Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Trịnh Thị Huyền Thương (Phần 1)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Trịnh Thị Huyền Thương (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_kinh_te_vi_mo_trinh_thi_huyen_thuong_phan_1.pdf
Nội dung text: Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Trịnh Thị Huyền Thương (Phần 1)
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA - QUAN HỆ DOANH NGHIỆP THS.NGUYỄN HOÀI NAM, THS.NGUYỄN THỊ MINH PHƯỢNG THS. TRỊNH THỊ HUYỀN THƯƠNG === === GIÁO TRÌNH KINH TẾ VĨ MÔ VINH, NĂM 2011 = = 1
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA - QUAN HỆ DOANH NGHIỆP THS.NGUYỄN HOÀI NAM, THS.NGUYỄN THỊ MINH PHƯỢNG THS. TRỊNH THỊ HUYỀN THƯƠNG === === GIÁO TRÌNH KINH TẾ VĨ MÔ (Giáo trình đào tạo từ xa) VINH, NĂM 2011 = = 2
- Phân công biên soạn: - Các tác giả: 1. Ths. Nguyễn Hoài Nam- Biên soạn chương II, III 2. Ths. Nguyễn Thị Minh Phượng- Biên soạn chương I, IV,V 3. Ths. Trịnh Thị Huyền Thương- Biên soạn chương VI,VII,VIII 3
- LỜI NÓI ĐẦU Tài liệu giảng dạy môn học Kinh tế vĩ mô được biên soạn phục vụ việc giảng dạy cho sinh viên đại học thuộc các chuyên ngành kinh tế. Mục tiêu của tài liệu là cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản trong quá trình học tập và nghiên cứu kinh tế vĩ mô, làm cơ sở cho sinh viên hiểu các nguyên lý và các mô hình kinh tế vĩ mô và có thể lý giải được một số vấn đề kinh tế trong thực tế. Sau khi kết thúc môn học, sinh viên có thể: - Nắm được các khái niệm, kiến thức cơ bản và công cụ phân tích làm cơ sở cho các môn học sau; - Nắm được những nguyên lý cơ bản về sự vận hành của nền kinh tế tổng thể liên quan đến các vấn đề như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái; - Hiểu được tác động của các chính sách vĩ mô đến nền kinh tế; Kết cấu nội dung tài liệu bao gồm 7 chương được sắp xếp theo trình tự như sau: Chương I. Tổng quan về kinh tế vĩ mô: chương này giới thiệu cho sinh viên những vấn đề mà kinh tế vĩ mô quan tâm, các chính sách, cũng như các công cụ chủ yếu để phân tích vĩ mô – mô hình tổng cung và tổng cầu. Phân tích sự luân chuyển của hàng hóa và tiền tệ trong nền kinh tế, giới thiệu định nghĩa và cách tính tổng sản phẩm quốc nội. Chương II. Tăng trưởng kinh tế: chương này giới thiệu cho sinh viên khái quát được thế nào là tăng trưởng kinh tế, phân biệt sự giống và khác nhau giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đưa ra được bản đồ tăng trưởng kinh tế trên thế giới và ở Việt Nam thời gian qua cũng như nêu ra các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chương III. Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính; Chương này giúp người học khái quát được hệ thống tài chính bao gồm những bộ phận nào, phương thức hoạt động của hệ thống tài chính nhằm chuyển tiết kiệm của người này cho đầu tư của người khác. Mô hình thị trường vốn vay cho một nền kinh tế đóng trong dài hạn sẽ được phát triển. Đồng thời thông qua mô hình này chúng ta có thể phân tích tác động của chính sách của chính phủ đến lãi suất, tiết kiệm và đầu tư. Chương IV. Tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế; tổng cầu và xác định sản lượng quốc gia: phân tích các nguyên nhân gây ra biến động kinh tế từ tổng cầu trong ngắn hạn và chính sách công cộng có thể làm gì để ngăn chặn các thời kỳ thu nhập giảm sút và thất nghiệp tăng cao. Chương V. Tiền tệ và thị trường tiền tệ: chương này tập trung vào các vấn đề liên quan đến tiền: tiền, các hình thái của tiền, hệ thống ngân hàng tạo tiền như thế nào và cách thức ngân hàng trung ương kiểm soát lượng tiền trong nền kinh tế. Mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ;. Chương VI. Lạm phát và thất nghiệp; đây là chương tập trung vào lạm phát: nội dung chương giới thiệu khái niệm, cách thức đo lường lạm phát, các nguyên nhân gây ra lạm phát và tác hại của nó. Bàn về sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp và tìm hiểu thất nghiệp, các nguyên nhân gây ra thất nghiệp và cách tính thất nghiệp. Chương VII. Kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở: chương này tập trung vào những khái niệm cơ bản liên quan đến tỷ giá hối đoái, phân tích cung cầu về vốn vay 4
- và thị trường ngoại tệ. Tìm hiểu sự ảnh hưởng của các chính sách và sự kiện đến nền kinh tế mở. Tài liệu này được biên soạn dựa trên các tài liệu, giáo trình, sách kinh tế vĩ mô của các trường đại học trong nước và các sách dịch. Nội dung cơ bản của tài liệu được biên soạn chủ yếu dựa vào các tài liệu: (1) Sách “ Nguyên lý kinh tế học tập 2” của giáo sư N. Gregory Mankiw (giáo sư kinh tế học trường Đại học tổng hợp Harvard). Sách này được dịch sang tiếng việt bởi khoa Kinh tế học - Trường Đại học quốc dân Hà Nội, nhà xuất bản Thống kê, 2003. (2) Sách “ Kinh tế học” tái bản lần 1 của tác giả Paul A Samuelson và Wiliam D. Nordhaus. Nhà xuất bản thống kê, 2002. (3) Sách "Kinh tế học vĩ mô" của David Begg, Stanley Fischer và Rudiger Dornbusch, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2008. (4) Sách "Bài tập Kinh tế học" của Damian Ward và Daivd Begg, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2007. (5) Các thông tin thực tế cùng kinh nghiệm tích lũy từ đọc các sách, báo khác của tác giả và những ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp trong tổ bộ môn Kinh tế - khoa Kinh tế Trường đại học Vinh. Cuối cùng tác giả chân thành cảm ơn các đồng nghiệp và cộng sự đã có những đóng góp quý báu cho tác giả trong quá trình thực hiện công trình nghiên cứu này. Chủ biên cuốn sách này là ThS Nguyễn Thị Minh Phượng Tham gia biên soạn gồm có: - ThS Nguyễn Thị Minh Phượng, chủ biên và biên soạn chương I, IV và V; - ThS Nguyễn Hoài Nam, biên soạn chương II & III; - ThS Trịnh Thị Huyền Thương, biên soạn chương VI & VII; Đây là tài liệu được biên soạn lần đầu của nhóm tác giả thuộc bộ môn Kinh tế, khoa Kinh tế do đó sẽ không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các độc giả để chúng tôi hoàn thiện tài liệu giảng dạy này hơn. Nhóm tác giả bộ môn Kinh tế Khoa Kinh tế - Đại học Vinh 5
- CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG - Nắm được các khái niệm, nguyên lý và phương pháp phân tích chung về hoạt động của nền kinh tế tổng thể; - Nắm được những nguyên lý cơ bản về sự vận hành của nền kinh tế tổng thể liên quan đến các phương diện như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất. - Hiểu được tác động của các chính sách của chính phủ đến nền kinh tế; NỘI DUNG Lịch sử của nhiều nước trên thế giới từ trước đến nay cho thấy chỗ đứng của một quốc gia phụ thuộc phần nhiều vào sức mạnh quân sự của họ. Ngày nay, đã có sự thay đổi, tiềm lực kinh tế mới là cái thành công hay thất bại. Một nước như Nhật Bản, với thế lực quân sự nhỏ bé, thế mà nhân dân Nhật đã nhiều thập kỷ qua được hưởng một mức hữu nghiệp cao, lạm phát thấp, mức sống không ngừng tăng lên. Quả thực, các vấn đề kinh tế vĩ mô đã chiếm vị trí trung tâm trong các chương trình nghị sự về kinh tế chính trị trong gần như toàn bộ thế kỷ 20. Qua kinh nghiệm thực tế điều hành, các nhà kinh tế đã có sự hiểu biết thấu đáo hơn về việc làm gì để chố chọi với khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ, làm thế nào để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Trước John Maynard Keynes, hầu hết các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đều chấp nhận những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh như một thực tế không thể tránh khỏi và là một quy luật. Quan điểm này đã ăn sâu vào tư tưởng từ lâu khiến cho họ hoàn toàn bất lực khi gặp phải cuộc Đại suy thoái kinh tế trong những năm 1930. Keynes đã tạo ra một bước nhảy vọt vĩ đại về mặt trí tuệ bằng việc xuất bản cuốn sách: "Lý thuyết chung về việc làm, tiền lãi và tiền tệ" năm 1936. Ông đã đưa ra lập luận gồm hai điểm: thứ nhất, ông cho rằng thất nghiệp cao và thiểu dụng năng lực sản xuất có thể cùng tồn tại dai dẳng trong nền kinh tế thị trường. Thứ hai, ông còn lập luận xa hơn rằng, việc sử dụng đúng đắn các chính sách tài khoá và tiền tệ của Chính phủ có thể ảnh hưởng đến mức sản lượng, việc làm, thất nghiệp và cũng có thể rút ngắn được thời kỳ định trệ kinh tế. Sau khi công bố công trình của mình, những tuyên bố của ông đã có ảnh hưởng chấn động, gây nhiều tranh luận và bàn cãi. Trong thời hậu chiến, kinh tế học Keynes đã thống trị trong kinh tế học vĩ mô và chính sách của Chính phủ. Những năm 60 mọi phân tích các lý thuyết của trường phái Keynes. Từ đó đến nay, đã có nhiều sự phát triển mới như đã đưa thêm nhân tố về phía cung, kỳ vọng về tương lai, những quan điểm khác nhau về tiền lương và sự năng động của giá cả, đã làm yếu dần sự nhất trí trong trường phái Keynes ban đầu. Và ngày nay, ít có nhà kinh tế tin rằng hành động của Chính phủ có thể loại bỏ được chu kỳ kinh doanh như kinh tế học của Keynes, và cũng không có kinh tế học này chính sách kinh tế nào giống hoàn toàn như phát hiện vĩ đại của Keynes. 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG CỦA KINH TẾ HỌC 1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế học 1.1.1.1. Khái niệm 6
- Có nhiều khái niệm về kinh tế học , song phổ biến nhất là khái niệm: kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối cho các thành viên của xã hội. Như vậy, trong khái niệm này có một số vấn đề được đặt ra: Thứ nhất: Nội dung cốt yếu của kinh tế học là nghiên cứu "cách lựa chọn" của nền kinh tế trong quá trình sản xuất sản phẩm. Do sự khan hiếm của các nguồn lực, đứng tại một thời điểm nào đó mà xét thì nguồn lực luôn có giới hạn không thể đủ đề sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của con người. Vì vậy, xã hội phải lựa chọn xem việc sử dụng nguồn lực này vào việc gì, sử dụng như thế nào và cho ai. Nguồn lực được hiểu bao gồm ba yếu tố cơ bản là tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, nguồn vốn và thời gian gần đây các nhà kinh tế thường đề cập đến trình độ quản lý và công nghệ là yếu tố thứ tư của nguồn lực. Thứ hai: Kinh tế học là một môn khoa học có tính độc lập nhất định đối với các môn khoa học khác. 1.1.1.2. Đặc trưng + Là một môn khoa học nghiên cứu về mặt lượng: Kinh tế học thường phản ánh các kết quả nghiên cứu bằng những con số. Khi nghiên cứu và phân tích các hoạt động nghiên cứu kinh tế học không chỉ đánh giá xu hướng biến động mà còn đo lường mức độ biến động của chúng do các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu. + Tính hợp lý: Khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế nào đó, cần phải dựa trên những giả thiết hợp lý. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về tổng cầu chúng ta giả định là giá không đổi để xem xét ảnh hưởng của các nhân tố cấu thành tới tổng cầu và sản lượng. + Tính toàn diện và tính tổng hợp: Khi xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối quan hệ với các hoạt động và sự kiện kinh tế khác trên phương diện một nước, thậm chí trên phương diện nền kinh tế thế giới. + Đặc trưng cuối cùng của kinh tế học là các kết quả nghiên cứu kinh tế chỉ xác dịnh được ở mức độ trung bình. Do kết quả kinh tế phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau, và chúng ta không thể xác định được chính xác các yếu tố đó. Kinh tế học là môn học nghiên cứu hoạt động của con người trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Kinh tế học có quan hệ chặt chẽ với nhiều môn khoa học khác: Triết học, Chính trị học, Xã hội học; Thống kê học. * Theo phạm vi nghiên cứu kinh tế học thường chia thành hai phân ngành lớn: - Kinh tế học vi mô (Microeconomics): Nghiên cứu hành vi ứng xử sự lựa chọn của từng cá nhân, từng cấu phần của nền kinh tế. Kinh tế học vi mô đề cập đến hành vi ứng xử và mục đích của các bên tham gia vào thị trường riêng biệt. - Kinh tế học vĩ mô (Macroeconomics): Nghiên cứu sự hoạt động của toàn bộ tổng thể của nền kinh tế như tăng trưởng kinh tế, sự biến động của giá cả, việc làm của cả nước, cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái Kinh tế học vĩ mô cố ý và cố gắng làm đơn giản nền kinh tế bằng cách bỏ qua các tác động riêng biệt của từng cá thể hay từng loại thị trường, nó chú ý đến những tác động tổng quát giữa các tác nhân kinh tế trong việc quyết định các vấn đề cái gì, như thế nào và cho ai. Kinh tế học vĩ mô chủ yếu giải quyết các cấu khối lớn, đề cập đến việc phân bổ nguồn lực của nền kinh tế nhằm đạt 7
