. Ngoài ra còn thực hiện quản lý điều hành, kiểm tra và điều phối các hoạt động diễn ra của dự án. Người phát triển dự án phải chịu các trách nhiệm rủi ro về mặt kinh tế cho đến khi dự án được cấp phép. Người chủ sở hữu địa Người sở hữu những khu đất thích hợp cho việc lắp đặt, điểm/ Người cho thuê vận hành và duy trì các thiết bị WEA về mặt nguyên tắc sẽ chuyển giao những khu đất này cho những người chủ thiết bị WEA thông qua hợp đồng cấp phép cho mục đích sử dụng. Người sở hữu khu đất có được sự bồi hoàn sử dụng hàng năm từ người chủ thiết bị cho đến khi dỡ bỏ các thiết bị WEA căn cứ theo hợp đồng. Người lập kế hoạch Đó chính là doanh nghiệp hoạt động liên quan tới việc kế hoạch của một thiết bị WEA hoặc một công viên gió, bao gồm việc đảm bảo địa điểm thông qua việc quản lý cấp phép, việc dẫn dắt xây dựng về mặt chuyên môn, giám sát các chi phí và các thời hạn cho đến khi thiết bị bắt đầu hoạt động 33
  34. Cơ quan cấp phép/Chính Các cơ quan hành chính sẽ có thẩm quyền cấp phép cho quyền hành chính của các thiết bị WEA. Đối với một dự án „Phát điện sử dụng địa điểm năng lượng gió“ có rất nhiều sự cấp phép phải được trình ra xem xét với sự chú ý tới các điều luật khác nhau. Đối với việc cấp phép thì chính quyền liên bang (ví dụ như luật xây dựng liên bang, luật đường phố, luật hàng không), chính quyền từng bang (ví dụ như qui tắc xây dựng của bang, các giới hạn về chiều cao, các qui tắc về khoảng cách), chính quyền hành chính tại địa điểm ( ví dụ cấp phép xây dựng) đều có thể có thẩm quyền. Các cơ sở luật pháp để xem xét cấp phép ở nước Đức là bộ luật liên bang về xây dựng cũng như luật liên bang bảo vệ con người khỏi những tác động có hại từ môi trường như tiếng ồn, không khí không sạch Quá trình cấp phép sẽ được kiểm tra bởi các nhà chức trách địa phương thông qua việc thu hồi các diện tích đất thích hợp (có tên gọi là các diện tích đất ưu tiên) Các chuyên gia đánh giá Trong quá trình tiến hành xem xét cấp phép đòi hỏi phải có về gió, hệ động vật chim, rất nhiều khảo sát đánh giá khác nhau. Những khảo sát tiếng ồn, hiệu ứng „Bóng đánh giá này phải được hoàn thành và ban giao cho các cơ râm chuyển động“, hiệu quan cấp phép. Có thể kể ra một số khảo sát đặc biệt quan ứng băng văng ra từ các trọng như khảo sát về tiềm năng gió, phân tích khả năng cánh quạt rotor gây hại có thể của tiếng ồn, hiệu ứng „Bóng râm chuyển động“, hiệu ứng băng văng ra từ các cánh quạt cũng như hệ động vật chim Người xây dựng lắp đặt Nhiệm vụ của người chế tạo thiết bị là giao hàng và thực thiết bị / Người chế tạo hiện lắp đặt hoàn chỉnh thiết bị WEA. Khi chuyển giao thiết bị thiết bị WEA cho người chủ sở hữu phải lập một biên bản chuyển giao. Hợp đồng này phải được ký xác nhận từ cả hai phía. Nếu như có được các hợp đồng dịch vụ thì có thể coi giao dịch chuyển giao thiết bị căn cứ theo các qui định của luật pháp được hoàn tất. 34
  35. Người cung cấp năng Căn cứ theo luật về các nguồn năng lượng mới có tính tái lượng tạo EEG thì nhà cung cấp năng lượng có trách nhiệm tiếp nhận nguồn điện năng được tạo ra từ năng lượng gió với một mức giá phù hợp xác định. Người chủ các thiết bị WEA có quyền đưa ra mức giá cung cấp cao trong 5 năm hoạt động đầu tiên của thiết bị (2007 vào khoảng 8,1 cent /kWh), sau khi đạt được một thu nhập nhất định thì giá thành cung cấp sẽ giảm xuống còn 5,39 cent /kWh Người chủ sở hữu thiết Người chủ thiết bị phải có trách nhiệm đảm bảo sự hoạt bị/ động của thiết bị tuân theo các qui định của luật pháp. Người chủ trách nhiệm phải chịu trách nhiệm trước các cơ quan cấp phép về hoạt động an toàn của thiết bị cũng như chịu trách nhiệm trước các cổ đông về hoạt động kinh tế của thiết bị. Người chủ thiết bị cũng sẽ giám sát thiết bị tại địa điểm Quản lý hoạt động về Quản lý về mặt kỹ thuật nhằm đảm bảo sự hoạt động an mặt kỹ thuật toàn về mặt kỹ thuật của thiết bị. Nó gồm những công việc như kiểm tra thiết bị WEA thường xuyên, khắc phục các sự cố cũng như giám sát các công việc bảo dưỡng sửa chữa của nhà sản xuất thiết bị Quản lý hoạt động về Nhiệm vụ chính của hoạt động quản lý hoạt động các thiết mặt thương mại bị WEA về mặt thương mại là công việc điều hành dự án cả về mặt kinh tế lẫn quản lý hành chính cũng như giám sát mọi quá trình hoạt động cho đến cung cấp các thông tin cần thiết cho nhà đầu tư và các cổ đông Các nhà đầu tư bằng vốn Tư nhân cũng như các nhà đầu tư với mức tiền đầu tư của riêng tự có mình sẽ có được lợi nhuận về mặt kinh tế cũng như phải chịu các rủi ro mạo hiểm của các thiết bị WEA từ khi bắt đầu xây dựng cho đến khi bắt đầu hoạt động 35
  36. Ngân hàng Có thể nộp đơn tìm kiếm các nguồn vốn cho vay từ bên ngoài từ chương trình môi trường của liên minh Châu Âu, từ chương trình môi trường của ngân hàng Đức dành cho những người bị trục xuất và những người bị thường (thành lập theo luật bồi thường chiến tranh vào năm 1950) - DtA, từ các công ty cho vay phục vụ cho việc tái thiết xây dựng lại - KfW. Nếu như các đơn xin cho vay nộp ở cơ quan cấp tín dụng (ví dụ như ngân hàng nhà thì những cơ quan tín dụng này sẽ phải chịu rủi ro thay cho DtA cũng như KfW. Sự bảo đảm các nguồn cho vay dựa trên sự chuyển giao chắc chắn của các thiết bị WEA, việc nhượng lại các lợi nhuận cũng như mức độ mua bảo hiểm Nhà bảo hiểm Hoạt động của các thiết bị WEA đòi hỏi phải có sự mua bảo hiểm nhằm tránh được các rủi ro khác nhau. Chính vì vậy bảo hiểm tai nạn đối với hoạt động của thiết bị sẽ giúp bồi thường những rủi ro có thể xuất hiện từ hoạt động kỹ thuật của thiết bị. Các bảo hiểm về sự gián đoạn của thiết bị cũng như bảo hiểm về máy móc sẽ giúp bảo đảm cho các sự cố hỏng học của thiết bị. Bảng: Các đối tác tham gia vào một dự án công viên gió và nhiệm vụ tương ứng của các đối tác 1.4 Luật công ty và luật hợp đồng 1.4.1 Những hiểu biết cơ bản cần thiết về luật pháp. Trong quá trình phát triển một dự án „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ người ta phải tiếp xúc với rất nhiều lĩnh vực luật khác nhau. Ví dụ như phải thực hiện giao dịch mua hay thuê đất đối với người chủ sở hữu khu đất (cá nhân hay công công), phải ký các hợp đồng xây dựng, giao hàng, phải xin cấp phép liên quan đến luật xây dựng cũng như luật bảo vệ con người khỏi các tác hại từ môi trường, phải thành lập một công ty phát triển dự án Chính vì vậy ở sự phát triển của một dự án thường có sự đi kèm tư vấn của các luật sư cũng như các tư vấn về thuế. Tuy nhiên lịch vực luật nào sẽ là lịch vực quan trong nhất tương ứng trong khuôn khổ phát triên của một dự án? 1.4.1.1 Quyền sở hữu cá nhân 36
