55 Ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ

pdf 430 trang ngocly 2160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "55 Ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdf55_ngay_che_do_sai_gon_sup_do.pdf

Nội dung text: 55 Ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ

  1. 55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ Vài lời của tác giả Quyển sách này viết dựa trên sự việc thật. Cách giải thích sự kiện là của riêng tôi. Tôi đã tự tiện trong hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là cách dùng tên. Nhiều người Nam Việt Nam trong phe chiến bại yêu cầu tôi đừng dùng tên thật của họ trong các bản tin sau “ngày giải phóng”. Điều ấy tôi không làm ở đây. Các
  2. viên chức và chiến sĩ cộng sản và viên chức cao cấp Sài Gòn đều được ghi bằng tên thật của họ. Trường hợp tự tiện thứ hai là trong mọt số hoàn cảnh cần phải cô lại các sự kiện đã diên ra ở một nơi nào đó và phải cho chúng diễn ra với một nhân vật. Binh nhì Đức của thuỷ quân lục chiến là trường hợp điển hình. Mọi sự kiện, thời gian đều đúng nhưng đôi khi không diễn ra với Đức.
  3. Sẽ có những người trong chính quyền mới ở Nam Việt Nam tức giận về những từ ngữ dùng trong sách. Tôi đã sử dụng cách nói thông thường của báo chí. Tôi biết từ Việt Cộng, cộng sản làm họ khó chịu. Nhưng đấy là cách mà thế giới hiểu về họ. Alan Dawson Hoả tốc Chính phủ Sài Gòn đầu hàng Trong nghề đưa tin, một bức
  4. điện hoả tốc là lời thỉnh cầu hành động. Nó cắt ngang bất kỳ một bản tin nào đang chyển trên máy têlêtip. Chuông của máy reo mười lần, một dấu hiệu làm thót bụng phòng nhận tin ở bất cứ nước nào trên thế giới. Điện hoả tốc không phải là một bản tin. Nó là một đầu đề, chỉ có vài chữ báo hiệu một sự kiện trọng đại. Cuộc ám sát một tổng thống Mỹ được xếp loại tin hoả tốc. Và lúc kết thúc chiến tranh Việt Nam cũng vậy.
  5. Khi Dương Văn Minh đang nói, phóng viên UPI đánh máy ngay một điện hoả tốc và trao nó cho nhân viên điều khiển máy têlêtíp. 40 giây sau, chuông của 7.500 máy têlêtip vòng quanh thế giới reo lên 10 lần. Đám đông tụ tập lại trước mỗi máy và đây là cái họ đọc được: “ZCZC VHAO 25 NXI Hoả tốc Sài Gòn-Chính phủ Sài Gòn đầu hàng. NTL 1021 Sáng”.
  6. Một điện hoả tốc luôn luôn được lặp lại để tránh trường hợp bị nhẫm lẫn hoặc giả mạo. Sau đó 60 giây là một bản tin, như sau: “ZCZ NNN Bản tin Hoà bình-30/4 của Alan Dawson Sài Gòn-30 tháng 4 (UPI) Tổng thống Dương Văn Minh hôm nay ra thông báo Nam Việt Nam đầu hàng và ra lệnh binh sĩ thuộc chính quyền ngừng
  7. chiến đấu. NTL 1022 Sáng”. Nỗi kinh hoàng bị kiềm chế trong bản tin giật gân nhất của thập kỷ Lẽ tất nhiên hầu hết phản ứng ở Sài Gòn khác nhau khi dân chúng chuẩn bị sẵn sàng để đón sự kết thúc. Trong vòng 30 phút tiếng súng lẻ tẻ trên đường phố biến mất. Phần lớn tiếng súng ở khu phố trung tâm là bắn chỉ thiên của kẻ cướp uy hiếp nạn nhân hoặc của những người đuổi theo bọn
  8. cướp giật. Bản thân bọn cướp cũng phải vét mẻ cuối cùng và đi thẳng về nhà. Các cửa thường và cửa sắt đều được khóa lại. Ngay cả những chủ tiệm và chủ nhà hàng người Pháp ở Sài Gòn cũng đem bàn ghế vào nhà. Im lặng bao trùm thành phố. Tại Cần Thơ, tướng ba sao Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4 và đồng bằng sông Cửu Long cuối cùng phải nhận và mất hết cả rồi khi ông ta
  9. nghe bản tin phát thanh của Minh. Chiến trường vùng châu thổ ít sôi động trong suốt cuộc tiến công. Bắc Việt Nam chọn lối đánh chớp nhoáng từ Tây sang Đông và tiến từ Bắc xuống Nam, tới tận Sài Gòn. Trong vòng 30 phút sau bài diễn văn của Minh và lệnh đầu hàng, Nam đã đưa khẩu súng ngắn “côn 45” vào miệng rồi bóp cò và chết ngay tức khắc. Những người lính dù, biệt động quân chiến bại, cay đắng từ
  10. phía Bắc và phía Tây vào thành phố. Họ nổi giận, dù không tỏ vẻ kinh hoàng, sẵn sàng cướp giật và trong nhiều trường hợp, sẵn sàng giết người nước ngoài. Thái độ họ bắt đầu thay đổi, phần lớn muốn vứt bỏ tất cả dấu vết có dính líu đến quân đội. Trên một phố chính của Sài Gòn, đường Tự Do nơi mà trong nhiều năm qua lính Mỹ đã chật ních trong các quán rượu và tiệm ăn, binh sĩ cởi quân phục và lập tức trở thành
  11. thường dân. Nửa tá lính nhảy dù cởi bộ đồ trận rằn ri của họ, ném súng và đạn xuống đất rồi chạy trốn đến nơi nào chẳng ai biết được. Quần áo dân sự bấy nay cất kín trong ba lô, lúc này là thời điểm dùng đến. Cho nên, khi đến nơi, quân đội Bắc Việt Nam đã nhận thấy ít binh sĩ mặc quân phục ra đầu hàng. Như thường lệ, cảnh sát vẫn đi trước binh sĩ trong việc bỏ nhiệm sở. Tại một số bót cảnh sát đã có cờ trắng. Sĩ quan cảnh
  12. sát hút xăng ra khỏi các xe Jeeps đổ vào xe gắn máy của họ, rồi về nhà. Cảnh sát luôn luôn có áo quần dân sự để thay đổi. Trong im lặng, Sài Gòn chờ đợi những người cầm quyền mới, trừ một bộ phận dân chúng và Việt Cộng nằm vùng đang sung sướng tưởng có thể phát điên. Tại “Dinh Độc Lập”, trong lúc chờ đợi đầu hàng, Minh lớn có vẻ ủ rũ, trầm ngâm và hai má hóp lại. Những người thân tín
  13. của Minh cũng thế. Những chiếc xe tăng Bắc Việt Nam xuất hiện và phá toang cổng dinh. Mấy người lính cộng sản tìm thấy cầu thang lên bao lơn sân thượng,lột bỏ lá cờ vàng sọc đỏ của “Việt Nam Cộng hoà” và kéo lên thay bằng lá cờ xanh đỏ sao vàng của Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Họ kéo vào văn phòng mà ngày trước Thiệu sử dụng. Họ ngồi xuống ghế. Một người trong số đó đặt hai chân lên bàn làm việc của người
  14. tổng thống cũ-dấu hiệu tột cùng của sự khinh bỉ-và để một nhà nhiếp ảnh chụp hình. Tướng Hạnh cũng bàn giao Bộ tổng tham mưu và dẫn lấy người đại uý Việt Cộng đến “giải phóng” toà nhà. Khoảng ba tá lính bảo vệ còn lại ở dinh được lệnh sắp hàng bên trong đội hình của xe tăng Bắc Việt Nam. Họ được chỉ dẫn đưa vũ khí lên không trung, kéo khoá an toàn và bóp cò. Một cách tượng trung, đó là những phát
  15. súng cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam.