- được các mục tiêu kinh tế tổng quát. Tất nhiên trong quá trình giải quyết không tránh khỏi phải sử dụng cách phương pháp phân tích vi mô. * Theo cách thức sử dụng kinh tế học được chia thành 2 dạng: - Kinh tế học thực chứng : Mô tả và phân tích các sự kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế. Kinh tế học thực chứng trả lời cho câu hỏi "Là bao nhiêu, là gì? Như thế nào?" Mục đích của kinh tế học thực chứng là muốn biết lý do vì sao nền kinh tế lại hoạt động như vậy. Trên cơ sở đó dự đoán phản ứng của nó khi có sự thay đổi của hoàn cảnh, đồng thời chúng ta có thể sử dụng các công cụ tác động để hạn chế tác động tiêu cực và khuyến khích mặt tích cực nhằm đạt được những kết quả mong muốn. - Kinh tế học chuẩn tắc : Đề cập đến mặt đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn, nghĩa là nó đưa ra quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề kinh tế. Có rất nhiều vấn đề đặt ra mà câu trả lời tuỳ thuộc vào quan điểm của cá nhân và cũng có nhiều phương pháp giải quyết khác nhau về một hiện tượng kinh tế tuỳ theo cách đánh giá của mỗi người. Ví dụ: có nên dùng thuế để lấy bớt thu nhập của người giầu bù cho kẻ nghèo không? có nên trợ giá bằng nông sản cho nông dân hay không? Nhưng vấn đề này thường được tranh luận nhưng không bao giờ được giải quyết bằng khoa học hoặc bằng thực tiễn kinh tế. Kinh tế học chuẩn tắc trả lời cho câu hỏi "Nên làm cái gì? Nghiên cứu kinh tế thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học chuẩn tắc. 1.1.2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế thường áp dụng phương pháp quan sát thực tế, xây dựng lý thuyết rồi tiếp tục quan sát, điều chỉnh lý thuyết. Một phương pháp vô cùng quan trọng trong phân tích là phương pháp trừu tượng hoá. Nội dung cơ bản của phương pháp này là bóc tách các nhân tố không định nghiên cứu để xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa những biến số cơ bản. Phương pháp thống kê cũng có ý nghĩa rất lớn trong phân tích. 1.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ HỌC 1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế vĩ mô Kinh tế vĩ mô - Một phân ngành của kinh tế học, nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thanh toán, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập cho các thành viên trong xã hội. Như vậy đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô được thể hiện cụ thể như sau: - Nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp - Kinh tế học vĩ mô cung cấp những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế một cách khách quan tạo cơ hội để Chính phủ của mỗi nước có sự lựa chọn đúng đắn trong hoạch định các chính sách kinh tế. Những kiến thức và công cụ phân tích này được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu và tư tưởng của nhiều nhà khoa học kinh tế thuộc 8
- nhiều thế hệ khác nhau. Ngày nay chúng càng được hoàn thiện và có thể mô tả chính xác hơn đời sống kinh tế vô cùng phức tạp của chúng ta. - Giải thích nguyên nhân nền kinh tế đạt được những thành công hay thất bại và những chính sách có thể nâng cao sự thành công của nền kinh tế. 1.2.2. Những quan tâm cơ bản của chính sách kinh tế vĩ mô Một là: Tại sao sản lượng và việc làm đôi khi giảm và làm thế nào có thể giảm bớt thất nghiệp? Không nền kinh tế nào là không chứng kiến những quá trình thu hẹp hay mở rộng của chu kỳ kinh doanh. Thời kỳ đình trệ kinh tế, sản xuất hàng hoá bị giảm sút, việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Chính phủ đã sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ để giảm bớt mức khốc liệt của chu kỳ kinh doanh. Kinh tế học vĩ mô ngoài việc xem xét nguồn gốc gây ra nạn thất nghiệp dai dẳng và cao, còn quan tâm đến chuẩn đoán và để xuất những giải pháp có thể được nhằm làm dịu mâu thuẫn của thị trường lao động. Hai là: Nguyên nhân phần nào gây ra lạm phát và tại sao lại có thể kiểm soát được lạm phát? Nền kinh tế thị trường dùng giá cả như một tiêu chuẩn so sánh để đo lường các giá trị kinh tế và hướng dẫn hoạt động kinh doanh. Trong thời kỳ giá cả tăng nhanh, tiêu chuẩn so sánh này mất hết giá trị, quá trình phân phối lại của cải do lạm phát nhiều khi đã cướp đi những thu nhập chân chính của người lao động. Sự thay đổi đột ngột của giá cả sẽ gây ra tính phi hiệu quả kinh tế. Kinh tế học vĩ mô đề cập đến vai trò đích thực của các chính sách tài khoá và tiền tệ, hệ thống tỷ giá hối đoái trong việc ổn định giả cả và kiềm chế lạm phát. Bà là: Một quốc gia có thể đẩy mạnh được tốc độ tăng trưởng của mình như thế nào? Kinh tế học vĩ mô cũng quan tâm đến sự tăng trưởng bền vững của một quốc gia. Tăng nhanh tiềm lực sản xuất của một đất nước luôn luôn là yếu tố trọng tâm quyết định sự tăng lên của tiền lương thực tế và mức sống của nhân dân nước đó. Trong số các tình thế khó xử của kinh tế vĩ mô, khó khăn nhất là phải lựa chọn giữa lạm phát thấp và thất nghiệp thấp. Các nhà kinh tế học vĩ mô thường có bất đồng lớn khi đề xuất một giải pháp thích hợp trong lúc đối mặt với lạm phát, thất nghiệp tăng. Song với những hiểu biết cơ bản về kinh tế học vĩ mô, ít nhất cũng có thể giảm thiểu được những thiệt hại khi mà phải lựa chọn một con đường tốt nhất. 1.2.3. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu Một nước có thể có nhiều cách lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng buộc của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị – xã hội. Song sự lựa chọn đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động mang tính khách quan của hệ thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế đó. Trong khi phân tích các hiện tượng kinh tế và mối quan hệ kinh tế quốc dân, kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng thể (general equibrium) do L.Walras (1834-1910) phát triển từ năm 1874 với tác phẩm "Elements d'coonomic Politque Pure (1874-1877)". Theo phương pháp này, kinh tế học vĩ mô khác với kinh tế học vi mô là xem xét cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường của các hàng hoá và các nhân tố, xem xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng. Ngoài ra, kinh tế học vĩ mô còn sử dụng các phương pháp phổ biến như: Tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình hoá kinh tế, Đặc biệt những năm gần 9
- đây và tương lai các mô hình kinh tế trong vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện đại. 1.3. MỤC TIÊU CỦA NỀN KINH TẾ Thành tựu kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế được đánh giá theo nhiều chỉ tiêu khác nhau nhưng nhiều nhà kinh tế thường sử dụng ba chỉ tiêu cơ bản: việc làm, ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. 1.3.1. Việc làm Việc làm (mức nhân dụng) càng cao càng tốt, mức nhân dụng có thể hiểu là tỷ lệ số người lao động có việc làm trong tổng số lực lượng lao động của một quốc gia. Lực lượng lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc đang đi làm hoặc đang tìm việc làm nhưng chưa có việc làm (những người thất nghiệp). Mục tiêu của nền kinh tế là làm sao đạt được mức toàn dụng nhân công, điều này có thể hiểu là khả năng của nền kinh tế trong việc tạo ra việc làm cho những ai có khả năng và có nguyện vọng làm việc. Cần phải lưu ý rằng nền kinh tế bao giờ cũng tồn tại một tỷ lệ thất nghiệp nhất định. Khi nền kinh tế đạt đến tỷ lệ thất nghiệp này ta nói rằng nền kinh tế đang ở tình trạng toàn dụng nhân công hay đạt tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Thất nghiệp tự nhiên là những người thất nghiệp một cách tự nguyện vì lý do nào đó mà họ không đi làm hoặc họ không chấp nhận mức lương hiện tại trên thị trường lao động. Việc xác định một tỷ lệ thất nghiệp là bao nhiêu để có thể được xem là toàn dụng nhân công là một công việc khá khó khăn và phụ thuộc vào một số nhân tố như thực tiễn phát triển của nền kinh tế và phương pháp tính tỷ lệ thất nghiệp. Ví dụ đối với Nhật bản, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 2% - 3% có thể được xem là toàn dụng nhân công. Còn đối với Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng 5%-6% có thể được xem là toàn dụng nhân công. Thất nghiệp không nhất thiết là điều mà người ta không mong muốn. Chúng ta hãy nghiên cứu các hình thức thất nghiệp khác nhau sau đây: - Thất nghiệp cơ cấu: thất nghiệp cơ cấu xẩy ra khi có sự biến động hay thay đổi trong cơ cấu sản xuất, không có sự đồng bộ giữa yếu tố con người và công việc. Ví dụ: quá trình đô thị hoá ở Tp Hồ Chí Minh đã biến nhiều nông dân ngoại thành mất đất và trở nên thất nghiệp do họ không phù hợp với công việc trong các xí nghiệp công nghiệp. - Thất nghiệp tạm thời: người lao động tạm thời thất nghiệp khi họ từ bỏ công việc cũ để tìm việc mới phù hợp hơn hay có mức lương cao hơn. Hình thức thất nghiệp này có thể xem là tích cực vì nó cho thấy người lao động trong nền kinh tế đang có nhiều cơ hội để tìm việc mới. - Thất nghiệp chu kỳ: hình thức thất nghiệp hay xuất phát từ tình trạng suy giảm trong sản xuất do nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái hay do chu kỳ sản xuất. Thường nền kinh tế vận động một cách có chu kỳ, trong giai đoạn suy thoái một số người có thể bị mất việc làm. Chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ có thể làm giảm thiểu hay rút ngắn chu kỳ kinh tế. - Bán thất nghiệp: những người đang làm việc nhưng đang làm những việc không phù hợp với chuyên môn của họ hoặc họ không tận dụng hết thời gian và khả năng làm việc của mình. Ví dụ: một sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng phải hành nghề xe ôm do không có cơ hội việc làm hay một số người làm việc dưới khả năng của mình đặc biệt là trong một số doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 10
- Không tính vào số lượng người thất nghiệp những người đã từ bỏ việc tiếp tục tìm kiếm việc làm do thiếu các cơ hội việc do những người này không tiếp tục tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên, cũng có lập luận cho rằng họ phải được tính vào con số thất nghiệp vì họ đã cố gắng tìm việc nhưng không tìm được việc làm. * Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp: Số người thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp (%) = Tổng lực lượng lao động x 100 1.3.2. Ổn định giá cả Mục tiêu này nói đến tình huống không có lạm phát hoặc thiểu phát. Tuy nhiên, ổn định mức giá ở đây chỉ mang tính tương đối. Giá cả của từng loại hàng hoá dịch vụ có thể tăng giảm linh hoạt theo tác động của quan hệ cung cầu. Nhưng sự ổn định mức giá chung hay mức giá trung bình là mục tiêu cần đạt. Bởi vì sự ổn định giá cả tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, nếu giá cả biến động mạnh mẽ gây bất ổn cho nền kinh tế và gây khó khăn cho đời sống nhân dân chính vì thế mục tiêu ổn định giá cả là một mục tiêu quan trọng của nền kinh tế. Lạm phát ổn định ở mức trên dưới 10% có thể có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Để đánh giá mức độ ổn định của giá cả người ta sử dụng chỉ số giá. Cùng với thời gian, giá cả của hàng hoá có thể tăng lên hay giảm xuống. Hiện tượng chủ yếu trong biến động của giá là lạm phát. Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng về mức giá trung bình. Tuy nhiên, cũng có những giai đoạn mà mức giá của hàng hoá đã giảm xuống. Hiện tượng này được gọi là thiểu phát. Ví dụ như nước ta trong thời gian gần đây (1999-2001) có những tháng chỉ số giá giảm. Để có thể xác định được chính xác tỷ lệ lạm phát hay thiểu phát chúng ta cần có một năm gốc để so sánh. Khi chúng ta đã xác định được năm gốc, những thay đổi về giá trong tương lai (hay giá trong quá khứ) có thể được so sánh với năm gốc này. Cách thức để xác định tỷ lệ lạm phát là xác định chỉ số giá tiêu dùng (CPI- consumption price index) hay còn gọi là chỉ số Laspeyres. * Công thức xác định CPI như sau: n i i p1 Q0 CPI i 1 n pi Qi 0 0 Trong đó: i 1 P0 là giá của hàng hoá tại thời điểm 0 (năm gốc) Q0 là khối lượng hàng hoá tại thời điểm 0 (năm gốc) P1 là giá của hàng hoá tại thời điểm 1 (năm nghiên cứu) i là loại hàng hoá thứ i Để tính CPI người ta phải xác định được danh mục các hàng tiêu dùng (hàng tiêu dùng cuối cùng) đại diện với một cơ cấu thích hợp (giỏ hàng hoá) và mức giá của từng hàng hoá ở thời điểm gốc và thời điểm nghiên cứu. Mặc dù giá hàng hoá tăng giảm khác nhau nhưng tính bình quân giá hàng hoá tiêu dùng sẽ tăng hay giảm so với năm gốc. Nói cách khác chỉ số giá quan tâm đến mức giá bình quân của một giỏ hàng hoá chứ không phải mức giá của từng mặt hàng đơn lẻ. 11
