Bài giảng Đại cương về khoa học quản lý

pdf 86 trang ngocly 3080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Đại cương về khoa học quản lý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_dai_cuong_ve_khoa_hoc_quan_ly.pdf

Nội dung text: Bài giảng Đại cương về khoa học quản lý

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH TS HỒ VĂN LIÊN BÀI GIẢNG ĐẠI CƯƠNG VỀ KHOA HỌC QUẢN LÝ (LƯU HÀNH NỘI BỘ) TP.HCM-2010
  2. Đại cương về khoa học quản lý Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA KHOA HỌC QUẢN LÝ 1.1.VẬN DỤNG LÍ THUYẾT HỆ THỐNG TRONG KHOA HỌC QUẢN LÍ Từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, lý thuyết hệ thống đã trở thành cơ sở quan trong cho việc nghiên cứu khoa học quản lý (QL). Lý thuyết hệ thống được xem xét với nhiều cách tiếp cận: Toán học, Sinh học, Ngôn ngữ học, Triết học Sau đây là cách tiếp cận Triết học để nghiên cứu khoa học quản lý. 1.1.1. Vấn đề Mâu thuẫn được con người ý thức, có nhu cầu giải quyết và có thể giải quyết được là vấn đề. Muốn quản lý thành công cần nghiên cứu và phát hiện vấn đề. Xem xét vấn đề nên quan tâm đến các lưu ý sau: -Phát hiện mâu thuẫn và ý thức được mâu thuẫn, -Việc giải quyết mâu thuẫn là vừa sức với khả năng và điều kiện thực tế, -Vấn đề xuất hiện khách quan chứ không phải hoàn toàn theo ý muốn chủ quan của con người. 1.1.2.Hệ thống là tập hợp của nhiều phần tử có những đặc điểm giống nhau, quan hệ với nhau, bị chi phối theo một quy tắc nào đó để trở thành một chỉnh thể, từ đó làm nên những thuộc tính mới của hệ thống và có cùng xu hướng vận động. Các phần tử là các yếu tố có tính độc lập tương đối và quan hệ mật thiết với nhau tạo nên hệ thống. Ví dụ: Hệ thống giáo dục bao gồm nhiều bậc học, cấp học, nhiều đơn vị giáo dục (trường học, các cơ sở giáo dục ) có quan hệ với nhau; được phân chia theo tầng bậc với cơ cấu tổ chức hợp lý. 1.1.3.Môi trường của hệ thống là tập hợp của nhiều hệ thống tạo nên hoàn cảnh, điều kiện cho sự vận động của một hệ thống nhất định. Trong quá trình vận động của một hệ thống nào đó chịu sự chi phối của các hệ thống khác và bản thân hệ thống đó cũng ảnh hưởng, tương tác với các hệ thống khác (bị môi trường tác động hay tác động đến môi trường). Một trường học muốn hoạt động tốt cần gắn kết với môi trường kinh tế-xã hội, khoa học-công nghệ (KT-XH, KH-CN), phải tăng cường các mối quan hệ để thích ứng hay đáp ứng được các yêu cầu tất yếu cho sự phát triển của người học. 1.1.4.Đầu vào của hệ thống là các loại tác động có thể có từ môi trường lên hệ thống. Hệ thống giáo dục có các đầu vào như: -Yêu cầu, nhu cầu giáo dục và đào tạo xuất hiện do sự phát triển của môi trường KT- XH, KH-CN ( thể hiện ở việc tuyển sinh ), -Các nguồn tài lực, vật lực và nhân lực, -Thị trường sử dụng kết quả GD-ĐT, -Thông tin, thời cơ và các lực cản 1.1.5.Đầu ra của hệ thống là các phản ứng trở lại của hệ thống đối với môi trường. Đối với hệ thống giáo dục đầu ra bao gồm: -Mở rộng hay thu hẹp việc tuyển sinh, -Tái sản xuất nguồn nhân lực, cung cấp nhân lực, nhân tài, 2
  3. Đại cương về khoa học quản lý -Sử dụng các nguồn lực, -Yêu cầu đầu tư các nguồn lực, -Bảo vệ và xây dựng, phát triển môi trường KT-XH, KH-CN, - Nâng cao dân trí và phát triển văn hóa, đạo đức 1.1.6.Trạng thái của hệ thống là khả năng kết hợp giữa các đầu vào và đầu ra của hệ thống xét ở một thời điểm nhất định (điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các nguồn lực, thành công và hạn chế ); ở thời điểm hiện tại được gọi là thực trạng; trạng thái tương lai phản ánh mục tiêu của hệ thống (là trạng thái mong đợi cần có của hệ thống sau một thời gian nhất định). TRẠNG THÁI THỰC TƯƠNG LAI TRẠNG TRẠNG (trạng thái THÁI hiện tại) BAN ĐẦU 1.7.Quỹ đạo của hệ thống là chuỗi các trạng thái nối hệ thống từ trạng thái đầu đến trạng thái cuối trong một khoảng thời gian nhất định. Sự vận động của hệ thống theo thời gian được chúng ta nhận thức, pht hiện theo một trật tự nhất định (lô gíc vận động) 1.8.Nhiễu của hệ thống là các tác động, ảnh hưởng bất lợi từ môi trường hoặc các rối loạn trong nội bộ hệ thống làm lệch quỹ đạo hoặc làm chậm sự phát triển của hệ thống. 1.9.Chức năng của hệ thống là các nhiệm vụ, công việc đặc thù mà hệ thống phải thực hiện đảm bảo hệ thống tồn tại và phát triển, phân biệt được hệ thống này với các hệ thống khác. 1.10.Tiêu chuẩn của hệ thống là những yêu cầu, chuẩn mực nhằm xác định mức độ tồn tại và phát triển của hệ thống như: trường đạt chuẩn, vượt chuẩn, chất lượng giáo dục cao hay thấp. 1.11.Cơ cấu của hệ thống là hình thức tồn tại của hệ thống phản ánh cấu tạo (cấu trúc) bên trong của hệ thống; bao gồm sự sắp xếp trật tự của các bộ phận, các phần tử, vị trí vai trò của các phần tử, bộ phận, mối quan hệ giữa chúng theo trạng thái vốn có của hệ thống. Từ quan niệm trên về cơ cấu của hệ thống ta lưu ý các điểm sau: -Cơ cấu như một bất biến tương đối của hệ thống; sẽ tạo nên một trật tự bên trong của hệ thống với vị trí, vai trò của các bộ phận làm nên tổ chức của hệ thống, tạo nên một chỉnh thể thống nhất, ổn định. 3
  4. Đại cương về khoa học quản lý -Cơ cấu có sự biến đổi nhất định, tạo ra động năng của hệ thống. Xuất phát tự sự thay đổi của môi trường, của các mối quan hệ bên trong và bên ngoài hệ thống; các bộ phận, phần tử không thể bó hẹp trong khuôn khổ cũ và sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ cấu của hệ thống; làm cho hệ thống biến đổi sang trang thái khác về chất hoặc trở thành một hệ thống mới. -Một hệ thống có nhiều cách cấu trúc, mỗi cách cấu trúc tạo cho hệ thống một thế vận động nhất định; nếu có được cấu trúc tối ưu thì sẽ tạo ra khả năng vận động tối ưu của hệ thống. - Xác định đúng trạng thái (quá khứ, hiện tại và tương lai) của hệ thống và tiềm năng thì có thể thay đổi cấu trúc của hệ thống nhằm tạo ra sự phát triển tối ưu cho hệ thống. 1.1.12.Hệ thống giáo dục là một hệ điều khiển: hệ thoả mãn có chủ thể tác động, điều khiển và đối tượng bị tác động, bị điều khiển; hệ hoạt động có chủ đích với sự ràng buộc ở nhiều tầng bậc. Cơ chế điều khiển hệ thống có mối quan hệ biện chứng với mục tiêu và cơ cấu của hệ thống. Nếu cơ chế điều khiển hợp lý nhưng cơ cấu không phù hợp thì việc điều khiển sẽ khó khăn và ngược lại. Cơ chế điều khiển bao gồm: -Xác định mục tiêu, hoạch định chiến lược phát triển; -Thu thập, xử lý thông tin để ra quyết định cho từng giai đoạn; -Tổ chức các mối liên hệ ngược qua thông tin phản hồi; -Thực hiện việc điều chỉnh. 1.2. CÁC HỌC THUYẾT QUẢN LÝ Học thuyết quản lý là hệ thống những tư tưởng, quan niệm, khái niệm, quy luật, nguyên tắc về các hoạt động quản lý được hình thành trong quá trình phát triển của xã hội. Hoạt động quản lý cùng tuổi với văn minh nhân loại nhưng khoa học quản lý là một ngành khoa học còn mới mẻ và đang được rất nhiều người quan tâm. Ngày nay chúng ta có được một di sản đồ sộ, phong phú về học thuyết quản lý và việc nghiên cứu chúng là cần thiết cho các nhà quản lý. Lịch sử phát triển của nhân loại đã cho chúng ta thấy những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý. Người Sumerian, thời nguyên thủy (vùng Iraq hiện nay) đã hoàn thiện một hệ thống phức tạp những quy trình thương mại với hệ thống cân đong, đo đếm; người Ai Cập thành lập nhà nước vào khoảng 3000 năm trước công nguyên và những Kim tự tháp là dấu tích về trình độ tổ chức, điều hành và kiểm soát những công trình phức tạp; người Trung Hoa cũng có những định chế chính quyền nhà nước chặt chẽ và những công trình vĩ đại như Vạn lý trường thành thể hiện một trình độ tổ chức cao. Ở Châu Âu, những kỹ thuật và phương pháp quản lý bắt đầu được áp dụng trong kinh doanh từ thế kỷ XVI, khi hoạt động thương mại đã phát triển mạnh. Còn trước đó, lý thuyết quản lý chưa được phát triển vì công việc sản xuất - kinh doanh chỉ đóng khung trong phạm vi gia đình. 4
  5. Đại cương về khoa học quản lý Đến cuối thế kỷ XVIII, cuộc các mạng công nghiệp với sự ứng dụng của máy móc cơ khí đã chuyển sản xuất từ phạm vi gia đình sang nhà máy. Đây là những hình thức tổ chức sản xuất khác hẳn với tổ chức sản xuất trong gia đình. Quy mô và độ phức tạp gia tăng, việc nghiên cứu quản lý bắt đầu trở nên cấp bách. Nhưng sự chú ý cũng chỉ tập trung vào khía cạnh kỹ thuật của sản xuất hơn là vào nội dung của hoạt động quản lý. Đến thế kỷ XIX, mối quan tâm đến các hoạt động quản lý của những người trực tiếp quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh và của những nhà khoa học mới thật sự sôi nổi. Federick W.Taylor (1856 - 1915) với tư tưởng quản lý khoa học của mình đã đặt nền móng cho khoa học quản lý hiện đại. Thời kỳ này, sự quan tâm vẫn tập trung nhiều đến các khía cạnh kỹ thuật của sản xuất nhưng đồng thời cũng đã chú ý đến khía cạnh xã hội trong quản lý. Như Robert Owen đã tìm cách cải thiện điều kiện làm việc và điều kiện sống của công nhân. Xét về phương diện quản lý, việc làm của Owen đã đặt nền móng cho cho các công trình nghiên cứu quản lý về mối quan hệ giữa điều kiện lao động với kết quả của xí nghiệp. Những nỗ lực nghiên cứu về khoa học quản lý đã được tiến hành rộng khắp và từ đó đến nay các lý thuyết quản lý đã được phát triển nhanh chóng, góp phần tích cực cho sự phát triển kỳ diệu của xã hội loài người trong thế kỷ XXI và hiện nay. 1.2.1. CÁC TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ TRUNG HOA THỜI CỔ ĐẠI Thời cổ đại, nhiều triết gia của Trung Hoa đã có những đóng góp đáng kể vào tư tưởng quản lý mà cho tới nay các tư tưởng đó vẫn còn đậm nét trong phong cách quản lý của nhiều nước Châu Á, được nhiều học giả Phương Tây đánh giá cao. Sau đây là hai trường phái tư tưởng tiêu biểu. 1.2.1.1. Tư tưởng ”đức trị” của Nho giáo Kể từ Khổng Tử (ông Tổ của Nho giáo) đến Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, Chu Hy và các nhà nho về sau đã bàn nhiều đến “đức trị” trong quản lý. Tư tưởng quản lý của Nho giáo thể hiện ở quan niệm về Đạo và Đức với Tam cương (quan hệ Vua-Tôi, Cha-Con, Chồng-Vợ), Ngũ thường (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín) mà trung tâm là đức Nhân. Theo Nho giáo, Nhân là biết yêu thương người khác, biết giúp đỡ người khác thành công như mình. Dưới góc độ quản lý, "Nhân" trở thành nguyên tắc cơ bản, quy định hoạt động của chủ thể quản lý. Trong quan hệ với chính mình và quan hệ với đối tượng quản lý. Trong Ngũ thường thì Nhân là yếu tố quan trọng nhất, quy định, chi phối, ảnh hưởng đến các yếu tố khác. Tư tưởng về Nhân được Nho giáo gắn liền với Đạo (quy luật của Trời Đất) và trở thành quy luật chung cho xã hội loài người (người quân tử học đạo để thương người và trị người, kẻ tiểu nhân học đạo để dễ sai khiến). Lễ là hình thức của Nhân, "Khắc kỷ phục Lễ vi Nhân" tức là ép mình theo Lễ là Nhân. "Ra cửa phải như tiếp khách quý, trị dân phải như làm lễ lớn, điều gì mình không muốn làm cho mình thì không nên làm cho ai". Thiếu Nhân thì Lễ chỉ là hình thức, giả dối "Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì". 5
  6. Đại cương về khoa học quản lý Nghĩa là thấy việc gì đáng làm là làm, không mưu tính lợi ích cá nhân. Nghĩa gắn liền với Nhân. Theo Nho giáo, “cách ứng xử của người quân tử không nhất định là như thế này mới được, cũng không nhất định là như thế kia thì không được, cứ hợp nghĩa thì làm, làm hết mình không thành thì thôi". Trí là biết người, có hiểu biết sáng suốt mới biết cách giúp người mà không hại cho người và cho mình. Người Nhân mà không có Trí dễ bị người khác lợi dụng lòng tốt. Dũng là kiên cường, quả cảm, dám hy sinh bản thân mình vì nghĩa lớn, dám vượt qua khó khăn để đạt được mục đích. Dũng là biểu hiện và là một bộ phận của Nhân. "nhân giả tất hưng dũng" tức là ngườì Nhân ắt có dũng, nhưng người dũng chưa chắc đã có nhân. "Hữu dũng vô nhân" là nguyên nhân của loạn. Theo Nho giáo, Nhân - Trí - Dũng là phẩm chất cơ bản của người quân tử và cũng là tiêu chuẩn cơ bản của nhà quản lý. Đặc biệt, Các nhà Nho bàn nhiều về Lợi: "Người quân tử hiểu rõ về Nghĩa, kẻ tiểu nhân hiểu rõ về Lợi"; "Giàu sang là điều ai cũng muốn, nhưng nếu được giàu sang mà trái đạo lý thì người quân tử không thèm; nghèo hèn là điều ai cũng ghét, nhưng nếu sự nghèo hèn mà không trái đạo lý thì người quân tử cũng không bỏ". Nho giáo không coi việc làm giàu, tính toán lợi ích kinh tế là xấu, thậm chí ông còn đánh giá cao những ngươi biết cách làm giàu đúng lễ, nghĩa và coi thường kẻ giàu bất nhân. Khổng Tử khuyên các nhà quản lý - cai trị không nên chỉ dựa vào lợi: "Nương tựa vào điều lợi mà làm là sinh ra điều oán". Nhà quản lý phải nghiêm khắc với mình, rộng lựơng với người, không ỷ chức quyền mà tranh lợi với cấp dưới, có như thế xã hội mới có cái lợi lâu dài như: chính trị - xã hội ổn định, kinh tế thịnh vượng, tinh thần tốt đẹp. Nhà quản lý phải "Khắc phục tư dục", không nên cầu lợi cho bản thân, mà chuyên vào công việc thì "bổng lộc tự khắc đến". Theo Khổng Tử: "tiên phú hậu giáo", tức là trước hết làm cho dân giàu, sau đó là giáo dục họ. Khổng Tử nhìn nhận mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các tầng lớp xã hội bằng con mắt của nhà cai trị nhân đức và cố gắng điều hòa mâu thuẫn này, duy trì ổn định xã hội bằng Đức Nhân. Theo ông, cái gốc của thời loạn là người nghèo chưa đựơc giáo hóa: "Ham sức mạnh mà không yên phận nghèo thì sẽ loạn, người bất mãn mà bị ghét thái quá sẽ sinh loạn". Đức Nhân là phương thuốc mà Khổng Tử dùng để trị loạn cho xã hội bằng cách giáo hóa cho mọi người, cả người cai trị lẫn người bị cai trị, mong con người ngày càng trở nên hoàn thiện. Tư tưởng của Khổng Tử về quản lý xã hội là: "ổn định, kỷ cương và phát triển", trái ngược với nhiều học thuyết duy lợi, thực dụng của nền kinh tế hiện đại đang thể hiện ở một số người hiện nay. Sự phát triển về kinh tế những năm qua của mấy "con rồng Châu Á" như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái lan, Singapore có nhiều nguyên nhân, nhưng có nét chung là sự vận dụng tư tưởng "phi kinh tế", coi trọng tính nhân bản của Khổng Tử vào quản lý, kinh doanh. Và điều đó đã làm nên nét đặc thù của "Chủ nghĩa tư bản Khổng giáo", văn hóa quản lý Khổng giáo tại các nước này. Nho giáo chia thiên hạ thành hai loại: quân tử và tiểu nhân. Quân tử là người hiểu biết, là kẻ sĩ. Người quân tử biết tu thân, tề gia thì có thể trị quốc, bình thiên hạ, có 6