  16. Chương 1 : Mở màn Trụ sở cơ quan tình báo trung ương Nam Việt Nam được đặt tại bờ sông Sài Gòn, cùng một phía với Bộ tư lệnh hải quân. Từ các cửa sở của nó, người ta có thể nhìn thấy một quảng trường lớn, với một pho tượng đồ sộ, tượng Trần Hưng Đạo, “Thành tổ” của hải quân Nam Việt Nam. Trong 5 năm, trung sĩ lục quân
  17. Lê Tăng đã làm việc tại một số phòng thuộc loại bí mật nhất của phủ đặc uỷ trung ương tình báo. Những phòng này được canh giữ nghiêm mật bởi những lính quân cảnh hoàn toàn tin cậy. Một trong những công việc của trung sĩ Tăng là chọn lọc báo cáo của các nhân viên tình báo chiến trường và các đội quân dã chiến. Anh ta cùng với một số ít chuyên viên tình báo khác chọn lọc báo cáo, cố gắng phân biệt
  18. tin thật với tin giả, nhận ra những cuộc chuyển quân của VC và Bắc Việt Nam qua lại trong 44 tỉnh của Nam Việt Nam. Có giá trị hơn hết bất cứ loại tin tình báo nào khác mà các viên chức Sài Gòn nắm trong tay, những tin tức chuyển quân chính là dấu hiệu để đoán xem CS sẽ tấn công ở nơi nào và đôi khi đoán được cả vào lúc nào. Phạm vi chuyên môn của trung sĩ Tăng là vùng Sài Gòn, nhưng
  19. đến cuối tháng 1-1975, anh ta nắm luôn công việc đánh dấu trên sơ đồ sự chuyển quân của Bắc Việt Nam ở vùng Tây Nguyên, cách Sài Gòn hơn 200 dặm. Tăng và các nhà phân tích báo cáo từ nhiều nguồn tin khác nhau trên nguyên tắc-và ngay cả cấp trên họ-không được biết xuất xứ. Giống như tình báo CIA Mỹ, tình báo Nam Việt Nam cũng chỉ phân phối tin tức một cách rất hạn chế. Tăng có
  20. được báo cáo và không cần biết nguồn tin. Nhưng trải qua nhiều năm, anh ta đã đoán được xuất xứ của báo cáo, bằng cách học được lối nhận ra một số mật danh, mật hiệu và cách hành văn, đoán xem báo cáo là của nhân viên tình báo hay của những người chỉ huy các toán quân. Một việc không bình thường đã xảy ra trong bộ phận của Tăng vào đầu tháng 2-1975 là trên bàn làm việc của anh ta bắt đầu
  21. xuất hiện những báo cáo tình báo không đi qua hệ thống chuyển tin thường lệ. Lần lượt, nội dung những báo cáo này đã được dùng để thiết lập bản đồ tác chiến trong phủ tình báo rồi sau đó ở Bộ tổng tham mưu, dinh tổng thống, các cơ sở chỉ huy quân đoàn, đại sứ quán Mỹ và sở chỉ huy quân đội Hoa Kỳ. Người ta còn nói rằng cả ở Lầu Năm Góc và Nhà Trắng nữa. Những bản đồ ấy mà chúng ta có thể gọi là bản đồ của Tăng,
  22. bởi vì chúng hoàn toàn là sản phẩm của Tăng, cho thấy CS tập trung số quân khổng lồ xung quanh Pleiku và Kontum, hai thành phố cách nhau 20 dặm và cách Sài Gòn 250 dặm về phía Bắc trên vùng Tây Nguyên. Không ai đặt vấn đề với những bản đồ của Tăng. Anh ta là một chuyên viên và là nhà phân tích có uy tín cao. Xét cho cùng, Tăng chỉ lập bản đồ theo các tài liệu trên bàn làm việc của mình và theo những hồ sơ mật vốn
  23. xuất xứ từ báo cáo ở chiến trường. Trong cách cư xử, trung sĩ Tăng chẳng qua chỉ là một binh sĩ Sài Gòn như mọi người khác, chống + một cách ôn hoà, một người không đặc biệt nổi bật trừ công việc anh ta làm và năng lực trí tuệ trên mức trung bình. Do sự thông minh ấy, Tăng được trọng dụng. Không có hoạt động quân sự nào lớn xung quanh Kontum và Pleiku vào đầu năm 1975. Nó tập trung xa
  24. hẳn về phía Nam, xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột. Những báo cáo của trung sĩ Tăng và các bản đồ từ đó mà vẽ ra đều là tài liệu giả. Ngày 28-4, trung sĩ Tăng không đến làm việc tại phủ đặc uỷ. Cấp trên của anh ta cũng đang lo sợ trong giờ phút Sài Gòn hấp hối, không chú ý đến sự vắng mặt này. Thực tế phần lớn trong bọn họ cũng không ngồi tại bàn làm việc hôm ấy, mà đã ở Guam hoặc Philippin.
  25. Tăng xuất hiện trở lại táig trong buổi sáng 30-4-“ngày giải phóng”. Suốt 72 giờ sau đó, anh ta đã hướng dẫn các đơn vị quân đội Bắc Việt Nam, chỉ cho họ thấy các cơ sở chủ chốt, các khu cư xá cần được lục soát hoặc cần được canh giữ. Ngày 3-5, đại uý Lê Tăng của lực lượng vũ trang giải phóng nhân dân thuộc Cộng hoà miền Nam Việt Nam lên nắm quyền chỉ huy tiểu đoàn tình báo quân cảnh mà anh đã bí mật làm việc
  26. với họ trong hơn 3 năm qua. Trong khi đó, quân đội Sài Gòn tan rã từng mảng. Có nhiều người nói rằng nó chưa bao giờ được kết lại thành một khối vững chắc cả. Người Mỹ cũng tranh cãi với nhau xem ai là kẻ chịu trách nhiệm về sự tồi tệ của quân đội ấy? Cốt lõi của quân đội Sài Gòn vào năm 1954 là lực lượng Việt Nam thân Pháp được gom lại ở Nam Việt Nam khi lực lượng của ông Hồ Chí Minh tiếp quản Hà Nội.
  27. Lúc ấy có những người Mỹ-nổi bật là đại tá E.Lansdale-một bóng ma trọn vẹn-vẫn nghĩ rằng quân đội Sài Gòn phân nhỏ và cơ động. Họ lập luận rằng, quân đội này nên được huấn luyện kỹ về chiến thuật chống du kích, chống nổi dậy, bởi vì đối thủ của họ-ít ra cho đến thập kỷ 60-vẫn gồm phần lớn là du kích Việt Minh và cán bộ chính trị nằm lại ở Nam Việt Nam. Nhưng vì những lý do sai lầm,
  28. quân đội Sài Gòn buộc phải trở thành một đội quân lớn, thiếu cơ động và huấn luyện tồi. Nó được trang bị loại vũ khí đúng là tốt nhất ở Đông Nam Á, đặc biệt từ ngày Mỹ bắt đầu rút quân-ngày 10-7-1969, nhưng các sĩ quan của nó thường không thể sử dụng những vũ khí này, còn các binh sĩ thì không đủ sức bảo quản chúng. Khi mỹ nắm lấy các nỗ lực chiến tranh tại Việt Nam và bắt đầu “cố vấn” trực tiếp quân đội
  29. Sài Gòn thì những người chủ trương một quân đội nhỏ, được huấn luyện cao về kỹ thuật chống du kích đã đi vào lãng quên và phần lớn không được đả động đến. Với họ, cái cần thiết là một đội quân lớn được trang bị đầy đủ đối phó với sự xâm lược ào ạt qua khu phi quân sự như từng diễn ra ở Triều Tiên năm 1950. Thế là quân đội Sài Gòn ngày càng trở nên to lớn hơn. Đến năm 1975, trên giấy tờ, đội
  30. quân đã tới hơn 1 triệu người. Nó tỏ ra hoàn toàn không có khả năng đối phó với quân du kích của thời kỳ 12 và 15 năm trước. Không ai chịu nhìn nhận một sự thật nữa là nó còn bất lực trong việc đối phó với những cuộc tấn công bằng quân chủ lực. Chính những sĩ quan Mỹ cho rằng chỉ có không lực Hoa Kỳ mới cứu nổi Nam Việt Nam khỏi thất bại năm 1972 lại thường nói rằng quân đội Sài Gòn đã chuyển mình một cách
  31. mầu nhiệm và bí hiểm thành một lực lượng chiến đấu có hiệu quả. Điều rõ ràng là quân đội Sài Gòn trở thành bộ phận chính trong hệ thống cấp bậc của chính quyền Nam Việt Nam. Trừ Diệm không phải là tướng, khi Thiệu lên nắm chính quyền thì đã là tướng ba sao. Bề ngoài Thiệu bỏ cấp bậc của mình nhưng cơ cấu quyền lực và hậu thuẫn cho Thiệu đều bắt nguồn trực tiếp từ quân đội.