  37. Bước đầu tiên (Bước quyết định của phát triển dự án) là đảm bảo địa điểm. Việc đảm bảo địa điểm đạt được nhờ vào việc mua địa điểm cần thiết hoặc thực hiện một hợp đồng cho thuê nhiều năm với người chủ sở hữu khu đất. Ở Tây Âu việc mua một khu đất để xây dựng một công viên gió được miễn thuế. Việc mua bán như vậy phải được thực hiện hoàn toàn thông qua công chứng viên và công chững viên sẽ chú ý tới những mối quan tâm của cả hai phía trong hợp đồng (Người bán và người mua) Việc thanh toán tiền diễn ra tương ứng với tiến độ chuyển giao khu đất. Sau khi thực hiện đánh dấu trong sổ đăng ký địa chính của người mua (Với quá trình này thì người mua sẽ đảm bảo với người bán), người mua sẽ trả tiền mua cho người bán (Người chủ sở hữu). Sau khi người mua hứng minh sự trả tiền bằng một cách thích hợp cho công chứng viên (ví dụ nộp bảng kê các thanh toán của tài khoản) thì sự đánh dấu trong sổ địa chính của người mua sẽ được dỡ bỏ và việc chuyển giao tài sản cho người mua trong sổ địa chỉnh sẽ hoàn tất. Như vậy một quá trình diễn biễn hợp pháp luôn phải qua công chứng viên. Phổ biến hơn việc mua bán là việc thực hiện các hợp đồng cho thuê, cấp phép sử dụng. Ở Đức thì một hợp đồng cho thuê cấp phép thường kéo dài trong vòng 20 năm ngoài ra còn có bổ xung thêm khả năng kéo dài tiếp theo từ 5 đến 10 năm Các hợp đồng cho thuê, cấp phép sử dụng không cần đến sự có mặt hay xác nhận của công chứng mà các hợp đồng này có được hiệu lực thông qua các thoả thuận viết tay cá nhân (Dưới dạng một hợp đồng viết tay được ký từ cả hai phía) Quan trọng ở đây là phải biết được việc thuê mướn khu đất sẽ không thể kết thúc do việc bán lại khu đất cho một bên thứ ba nào đó. Bên thứ ba sẽ mua khu đất sẽ phải đảm nhiệm tiếp tục hợp đồng cho thuê đất đã có ngay cả trong thực tế bên thứ ba này không biết gì về hoạt động thuê mướn đang diễn ra đối với khu đất. Sự bảo vệ này đối với người thuê đất theo hợp đồng chỉ được dỡ bỏ trong trường hợp phá sản của người cho thuê (chủ sở hữu khu đất). Trong trường hợp cụ thể phá sản của người cho thuê hay chủ sở hữu khu đất thì người thuê đất sẽ mất quyền đòi hỏi sử dụng khu đất. Trong trường hợp người thuê đất đã lắp đặt và đưa vào hoạt động các thiết bị WEA, thì người thuê đất cũng không có quyền đòi hỏi sự tiếp tục hoạt động của các thiết bị của mình. Trong trường hợp này người thuê đất phải thoả thuận lại với người chủ mới của khu đất để có thể được phép tiếp tục sự hoạt động của các thiết bị WEA 37
  38. với các điều kiện hợp đồng chắc chắn là xấu hơn và đắt hơn so với các điều kiện cũ. Ở Tây Âu có thể khắc phục vấn đề nay bằng cách ghi nhớ trực tiếp quyền xây cất trên sổ địa chính và ngay cả trong trường hợp phá sản thì quyền xây cất này vẫn được xem xét. Việc ghi nhận quyền xây cất nói trên nhằm đảm bảo tách riêng được về mặt quyền sở hữu thiết bị WEA ra khỏi khu đất. Ở Tây Âu nếu như một thiết bị được lắp đặt trên một khu đất mà không có sự ghi nhận quyền xây cất nói trên thì có thể coi như thiết bị này sẽ thuộc về khu đất. Do vây người sở hữu khu đất đương nhiên sẽ được coi là người sở hữu các thiết bị WEA. 1.4.1.2. Luật hợp đồng cá nhân: Người phát triển các thiết bị WEA thường phải đương đầu với các câu hỏi được đặt ra về mặt luật hợp đồng. Ở đây cần phải có sự liện hệ chặt chẽ với các chuyên gia pháp luật ngay từ khi phác thảo các hợp đồng khu đất (Xem lại mục 1.4.1.1.) Ở đây sẽ cần thoả thuận cấp phép sử dụng cũng như các văn bản quyền được xây cất liên quan đến việc lắp đặt thiết bị, việc hoạt động vận hành cũng như bảo trì bảo dưỡng của thiết bị. Ngoài ra cần phải có các thoả thuận cấp phép về xây dựng lại đường giao thông và hệ thông dây dẫn cũng như sử dụng hệ thống dây dẫn sẵn có. Tiếp theo cần phải có sự đồng ý của của hàng xóm chấp nhận trường hợp cánh quạt quay của rotor vượt qua hay chấp nhận các khoảng cách bảo vệ. 38
  39. Hình vẽ: Các hợp đồng cũng như các thoả thuận liên quan đến việc sử dụng khu đất Các bí quyết về luật hợp đồng rất cần thiết khi phác thảo hợp đồng với nhà sản xuất thiết bị, với nhà lập kế hoạch, với các chuyên gia, với các công ty chịu trách nhiệm xây dựng, với nhà cung cấp điện năng cũng như việc kết nối vào mạng lưới điện. Tiếp theo cần phải đàm phán và thực hiện việc vay mượn tài chính từ các nhà tín dụng cho vay. Trong trường hợp cần thiết người thực hiện dự án phải liên hệ chặt chẽ với các nhà đầu tư cũng như kết hợp sử dụng các nguồn cá nhân. Cuối cùng còn có các hoạt động liên quan đến hoạt động vận hành của thiết bị như: Hợp đồng quản lý về mặt kỹ thuật trong suốt thời gian hoạt động của thiết bị, hợp đồng với các nhà cung cấp điện năng nhằm đảm bảo sự cung cấp điện năng cũng như các hợp đồng bảo hiểm cần thiết khác. Quy mô tài chính của việc phát triển một công viên gió đã tăng lên rất nhiều trong vòng 10 đến 15 năm qua. Chính vì vậy ý nghĩa của việc lập được một hợp đồng tốt thích hợp cũng đã tăng lên rất nhiều. Ngày này rất nên thực hiện một dự án công viên gió với sự có mặt của các chuyên gia pháp lý do những tác động về mặt tài chính sẽ xuất hiện trong suốt thời gian hoạt động khoảng 20 năm của một công viên gió là rất đáng kể. 1.4.1.3. Luật công cộng (Luật xây dựng, Luật bảo vệ con người khỏi các tác động xấu từ môi trường, luật riêng của địa phương) Khác với các thoả thuận riêng tư, trong khuôn khổ việc tiến hành xem xét cấp phép cần phải xem xét tiếp xúc với các Luật công cộng. Chính vì vậy việc cấp phép cho các thiết bị WEA ở Châu âu phải tuân theo các luật về xây dựng công cộng. Nếu như phải xây dựng về mặt nguyên tắc nhiều hơn 3 thiết bị WEA tại một địa điềm thì những nhà lập pháp Đức yêu cầu phải có một sự cấp phép tuân theo luật bảo vệ con người khỏi các tác động xấu từ môi trường, ngoài ra còn yêu cầu bổ xung các nghiên cứu về tính bền vững an toàn của môi trường. Nội dung chính của những công việc nêu trên là kiểm tra xem liệu có sự ảnh hưởng từ việc xây dựng cũng như vận hành của các công viên gió đối với môi trường cũng như tới cảnh quan tại địa điểm dự định theo kế hoạch. Đối với những câu hỏi này sẽ có nhưng cơ sở khách quan mà dựa vào chúng có thể nhận thức được liệu tính tương thích 39