- Một công cụ quan trọng khác để tính các giá trị thực như thu nhập thực, GDP thực, được gọi là chỉ số giảm giá GDP hay chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator). Chỉ số giảm phải GDP được tính theo công thức tương tự có khác đi một ít so với cách tính CPI (chỉ số này lấy giỏ hàng hoá bao gồm cả hàng tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Chỉ số giảm phát còn được gọi là chỉ số Paasche. * Chỉ số giảm phát được xác định theo công thức sau: n Chỉ số giảm phát GDP: pi Qi 1 1 CPI i 1 n i i p0 Q1 i 1 Dùng chỉ số điều chỉnh GDP chúng ta có thể tính GDP thực của một năm cụ thể nào đó như sau: GDP N GDP = r Chỉ số giảm phát GDP Ví dụ: Dưới đây sẽ minh hoạ cách tính GDP thực năm 2010 lấy năm 1995 làm năm gốc (năm 0) Năm GDP danh nghĩa Chỉ số giảm phát GDP GDP thực (Tỷ USD) (tỷ USD) 1995 1000 100 1000 2010 1200 110 1901 GDP thực của năm 2010 (lấy năm 1995 làm gốc) được tính như sau: GDP danh nghĩa 2010 1200 = 1091 GDPthực2010 = = Giảm phát GDP 110% Giá trị GDP thực năm 2010 là 1091 tỷ USD. Mặc dù giá trị GDP danh nghĩa đã tăng 20% trong giai đoạn 1995-2010. Tuy nhiên trong cùng thời gian đó. Mặt bằng giá đã tăng lên 10%. Do vậy giá trị GDP thực chỉ tăng trên 9,1% Lưu ý: GDP thực của một năm bất kỳ bao giờ cũng gắn với một năm gốc. Nếu ta nói GDP năm 2010 là 109 tỷ USD sẽ là vô nghĩa mà phải nói rõ năm gốc là 1995. 1.3.3. Tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu hàng đầu của bất kỳ nền kinh tế nào. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản lượng quốc dân (GDP thực hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực sự tăng trưởng được thể hiện bằng tốc độ tăng trưởng hàng năm. Công thức tính tốc độ tăng trưởng kinh tế cho năm (so với năm trước đó) GDP GDP g (%) t t-1 GDPt-1 12
- Công thức tính tốc độ tăng trưởng bình quân (trong n năm) GDP GDP g (%) n 1 1 x 100 GDP1 Trong đó: GDPt là GDP thực năm thứ t GDPt-1 là GDP thực năm t-1 (năm trước) GDPn là thực năm thứ n GDP1 là GDP thực năm đầu tiên của giai đoạn từ năm 1 đến năm n Tăng trưởng kinh tế luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia vì nó là nền tảng cho việc nâng cao mức sống của nhân dân. Tuy nhiên, việc nâng cao mức sống còn phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nữa. Ví dụ: tốc độ tăng dân số, tính bình đẳng trong phân phối thu nhập, các chính sách xã hội. Người ta sử dụng chỉ tiêu GNP bình quân đầu người hoặc GDP bình quân đầu người như thước đo quan trọng mức sống của một quốc gia. Một quốc gia có GNP bình quân đầu người hoặc GDP bình quân đầu người cao hơn được xem là quốc gia có mức sống cao hơn. Tuy nhiên, khi sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá và so sánh mức sống của các quốc gia cần lưu ý một số vấn đề sau: - GDP đo lường giá trị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ theo giá thị trường, vì vậy có thể không phản ánh đúng giá trị xã hội thực của sản phẩm. Chẳng hạn, nhiều loại sản phẩm dịch vụ không được tính đến trong quá trình hạch toán thu nhập quốc dân như các công việc nội trợ tự làm, các hoạt động trao đổi hàng trực tiếp,v.v Mặt khác trong một số trường hợp giá thị trường thấp hơn nhiều so với giá trị xã hội của nó. - Mức sống xã hội còn phụ thuộc vào mức giá thị trường ở từng quốc gia. Một số nước có thu nhập quốc dân bình quân đầu người thấp nhưng giá tiêu dùng ở các nước này lại thấp hơn rất nhiều nhiều so với các nước có thu nhập cao. Ví dụ: nếu so sánh mức bình quân đầu người thì Ấn Độ có mức sống thấp hơn ở Mỹ là gần 50 lần nhưng nếu điều chỉnh theo mức giá ở hai nước này thì khoảng cách chỉ cần là gần 20 lần. - Mức sống xã hội còn phụ thuộc vào mức độ công bằng trong phân phối. Amartya Sen, một nhà kinh tế và chuyên gia trong lĩnh vực phát triển của Đại học Harvard đã chỉ ra nhiều trường hợp trong đó nếu một nước nghèo hơn nhưng có sự phân phối thu nhập công bằng hơn thì sẽ đã đạt được các chỉ số cao về mức sống xã hội như tuổi thọ trung bình, tỷ lệ người biết chữ , calo cung cấp bình quân đầu người. Mặc dù có những hạn chế như vậy nhưng GNP bình quân đầu người hoặc GDP bình quân đầu người vẫn được xem là một chỉ tiêu quan trọng trong các mục tiêu phát triển kinh tế của một quốc gia. 1.3.4. Những tư tưởng chủ yếu của kinh tế học vĩ mô Adam Smith đã đặt nền tảng cho kinh tế học vĩ mô khi ông xuất bản tác phẩm "Sự giàu có của quốc gia" năm 1976, ông đã ca ngợi sự tự do tuyệt đối về kinh tế và phủ nhận vai trò can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Khái niệm "bàn tay vô hình" được ông sử dụng để minh hoạ cho nền kinh tế thị trường tự do, ông nói: "Để nền kinh tế tự do điều tiết theo quan hệ cung cầu nó sẽ tự đạt tới điểm cân bằng theo sự sắp xếp của bàn tay vô hình". Adam Smith cũng là người đặt nền tảng cho lý thuyết thương mại quốc tế và phân công lao động quốc tế qua lý thuyết "lợi thế tuyệt đối". Sau này không 13
- lâu, David Ricardo đã phát triển và hoàn thiện thành lý thuyết lợi thế tương đối hay lợi thế so sánh. là cơ sở cho thương mại quốc tế ngày nay. Lý thuyết kinh tế của ông tồn tại hơn một thế kỷ, và góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh tế trong thời kỳ đó. Chính vì thế mà người ta coi ông là cha đẻ của kinh tế học vĩ mô. Nhưng chính nền kinh tế thị trường tự do đã nảy sinh ra khủng hoảng, và thực tế nền kinh tế khó mà tự điều tiết để đạt đến điểm cân bằng như Adam Smith nói. J.Mkeynes nói "cân bằng có thể xây ra trong dài hạn nhưng trong dài hạn chắc chúng ta chết cả", Keynes quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề kinh tế trong ngắn hạn. Cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 đã làm xuất hiện một bước ngoặt mới trong kinh tế học vĩ mô, trong đó J.M Keynes là nguời tiên phong. Ông đã xuất bản tắc phẩm: "Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" năm 1936, ông là người đầu tiên đưa ra vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ thông qua các công cụ tài chính và tiền tệ. Đến này tư tưởng của ông được nhiều nhà kinh tế học hiện đại phát triển thành nhiều trào lưu nhưng cơ bản vẫn chấp nhận vai trò của điều tiết chính phủ trong nền kinh tế thị trường. 1.4. CÁC MỐI QUAN HỆ KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN 1.4.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp Chúng ta đã biết rằng nâng cao mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất bao gồm cả lao động là một nhân tố quan trọng dẫn đến việc tăng trưởng kinh tế. Như vậy khi GDP tăng lên với tốc độ cao chúng ta có thể kỳ vọng rằng tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống. Các số liệu thực tế ở các nước đã chứng tỏ mối quan hệ này là xác thực. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp được một nhà kinh tế học người Mỹ Arthur Okun khái quát và phát biểu thành quy luật Okun. Quy luật Okun có thể phát biểu thành hai cách: - Cách 1: Khi giá trị sản lượng thực tế tăng trưởng với tốc độ cao hơn tốc độ trung bình (tốc độ tăng giá trị sản lượng tiềm năng) 2,5% sẽ dẫn đến giảm tỷ lệ thất nghiệp đi 1%. Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp thực tế (U1) như sau: U1 = Ut-1 - 0,4 (gt - gp) Trong đó: - Ut-1 là tỷ lệ thất nghiệp năm trước. - gt và gp tương ứng là tốc độ giá trị sản lượng thực tế và tốc độ tăng giá trị sản lượng tiềm năng. - Cách 2: Khi giá trị sản lượng thực tế thấp hơn giá trị sản lượng tiềm năng 2% thì thất nghiệp sẽ tăng thêm 1%. Công chức xác định tỷ lệ thất nghiệp thực tế (Ut) như sau: _ Yp Yt x 50 Ut = Un + Yp Trong đó:Un là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên - Ypvà Yt tương ứng là giá trị sản lượng tiềm năng và giá trị sản lượng thực tế. Ví dụ: Một quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp là 8% và có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5%. Muốn giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống mức 5% thì phải làm sao cho tỷ lệ tăng trưởng GDP cao hơn mức 5%. Chẳng hạn, cần phấn đấu đạt tỷ lệ tăng trưởng 7,5% để mỗi năm giảm 1% thất nghiệp và như vậy sau 3 năm sẽ đạt được mục tiêu giảm thất nghiệp xuống 14
- còn 5% (lập luận theo cách 1 của quy luật Okun). Nếu tốc độ tăng GDP chỉ là 6,25% chẳng hạn thì chúng ta sẽ cần 6 năm mới đạt được mục tiêu 5% thất nghiệp. Thật ra mối quan hệ này cũng chỉ mang tương đối chứ không có quan hệ lượng hoá chính xác như đã nêu. Tuy nhiên, nó cũng cho chúng ta một định hướng khá rõ rệt trong việc hoạch định chính sách. 1.4.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp Khi quan sát các nền kinh tế chúng ta thấy rằng dường như khi lạm phát tăng thì chúng ta dễ kiếm việc làm hơn. Ngược lại, trong giai đoạn chỉ số giá giảm (thiểu phát) nền kinh tế rơi vào trì trệ do đó khó kiếm được việc làm. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp được mô tả bởi đường cong Phillips, dựa vào số liệu thực tế ở nước Anh trong giai đoạn 1861-1957 nhà kinh tế học người Anh A.W. Phillips đã khái quát hoá sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp dưới dạng một đường cong. Đường cong Phillips nói lên rằng khi tỷ lệ thất nghiệp càng cao thì tỷ lệ lạm phát càng thấp và ngược lại. Điều đó gợi cho chúng ta rằng muốn giảm tỷ lệ thất nghiệp chúng ta phải chấp nhận tăng lạm phát và ngược lại đấu tranh chống lạm phát sẽ phải chấp nhận cái giá là thất nghiệp tăng. Mối quan hệ này tỏ ra phù hợp với nhiều quốc gia trong nhiều giai đoạn và có thể được lý giải khá thuyết phục. Tuy nhiên, những năm gấn đây tỷ lệ làm phát cao song hành với thất nghiệp cao ở một số quốc gia đã làm nhiêù người nghi ngờ về tính xác thực của mối quan hệ này. Mắc dù vậy, mối quan hệ này vẫn cho chúng ta một định hướng nhất định trong quá trình thực hiện chính sách. Trong giai đoạn cuối những năm 80 chúng ta đã tuyên chiến và đã điều chỉnh lãi suất lên mức rất cao nhưng tiếp sau đó là thời kỳ trì trệ và thất nghiệp tăng lên rõ rệt. Lạm Đường cong phát Phillips Thất nghiệp Đến đây bạn đọc có thể đã nắm được một số vấn đề cơ bản của kinh tế học vĩ mô và mục tiêu mà kinh tế học vĩ mô phải giải quyết. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường chủ yếu thông qua các chính sách tài khoá, tiền tệ, tỷ giá để tác động đến sản lượng quốc gia nhằm đạt được một số mục tiêu kinh tế đề ra. Như vậy biến số sản lượng (thực ra nói cho đầy đủ là tổng giá trị sản lượng) là một biến số kinh tế rất quan trọng trong kinh tế học vĩ mô. Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét biến số này và cách đo lường nó. 1.5. ĐO LƯỜNG SẢN LƯỢNG QUỐC GIA Khi nghiên cứu các mục tiêu kinh tế vĩ mô chúng ta gọi sản lượng là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thành tựu của một nền kinh tế. Mức sản lượng cao hay thấp sẽ ảnh hưởng tới việc làm, lãi suất, giá cả và những biến số kinh tế khác. 15
- Vì thế phần này chúng ta sẽ nghiên cứu đến các vấn đề liên quan đến sản lượng quốc gia, cách xác định và mối liên hệ giữa các chỉ tiêu thu nhập quốc dân, tổng sản phẩm và các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô. 1.5.1. Khái niệm về tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc dân 1.5.1.1. Khái niệm về tổng sản phẩm quốc nội GDP GDP (Gross Domestic Product) đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá, dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định không quan tâm đến yếu tố sản xuất ra sản phẩm đó thuộc sở hữu của người trong nước hay người nước ngoài. GDP là kết quả của mọi hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, các hộ gia đình của công dân nước sở tại và công dân nước ngoài tại nước sở tại. Nhưng GDP không bao gồm kết quả sản xuất của công dân nước sở tại ở nước ngoài. Kết quả sản xuất của công dân nước sở tại ở nước ngoài bao gồm tiền lương, thu nhập từ lãi cho vay, lãi cổ phần, lợi nhuận hay các nhân tố sản xuất khác. Lưu ý: Khi xem xét chỉ tiêu này cần chú ý một số vấn đề sau: - Chỉ tính vào GDP các sản phẩm và dịch vụ cuối cùng nghĩa là không tính giá trị các sản phẩm trung gian được sử dụng làm đầu vào cho các quá trình sản xuất. - Chỉ định kết quả sản xuất của giai đoạn hiện hành nghĩa là không tính giá trị của các hàng hoá đã được tạo ra trong các kỳ trước nhưng được trao đổi trong kỳ này. Ví dụ: Giá trị ngôi nhà cũ được bán lại không được tính vào GDP. Tuy nhiên nếu việc mua bán được thực hiện qua trung gian thì giá trị dịch vụ của người trung gian sẽ được tính vào GDP với tư cách là giá trị dịch vụ được tạo ra trong kỳ. - Hàng hoá và dịch vụ được đánh giá qua giá thị trường. Tuy nhiên có nhiều hàng hoá dịch vụ không được trao đổi trên thị trường, ví dụ các hàng hoá và dịch vụ công cộng. Trong trường hợp này người ta đo lường giá trị các dịch vụ này thông qua chi phí để tạo ra sản phẩm dịch vụ đó. Ví dụ giá trị dịch vụ quốc phòng mà quân đội cung cấp được đo bằng tổng chi phí cho quốc phòng mà nhà nước thực hiện trong kỳ. - Tính giá cả hàng hoá sản xuất ra trong nền kinh tế bất kể nó được sản xuất bằng nguồn lực trong nước hay nước ngoài. Ví dụ: Người nước ngoài đem công nghệ, vốn và nguồn lực vào Việt Nam để sản xuất ô tô thì giá trị ô tô được sản xuất ra được tính vào GDP mặc dù một phần thu nhập về hoạt động này thuộc về những người nước ngoài. Tóm lại, GDP đo lường các khoản thu nhập từ yếu tố sản xuất trong phạm vi nền kinh tế bất kể ai là chủ sở hữu các yếu tố này (công dân trong nước hay người nước ngoài). 1.5.1.2. Khái niệm về tổng sản phẩm quốc dân GNP GNP (Gross National Product) đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá, dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất ra trong một thời kỳ (thường là một năm) bằng các yếu tố sản xuất cả chính mình. Dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị của sản phẩm là thuận lợi vì thông qua giá cả thị trường chúng ta có thể công lại giá trị của tất cả các loại giá trị hàng hoá dịch vụ có hình thức vật chất khác nhau như chuối, xe hơi Nhờ vậy có thể đo lường kết quả sản xuất bằng con số, một tổng lượng duy nhất. Nhưng nhược điểm là giá cả thường biến động do đó GNP và GDP có thể tăng lên nhanh trong khi giá trị thực có 16