  32. Điều mà ít người Mỹ và Nam Việt Nam phát hiện được vào tháng 3-1975 là tinh thần quân đội Sài Gòn đang tan rã. Đội quân này chiến sĩ có vũ khí tốt hơn bất kỳ nước châu Á nào khác, có nhiều máy bay chiến đấu hơn bất kỳ chính quyền chư hầu nào khác trên thế giới, có nhiều đạn dược, xăng dầu, quân cụ, xe cộ và lương thực hơn hầu hết các quân đội trên thế giới. Nó chỉ thiếu mỗi một điều thôi. Một người Mỹ nói với
  33. một binh sĩ Sài Gòn rằng: “Chúng tôi đã cho anh mọi thứ anh cần, trừ sự dũng cảm. Chỉ tại anh không có thứ ấy”. Không có thứ ấy vì binh lính thiếu ý muốn chiến đấu. Việc người lính biết họ chiến đấu chống lại cái gì là rất quan trọng. Người lính Nam Việt Nam đều nói là họ “chống cộng” nhưng điều ấy lại không phải là niềm tin. Từ trong tiềm thức, họ đã tự hỏi mình chiến đấu cho cái gì đây? Câu trả lời
  34. là cho sự tiếp tục tồn tại của chế độ hiện tại-một chế độ ngày càng tham nhũng, ngày càng có sự cách biệt giữa kẻ giàu và người nghèo và nạn lạm phát. Một số ít muốn chiến đấu để sống khá hơn. Những kẻ sống khá giả thì lại hướng về cuộc sống không chiến đấu. Con trai, con gái và con rể của Thiệu đều ra nước ngoài du học. Nếu có viên tướng Nam Việt Nam nào lại có con trong quân đội thì điều đó không được biết công
  35. khai. Ngược lại, người lính cộng sản biết họ đang chiến đấu cho cái gì: để “giải phóng” đồng bào bị áp bức ở miền Nam và để xây dựng sự nghiệp cách mạng. Hỏi một chiến sĩ Bắc Việt Nam sau khi chuộc chiến tranh chấm dứt: -“Anh có mừng khi chiến tranh chấm dứt để giờ đây anh có thể trở về nhà được không?’ -“Tôi rất mừng khi chiến tranh chấm dứt!-Anh ta trả lời-Nhưng
  36. đây mới chỉ là một giai đoạn cách mạng. Chúng tôi còn nhiều công việc trước mắt khi có thể trở về nhà!”. Người Bắc Việt Nam được uốn nắn bằng những mục tiêu quyện vào nhau chặt chẽ: “Giải phóng miền Nam, đuổi Mỹ khỏi đất nước, xây dựng Việt Nam thành một nước cộng sản thống nhất”. Tháng 1-1975, một bước phát triển không được làm rùm beng ở nước ngoài, nhưng lại được truyền miệng trong khắp
  37. hàng ngũ cấp dưới của quân đội Sài Gòn lúc bấy giờ. Nó chính là một trong những cái đinh cuối cùng đóng lên chiếc quan tài của quân đội Sài Gòn. Việc đó xảy ra ở thị trấn Phước Bình, thành phố chính của tỉnh Phước Long, nơi được CS chọn làm chỗ thử cho cuộc tiến công năm 1975 của họ. Phước Bình rơi vào tay CS thành cái chìa khóa mở ra sự sụp đổ cuối cùng của Nam Việt Nam không đầy 4 tháng sau đó.
  38. Phước Bình không có lính chính quy đóng giữ. Khi bị tấn công, các tướng của quân đội Sài Gòn chờ đợi cùng với Thiệu, con người luôn đòi cho được tiếng nói sau cùng trong bất kỳ cuộc giao tranh quân sự quan trọng nào. Người ta chẳng làm vì cả. Đấy là một sự thật khó tin, nhưng đã làm suy sụp toàn bộ tinh thần quân đội Sài Gòn. Phản ứng của Mỹ là đáng kinh ngạc. Trên thực tế người Mỹ
  39. chẳng làm gì khi mất Phước Bình. Chính quyền Mỹ bị buộc phải nói công khai rằng người Mỹ sẽ không bao giờ trở lại cuộc chiến ở Nam Việt Nam dù trên đất liền, trên biển, trên không, trong bất cứ tình huống nào. Khi Hoa Kỳ chỉ chấp nhận chiến đấu ở Việt Nam năm 1975 bằng lời nói chứ không phải bằng súng đạn thì niềm vui tràn ngập ở Hà Nội. Nguyễn Văn Thiệu theo dõi diễn biến trận đánh Buôn Ma
  40. Thuột từ văn phòng mình trong dinh Độc Lập, một toà nhà hình hộp nằm trên một nền đất rộng lớn, cách toà đại sứ Mỹ ở Sài Gòn hai khu phố. Dinh do Ngô Đình Diệm xây vào những năm 60 bằng tiền của Mỹ, nhưng Diệm không sống nổi đến lúc dinh được hoàn thành. Nằm gần trên cùng trong đống hồ sơ “lưu” của Thiệu là một kế hoạch được các nhà vạch kế hoạch trong Bộ tổng tham mưu trình lên vào tháng giêng để đối
  41. phó với những bất ngờ. Về thực chất, nó kêu gọi rút quân trên phần lớn đất nước để đội quân trên 1 triệu người của Sài Gòn có thể bảo vệ những khu vực đông dân. Thiệu có thể quan sát biến cố Buôn Ma Thuột. Kế hoạch kêu gọi một cuộc rút lui toàn bộ ra khỏi hầu hết Tây Nguyên, một khu vực từ Bắc Buôn Ma Thuột trùm lên phía Tây của Nam Việt Nam. Các đại tá vạch kế hoạch và các tướng lĩnh phê
  42. chuẩn nó nói rằng trong địa thế hiểm trở, không thể nào phòng thủ được trước bất kỳ cuộc tập trung quy mô lớn nào của quân CS. Cuộc tập trung ấy rõ ràng đang được tiến hành vào đầu năm 1975. Theo các nhà vạch kế hoạch, phải rút khỏi những vùng thưa dân. Nếu cuộc rút lui được tổ chức tốt, được giữ bí mật để trong vài ngày có thể di chuyển cả quân đội lẫn dân chúng cư ngụ trong thành phố thì có thể
  43. chyển sang ngăn chặn bước tiến của CS vào các vùng đồng bằng duyên hải quan trọng hơn. Khi kế hoạch trình lên hồi tháng giêng. Thiệu đã xem xét một cách nghiêm chỉnh, xếp nó vào hồ sơ vì lập trường không lay chuyển của Thiệu là không bỏ một tấc đất đã chiếm giữ. Nhưng kế hoạch lại có lý đến nỗi Thiệu không thể bác bỏ thẳng thừng được, nên đã giữ nó trong tay theo đúng tính chất của nó-một kế hoạch để đối
  44. phó với những sự bất ngờ. Vấn đề là khi sự bất ngờ đã xảy ra thì Thiệu chẳng còn đủ sức thực hiện kế hoạch như đã vạch ra nữa. Nhờ vào hệ thống thông tin liên lạc tương đối tinh vi được lắp đặt trong dinh Độc Lập. Đại tá E.Lansdale, con người của Bộ quốc phòng-CIA-Bộ ngoại giao Mỹ đã cho lắp đặt hệ thống này từ năm 1955. Nó đi song song nhưng không lệ thuộc vào hệ thống truyền tin quân sự Nam