  40. có xuất hiện hay không cũng như tính tương thích có thể được tạo ra đến mức nào. Tuỳ thuộc vào các hậu quả do sự ảnh hưởng tới môi trường, thì sự cấp phép sẽ được thông qua những có chú thích thêm về các nghĩa vụ , biện pháp bổ xung cần thực hiện hoặc trong một số trường hợp đặc biệt thì sự cấp phép sẽ không được thông qua. Các luật công cộng cũng được sử dụng khi thực hiện các hợp đồng cấp phép sử dụng khu đất nếu như Liên bang, Bang hay địa phương là chủ sở hữu của khu đất. Khác với các chủ sở hữu cá nhân, đối với các chủ sở hữu công cộng (ít nhất là ở nước Đức) sẽ không có việc phá sản. Chính vì vậy việc ghi nhớ thêm quyền xây cất là không cần thiết. Thay vào đó trong hợp đồng cấp phép sử dụng phải đề cấp đến trách nhiệm của chủ sở hữu công cộng trong trường hợp khu đất được bán cho một khách hàng cá nhân trong tương lai. Trong trường hợp như vậy thì phải có một sự ghi nhận thêm về quyền xây cất có lợi cho người thuê khu đất theo hợp đồng. 1.4.1.4. Luật năng lượng/Luật cung cấp Năng lượng điện được tạo ra từ gió (cũng giống như các hình thức năng lượng mới có tính tái tạo khác) chỉ có thể đạt được sự phát triển nhanh chóng nhờ vào các biện pháp can thiệp của chính phú lên nền kinh tế năng lượng (ví dụ can thiệp về tự do giá cả). Chính vì vậy trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế trong liên minh Châu Âu đã xuất hiện các điều luật mới về cung cấp năng lượng có tính tái tạo với các mô hình thanh toán khác nhau (mô hình hạn ngạch hay hệ thống giá tối thiểu) Ví dụ như ở Đức, Pháp hay Tây Ban Nha thì hệ thống giá tối thiểu được áp dụng. Hệ thống giá tối thiểu này được làm cho thích hợp với những gánh nặng của nhà cung cấp năng lượng với một sự bắt buộc kết nối vào mạng lưới điện. Mô hình này cũng bảo đảm một giá thanh toán tối thiểu trong một thời gian hoạt động xác định (Đối với các thiết bị WEA thì thời gian này là 20 năm) tỷ lệ với một thiết bị tham khảo đã được chỉ định. Mặt khác nó cung buộc các nhà cung cấp dịch vụ điện năng không chỉ làm nhiệm vụ cung cấp điện năng thông thường mà còn phải chịu các chi phí cần thiết cho việc xây dựng hệ thống đường dây theo yêu cầu. Chính vì vậy người phát triển dự án sẽ có được một sự đảm bảo về mặt dự toán lớn nhất có thể. Các sự thay đổi về mặt luật pháp luôn tác động tới các nhà cung cấp điện năng. Chính vì vậy trong những năm qua luôn phải giải quyết các xung đột về mặt pháp lý giữa người phát triển dự án và người chủ mạng lưới cung cấp điện. Vấn đề này cũng với các quy tắc an toàn càng nhấn mạnh thêm sự cần thiết phải có các tư vấn pháp lý và kỹ 40
  41. thuật được thực hiện thông qua các chuyên gia luật cũng như các kỹ sư. 1.4.1.5 Luật công ty và luật thuê Trong quá trình phát triển dự án „Phát điện sử dụng năng lượng gió“, cần phải đề cập các vấn đề liên quan đến việc thành lập công ty phát triển dự án như vấn đề đặt chế tạo thiết bị, vấn đề hạn chế rủi ro nợ nần và tài chính, vấn đề tối ưu hoá tính kinh tế, vấn đề liên quan đến các câu hỏi về mặt luật công ty cũng như luật thuế. Hiện nay luật thuế của CHLB Đức được coi là quá phức tạp cũng như là quá tải trên bình diện quốc tế. Người ta cho rằng luật thuế của Đức bao gồm tới hơn ¾ các tài liệu thuế quốc tế khác. Chính vì vậy ở Đức vấn đề này sẽ không được bỏ qua. Tuy nhiên ở Việt Nam các đòi hỏi về luật công ty và luật thuế không phức tạp và khó khăn như ở Đức chính vì vây trong khuôn khổ của bài giảng này không cần quan tâm kỹ đến các câu hỏi về mặt luật công ty cũng như luật thuế như đã nói ở trên. 1.4.2 Hình thức pháp lý của công ty dự án Có thể nói rằng việc phát triển dự án „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ diễn ra „trong nhà“ của người phát triển dự án. Người phát triển dự án phải chịu toàn bộ các rủi ro về phát triên và rủi ro về chi phí. Về nguyên tắc, chỉ sau xuất trình được sự cho phép xây dựng thì người phát triển dự án mới có được sự đảm bảo cần thiết để có thể hiện thực hoá dự án. Trước khi đến được giai đoạn này thì vốn đầu tư của người phát triển dự án sẽ có đặc tính là „Vốn đầu tư mạo hiểm“ Mặc dù vậy người ta thường khuyên nên sớm thành lập một công ty phát triển dự án riêng. Với sự trợ giúp của công ty phát triển dự án này có thể đạt được việc loại bỏ các rủi ro ra khỏi công ty mẹ cũng như việc thực hiện các hợp đồng có liên quan (Những hợp đồng này thường là quyết định cho việc triển khai đồng thời dự án). Do hiện nay có một nhu cầu lớn về thiết bị WEA, đối với mỗi đơn đặt hàng nhà sản xuất thường đưa ra thời hạn giao hàng rất lâu từ 1,5 đến 3 năm. Trong thời gian này dự án không chỉ chịu các rủi ro lạm phát mà còn chịu các rủi ro về mặt kinh tế khác (Giá thanh toán cho việc cung cấp điện năng giảm xuống ở những nước áp dụng mô hình giá tối thiểu) hay các rủi ro về khả năng triển khai dự án (Thời gian có hiệu lực của giấy phép quá ngắn) Sau khi thành lập công ty phát triển dự án với một khoản tiền đặt cọc cần thiết theo luật pháp (việc thành lập này thường diễn ra sau khi thực hiện hợp đồng cấp phép sử dụng 41
  42. khu đất) thì công ty phát triển dự án sẽ có thể ký được các hợp đồng cung cấp theo pháp luật. Ngoài ra thì các hợp đồng cung cấp nói trên còn phải tính đến các điều kiện cần thiết khác phải được hoàn thành trước khi bắt đầu xây dựng ví dụ như chuẩn bị giấy phép xây dựng, chuẩn bị đánh giá nền đất cho việc xây dựng móng, chuẩn bị cho sự chấp nhận kết nối vào mạng cung cấp điện của nhà cung cấp điện năng, chuẩn bị cho sự chấp nhận tài chính của ngân hàng. Về nguyên tắc các công việc chuẩn bị này thường được uỷ thác 9 đến 12 tháng trước khi bắt đầu xây dựng, chính vì vậy có thể coi là người ta đã rút ngắn được thời gian giao hàng. Nếu như một sự cấp phép không diễn ra thì cũng không xuất hiện nhưng rủi ro đáng kể hay chi phí đáng kể khi thanh lý hợp đồng cũng như thành toán nợ của công ty dự án được thành lập ở trên. Một ưu điểm tiếp theo của việc thành lập công ty dự án riêng biệt cho từng công viên gió là khả năng chuyển nhượng đơn giản các hợp đồng đã kết thúc và quyền sở hữu. Nếu như các hợp đồng đã được kết thúc ở công ty dự án thì khi bán toàn bộ công ty cho bên thứ ba sẽ xuất hiện sự đồng ý của các bên tương ứng trong hợp đồng về việc chuyển nhượng các hợp đồng đã được thanh lý cho bên thứ ba nói trên. Tuy nhiên các hợp đồng cấp phép sử dụng cần phải tách riêng ra khỏi công ty dự án. Các hợp đồng cấp phép sử dụng phải cho phép chấp thuận sự chuyển nhượng một lần cho bên thứ ba và phải được lập ra trên danh nghĩa của người phát triển dự án cho đến khi có quyết định bán công viên gió. Đối với quá trình cấp phép xây dựng thì cũng tiến hành tương tự. Nếu như hai thoả thuận hợp đồng nói trên đã được đưa vào công ty dự án trước khi bán cũng như trước khi nguồn vốn được làm sáng tỏ cho các biện pháp xây dựng thì thì sẽ mất các giá trị xuất hiện trong khuôn khổ việc giải thể công ty dự án. Ngoài ra cũng cần phải được lưu ý rằng phần chi phí phát sinh hạn chế cả việc thành lập và điều hành một công ty dự án được thành lập sớm thì không lớn so với chi phí tổng cộng của cả quá trình phát triển. 1.4.3 Luật hợp đồng/ Các tài liệu chính Trong mục sau đây, các hợp đồng quan trọng nhất cũng như các tài liệu chính sẽ được 42