  7. Đại cương về khoa học quản lý thể là người cai trị - quản lý, giáo hóa người khác và người quân tử phải do tu luyện về đạo đức, trí năng mà thành. Có thể nhận thấy, mặc dù còn một số hạn chế như tính bảo thủ, mơ hồ, ảo tưởng, nhưng tư tưởng quản lý theo đức trị của Nho giáo vẫn là một trào lưu tư tưởng chính của Trung Hoa cổ đại, phù hợp với điều kiện xã hội lúc bấy giờ, được lưu truyền lại cho các thế hệ sau và có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và phong cách quản lý hiện đại, nhất là ở phương Đông. 1.2.1.2. Tư tưởng pháp trị ( Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và Hàn Phi Tử) đề cao pháp luật, sử dụng các biện pháp cứng rắn với các hình phạt; đề cao: “luật, hình, lệnh, chính”; thống nhất “thế “, “thuật”, “pháp” thành pháp trị (Hàn Phi Tử). Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được đời sau nhắc đến nhiều là thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc. Thời Xuân Thu (770 - 403 TCN) là thời kỳ suy tàn của nhà Chu, cũng là thời kỳ của Lão Tử, Khổng Tử. Thời Chiến Quốc (403 - 221 TCN) là thời của Hàn Phi Tử. Nho gia lấy nhân-nghĩa-lễ-trí-tín, Mặc gia lấy “kiêm ái” để trị nước, còn Đạo gia theo “vô vi nhị trị”, thì Pháp gia đề cao pháp luật trong phép trị nước. ™ Quản Trọng (TK VI Trcn.) Đề cao luật-hình-lệnh-chính ¾ Luật là để định danh phận cho mỗi người, ¾ Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, ¾ Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, ¾ Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. ¾ Luật pháp phải công khai rõ ràng, dạy cho dân biết luật pháp và khi thi hành phải giữ lòng tin đối với dân. ¾ Khi đề cao luật pháp Ông chú trọng đến đạo đức-lễ-nghĩa-liêm trong quản lý. Quản Trọng là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời là cầu nối Nho gia với Pháp gia. ™ Thân Bất Hại (401-337 Trcn.) ¾ Đề cao “thuật” trong quản lý; là phương pháp, thủ đoạn của người cầm quyền, là cái bí hiểm không được lộ ra cho cấp dưới biết là cấp trên có sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét ai, ham muốn cái gì hay không Nếu không cấp dưới sẽ đề phòng, nói dối, lừa gạt cấp trên. ¾ Chủ trương ở cương vị nào thì phải làm đúng chức trách bổn phận của mình, ngoài cái đó ra nếu có biết thêm gì cũng không nên nói ra. ¾ Đề cao “thuật” trong quản lý; là phương pháp, thủ đoạn của người cầm quyền, là cái bí hiểm không được lộ ra cho cấp dưới biết là cấp trên có sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét ai, ham muốn cái gì hay không Nếu không cấp dưới sẽ đề phòng, nói dối, lừa gạt cấp trên. ¾ Chủ trương ở cương vị nào thì phải làm đúng chức trách bổn phận của mình, ngoài cái đó ra nếu có biết thêm gì cũng không nên nói ra. 7
  8. Đại cương về khoa học quản lý ™ Thận Đáo (370-290 Trcn.) ¾ Đề cao “thế” trong quản lý. Hiền và trí không đủ để cấp dưới phục tùng nhưng quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người. ¾ Chủ trương tập quyền, cấm không được lập bè đảng, phân biệt và quy định rõ địa vị, quyền hạn của các tầng lớp người trong xã hội cho rõ ràng. ™ Thương Ưởng (TKIV, Trcn.) ¾ Đề cao “pháp” trong quản lý. Pháp luật phải nghiêm, ban bố cho mọi người đều biết, ai cũng phải thi hành, có tội thì phải phạt, phạt nặng thì mới răn đe được. ¾ Đặt ra lệnh cáo gian, cáo sai thì bị tội, cùng nhau chịu trách nhiệm; thưởng hậu mà xác thực, phạt nặng mà cương quyết. ¾ Tổ chức liên gia thực hiện chính sách cáo gian; thực hiện thưởng cho người có công, phạt người phạm tội; quý tộc mà không có chiến công thì hạ xuống dân thường. ™ Tư tưởng pháp trị của của Hàn Phi Tử Hàn Phi tử người nước Hàn, học rộng, biết cả đạo Nho lẫn đạo Giáo nhưng ông lại tâm đắc với học thuyết của Pháp gia và có tư tưởng mới về pháp trị. Tuy thuộc tầng lớp quý tộc nhưng ông có tinh thần yêu nước, tiến bộ, trọng kẻ sĩ, trọng người giỏi pháp thuật, chê bọn quý tộc cổ hủ, vô dụng. Theo ông, muốn cho nước Hàn mạnh (Hàn là một nước nhỏ nằm sát nước Tần) thì phải dùng Thuật và Pháp cải tổ lại nội chính để tạo ra nội lực mạnh, đừng trông cậy vào ngoại giao của bọn du thuyết. Ông thuyết phục vua Hàn nhiều lần không được, tới khi nước Hàn sắp bị Tần thôn tính, vua Hàn mới phái ông đi sứ qua Tần để thuyết phục vua Tần Thủy Hoàng. Hàn Phi Tử tới Tần nhưng không thuyết phục được vua Tần. Bạn học cùng với Hàn Phi Tử là Lý Tư làm tể tướng của Nhà Tần biết ông là người có tài, khuyên Tần Thủy Hoàng nếu không khuất phục được thỉ phải giết đi để trừ hậu họa. Hàn Phi Tử bị hãm hại ở Tần vào khoảng năm 233 TCN và ba năm sau nước Hàn bị thôn tính. Các tác phẩm của ông tuy chỉ tập trung giải quyết những vấn đề chính trị và quản lý - cai trị nhưng có cơ sở triết học vững chức, trong đó nổi bật lên hai tư tưởng cơ bản: Một là, bản chất con người có tính ác, mưu lợi cho bản thân; hai là, lý luận phải tùy thời mới có ích. ¾ Quan niệm về bản chất của con người Trong khi Khổng Tử cho rằng bản chất của con người là "thiện" thì Tuân Tử, một học trò của ông lại cho rằng bản chất của con người là "ác". Hàn Phi Tử là học trò của Tuân Tử cũng cho rằng con người có "tính bản ác". Tuân Tử nói đến tính ác để khuyên nhà cầm quyền dùng đức trị uốn nắn lại tính cho dân, còn Hàn phi Tử chủ trương dùng hình phạt để ngăn chặn những hành động của dân có hại cho nước. Theo Hàn Phi Tử, chỉ có một số rất ít thánh nhân có tính bản thiện, còn đại đa số vốn có tính ác: tranh nhau về lợi, sẵn sàng giết nhau vì miếng ăn hay chức vị, làm biếng, khi có dư ăn rồi thì không muốn làm gì nữa, chỉ phục vụ quyền lực. Ông viết: "Thầy lang khéo mút vết thương, ngậm máu người bệnh đâu phải vì tình cốt nhục mà chỉ vì lợi. Thợ đóng xe mong cho nhiều người giàu sang, còn thợ đóng quan tài mong có nhiều 8
  9. Đại cương về khoa học quản lý người chết. Không phải là thợ đóng xe có lòng nhân còn thợ đóng quan tài thì tàn nhẫn, mà chỉ vì người ta không giàu sang thì không mua xe, không chết thì quan tài không bán được. Thợ đóng quan tài không phải là kẻ giết người nhưng có người chết thì anh ta mới có lợi". Hơn hai nghìn năm sau, tư tưởng vị lợi của Hàn Phi Tử được tái hiện trong tư tưởng "con người kinh tế" - cơ sở triết học của học thuyết quản lý theo khoa học của Taylor và "con người lười nhác, ham lợi" trong thuyết X của Mc. Gregor. Thực dụng hơn, cực đoan hơn tư tưởng quản lý thời Taylor, Hàn Phi Tử đã mở rộng bản chất vị lợi đến mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Trong quan hệ cha - con, chữ "hiếu" của Nho giáo đã bị thay thế bằng sự tính toán lợi hại, tàn nhẫn: "Cha mẹ đối với con, sinh con trai thì mừng, con gái thì giết là do nghĩ sau này đứa nào có lợi lâu dài cho mình hơn. Vậy cha mẹ đối với con còn đem lòng tính toán lợi hại, huống hồ là những người không có tình cha con với nhau". Theo ông, quyền lực suy cho cùng cũng chỉ vì quyền lợi vật chất: "Các vua thời cổ nhường ngôi thiên tử cũng chỉ là từ bỏ cuộc sống của một người giữ cổng, từ bỏ cuộc đời lao khổ của một tên nô lệ, có gì đáng khen đâu. Một viên huyện lệnh ngày nay khi chết rồi mà con cháu mấy đời sau còn được ung dung ngựa xe, vì vậy mà người ta quý chức huyện lệnh. Thời xưa nhường ngôi thiên tử thật dễ, nay từ chức huyện lệnh thật khó là do cái lợi hậu, bạc khác nhau. Cổ nhân khinh tài vật, không phải vì có lòng nhân, mà vì tài vật nhiều, ngày nay người ta tranh đoạt nhau không phải là ty tiện mà vì tài vật ít. Ngày xưa người ta coi thường và tử bỏ ngôi thiên tử không phải là cao thượng mà vì quyền thế ít, ngày nay người ta coi trọng, tranh nhau quan chức không phải là đê tiện mà vì quyền thế nhiều". Có thể thấy Hàn Phi Tử là người duy lý, duy lợi, theo chủ nghĩa thực dụng. Song ông có một trí tuệ sâu sắc, đã vì sự tồn vong của đất nước mình mà chịu cái chết bi thảm, tuy biết trước đó là số phận chung của các Pháp gia có tài, nhiệt thành yêu nước. Đặc biệt, Hàn Phi Tử đã vượt xa thời đại mình khi nêu ra tư tưởng đấu tranh sinh tồn và giải thích nguyên nhân của sự nghèo khổ là do dân số tăng nhanh, vượt quá sự gia tăng của sản xuất. ¾ Quan điểm về sự phù hợp của lý luận và thời thế: Là người có đầu óc thực tế và hiểu biết sâu rộng về lịch sử, Hàn Phi Tử đã sớm nhận ra những hạn chế của lý luận Nho gia. Ông phê phán cách học nệ cổ của Nho gia: "Căn cứ vào các tiên vương mà học theo đạo Nghiêu Thuấn thì nếu không phải là ngu cũng là lường gạt thiên hạ. Cái học ngu và gạt người ấy, hỗn tạp và mâu thuấn ấy, bậc minh chủ không thể chấp nhận". Ông coi các Nho gia như bọn đồng cô, thầy cúng, nói năng lông bông, bắt thực tế phải khuôn theo lý luận đã quá lạc hậu, làm cho dân ngu, xã hội loạn. Theo Hàn Phi Tử, lý luận phải phù hợp với thời thế thì mới có ích: "việc phải theo thời, mà biện pháp phải thích ứng phong tục xưa và nay khác nhau, biện pháp cũ và mới phải khác nhau". 9
  10. Đại cương về khoa học quản lý ¾ Mối quan hệ quản lý cơ bản, vua và dân Khổng Tử nói: "vua ra vua, tôi ra tôi" là nhấn mạnh đến mặt nhân nghĩa, đạo đức, còn Hàn Phi Tử lại quan tâm nhiều đến khoảng cách, địa vị giữa người cai trị và người bị trị, đồng thời ủng hộ chế độ chuyên chế phong kiến, cổ vũ cho sự độc tài của các vua. Ông viết: "Không nước nào luôn mạnh, không nước nào luôn yếu. Người thi hành pháp luật mà cương cường thì nước mạnh, người thi hành phát luật mà nhu nhược thì nước yếu". Nho gia đề cao tư tưởng "dân là gốc của nước" coi dân như nước, vua như thuyền, nước chở thuyền mà cũng lật được thuyền; vua, quan phải biết thương dân, làm cho dân giàu. Hàn Phi Tử phê phán tư tưởng trên, cho đó là mỵ dân. Theo ông, cái trí của dân ngây thơ như con trẻ, "sở dĩ vua chúa cầu bật thánh trí vì dân không đủ cho mình theo được", cho nên "làm chính trị mà mong vừa lòng dân đều là mối loạn, không thể theo chính sách đó trị nước được". Mặc dù vậy, Hàn Phi Tử là người đề cao chính sách dùng người. Tài năng của nhà cai trị thể hiện ở việc dùng sức và dùng trí của người khác. "Sức một người không địch nổi đám đông, trí một người không biết được mọi vật, dùng một người không bằng dùng cả nước. Vua chúa bậc thấp kém dùng hết khả năng của mình, bậc trung dùng hết sức của người. Dùng hết trí của người thì vua như thần". Đây là một tư tưởng hết sức sâu sắc về quản lý của Hàn Phi Tử. Nhưng quan hệ vua - tôi theo Hàn Phi Tử, là quan hệ quản lý một chiều. Ông khuyên vua dùng hết tài trí của dân nhưng không được gần gũi, tỏ lòng thương dân. Đây là tư tưởng mâu thuẫn về lợi ích và phản dân chủ, trong đó người dân là một thứ công cụ của vua và phải tuyệt đối phục tùng kẻ thống trị. Tư tưởng Đức trị của Khổng Tử cho rằng có sự thống nhất giữa công và tư, giữa gia đình và xã hội. Ngược lại, Hàn Phi Tử cho rằng công - tư mâu thuẫn với nhau, phải hy sinh tư cho công, gia đình phải phục tùng và hy sinh cho xã hội, lợi ích quốc gia là tối thgượng, quan trọng hơn dân. Về điểm này, mô hình quản lý của Hàn Phi Tử có nhũng nét giống với mô hình "Tổ chức quan liêu" của Weber thời hiện đại. Các khái niệm cơ bản về hoạt động cai trị - quản lý của Hàn Phi Tử Hàn Phi Tử đưa ra ba khái niệm cơ bản là "thế" (quyền lực), "pháp" (luật pháp) và "thuật (phương pháp quản lý). Đây là ba vấn đề cốt lõi của quản lý - cai trị, liên hệ khăng khít với nhau, trong đó "pháp" là yếu tố quan trọng nhất, có tính quyết định. ¾ "Thế" và tư tưởng về thế Hàn Phi Tử cho rằng vua không cần hiền mà cần thế, vua phải biết dựa vào thế của mình và ban lệnh, buộc quan và dân phải răm rắp tuận theo. Theo ông, "thế" không liên quan đến đạo đức và tài trí của con người, bởi "hiền tài như vua Nghiêu khi chưa làm vua nói không ai nghe, bạo tàn như vua Kiệt nhưng vì là vua nên mọi người không dám trái lệnh". Trong khi Nho gia đặt tài, đức lên trên uy quyền và cho rằng phải có tài, đức mới xứng đáng với ngôi vị để tránh làm hại dân. Ngược lại, Hàn Phi Tử đặt địa vị, quyền thế lên trên tài, đức. Theo ông, chỉ cần tài, đức trung bình nhưng có quyền thế là trị được nước. Là người trọng thế, trọng sự cưỡng chế quyền lực, Hàn Phi Tử chủ trương: Chủ quyền phải được tập trung vào một người, đó là vua. Vua 10