- thể không tăng hoặc tăng ít. Do đó các nhà kinh tế thường phân biệt hai chỉ tiêu GDP, GNP danh nghĩa và GDP, GNP thực. - GNP danh nghĩa (GNPn) đo lường sản phẩm quốc dân sản xuất ra theo giá hiện hành. - GDP danh nghĩa (GDPn) đo lường sản phẩm quốc nội sản xuất ra theo giá hiện hành. - GNP thực (GNPt) đo lường sản phẩm quốc nội sản xuất ra theo giá cố định ở một thời điểm được chọn làm gốc. Mối quan hệ giữa GDP danh nghĩa và GDP thực được xác định như sau: GDPDanh nghĩa ở năm cụ thể GDP thực = GDPdeflatir Một cách xác định tương tự, chúng ta có thể tính được chỉ tiêu GNP thực. Khi tính tốc độ tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế khuyên rằng nên dùng các chỉ tiêu thực để loại bỏ yếu tố giá trị sản lượng tăng do giá tăng. Bởi vì nếu không loại bỏ yếu tố giá trị có thể sự gia tăng trong GDPn có thể đơn thuần do giá tăng chứ sản lượng chưa hẳn đã tăng. 1.5.1.3. Mối quan hệ giữa GDP và GNP Giữa hai chi tiêu GDP và GNP có mối quan hệ với nhau qua công thức sau đây: GNP = GDP + NIA (2.1) Trong đó: NIA (Netfactor incomes ffrom abrroad) là thu nhập nhân tố ròng từ nước ngoài = thu nhập từ yếu tố sản xuất của công dân trong nước ở nước ngoài trừ đi phần thu nhập từ yếu tố sản xuất của công dân nước ngoài ở trong nước. Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng đối với những nước nghèo thì GNP thường nhỏ hơn GDP vì thu nhập ròng từ nước ngoài (NIA) là số âm. 1.5.1.4. Ý nghĩa của các chỉ tiêu GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô - GNP và GDP là các chỉ tiêu quan trọng phản ánh thành tựu kinh tế của một quốc gia. Các nhà kinh tế thường sử dụng các chỉ tiêu này để so sánh quy mô sản xuát của các quốc gia trên thế giới sau khi đã chuyển số liệu bằng tiền các nước khác nhau sang đồng dollar Mỹ thông qua tỷ giá hối đoái. - GNP và GDP đước sử dụng để phân tích những biến đổi về sản lượng của một quốc gia trong thời gian khác nhau, trong trường hợp này người ta thường sử dụng chỉ tiêu GDP, GNP thực nhằm loại bỏ nhân tố tăng giá. - GNP, GDP còn được sử dụng để phân tích những biến đổi của mức sống dân cư qua chỉ tiêu GNP bình quân đầu người hoặc GDP bình quân đầu người. GNP GNP = (1.1) P Pop GDP GDP = (1.2) P Pop Trong đó: GNPP (per capita GNP) là GNP bình quân đầu người GDPP (per capita GDP) là GDP bình quân đầu người 17
- Pop (population) là tổng dân số của một quốc gia Như vậy sự thay đổi GNP, GDP bình quân đầu người phụ thuộc rất nhiều vào năng suất lao động và tốc độ tăng dân số. Chính vì thế nên bên cạnh nổ lực phát triển nền kinh tế thì nhà nước (các nước đang phát triển) cần phải hạn chế sinh đẻ qua chương trình kế hoạch hoá gia đình, có vậy thì mức tiêu nâng cao mức sống dân cư mới có thể đạt được. - GNP là thước đo tốt hơn xét theo khía cạnh số lượng hàng hoá và dịch vụ mà mỗi người dân của mỗi quốc gia có thể mua được. Vì GNP có cả phần thu nhập từ nước ngoài của công dân nước sở tại và đã trừ đi phần thu nhập của công dân nước ngoài nằm trong GDP. - Từ các chỉ tiêu GNP và GDP các nhà làm chính sách thực hiện các phân tích về tiêu dùng, đầu tư, ngân sách, tiền lương, xuất nhập khẩu, giá cả, tỷ giá Qua trình bày ở phần trên đây, chúng ta thấy phần quan trọng của các chỉ tiêu GDP và GNP, bây giờ chúng ta xem xét các phương pháp xác định GDP. Từ kết quả của phương thức xác định GDP, chúng ta có thể tính các chỉ tiêu khác nhau GNP, GDP. 1.6. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GDP Trước đây khi chúng ta theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung việc tính toán các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp dựa trên cơ sở bảng cân đối quốc dân (MPS-Material Product System) do Liên Xô soạn thảo. Ngày nay chúng ta theo mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, đòi hỏi ngành thống kê phải áp dụng hệ thống thống kê phổ biến của các nước trên thế giới cũng như của tổ chức thống kê của Liên hiệp quốc. Đặc biệt là việc tính chỉ tiêu GDP và việc lập hệ thống tài khoản quốc gia (SNA – System of National Accounts). Việc tính toán chỉ tiêu GDP dựa trên cơ sở theo hệ thống SNA. Để tính được chỉ tiêu GDP, trước hết chúng ta phải xem xét sự luân chuyển của các khoản thu nhập trong nền kinh tế như thế nào. 1.6.1. Sơ đồ luân chuyển kinh tế học vĩ mô Để hiểu rõ phương pháp hạch toán thu nhập quốc dân và các bộ phận cấu thành của nó chúng ta hãy xem xét sơ đồ luân chuyển của một nền kinh tế giản đơn (nền kinh tế đóng) Các doanh nghiệp mua các yếu tố sản xuất của các hộ gia đình bao gồm dịch vụ lao động, Vốn, Tiền chi trả của các hãng cho các yếu tố này trở thành thu nhập (Y) của các hộ gia đình. Mặt khác các hội gia đình sử dụng thu nhập của mình để mua hàng hoá tiêu dùng (C) của các doanh nghiệp và một phần thu nhập được tiết kiệm (S) để rồi thông qua các trung gian tài chính trở thành nguồn vốn đầu tư (1) cung cấp cho khu vực kinh doanh (các doanh nghiệp). Chính phủ thu thuế (TA) của các hộ dân cư và các hãng và sử dụng tiền thu được cho việc mua sắm các dịch vụ các hộ gia đình (lao động, vốn), mua hàng hoá của các hãng (G), đồng thời chính phủ cũng thực hiện các khoản thanh toán chuyển giao (TR) cho các hộ dân cư dưới hình thức các khoản nợ cấp xã hội, bọc bổng, cứu trợ 18
- HH&DV Thị trường hàng hoá HH&DV Và dịch vụ C C Hộ TR Chính phủ G Doanh gia đình nghiệp TA HH&DV Y Y Thị tr ường yếu tố ytsx s ản xuất ytsx Trung gian S I tài chính Sơ đồ 1.1. Dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô (nền kinh tế đóng) Chúng ta bắt đầu trường hợp đơn giản nhất, bỏ qua khu vực nhà nước và khu vực giao dịch với nước ngoài, tức nền kinh tế khép kín, tự cấp, tự túc, chỉ bao gồm các hộ gia đình và các doanh nghiệp. Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô được minh hoạ như sơ đồ 1.1. Sơ đồ này gợi ý chung ta hai cách tính khối lượng sản phẩm trong một nền kinh tế. - Theo cung trên chúng ta có thể tính tổng sản lượng hàng hoá, dịch vụ sản xuất ra trong nền kinh tế. - Theo cung dưới chúng ta có thể tính tổng mức thu nhập từ các yếu tố sản xuất. Nếu toàn bộ thu nhập của hộ gia đình được đem mua hết hàng hoá và dịch vụ (không có tiết kiệm), các doanh nghiệp bán hết hàng hoá và dịch vụ để lấy tiền tiếp tục sản xuất và lợi nhuận của các hãng rốt cuộc cũng chỉ là thu nhập của các hộ gia đình. Con số từ hai cách trên là như nhau. Sơ đồ này cho chúng ta thấy tầm quan trọng của hành vi tiêu dùng của gia đình tác động đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Đồng thời nó cũng tác động của việc gia tăng của các yếu tố sản xuất đối với sự tăng trưởng kinh tế. Bằng cách sản xuất nhiều hãng hoá và dịch vụ sẽ dẫn đến thu nhập và tiêu dùng nhiều hơn cho các hộ gia đình, nâng cao mức sống dân cư trong xã hội. Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô đặt cơ sở cho các phương pháp tính toán tổng sản phẩm quốc nội, phương pháp tính sẽ trình bày trong phần tiếp theo. 1.6.2. Phương pháp xác định GDP 1.6.2.1. Phương pháp chỉ tiêu Sơ đồ 1.1. chúng ta sẽ mở rộng ra cho nền kinh tế sát với thực tế hơn, đó là nền kinh tế có cả khu vực chính phủ và có hoạt động xuất nhập khẩu. 19
- Theo phương pháp chỉ tiêu, GDP bao gồm toàn bộ giá trị thị trường của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và chính phủ mua và khoản xuất khẩu ròng (NX) được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định (thường tính cho một năm). Ta có công thức xác định như sau: GDP = C + I + G + NX (1.3) Trong đó: C (consumption expenditure) là khoản chỉ tiêu của hộ gia đình I (investment) là khoản đầu tư của doanh nghiệp G (government expenditure ) là khoản chi tiêu của chính phủ NX = X – M (net export) là khoản xuất khẩu ròng. Sau đây chúng ta sẽ làm rõ hơn các yếu tố cấu thành GDP theo phương pháp chi tiêu. a. Tiêu dùng của hộ gia đình: Tiêu dùng của hộ gia đình bao gồm tổng giá trị chi tiêu cho hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của hộ gia đình mua trên thi trường để chi dùng hàng ngày như thịt, gạo, cá, bánh kẹo, áo quần, phương tiện đi lại, chăm sóc sức khoẻ, hớt tóc Như vậy GDP chỉ bao gồm sản phẩm được bán trên thị trường, nó bỏ sót các hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình tư sản xuất để tiêu dùng như nông sản mà các hộ nông dân tự sản xuất tự tiêu dùng, công việc nội trợ Giá trị của chi tiêu của hộ gia đình chiếm khoảng 60 – 70% trong GDP của một quốc gia. b. Đầu tư: Đầu tư là các khoản chi tiêu của doanh nghiệp để mua sắm tư liệu sản xuất cho mục đích tái sản xuất mở rộng. Đầu tư bao gồm các trang thiết bị mới là các tài sản cố định, máy móc thiết bị của doanh nghiệp, nhà ở, văn phòng, nhà xưởng và chênh lệch hàng tồn kho của doanh nghiệp (nếu chênh lệch giàm thì phần chênh lệch mang dấu âm). Như vậy, khái niệm đầu tư ở đây khác với khái niệm đầu tư thông thường. Đầu tư ở đây là việc mua sắm các tư liệu sản xuất mới, tạo ra bản mới dưới dạng hiện vật như nhà máy mới, công cụ mới Không nên nhầm lẫn khái niệm đầu tư ở đây với việc sử dụng vốn để mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu hay gửi tiết kiệm. Vì hành động này chỉ làm thay đổi thành phần tích sản xuất của cá nhân hay doanh nghiệp mà không làm cho tổng tài sản cố định của đất nước tăng lên. Khi tính GDP, chúng ta đưa vào GDP khoản đầu tư gộp hay tổng đầu tư chứ không phải đầu tư ròng. Đầu tư gộp = đầu tư ròng (In) + khấu hao (De) Ở trên chúng ta đã đề cập đến chênh lệch hàng tốn kho. Hàng tồn kho là những hàng hoá được giữ lại để sản xuất hay tiêu thụ sau này. Thực chất hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động, hàng tồn kho bao gồm vật liệu hay các yếu tố sản xuất đầu vào hoặc thành phẩm chờ bán. Đầu tư có tác dụng tái sản xuất mở rộng, đầu tư làm giảm tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng trong tương lai. Đầu tư là kết quả của quá trình tích luỹ của các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ. c. Chi tiêu hàng hoá và dịch vụ của chính phủ (G) Chính phủ cũng là một tác nhân kinh tế và là một người tiêu dùng lớn nhất. Hàng năm chính phủ các nước đều phải chi tiêu một khoản rất lớn cho các nhu cầu về xây dựng hạ tầng cơ sở hạ tầng, quốc phòng, giáo dục, an ninh và trả lương cho bộ máy hành chính nhà nước. Những khoản chi tiêu này được tính vào GDP. Tuy nhiên, một 20
- khoản chi của chính phủ mà không được tính vào GDP đó là khoản chi chuyển nhượng (TR) như trợ cấp cho người tàn tật, trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, học bổng, vì nó không tương ứng với một khoản hàng hoá dịch vụ mới nào được tạo ra. d. Xuất khẩu và nhập khẩu. Trong một nền kinh tế mở cửa có hoạt động xuất nhập khẩu thì yếu tố nước ngoài cũng ảnh hưởng đến tổng giá trị sản lượng nội địa. Hàng xuất khẩu (X) là hàng sản xuất trong nước nhưng được tiêu thụ ở nước ngoài do đó làm tăng sản phẩm quốc nội. Hàng nhập khẩu là hàng được sản xuất ở nước ngoài nhưng được tiêu thụ ở trong nước do đó không nằm trong sản lượng nội địa nên phải trừ ra khỏi khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ đã tiêu dùng. Khi tính GDP chúng ta lấy xuất khẩu trong (NX). Xuất khẩu ròng (NX) = Xuất khẩu (X) – nhập khẩu (M) (1.4) Tóm lại, chúng ta có công thức xác định GDP theo phương pháp chi tiêu như sau: GDP = C + I + G + X – M = C + I + G + NX (1.5) Lưu ý: Vì theo phương pháp chi tiêu, các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tính theo giá thị trường nên trong giá cả đã bao gồm cả thuế gián thu. Như vậy, trong GDP tính theo phương pháp này đã có cả thuế gián thu nên gọi là GDP theo giá thị trường (GDPmp). 1.6.2.2. Phương pháp luồng thu nhập hay phân phối Theo phương pháp này GDP được tính theo chi phí các yếu tố đầu vào cho sản xuất như: tiền lương, lãi vay, tiền thuê nhà xưởng, thuê đất đai và lợi nhuận của chủ doanh nghiệp. Các chi phí này chính là thu nhập (incomes) của công chúng những người sở hữu các yếu tố sản xuất. GDP tính theo phương pháp này gọi là GDP theo yếu tố sản xuất, công thức xác định như sau: GDPfc = w + i + r + + De (1.6) Trong đó: GDPfc: GDP tính theo yếu tố sản xuất w: Tiền công, tiền lương i : Lãi vay vốn r : Tiền thuê nhà, thuê đất, thuê xưởng : Lợi nhuận của chủ doanh nghiệp De: Khấu hao TSCĐ Do GDP tính theo yếu tố sản xuất chưa có thuế gián thu mà chính phủ đánh vào hàng hoá của doanh nghiệp khi tiêu thụ, do đó khi tính GDP theo giá trị trường ta phải cộng thêm thuế gián thu. GDPmp = GDPfc + Ti (1.7) GDPfc = GDPmp - Ti (1.8) Trong đó: GDPfc: GDP tính theo giá yếu tố sản xuất GDPmp: GDP tính theo giá thị trường Ti : Thuế gián thu (thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XNK ) 1.6.2.3. Phương pháp sản xuất hay phương pháp giá trị gia tăng (productional value added approach) Khi tính GDP theo hai phương pháp trên dễ bị tính trùng do hàng hoá sản xuất ra trải qua nhiều công đoạn, doanh nghiệp này sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp kia để tránh tình trạng tính trong người ta đưa ra phương pháp giá trị gia tăng. 21