  45. Việt Nam. Trải qua nhiều năm, hệ thống thông tin liên lạc được hoàn chỉnh, cải tiến càng hiện đại. Cho đến khi mất Buôn Ma Thuột, Thiệu vẫn có thể nói chuyện thẳng với các sĩ quan chiến trường. Trong khi các quân sư của tổng thống tung tin rằng CS đang bị đẩy lùi bởi những cuộc phản công thì Thiệu lại biết những điều khác hẳn. Trong hoàn cảnh khó khăn, Thiệu quan sát bản đồ
  46. tình huống trong văn phòng của mình và không thích gì những điều đang diễn ra trước mặt. Thậm chí Thiệu cũng chẳng biết rằng, các bản đồ đang lừa dối mình, vì lực lượng tình báo Sài Gòn đã không biết và hiểu biết sai lạc do trung sĩ Tăng và những VC xâm nhập khác đánh lừa. Cái mà Thiệu không biết và do đó nước cờ sắp tới của tổng thống trở thành quyết định trọng yếu và độc nhất dẫn tới
  47. việc mất toàn bộ Nam Việt Nam là: bộ đội CS không thực sự ở tại nơi mà bản đồ chỉ ra nó. Những người lính Bắc Việt Nam mà người ta tưởng rằng đang ở xung quanh Pleiku, trên thực tế lại đang chiến đấu hay chờ lệnh tấn công ở nam Buôn Ma Thuột. Một lý do chính về sự đổ vỡ trong hệ thống tình báo là quân đội Sài Gòn chẳng còn chú ý gì đến công tác thu lượm tin tức tình báo. Dù thế nào thì họ vẫn
  48. chưa bao giờ làm đủ các cuộc do thám tầm xa. Khi các toán trinh sát của Mỹ ra đi trong những năm 1969-1970, quân đội Sài Gòn không đủ sức lấp lỗ trông sinh tử này. Vào khoảng thời gian mà những lá cờ xanh đỏ sao vàng được kéo lên trong các vùng VC vừa chiếm được ở Buôn Ma Thuột ngày 12-3, thì Thiệu đang quyết định nước cờ định mệnh. Theo như người ta được biết, Thiệu không thảo luận với ai cả và
  49. cũng đã không trao đổi ý kiến cả với người Mỹ. Đại sứ Hoa Kỳ G.Martin lúc ấy lại không ở tại Sài Gòn. Ông ta đang kéo dài kỳ nghỉ vốn đã quá dài nằm tại nhà ở bang Bắc Carolina trong lúc Thiệu muốn nói chuyện với ông ta. Vì Thiệu không tin người Mỹ nào khác ngoài Martin lúc đó,thành ra khi Thiệu cần một cái vai Mỹ để dựa thì đạidiện của Washington lại không ở cạnh đó. W.Lehmann ngồi làm việc
  50. khuya tại văn phòng của mình ở Sài Gòn, tạm thay thế cho đại sứ Martin đang vắng mặt quá lâu trong kỳ nghỉ phép, đang gặp rắc rối về vụ một viên chức Mỹ là Struharick đang bị mắc kẹt ở Buôn Ma Thuột. Một viên chức Mỹ bị bắt sẽ gây rắc rối thế nào cho Hoa Kỳ ? Đáng lẽ Mỹ đã phải nằm ngoài cuộc chiến tranh Việt Nam. Các bức điện ngắn đầy hốt hoảng từ Bộ ngoại giao và Nhà Trắng thông báo cho Lehmann rằng không
  51. được từ một nỗ lực nào trong việc giải cứu Struharick ra khỏi Buôn Ma Thuột là một vấn đề khó xử mà Lehmann vẫn phải vật lộn với nó. Lehmann ước ao Martin có mặt ở Sài Gòn để chính ông ta tự quyết định lấy. Lehmann biết, nếu Struharick bị bỏ lại, rõ ràng Martin sẽ nối cáu với ông ta. Lehmann không biết khi nào Martin mới có thể trở lại Sài Gòn, vì Martin đã cắt liên lạc với sứ quán như ông ta vẫn làm
  52. trong mùa hè vừa qua, khi vắng mặt lâu dài khỏi nhiệm sở ở Sài Gòn. Thậm chí không ai biết Martin đã đi đâu trong thời gian tạm rời khỏi Sài Gòn, trừ việc ông ta viếng thăm nông trại của mình ở Italia và về thăm nhà ở Bắc Carolina. Lehmann không hy vọng cứu Struharick ra khỏi Buôn Ma Thuột bằng phương viện phụ thuộc vào người Nam Việt Nam. Không hy vọng Sài Gòn sẽ biệt phái-dù chỉ một người
  53. lính rời trận đánh để giúp việc đưa một người Mỹ ra khỏi thị xã. Hy vọng giải pháp duy nhất do các nhân viên sứ quán đề nghị là cho một trực thăng của Air America, hàng không của CIA do sứ quán Mỹ “thuê” đến hạ cánh ở Buôn Ma Thuột để chộp lấy Struharick. Một chiếc trực thăng đã thử làm đúng như thế vào buổi chiều hôm ấy, nhưng hoả lực tên lửa đất đối không tì vào vai để bắn { A -72 } đã có mặt ở đây khiến cho
  54. chiếc trực thăng UH-1 phải quay về sở chỉ huy Nha Trang. Thế là Lehmann bị bó tay. Vì mục đích tuyên truyền, người phát ngôn của Bộ tư lệnh ở Sài Gòn, trung tá Lê Trung Hiền đã nói với các nhà báo vào ngày 11-3, cuộc tấn công Buôn Ma Thuột là một phần của cuộc tấn công trên toàn quốc. Nhưng hành động và phản ứng của Sài Gòn cho thấy Hiền chỉ hô khẩu hiệu mà thôi. Thật ra, có một số rất ít người
  55. thực sự nghĩ rằng CS có cơ hội chiến thắng bằng quân sự trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng cái thiểu số đó bị cười nhạo báng nhiều đến nỗi họ rất ít khi dám nói dài dòng để bảo vệ lập luận của mình. Trong khi đóng tại Sài Gòn, trung sĩ Tăng và những người của ông ta làm việc của họ với những bản đồ giả, tin tức tình báo giả và dữ kiện sai lạc. Việc đánh lừa thành công. Trong khi lực lượng chiến đấu của Bắc Việt Nam di
  56. chuyển đến Buôn Ma Thuột một cách bí mật thì bộ chỉ huy Sài Gòn lại điều lực lượng của họ khỏi Buôn Ma Thuột để chống lại sự uy hiếp tưởng tượng ở Pleiku. Một câu hỏi xác đáng là tại sao người Mỹ lại không di tản trước ra khỏi Buôn Ma Thuột? Hình như có một niềm tin quá đáng của người Mỹ với quân đội Sài Gòn, cho rằng quân đội này hoàn toàn đủ sức bảo vệ bất kỳ thị xã nào như Buôn Ma Thuột.