  11. Đại cương về khoa học quản lý phải nắm quyền thưởng phạt, phải được mọi người tôn kính và tuân thủ triệt để. Hàn Phi Tử khen chính sách đức trị của đạo Nho là đẹp nhưng chê là không thực tế, "vua Thuấn (được Khổng Tử suy tôn là bậc thánh) sửa khuyết điểm cho dân, một năm sửa được một tật, ba năm sửa được ba tật. Tuổi thọ của ông có hạn mà tật của dân thì vô cùng; lấy cái hữu hạn trừ đi cái vô cùng thì trừ được bao lâu? Nếu dùng sự thưởng phạt, bắt dân thi hành mà ra lệnh rằng: hễ làm đúng phép thì thưởng, trái phép thì phạt, thì sáng ban lệnh, chiều sự tình đã thay đổi, chỉ trong mười ngày là khắp cả nước thay đổi cả, đâu phải đợi đến một năm?" Hàn Phi Tử cho rằng cách thưởng phạt là nguyên nhân làm cho quốc gia thịnh, suy, loạn, lạc. Thưởng thì phải "tín" (xác thực, tin tưởng) và trọng hậu, phạt thì phải "tất" (cương quyết) và phải nặng. Thưởng hậu thì dân thấy lợi mà ham, phạt nặng thì dân thấy sợ mà tránh. Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, trị tội không chừa các quan và thưởng công không bỏ sót dân thường. Hình phạt nặng thì người sang không dám khinh kẻ hèn, pháp luật phân minh thì người trên được tôn trọng, không bị lấn. Vua phải nắm hết quyền thưởng phạt, dùng thưởng và phạt để chế ngự bầy tôi, nếu bỏ hai quyền đó, thậm chí bỏ một để cho bầy tôi dùng thì ngược lại sẽ bị bầy tôi chế ngự. Hàn Phi Tử đề ra tính nghiêm khắc, công bằng của pháp luật và khuyên vua, chúa phải vô tư, công minh khi sử dụng pháp luật. Song, chính ông lại thừa nhận mọi người đếu hành động vì tư lợi và đó là điểm mâu thuấn trong học thuyết của ông. ¾ "Pháp" và các tiêu chuẩn của luật pháp Hàn Phi Tử coi pháp luật là những thứ dùng làm tiêu chuẩn để phân biệt đúng, sai, phải, trái như cái mực, cái quy, cái củ. Pháp không tách rời thế và thuật, mà cùng tạo nên cái kiềng ba chân. Vua có quyền đặt ra luật pháp (lập pháp) nhưng không được tùy tiện mà phải kịp thời và tuân theo những nguyên tắc nhất định, "Thời thay mà pháp luật không đổi thì nước loạn, đời thay đổi mà cấm lệnh không biến thì nước chia cắt. Cho nên thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà đổi, cấm lệnh cũng theo thời mà biến". Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành, phải thống nhất, cố định để cho dân dễ hiểu. Cái gì mà kẻ sĩ có óc tinh tế mới biết được thì không nên ban lệnh, vì dân không phải người nào cũng có óc tinh tế cả. Cái gì mà bậc hiền tài mới làm được thì không nên dùng làm phép tắc vì không phải người dân nào cũng hiểu cả". Pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ yếu, thiểu số. Nhìn chung, Pháp gia chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật: "Trị nước thì phải định pháp luật, đặt ra hình phạt nghiêm khắc để cứu loạn cho dân, trừ hại cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đáp số ít, người già được hưởng hết tuổi trời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị giặc cầm tù". Pháp luật phải có tính phổ biến, ban hành công khai, truyền bá tới mọi người để không một người dân nào có thể viện cớ không biết luật pháp mà lỡ phạm pháp. Ông yêu cầu vua, quan phải "lấy luật pháp mà dạy dân", phải truyền bá luật pháp như một "phép công" điều khiển hành vi của mọi người. 11
  12. Đại cương về khoa học quản lý ¾ "Thuật" và phương pháp thi hành quyền lực, pháp luật Nho gia nói nhiều tới tâm và đức trong quản lý - cai trị, còn Pháp gia nhấn mạnh tới kỹ thuật cai trị. Vì công việc của vua rất nhiều nên phải giao việc cai trị dân cho quan lại, nên thuật của vua chủ yếu là trị quan chứ không phải trị dân. Chữ "thuật" của Hàn Phi Tử có hai nghĩa: Kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật là cách thức, biện pháp để tuyển, dùng, kiểm tra khả năng của quan lại. Tâm thuật là mưu mô để chế ngự quần thần không cho họ biết suy nghĩ, tình cảm thực của mình. Thuật trừ gian là cách loại trừ bọn gian thần. Hàn Phi Tử quan niệm bản chất con người là tư lợi nên địa vị, quyền lực của nhà vua là mục tiêu lợi dụng, giành giật của rất nhiều người. Theo ông, có tám loại gian thần, tựu trung lại gồm hai hạng là: kẻ thân thích của vua và quần thần, cả hai đều đánh vào tình cảm, dục vọng và điểm yếu của vua, lung lạc, che dấu vua để tự do hoành hành, ngăn cản, hãm hại trung thần. Các trung thần muốn giết bọn gian thần nhưng vua lại che chở chúng, thành thử chúng càng lộng hành mà bóc lột dân, làm giàu, lập bè cánh để che giấu tội ác cho nhau, bịt mắt nhà vua; cũng như loài chuột đào hang trong đền thờ mà không ai làm gì được vì nếu dùng lửa thì sợ bị cháy, dùng nước thì sợ hỏng lớp đất màu bao quanh cây cột. Muốn kiềm chế hạng người tư lợi có địa vị cao, Hàn Phi Tử chia bọn họ ra từng loại để có cách xử lý khác nhau: Người hiền, có thể bắt vợ con thân thích làm con tin; kẻ tham lam, cho tước lộc hậu hỹ, mua chuộc để khỏi làm phản; kẻ gian tà, phải làm cho khốn khổ bằng cách trừng phạt. Theo ông, với kẻ xấu, nếu không cải hóa được thì phải trừ khử. Muốn trừ họ mà không làm thương tổn đến danh tiếng của vua thì hãy nên đầu độc họ hoặc dùng kẻ thù của họ để giết, nhưng tốt nhất không dùng những kẻ không nên dùng, để khỏi phải đề phòng. Nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người của Pháp gia là thuyết hình danh. Theo thuyết này, muốn đánh giá con người phải xét cái sự thực đã làm (hình) và tên gọi của công việc (danh) có phù hợp với nhau không. "Dùng quy tắc hình danh mà thu phục bề tôi thì không được nghe lời giới thiệu của người khác, mà phải đích thân xem xét người cần dùng có xứng đáng không vì người người giới thiệu có thể vì tình riêng, tư lợi, muốn kéo bè đảng mà đề cử hạng bất tài vô đức. Trong đời, kẻ có tài chưa nhất định đã có đức, kẻ có đức chưa nhất định có tài, cho nên việc bổ nhiệm người nếu không có thuật thì sẽ bại". Ông nhấn mạnh việc dùng người phải hết sức thận trọng. Muốn vậy, phải có phương pháp nghe (thánh ngôn) bề tôi nói; phải khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi; phải xem lời nói của họ có giá trị không; cuối cùng là giao chức cho họ, dùng thực tiễn kiểm tra thực lực của họ. Trong mỗi việc trên, ông đều có những kỹ thuật tỷ mỷ nhằm đạt được hiệu quả cao. Chẳng hạn, việc giao chức cần phải giao cho một chức nhỏ rồi tuần tự thăng cấp, không cho kiêm nhiệm chức vụ, phải phân công rõ ràng, mỗi người một chức để họ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hàn Phi Tử cho rằng vượt chức là đầu mối của loạn. Giao trách nhiệm cho một người rồi kiểm tra kết quả công việc, theo dõi nhưng không can thiệp vào công việc của họ. Bàn về quản lý - cai trị, Khổng Tử nói đến "vô vi" là khi có tài, đức và gương mẫu thì dân sẽ tự giác noi theo; Lão Tử nói đến "vô vi" theo nghĩa là mong vua chúa giảm 12
  13. Đại cương về khoa học quản lý thiểu chính quyền để dân sống tự nhiên như bản tính của họ, Hàn Phi Tử kế thừa tư tưởng vô vi của Nho và Đạo, biến nó thành thuật cai trị. "Tiên vương cho ba cái đó (mắt, tai, trí óc) là không đủ nên không được ỷ lại vào tài năng của mình mà phải dựa vào Pháp độ, xét kỹ việc thưởng phạt, chỉ giữ cái cốt yếu để pháp độ giảm đi mà không bị phạm; chế ngự dân trong bốn bề, khiến cho kẻ thông minh không gian trá được, kẻ miệng lưỡi không nịnh bợ được, kẻ gian tà không biết dựa vào đâu, kẻ ở xa ngàn dặm cũng không biết đổi lời, kẻ thân cận không dám che dấu, tô điểm cái xấu, cho nên công việc cai trị ít, ngày giờ dư, được như vậy là do vua biết dùng quyền thế để trị nước". Hàn Phi Tử chủ trương vô vi, nhưng không phải nhằm bớt đi sự điều hành, ngược lại, khuyên quan lại phải là hết mình, gián tiếp cai trị bằng thưởng phạt công bằng, nghiêm khắc. 1.2.2. CÁC TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ THỜI KỲ Xà HỘI CÔNG NGHIỆP (CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX) 1.2.2.1. Trường phái cổ điển về quản lý "Quản lý theo khoa học" là thuật ngữ được dùng để chỉ những ý kiến về tổ chức và quản lý được đưa ra ở Châu Âu và Hoa Kỳ vào những năm cuối TK XIX đầu TK XX. Trong quá trình hình thành các lý thuyết cổ điển có công đóng góp của rất nhiều tác giả. Nhìn chung có thể đưa ra 2 dòng lý thuyết quản lý cổ điển chính: Lý thuyết quản lý khoa học và lý thuyết quản lý hành chinh. Lý thuyết quản lý khoa học ™ Charles Babbage (1792 - 1871) Ông là một nhà toán học người Anh đã tìm cách tăng năng suất lao động. Cùng với Adam Smith ông chủ trương chuyên môn hóa lao động, dùng toán học để tính toán các sử dụng nguyên vật liệu tối ưu nhất. Ông cho rằng, các nhà quản trị phải nghiên cứu thời gian cần thiết để hoàn thành một công việc, từ đó ấn định tiêu chuẩn công việc, đưa ra việc thưởng cho những công nhân vượt tiêu chuẩn. Ông cũng là người đầu tiên đề nghị phương pháp chia lợi nhuận để duy trì quan hệ giữa công nhân và người quản lý. ™ Fededric W.Taylor (1856 - 1915) Là đại biểu ưu tú nhất của trường phái này, Ông được xem là "Cha đẻ" của phương pháp quản lý khoa học. Trong thời gian làm nhiệm vụ của nhà quản lý ở các xí nghiệp, nhất là các xí nghiệp luyện kim ông đã tìm ra và chỉ trích mãnh liệt các nhược điểm trong cách quản lý cũ. Theo ông các nhược điểm chính là: - Thuê mướn công nhân trên cơ sở ai đến trước mướn trước, không lưu ý đến khả năng và nghề nghiệp của công nhân. - Công tác huấn luyện nhân viên hầu như không có tổ chức học việc. - Công việc làm theo thói quen, không có tiêu chuẩn và phương pháp; công nhân tự mình định đoạt tốc độ làm việc. - Hầu hết các công việc và trách nhiệm đều được giao cho công nhân. - Nhà quản lý làm việc bên cạnh người thợ, quên mất chức năng chính là lập kế hoạch và tổ chức công việc. Tính chuyên nghiệp không được thừa nhận v.v 13
  14. Đại cương về khoa học quản lý Tên gọi của lý thuyết quản lý khoa học xuất phát từ nhan đề của tác phẩm "Các nguyên tắc quản lý một cách khoa học" (Principles of scientiffic management) xuất bản lần đầu ở Mỹ vào năm 1911). Tư tưởng cơ bản về quản lý của Taylor thể hiện qua định nghĩa: "Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất". Nội dung chủ yếu của thuyết Taylor gồm: ¾ Cải tạo các quan hệ quản lý Một mục tiêu cơ bản của quản lý là giải quyết mâu thuẫn gay gắt giữa chủ và thợ không chỉ bằng một hệ thống các giải pháp kỹ thuật mà còn bằng phương thức quản lý khiến cả chủ và thợ có thể gắn bó hợp tác với nhau trong một tổ chức công nghiệp để cùng đi tới mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả và năng suất lao động. Taylor cũng thấy được đông cơ thúc đẩy lao động là lợi ích kinh tế phải được xử lý hài hòa qua chế độ lương thưởng hợp lý, chỉ có như vậy các cách thức tổ chức sản xuất một cách khoa học mới phát huy được tác dụng cao. Ông nêu ra 4 nguyên tăc quản lý khoa học như sau: + Bố trí lao động một cách khoa học để thay thế các thao tác lạc hậu, kém hiệu quả. + Lựa chọn công nhân một cách khoa học; đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng họ, phát triển tinh thần hợp tác đồng đội, thay vì khích lệ nỗ lực cá nhân riêng lẻ của họ. + Xác định chức năng hoạch định của nhà quản lý, thay vì để công nhân tự ý lựa chọn phương pháp làm việc riêng của họ. + Phân chia công việc giữa nhà quản lý và công nhân, để mỗi bên làm tốt nhất công việc của họ. Cái gắn bó giữa họ là lợi nhuận của doanh nghiệp và năng xuất lao động và đó là yếu tố tạo ra nhiều lợi nhuận. Biện pháp quản lý tương ứng là: Nghiên cứu thời gian và các thao tác hợp lý để thực hiện công việc; dùng cách mô tả công việc để lựa chọn công nhân, thiết lập hệ thống tiêu chuẩn và hệ thống huấn luyện chính thức; trả lương theo nguyên tắc khuyết khích theo sản lượng, đảm bảo an toàn lao động bằng dụng cụ thích hợp; thăng tiến trong công việc, chú trọng lập kế hoạch hoạt động v.v ¾ Tiêu chuẩn hóa công việc Theo ông cần phải hợp lý hóa lao động trên cơ sở định mức cụ thể với những tiêu chuẩn định lượng như một cách thức tối ưu để phân chia công việc thành những công đoạn, những khâu hợp lý, định ra chuẩn mực để đánh giá kết quả lao động. ¾ Chuyên môn hóa lao động Lao động theo nghĩa khoa học đòi hỏi sự chuyên môn hóa trong phân công nhằm đạt yêu cầu "tốt nhất" (do thành thục trong thao tác) và "rẻ nhất" (do không có động tác thừa và do chi phí đào tạo thấp). Việc này phụ thuộc vào nhà quản lý trong tổ chức sản xuất. Tổ chức sản xuất theo dây chuyền là hệ quả của hướng chuyên môn hóa lao động, trong đó mỗi công nhân chỉ thực hiện thường xuyên, liên tục một (hoặc vài) động tác đơn giản. Từ đó, việc đào tạo công nhân hướng vào sự thành thạo hơn là tay nghề "vạn năng". Taylor nhấn mạnh phải tìm những người thợ "giỏi nhất" theo 14