- Giá trị gia tăng (VA – value added) là khoản chênh lệch giữa giá trị sản lượng của một doanh nghiệp với chi phí đầu vào mà đã dùng hết trong việc sản xuất ra sản lượng đó. Như vậy, ta có công thức tính giá trị gia tăng như sau: VA = G O – I I (1.9) Trong đó: VA (value added) là giá trị gia tăng GO (gross output) là tổng giá trị sản lượng đầu ra I I (intermediate inputs) là chi phí trung gian GDP là tổng cộng tất cả giá trị gia tăng của các đơn vị sản xuất trong cùng một ngành, rồi cộng giá trị gia tăng của tất cả các ngành trong nền kinh tế n GDP = n VA1 = (GO1 – I I1 ) i 1 i 1 Trong đó: I là các đơn vị kinh tế của tất cả các ngành Dùng phương pháp này nhằm tránh tính trùng, chỉ đưa vào sản phẩm cuối cùng và loại bỏ các hàng hoá trung gian cấu thành hàng hoá cuối cùng đó. Kết quả của ba phương pháp trên đều như nhau, nếu có khác nhau thì do sai số. 1.7. MỐI QUAN HỆ GIỮA GDP, GNP VÀ YD Phần trên chúng ta đã xem xét các phương pháp GDP. Tuy nhiên, trong kinh tế học vĩ mô chúng ta không chỉ quan tâm đến tổng sản lượng quốc nội GDP mà còn quan tâm đến các chỉ tiêu quan trọng khác như thu nhập hay sản phẩm quốc dân và thu nhập khả dụng. Đó chính là các chỉ tiêu quyết định hành vi tiêu dùng và tiết kiệm của hành vi một quốc gia. 1.7.1. Tổng sản phẩm quốc dân GNP Chúng ta nhắc lại công thức tính GNP: GNP = GDP + NIA (1.10) Trong đó: NIA là thu nhập ròng từ các nhân tố sản xuất ở nước ngoài NIA = Thu nhập từ các nhân tố sản xuất của quốc gia tham gia vào quá trình sản xuất ở nước ngoài trừ đi phần thu nhập của các yếu tố sản xuất của nước ngoài tham gia vào qúa trình sản xuất trong nước. Số liệu về thu nhập từ nhân tố sản xuất ở nước ngoài có thể lấy ở cán cân thanh toán quốc tế, trong phần tài khoản vãng lai. Cũng tương tự thu GDP, ta có công thức liên hệ giữa GNP theo giá yếu tố và GNP theo giá thị trường: GNPfc = GNPmp – Ti (1.11) Hay GNPmp = GNPfc + Ti (1.12) Trong đó: GNPmp: Là GNP tính theo giá thị trường GNPfc: Là GNP tính theo yếu tố sản xuất Ti : Là thuế gián thu So với GDP thì GNP phản ánh tốt hơn khả năng tiêu dùng và thành tựu kinh tế của một quốc gia. Tuy vậy, GNP chưa phải là thước đo hoàn hảo về thành tựu kinh tế cũng như phúc lợi kinh tế của một đất nước. Qua phần trình bày cách tính GDP (tính GNP phải dựa vào kết quả của GDP), chúng ta thấy GNP cũng đã bỏ sót nhiều sản phẩm và dịch vụ tự sản xuất tự tiêu thụ, không đưa ra bán trên thị trường. Tương tự như vậy, các hoạt động kinh tế phi pháp không báo cáo cũng không được tính vào GNP. Có nhiều hàng hoá khi sản xuất và tiêu dùng gây thiệt hại cho môi trường, gây 22
- hại cho sức khoẻ Nhưng không được "điều chỉnh" khi tính vào GNP. Ngược lại, có những hàng hoá làm tăng phúc lợi cho dân chúng, chẳng hạn như "nghỉ ngơi", thì không thể nào ghi chép và phản ánh vào GNP. Hiện nay, nhiều nhà kinh tế đã đề nghị sử dụng một chỉ tiêu để do phúc lợi kinh tế ròng (NEW) để thay thế cho chỉ tiêu GNP hoặc bổ sung cho nó. Tuy nhiên, phương pháp này còn quá mới mẻ, chưa thể áp dụng được nên hiện nay các nước vẫn tiếp tục sử dụng GNP để đo thành tựu kinh tế của một quốc gia. 1.7.2. Xác định sản phẩm quốc nội ròng NDP và sản phẩm quốc dân ròng NNP Sản phẩm quốc dân ròng NNP là phần GNP còn lại sau khi trừ đi phần khấu hao. NNP là lượng tiền mà nền kinh tế có thể chi tiêu cho hàng hoá và dịch vụ sau khi đã trừ đi một khoản để bảo toàn vốn. Khấu hao TSCĐ (De) phản ánh sự suy giảm giá trị máy móc, thiết bị, nhà xưởng – do hao mòn hữu hình hay vô hình. Do đó khấu hao không trở thành nguồn thu nhập của cá nhân và xã hội, được trừ ra khỏi NNP. NNP = GNP – De (1.13) Tương tự như vậy ta có công thức NDP = GDP – De (1.14) Như vậy suy cho cùng, đầu tư ròng (khoản đầu tư còn lại sau khi trừ đi khấu hao), chứ không phải là đầu tư gộp, cùng với các khoản khác của GDP (chỉ tiêu của hộ gia đình, chi tiêu của chính phủ, xuất khẩu ròng) mới là các bộ phận quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống dân cư. Những bộ phận này hợp thành sản phẩm quốc nội ròng NDP của một nước. Tuy vậy, việc tính toán mức khấu hao của nền kinh tế đòi hỏi nhiều thời gian và rất phức tạp. Vì thế, để dáp ứng kịp thời cho nhu cầu phân tích và tránh được sự khó khăn trong việc thu nhập số liệu khấu hao nên hiện nay các nước thường sử dụng các chỉ tiêu GDP và GNP. 1.7.3. Thu nhập quốc dân (National Income – Y) và thu nhập quốc dân có thể sử dụng (National Disposable Incomme – Yd) Thu nhập quốc dân (Y) là phần còn lại của sản phẩm quốc dân ròng (NNP) sau khi trừ đi phần thuế gián thu (Ti). Thu nhập quốc dân phản ánh tổng số thu nhập từ các yếu tố sản xuất lao động, vốn, đất đai, tài nguyên, công nghệ Y = NNP – Ti (1.15) Chúng ta dễ dàng nhận thấy khái niệm thu nhập quốc dân (Y) trùng với khái niệm sản phẩm quốc dân ròng tính theo yếu tố sản xuất. Ta có: Y = w + i + r + (1.16) Chúng ta cũng có thể tính thu nhập quốc dân theo công thức sau: Y + (GNP – De ) – Ti (1.17) Hay Y = NNP – Ti (1.18) Thu nhập quốc dân là chỉ tiêu phản ánh thu nhập từ tất cả các yếu tố sản xuất của nền kinh tế, do đó phản ánh tốt mức sống của dân cư. Tuy nhiên để dự đoán khả năng tiêu dùng và tích luỹ hay tiết kiệm của dân chúng, chúng ta cần dựa vào các chỉ tiêu trực tiếp hơn, đó là chỉ tiêu thu nhập có thể sử dụng (Yd) Thu nhập có thể sử dụng là phần thu nhập quốc dân còn lại sau khi các hộ gia đình đã nộp thuế trực thu và nhận được các khoản trợ cấp của chính phủ. 23
- Vậy ta có: Yd = Y – TA + TR (1.19) Trong đó: TA là thuế trực thu TR là các khoản trợ cấp Thuế trực thu ở đây bao gồm các khoản thuế đánh vào tiền lương, tiền công, thu nhập do thừa kế tài sản, các khoản đóng góp của cá nhân như bảo hiểm xã hội, lệ phí giao thông, và thuế đánh vào thu nhập của doanh nghiệp như thuế lợi tức hay thuế thu nhập doanh nghiệp, đóng góp quỹ công ích, lợi tức không chia. Trợ cấp hay chi chuyển nhượng là những khoản chi của chính phủ cho việc trợ cấp hưu bổng, trợ cấp khó khăn, cứu trợ, trợ cấp thất nghiệp, học bổng Như vậy với khoản thu nhập có thể sử dụng Yd , các hộ gia đình sẽ tiêu dùng (C) hoặc tiết kiệm (S) Do đó: Yd = C + S (1.20) Đến bây giờ chúng ta đã biết cách xác định các chỉ tiêu kinh tế quan trọng như GDP, GNP, Y, Yd và các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu đó. Các chương tiếp theo, chúng ta sẽ sử dụng các chỉ tiêu kinh tế này để thực hiện các phân tích kinh tế vĩ mô và phải lưu ý rằng khi tiến hành các phân tích ở các chương tiếp theo chúng ta bỏ qua sự khác biệt giữa các chỉ tiêu GDP, GNP và Y. TÓM TẮT CHƯƠNG I - Kinh tế vĩ mô là môn học nghiên cứu hành vi của tổng thể nền kinh tế - Kinh tế vĩ mô bỏ qua những khía cạnh chi tiết riêng lẻ để tập trung vào sự tương tác của các khu vực rộng lớn trong nền kinh tế. Các hộ gia đình cung cấp các dịch vụ yếu tố cho các hãng sử dụng để sản xuất ra sản phẩm. Các hãng thanh toán thu nhập yếu tố cho các hộ gia đình để mua sản lượng của các hãng. Quá trình này gọi là dòng luân chuyển. - Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là giá trị sản lượng ròng do các yếu tố sản xuất tạo ra trong nền kinh tế trong nước. Nó có thể được tính theo ba cách tương đương: luồng sản phẩm, tính theo thu nhập (chi phí) và phương pháp giá trị gia tăng. - GDP theo giá thị trường tính theo giá trị sản lượng trong nước theo giá bao gồm cả thuế gián thu. GDP theo giá cố định đo lường sản lượng trong nước theo giá của 1 năm lấy làm gốc, không bao gồm thuế gián thu.Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) còn được gọi là tổng thu nhập quốc dân (GNI) điều chỉnh GDP theo khoản thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài. - Thu nhập quốc dân là sản phẩm quốc dân ròng (NNP) tính theo giá cố định. NNP = GNP - De Trên thực tế, nhiều đánh giá về hoạt động kinh tế dựa trên GNP, bởi vì việc tính toán khấu hao một cách chính xác không phải lúc nào cũng dễ dàng. - GNP danh nghĩa đo lường sản phẩm theo giá hiện hành. GNP thực tế đo lường sản lượng theo giá cố định. Do vậy, GNP thực tế điều chỉnh GNP danh nghĩa theo những thay đổi trong chỉ số điều chỉnh GNP do có lạm phát. - GNP thực tế bình quân đầu người là GNP thực tế chia cho dân số. Nó cung cấp một chỉ báo đáng tin cậy hơn về số lượng hàng hóa và dịch vụ mà mỗi người dân trong nền kinh tế được hưởng. - GNP thực tế và GNP thực tế bình quân đầu người vẫn chỉ là những thước đo sơ lược về phúc lợi kinh tế quốc dân và cá nhân. Chúng không tính đến những hoạt động phi thị trường, những sản phẩm có hại như ô nhiễm và những hoạt động có giá trị như việc 24
- làm ở nhà, hoạt động sản xuất mà những người trốn thuế không báo cáo. GNP cũng không tính giá trị của sự nhàn rỗi. - Vì việc tính toán thường xuyên và chính xác tất cả những hoạt động kinh tế này thường tốn kém và đôi khi không thực hiện được, nên trên thực tế, GNP là thước đo hoạt động kinh tế quốc dân được sử dụng rộng rãi nhất. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Tại sao phân biệt giữa thước đo thu nhập quốc dân danh nghĩa và thu nhập quốc dân thực tế lại rất quan trọng? 2. Ở nhiều nước kém phát triển, phần lớn các hoạt động kinh tế được diễn ra trong khu vực nông nghiệp quy mô nhỏ, tự cấp tự túc? Theo anh chị, điều này ảnh hưởng như thế nào tới sự so sánh mức sống căn cứ vào GNP? Theo anh chị, còn có những khó khăn nào khác nữa trong việc so sánh mức sống giữa các nước trên thế giới? 3. Nếu GNP danh nghĩa là 6000 và GNP thực tế là 4500, giá trị của chỉ số giảm phát là bao nhiêu? 4. Giả sử một doanh nghiệp sản xuất được 400 vỏ xe và bán cho công ty sản xuất ô tô với giá 1,2 triệu đồng/chiếc vào tháng 12/N. Đến tháng 02/N+1, công ty sản xuất ô tô lắp vào 100 xe mới sản xuất và bán mỗi xe 80 triệu. Những giao dịch này đóng góp gì vào GDP năm N và năm N+1? 5. Các khoản sau, khoản nào được tính vào GDP, giải thích: a. Thu nhập của một bác sĩ do khám bệnh mà có. b. Học bổng của một sinh viên. CÂU TRẢ LỜI ĐÚNG SAI 1. Giả thiết chúng ta có thể tính đủ và chính xác, thì sẽ có cùng một con số ước tính về toàn bộ hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào việc chúng ta xác định giá trị của sản lượng đầu ra, mức thu nhập theo các yếu tố hoặc chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ. 2. Tính giá trị gia tăng là một cách đo sản lượng tránh được sự tính lặp. 3. Tổng sản phẩm trong nước tính theo giá cố định bằng GDP tính theo giá thị trường cộng với thuế gián thu ròng. 4. Khấu hao là một loại chi phí kinh tế, vì nó đo nguồn lực đã được sử dụng hết trong quá trình sản xuất. 5. Tổng sản phẩm quốc dân tính theo giá cố định không phải là thước đo hữu ích về phúc lợi kinh tế, vì nó bỏ qua nhiều thành tố quan trọng của phúc lợi. CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM 1. Kinh tế vĩ mô là môn học nghiên cứu: a. Các thị trường cụ thể như kinh tế vi mô b. Nền kinh tế với tư cách là một tổng thể, một hệ thống lớn c. Các tổng lượng lớn phản ánh hoạt động tổng hợp của một nền kinh tế d. Tất cả các điều trên e. Chỉ có b và c 2. Chính sách kinh tế vĩ mô bao gồm: a. Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ b. Chính sách thương mại và tỷ giá hối đoái c. Chính sách thu nhập 25