  43. trình bày. Những tài liệu cũng như các hợp đồng sẽ được trình bày này rất cần thiết cho sự phát triển hoàn thiện một công viện gió. Tuỳ thuộc vào ý nghĩa mà nội dung của chúng sẽ được trình bày ngắn gọn hay chi tiết một cách tương ứng. Im nachfolgenden Kapitel werden die wichtigsten Verträge und Dokumente vorgestellt, die eine vollständige Parkentwicklung zwingend erfordert. Je nach Bedeutung werden die Inhalte kurz skizziert oder ausführlicher erläutert. 1.4.3.1 Hợp đồng cấp phép sử dụng khu đất / Hợp đồng mua khu đất Ở mỗi giai đoạn bắt đầu phát triển dự án luôn yêu cầu phải có được sự đảm bảo về tính sẵn sàng của khu đất cũng như sự đảm bảo về quyền sử dụng khu đất cho việc xây dựng lắp đặt, vận hành và bảo dưỡng công viên gió. Như đã đề cập ở mục 1.4.1.1 ở đây có các khả năng như mua khu đất hay là thực hiện một hợp đồng thuê - cấp phép sử dụng với người chủ sở hữu khu đất. Nếu như không có bước đầu tiên này thì các bước tiếp theo với rất nhiều chi phí có thể phải bỏ ra tương ứng sẽ không được đảm bảo. Việc sử dụng hình thức đảm bảo khu đất nào hoàn toàn phụ thuộc vào những khả năng đảm bảo về quyền sở hữu cũng như khả năng xuất hiện các nguồn tín dụng cho vay trong trường hợp phá sản. Chỉ trong trường hợp sự tách biệt riêng rẽ quyền sở hữu các thiết bị WEA ra khỏi quyền sở hữu khu đất được cho phép về mặt luật pháp thì thay cho một hợp đồng mua khu đất, một hợp đồng cấp phép sử dụng là đủ an toàn về mặt pháp lý. Trước nguyên nhân phía sau này cần phải thực hiện các mối tiếp xúc các nguồn vốn từ bên ngoài có tiềm năng của các nhà băng cũng như làm sáng tỏ khả năng trợ giúp về mặt tài chính của từng bang nhất đinh. Ngoài ra còn phải kết hợp thêm với lời khuyên của các chuyên gia tư vấn pháp lý với những hiểu biết về cácnước. Cho dù hình thức hợp đồng nào được chọn lựa đi nữa (Mua hay thuê) thì một bước quan trọng hơn tiếp theo cần phải thực hiện là kiểm tra chính xác tình trạng sở hữu hiện này của khu đất - Ai là chủ sở hữu hợp pháp thực tế của khu đất (Chuẩn bị tài liệu chứng minh quyền sở hữu ví dụ như có thể dựa vào trích dẫn sổ địa chỉnh) cũng như ai có quyền chuyển nhượng không bị hạn chế với khu đất. - Liệu đã có những người thuê, người sử dụng khu đất hay những người có thẩm quyền cao hơn với khu đất hay không ? Và liệu có thể nhận được sự chấp thuận của họ cho 43
  44. việc sử dụng khu đất để phát triển công viên gió trước khi ký hợp đồng thuê đất hay không - Liệu có sự ghi nợ tài chính hay không, sự ghi nợ tài chính này có phải chú ý hay phải thanh toán hay không? - Ai có thể hoặc được phép sở hữu khu đất ở Việt Nam. Liệu ở đây có sự hạn chế nào về mặt luật pháp đối với các nhà đầu tư nước ngoài hay các công ty nước ngoài hay không - Quyền sở hữu khu đất sau khi lắp đặt xây dựng các thiết bị WEA sẽ được chuyển nhượng có hiệu lực về mặt pháp lý như thế nào. Liệu trong quá trình này có sự hạn chế hay đòi hỏi chấp thuận nào đó cần chú ý hay không Nếu như bỏ sót không làm sáng tỏ một trong nhưng câu hỏi đặt ra ở trên thì việc khắc phục những luận điểm không mong muốn của pháp luật về nguyên tắc sẽ rất tốn kém. Các ngài hãy hình dung xem, nếu như các ngài đã đầu tư lắp đặt một thiết bị WEA với trị giá trên 2 triệu USD trên một khu đất nào đó và sau đó do người chủ khu đất bị phá sản, luật pháp xác định rằng các thiết bị WEA không thuộc quyền sở hữu của ngài. Ngoài ra tát nhiên người quản lý việc phá sản cũng như người chủ sở hữu mới của khu đất cũng sẽ đặt ra các yêu cầu tài chính đối với ngài, và tất nhiên là những việc như thế này đều không được định trước. Nếu như ngài đã kiếm được khu đất thì xuất hiện những câu hỏi tiếp theo rất quan trọng trong trường hợp thoả thuận một hợp đồng cho thuê hay cấp phép sử về các vấn đề như: - Xác định thời gian bắt đầu hợp đồng và thời gian có hiệu lực của hợp đồng - Xác định kiểu cũng như phương thức của việc sử dụng khu đất (Khu đất nào sẽ được sử dụng vào mục đích gì, trong thời gian bao lâu) - Kiểm tra xem ai sẽ chịu những chí phí nào của việc sử dụng khu đất - Xác nhận rõ quyền sở hữu pháp lý đối với các thiết bị WEA - Mức giá thành toán thoả thuận cũng như lịch thanh toán - Sự chấp thuận chuyển nhượng quyền cho bên thứ ba gồm cả các ngân hàng tín dụng - Sự lặp lại sau khi hợp đồng hết hiệu lực 44
  45. Một hợp đồng cấp phép sử dụng mà được coi như là một hợp đồng kiểu mẫu ở Đức thì luôn có kèm theo phần phụ lục. Ở đây các ngài có thể rút ra được những mẫu thiết lập phụ lục tương ứng (Những mẫu này theo quan điểm của các ngân hàng lớn từ phía Tây là rất cần thiết) 1.4.3.2 Hợp đồng chuyển giao thiết bị với nhà sản xuất thiết bị WEA Hợp đồng chuyển giao thiết bị với nhà sản xuất thiết bị WEA có một ý nghĩa trung tâm. Cứ hình dung là khoảng 75% đến 80% tổng chi phí đầu tư là cho thiết bị WEA cũng như cho việc xây dựng nền móng thì sẽ thấy được hợp đồng chuyển giao này cần phải được kiểm tra và đàm phán cẩn thận chính xác như thế nào. Thực tế thì hiện nay vị trí của người đặt mua thiết bị có xu hướng yếu thế và thì trường thiết bị WEA hiện nay hướng rất mạnh tới người cung. Tuy nhiên điều quan trọng ở đây là phải biết được các nội dung kiểm tra của hợp đồng chuyển giao thiết bị cũng như các điểm đặc biệt xuất hiện kèm theo. Thông qua việc đàm phán khôn ngoan kỹ lưỡng có thể luôn đạt được những sự thay đổi có ảnh hưởng tích cực tới các điêu luật cũng như tính kinh tế của dự án tổng thể. Có thể nói ngắn gọn chủ đề chính của hợp động chuyển giao thiết bị là việc cung cấp thiết bị WEA. Sau đây tôi sẽ đi vào những phần chính của hợp đồng chuyển giao thiết bị Trách nhiệm của người thực hiện hợp đồng (Nhà sản xuất) trong việc cung cấp và lắp đặt thiết bị luôn gắn chặt với một số điều kiên tiên quyết phải được thực hiện bởi khách hàng (Nhà đầu tư). Các đầu tiên kiên quyết cần phải thực hiện bởi nhà đầu tư đó gồm việc xin cấp phép lắp đặt và hoạt động của các thiết bị WEA, việc chấp thuận kết nối với mạng cung cấp của một công ty cung cấp điện năng nào đó, việc trả trước 20% của giá mua, việc cam kết đảm bảo cho khách hàng về giá hợp đồng của một ngân hàng lớn nào đó cũng như việc thoả thuận thực hiện hợp đồng bảo dưỡng. Thành phần chính của hợp đồng chuyển giao thiết bị là phạm vi giao hàng và dịch vụ đi kèm. Phạm vi này bao gồm việc lắp đắt cũng việc đi vào bắt đầu hoạt động của thiết bị WEA tại một địa điểm xác định. Việc bắt đầu đi vào hoạt động của thiết bị WKA được thể hiện thông qua quá trình khởi động của thiết bị sau khi thiết bị đã đạt được trạng thái sẵn sàng về mặt kỹ thuật. Việc cung cấp kilowat điện năng đầu tiên vào mạng lưới cung cấp điện cũng được coi là một phần của quá trình bắt đầu đi vào hoạt động của thiết bị. Với sự chấp thuận thiết bị WKA, khách hàng sẽ nhận được sau đó các tài liệu chi tiết với đầy đủ các thông tin từ nhà sản xuất thiết bị. Các tài liệu chi tiết này là 45