  15. Đại cương về khoa học quản lý hướng chuyên sâu, dựa vào năng suất lao động cá biệt đó để xây dựng đinh mức lao động. Viêc chuyên môn hóa lao động kéo theo yêu cầu cải tiến công cụ lao động (công cụ chuyên dùng cho từng động tác) để dễ sử dụng nhất, tố ít sức nhất và đạt năng suất cao nhất. Môi trường lao động cũng là một yếu tố quan trọng, đó là việc bố trí nơi làm việc thuận tiện và duy trì bầu không khí hợp tác gắn bó thoải mái giữa người điều hành và thợ. ™ Henry Lawrence Gantt (1861 -1919) Là người đã từng cùng làm việc với Taylor tai nhà máy Midvale Simonds và Bethlebem Steel, Gantt cho rằng hệ thống trả lương theo sản phẩm do Taylor đề xướng không có tác động nhiều đến sự kích thích công nhân. Do đó ông đã bổ sung vào việc trả lương theo sản phẩm của Taylor bằng hệ thống tiền thưởng. Theo hệ thống này, nếu công nhân vượt mức sản phẩm làm trong ngày, họ sẽ được hưởng thêm một khoản tiền (cả công nhân và người quản lý trực tiếp). Một đóng góp khác của Gantt là "biểu đồ Gantt" nhằm kiểm tra việc thực hiện công việc theo kế hoạch. Biểu đồ này cho thấy, sản lượng dự tính (số lượng đặt ra), tiến trình của công việc (số lượng hoàn thành) và tỷ lệ giao hàng (số lượng xuất kho) theo dòng thời gian. Phương pháp Gantt còn đưa ra một hệ thống khen thưởng cho công nhân và quản trị viên đạt và vượt chỉ tiêu. ™ Lillian Gilbreth (1878 - 1972) và Frank Gilbreth (1886 - 1924) Trong lúc Taylor tìm cách làm cho công việc được hoàn thành nhanh hơn bằng cách tác động vào công nhân, thì Lilian Gilbreth và Frank Gilbreth tìm cách gia tăng tốc độ bằng cách giảm các thoa tác thừa. Với quan niệm đó, ông bà Gilbreth đã khám phá ra rằng trong 12 thao tác mà người thợu xây thực hiện để xây gạch lên tường có theer rút xuống còn 4 và nhờ đó mỗi ngày một người thợ có thể xây được 2700 viên gạch thay vì 1000 viên mà không cần phải hối thúc. Ông bà Gilbreth cũng cho rằng thao tác có quan hệ đến sự mệ mỏi của công nhân, do đó bớt số lượng thao tác thì cúng giảm được sự mệ nhọc. Lilian Gilbreth là một trong những ngừoi đầu tiên lưu ý đến khía cạh tâm lý trong quản lý với luận án nhan đề 'Tâm lý quản lý". Rất tiết do sự kỳ thị nam nữ ở Mỹ vào thời gian đó, tư tưởng khoa học của bà đã không được quan tâm chú ý. Tóm lại: F.Taylor và những người cùng quan điểm không phải là những nhà lý thuyết mà là những kỹ sư, những công nhân có kinh nghiệm làm việc thực tế trong xí nghiệp luôn quan tâm đến tăng năng xuất lao động của công nhân. Những tư tưởng quản lý khoa học của họ đã đóng góp nhiều giá trị cho sự phát triển của lý thuyết quản lý. Họ phát triển kỹ năng quản lý qua phân công và chuyên môn hoá quá trình lao động, hình thành quy trình sản xuất dây chuyền; họ là những người đầu tiên nêu lên tầm quan trọng của việc tuyển chọn và huấn luyện công nhân, dùng đãi ngộ để tăng năng suất lao động; nhấn mạnh việc giảm giá thành để tăng hiệu quả, dùng những phương pháp hợp lý để giải quyết các vấn đề quản lý. Họ coi quản lý như là một đối tượng nghiên cứu khoa học. 15
  16. Đại cương về khoa học quản lý Tuy vậy, những tư tưởng này cũng có những giới hạn nhất định. Trước hết, lý thuyết "quản lý theo khoa học" là sự hiểu biết phiến diện và máy móc về con người, bị chi phối bởi tư tưởng triết học "con người kinh tế" mà các tác giả tiếp nhậ ở thời đại đó. Họ quá đề cao bản chất kinh tế và duy lý của con người mà định giá thấp nhu cầu của xã hội và tự thể hiện của con người, do vậy vấn đề nhân bản ít được quan tâm. Họ muốn áp dụng những nguyên tắc quản lý phổ quát cho cho mọi hoàn cảnh mà không nhận thấy đặc thù của môi trường và quá chú tâm đến vấn đề kỹ thuật. Thứ đến, lý thuyết này này chỉ áp dụng tốt trong trường hợp môi trường ổn định, khó áp dụng trong môi trường phức tạp nhiều thay đổi. Lý thuyết quản lý hành chính - tổ chức "Lý thuyết quản lý hành chính - tổ chức" là tên được đặt cho các tư tưởng quản lý của một số tác giả ở Pháp, Mỹ, Anh, Đức nêu lên vào những thập kỷ đầu của TK XX. Nếu các lý thuyết quản lý khoa học chú trọng đến hợp lý hoá công việc và những nhiệm vụ mà các công nhân phải làm để nâng cao năng suất lao động ở cấp phân xưởng và theo hướng vi mô, thì lý thuyết quản lý hành chính lại tập trung chú ý vào những nguyên tắc quản lý lớn áp dụng chung cho cả một tổ chức, chính vì thế trường phái này còn được gọi là tư tưởng quản lý tổ chức cổ điển. ™ Henry Fayol (1841 - 1925) Là một nhà quản lý người Pháp. Với tác phẩm "Quản lý công nghiệp và quản lý tổng quát" (Administrration industrielle et générall, 1916). Là "người cha thực sự của lý thuyết quản lý hiện đại". Henry Fayol định nghĩa: Quản lý là sự dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra. Đó chính là năm chức năng cơ bản của nhà quản lý. Khác với Taylor cho rằng năng suất lao động kém là do công nhân không biết cách làm việc và không được kích thích kinh tế đầy đủ, Fayol cho rằng năng suất lao động của con người làm việc chung trong tập thể tuỳ thuộc vào sự sắp xếp, tổ chức của nhà quản lý. Việc sắp xếp, tổ chức đó được Fayol gọi là quản lý tổng quát (quản lý hành chính) và việc này cũng quan trọng như 5 việc khác trong một cơ sở sản xuất kinh doanh như: sản xuất, tiếp thị (Marketing), tài chính, quản lý con người và tài sản, kế toán, thống kê. Ông cho rằng quản lý hành chính liên quan đến cả 5 nhóm hoạt động trên và là sự tổng hợp bao trùm để tạo ra sức mạnh tổng hợp của một tổ chức. Chức vụ càng cao thì đòi hỏi khả năng quản lý hành chính càng lớn; còn ở cấp dưopứi thì khả năng chuyên môn là quan trọng nhất. Henry Fayol cho rằng thành công của người quản lý không phải nhờ những phẩm chất cá nhân mà nhờ những phương pháp đã áp dụng và những nguyên tắc chỉ đạo hành động của người quản lý đó. Henry Fayol là người đầu tiên nêu một cách rõ ràng các yếu tố của quá trình quản lý, đó cũng là 5 chức năng cần thiết của một nhà quản lý, bao gồm: Lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra. Để có thể làm tốt việc sắp xếp, tổ chức xí nghiệp, Fayol đã đề nghị các nhà quản lý nên theo 14 nguyên tắc quản lý sau: - Phân công lao động và chuyên môn hóa nhằm tạo ra năng suất lao động cao. Phhan công phải phù hợp, rõ ràng và tạo ra sự liên kết. 16
  17. Đại cương về khoa học quản lý - Xác định rõ mối quan hệ giữa quyền hạn và trách nhiệm, Quyền hạn phải đi đôi với trách nhiệm. - Duy trì kỷ luật trong xí nghiệp. - Công nhân chỉ nhận lệnh từ một cấp chỉ huy trực tiếp duy nhất. - Chỉ đạo nhất quán: các nhà quản lý phải thống nhất ý kiến khi chỉ huy. - Hài hòa lợi ích: quyền lợi chung luôn luôn phải được đặt trên quyền lợi riêng, - Quyền lợi kinh tế phải tương xứng với công việc: thù lao hợp lý, trả công thỏa đáng và sòng phẳng. - Tập trung quyền lực quản lý: quyền quyết định trong xí nghiệp phải tập trung về một mối. - Sinh hoạt trong xí nghiệp phải có trật tư. - Sự hợp tình hợp lý: đối xử trong xí nghiệp phải công bằng. - Ổn định chức trách: công việc của mỗi người trong xí nghiệp phải ổn định. - Xí nghiệp được tổ chức theo cấp bậc từ giám đốc xuống đến công nhân, kiểm tra tất cả mọi công việc. - Sáng tạo: tôn trọng sáng kiến của mọi người. - Xí nghiệp phải xây dựng cho được tinh thần tập thể, thống nhất và đoàn kết hỗ trợ. Thuyết quản lý của Fayol đã chỉ ra cách thức phân tích một quá trình quản lý phức tạp thành các chức năng tương đối độc lập (lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra), mang tính thống nhất đối với mọi loại hình tổ chức, không phân biệt mục tiêu, tính chất và quy mô của tổ chức ấy. Nó có ưu điểm là đi sâu nghiên cứu những công việc cần thiết của các nhà quản lý chuyên nghiệp, tạo ra kỷ cương trong tổ chức, song chưa chú trọng đầy đủ đến các mặt tâm lý và môi trường xã hội của người lao động, chưa đề cập đến mối quan hệ giữa xí nghiệp với khách hàng, thị trường, các đối thủ cạnh tranh và các ràng buộc nhà nước. Quá trình quản lý của ông có vẻ cứng nhắc, chuẩn mực chứ không đa dạng như trên thực tế. Tuy vậy, sự đóng góp của ông cho khoa học quản lý vẫn rất độc đáo và giá trị. ™ Max Weber: (1864 - 1920) Là một nhà xã hội khoa học người Đức, người khởi xướng thuyết tổ chức trong quản lý. Ông có nhiều đóng góp vào lý thuyết quản lý thông qua việc phát triển một tổ chức "quan liêu bàn giấy", ông cho rằng đó là phương thức hợp lý để tổ chức một công ty phức tạp. Khái niệm "quan liêu bàn giấy" được định nghĩa là hệ thống chức vụ và nhiệm vụ được xác định rõ ràng, phân công, phân nhiệm chính xác, mục tiêu phân biệt, hệ thống quyền hành có tôn ti trật tự. Cơ sở tư tưởng của Weber là ý niệm về thẩm quyền hợp pháp và hợp lý, ngày nay thuật ngữ "quan liêu" gợi lên hình ảnh một tổ chức cứng nhắc, lỗi thời, bị chìm ngập trong thủ tục hành chính phiền hà và nó hoàn toàn xa lạ với tư tưởng ban đầu của Weber. Theo ông, một tổ chức được quản lý có hiệu quả phải tuận thủ các nguyên tắc hành chí sau: - Phân công lao động hợp lý và rõ ràng dẫn đến chuyên môn hóa cao, tinh thông nghề nghiệp. - Sắp xếp các vị trí trong tổ chức theo một hệ thống thứ bậc về quyền lực. Trong đó, mỗi cấp dưới phải chịu sự kiểm soát của cấp cao hơn, chức vụ khác nhau có phạm vi 17
  18. Đại cương về khoa học quản lý thẩm quyền xác định, quản lý tách rời sở hữu, các nhà quản lý phải tuân thủ điều lệ và thủ tục, luật lệ phải công bằng và được áp dụng thống nhất cho mọi người. - Có hệ thống nội quy, thủ tục chính thức được viết bằng văn bản và nó chi phối các quyết định và hành động. - Nhân sự được lựa chọ, tuyển dụng một cách nghiêm ngặt, định hưỡng cho họ phát triển, đề bạt, thăng cấp theo thành tích, khả năng, thi cử, huấn luyện và kinh nghiệm. Tóm lại: Trường phái hành chính chủ trương rằng, năng suất lao động sẽ tăng lên nhờ nhờ sự tổ chức sắp đặt một cách hợp lý. Trường phái này đã đóng góp rất nhiều cho lý luận cũng như thực hành quản lý, những tư tưởng về các hình thức và nguyên tắc tổ chức, các chức năng quản lý, quyền lực và sự uỷ quyền đang ứng dụng phổ biến hiện nay chính là sự đóng góp quan trọng của trường phái quản lý hành chính. Hạn chế của trường phái này là các tư tưởng được thiết lập trong một tổ chức ổn định, ít thay đổi, quan điểm quản lý cứng rắn, ít chú ý đến con người và xã hội nên dễ dẫn tới việc xa rời thực tế. Ngày nay, vấn đề quan trọng là phải biết cách vận dụng các nguyên tắc quản trị cho phù hợp với các yêu cầu thực tế, chứ không phải từ bỏ các nguyên tắc đó. * Nhận xét chung về trường phái cổ điển về quản lý: Tiền đề căn bản của lý thuyế cổ điển về quản lý là con người thuần túy kinh tế. Bằng cách chuyên môn hóa nhiệm vụ trong một hệ thống cấp bậc được xác định rõ ràng, người ta có thể tổ chức công việc để hoàn thành mục tiêu của tổ chức một cách có hiệu quả. Tổ chức được xem là một hệ thống cơ học, được hoạch định và kiểm soát bằng quyền hành chính của các nhà quản lý. Từ đó các tác giả của trường phái cổ điển nhấn mạnh: - Có thể tăng hiệu quả quản lý bằng cách tổ chức, sắp xếp hợp lý và kiểm tra công việc của mọi người. - Lợi ích kinh tế được xem là nguồn động lực duy nhất của người lao động và để có năng suất cao, công việc cần được chuyên môn hóa, được hướng dẫn chu đáo cho người lao động và thường xuyên kiểm tra. - Các nhà quản lý, thông qua một cơ cấu tổ chức chặt chẽ có vai trò quyết định đối với việc hội tụ sức mạnh của các thành viên trong tổ chức để hướng tới mục tiêu chung. Các lý thuyết cổ điển về quản lý bị một số ý kiến phê phán sau đây: - Lý thuyết cổ điển đã xem các tổ chức là hệ thống khép kín, không thấy được ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đối với tổ chức và nhiều khía cạnh nội bộ khác. - Lý thuyết cổ điển đã có những quan điểm thiếu thực tế về nguồn gốc hành vi của con mgười. Các tác giả March và Simon đã gọi các lý thuyết cổ điển là "mô hình máy móc", Warren Bennis, một nhà tâm lý học quản lý, cho rằng lý thuyết cổ điển đã đưa ra những nguyên tắc để quản lý những tổ chức không có con người. - Các tác giả của trường phái cổ điển về quản lý là các nhà quản lý thực tế, nên lý thuyết của họ đều xuất phát từ kinh nghiệm và thiếu cơ sở khoa học vững chắc. Mặc dù có những hạn chế nhất định, song các lý thuyết cổ điển về quản lý vẫn có vai trò to lớn trong việc hình thành, đặt nền tảng cho sự phát triển chung của khoa học 18