  57. Nguyễn Văn Mười khôg phải là một người lính may mắn. Anh ta bị bắt lính vào quân đội Sài Gòn lúc đang ở nhà tại vùng đồng bằng sông Cửu Long vào năm 19 tuổi, cách đó hơn 4 năm về trước. Tên của Mười là con số “10” trong tiếng Việt, và ngoài việc không thích quân đội, Mười còn ghét cách chơi chữ thường xuyên của bạn đồng ngũ đối với tên anh ta. Tục danh của anh ta là “năm- bơ ten” (number ten), tiếng
  58. lóng của lính Mỹ để chỉ cái gì “tồi tệ nhất”. Mười không thích thú gì với cách khôi hài dai dẳng ấy, chẳng khác nào một người điều khiển thang máy chán ngấy cái cảnh phải nghe người ta than phiền về những lúc lên lúc xuống trong cuộc sống. Mười đã đảo ngũ một lần, bị quân cảnh bắt lại và bị đổi đến sư đoàn 23 ở Buôn Ma Thuột như là một hình phạt. Sư đoàn 23 là nơi an trí cho nhiều lính quân
  59. dịch Nam Việt Nam bất mãn và vì thế, nó là một trong những đơn vị yếu nhất trong số 13 sư đoàn chiến đấu của Sài Gòn. Sáng ngày hôm ấy, Mười nhận ra mình đang nằm trong hố cá nhân ở tường ngoài của văn phòng ngôi nhà tỉnh trưởng, con người thế lực nhất tại Buôn Ma Thuột. Anh ta nghe thấy cuộc giao tranh tiến gần trong 31 giờ qua khi anh ta quan sát từ hố cá nhân của mình. Cũng như khoảng một tá lính
  60. khác ở trong và chung quanh ngôi nhà tỉnh trưởng, Mười không biết rằng viên tỉnh trưởng đã trốn chạy mất rồi. Ông ta đã tìm nơi trú chân tại sở chỉ huy sư đoàn 23. Thực ra cũng chẳng sao, chỉ có điều là Mười không biết rằng mình đang bảo vệ một ngôi nhà trống. Một chiếc xe tăng Bắc Việt Nam do Liên Xô chế tạo nghiến xích trên đường phố tiến đến ngôi nhà viên tỉnh trưởng, tháp pháo đậy lại và trông có vẻ dữ
  61. tợn. Mười lặng người đi. Chiếc tăng bắt đầu tiến vào nhà tỉnh trưởng. Khẩu đại bác 100 ly ở mặt trước của nó từ vị trí bắn bắt đầu hạ xuống. Mười thình lình nhận ra rằng nó sắp sửa phá vỡ văn phòng tỉnh trưởng bằng lối bắn thẳng. Trong tay Mười chỉ có súng M.16. Anh ta nằm úp sấp và nhắm mắt lại lắng nghe tiếng xe trườn trên lưng anh ta để xông vào nhà viên tỉnh trưởng. Hình như chiếc xe tăng không định
  62. nghiến nát Mười dưới hàng xích của nó. Đến khi Mười mở mắt thì đã thấy lá cờ xanh đỏ sao vàng của VC bay trên sở chỉ huy tiểu khu. CS đã có thể tuyên bố chiến thắng ở Buôn Ma Thuột. Phước Long là một đòn thử. Buôn Ma Thuột là kế hoạch. Kế hoạch đã xong được bước đầu. Không có gì ngăn cản cộng sản đi các bước tiếp.
  63. Chương 2 : Lỗi lầm chí tử Không có dấu hiệu nào cho thấy Martin lại muốn hoặc có thể khuyên giải Thiệu đừng đi nước cờ tai hoạ ngày 12-3. Ngày Thiệu đi nước cờ ấy, người Mỹ đã khen ngợi “đấy là giải pháp duy nhất có thể được”. Nó chứng tỏ người Mỹ quá thiếu hiểu biết đối với người lính Sài Gòn mà họ đang làm cố vấn. Một lý do khác biện hộ cho quyết định của Thiệu được
  64. đưa ra bởi tay phụ tá quân sự cao cấp là Đặng Văn Quang. Theo lời tố cáo của phóng viên hãng truyền hình NBC (1971) thì Quang là tay buôn lậu thuốc phiện lớn nhất nước và là kẻ chèo lái cho Thiệu trong các vụ tham nhũng khác. Quang tuyên bố VC đã bắn tin đến dinh Độc Lập là hoặc phải rút sạch khỏi Tây Nguyên hoặc là các thành phố này bị san thành bình địa. Câu chuyện hoàn toàn mang tính chất tự bào chữa.
  65. Đến ngày 15-3, quyết định của Thiệu rút bỏ Tây Nguyên đã thành hình. Buổi sáng thứ bảy hôm ấy, Thiệu lên chiếc máy bay DC6 riêng của tổng thống và bảo phi công đi thẳng đến vịnh Cam Ranh. Thiệu chọn Cam Ranh cho cuộc so găng với các tư lệnh quân đội bởi vì các tướng lĩnh sẽ không thể về hùa với nhau để áp đảo Thiệu ở đó được. Căn cứ vốn ít được sử dụng đến và không phải là sân nhà của bất cứ viên tư lệnh
  66. quân đội Sài Gòn nào. Sẽ không có “lợi thế sân nhà” cho các tướng lĩnh trong phiên họp cãi vã mà Thiệu đoán chắc thế nào cũng xả ra. Thiệu nghĩ không sai. Các tướng lĩnh Sài Gòn đã đón Thiệu gần cái đường bay dài gần 2 dặm trên bãi cát Cam Ranh. Mấy phút sau khi đến nơi, Thiệu đã ra lệnh di tản Pleiku và Kontum. Phạm Văn Phú choáng người. Viên tư lệnh quân đoàn 2 không
  67. thể nào chấp nhận một cuộc rút lui trước khi nhập trận. Phú không đến nỗi bất ngờ trước quyết định đó của Thiệu vì đã nghe tin đồn đó từ trước khi Thiệu triệu tập họp, nhưng Phú cứ làm ra vẻ kinh ngạc. Phú đã hỏi Thiệu có nói đùa không? Làm sao có thể rút lui trước khi xảy ra cuộc tấn công? Phú nói thậm chí không chắc có quân cs ở xung quanh Buôn Ma Thuột. Tiếp đó Phú trở nên giận dữ khi Thiệu một mực
  68. nhắc lại những điều về vấn đề rút lui. Phú cãi lại rằng tất cả sẽ đổ sụp nếu rút lui. Nhưng Thiệu khăng khăng một mực giữ vững lập luận cho rằng bám trụ Tây Nguyên chỉ làm phí sinh mạng. Những người ấy có thể được sử dụng tốt hơn trong việc phòng ngự dải đất duyên hải vốn có giá trị chiến lược và đông dân hơn. Sau 90 phút, Thiệu nhắc lại lệnh rút bỏ cao nguyên. Thiệu giáp mặt Phú và bảo viên tướng
  69. mắc bệnh lao phổi này rằng, chỉ có hai cách lựa chọn: hoặc là thi hành lệnh, hoặc bị thay thế và ngồi tù để người khác thi hành lệnh. Thiệu quay gót, lên chiếc DC6 và bay về Sài Gòn. Còn Phú lấy trực thăng lên sở chỉ huy ở Nha Trang. Thế rồi cái gì đã xảy ra trong cơn sốt lúc bấy giờ được che phủ trong màn bí mật và những lời tự bào chữa. Cuộc hành trình đầy nước mắt đã bắt đầu trong đêm chủ nhật 16-3 ấy.