- d. Tất cả các chính sách trên e. Không phải là các chính sách trên 3. Mục tiêu kinh tế vĩ mô ở các nước hiện nay bao gồm: a. Với nguồn tài nguyên có giới hạn tổ chức sản xuất sao cho có hiệu quả để thoả mãn cao nhất nhu cầu của xã hội. b. Hạn chế bớt sự dao động của chu kỳ kinh tế. c. Tăng trưởng kinh tế để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. d. Tất cả các câu trên đều đúng 4. Sản lượng tiềm năng là mức sản lượng: a. Tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên b. Cao nhất của một quốc gia không đưa nền kinh tế vào tình trạng lạm phát cao. c. Cao nhất của một quốc gia đạt được d. Câu a và b đúng 5. "Chỉ số giá hàng tiêu dùng ở Việt Nam tăng khoảng 20% mỗi năm trong giai đoạn 2000 - 2005", câu nói này thuộc: a. Kinh tế vi mô và thực chứng b. Kinh tế vĩ mô và thực chứng c. Kinh tế vi mô và chuẩn tắc d. Kinh tế vĩ mô và chuẩn tắc 6. Khoản mục nào không được tính vào GDP của năm 2005? Doanh thu của: a. một chiếc xe Honda sản xuất năm 2005 tại Vĩnh Phúc b. dịch vụ cắt tóc c. dịch vụ của nhà môi giới bất động sản d. một ngôi nhà được xây dựng năm 2004 và được bán lần đầu tiên trong năm 2005 e. tất cả những khoản mục trên đều được tính vào GDP năm 2005 7. Nếu GDP lớn hơn GNP của Việt Nam, thì: a. Giá trị sản xuất mà người nước ngoài tạo ra ở Việt Nam nhiều hơn so với giá trị sản xuất mà người Việt Nam tạo ra ở nước ngoài. b. Giá trị sản xuất mà người Việt Nam tạo ra ở nước ngoài nhiều hơn so với giá trị sản xuất mà người nước ngoài tạo ra ở Việt Nam. c. GDP thực tế lớn hơn GDP danh nghĩa d. GNP thực tế lớn hơn GNP danh nghĩa e. Giá trị hàng hoá trung gian lớn hơn giá trị hàng hoá cuối cùng. 8. Khi tính GNP hoặc GDP thì việc cộng hai khoản mục nào dưới đây là không đúng: a. Chi tiêu của Chính phủ với tiền lương b. Lợi nhuận của Công ty và lợi tức nhận được từ việc cho công ty vay tiền c. Chi tiêu cho đầu tư và chi tiêu chính phủ d. Tiêu dùng của dân cư và chi tiêu chính phủ 9. Nếu tiết kiệm là khoản rút khỏi vòng chu chuyển thì khoản mục nào sau đây là khoản bơm vào tương ứng với nó? a. Chi tiêu cho đầu tư b. Chi tiêu cho hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ c. Trợ cấp thất nghiệp d. Tất cả các khoản trên e. Chỉ có a và b. 26
- 10. Sự khác nhau giữa tổng sản phẩm quốc dân với sản phẩm quốc dân ròng là ở: a. Chi tiêu cho đầu tư b. Xuất khẩu ròng c. Khấu hao d. Tiết kiệm e. Phương pháp tính BÀI TẬP Bài 1. Trên lãnh thổ 1 quốc gia có các chỉ tiêu sau: 1. Tiền lương 420 12. Xuất khẩu ròng 35 2. Tiền thuê 90 13. Thuế doanh thu 22 3. Tiền lãi 60 14. Thuế XNK 10 4. Đầu tư ròng 40 15. Thuế tiêu thụ đặc biệt 8 5. Khấu hao 160 16. Thuế thu nhập 18 6. Lợi tức chủ doanh nghiệp 30 17. Thuế di sản 12 7. Lợi tức cổ phần 85 18. Trợ cấp hưu trí 16 8. Lợi tức không chia 20 19. Trợ cấp học bổng 4 9. Thuế lợi tức 45 20. Bù lỗ XNQD 5 10. Tiêu dùng hộ gia đình 600 21. Thu nhập ròng từ 11. Tiêu dùng chính phủ 65 tài sản nước ngoài 50 22. Đầu tư chính phủ 50 Yêu cầu: 1. Tính tổng đầu tư. 2. Tính mức thuế gián thu, thuế trực thu và tổng lượng thuế của nền kinh tế. 3. Tính chi tiêu hàng hóa dịch vụ của chính phủ. 4. Hãy tính GDP của quốc gia trên theo 2 phương pháp 5. Tính GNP từ đó tính NNP, Y, YD. Bài 2: GNP theo giá thị trường là 300 tỷ bảng. Khấu hao là 30 tỷ bảng và thuế gián thu là 20 tỷ bảng. a. Thu nhập quốc dân là bao nhiêu? b. Tại sao khấu hao tạo ra sự chênh lệch giữa GNP và thu nhập quốc dân? c. Tại sao phải tính thuế gián thu? 27
- CHƯƠNG II TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG Chương này giúp người đọc khái quát được thế nào là tăng trưởng kinh tế, phân biệt sự giống và khác nhau giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đưa ra được bản đồ tăng trưởng kinh tế trên thế giới và ở Việt Nam thời gian qua cũng như nêu ra các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. NỘI DUNG 2.1. TỔNG QUAN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 2.1.1. Khái niệm Khái niệm tăng trưởng nói chung được dùng để chỉ sự lớn lên, tăng thêm hay mở rộng về quy mô của một hiện tượng hay một hệ thống nào đó. Khái niệm tăng trưởng kinh tế hiểu theo nghĩa rộng: là sự tăng theo quy mô sản lượng hay thu nhập bình quân đầu người của một nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Đó là kết quả được tạo ra bởi tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế là vấn đề được xét trong dài hạn. Do đó các nhà kinh tế thường cho rằng tăng trưởng kinh tế chính là sự gia tăng của sản lượng tiềm năng, mức sản lượng tạo ra khi các nguồn lực được sử dụng đầy đủ hay tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo thời gian. Theo quan điểm này chỉ trên cơ sở tăng thêm được năng lực sản xuất, thì nền kinh tế mới có thể sản xuất ra một mức sản lượng cao hơn so với trước. Quan điểm này đúng khi nó thoả mãn một trong ba điều kiện sau: - Bỏ qua những dao động ngắn hạn của sản lượng thực tế. - Các chính sách kinh tế có khả năng kiểm soát và duy trì sản lượng ở mức tiềm năng. - Xét trong thời gian đủ dài để nền kinh tế có thể tự điều chỉnh trở về trạng thái cân bằng dài hạn ứng với mức sản lượng tiềm năng. Ưu điểm của quan điểm này là ở chỗ, nó khẳng định nguồn gốc của tăng trưởng là do việc tạo ra các nguồn lực mới. 2.1.2. Thước đo, chỉ số tăng trưởng Để đo sự tăng trưởng kinh tế, người ta thường dùng các thước đo sau đây: * Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) * Tổng sản phẩm trong nước hay quốc nội (GDP Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là những thước đo cơ bản đánh giá hoạt động của nền kinh tế. Tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa thường tăng nhanh hơn tổng sản phẩm quốc dân thực tế. Sự khác nhau đó là do giá của hàng hoá và dịch vụ đã tăng do nền kinh tế có lạm phát, còn tổng sản phẩm quốc dân thực tế tăng lên là do: - Số lượng nguồn lực (tư bản, lao động, tài nguyên) trong nền kinh tế đã tăng lên. - Hiệu quả sử dụng các nguồn lực đó cũng tăng lên. Tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc dân thưc tế, gọi là tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế. * Mức tăng trưởng kinh tế Mức tăng trưởng kinh tế của một nước có thể được tính bằng cả số tuyệt đối và cả bằng số tương đối (%) của giá trị sản lượng thời kỳ sau so với thời kỳ trước. 28
- Mức tăng trưởng tuyệt đối = GNP1 - GNP0 Mức tăng trưởng tương đối = GNP1(%) - GNP0(%) Trong đó: GNP0 là tổng sản phẩm quốc dân năm trước hay còn gọi là năm gốc, còn GNP1 là tổng sản phẩm quốc dân năm sau (hay năm xét tốc độ tăng trưởng). Mức tăng trưởng kinh tế có thể tính theo chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hay mức sản lượng bình quân tính theo đầu người của một quốc gia, hay từng ngành, từng vùng, từng địa phương. Vấn đề đặt ra là chọn một hay một số chỉ tiêu để phản ánh quá trình tăng trưởng. Tuy hiện nay có nhiều chỉ tiêu kinh tế có thể phản ánh kết quả hoạt động của nền kinh tế, nhưng nhìn chung các nhà kinh tế có xu hướng chọn một chỉ tiêu đặc trưng là GDP thực tế để phản ánh tăng trưởng. Các chỉ tiêu khác như GNP, NI, đều có thể tính toán trên cơ sở chỉ tiêu GDP. * Tốc độ tăng trưởng kinh tế là sự tăng trưởng nhanh hay chậm, được phản ánh ở mức (%) tăng thêm sản lượng hàng năm hay so với năm gốc. Có thể tính theo công thức: GNP1 GNP0 GDP1 GDP0 gp = *100% Hoặc gp = *100% GNP0 GDP0 Trong đó: gp: Tốc độ tăng trưởng kinh tế GNP0: Tổng sản phẩm quốc dân năm trước (năm gốc) GNP1: Tổng sản phẩm quốc dân năm sau (năm tính tốc độ tăng trưởng) GDP0: Tổng sản phẩm quốc nội năm trước (năm gốc) GDP1: Tổng sản phẩm quốc nội năm sau (năm tính tốc độ tăng trưởng) Chú ý: GDP thực tế chứ không phải GDP danh nghĩa, tức là chúng ta không tính đến biến động của giá theo thời gian. Trong thập kỷ gần đây có thể thấy mức tăng trưởng kinh tế của các nhóm nước đạt được: các nước có nền kinh tế phát triển thường đạt khoảng 3 - 4%; các nước công nghiệp mới Châu Á khoảng từ 7 - 8%. Thước đo trên có thể không chính xác do hiện nay tốc độ dân số tăng nhanh trong khi GDP thực tế lại tăng rất chậm. Vì vậy, để có một thước đo chính xác người ta tính tốc độ tăng trưởng dựa trên GDP bình quân đầu người, được ký hiệu là Y: YY g = 1 0 *100% Y0 2.2. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 2.2.1. Tăng trưởng kinh tế trên thế giới Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới có tăng trưởng, suy thoái và theo một chu kỳ nhất định và sự tăng trưởng hay suy thoái đó diễn ra ở các quốc gia là khác nhau. Nhìn chung sự tăng trưởng hay suy thoái này tao ra khoảng cách thu nhập bình quân đầu người giữa các nước giàu và các nước nghèo là khá lớn. Để cụ thể vấn đề này ta nhìn vào (bảng 2.1), ta thấy người dân trung lưu ở những nước giàu như Mỹ, Nhật hay Đức có thu nhập cao gấp 10 lần người dân trung lưu ở Ấn độ, Inđônêsia. Mức chênh lệch lớn như vậy phản ánh mức chênh lệch lớn về chất lượng cuộc sống. Người dân ở các nước giàu có có nhiều Ôtô hơn, nhiều điện thoại, ti vi hơn chế độ dinh dưỡng tốt hơn nhà cửa sang trọng hơn, được chăm sóc y tế và có tuổi thọ cao hơn. 29
- Bảng 2.1. Sự khác biệt về tăng trưởng trên thế giới Thu nhập thực tế Thu nhập thực tế STT Tên nước Thời kỳ bq đầu người đầu bq đầu người kỳ(USD) cuối kỳ(USD) 1 Nhật Bản 1997-2010 23.400 36.952 2 Braxin 1997-2010 6.240 10.866 3 Đức 1997-2010 21.300 44.525 4 Canada 1997-2010 21.860 36.603 5 Trung Quốc 1997-2010 2.570 4.000 6 Mỹ 1997-2010 28.740 43.563 7 Inđônêsia 1997-2010 3.450 4.230 8 Ấn Độ 1997-2010 1.950 4.031 9 Anh 1997-2010 20.520 34.209 10 Pakixtan 1997-2010 1.590 1.957 (Nguồn: Viện phát triển quốc tế Harvard, 03/2011) Số liệu bình quân về thu nhập đầu người cho thấy mức sống ở các nước rất khác nhau. Thu nhập bình quân ở Mỹ gấp 11 lần thu nhập bình quân ở Trung Quốc và khoảng 23 lần ở Pakixtan. Những nước nghèo nhất có thu nhập bình quân đầu người rất thấp chỉ bằn mức của nước Mỹ vài chục năm về trước. Một người Trung Quốc trung lưu vào năm 2010 có thu nhập ngang với người Mỹ trung lưu vào năm 1890. Thu nhập thực tế của 1 người Pakixtan trung lưu vào năm 2010 chỉ bằng thu nhập thực tế của người Mỹ trung lưu 100 năm về trước. 2.2.2. Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam Sự nghiệp đổi mới kinh tế ở nước ta mà trong đó các chính sách trọng tâm là đổi mới về kinh tế đã giúp nền kinh tế nước ta vượt qua được những thử thách ban đầu để thiết lập cho giai đoạn nền móng quyết định của tiến trình công nghiệp hóa đất nước. Mặc dù mức tăng trưởng kinh tế nước ta trong những năm qua đạt mức bình quân trên 6%. Tuy nhiên do khởi điểm của nền kinh tế quá thấp nên khối lượng tăng trưởng tuyệt đối còn rất khiêm tốn (tổng GDP năm 2010 khoảng 102,2 tỷ USD), công nghiệp là nguồn tăng trưởng chủ yếu và vẫn trong tình trạng chưa vững chắc. Các ngành công nghiệp có vai trò tạo nền tảng và thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hoặc còn non yếu hoặc chưa hình thành như thép, hóa chất cơ bản những dịch vụ quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển chưa chuyển biến mạnh như giao thông vận tải, tài chính ngân hàng, khoa học kỹ thuật và đào tạo. Mặt khác nhiều năng lực sản xuất còn bị lãng phí nhiều thế mạnh chưa được phát huy đúng mức, đồng thời hiện tượng ăn sài quá mức của một bộ phận xã hội vẫn còn tiếp diễn, tệ nạn tham nhũng phá hoại tài sản công và nạn buôn lậu, trốn thuế đang còn phổ biến. Tỷ lệ thất nghiệp còn cao 9 - 12%, năng suất lao động chưa được nâng lên đáng kể, hiện tượng thất nghiệp trá hình còn phổ biến đặc biệt là khu vực nông thôn, lạm phát tuy có được kiềm chế nhưng vẫn sảy ra những cơn sốt giá kể cả đối những vật tư hàng hóa thiết yếu cho sản xuất và đời sống như: (phân bón, xi măng, đường ). 2.3. CÁC NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 2.3.1. Tư bản hiện vật Là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và 30
- tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân đầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất: đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia, sức khỏe cộng đồng, thủy lợi Công nhân làm việc với năng suất lao động cao hơn nếu họ có nhiều công cụ lao động hơn (khối lượng trang thiết bị cơ sở vật chất dùng trong quá trình sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ được gọi là tư bản hiện vật). Ví dụ: Người thợ mộc làm việc anh ta cần có cưa, đục, bào, máy tiện Việc có nhiều công cụ hơn cho phép người thợ làm việc nhanh và chính xác hơn. Nghĩa là trong vòng 1 tuần một người thợ mộc với vài dụng cụ thô sơ sẽ làm được ít đồ gỗ hơn so với người thợ mộc được trang bị công cụ tinh vi chuyên dụng cho nghề mộc. Ta biết yếu tố đầu vào để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ như lao động, tư bản được gọi là nhân tố sản xuất. Một đặc tín quan trọng của tư bản biểu thị ở chỗ nó là nhân tố sản xuất được sản xuất ra. Nghĩa là nó biểu thị ở yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất mà trước đó đã là sản lượng của quá trình sản xuất khác. Ví dụ: Người thợ mộc sử dụng máy tiện để làm chân bàn, trước đó chiếc máy tiện đã là sản phẩm của nhà sản xuất máy tiện, nhà sản xuất máy tiện lại phải sử dụng công cụ và trang thiết bị khác để làm ra máy tiện. Như vậy tư bản là yếu tố sản xuất được dùng để sản xuất ra tất cả các hàng hóa và dịch vụ trong đó có tư bản hiện vật. 2.3.2. Vốn nhân lực Vốn nhân lực là thuật ngữ dùng để chỉ kiến thức và kỹ năng mà người công nhân thu được thông qua giáo dục, đào tạo và tích lũy kinh nghiệm. Vốn nhân lực bao gồm những kiến thức kỹ năng tích lũy được từ thời kỳ đi học phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, đại học và các chương trình đào tạo nghề dành cho người lớn trong độ tuổi lao động. Mặc dù giáo dục đào tạo và kinh nghiệm không dễ cảm nhận như máy tiện, xe ủi đất hay nhà xưởng nhưng vốn nhân lực và tư bản hiện vật có nhiều điểm tương đồng. Giống như tư bản hiện vật vốn nhân lực làm tăng năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ của đất nước và nó là nhân tố được quá trình sản xuất tạo ra. Việc sản xuất ra vốn nhân lực đòi hỏi các yếu tố đầu vào dưới dạng giáo viên, thư viện và thời gian nghiên cứu. Có thể coi sinh viên như những công nhân có nhiệm vụ quan trọng là sản xuất ra vốn nhân lực nhằm phục vụ cho sản xuất trong tương lai. Chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc 31
- dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến." 2.3.3. Tài nguyên thiên nhiên Nhân tố thứ 3 quyết định đến tăng trưởng kinh tế là tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất do thiên nhiên mang lại như: đất đai, sông ngòi, khoáng sản có hai loại tài nguyên thiên nhiên đó là: tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo được và tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo. Khi một cây gỗ bị đốn người ta có thể trồng một cây mới để thu hoạch trong tương lai đó là tài nguyên được tái tạo, còn dầu mỏ là ví dụ về loại tài nguyên không được tái tạo. Sự khác biệt về nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ra sự khác biệt về mức sống trên thế giới. Sự thành công có ý nghĩa lịch sử của Mỹ bắt đầu từ cung đất đai mệnh mông thích hợp cho sản xuất nông nghiệp. Ngay nay ở một số quốc gia Trung Đông như: Cô oét và Ả rập xê út rất giàu bởi vì vô tình họ sống trên những giếng dàu lớn nhất thế giới. Mặc dù nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa quan trọng nhưng đó không nhất thiết là nguyên nhân làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao. Chẳng hạn Nhật Bản là một nước thuộc loại giàu nhất thế giới mặc dù là một nước nghèo về tài nguyên thiên nhiên, thương mại quốc tế là nguyên nhân thành công của Nhật Bản. Nhật Bản nhập khẩu nhiều loại tài nguyên thiên nhiên cần thiết như dầu mỏ và xuất khẩu hàng công nghiệp sang các nước có nhiều tài nguyên. 2.3.4. Tri thức công nghệ Nhân tố thứ tư quyết định đến tăng trưởng kinh tế là tri thức công nghệ, tức là những hiểu biết về cách thức tốt nhất để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Như chúng ta đã biết cách đây 1 thế kỷ đa số người Mỹ là nông dân bởi vì kỹ thuật trồng trọt hồi ấy đòi hỏi nhiều đầu vào lao động để làm ra lương thực cần thiết cho mọi người, ngày nay nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật trồng trọt, chỉ một phần nhỏ dân số làm trong nông nghiệp cũng đủ nuôi sống toàn bộ xã hội. Sự thay đổi về công nghệ như thế cho phép chuyển lao dộng sang các ngành sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ khác. Tri thức công nghệ có nhiều dạng, một số công nghệ là tri thức chung - nghĩa là khi một người sử dụng nó thì những người khác cũng nhận thức được nó. Ví dụ: Henry Ford áp dụng thành công cách sản xuất bằng dây truyền lắp ráp, các nhà sản xuất xe hơi khác cũng nhanh chóng áp dụng công nghệ này. - Các công nghệ khác là công nghệ độc quyền - chỉ có công ty phát minh ra nó biết. Ví dụ: Chỉ duy nhất cocacola biết công thức là lấy mật để pha chế loại nước gải khát nổi tiếng của nó. - Một số công nghệ khác mang tính độc quyền chỉ trong thời gian ngắn. Khi công ty bào chế dược phẩm phát minh ra một loại thuốc mới hệ thống bản quyền cho phép nó có quyền tạm thời là nhà sản xuất duy nhất loại thuốc đặc liệu đó. Song khi bản 32
- quyền đó hết hạn các công ty khác cũng được phép sản xuất loại thuốc đó. Tất cả các dạng tri thức công nghệ như trên đều có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế. Cần phân biệt giữa tri thức công nghệ và vốn nhân lực, mặc dù hai khái niệm này khá gần nhau nhưng chúng có một khác biệt quan trọng đó là: Tri thức công nghệ phản ánh kiến thức xã hội trong việc nhận thức thế giới vận hành ra sao, vốn nhân lực phản ánh mức độ lực lượng lao động hấp thụ và tiếp nhận nguồn tri thức trên như thế nào? Sử dụng lời nói ẩn dụ chúng ta có thể coi tri thức là cuốn sách giáo khoa xã hội, trong khi vốn nhân lực là lượng thời gian mà các thành viên xã hội bỏ ra để đọc cuốn sách đó. Năng suất của công nhân phụ thuộc cả chất lượng cuốn sách lẫn thời gian anh ta bỏ ra để đọc nó. 2.4. CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Mức sống của xã hội phụ thuộc vào khả năng sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ của nó và rằng năng suất của nó phụ thuộc vào tư bản hiện vật, vốn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và trí thức công nghệ. Bây giờ ta chuyển sang câu hỏi mà tất cả các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới đều muốn giải đáp: "Chính sách nào của chính phủ có thể làm tăng năng suất và mức sống". 2.4.1. Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư Tư bản là nhân tố được sản xuất ra cho nên xã hội có thể làm thay đổi khối lượng tư bản của mình. Nếu hôm nay đất nước sản xuất ra nhiều hàng hóa thì ngày mai nó sẽ có nhiều nguồn lực tư bản hơn và có thể sản xuất ra nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Do đó để tăng trưởng kinh tế trong tương lai thì đầu tư nguồn lực sẵn có nhiều hơn đầu tư vào quá trình sản xuất hàng đầu tư. Một trong những vấn đề của kinh tế học là con người phải đối mặt với những sự thay đổi, nguyên lý này đặc biệt quan trong khi xem xét quá trình tích lũy tư bản và nguồn lực có tính khan hiếm nên việc tập trung nhiều nguồn lực hơn vào sản xuất hàng đầu tư buộc chúng ta phải giảm bớt nguồn lực dành cho sản xuất hàng hóa và dịch vụ cho tiêu dùng hiện tại. Nghĩa là buộc xã hội phải ít tiêu dùng hơn và phải biết tiết kiệm thu nhập. Sự tăng trưởng có được từ tích lũy tư bản bao giờ cũng có giá của nó, xã hội phải hy sinh tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ hiện tại để thụ hưởng mức tiêu dùng cao hơn trong tương lai. Như vậy khuyến khích tiết kiệm và tăng đầu tư là phương pháp mà chính phủ có thể sử dụng để khuyến khích tăng trưởng và nâng cao mức sống của nền kinh tế trong dài hạn. 2.4.2. Khuyến khích đầu tư nước ngoài Chúng ta đã và đang thảo luận vấn đề làm thế nào để các chính sách hướng tới việc thúc đẩy tỷ lệ tiết kiệm có thể tăng đầu tư và do đó tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Nhưng tiết kiệm trong nước không phải là cách duy nhất để 1 nước đầu tư vào tư bản. Có một phương pháp khác là đầu tư của người nước ngoài. Có nhiều loại đầu tư nước ngoài chẳng hạn: Đầu tư nước ngoài trực tiếp, mua cổ phiếu của công ty nước ngoài, tài trợ bằng tiền nước ngoài nhưng được công ty trong nước điều hành Do vậy đầu tư từ nước ngoài không tác động như nhau lên tất cả các chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng kinh tế. Ta biết GDP là tổng thu nhập mà cả cư dân trong 33
- nước và người nước ngoài kiếm được ở nền kinh tế trong nước, trong khi đó GNP là tổng thu nhập mà cư dân của một nước kiếm được cả trong nước và nước ngoài. Dù sao đi nữa đầu tư từ nước ngoài vẫn là cách thức thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Mặc dù một phần lợi ích của khoản đầu tư này chảy ra nước ngoài, nhưng nó thực sự làm tăng khối lượng tư bản của đất nước, dẫn tới năng suất lao động và tiền lương cao hơn. Ngoài ra đầu tư nước ngoài là cách thức để các nước nghèo trực tiếp học hỏi công nghệ hiện đại của các nước giàu. Vì vậy nhiều nhà kinh tế làm tư vấn cho các nước kém phát triển đã cổ vũ chính sách "Khuyến khích đầu tư nước ngoài". Điều này cũng đồng nghĩa với việc xóa bỏ những hạn chế của chính phủ đối với quyền sở hữu tư bản trong nước của người nước ngoài. 2.4.3. Giáo dục Giáo dục có nghĩa là đầu tư vào vốn nhân lực, ít nhất nó cũng đóng vai trò như đầu tư vào tư bản hiện vật trong việc đóng góp vào sự thành công về kinh tế trong dài hạn của một nước. (Tại Mỹ một người có thêm 1 năm đến trường được hưởng mức lương trung bình cao hơn khoảng 10%, tại các nước đang phát triển nơi vốn nhân lực đặc biệt khan hiếm khoảng cách về tiền lương giữa người có học và ít học còn lớn hơn nhiều). Do đó một cách để nâng cao mức sống, cải thiện điều kiện giáo dục là khuyến khích người dân tham gia vào hệ thống này. Giống như đầu tư vào tư bản hiện vật đầu tư vào giáo dục có chi phí cơ hội cao, (Khi 1 sinh viên ngồi trên ghế nhà trường họ phải từ bỏ số tiền kiếm được nếu như họ đi làm), tại các nước kém phát triển trẻ em thường bỏ học từ khi còn nhỏ, bất chấp lợi ích to lớn của việc đến trường, đơn giản là vì chúng phải lao động để giúp bố mẹ. Một số nhà kinh tế lập luận rằng vốn nhân lực đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế vì vốn nhân lực hàm chứa những ngoại ứng tích cực (Ví dụ một người được đào tạo tốt có thể đưa ra những ý tưởng mới về việc làm thế nào để sản xuất hàng hóa và dịch vụ theo cách tốt nhất. Nếu ý tưởng ấy trở thành tri thức xã hội và được mọi người sử dụng thì chúng là những ích lợi từ ngoại ứng giáo dục). Trong trường hợp này lợi ích xã hội thậm trí còn lớn hơn rất nhiều lợi ích cá nhân. Một vấn đề mà các nước nghèo phải đối mặt là hiện tượng chảy máu chất xám - sự di cư của lực lượng lao động có trình độ cao sang các nước giàu nơi họ được hưởng cuộc sống tốt đẹp hơn. Nếu vốn nhân lực thực sự có ngoại ứng tích cực thì việc chảy máu chất xám như thế làm cho những người ở lại trong nước càng thêm nghèo khổ. 2.4.4. Kiểm soát sự ra tăng dân số Sự ra tăng dân số cũng chi phối một phần tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia, rõ ràng dân số là nhân tố them chốt quyết định lực lượng lao động của một nước. Do đó không có gì đáng ngạc nhiên khi một nước đông dân như Nhật hoặc Mỹ có xu hướng tạo ra GDP lớn hơn nước ít dân như Hà Lan. Tuy nhiên quy mô GDP không phải là chỉ tiêu tốt nhất để phản ánh phúc lợi kinh tế. Bởi vì các nhà hoạch định chính sách quan tâm tới mức sống, nên GDP bình quân đầu người mới là quan trọng. Sự ra tăng dân số tác động đến GDP bình quân đầu người như thế nào? các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế dự báo rằng mức tăng dân số cao làm giảm GDP bình quân đầu người. Lý do là sự ra tăng nhanh chóng của lực lượng lao động làm phân tán các nhân tố sản xuất khác. Đặc biệt khi dân số tăng cao việc trang bị máy móc cho mỗi 34
- công nhân trở nên khó khăn hơn, tỷ lệ tư bản trên mỗi công nhân giảm làm GDP bình quân đầu người giảm. Sự khác biệt về tốc độ tăng dân số trên thế giới rất lớn, ở các nước phát triển như Mỹ, Tây Âu dân số tăng khoảng 1% và dự kiến còn tăng chậm hơn trong tương lai. Trái lại ở các nước nghèo khổ như Châu Phi dân số tăng với tốc độ 3% mỗi năm, với tốc độ tăng như vậy cứ 23 năm dân số của họ lại tăng gấp đôi. Cắt giảm tốc độ tăng dân số thường được coi là một phương thức làm tăng mức sống ở các nước kém phát triển, tại một số nước mục tiêu này được gắn với luật hạn chế sinh đẻ. TÓM TẮT CHƯƠNG - Tăng trưởng kinh tế là phần trăm gia tăng hàng năm của GNP thực tế hay GNP thực tế đầu người trong dài hạn. Đây là một thước đo không hoàn hảo về tốc độ tăng phúc lợi kinh tế. - Tỷ lệ tăng trưởng mạnh của GNP trên đầu người chỉ xảy ra trong hai thế kỷ qua tại các quốc gia phát triển. Tại các nước khác, tăng trưởng liên tục chỉ là hiện tượng mới xuất hiện gần đây. - Một lượng cung đầu vào sản xuất cố định, ví dụ như nguyên liệu, không nhất thiết tạo ra tăng trưởng trong dài hạn. Khi đầu vào trở nên khan hiếm, giá của nó sẽ tăng. Điều này khiến các nhà sản xuất sẽ chuyển sang các đầu vào khác thay thế, nó làm tăng động cơ tìm tòi ra những nguồn cung mới và thúc đẩy các phát minh, sử dụng tiết kiệm nguồn lực này. - Tiến bộ công nghệ tăng thêm lao động cho phép tạo ra sự tăng trưởng dài hạn về năng suất lao động và làm cho lý thuyết tăng trưởng giản đơn phù hợp với nhiều trường hợp trong thực tế. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Nêu khái niệm về tăng trưởng kinh tế. GDP của một nước phản ánh điều gì? Tỷ lệ tăng trưởng GDP/người phản ánh điều gì? 2. Các nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế, nhân tố nào là quan trọng nhất? Theo bạn trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay cần có những biện pháp nào để thúc đẩy tăng trưởng. 3. GDP thực tế của Việt Nam năm 2009 là 90 tỷ USD và năm 2010 là 112 tỷ USD. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế năm 2010 so với năm 2009 của Việt Nam bằng bao nhiêu? Dân số Việt Nam năm 2009 là 85,6 triệu người, năm 2010 là 86,2 triệu người, tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người của Việt Nam năm 2010 so với năm 2009 bằng bao nhiêu? 4. Vào năm 2003 GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương của Việt Nam là 2.490 USD và của Hàn Quốc là 17.971 USD. Giả sử nếu tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam là 7,2%/ năm, thì Việt Nam phải mất bao nhiêu lâu để có GDP bình quân đầu người bằng: a) Một nửa GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc? b) Hai phần ba GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc? c) Bằng GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc? 35