  19. Đại cương về khoa học quản lý quản lý hiện đại. Nhiều trường phái lý thuyết quản lý sau này đã nghiên cứu, kế thừa, bổ sung và phát triển những tư tưởng của lý thuyết cổ điền. Về mặt ứng dụng thực tế, nhờ những đóng góp của lý thuyết cổ điển, việc quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh, kể cả các cơ quan chính quyền ở các nước phương Tây đã được nâng cao một cách rõ rệt trong nhiều thập niên đầu của TKXX. 1.2.2.2. Trường phái tâm lý - xã hội trong quản lý Trường phái tâm lý - xã hội trong quản lý là những quan điểm quản lý nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố tâm lý, tình cảm, quan hệ xã hội của con người trong công việc. Lý thuyết này cho rằng, hiệu quả của quản lý và năng suất lao động không chỉ do các yếu tố vật chất quyết định mà còn do sự thoả mãn các nhu cầu tâm lý xã hội của con người. Trường phái này bắt đầu xuất hiện ở Mỹ trong thập niên 30 (TK XX), được phát triển mạnh trong thập niên 60 (TK XX) và hiện nay vẫn còn được nghiên cứu tại nhiều nước phát triển nhằm tìm ra những hiểu biết đầy đủ về tâm lý phức tạp của con người, một yếu tố quan trọng để quản lý. Trường phái này có thể chia thành hai nhóm lý thuyết lớn: - Lý thuyết về mối quan hệ con người: Lý thuyết này quan tâm thỏa đáng đến các yếu tố tâm lý con người, tâm lý tập thể và bầu không khí trong xí nghiệp, phân tích tác động qua lại giữa con người với nhau trong hoạt động của xí nghiệp. - Lý thuyết hành vi: Cũng như thuyết quan hệ về con người trong quản lý, thuyết hành vi vận dung khoa học tâm lý vào quản lý, nhưng nó quy các hiện tượng tâm lý vào phản ứng của con người được biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi, chú trọng mối liên hệ kích thích, phản ứng mà không cần tính đến trạng thái ý thức và động cơ của con người. Lý thuyết về mối quan hệ con người ™ Hugo Munsterbeg (1863 - 1916) Ông được coi là cha đẻ của ngành tâm lý học công nghiệp, nghiên cứu tâm lý ứng dụng trong môi trường tổ chức. Trong tác phẩm nhan đề "Tâm lý học và hiệu quả trong công nghiệp" xuất bản năm 1913, ông nhấn mạnh là phải nghiên cứu một cách khoa học tác phong của con người để tìm ra những mẫu mực chung và giải thích những sự khác biệt. Ông cho rằng năng suất lao động sẽ cao hơn nếu công việc giao cho người lao động phù hợp với những kỹ năng và tâm lý người lao động và đề ra nhiệm vụ nghiên cứu phân tích chu đáo các đặc điểm tâm lý của họ. Ông đề nghị dùng các bài trắc nghiệm tâm lý để tuyển chọn nhân viên và phải timg hiểu tác phong của con người trước khi đi tìm những kỹ thuật thích hợp để kích thích họ làm việc. ™ Elton Mayo (1880 - 1946) Là Giáo sư của Đại học Havard nổi tiếng ở Mỹ. Từ những kết quả nghiên cứu tại nhà máy Hawthorne (thuộc Công ty điện lực miền Tây, gần Chicago) và trải qua nhiều kết quả nghiên cứu thực nghiệm khác của các nhà tâm lý công nghiệp, Ông cho rằng, sự thoả mãn các nhu cầu tâm lý của con người như: muốn được người khác quan tâm, muốn được người khác kính trọng, muốn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp 19
  20. Đại cương về khoa học quản lý chung, muốn làm việc trong bầu không khí thân thiện giữa các đồng sự có ảnh hưởng đến năng suất và thành quả lao động của con người. Quan điểm cơ bản của lý thuyết này cũng giống như quan điểm lý thuyết quản lý khoa học cho rằng: sự quản lý hữu hiệu tuỳ thuộc vào năng suất lao động của con người làm việc trong tập thể. Tuy nhiên, khác với ý kiến của lý thuyết quản lý khoa học, lý thuyết về quan hệ con người cho rằng, yếu tố tinh thần có ảnh hưởng mạnh đối với năng suất lao động. Từ nhận thức đó, lý thuyết về quan hệ con người cho rằng các nhà quản lý nên thay đổi quan niệm về công nhân. Họ không phải là những con người thụ động, thích được chỉ huy, thích được giao việc cụ thể. Trái lại, họ sẽ làm việc tốt hơn nếu được đối xử như những con người trưởng thành, được tự chủ trong công việc. Ngoài ra, nhà quản lý cần phải cải thiện các mối quan hệ con người trong tổ chức, từ mối quan hệ giữa thủ trưởng với nhân viên đến mối quan hệ giữa các đồng sự ngang hàng, vì con người sẽ làm việc tốt hơn trong một môi trường quan hệ thân thiện. Lý thuyết hành vi trong quản lý Thuyết hành vi là một học thuyết tâm lý học tư sản hiện đại gắn liền với chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa thực chứng. Thuyết hành vi coi con người là "một bộ máy liên hoàn", quy những hiện tượng tâm lý vào những phản ứng của cơ thể, đồng nhất hóa ý thức với hành vi như là tổng thể các động tác bị động, tự tạo và thích nghi. Thuyết hành vi chú trọng tới mối liên hệ giữa kích thích, phản ứng để tạo ra hành vị mà không cần tính đến các trạng thái ý thức và động cơ của con người. Trong khoa học quản lý, thuyết hành vi có ảnh hưởng lớn tới các nhà tư tưởng quản lý, trong đó phải kể đến Donglas Mc.Gregor. ™ Donglas Mc.Gregor (1906 - 1964) là một nhà khoa học nghiên cứu hành vi của con người trong tổ chức. Thuyết hành vi trong quản lý nổi tiếng của ông là thuyết X và thuyết Y. Ông cho rằng các nhà quản lý trước đây đã tiến hành các cách thức quản lý trên những giả thuyết sai lầm về tác phong và hành vi của con người. Những giả thuyết đó cho rằng phần đông mọi người đều không thích làm việc, thích được chỉ huy hơn là tự chịu trách nhiệm, hầu hết mọi người làm việc vì lợi ích vật chất và như vậy các nhà quản lý đã xây dựng những bộ máy tổ chức với quyền hành tập trung, đặt ra nhiều quy tắc thủ tục với một hệ thống kiểm tra giám sát chặt chẽ. Mc.Gregor gọi những giả thuyết đó là X và đề nghị một giả thuyết khác mà ông gọi là Y. Dựa trên quan niệm nhân bản và lạc quan hơn về hành vi chung của người lao động. Thuyết Y quan tâm đến khả năng của con người tự tạo ra động cơ làm việc; kết hợp lý trí với tình cảm; khả năng tự định hướng và tự chủ để đạt được mục tiêu của tổ chức khi nó thống nhất với mục tiêu cá nhân. Thuyết Y cho rằng con người sẽ thích thú với công việc nếu có được những thuận lợi và họ có thể đóng góp nhiều điều hơn cho tổ chức. Thay vì nhấn mạnh đến cơ chế kiểm tra, Mc.Grregor cho rằng nhà quản lý nên quan tâm nhiều hơn đến sự phối hợp hoạt động, đến mặt nhân văn của xí nghiệp. Sự khác nhau cơ bản giữa thuyết X và thuyết Y là ở chỗ, thuyết X đề cập đến phương thức quản lý truyền thống, tập trung và chuyên quyền; còn thuyết Y đề cao tính dân 20
  21. Đại cương về khoa học quản lý chủ. Ngày nay các nhà quản lý cho rằng, hai thuyết X và thuyết Y thể hiện hai khuynh hướng trái ngược nhau về quản lý con người, tuy nhiên không thể chỉ có một sự lựa chọn để áp dụng ở mọi nơi, mọi lúc. Khi thừa nhận thuyết Y, vấn có thể cần ứng xử theo thuyết X. * Nhận xét về trường phái tâm lý - xã hội trong quản lý: Trường phái này đã nhấn mạnh đến con người với tư cách là những cá nhân trong tổ chức, một điều mà lý thuyết cổ điển không đề cập đến. Các tác giả của trường phái này đều cho rằng năng suất lao động phụ thuộc nhiều vào yếu tố tâm ý và xã hội của công nhân. Tư tưởng chính của lý thuyết tâm lý - xã hội: - Doanh nghiệp là một hệ thống xã hội; - Khi động viên người lao động không chỉ bằng yếu tố vật chất mà còn phải quan tâm đến những nhu cầu xã hội; - Tập thể ảnh hưởng đến tác phong cá nhân (tinh thần, thái độ, kết quả lao động ); - Lãnh đạo không chỉ là quyền hành do tổ chức quy định mà còn do các yếu tố tâm lý xã hội của tổ chức chi phối. Tuy vậy, lý thuyết này cũng còn một số hạn chế: - Quá chú ý đến yếu tố xã hội (bởi vì, khái niệm "con người xã hội" chỉ có thể bổ sung cho khái niệm "con người kinh tế" chứ không thể thay thế); - Lý thuyết này coi con người là phần tử trong hệ thống khép kín mà không quan tâm đến yếu tố ngoại lai. Măc dù vậy, lý thuyết tâm lý xã hội đã có những đóng góp lớn lao vào sự nghiên cứu và thực hành quản lý. Nhà quản lý phải biết cách sử dụng các tài nguyên trong tổ chức nếu muốn đạt hiệu quả cao, trong đó, con người là thứ tài nguyên khó sử dụng nhất. Lý thuyết tâm lý xã hội đã giúp cho các nhà quản lý những kiến thức và kỹ thuật để có thể sử dụng tài nguyên đó một cách thích hợp, nhằm hoàn thành mục tiêu chung. 1.2.2.3. Trường phái định lượng về quản lý Trường phái này gồm một số các lý truyết: Lý thuyết định lượng về quản lý, lý thuyết hệ thống, lý thuyết nghiên cứu tác nghiệp hay 'vận trù học" được xây dựng trên nhận thức cơ bản rằng: quản lý là ra quyết định và muốn quản lý có hiệu quả thì các quyết định phải đúng đắn và chính xác. Để làm được điều đó nhà quản lý phải có quan điểm hệ thống khi xem xét sự việc, khi thu thập và xử lý thông tin, phải sử dụng các mô hình toán học trong việc ra quyết định quản lý và kiểm tra, công thức hóa các giải pháp quản lý. Lý thuyết định lượng về quản lý ra đời từ cuộc chiến thế giới lần thứ hai. Chiến tranh đã đặt ra nhiều vấn đề mới cho việc quản lý. Trong chiến tranh, nước Anh đã thành lập bộ phận nghiên cứu hành quân (Operation researrch team), bao gồm các nhà khoa học nghiên cứu đưa ra những mô hình toán (những mô hình đó dựa trên các phương trình toán học) nhằm đơn giản hóa các tình tiết tấn công, phản công và qua đó giúp các nhà chỉ huy quan sự tìm cách chống lại sự tấn công của nước Đức. Sau chiến tranh và từ thập niên 50, các kỹ thuật định lượng được các nhà công nghiệp Mỹ quan 21
  22. Đại cương về khoa học quản lý tâm và áp dụng vào việc nghiên cứu, tạo điều kiện để nâng cao tính chính xác của các quyết định quản lý. Lý thuyết hệ thống do L.P.Bertalafly, nhà sinh vật học người Ao đề xuất từ những năm 1940, và đến những năm 1960 - 1970 được áp dụng phổ biến trong quản lý. Thuyết này cho rằng: hệ thống là tập hợp các phần tử, các bộ phận có mối liên hệ qua lại bên trong tạo nên tính chất ưu việc hơn hẳn các phần tử riêng lẻ. Một hệ thống bao giờ cũng nằm trong một môi trường nhất định với các yếu tố cấu thành cơ bản: đầu vào, quá trình hoạt động và đầu ra. Trên thực tế mọi hệ thống đều là hệ mở với những mức độ khác nhau. Mọi hệ thống đều có cơ chế phản hồi thông tin để điều chỉnh khi cần thiết. Lý thuyết nghiên cứu tác nghiệp hay 'vận trù học" dựa trên tư tưởng là tất các vấn đề đều có thể được giải quyết bằng các mô hình toán, bao gồm các đặc trưng sau: Nhấn mạnh phương pháp khoa học trong quản lý; áp dụng phương pháp tiếp cận hệ thống và sử dụng các mô hình toán học để giải quyết các vấn đề; lượng hoá các yếu tố có liên quan và áp dụng các phép tính toán học, xác suất thống kê; sử dụng máy tính điện tử làm công cu để giả quyết các bài toán trong quản lý (tính toán thời gian, giá cả, khối lượng dự trữ nguyên liệu, nhân lực, kiểm tra, kiểm kê và thanh toán ) Kết quả từ những cố gắng này đã làm nảy sinh một lý thuyết mới về quản lý. Lý thuyết quản lý này được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Lý thuyết hệ thống (quantitative management), Lý thuyết khoa học quản lý (management science), Lý thuyết định lượng về quản lý. Tất cả các tên gọi này nhằm biểu đạt ý nghĩa về lý thuyết quản lý mới được xây dựng trên nhận thức cơ bản rằng: "Quản lý là quyết định" và muốn quản lý có hiệu quả thì quyết định phải đúng đắn. * Nhận xét trường phái định lượng về quản lý Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, đóng góp của trường phái định lượng về quản lý là sự nối dài và triển khai các quan điême của trường phái quản lý một cách khoa học. Trường phái định lượng về quản lý thâm nhập hầu hết mọi tổ chức hiện đại với những kỹ thuật phức tạp. Ngày nay lý thuyết khoa học quản lý - lý thuyết hệ thống, lý thuyết định lượng rất quan trọng cho các nhà quản lý, các tổ chức lớn và hiện đại. Các kỹ thuật của trường phái này đã đóng góp rất nhiều trong việc nâng cao trình độ hoạch định, xây dựng ngân sách tài chính, chương trình hóa sản xuất, bố tríviệc sử dụng tài nguyên và kiểm tra trong quản lý. Hạn chế của trường phái này là: Quá chú ý các yếu tố kinh tế - kỹ thuật trong quản lý hơn là các yếu tố tâm lý xã hội, không chú trọng đến yếu tố con người trong tổ chức quản lý; tìm kiếm các quyết định tối ưu trong hệ thống khép kín; các khái niệm và kỹ thuật quản lý của lý thuyết này khó hiểu, phải có những chuyên gia giỏi, do đó việc phổ biến lý thuyết này còn rất hạn chế. Nhiều nhà khoa học cho rằng lý thuyết hệ thống cũng chỉ như một phương pháp tư duy quản lý, chứ không giúp đưa ra được những lời giả cụ thể. 22