  70. Các sĩ quan Sài Gòn ra lệnh cho binh lính ủi sập thành phố và đốt cháy càng nhiều càng tốt. Trong khi đó, các căn cứ quân sự lại gần như nguyên vẹn. Tại Pleiku và Kontum, 62 máy bay có khả năng cất cánh bị bỏ lại. Một đài rada hàng triệu đôla với khả năng theo dõi sự di chuyển trên mặt đất và trên không cũng như đường bay của tên lửa cũng bị bỏ lại nguyên vẹn. Các phi công trực thăng thấy cơ hội làm ăn đã đến. Đám phi
  71. công do Mỹ huấn luyện ấy đã kiếm được một số tiền đáng kể trên nỗi lo sợ của đồng bào họ. Giá một vé đi từ Pleiku ra bờ biển là 100 đôla đã nhanh chóng tăng lên đến một lạng vàng. Trong cuộc di tản, thậm chí nó còn lên cao hơn nữa. Nhiều phi công đã kiếm đủ tiền tiêu xài suốt đời khi họ đến Hoa Kỳ bằng máy bay chú Sam sau đó một tháng. Các quân nhân Sài Gòn sớm nhận biết đây không phải là rút
  72. lui mà là cuộc rút chạy. Cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên là dòng binh lính trà trộn vào dân, hoặc là binh lính kinh hoàng thấy dân trà trộn với mình. Đến thứ hai, các hãng tin phương Tây đánh đi những bản tin nói về sự bỏ rơi Tây Nguyên và mặc dù chưa ai đoán chắc lệnh này xuất phát từ đâu nhưng có bằng chứng rõ ràng là cuộc ra đi của binh lính và dân chúng đang tiến triển. Đến lúc này chính quyền Sài Gòn bị
  73. buộc phải nói láo. Như thường lệ. Lê Trung Hiền, nhận lấy công việc nói láo cho chính quyền. Trưa ngày chủ nhật, 16-3, Hiền họp báo trong cái phòng ngạt thở ở tầng trên một ngôi nhà ở đường Tự Do và nói với các nhà báo đang hoang mang trước tin đồn bỏ rơi Pleiku rằng: “Sở chỉ huy quân đoàn 2 vẫn đóng ở Pleiku. Chỉ có bộ phận chỉ huy chiến thuật là đang dời về Nha Trang. Không có lệnh nào di tản khỏi
  74. Pleiku cả ”. Trưa thứ hai, Hiền lại tiếp tục câu chuyện giả dối này. Tại sao Hiền làm như thế-nói đúng hơn là tại sao cấp trên lại ra lệnh cho Hiền tiếp tục làm như vậy? Thật khó mà biết được! Chỉ biết khi bỏ rơi xong xuôi hai thành phố này, Hiền trơ mặt ra, uốn lưỡi nói với các nhà báo: “không có quyết định bỏ rơi hai thành phố này. Một số đơn vị chúng tôi được chuyển khỏi vùng này, chỉ vì lý do chiến
  75. thuật”. “Phóng sự của các ông hoặc viết ra theo trí tưởng tượng, hoặc thiếu cơ sở sẽ gây bối rối và kinh hoàng cho dân chúng Tây Nguyên”. Hiền nói với các nhà báo như vậy. Khi hàng trăm nghìn người di tản đã chết thì Hiền lại họp báo, trưa thứ ba, có bớt gay gắt một chút. Trưa thứ tư, 19-3, Hiền lại bọp báo, trình bày cuộc di tản như là “lớn nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam” nhưng vẫn
  76. khăng khăng nói rằng quân đội Sài Gòn còn ở lại phía sau để phòng thủ thành phố. Đây là cách nói, cách nhìn của Sài Gòn. May mắn thay, thế giới không nhìn theo cách nhìn ấy. Trong khi cuộc hành trình đó rời khỏi Pleiku, các đơn vị VC ở ngay sau lưng nó. Trong các đơn vị ấy, cấp chỉ huy và binh lính đều do Bắc Việt Nam huấn luyện. Khi họ đi vào, thành phố đang cháy âm ỉ. Bộ đội chiến đấu của họ tiến vào
  77. căn cứ không quân với súng ở tư thế sẵn sàng. Họ chiếm giữ vành đai rộng lớn quanh căn cứ. Không ai đụng chạm đến cái rada trị giá 1 triệu đôla hoặc bất kỳ thứ trang bị nào khác. Các chuyên viên sẽ đến xem xét các thiết bị do Mỹ chế tạo mà lính Sài Gòn đã bỏ lại. Trong lúc này, VC chỉ có việc canh giữ chúng thôi. Trên thực tế,ở Pleiku cũng như nơi khác, bộ đội VC đầu tiên vào thành phố đều không đụng chạm đến thứ
  78. gì cả. Họ dập tắt sự chống cự nếu có, đi khắp nơi với vũ khí ở tư thế sẵn sàng. Chẳng hề có trộm cắp, thậm chí những cảnh hư đốn của chiến tranh, thí dụ như đồng hồ trên tay người lính chết, đều còn nguyên vẹn Mấy nghìn linh hồn quyết định ở lại Pleiku không trốn chạy đã dè dặt bước ra khỏi nhà và cửa hàng, những gì mà thành phố còn để lại cho họ. Binh lính và thường dân nhìn nhau một cách thận trọng để
  79. tìm xem là thù địch hay thận trọng. Trong hầu hết các trường hợp, chỉ có sự tôn trọng dân chúng của cac binh sĩ VC, những người ít được dịp nhìn thấy cuộc sống thành phố của những người Nam Việt Nam. Những lá cờ ở Pleiku và các nơi khác đã là vật phá vỡ sự dè dặt giữa người lính chiến thắng và thường dân. Cờ VC xuất hiện khắp nơi, trước cửa nhà, cửa hàng, cột cờ và thậm chí trên cây. Việc treo cờ đã làm cho cả
  80. người mới đến lẫn người ở đây cảm thấy có cái gì chung và cả hai đều thở phào khi họ có cơ hội cùng nhau treo cờ để phá tan sự ngại ngùng ban đầu. Cán bộ tuyên truyền đi theo sau bộ đội, đôi khi chỉ sau vài phút. Họ phân tán và giữ an ninh cho Pleiku. Ở nơi nào họ đến, cs đều thông báo: “Đồng bào đừng sợ hãi! Bộ đội giải phóng không làm hại ai cả. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam
  81. sẽ bảo vệ đồng bào. Không còn phải lo sợ sự tàn bạo và đàn áp của chính quyền Sài Gòn Pleiku đã ở trong tay nhân dân”. Đây là một thông cáo được loan truyền ở bất cứ nơi nào mà quân Bắc Việt Nam đến trong suốt tháng ba và tháng tư. Họ đã không hề lùi bước trong suốt 55 ngày cuối cùng của cuộc chiến. Lẽ tất nhiên, bộ đội tuân theo chỉ thị đến từng chữ một. Họ là chiến sĩ giỏi, tuân lệnh
  82. hoàn toàn, không bao giờ chất vấn tại sao cấp trên lại muốn thế này hoặc thế kia? Một trong những lý do là mọi mệnh lệnh đều được giải thích trước khi ban hành. Trong khi người lính đối thủ của họ trong quân đội Sài Gòn hay quân đội Mỹ bỏ đi nhậu nhẹt, xem phim hay hộp đêm thì binh sĩ của lực lượng vũ trang giải phóng ngồi học tập chính trị dưới hình thức một bài diễn thuyết, một cuộc hội thảo vấn đáp, v.v Các buổi học tập
  83. chính trị tạo ra ý thức hệ cho những người chưa biết, tạo ra động cơ hành động. Mục đích nằm sau những buổi học tập này là làm cho chiến sĩ hiểu không những họ đang làm gì mà tại sao lại phải làm như thế? Nếu có cái gì đó làm cho các tướng lĩnh Mỹ phải thán phục “Sác-li” (tiếng lóng để gọi lính cs) thì đấy chính là động cơ làm cho các chiến sĩ chiến đấu. Như thế là bộ đội vào chiếm Pleiku cũng như các thành phố
  84. khác ở Nam Việt Nam không những họ biết rằng họ không được lấy chiến lợi phẩm mà còn hiểu vì sao phải làm như thế. Cái gì thuộc về nhân dân là của nhân dân. Bởi vì nhà nước là nhân dân. Nó nghe có vẻ kỳ quặc đối với những người lớn lên trong xã hội tư bản phương Tây. Nhưng với tính cách là khuôn mẫu và nền móng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nó được chiến sĩ VC và Bắc Việt Nam hiểu, tin và thi hành từ vùng
  85. châu thổ đến khu phi quân sự trong suốt năm 1975. Ở mỗi địa phương sau khi giải phóng, ít có những lời khiếu nại về việc lấy chiến lợi phẩm hoặc trộm cắp. Rõ ràng đấy là một trong những lý do tại sao không có đơn vị quân cảnh mặc sắc phục nào được gửi vào vùng Sài Gòn. Chỉ có một hoặc hai đại đội gồm nhân viên tình báo chìm làm việc dưới sắc phục quân cảnh mà thôi. Bộ đội tự họ giữ kỷ luật tốt đến mức nhìn
  86. chung quân cảnh được sử dụng tốt hơn trên chiến trường với vai trò chiến đấu hoặc yểm trợ chiến đấu. Kỷ luật của người lính, những người noi theo gương ông Hồ Chí Minh đã gây ảnh hưởng lớn trong các thành phố-nói nôm na là trong các vùng vốn theo lối sống phức tạp của phương Tây. Nói tóm lại, tại Pleiku, tác phong của bộ đội cs được biết là điển hình. Ở những nơi khác cũng đều tốt như vậy cả. Cá
  87. nhân người chiến sĩ có thể nghĩ rằng, người Mỹ là loài thú dữ đáng bị bắn khi bắt gặp để trả thù những gì mà họ gây ra cho gia đình, bè bạn và đất nước mình. Nhưng lúc bấy giờ mệnh lệnh là đối xử đàng hoàng với người Mỹ và người chiến sĩ đã làm đúng như thế. Không có vấn đề ngược đãi người Mỹ nào hoặc ngược đãi hạng người nào trong “nhân dân”. Thậm chí một vật tầm thường nhất cũng không bị lấy đi, trừ phi có lệnh
  88. chiếm lấy những thứ “vì lợi ích cách mạng”. Trường hợp như vậy, việc trưng dụng món đồ sẽ được giải thích mặc dù không nhất thiết làm cho người chủ hài lòng. Điều này ít ra cũng là những gì mà người dân đô thị sau này kể lại về những ngày đầu tiên sau chiến thắng.