  46. những điều kiện cần thiệt cho sự hoạt động ổn định của thiết bị. Lịch chuyển giao thiết bị xác định rõ một ngày theo thoả thuận để có thể đạt được sự bắt đầu đi vào hoạt động hoàn chỉnh của các thiết bị WKA. Điều kiên tiên quyết ở đay là một sự hoàn thành đúng thời gian nền móng, hệ thống kết nối vào mạng cung cấp điện bao gồm các trạm trung chuyển cung như hệ thống dây trung thế. Nếu không có được như lý do xác đáng từ nhà sản xuất về việc không giữ đúng được lịch chuyển giao thiết bị thì khách hàng có quyền yêu câu bồi thường ( giá trị bồi thường từ 3 – 5 % giá trị net của hợp đồng) Hơn thế nữa hợp đồng cũng sẽ giúp kiểm tra đôn đốc thực hiện các trách nhiệm của người thực hiện hợp đồng (Gồm chuyển giao các tài liệu cần thiết để đạt được việc cấp phép, chú ý tới các giấy phép cũng như phụ lục giấy phép, giám sát quá trình lắp đặt cũng như bắt đầu hoạt đồng nhờ vào người quản lý xây dựng có kinh nghiệm) cũng như các nghĩa vụ hợp tác của khách hàng (Gồm có được các giấy phép theo yêu cầu, thực hiện tất cả các phụ lục theo luật pháp được biết là các phụ lục tương ứng với giấy phép xây dựng, chỉ định ra người có trách nhiệm, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu nền đất, hoàn thành các thủ tục kết nối, tạo ra được những lối vào chắc chắn cho nền móng của thiết bị WKA cũng như trách nhiệm bảo đảm an toàn giao thông ) Sự chấp thuận thiết bị WKA chính là sự kiểm tra về chức năng hoạt động ổn định của thiết bị. Sự chấp thuận này thường diễn ra sau lần bảo dưỡng chính đầu tiên. Nếu như tại quá trình chấp thuận này các chức năng cơ bản của thiết bị WKA không đạt yêu cầu (Ví dụ tính sẵn sàng của thiết bị trong thời gian chạy thử nằm dưới 95%) thì có thể yêu cầu thực hiện lại một quá trình chấp thuận thiết bị nữa sau khi đã sửa chữa những sai sót. Bên cạnh các thông tin về giá mua cũng như các điều kiện thanh toán thì số tiền đặt cọc sẽ được xác định dựa vào mức độ bảo lãnh của nhà băng. Số tiền đặt cọc này sẽ được người thực hiện hợp đồng đặt ra cho khách hàng. Thời hạn bảo hành được xác định là hai năm kể từ khi khách hàng chấp thuận thiết bị WKA với điều kiện tiên quyết là việc chấp thuận thiết bị không bị trì hoãn bởi những lý do không rõ ràng mà khách hàng không giải thích được. Các điểm tiếp theo của hợp đồng chuyển giao thiết bị là việc kiểm tra đôn đốc nghĩa vụ pháp lý của các bên trong hợp đồng cũng như trách nhiệm của các cấp cao hơn, việc phòng tránh các rủi ro cũng như giữ trước quyền sở hữu, vấn đề bảo hiểm (người thực hiện hợp đồng sẽ phải mua các bảo hiểm trách nhiệm cá nhân và công cộng), việc rút 46
  47. khỏi hợp đồng. Ngoài ra các điểm tiếp theo này cũng giúp kiểm tra việc thực thi các luật bảo vệ nói chung, các thủ tục bảo vệ dữ liệu và độ tin cây cũng như là các thoả thuận với công chúng. 1.4.3.3 Cấp phép xây dựng và hoạt động: Bên cạnh các hợp đồng mua hay thuê khu đất và hợp đồng chuyển giao thiết bị thì tài liệu quan trọng thứ ba chính là các tài liệu cần thiết cho việc xin cấp phép xây dựng và hoạt động. Ở đây cần phải xác định rõ là thực tế xin cấp phép ở các nước trong liên minh EU rất khác nhau mặc dù các nước trong liên minh EU đã có gắng chuẩn hoá các điều kiện biên của những nghiên cứu cần thiết. Đối với việc cấp phép cũng như các luật hiện hành về cấp phép và qui hoạch ở Việt Nam các ngài sẽ được giảng kỹ hơn vào ngày mai bởi Dr. Hà. Sau đó ngài Eymann sẽ nói về các tác động của thiết bị WKA lên môi trường. Hôm này tôi chỉ muốn nói về những điểm đặc biệt riêng của quá trình xin cấp phép ở Đức nhằm giúp cho các ngài có được những hình dung bước đầu, khía cạnh nào liên quan đến việc sử dụng thiết bị WKA là quan trọng đối với các nhà chức trách ở Đức. - Nhận thức về tiếng ồn, phản xạ ánh sáng , hiệu ứng bóng râm chuyển động, sự tạo thành băng, mở các con đường cũng như nghiên cứu tầng đất cái. - Thay đổi bất thường và sự chuyển động không đều của không khí do sự hoạt động của thiết bị WKA - An toàn vận hành - Phòng chống cháy - Các điều kiện biên về luật thuỷ lợi, hàng không và đường phố - Các biện pháp đền bù/ Sự cho phép chuyển đổi - Các điều kiện liên quan đến luật bảo vệ thiên nhiên: Các tác động lên hệ thực vật và hệ chim cũng như các biện pháp đền bù (Biện pháp đền bù cho các loại vật được bảo vệ, tái tạo lại các nguồn nước .) - Hình dung ra các thay đổi về mặt cảnh quan - Kiểm tra kiểu thiết bị - Bảo đảm phá dỡ 47
  48. 1.4.3.4 Những mối quan hệ hợp đồng quan trọng khác: Tiếp theo tôi muốn nói ngắn gọn về những mối quan hệ hợp đồng quan trọng khác như: - Hợp đồng kết nối cũng như hợp đồng cung cấp điện với các công ty cung cấp điện năng - Hợp đồng vay vốn từ bên ngoài với các nhà băng - Hợp đồng bảo dưỡng và cung cấp dịch vụ đầy đủ với các nhà cung cấp thiết bị - Hợp đồng quản lý vận hành (cả về kỹ thuật lẫn thương mại) - Hợp đồng sử dụng đường phố - Các hợp đồng bảo hiểm (ví dụ bảo hiểm máy móc, bảo hiểm rủi ro, bảo hiểm cho các sự cố ) 2. Tính kinh tế của dự án „Phát điện sử dụng năng lượng gió“ Những yếu tố nào sẽ quyết định tính kinh tế hay không không kinh tế của một dự án? Những đối tác tham gia phát triển dự án có sự mong đợi nào về mặt tài chính? Sự đầu tư một công viên gió gồm những thành phần nào? Những chi phí nào sẽ được áp dụng cho việc tính toán chi phí bước đầu? Với những lợi nhuận và chi phí như thế nào thì sự hoạt động của một công viên gió là có thể? Liệu có các khả năng tối ưu và những đòn bẩy điều chỉnh sẽ như thế nào? Tất cả những câu hỏi đặt ra ở trên cần phải được trả lời và đề cập đến với sự trợ giúp của chương hai này. 2.1. Mong đợi về mặt kinh tế Sự phát triển của một công viên gió cần một thời gian trung bình là 3 năm kể từ khi bắt đầu kiểm tra địa điểm cho đến khi đi vào hoạt động của thiết bị. Và kể từ thời điểm đi vào hoạt động này, các thiết bị còn cần phải hoạt động trong một thời gian tối thiểu là 48
  49. 20 năm nữa. Chính vì vậy cần phải thực hiện các đánh giá kinh tế cho một khoảng thời gian là khoảng 25 năm. Việc biết được các mong đợi về mặt kinh tế khác nhau của những đối tác quan trọng nhất có liên quan đến dự án sẽ rất hữu ích cho việc đánh giá này. 2.1.1 Người phát triển dự án: Mối quan tâm của người phát triển dự án thường là nhiều gấp đôi so với mức bình thường. Anh ta hoặc là muốn bán dự án với lợi nhuận và sẽ đảm nhiệm vai trò quản lý về kỹ thuật và thương mại trong suốt thời gian hoạt động của thiết bị hoặc là muốn có được dự án trong tài sản sở hữu của công ty. Lựa chọn thứ hai nay của người phát triển dự án đòi hỏi anh ta phải co một vốn riêng đủ lớn cũng như vốn luân chuyển thích hợp để có thể bỏ qua các lợi nhuận xuất hiện từ việc bán dự án ngay sau khi phát triển dự án. Lựa chọn thứ nhất thường xuất hiện ở những người phát triển nhỏ (không có đủ tiềm lực kinh tế). Người phát triển không mong đợi một lợi nhuận cố định bằng số từ việc phát triển công viên gió. Mong đợi của anh ta hướng đặc