  23. Đại cương về khoa học quản lý 1.2.3.CÁC TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ CỦA Xà HỘI ĐƯƠNG ĐẠI (TỪ 1960) Không những kế thừa các tư tưởng quản lý trước đây, các học thuyết quản lý trong xã hội đương đại vừa mang tính văn hóa, tính nhân đạo, vừa mang tính hiện đại, trong đó phải kể đến 2 trường phái có ảnh hưởng lớn: Lý thuyết quản lý tổng hợp và thích nghi (thuyết tích hợp trong quản lý) và lý thuyết văn hóa quản lý của trường phái quản lý Nhật Bản. 1.2.3.1. Lý thuyết quản lý tổng hợp và thích nghi (thuyết tích hợp trong quản lý) Sự bùng nổ của thông tin và cuộc cách mạng thông tin đã làm cho xã hội loài người có những bước chuyển biến mang tính cách mạng mạnh mẽ trên bình diện của từng nước và toàn cầu và kéo theo là những thay đổi có tính cách mạng trong việc áp dụng những kỹ thuật công nghệ cao vào quá trình lao động. Từ đó xuất hiện những thuyết quản lý mới. Thực chất của thuyết này là sự tổng hợp và sử dụng những tư tưởng tốt nhất của các lý thuyết cổ điển, lý thuyết tâm lý xã hội, lý thuyết định lượng tạo thành lý thuyết quản lý tổng hợp và thích nghi hay còn là lý thuyết tích hợp - hội nhập. Trong hệ thống lý thuyết tích hợp có một số quan điểm sau: ™ Quan điểm quản lý quá trình của Harold Koontz Quan điểm này đã được đề cập từ đầu thế kỷ 20 qua tư tưởng của Henri Fayol, nhưng chỉ thực sự phát triển mạnh từ năm 1960 do công của Harold Koontz và các đồng sự. Tư tưởng này cho rằng quản lý là một quá trình liên tục của các chức năng quản lý, đó là hoạch định, tổ chức, nhân sự, lãnh đạo, kiểm tra và phản hồi. Các chức năng này được gọi là những chức năng chung của quản lý. Bất cứ trong lĩnh vực nào, từ đơn giản đến phức tạp, trong lĩnh vực sản xuất hay trong lĩnh vực dịch vụ thì bản chất của quản lý cũng không thay đổi, đó là việc thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý. Ngày nay quan điểm quản lý quá trình rất được chú ý và rất nhiều nhà quản lý từ lý thuyết đến thực hành ưa chuộng. ™ Quan điểm tình huống ngẫu nhiên của Fiedler Quan điểm này chủ trương rằng muốn quản lý hữu hiệu thì phải căn cứ vào tình huống cụ thể để vận dụng phối hợp các lý thuyết đã có từ trước. Nếu lý thuyết cổ điển và tâm lý xã hội cho rằng năng suất lao động là chìa khoá để đạt hiệu quả quản lý, còn lý thuyết địnhh lượng cho rằng việc ra quyết định đúng đắn là chìa khoá của quản lý, thì Fiedler là tác giả đại diện cho quan điểm tình huống ngẫu nhiên (còn gọi là phương pháp quản lý theo điều kiện ngẫu nhiên) cho rằng cần phải kết hợp các lý thuyết quản lý trên đây lại với nhau để vận dụng vào việc xử lý các tình huống quản lý trong thực tiễn. Ông cho rằng: quản lý học như thể cuộc đời, không thể dựa vào các nguyên tắc đơn giản. Một người thích xe gắn máy không nhất thiết phải thích xe Honda Dream II. Bởi vì, các yếu tố như tuổi tác, giới tính, mức thu nhập, tâm lý và những ưu điểm của tính năng kỹ thuật xe là những yếu tố ngẫu nhiên làm ảnh hưởng đến sở thích của họ. Quan điểm tình huống ngẫu nhiên muốn kết hợp những nguyên tắc quản lý vào trong từng hoàn cảnh thực tế cụ thể. Quan điểm này được xây dựng trên luận đề : "Nếu có 23
  24. Đại cương về khoa học quản lý X thì tất có Y, nhưng Y còn phụ thuộc vào điều kiện Z nào đó", như vậy, điều kiện Z là những biến số ngẫu nhiên. Quan điểm tình huống ngẫu nhiên đòi hỏi trực giác của các nhà quản lý phải linh hoạt, bởi vì các tổ chức khác biệt nhau về kích thước, mục tiêu, nhiệm vụ nên khó có thể có những nguyên lý chung áp dụng một cách khái quát. ™ Quan điểm quản lý tích hợp của Peter Drucker Peter Drucker (người Anh) với nhiều công trình nghiên cứ nổi tiếng như: "Thực hành quản lý", "Các giới hạn của quản lý xã hội mới" và đặc biệt là cuốn sách "Quản lý trong thời đại báo táp". Tư tưởng quản lý của ông tập trung các vấn đề: quản lý một doanh nghiệp, quản lý các nhà quản lý, quản lý công nhân và công việc. ¾ Quản lý một doanh nghiệp + Theo ông, quản lý một doanh nghiệp là tập trung vào nhiệm vụ kinh doanh, trong đó không nhất thiết chỉ là tối đa hóa lợi nhuận. Lợi nhuận là quan trọng, song chủ yếu nó là căn cứ để kiểm nghiệm khả năng quyết định trong quản lý các hoạt động kinh doanh. + Quản lý kinh doanh không phải là một nhiệm vụ thụ động, mà là hành động sáng tạo tạo ra các điều kiện hinh tế và thay đổi chúng khi cần thiết. + Khách hàng có tầm quan trọng đặc biệt, kinh doanh tồn tại và phát triển vì khách hàng. Vì vậy quản lý một doanh nghiệp bắt đầu từ mục đích là tạo ra khách hàng. Từ đó kinh doanh có hai chức năng quan trọng: marketing và cải tiến (hoặc phát triển). Marketing là các hoạt động nghiên cứu thị trường và phát triển sản xuất để cung cấp hàng hóa với giá cả và chất lượng mà khách hàng chấp nhận được. Cải tiến là tạo ra các điều khoản về hàng hóa và dịch vụ ngày càng tốt hợn, có lợi nhiều hơn. ¾ Quản lý các nhà quản lý Peter Drucker cho rằng các nhà quản lý là nguồn lực cơ bản và quý giá nhất trong các tổ chức kinh doanh; việc xây dựng đội ngũ quản lý rất tốn thời gain và công sức song lại có thể bị phá hủy bất cư lúc nào. Từ đó cần quan tâm đáp ứng các yêu cầu: + Quản lý theo các mục tiêu và tự điều khiển: Quản lý theo các mục tiêu đòi hỏi tổ chức công việc một cách thích hợp, có phạm vi quản lý và quyền lực rộng nhất; quản lý tự điều khiển là để kiểm soát công việc của chính nhà quản lý. + Liên kết công việc với yêu cầu của của cấp cao hơn. Một mặt, phải từ những việc mà cấp trên cần để đóng góp vào mục tiêu chung (gắn các lợi ích); mặt khác, người quản lý phải hướng cho cấp dưới đảm bảo sự hoạt động hài hòa trong cả doanh nghiệp. + Tạo ra tinh thần hợp lý trong tổ chức: cần yêu cầu cao đối với các nhà quản lý, đồng thiời động viên được họ thông qua việc khuyến khích, khen thưởng, tăng lương, đề bạt; tạo cơ hội phát huy khả năng cho mọi người. ¾ Quản lý công nhân và công việc Drucker nhấn mạnh yếu tố con người vì vậy cần tôn trọng và phát huy tiềm năng con người. Trong công việc, cần đặt cá nhân người công nhân trong quan hệ với nhóm lao động; làm việc ăn ý với nhau để cùng đạt tới mục đích chung. Phải mở rộng công việc nhằm tạo ra các cơ hội tốt cho công nhân "bán lành nghề", nhất là công nhân 24
  25. Đại cương về khoa học quản lý "cấp cao" có khả năng chỉ đạo công việc và kèm cặp những công nhân ít kinh nghiệm. Hướng này thích ứng với điều kiện sản xuất tự động hóa, trong đó công nhân không phải làm các công việc mệt mỏi một cách máy móc trên dây chuyền, mà điều khiển các thiết bị tự động - một việc làm mang tính tổng hợp giống như việc lập kế hoạch. Drucker nghiên cứu khá sâu về vấn đề ra quyết định quản lý và khẳng định "quản lý là một quá trình ra quyết định", phân biệt các quyết định chiến lược và các quyết định sách lược, trong đó các quyết định thực sự khó khăn là các quyết định chiến lược. Quá trình ra quyết định gồm 5 giai đoạn: + Xác định vấn đề: trả lời các câu hỏi vấn đề thực sự nằm ở đâu, trọng tâm của vấn đề là gì (cơ cấu tổ chức, chi phí sản xuất, quan hệ các nhân, kỹ thuật hay buôn bán). + Phân tích vấn đề: Xử lý thôn tin quản lý. + Khai thác các giải pháp thay thế: xem xét lại những giả định đã được đặt ra, nghĩ ra các giải pháp có thể lựa chọn và kiểm tra giá trị của chúng. + Tìm giải pháp tối ưu: So sánh các phương án khác nhau, lựa chọn một phương án tốt nhất. Để làm được điều này cần các tiêu chí: Sự mạo hiểm, tính kinh tế, sự thích hợp với từng thời điểm và giới hạn của các nguồn lực. + Đưa ra các quyết định hữu hiệu: biến các giải pháp tối ưu thành quyết định hành động mà mọi người phải tham gia một cách có trách nhiệm. Trong thời đại thông tin, toàn cầu hóa, đồng tiền xuyên quốc gia, hệ thống ngân hàng thế giới ngày càng mạnh, vai trò các nước công nghiệp mới (NICS) tăng lên nhanh chóng thì quản lý phải thích nghi và đổi mới và các vấn đề cần giải quyết là: + Quản lý sự thích nghi với lạm phát. + Duy trì khả năng thanh toán và sức mạnh tài chinh. + Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. + Chú trọng hiệu quả của lao động trí óc. Tóm lại, Quản lý trong thời đại "bão táp" là chính sách quản lý hướng về tương lai bằng cách phát triển tri thức và trách nhiệm của con người. 1.2.3.2. Lý thuyết văn hóa quản lý của trường phái quản lý Nhật bản Từ những năm 70 của TK XX, bên cạnh các lý thuyết quản lý của các nước phương Tây, ở một số nước phương Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore xuất hiện các lý thuyết quản lý riêng của mình. Thành công thần kỳ về kinh tế của Nhật bản đã khiến các nhà quản lý và khoa học quản lý phương Tây quan tâm, thậm chí sùng bái mô hình và phương pháp quản lý độc đáo Nhật Bản. Trong trường phái quản lý của Nhật Bản xuất hiện hai thuyết: Thuyết Z và những kỹ thuật quản lý Nhật Bản của William Ouchi và thuyết Kaizen - chìa khóa của sự thành công về quản lý ở Nhật Bản của Massaakimai. Các lý thuyết này ra đời trên cơ sở thực tế quản lý của các tổ chức ở Nhật Bản với những đặc thù về truyền thống văn hóa, tâm lý dân tộc. ™ Thuyết Z và những kỹ thuật quản lý Nhật Bản của William Ouchi Lý thuyết Z được một giáo sư người Mỹ gốc Nhật Bản là William Ouchi xây dựng trên cơ sở áp dụng cách quản lý của Nhật Bản trong các công ty Mỹ. Lý thuyết ra đời năm 1978, chú trọng đến yếu tố con người với các mối quan hệ xã hội trong tổ chức. 25
  26. Đại cương về khoa học quản lý Xuất phát từ gốc rễ văn hóa và tập quán Nhật Bản, thuyết Z cho rằng cần thay đổi mô hình quản lý kinh doanh dựa trên việc xây dựng một nền văn hóa kiểu Z cho môi trường bên trong của doanh nghiệp với các nội dung cốt lõi sau đây; - Công việc phải dài hạn, duy trì việc làm suốt đời cho công nhân, xây dựng trách nhiệm của cả hai bên (thợ và chủ) đối với nhau. - Tất cả hợp thành một gia đình, một cộng đồng sinh tồn có liên hệ khăng khít với nhau về tổ chức. - Không có sự áp đặt từ trên, các nhân viên tự xử sự cho phù hợp với từng tình huống. Mọi người đựơc tham gia vào quyết định chung. Thuyết Z cho rằng việc ra quyết định tập thể hiệu quả hơn quyết định từ cá nhân. Vì tập thể có nhiều kinh nghiệm hơn cá nhân. - Chăm lo đến chất lượng đời sống công nhân, giữa ban giám đốc và công nhân có sự gần gũi hơn nhờ thông tin thương xuyên hai chiều. ™ Lý thuyết Kaizen - chìa khóa sự thành công trong quản lý ở Nhật Bản của Masaakima Masaakiimai là Chủ tịch Công ty Cambridge - một hãng tư vấn quốc tế về quản lý thành lập 1962. Ông viết cuốn sách "Kaizen - chìa khóa sự thành công trong quản lý ở Nhật Bản" xuất bản 1986. Kaizen tiếng Nhật có nghĩa là "cải tiến", "cải thiện". Cốt lõi của Kaizen là những cải tiến nho nhỏ, cải tiến từng bước. Tại Nhật Bản, công việc này được cải tiến từng ngày và thông qua những cải tiến Kaizen người Nhật thường tận dụng những tài nguyên sẵn có như nhân lực, vật tư, thiết bị mà không tốn kém tiền của. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết họ sẵn sàng đầu tư một số tiền lớn cho việc cải tiến. Kaizen chú trọng tới quá trình thực hiện công việc, cải tiến quá trình thực hiện để có kết quả tốt hơn. Mặt khác Kaizen hướng về con người và những nỗ lực của con người. Điều này khác với các nhà quản lý phương Tây chỉ chú trọng tới kết quả. Kaizen còn nhấn mạnh đến vai trò của nhà quản lý trong việc ủng hộ và khuyến khích các nỗ lực của công nhân để cải tiến quy trình làm việc. Một nhà quản lý quan tâm đến Kaizen thường chú trọng đến: - Kỷ luật; - Quản lý thời gian; - Phát triển tay nghề; - Tham gia các hoạt động trong công ty; - Tinh thần lao động; - Sự cảm thông; - Sản phẩm có chất lượng; - Sản xuất vừa đủ và đúng lúc; - Công ty luôn ghi nhận các ý kiến đóng góp của công nhân; - Khuyến khích công nhân cải tiến và báo cáo mọi vấn đề phát sinh trong quá trình làm việc để người quản lý kịp thời giải quyết. * Nhận xét về thuyết Z và thuyết Kaizen 26
  27. Đại cương về khoa học quản lý Thuyết Z và thuyết Kaizen đều nêu bật giá trị của tập thể trong quản lý một tổ chức, đề cao quyết định tập thể, nỗ lực tập thể, đều chủ trương không khí gia đình trong doanh nghiệp và đều mong muốn hoạt động quản lý có hiệu quả cao. Tuy nhiên, thuyết Z chú trọng đến quản lý nhân viên trên cơ sở truyền thống văn hóa Nhật Bản, đề cao tinh thần thái độ làm việc của nhân viên. Trong khi đó, Kaizen hướng về sự cải tiến quản lý, cải tiến từng bước nhỏ trong công ty. Thuyết Z và thuyết Kaizen là chìa khoá của sự thành công về quản lý của Nhật Bản trong những năm qua và hiện nay. 1.3. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ 1.3.1. Quản lý là một tất yếu khách quan Từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì nhu cầu quản lý cũng hình thành như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Xã hội phát triển qua các phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy đến nền văn minh hiện đại trong đó quản lý luôn là một thuộc tính tất yếu lịch sử khách quan gắn liền với xã hội ở mọi giai đoạn phát triển của nó. Thuộc tính đó bắt nguồn từ bản chất của hệ thống xã hội đó là hoạt động lao động tập thể - lao động xã hội của con người. Trong quá trình lao động con người buộc phải liên kết lại với nhau, kết hợp lại thành tập thể. Điều đó đòi hỏi phải có sự tổ chức, phải có sự phân công và hợp tác trong lao động, phải có sự quản lý. C. Max: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng". Mặc dù quản lý là một thuộc tính tất yếu gắn liền với xã hội nhưng chỉ khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định thì quản lý mới được tách ra thành một chức năng riêng của lao động xã hội. Dần dần ra đời và hình thành những tập thể người, những tổ chức và cơ quan chuyên hoạt động quản lý - hệ thống quản lý (chủ thể QL). Xã hội càng phát triển về trình độ và quy mô sản xuất về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và công nghệ thì trình độ quản lý, tổ chức, điều hành, công nghệ quản lý cũng càng được nâng lên và phát triển không ngừng. Quản lý là một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển xã hội. Sự phát triển xã hội dựa vào nhiều yếu tố: sức lao động, tri thức, nguồn vốn, tài nguyên, năng lực quản lý. Trong đó năng lực quản lý được xếp hàng đầu. Năng lực quản lý là sự tổ chức, điều hành, kết hợp tri thức với việc sử dụng sức lao động, nguồn vốn và tài nguyên để phát triển xã hội. Quản lý tốt thì xã hội phát triển, ngược lại nếu buông lỏng hay quản lý tồi thì sẽ mở đường cho sự rối loạn, kìm hãm sự phát triển xã hội. Nguồn gốc phát triển loài người là lao động của cá nhân và lao động chung. C. Mác đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận 27