  89. Chương 3 : Cuộc rút chạy bắt đầu Cuộc tấn công bắt đầu lúc 11 giờ đêm ngày 19-3. Cuộc tấn công của Bắc Việt Nam vừa được chín ngày và bốn tỉnh đã nằm trong tay cs. Binh nhì Đức của thuỷ quân lục chiến Sài Gòn chưa bao giờ thấy nhiều xe tăng đến thế trong đời mình và anh ta hoảng sợ. Xung quanh Đức, binh sĩ đang sử dụng hoả lực hoặc nhìn trân
  90. trân như bị thôi miên trước những chiếc xe tăng. Hàng hàng lớp lớp chúng đang nghiến xích sắt băng qua cánh đồng. Lúc bấy giờ là 1 giờ sáng và quân phòng thủ trong làng gần nhất bị san bằng đã rút ra sau khoảng 10 phút giao tranh với những chiếc xe tăng đến từ ba hướng. Sư đoàn thuỷ quân lục chiến Sài Gòn có lẽ là sư đoàn duy nhất thuộc loại tinh nhuệ của Nam Việt Nam. Quân của nó
  91. được giữ gần sát với con số 10 nghìn người theo bảng cấp số và được huấn luyện kỹ. Chỉ có mỗi một vấn đề: đã quá lâu, thuỷ quân lục chiến không ra trận nên thực sự là họ quên mất cách tác chiến như thế nào. Năm 1972, họ đã từng mục kích xe tăng Bắc Việt Nam ở tỉnh Quảng Trị, nhưng chưa bao giờ họ nhìn thấy hàng hàng lớp lớp như thế này. Thậm chí ở Sài Gòn, nơi ngày xưa xe tăng Mỹ xuất hiện gần như ở khắp
  92. mọi ngõ ngách đường phố cũng không nhiều đến thế. Cuộc xung phong vào thuỷ quân lục chiến thật là ồ ạt. Sau này tính ra ít nhất cũng có 3 sư đoàn bộ binh và tối thiểu là một trung đoàn xe tăng tham gia tiến công. Đức lại ló đầu lên, nhìn qua bờ hào giao thông ở chỗ mình. Giống như hầu hết đám thuỷ quân lục chiến trong vùng, anh ta tự làm lấy một mái che bằng cành dừa, lá dừa, thùng các-
  93. tông và bất cứ thứ gì có thể tìm được. Nó che nắng và mưa nhỏ, nhưng không che được đạn pháo, đạn cối hoặc hoả lực xe tăng. Chính đây là mối lo cấp thời. Cuộc pháo kích đã bắt đâu ồ ạt. Hai phút sau khi Đức nhìn thấy xe tăng Bắc Việt Nam thì đại đội thuỷ quân lục chiến ở trước mặt Đức đứng lên khỏi hào giao thông. Anh ta tưởng là họ sẽ xung phong. Nhưng họ đã quay lại, chạy về phía trung đội của
  94. Đức nhưng lệch sang phải một chút. Họ khom người để chạy trốn cuộc giao tranh. Đức có thể nhìn thấy hàng trăm bóng người chạy lom khom in rõ hình trên bầu trời được chiếu sáng bằng hoả pháo. Họ xách súng M.16 chạy trốn những chiếc xe tăng. Chiến sĩ cs đang ngồi trên xe tăng, đi sau xe tăng và một số gan dạ thì tiến trước. Thỉnh thoảng họ mới bắn. Đám thuỷ quân lục chiến đang chạy trốn
  95. khỏi mối đe dọa chứ không phải trốn chạy hoả lực. Từ trước đến nay, binh nhì Đức chưa bao giờ tham dự trận đánh nào cả. Bỏ học từ 14 tuổi để kiếm việc làm giúp đỡ cái gia đình 9 người của mình. Anh chàng là con thứ 5 trong gia đình. Khi đến tuổi 17, anh ta có thể tìm cách trốn quân dịch, sống trong hang cùng ngõ hẻm. Cách này có nghĩa là phải hối lộ những món tiền lớn cho nhân viên sảnh sát, hoặc có thể trở
  96. thành nhà sư. Khoảng năm 1973 thì hàng loạt nhà sư lại bị bắt quân dịch như thường. Thế là Đức gia nhập cái mà bạn bè cho biết là đơn vị chiến đấu giỏi hết chỗ nói. Trên lý thuyết, người nào chiến đấu giỏi thì có cơ hội sống sót nhiều nhất. Đức bèn vào lính thuỷ quân lục chiến. Giờ đây các xe tăng đối phương đến cách trung đội của Đức trong vòng 400 mét. Thế là, chẳng có dấu hiệu hay lời
  97. nói nào, nhưng mọi người trong trung đội đều đứng cả dậy, luýnh quýnh leo lên bờ hào. Họ tự động khom người xuống để hạ thấp cái bóng của mình đề phòng có hoả lực. Chẳng ai bắn vào họ cả nhưng thỉnh thoảng lại có người vấp ngã. Được khoảng nửa dặm. Đức dừng lại nghỉ và ngã vật ra đất. Đấy là đoạn đường dài nhất mà anh ta đã chạy sau thời gian huấn luyện cách đó 2 năm. Anh ta thấy chẳng có lợi ích gì để
  98. bám trụ và chiến đấu. Chiến trường phía Nam tỉnh Quảng Trị này im lặng một cách lạ lùng. Âm thanh lớn nhất là tiếng máy nổ của xe tăng, tiếng xích sắt nghiến ken két. Các xe tăng chạy nhanh hơn Đức, đã gần kịp anh ta, cách khoảng 200 mét. Anh ta rớt lại gần cuối đoàn quân mà Đức đoán khoảng 1 nghìn lính thuỷ quân lục chiến. Thực ra không phải “đoàn quân”. Nó chẳng có tổ chức gì cả. Đó là một đám
  99. tàn binh khác của quân lực Sài Gòn. Họ đã đến quốc lộ 1, đi thẳng về hướng Huế. Ở gần quốc lộ lại có nhiều xe tăng hơn, đang có vẻ đuổi theo thôi, chẳng thèm bắn, cũng chẳng thèm tràn lên nghiến nát họ. Khi đám thuỷ quân lục chiến lên mặt đường thì đột nhiên các xe tăng bật đèn lên. Hình như chúng đang chỉ đường cho đám lính Sài Gòn chọn lấy con đường rút lui an toàn.