biệt gần tới các mong đợi lợi nhuận của nhà đầu tư. Mong đợi lời nhuận của người phát triển dự án nằm phổ biến trong khoảng 8 đến 12% của phần vốn riêng đã sử dụng. Do cơ sở mong đợi lợi nhuận này mà người phát triển dự án luôn cố gắng để „thu được“ lợi nhuận dự án của mình một cách đầy đủ nhất. Ở đây người phát triển dự án sẽ sử dụng các công cụ như lập kế hoạch về chi phí đầu tư và kế hoạch về khả năng thanh toán bằng tiền mặt. Ở đây là sự hoà hợp giữa một mặt là các chi phí đầu tư và một mặt là các chi phí và lợi nhuận mong đợi do quá trình hoạt động của thiết bị đem lại. Nếu như người phát triển dự án được mời làm quản lý về kỹ thuật và thương mại trong suốt quá trình hoạt động của thiết bị thì anh ta chắc chắn sẽ giảm giá bán dự án do các lợi ích nhận được từ việc được trả lương. Hiện này phổ biển trên thị trường thì tiền lương cho việc quản lý điều hành về mặt kỹ thuật và thương mại chiếm khoảng 4 đến 6 % của giá thành cung cấp. Tuy thuộc vào độ lớn của từng công viên gió thì khoảng 68% chi phí đầu tư sẽ được tính cho việc phát triển dự án bao gồm cả các thuế giá tăng có liên quan. 2.1.1.2 Người chủ sở hữu khu đất Ở đây chỉ xem xét đến trường hợp cho thuê khu đất có liên quan. Trong trường hợp bán khu đất thì với việc trả một lần giá mua sẽ không còn có sự thánh toán tiền nào tiếp theo 49
  50. nữa. Thông thường người chủ sở hữu khu đất tham gia vào việc thoả thuận các hợp đồng thuê/cấp phép sử dụng ngay từ khi bắt đầu xây dụng các mức phí phải trả cho nhu cầu sử dụng khu đất. Đôi khi người chủ khu đất còn nhận được một số tiền thù lao kể từ khi bắt đầu thoả thuận hợp đồng đến khi bắt đầu xây dựng cho việc chuẩn bị sẵn sàng khu đất cho thuê của mình hoặc một sự đền bù toàn bộ cho các tổn thất về mặt kinh tế ví dụ như các tổn thất có thể do việc phát quang các diện tích rừng. Đối với việc thuê đất thì tuỳ thuộc vào chất lượng của khu đất sẽ thuê và đặc biệt là vận tốc gió thì giá thuê có thể chiếm từ 3 đến 5 % giá điện năng. Và như vậy thì mọi nhu cầu sử dụng khu đất sẽ được thoả mãn. 2.1.1.3 Chính quyền địa phương Chính quyền địa phương cũng sẽ được hưởng lợi bằng cách nay hay cách kia từ việc xây dựng các thiết bị WKA. Ví dụ các khu đất chung thuộc chính quyền địa phương sẽ được cho thuê và các còn đường vào khu đất đó cần thiết cho việc sử dụng khu đất cũng sẽ được xây dựng. Ngoài ra thì trong quá trình phát triển cùng cần phải thuê các công ty xây dựng công trình ngầm tại địa phương cũng như phải thanh toán cho các công ty điện và dịch vụ khác tại địa phương. Không kể đến nước Đức thì công viên gió có thể coi là một biện pháp cơ sở hạ tầng quan trọng vì điện năng cho các khu công nghiệp hay dân cư gần nó sẽ được tạo ra thuận tiện hơn. Cuối cùng thì công viên gió (ít nhất là ở Đức) là người trả thuế cho nhà nước rất đáng kể. Ở Đức thì các doanh nghiệp kinh doanh sẽ phải trả một khoản thuế không liên quan đến lỗ lãi được gọi là thuế kinh doanh. Thuế kinh doanh này sẽ được thu bởi chính quyền địa phương. Đối với các công viên gió cỡ lỡn thì lượng thuế kinh doanh phải trả cho suốt 20 năm hoạt động có thể lên đến 7 chữ số. 2.1.1.4. Ngân hàng cho vay/ Các nhà cung cấp vốn tín dụng Các nguồn năng lượng mới có tính tái tạo trong vòng 10 năm qua đã cho phép các nhà băng có được một hoạt động tín dụng mới. Ngoài phí tín dụng phải trả 1 lần chiếm từ 0,5 đến 1 % số tiền cho vay, các nhà băng còn mong đợi nhận được lãi suất hàng năm. Mong đợi về mặt lãi suất của ngân hàng được định hướng vào (căn cứ vào) các đánh giá về rủi ro liên quan đến sự thành công của dự án, các khả năng bảo hiểm của ngân 50
  51. hàng cũng như sự tin cậy về mặt tài chính của các đối tác có liên quan. Nếu như ba tiêu chuẩn nói trên càng được thể hiện tốt hơn thì mong đợi về mặt lãi suất cũng như lãi suất của nguồn vốn tín dụng sẽ càng ít hơn. Các rủi ro thêm vào có thể gặp ở nước ngoài cũng sẽ được tính vào các điều kiện lãi suất. Ở Châu Âu hiện nay người ta thường mong muốn phải trả mức lãi suất từ 0,5 đến 1 % chính vì vậy ở Đức chỉ đòi hỏi một mức lãi suất 5 đến 6 % hàng năm đối với một sự vay vốn bằng Euro trong một khoảng thời gian nhiều năm. 2.1.1.5. Người bỏ vốn /Nhà đầu tư Các mong đợi của nhà đầu tư đã được đề cập đến ở mục 2.1.1. Khác với các nhà cung cấp tín dụng như ngân hàng, các yếu tố chủ quan cũng sẽ ảnh hưởng đến mong đợi về lãi suất của nhà đầu tư. Các yếu tố chủ quan này bao gồm những kinh nghiệm đầu tư có sẵn ở vùng đất tương ứng, tác động của danh mục vốn đầu tư do các sự hứa hẹn sẵn có, hay các mục tiêu mang tính chiến lược. 2.2 Chi phí đầu tư Việc đầu tư vào các thiết bị WKA là một quyết định của liên hiệp công ty. Quyết định này đặt ra yêu cầu phải xác định chính xác các chi phí cũng như lợi nhuận có thể thu được. Ngoài các chi phí cho việc phát triển dự án cũng như lắp đặt thiết bị (xem mục 2.3) thì các chi phí cũng như lợi nhuận gắn liền với sự vận hành của các thiết bị cũng có ý nghĩa quan trọng. Mối quan hệ của giữa hai loại chi phí dự toán đề cập ở trên được thể hiện là một chi phí đầu tư ban đầu cao có thể được bù lại thông qua các chi phí vận hành hợp lý và ngược lại 2.2.1 Các thành phần chi phí khi xác định chi phí đầu tư Dựa vào bảng sau đây có thể xác đinh được khi tính toán chi phi đầu tư cho một công viên gió sẽ phải kể đến những thành phần chi phí nào. 51
  52. Chí phí Nhóm chi phí Chi phí - Thiết bị WKA: Nền móng (Xử lý đất, đổ bê tông), thiết bị và phá cứng dỡ - Cơ sở hạ tầng: Phát triển cơ sở hạ tầng (Xây dựng đường phố, đường giao thông, phát quang ), các khu vực dành cho lắp ráp - Sự lắp đặt đường dây: Lắp đặt đường dây bên ngoài, Xây dựng lại hệ thống đường dây, các trạm chuyển tiếp và chuyển mạch, các công việc có liên quan khác - Khu đất: Các diện tích dành cho thiết bị (Mua, thuê trong thời gian xây dựng), xây dựng đường giao thông và lắp đặt hệ thông đường dây (Mua, thuê trong thời gian xây dựng), các biện pháp đền bù (Mua, thuê trong thời gian xây dựng), các chi phí phụ khác liên quan đến khu đất - Lập kế hoạch và xin cấp phép: Lập kế hoạch và bổ xung đi kèm dự án, đánh giá và khảo sát nghiên cứu về kỹ thuật, kinh tế và luật pháp, quá trình xin cấp phép và các kiểm tra khác - Các biện pháp bồi hoàn Chi phí - Phát triển dự án: Tiền hoa hồng, lập kế hoạch dự án/Các khái mềm niệm/In các sách quảng cáo, điều hành công ty trong giai đoạn thành lập, thu hút các nguồn vốn cá nhân cũng như bảo hiểm cho các nguồn vốn cá nhân - Thu hút các nguồn vốn cho vay tín dụng (Vốn từ bên ngoài): Phí giao dịch của ngân hàng, tiền hoa hồng , dữ trữ khả năng thanh toán bằng tiền mặt của nhà băng, dự trữ bảo hiểm Bảng: Chí phí đầu tư của thiết bị WEA gồm chi phí cứng và mềm Về nguyên tắc người ta cũng phân biệt rõ ràng giữa chi phi thiết bị và chi phí phụ khác liên quan đến thiết bị (Xem mục 1.2.2.). Ngoài ra cũng có sự khác nhau giữa chi phí cứng và chi phí mềm. Chí phí cứng là những phần chi phí được sử dụng trực tiếp cho việc xây dựng lắp đặt thiết bị. Chí phí mềm thì về cơ bản là những chí phí được gây ra do quá trình thu hút vốn tư nhân và vốn từ bên ngoài cũng như do các mong đợi của nhà đầu tư nhằm bù lại các phí tổn của họ. 52