- 5. Cho biết GDP danh nghĩa năm 2005 là 4.000, năm 2006 là 3.800, năm 2010 là 4.080 (đơn vị tính 1.000 USD). Chỉ số điều chỉnh GDP so với năm 2000 là 200% vào năm 2005, 250% vào năm 2006 và 140% vào năm 2010. a) Tính tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2006 và năm 2010 so với năm 2000. b) Tính tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2006 – 2010. c) Dùng GDP danh nghĩa tính GDP bình quân đầu người biết rằng dân số năm 2005 là 1500 người, năm 2006 là 1620 người và năm 2010 là 1750 người. Bạn có kết luận gì về mức sống của người dân ở năm 2010 so với năm 2006. 36
- CHƯƠNG III TIẾT KIỆM, ĐẦU TƯ VÀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG Chương này giúp người đọc khái quát được hệ thống tài chính bao gồm những bộ phận nào, phương thức hoạt động của hệ thống tài chính nhằm chuyển tiết kiệm của người này cho đầu tư của người khác. Mô hình thị trường vốn vay cho một nền kinh tế đóng trong dài hạn sẽ được phát triển. Đồng thời thông qua mô hình này chúng ta có thể phân tích tác động của chính sách của chính phủ đến lãi suất, tiết kiệm và đầu tư. NÔI DUNG 3.1. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH 3.1.1. Trung gian tài chính Các trung gian tài chính đóng vai trò trung gian giữa người tiết kiệm và người đi vay. Trung gian tài chính có thể bao gồm các tổ chức nhận tiền gửi: - Các ngân hàng, các tổ chức tín dụng - Các công ty bảo hiểm - Các công ty đầu tư, quỹ đầu tư, quỹ tương hỗ (hộ trợ phụ nữ nghèo vượt khó), quỹ hưu trí Ngân hàng: với tư cách là trung gian tài chính, có nhiệm vụ cơ bản là nhận tiền gửi và sử dụng những khoản này để cho người cần vốn vay. Các ngân hàng sẽ trả lãi suất cho người gửi tiền và tính lãi suất cao hơn đối với khách hàng vay tiền. Khoản chênh lệch giữa hai mức lãi suất này được sử dụng một phần để bù đắp chi phí hoạt động của ngân hàng, phần còn lại là lợi nhuận. Ngoài ra ngân hàng còn có nhiệm vụ khác biệt với các trung gian tài chính khác đó là cung cấp dịch vụ thành toán bằng séc, bằng mạng lưới thanh toán điện tử. 3.1.2. Thị trường tài chính Thị trường tài chính là nơi các tài sản chính được mua bán và trao đổi. Thông qua thị trường tài chính người có tiết kiệm có thể “trực tiếp” cung cấp vốn cho người muốn vay. Phân loại thị trường tài chính: * Theo thời điểm các tài sản chính được đưa ra thị trường: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. - Thị trường sơ cấp là nơi giao dịch trái phiếu mới phát hành lần đầu: Ví dụ: Cán nộ công nhân viên chức trường Đại học Vinh mua trái phiếu giáo dục của Chính phủ Việt Nam. - Thị trường thứ cấp: là nơi diễn ra sự mua bán các trái phiếu đã phát hành. Giá cả mua bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp có thể cao hơn hay thấp hơn mệnh giá trái phiếu. Khi giá trái phiếu giảm, lãi suất thu được từ trái phiếu sẽ tăng và ngược lại. Ví dụ: Anh A (là cán bộ của trường Đại học Vinh) sau khi mua trái phiếu của Chính phủ anh A bán lại cho Ngân hàng hoặc người khác. * Theo cách thức huy động vốn: Thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu a) Thị trường trái phiếu (thị trường nợ) 37
- Để huy động vốn cho hoạt động kinh doanh hay bù đắp thâm hụt ngân sách, đầu tư công cộng, các công ty hoặc chính phủ có thể vay trực tiếp từ công chúng bằng cách phát hành trái phiếu. Theo chủ thể phát hành, có 2 loại trái phiếu là trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Khái niệm: Trái phiếu là một chứng từ vay nợ quy định nghĩa vụ của ngtười đi vay (người phát hành trái phiếu) phải trả cho người nắm giữ một khoản tiền nhất định trong khoảng thời gian cụ thể và phải hoàn trả cho vay ban đầu khi đến hạn. Trái phiếu là chứng chỉ ghi nợ có 3 đặc điểm sau: - Mệnh giá: là khoản tiền vay ban đầu - Ngày đáo hạn: ngày người đi vay phải hoàn trả khoản nợ ban đầu - Lãi suất mà người đi vay phải trả thường kỳ b) Thị trường cổ phiếu Cổ phiếu là một chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập và tài sản của công ty. Cổ phiếu là một chứng khoán vốn còn trái phiếu là một chứng khoán nợ, người nắm giữ cổ phiếu của một công ty gọi là cổ đông và trở thành một trong những chủ sở hữu công ty và được hưởng các quyền lợi của công ty với mức độ tương ứng với tỷ lệ cổ phần mà họ nắm giữ. Đặc trưng của cổ phiếu: - Trên cổ phiếu ghi mệnh giá cổ phiếu, có thể ghi tên hoặc không ghi tên quyền sở hữu. - Không có thời hạn - Có quyền tham gia đóng góp ý kiến qua đại hội cổ đông - Cổ tức không ổn định được chia theo tỷ lệ căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Sự giao dịch của trái phiếu và cổ phiếu (gọi chung là chứng khoán) trên thị trường hình thành nên thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra hoạt động mua bán các giấy tờ có giá. 3.2. THỊ TRƯỜNG VỐN VAY 3.2.1. Tiết kiệm và đầu tư Đầu tư là việc dùng tiền đề mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tư bản. Ngoài ra nó còn là khoản tiền mua cổ phiếu cổ phần hoặc gửi tiết kiệm tại các ngân hàng, nhằm mục đích sinh lời. Kinh tế vĩ mô: chỉ có hoạt động mua máy móc được gọi là hoạt động đầu tư. - Tiết kiệm: là phần thu nhập còn lại sau khi đã chi cho tiêu dùng, còn đầu tư là hoạt động mua tư bản hiện vật như máy móc, xây dựng nhà xưởng nhằm thay thế một phần tài sản đã hao mòn và để nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy, xây nhà ở mới làm tăng đầu tư quốc gia, bỏ tiền ra mua chứng khoán gọi là tiết kiệm, nhưng dưới dạng khác. Trong thực tế nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp được tài trợ từ tiết kiệm. Nguồn tài trợ chính cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp là: Thứ nhất, lợi nhuận để lại của chính doanh nghiệp khi không chia cho các cổ đông, đây là phần đáng lẽ nằm trong thu nhập của hộ gia đình nhưng gia đình không 38
- dùng để tiêu dùng nên gọi là tiết kiệm, nên đầu tư từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp được coi là tài trợ từ tiết kiệm. Thứ hai, từ phát hành cổ phiếu được các hộ gia đình mua từ khoản tiết kiệm của mình. Thứ ba, vay gián tiếp từ khoản tiết kiệm của công chúng thông qua các trung gian tài chính, hoặc trực tiếp bằng cách phát hành trái phiếu. Do GDP là tổng sản phẩm quốc nội, đồng thời cũng là tổng thu nhập trong nền kinh tế và cũng là tổng chi tiêu hàng hoá và dịch vụ. Nên nếu ký hiệu tổng thu nhập là Y ta có đồng nhất thức: Y = C + I + G + NX Chúng ta xét nền kinh tế đóng nên NX = 0 * Khi không có chính phủ nên G = 0, do vậy: Y = C + I Trừ cả hai vế của phương trình trên cho C ta có: Y – C = I SP = I SP là tiết kiệm của cá hộ gia đình, do không có chính phủ nên SG = 0, hay tiết kiệm gia đình cũng đúng bằng tiết kiệm quốc dân. Ta có: S = I Như vậy, trong nền kinh tế đóng đầu tư của các doanh nghiệp được tài trợ hoàn toàn từ nguồn tiết kiệm của các hộ gia đình. * Trong nền kinh tế đóng, có sự tham gia của chính phủ Y = C + I + G Nguồn thu của chính phủ chủ yếu từ thuế (có nhiều loại): T Chi tiêu của chính phủ: bao gồm chi mua hàng hoá và dịch vụ (G), trợ cấp cho công chúng, là khoản chuyển giao thu nhập từ chính phủ sang dân chúng nên (TR = 0), nếu TR 0 thì thuế được xem là thuế ròng, tức là sau khi đã trừ đi khoản trợ cấp. Nên (T – G) = SG , tiết kiệm của chính phủ Từ Y = C + I + G, trừ cả hai vế của đẳng thức cho C và G ta có: Y – C – G = I Cộng T và trừ T ở vế trái ta có: (Y – T – C) + (T – G) = I trong đó (Y – T – C) là tiết kiệm tư nhân, ký hiệu là: SP (T – G) là tiết kiệm chính phủ, ký hiệu là SG Ta có: SP + SG = I S = I, trong đó S là tiết kiệm quốc dân (tổng tiết kiệm của nền kinh tế), S = SP + SG Trong nền kinh tế có chính phủ thì đầu tư của các doanh nghiệp đúng bằng tiết kiệm quốc dân (bao gồm tiết kiệm khu vực tư nhân/các hộ gia đình và tiết kiệm của chính phủ) Kết luận: Tổng đầu tư của các doanh nghiệp trong nền kinh tế hoàn toàn được tài trợ từ tổng tiết kiệm quốc dân, (S = I). 3.2.2. Thị trường vốn vay Khái niệm: Là thị trường ở đó có sự tương tác giữa người đi vay và người cho vay thông qua lãi suất. Lãi suất danh nghĩa là tỷ lệ mà người cho vay nhận được (người đi vay phải trả) khi cho vay một lượng tiền nào đó. Các lãi suất được ngân hàng niêm yết là lãi suất danh nghĩa. 39
- Ví dụ: Ngân hàng thông báo trả lãi suất 8%/năm đối với tiền gửi tiết kiệm có nghĩa, khi một người cho ngân hàng vay 100.000đ vào đầu năm 2010 thì họ sẽ nhận được tiền lãi là 8.000 đồng vào đầu năm 2011. Lãi suất thực tế đo mức độ gia tăng sức mua của người cho vay được hưởng từ khoản tiền cho vay. Khi có lạm phát, lãi suất thực tế nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa nhưng khi không có lạm phát lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa. Do ir = in – gP Câu hỏi: Giả sử rằng một người đi vay và một người cho vay nhất trí với nhau về mức lãi suất danh nghĩa phải trả đối với khoản vay. Sau đó lạm phát bất ngờ tăng cao hơn mức mà cả hai người ban đầu dự kiến. 1. Mức lãi suất thực tế của khoản vay này là cao hay thấp hơn so với dự kiến? 2. Người cho vay được lợi hay bị thiệt do mức lạm phát cao không dự kiến trước này, người đi vay được lợi hay bị thiệt? a. Cung về vốn vay (S) Như đã trình bày ở trên, cung về vốn vay cho đầu tư xuất phát từ nguồn tiết kiệm; S = I S là cung vốn vay I cầu vốn vay Cung về vốn vay bao gồm: - Tiết kiệm của cá nhân (SP) - Tiết kiệm của chính phủ (SG) n SSS PG Đường cung vốn vay (S): Cung vốn vay phụ thuộc vào lãi suất thực tế, hy sinh một đơn vị tiêu dùng hiện tại dành tiết kiệm sẽ làm tăng sức mua cho tiêu dùng trong tương lai và ngược lại. Như vậy, lãi suất thực tế tăng sẽ làm cho lượng tiết kiệm tăng, tức là lượng cung vốn vay tăng. Điều này cho thấy đường cung về vốn vay là đường dốc lên S r E r 0 D 0 Q0 Lượng vốn vay, Q 40
- b. Cầu về vốn vay (D) Lãi suất thực tế là chi phí hay giá cả của vốn vay, do vậy khi lãi suất thực tế tăng, chi phí biên của vốn sẽ tăng, lợi nhuận biên giảm. Nếu giảm tới mức lợi nhuận biên của một đơn vị đầu tư mới không đủ bù đắp được khoản chi phí của vốn vay thì doanh nghiệp sẽ không vay vốn đầu tư nữa. Vì vậy khi lãi suất thực tế giảm, lượng cầu về đầu tư (cầu về vốn vay) tăng lên và ngược lại. Đường cầu về vốn vốn vay (D): Với giả thiết đầu tư được tài trợ từ vốn vay nên đường cầu về đầu tư cũng là đường cầu về vốn vay, là đường dốc xuống phía phải, E là điểm cân bằng, đầu tư bằng tiết kiệm. 3.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung và cầu về vốn vay Lượng cung và cầu vốn vay trên thị trường phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau: - Chính sách của chính phủ: việc thực thi các dự án - Niềm tin hay kỳ vọng của các nhà đầu tư về khả năng sản xuất kinh doanh; khi các nhà đầu tư lạc qua vào triển vọng kinh doanh, họ sẵn sàng đầu tư nhiều hơn ở mức lãi suất đã cho, D dịch chuyển sang phải. - Tỷ lệ dành cho tiết kiệm trong tổng thu nhập của các hộ gia đình; Nếu họ dành phần nhiều cho tiết kiệm tại mỗi mức lãi suất thì cung về vốn vay tăng, đường cung vốn vay sẽ dịch chuyển sang phải. 3.3. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIẾT KIỆM ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ Do YD = Y – T mà SP = YD – C Khi YD tăng thì S, C tăng và ngược lại khi YD giảm thì S, C giảm. 3.3.1. Tác động của chính sách khuyến khích tiết kiệm - Cơ chế: Khi T tăng, YD giảm, SP giảm và ngược lại khi T giảm, YD tăng, SP tăng. - Hình thức để khuyến khích tiết kiệm đó có thể là: chính sách của chính phủ, các cơ quan quản lý tiền tệ. Ví dụ: Ngân hàng thương mại đưa ra các chính sách nhằm thu hút tiết kiệm từ công chúng như các chương trình khuyến khích tiết kiệm từ công chúng như các chương trình tiết kiệm có dự thưởng, những phần thưởng khá hấp dẫn (không phải bằng lãi suất) chính sách này làm tăng động cơ tiết kiệm. Kết quả là cùng với mức lãi suất, lượng tiết kiệm tăng làm cho lượng cung vốn vay dịch chuyển sang phải. - Tác động: tăng (giảm) động cơ tiết kiệm - Kết quả: Cùng với mức lãi suất như cũ, lượng tiền tiết kiệm tăng (giảm) làm cho đường cung về vốn vay dịch chuyển sang phải (sang trái) Trong các nước phát triển, tiền lãi từ tiết kiệm thường bị đánh thuế, nên có thể tác động làm thay đổi tiết kiệm quốc dân: Khi chính phủ tăng thuế, sức mua trong tương lai của người gửi tiết kiệm giảm đi, các hộ gia đình có xu hướng tiết kiệm ít đi n (SP giảm), tiết kiệm quốc dân giảm (S giảm). Hình vẽ dưới 41