  28. Đại cương về khoa học quản lý động của toàn bộ cơ chế sản xuất Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Lao động chung cần có tổ chức và thống nhất nhằm tạo ra sức mạnh để đạt được mục đích chung. Như vậy, trong lịch sử phát triển loài người xuất hiện một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức - điều khiển con người với các hoạt động theo những yêu cầu nhất định; dạng lao động đó được gọi là quản lý. Thuật ngữ “ Quản lý “ ( tiếng việt gốc Hán ) lột tả bản chất của hoạt động này trong thực tiển. Nó gồm hai quá trình tích hợp vào nhau. Quá trình “ Quản “ gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ ổn định “; quá trình “ lý “ gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế “ phát triển ”. 1.3.2. Một số định nghĩa về quản lý Thuật ngữ "quản lý" tiếng Anh là management có nghĩa là sự quản lý. Đây là một danh từ có nhiều định nghĩa khác nhau, mỗi tác giả khi đề cập đến quản lý đều có một định nghĩa của riêng mình. Có lúc có người gọi là quản lý, có người gọi là quản trị. Trong thực tế, thuật ngữ quản lý và quản trị vẫn được dùng trong những hoàn cảnh khác nhau để nói lên những nội dung khác nhau, nhưng về cơ bản hai từ này đều có bản chất giống nhau. Có tác giả quan niệm: trong thực tiễn thuật ngữ "quản lý" có thể hiểu là hai quá trình tích hợp vào nhau: "Quản" là sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng thái ổn định; "Lý" là sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống vào thế phát triển. - Quản lý là một hoạt động thiết yếu nó bảo đảm phối hợp những nỗ lực các nhân nhằm đạt được các mục đích, mục tiêu của tổ chức. Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất (Harol Koontz - Những vấn đề cốt yếu của quản lý. NXB khoa học - Kỹ thuật, Hà Nội 1993). - Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy, phối hợp, hướng dẫn hoạt động của những người khác (Harol Koontz - Những vấn đề cốt yếu của quản lý. NXB khoa học - Kỹ thuật, 1993). - Quản lý là sự tác động của cơ quan quản lý vào đối tượng quản lý để tạo ra một sự chuyển biến của toàn bộ hệ thống nhằm đạt mục đích nhất định (tập thể tác giả Học viện Chính trị quốc gia, 1976). - Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra (Nguyễn Minh Đạo - Cơ sở khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997). - Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nguồn lực của tổ chức (Giáo trình Khoa học quản lý, tập I, Trường ĐH Kinh tế quốc dân, Nxb KH&KT, Hà Nội 2001). Suy cho cùng thì bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động ( tổ chức, điều khiển, chỉ huy ) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể và đối tượng quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được mục tiêu đã đề ra. 28
  29. Đại cương về khoa học quản lý Có thể QL là làm cho mọi việc được thực hiện. Xét về tính hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực thì: QL là sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Nếu nhấn mạnh đến yếu tố quan trọng nhất của QL là ra các quyết định thì: QL là đưa ra những quyết định đúng. Khi con người với tư cách là những cá nhân đơn lẻ không thể thực hiện để đạt được những mục tiêu mà họ đề ra thì họ bắt đầu hình thành các tập thể, nhóm. QL xuất hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt tới những mục tiêu chung. Theo định nghĩa của các tác giả trong tác phẩm: “Khoa học tổ chức và quản lý - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” - Trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức, quản lý - NXB Thống Kê - Hà Nội - 1999 thì quản lý là “một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung”. Tác giả Trần Kiểm định nghĩa: “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong suốt quá trình lao động". Một nhóm các nhà khoa học quản lý nước ngoài thì cho rằng: “Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm, có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định". Quản lý được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Quản lý là : phân công, điều hành, phối hợp hài hòa giữa các thành viên với các công việc và nguồn lực trong cơ quan, trong cộng đồng để hoàn thành một cách hiệu quả các nhiệm vụ, các mục tiêu, các kế hoạch đã được đưa ra. “Quản lý là : phải biết đào tạo, bồi dưỡng, chia sẻ trách nhiệm, quyền hạn và phải biết ủy quyền”.(Lê Hùng Lâm-Khái niệm, định nghĩa, chức năng chính của quản lý- 1997). Theo quan điểm hoạt động của một tổ chức: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến”. (Nguyễn Ngọc Quang-Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục - Trường CBQL TW- 1989). “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. (Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn thị Mỹ Lộc - Những cơ sở khoa học về quản lý giáo dục - Trường CBQL-Hà Nội 1997). Dù tiếp cận cách nào cũng cần xem xét bản chất của chức năng lao động đặc biệt này. Bản chất của hoạt động QL là tổ chức, chỉ huy và điều khiển phù hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu của tổ chức (đơn vị) đã đề ra. Từ những điểm chung của các định nghĩa trên, có thể hiểu quản lý là tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý (người quản lý) lên khách thể quản lý và đối tượng quản lý trong một tổ chức nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các 29
  30. Đại cương về khoa học quản lý cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường, làm cho tổ chức vận hành (hoạt động) có hiệu quả. Với định nghĩa trên, quản lý bao gồm các yếu tố sau: Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý và các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp từ chủ thể quản lý. Tác động có thể liên tục nhiều lần. Muốn quản lý thành công, trước tiên cần phải xác định rõ chủ thể, đối tượng và khách thể quản lý. Điều này đòi hỏi phải biết định hướng đúng. Chủ thể quản lý phải thực hành việc tác động và phải biết tác động. Vì thế chủ thể phải hiểu đối tượng và điều khiển đối tượng một cách có hiệu quả. Chủ thể có thể là một người, một nhóm người; còn đối tượng có thể là con người (một hoặc nhiều người), giới vô sinh hoặc giới sinh vật. Thuật ngữ quản trị thường được sử dụng cho quản lý ở phạm vi các đơn vị kinh tế cơ sở (tập đoàn, tổng công ty, công ty, doanh nghiệp, hộ kinh doanh ) Quản lý là một hoạt động khó khăn, phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng của xã hội loài người. Nhờ có QL mà có thể tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức (các thành viên của tổ chức, giữa những người bị QL với nhau và giữa những người bị quản lý với người quản lý. Từ đó mới có thể đạt được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất. Tóm lại: Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý một cách hợp quy luật nhằm đạt được mục tiêu chung. Quá trình tác động này có thể được thể hiện bằng sơ đồ 1 Từ các định nghĩa về quản lý chúng ta có thể nêu những nét đặc trưng phản ánh bản chất của quản lý: + Quản lý là hoạt động có mục đích của con người; + Quản lý là sự sắp xếp và thể hịên hợp lý các tác động có mục đích; + Quản lý là sự lựa chọn và quyết định các phương án tối ưu; + Quản lý là giảm tính bất định và tăng tính tổ chức của hệ thống (trong thực tiễn, hoạt động tổ chức là nét đặc trưng nhất của quản lý). Khoa học quản lý giúp chúng ta trả lời các câu hỏi: Thứ nhất, làm quản lý là làm gì? Bất cứ một tổ chức xã hội nào, nhà quản lý đều phải thực hiện quá trình quản lý bao gồm lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Thứ hai, đối tượng chủ yếu của quản lý là gì? Đối tượng chủ yếu và trực tiếp của quản lý là những mối quan hệ con người bên trong và bên ngoài tổ chức. Chủ thể tác động lên con người, thông qua đó mà tác động đến các yếu tố vật chất và phi vật chất khác như tiền vốn, vật tư, máy móc, thiết bị, công nghệ, thông tin để tạo ra kết quả cuối cùng của toàn bộ hoạt động. Như vậy, quản lý tổ chức thực chất là quản lý con người, vì vậy, quản lý tổ chức là dạng quản lý phức tạp nhất. Thứ ba, cách thức quản lý như thế nào? Cách thức quản lý bao gồm hệ thống các hình thức, phương pháp, phương tiện tổ chức và điều hành công việc quản lý. Như vậy, tính tổ chức - kỹ thuật của quản lý phản ánh trình độ tổ chức, công nghệ quản lý, quy mô phát triển của quản lý, nó không mang nội dung giai cấp mà nó phản ánh sự 30
  31. Đại cương về khoa học quản lý văn minh, tiến bộ xã hội về quản lý. Xã hội sau bao giờ cũng kế thừa và biết phát triển những giá trị tích cực về phương diện tổ chức - kỹ thuật quản lý của xã hội trước. Tổ chức được thành lập và hoạt động vì mục đích gì? Ai nắm quyền lãnh đạo, điều hành và phân phối các nguồn lực, phân phối sản phẩm của tổ chức? Ai là đối tượng và khách thể quản lý? Giá trị gia tăng nhờ hoạt động quản lý thuộc về ai? Trong thực tiễn, các tổ chức được những lực lượng khác nhau tạo ra nhằm thực hiện những mục đích khác nhau. Ai nắm quyền sở hữu người đó nắm quyền lãnh đạo tổ chức và họ sẽ quyết định những vấn đề của tổ chức. Đối tượng quản lý là những nguồn lực được thu hút vào hoạt động của tổ chức. Giá trị gia tăng tạo ra được phân phối như thế nào phụ thuộc vào mục đích của tổ chức. Có thể nói, phương diện xã hội của quản lý xuất phát từ bản chất của phương thức sản xuất xã hội. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm tư liệu sản xuất thì đồng thời nắm quyền quản lý và phân phối sản phẩm. Như vậy xét về phương diện xã hội thì quản lý trong xã hội chủ nghĩa khác với quản lý trong xã hội tư bản (thể hiện ở mục tiêu quản lý và quan hệ giữa người quản lý với người bị quản lý ). Lênin nói rằng: Trong xã hội tư bản "Quản lý để cướp bóc và cướp bóc để quản lý", "Người với người là chó sói ". Trong xã hội có giai cấp chủ thể quản lý bao giờ cũng đại diện cho giai cấp thống trị và do đó quản lý bao giờ cũng nhằm mục đích phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị. Quy mô của quản lý xã hội -Quản lý vi mô Là sự tác động, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người trong một phạm vi hẹp như quản lý các công ty, xí nghiệp, trường học v.v. -Quản lý vĩ mô Là sự tác động, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người trên một phạm vi rộng (quốc gia, vùng lãnh thổ ) bao gồm các nội dung như: + Hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xác định cơ cấu nền kinh tế quốc dân. + Xây dựng và thực hiện hệ thống các chính sách, các đòn bẩy kinh tế hay hệ thống các công cụ quản lý. + Hình thành bộ máy quản lý có hiệu lực. + Đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực.v.v. Quản lý còn có tác dụng định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu và hướng mọi nỗ lực của các cá nhân, của tổ chức vào mục tiêu chung đó. Tổ chức, điều hòa, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân trong tổ chức, giảm độ bất định nhằm đạt mục tiêu quản lý đã xác định. Tạo ra động lực cho hoạt động bằng cách kích thích, đánh giá, khen thưởng, trách phạt, tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cá nhân và tổ chức, đảm bảo phát triển ổn định, bền vững và có hiệu quả. 31