  53. 2.2.2 Xác định chi phí Ở quá trình phát triển dự án thì sự khẳng định về mặt kinh tế của dự án phải được thực hiện ngay từ giai đoạn rất sớm. Sau đó người ta sẽ kết hợp vốn và nhân lực. Sau đó bước đánh giá đầu tiên này về một địa điểm nào đó sẽ luôn được kiểm tra lại và điều chỉnh thích hợp trong các bước tiếp theo của dự án. Tính toán chi phí dựa trên các giá trị kinh nghiệm Nếu như người ta bỏ qua khả năng đánh giá về mặt kinh tế của một dự án dựa theo các thông số cơ bản đã được trình bày ở mục 1.2.1 thì một sự đánh giá về mặt kinh tế của dự án mà có thể chấp nhận được chỉ có thể dựa vào các giá trị kinh nghiệm được rút ra từ các dự án trong quá khứ. Ở đây có thể rút ra các chi phí ước tính như sau: Nhóm chi phí Chi phí Thiết bị WKA (bao gồm vận chuyển và lắp ráp khoảng 75 – 80 % Nền móng Khoảng 5 % Trạm biến thế Khoảng 4 % Đường truy nhập Khoảng 1,5 - 2% Lập kế hoạch Khoảng 2 - 3 % Quản lý Khoảng 3 - 4 % Linh tinh Khoảng 3 - 4 % Bảng: Các thành phần chi phí tính theo phần trăm dựa theo kinh nghiệm của chi phí đầu tư tổng cộng cho một thiết bị WKA Ngay khi có các kết quả đo gió cụ thể cũng như dựa vào các suy nghĩ lập kế hoạch cụ thể, việc xác định khối lượng cụ thể sẽ được thực hiện. Và như vậy thì những con số này sẽ được cập nhất một cách chính xác nhất. Mời thầu và trao tặng hợp đồng Một nhu cầu chỉnh sửa rõ ràng sẽ xuất hiện phổ biến từ việc chuẩn bị mời thầu và sau đó là xuất hiện từ các kết quả trao tặng hợp đồng. Ngoài ra cũng nên tiến hành phân chia các lời nhuận chỉ sau khi đã mời thầu vì thông qua cạnh trạnh giữa các nhà thầu khác nhau có thể đạt được các lợi thế về giá cả. 53
  54. 2.2.3. Giám sát chi phí / Kiểm tra chi phí Nếu như đã có được giấy cấp phép, các khía cạnh tài chính đã được làm sáng tỏ cũng như các hợp đồng với những nhà cung cấp và công ty chế tạo đã được hoàn tất thì có thể bắt đầu được công việc xây dựng một công viên gió. Tuy nhiên công việc của những người làm dự toán vẫn chưa kết thúc. Người lập dự toán được đòi hỏi phải chú ý rằng anh ta sẽ phải có cường độ làm việc rất cao do sự xuất hiện những công việc và những biện pháp thực hiện không lường trước được trong thực tế tại địa điểm xây dựng. Và cường độ làm việc rất cao này cũng sẽ được bao hàm trong quá trình kiểm tra chi phí. Và chỉ với cường độ làm việc như vậy thì người làm dự toán mới đảm bảo được tính kinh tế của dự án cũng như có thể đưa ra những biện pháp kịp thời nhằm hạn chế hoặc giảm các chi phí phát sinh. Đáng tiếc là hiện nay khía cạnh này luôn luôn không được quan tâm đúng mức. 2.3 Các điều khoản (hay thành phần) của lập kế hoạch lỗ - lãi: Sau khi vấn đề chi phí đầu tư đã được xử lý xong, thì mối quan tâm của chúng ta lại hướng sang vấn đề chi phi và lợi nhuận trong suốt thời gian hoạt động của thiết bị. Chi phí và lợi nhuận này thường được tập hợp dưới hình thức tính toán lới nhuận và chi phí cho 1 khoảng thời gian 20 năm. Khác với quá trình xác định chi phí đầu tư, các lợi tức trong tương lai có thể thu được từ việc cung cấp lượng điện năng được kỳ vọng sẽ được chú ý. Thông quá đó có thể đạt được một cái nhìn đầy đủ về kết quả kinh doanh mong đợi hàng năm cũng như về tình hình khả năng thanh toán bằng tiền mặt của công viên gió trong toàn bộ thời gian hoạt động. 2.3.1. Lợi tức 2.3.1.1. Tiền doanh thu cung cấp điện năng Lợi tức của một công viên gió hiển nhiên được xác định trước tiên bởi lượng điện cung cấp cho thị trường hàng năm. Chính vì vậy việc đánh giá năng lượng gió sẽ là rất quan trong cho việc lượng điện năng được kỳ vọng có thể tạo ra được trong những năm hoạt động của công viên gió (đơn vị kWh) Thông thường các ngân hàng cũng như nhà đầu tư sẽ đòi hỏi tối thiểu hai khảo sát đánh giá năng lượng gió từ các chuyên gia được thừa nhận. Nếu như kết quả đánh giá từ các chuyển gia có sự khác biệt với nhau trên 10% thì sẽ cần thiết phải có sự đánh giá của 54
  55. một chuyên gia thứ ba. Một số ngân hàng cũng đòi hỏi phải có kết quả đánh giá từ chuyên gia thử ba ngay khi sự khác biệt nhiều hơn 5%. Đối với những vùng không có nhiều dữ liệu tin cậy cũng như không có kết quả đo gió của nhiều năm thì sẽ tốt hơn nếu tiến hành việc đo gió trước khi tiến hành đánh giá năng lượng gió. Sẽ là lý tưởng nếu việc tiến hành đo gió này được tiến hành tối thiểu một năm tại chiều cao dự định của trục. Các kỳ vọng về lượng điện năng được lập ra bởi các chuyên gia sẽ được xem xét đánh giá và nếu cần thiết thì có thể được sửa chữa bổ xung. Lượng điện năng tổng cộng của một công việc gió sẽ phải được tính giảm đi ít nhất 7 – 10 % nhằm đảm bảo mức khấu trừ an toàn về mặt thương mại (Ở đây tỷ suất tác động cũng đã phải được chú ý). Ngày nay mức tính giảm đi 10% được coi là rất phổ biến. Trong một số trường hợp có lý do riêng thì lượng trừ đi nhằm bảo đảm an toàn nay còn được nâng lên cao hơn nữa. Mức khấu trừ an toàn về mặt thương mại nói trên nhằm kiểm soát một cách đặc biệt những rủi ro sau đây: - Sự không chắc chắn cũng như sai số khi xác định tiềm năng năng lượng gió - Sự không chắc chắn của các đặc tính hiệu suất của thiết bị WKA đã được lựa chọn - Sự giảm doanh thu do tính sẵn sang hoạt động của thiết bị bị hạn chế ( Do các sự cố kỹ thuật) - Sự giảm doanh thu do các nguyên nhân khách quan khác, những rủi ro không dự báo trước được ( ví dụ sự kết nối vào mạng lưới chung bị chậm) - Sự không chắc chắn do việc dự đoán dài hạn hoạt động của công viên gió Ngoài ra có thể tính thêm vào mức khấu trừ an toàn về mặt thương mại nói trên những mức khấu trừ khác nữa nữa như mức khấu trừ an toàn kỹ thuật đối với tính sẵn sàng của thiết bị đã được bảo đảm bởi nhà sản xuất thiết bị (từ -2 đến -3%), mức khấu trừ an toàn đối với các tổn thất cung cấp điện năng (từ -1 đến -2%), mức khấu trừ an toàn đặc biệt khác nhằm phòng tránh các ảnh hưởng do việc tạo thành băng, hiệu ứng bóng râm chuyển động, hiệu ứng tiềng ồn gây nên. Sau khi thực hiện khấu trừ thì sẽ đạt được lượng điện năng có thể tạo ra được thực. Lấy lượng điện năng có thể tạo ra thực này nhân với giá tiền cung cấp điện năng thì sẽ thu 55
  56. được tiền doanh thu của một công viên gió. 2.3.1.2. Các nguồn doanh thu khác Có thể kể ra một số nguồn doanh thu khác như: - Doanh thu từ lãi suất từ khoản tiền được tạo ra bởi việc dự trữ tiền mặt thanh toán (Việc dự trữ tiền mặt thanh toán này nhằm đảm bảo khả năng trả lãi cho ngân hàng) - Doanh thu từ các hợp đồng cho thuế ví dụ như hợp đồng cho phép các công ty viễn thông thuê các thiết bị WKA để lắp đặt thiết bị của họ. 2.3.2 Các kiểu chi phí Các thành phần chi phí cần phải tính toán trong việc lập kế hoạch lỗ - lãi gồm như sau: - Chí phí dành trả tiền thuê đất - Chí phí dành cho các biện pháp chăm sóc và đền bù - Chí phí dành cho việc quản lý vận hành thiết bị về mặt kỹ thuật - Chi phí dành cho việc điều hành công ty và quản lý - Chi phí bảo hiểm - Chi phí cho các hợp đồng dịch vụ - Chi phí dành cho công tác sửa chữa bảo dưỡng - Chi phí dành cho việc sử dụng dịch vụ tư vấn thuế - Chi phí cho việc cung cấp điện năng - Chi phí dành cho việc phá dỡ - Chí phí dành cho trả lãi của số tiền vay mượn - Chi phí dành cho thanh toán nợ - Chí phí dành cho bảo hành - Chi phí dành cho thuế kinh doanh 56
  57. - Các chi phí khác 2.3.2 Xác định chi phí Cũng giống như quá trình xác định chi phí đầu tư, các giá trị kinh nghiệm được rút ra từ các dự án trong quá khứ cũng được sử dụng khi lập dự toán về lợi nhuận và dự toán về thanh toán đối với những thành phần chi phí không xác định. Thông thường chỉ có những thành phần chi phí như sau được quan tâm: - Trả tiền thuê đất bằng 3 - 5 % giá thành cung cấp điện năng - Tiền cho các biện pháp chăm sóc và đền bù ít hơn 1000 Euro - Tiền cho việc quản lý vận hành thiết bị về mặt kỹ thuật bằng 2 - 3 % giá thành cung cấp điện năng - Tiền dành cho việc điều hành công ty và quản lý bằng 2 - 3 % giá thành cung cấp điện năng - Tiền dành cho bảo hiểm bắt buộc về mặt pháp lý: 250 đến 300 trên một thiết bị WKA - Tiền dành cho các hợp đồng dịch vụ 0,011 Euro trên 1 kWh ( trong trường hợp hợp đồng dịch vụ đầy đủ thì sẽ có mức khác) - Tiền dành cho việc sửa chữa và bảo dưỡng bằng khoảng 60% mức tiền đâu tư thiết bị (tính cho toàn bộ thời gian 20 năm) - Tiền dành cho sử dụng dịch vụ tư vấn thuế 5 – 10 T€ - Tiền dành cho cung cấp điện năng khoảng 500 – 1000 Euro trên một thiết bị có công suất 2 MW - Tiền dành cho phá dỡ 50 – 70 T€/ trên một thiết bị có công suất 2 MW - Tiền dành cho các chi phụ khác ít hơn 1000 Euro - Chí phí dành cho trả lãi số tiền vay mượn và các hợp đồng vay mượn (5 – 6 %) - Chi phí dành cho thanh toán nợ và các hợp đồng vay mượn (3,5 – 4%) 57
  58. - Chí phí bảo hành bằng 1,5 – 2 % của chi phí tháo dỡ Ngay khi các hợp đồng kết thúc sẽ thu được các dữ liệu tin cậy từ dự án. Do vậy các giá trí kinh nghiệm nói trên sẽ được thay thế bằng các giá trị thật sự xuất hiện từ thực tế. 2.3.4. Các điều khoản liên quan đến khả năng thành toán của kế hoạch lãi - lỗ: Bên cạnh doanh thu, chi phí và lợi nhuận, kế hoạch lãi - lỗ tất nhiên cũng chứa các dữ liệu liên quan đến khả năng thanh toán. Các dữ liệu này là cần thiết nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của dự án là liên tục. Những bằng chứng về khả năng thanh toán này cần phải được cung cấp cho nhà đầu tư, ngân hang vì họ không muốn những mạo hiểm tài chính của mình bị rủi ro do các thâm hụt về khả năng thanh toán. Các dữ liệu quan trọng nhất của việc lập kế hoạch khả năng thanh toán gồm : Chu kỳ tiền mặt sau thuế Tài sản có thể dùng trả nợ - Tài khoản dự trữ Chu kỳ tiền mặt sau tài khoản dự trữ Sự chi tiêu tính theo % của EK Khả năng thanh toán hàng năm Khả năng thanh toán được tích lũy Có một mối quan tâm rất lớn về khả năng thanh toán đầy đủ. Phụ thuộc vào chất lượng dự án cũng như sự tín cậy của người điều hành và các nhà đầu tư, các ngân hàng thường đòi hỏi khả năng thanh toán phải bằng 0,5 đến 1,4 lần số tiền lãi suất phải trả hàng năm. 2.3.5 Giám sát chi phí / Kiểm tra chi phí Khác với việc lập dự toán chi phí đầu tư hay tính toán chi phí đầu tư, việc giám sát chi phí và kiểm tra chi phí không được dừng lại ngay cả khi đã xây dựng lắp đặt xong công viên gió. Thực tế thì việc giám sát kiểm tra này trở nên tích cực hơn kể từ khi công viên bắt đầu đi vào hoạt động. Và việc giám sát này sẽ luôn ở bên người giám đốc điều hành về mặt thương mại trong suốt toàn bộ thời gian hoạt động của công viên gió. Việc lập kế hoạch khả năng thanh toán bằng tiền mặt có một ý nghĩa rất quan trọng đặc biệt nếu như công viên gió không đạt được tính kinh tế được mong đợi cũng như doanh thu như mong đợi. Ở đây khả năng thanh toán bằng tiền mặt phải được xem xét cho một 58
  59. khoảng thời gian nhiều năm để có thể thoả thuận được khái niệm tái xây dựng phát triển của công viên từ rất sớm với ngân hàng và nhà đầu tư. 2.4 Các khả năng của việc tối ưu hoá lợi suất Quá trình tối ưu hoá lợi suất của công viên gió được phát triển đã bắt đầu ngay từ giai đoạn lập kế hoạch. Cả người mua cũng như các kỹ sư đều được hỏi đồng thời phải tìm ra được sự tối ưu hoá doanh thu cũng như các khả năng tiết kiệm chi phí. Về cơ bản tại tất cả các thành phần của chi phí và lợi nhuận đều có những điểm khởi đầu cho việc tiết kiêm. Và tất nhiên là ở những thành phần chi phí lớn nhất sẽ có khả năng điều chỉnh tốt nhất. Ngoài ra hiển nhiên là sự lựa chọn thiết bị WKA ở đây sẽ có một ý nghĩa đặc biệt cả về mặt chi phí lẫn mặt doanh thu. Nếu như quá trình đầu tư đã kết thúc thì quá trình tối ưu hoá chi phí cũng như lợi nhuận vẫn tiếp tục. Những khả năng điều chỉnh rất thú vị để tối ưu hoá chi phí trong thời gian hoạt động của công viên gió thường là chi phí cho việc thanh toán lãi suất. Chí phí này có thể được cải thiện thông qua một công ty bảo hiểm tiền tệ hay lãi suất hay thông qua sự hoàn lại số tiền đã vay. Các khả năng về tối ưu hoá doanh thu thường xuất hiện vào cuối thời gian hoạt động của thiết bị khi mà các thiết bị WKA đã được trả đến mức nhiều nhất có thể và đã bị sụt giá. 3. Nguồn tài chính của các dự án “Phát điện sử dụng năng lượng gió” Việc phát triển của các dự án năng lượng gió cần rất nhiếu vốn và đòi hỏi một kế hoạch sớm và đầy đủ liên quan đến khả năng thanh toán bằng tiền mặt cần thiết và liên quan đến vốn đòi hỏi cho sự đầu tư. Chương 3 này sẽ bàn đến các khía cạnh khác nhau cần phải chú ý từ quan điểm tài chính trong quá trình phát triển công viên gió. 3.1 Nguồn tài chính cho việc phát triển dự án Nhiệm vụ đầu tiên của bộ phận tài chính thuộc đối tác phát triển dự án là phải đảm bảo được các nhu cầu về vốn của sự phát triển dự án cho đến tận khi chuẩn bị được xong giấy phép xây dựng. Giai đoạn này thường có rủi ro rất lớn. Về mặt nguyên tắc thì ở một chừng mức nào đó thì việc vay tiền truyền thông từ nhà băng thường không tính đến do sự bảo đảm về mặt tín dụng từ các nhà băng cho một dự án vẫn chưa chắc chắn có thể không chắc chắn. Ở đây thường xuất hiện các lựa chọn thay thế khác đó là thu hút các nguồn vốn cá nhân và các nguồn vốn từ bên ngoài, về nguyên tắc thì thường là sự trộn lẫn hai nguồn vốn này. 59