  32. Đại cương về khoa học quản lý Chủ thể quản lý Khách thể Mục quản lý tiêu Đối tượng quản lý Sơ đồ 1: khái niệm quản lý Lãnh đạo và quản lý Quản lý là quá trình ràng buộc và xử lý đối với sự vật trong phạm vi quyền lực; là quá trình tiến hành chỉnh lý và xử lý về nhân lực, vật lực và các tài nguyên khác nhằm thực hiện mục tiêu xác định. Lãnh đạo là hoạt động quản lý con người của người lãnh đạo; thống nhất điều khiển và hướng dẫn người bị quản lý nhằm thực hiện mục tiêu nhất định. Không ai nói lãnh đạo bàn nghế, tiền bạc, chỉ có thể nói là quản lý bàn nghế, tiền bạc. Lãnh đạo có thuộc tính nói chung là kế hoạch, tổ chức, khống chế quản lý. Tầng quản lý có tầng cao, tầng trung, tầng cơ sở. Quản lý tầng cơ sở là quản lý vi mô, quản lý trực tiếp con người, cơ sở vật chất, sự việc cụ thể, theo quy định thông thường; chấp hành nhiệm vụ cụ thể do cấp trên quyết định, tính độc lập không lớn. Quản lý tầng cao và trung là quản lý vĩ mô, là quản lý trực tiếp rất ít người, vật chất, sự việc cụ thể mà xử lý chủ yếu những vấn đề quan trọng có tính chiến lược và nguyên tắc, tính độc lập tương đối lớn; có thể xem quản lý tầng cao và trung là lãnh đạo. Quản lý nặng về chấp hành chính sách, tổ chức lực lượng hoàn thành mục tiêu tổ chức; theo đuổi hiệu quả của một loại công tác nào đó. Lãnh đạo là một loại quản lý có tính chiến lược. Lãnh đạo, điều khiển và quản trị là những thuật ngữ có mối quan hệ gần gũi với thuật ngữ quản lý nhưng không đồng nhất. 32
  33. Đại cương về khoa học quản lý Quan hệ lãnh đạo-tổ chức-quản lí TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ Lãnh đạo có thể hiểu theo hai nghĩa: - Thứ nhất, lãnh đạo là định hướng cho hành vi của tổ chức và con người. Theo nghĩa này lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối, định hướng phương pháp hoạt động cho một tổ chức. Còn quản lý là điều khiển, tổ chức thực hiện, ví dụ như Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Lãnh đạo ở đây bao gồm ba chức năng cơ bản: Quyết định chiến lược, quyết định cơ cấu tổ chức và giám sát hoạt động của tổ chức. - Thứ hai, lãnh đạo là quá trình tác động đến con người sao cho họ sẽ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Theo nghĩa này, lãnh đạo là một chức năng của quản lý, bao gồm các hoạt động chỉ đạo, điều hành, phối hợp của người quản lý đối với các cá nhân, bộ phận thừa hành trong tổ chức. Thuật ngữ lãnh đạo và quản lý không đồng nhất với nhau, chúng được giải thích tùy thuộc lĩnh vực nghiên cứu. Cả hai thuật ngữ đều bao hàm ý tác động và điều khiển nhưng khác nhau về mức độ và phương thức tiến hành. Lãnh đạo là quá trình định hướng dài hạn cho chuỗi các tác động của chủ thể quản lý, còn quản lý là quá trình chủ thể tổ chức liên kết và tác động lên đối tượng bị quản lý để thực hiện các định hướng tác động dài hạn. Như vậy, lãnh đạo và quản lý có mối quan hệ hữu cơ với nhau, lãnh đạo là quản lý nhưng mục tiêu rộng hơn, xa hơn, khái quát hơn. Còn quản lý là lãnh đạo trong trường hợp mục tiêu cụ thể hơn và chuẩn xác hơn. Người lãnh đạo tạo ra một viễn cảnh để có thể tập hợp được con người, còn người quản lý tập hợp nhân tài vật lực để biến viễn cảnh thành hiện thực. Trong lãnh đạo có quản lý, trong quản lý có lãnh đạo, hay muốn lãnh đạo thành công phải quản lý có hiệu quả và muốn quản lý có hiệu quả phải có lãnh đạo đúng đắn. Quản trị Thuật ngữ này thường được dùng để chỉ các hoạt động quản lý ở phạm vi các đơn vị kinh tế cơ sở như công ty, xí nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh hay trong các văn phòng cơ quan, đơn vị. 33
  34. Đại cương về khoa học quản lý 1.4. QUẢN LÝ VỪA LÀ KHOA HỌC VÀ NGHỆ THUẬT, MỐI LIÊN HỆ GIỮA KHOA HỌC QUẢN LÝ VÀ CÁC KHOA HỌC KHÁC 1.4.1. Quản lý là một khoa học Khoa học quản lý là hệ thống các tri thức lý luận bao gồm các khái niệm, phạm trù, các quy luật, các nguyên tắc, phương pháp và kỹ năng quản lý cần thiết. Khoa học quản lý nói chung và khoa học quản lý của từng lĩnh vực, từng ngành nói riêng có đối tượng, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp nghiên cứu cụ thể của nó. Dựa trên các quy luật vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội mà lý luận khoa học quản lý được hình thành. Đồng thời xuất phát từ những quy luật của khoa học quản lý mà các lĩnh vực, các ngành (kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục ) căn cứ vào đặc điêm cụ thể để xây dựng lý luận khoa học quản lý riêng cho ngành mình. Khoa học quản lý có quá trình hình thành, phát triển mạnh mẽ và ngày nay nó trở thành một môn khoa học quan trọng. Nhờ có tri thức khoa học mà các nhà quản lý đề ra được các giải pháp quản lý có căn cứ, phù hợp với quy luật khách quan trong những vấn đề quản lý cụ thể. Tính khoa học của quản lý đòi hỏi các nhà quản lý trước hết phải nắm vững những quy luật liên quan đến quá trình hoạt động của tổ chức. Nắm vững quy luật thực chất là nắm vững hệ thống lý luận về quản lý. Tính khoa học của quản lý còn đòi hỏi các nhà quản lý phải biết vận dụng các phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ quản lý, biết sử dụng những thành tựu của khoa học và kỹ thuật (như các phương pháp đo lường, định lượng, dự đoán, các phương pháp tâm lý xã hội học, các công cụ xử lý, lưu trữ, truyền thông, công nghệ thông tin v.v ) vào trong công tác quản lý. ¾ Đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lý Là một khoa học, khoa học quản lý có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động của tổ chức. Những quan hệ này có thể là quan hệ giữa tổ chức với môi trường, hay mối quan hệ giữa các cá nhân và tập thể v.v Khoa học quản lý nghiên cứu các mối quan hệ trên nhằm tìm ra những quy luật và cơ chế vận dụng các quy luật đó trong quá trình tác động lên con người, thông qua đó mà tác động lên các yếu tố vật chất khác (các nguồn lực) một cách có hiệu quả. Khoa học quản lý sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho việc nghiên cứu sâu các môn học về quản lý theo từng lĩnh vực hoặc theo ngành chuyên môn hóa như: quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp, quản lý hành chính nhà nước, quản lý giáo dục, quản lý văn hóa, xã hội v.v ¾ Nội dung nghiên cứu của khoa học quản lý Khoa học quản lý nghiên cứu những nội dung cơ bản sau: - Cơ sở lý luận và phương pháp luận của khoa học quản lý; - Quá trình quyết định quản lý và đảm bảo thông tin cho các quyết định; - Các chức năng quản lý; - Người quản lý, 34
  35. Đại cương về khoa học quản lý - Các vấn đề về kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý và đổi mới các hoạt động quản lý tổ chức v.v Ngoài ra, khoa học quản lý của từng lĩnh vực, từng ngành còn có những nội dung nghiên cứu cụ thể khác. ¾ Phương pháp nghiên cứu của khoa học quản lý Khoa học quản lý sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu của các khoa học như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp toán học, xác suất, thống kê, tâm lý và xã hội , trong đó khoa học quản lý lấy phương pháp phân tích hệ thống làm phương pháp nghiên cứu chủ yếu của mình. Phương pháp phân tích hệ thống trong khoa học quản lý được đặc trưng bởi các nội dung sau: + Xem tổ chức như một hệ thống mở, vận động và tồn tại theo những quy luật khách quan. Hệ thống này bao gồm nhiều bộ phận, nhiều nhân tố ảnh hưởng trong mối quan hệ tác động qua lại để tạo thành một chỉnh thể. Nếu một nhân tố, một bộ phận nào đó có "vấn đề" sẽ ảnh hưởng đến các nhân tố và bộ phận khác và đến cả hệ thống. + Tổ chức không chỉ là một hệ thống nói chung mà là hệ thống kinh tế - xã hội. + "Vấn đề" không cố định ở một nhân tố, hoặc bộ phận nào của tổ chức mà luôn biến động. Giải quyết tốt vấn đề của nhân tố hoặc một bộ phận này có thể lại xuất hiện vấn đề thuộc nhân tố hoặc bộ phận khác. + Động lực phát triển chủ yếu của tổ chức là những nhân tố bên trong tổ chức. + Để nghiên cứu, quản lý thường được phân tích thành các chức năng quản lý. Tiêu chí để hình thành các chức năng quản lý là quá trình quản lý và các lĩnh vực của hoạt động quản lý. 1.4.2. Quản lý là một nghệ thuật Tính nghệ thuật của quản lý xuất phát từ tính đa dạng phong phú, muôn hình muôn vẻ của các sự vật và hiện tượng trong quản lý. Không phải mọi hiện tượng đều mang tính quy luật và cũng không phải mọi quy luật về tổ chức, quản lý đều đã được nhận thức thành lý luận. Tính nghệ thuật của quản lý còn xuất phát từ bản chất của quản lý, suy cho cùng quản lý là sự tác động tới con người với những nhu cầu và các mối quan hệ hết sức đa dạng phong phú. Những mối quan hệ của con người luôn đòi hỏi nhà quản lý phải xử lý khéo léo, linh hoạt, "nhu hay cương", 'cứng hay mềm" và điều đó khó có thể trả lời hay áp dụng chung cho tất cả mọi trường hợp. Mặt khác, tính nghệ thuật của quản lý còn phụ thuộc vào kinh nghiệm, tâm lý cá nhân của từng nhà quản lý, phụ thuộc vào cơ may, vận hội và rủi ro v.v Có thể nói, quản lý là một khoa học, nhưng sự thực hành quản lý là một nghệ thuật. Harol Koonkz nói rằng: Các kiến thức về quản lý là một khoa học còn với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật. Nghệ thuật quản lý thường được thể hiện trong thực tiễn quản lý. Đó là nghệ thuật "biết làm thế nào" để đạt được một kết quả cụ thể tối ưu nhất. Nghệ thuật quản lý đoi hỏi sự khôn khéo, tinh tế và những kinh nghiệm trong cách "đối nhân xử thế", là "nét riêng độc đáo của từng nhà quản lý". 35
  36. Đại cương về khoa học quản lý 1.4.4. Quản lý là một nghề (nghề quản lý) Quản lý là một dạng hoạt động lao động xã hội. Vì vậy, muốn làm quản lý phải đi học nghề thì mới có thể tham gia các hoạt động quản lý. Nhưng quản lý có thành công hay không, có giỏi nghề và gắn bó với nghề hay không, lại tùy thuộc vào nhiều yếu tố của nghề như: học ở đâu, cách học nghề ra sao, chương trình thế nào, người dạy có truyền hết nghề hay không, năng khiếu nghề nghiệp, ý chí, lương tâm của người học nghề, các tiền đề tối thiểu về vật chất ban đầu cho sự hành nghề v.v Như vậy, muốn quản lý có kết quả thì trước tiên nhà quản lý tương lai phải được phát hiện năng lực, được đào tạo về nghề nghiệp, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm một cách chu đáo để phát hiện, nhận thức một cách chuẩn xác và đầy đủ các quy luật khách quan, đồng thời có phương pháp nghệ thuật thích hợp nhằm tuân thủ đúng các đòi hỏi của các quy luật đó. 1.4.5. Mối liên hệ giữa khoa học quản lý và các khoa học khác Xuất phát từ tính tổng hợp trong lao động quản lý mà khoa học quản lý là một khoa học liên ngành. Trong quá trình phát triển của mình, khoa học quản lý đã kết hợp với nhiều môn khoa học khác, sử dụng những luận điểm và thành tựu của các khoa học để giải quyết nhiều vấn đề của lý luận và thực tiễn quản lý. Khoa học quản lý đã dựa trên cơ sở lý luận của Triết học, Kinh tế học để phát triển và gắn bó chặt chẽ với nhiều môn khoa học cụ thể trong lĩnh vực kinh tế như: Kinh tế nông nghiệp, Kinh tế công nghiệp, Kinh tế thương nghiệp, Kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, Kinh tế và và tổ chức sản xuất các xí nghiệp, Tổ chức lao động khoa học. Khoa học quản lý cũng phát triển trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với khoa học Thống kê, Hạch toán kế toán, Tài chính, Phân tích hoạt động kinh doanh, Marketing, Kinh doanh quốc tế v.v Khoa học quản lý sử dụng nhiều thành tựu của các ngành khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật như Toán học, Điều khiển học, Tin học, Công nghệ học v.v Khoa học quản lý sử dụng nhiều luận điểm và kết quả nghiên cứu của các môn khoa học xã hội nghiên cứu về con người như Xã hội học, Tâm lý học, Giáo dục học, Luật học v.v 36
  37. Đại cương về khoa học quản lý Chương 2. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ 2.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CHỨC NĂNG QUẢN LÝ 2.1.1. Khái niệm chức năng quản lý Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt, thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. Khái niệm "Chức năng quản lý "gắn liền với sự xuất hiện phân công và hợp tác lao động trong quá trình sản xuất. Tổ hợp tất cả các chức năng quản lý tạo nên nội dung của quá trình quản lý, nội dung lao động của người quản lý và là cơ sở để phân công lao động quản lý, để hình thành và hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý. 2.1.2. Phân loại các chức năng quản lý Việc phân loại các chức năng quản lý dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau: Phân loại theo quá trình quản lý Theo tiêu chí này các nhà khoa học đã nêu ra những quan điểm khác nhau về phân loại các chức năng quản lý: ¾ Theo Henry Fayol (1841 - 1925) Ông nêu ra 5 chức năng quản lý, thường gọi là "Những yếu tố Fayol" đó là: - Kế hoạch hoá; - Tổ chức; - Chỉ huy (hay ra lệnh); - Phối hợp; - Kiểm tra. ¾ Theo V.G Afanaxiep Ông nêu ra 5 chức năng quản lý: - Ra quyết định; - Tổ chức; - Đều chỉnh; - Sửa chữa; - Kiểm tra. ¾ Theo các tài liệu của tổ chức UNESSCO Gần đây tổ chức UNESCO tổng kết về hệ thống chức năng quản lý bao gồm: - Lập kế hoạch; - Tổ chức; - Chỉ đạo; - Kiểm tra. Phân loại theo hoạt động của tổ chức Theo tiêu chí này các hoạt động của tổ chức được phân thành các lĩnh vực và gắn liền với chúng là các chức năng quản lý sau: - Quản lý lĩnh vực sản xuất - Quản lý lĩnh vực marketing - Quản lý lĩnh vực tài chính 37