  100. Đức không nán lại để xem sự nhân đạo này kéo dài bao lâu. Anh ta bắt đầu chạy đều bước, không nghỉ, cho đến rạng đông. Lúc đó, Đức mới loạng choạng chạy vào một đồn dân vệ đã bị rút bỏ cách Huế 12 dặm về phía Bắc để uống một hơi dài, thật dài Chỉ mới 11 ngày, giữa bài diễn văn của Thiệu ngày 20-3 đến khi SG sụp đổ ngày 31-3 Việt Nam Cộng hoà đã trao cho VC và Bắc Việt Nam một quân khu
  101. và không bao giờ lấy lại được. Từ cuối tháng 3, cuộc chiến đấu tiếp tục, giọng điệu tuyên truyền, sự đau xót của chính quyền Sài Gòn và lời kêu gọi Mỹ viện trợ vẫn nghe thấy, nhưng Nam Việt Nam đã mất rồi. Đó là 11 ngày định mệnh kết thúc bằng việc Thiệu lên đài phát thanh truyền bá gọng điệu hiếu chiến của mình. Từ tháp ngà dinh Độc Lập được canh giữ cẩn thận, qua bài diễn văn, Thiệu làm ngơ trước những tổn
  102. thất lớn kinh khủng của chế độ, giở giọng soi mói Hoa Kỳ giảm viện trợ. Thiệu trơ trẽn nói với dân chúng: “Trong 2 tuần qua, quân và dân ta dũng cảm tiêu diệt địch và thành công trong việc chặn đứng cs ở chiến trường đông dân”. Đấy là những lời nó cố tỏ ra can đảm, nhưng rủi thay nó chẳng lừa bịp được ai. Dân chúng đều biết rõ, hàng sư đoàn, nhiều tỉnh trọn vẹn đã bị mất gọn. Với Thiệu, tuyên bố rằng quân đội đủ sức
  103. giữ vững phòng tuyến là điều khó tin. Ở tư cách tổng thống mà lại dám nói vậy thì không một công dân hay kiều dân nào ở Nam Việt Nam tin nổi. Người ta nghĩ ngay đến việc bơm hơi của Mỹ. Dù sao, việc bơm hơì cũng làm dịu mối lo về việc Nam Việt Nam đang đứng trên bờ vực thẳm. Quả thế, binh nhì Đức và đám bạn bè được tổ chức lại sau khi bỏ chạy khỏi tỉnh Quảng Trị. Đức được gọi lại đội
  104. ngũ trên đường đi Huế, gom thành mấy nghìn lính thuỷ quân lục chiến ở Bắc Thừa Thiên, giáp Quảng Trị tại sông Mỹ Chánh. Quyết định phá đổ cầu Mỹ Chánh được truyền xuống cho đại đội của Đức, trong khi lính thuỷ quân lục chiến đang nghe diễn văn của Thiệu đêm 20-3 qua đài bán dẫn: “ Từ Quảng Trị vào Huế, dọc theo bờ biển xuống quân khu 3 và 4, chúng ta nhất quyết bảo toàn lãnh thổ đến người cuối
  105. cùng. Tin đồn về việc bỏ rơi Huế là hoàn toàn vô căn cứ ” Vẫn còn khoảng 2 nghìn đến 2 nghìn rưởi lính thuỷ quân lục chiến đang được gom lại sau cuộc rút chạy khỏi Quảng Trị. Tư lệnh sư đoàn Bùi Thế Lân cùng sĩ quan đang đi vòng ở Huế để tìm kiếm binh sĩ. Khi thuỷ quân lục chiến phá sập cầu Mỹ Chánh thì cs áp đảo họ và vượt qua sông bằng xe tăng lội nước và cầu ngầm, còn dân Huế đang chạy về Đà
  106. Nẵng. Ở phía Nam, trong khi Thiệu nói với dân chúng rằng cs đang bị đánh bại trên mọi mặt trận thì đã có ngay câu trả lời. Đức và đám bạn bè quay lại nhìn phía sau thấy bầu trời loé sáng mấy lần. Chẳng bao lâu họ phát hiện được ánh sáng loé lên ấy là Huế, đặc biệt là sân bay Phú Bài sát bên dưới tỉnh lỵ, đang bị cs pháo kích, khoảng 50 quả đêm ấy. Sài Gòn sắp mất quyền kiểm soát cái kinh đô cũ này.
  107. Nhưng cùng ngày hôm ấy, Ngô Quang Trưởng, một tướng thân Mỹ đã đến được Huế. Thân hình cao lớn, Trưởng được coi như một điển hình can đảm khi người Mỹ nói đến chuyện binh sĩ Việt Nam như thế nào. Thế nhưng giờ đây, Trưởng đã làm thất vọng những người vốn tin tưởng. Huênh hoang nói oang oang với các nhà báo, Trưởng khoe khoang rằng đã làm đủ thứ chuyện mà trong quá khứ chẳng hề làm. Trưởng đã tự
  108. biến mình thành một thằng hề bằng cách nói mình sẽ cố thủ. Cá nhân Trưởng sẽ chiến đấu trên đường phố để cứu Huế, nếu thành phố mất, Trưởng sẽ mất theo. Trưởng sẵn sàng chết để bảo vệ Huế. Bọn hèn nhát có thể bỏ chạy nhưng Trưởng này sẽ chiến đấu đến cùng. Rồi Trưởng leo lên chiếc trực thăng riêng do Mỹ cung cấp, bay một vòng. Đây là lần cuối, người ta thấy mặt Trưởng ở Huế.
  109. CHƯƠNG 4: PHUT CUỐI CỦA GIA ĐOẠN MỞ MAN: ĐÁNH CHIẾM HUẾ Thông tin viên của UPI ở huế điện về Sài Gòn cho biết 600 quả đạn pháo tên lử và súng cối đã rơi xuống thành phố phía Băc này vào ngày 22-3. Đây là cuộc pháo kich dữ dội nhât trong mấy năm qua. Phut cuối cùng đang đến, mặc dù một số người lạc quan ở Sài Gòn thich gọi đây là trận phòng thủ kiên
  110. cường. Đêm ấy, tại căn cứ tiểu đoàn ở Phú Lộc, đại uý Trần Bá Phước rât sợ và nghĩ đến chuyện bỏ chạy. Cái thắng anh ta là một bài báo, hình như đã đọc trong tạp chí Mỹ "Thời báo" hay "Tuần tin tưc". Phước cho biêt đã đọc mấy năm rồi và đâu như qua cuộc phỏng vấn một lính Mỹ. Người lính này nói rằng anh ta luôn luôn sợ hãi trong chiến đấu, một sự thú nhận làm
  111. Phươc kinh ngạc, bởi vì Phươc nghĩ rằng người lính bộ binh đáng lẽ phải không biêt sợ. Nhưng người trung sĩ dày dạn kinh nghiệm ấy lại được thưởng huy chương và nói rằng sợ hãi là chuyện tự nhiên. Nhât thiêt phải biêt đúng sự sợ hãi, phải kìm chế nó. Rồi thì lắng tai nghe mệnh lệnh và sử dụng cái đầu để suy nghĩ. Theo người trung sĩ Mỹ ấy một người lính không biêt sợ thì hoặc là ngu đần, hoặc là điên khùng, bởi vì
  112. anh ta nói láo hoặc săp đi nhà thương điên. Nhớ lại cảm giac luc ấy và bài báo, Phươc vẫn không châp nhận rằng mình đang sợ. Phươc vẫn nghe thấy tiếng đạn pháo dội xuống Phú Bài, Huế và vùng cảng. là một tiểu đoàn trưởng, Phươc có mấy cái diện đài trong sở chỉ huy của mình. Đó là một căn lều và một hầm nhỏ. Một điẹn đài vặn tần số "mạng lưới chỉ huy liên lạc với chỉ huy sở chỉ huy tiền
  113. phươngcủa quân đoàn 1 đóng tại Huế. Mạng lưới giup Ngô Quang Trưởng tuy vẫn tỏ ra thoải mái nhưng đang bù đầu ở Đà Nẵng biêt những tin tưc mơi nhât về cánh quân phía Băc đang rung rinh của mình. Chính trên mạng lưới chỉ huy mà Phươc nghe được thuỷ quân lục chiến đang chạy. Cộng sản mât khoảng nửa giờ để tràn qua vị trí này của thuỷ quân lục chiến dọc theo bờ sông Mỹ Chánh. Lần này đám lính thuỷ
  114. quân lục chiến không kịp ngừng lại để phá sậpcầu. Trong số lính thuỷ đánh bộ ở bờ sông Mỹ Chánh ấy có Đưc đã chạy ở Quảng Trị về. Đưc chẳng nghĩ đến chuyện sợ hãi. Tiếng đạn pháo rơi xuống Huế không làm cho anh ta lo ngại. Khu vực của anh ta yên lặng. Đưc nằm ở dãy phòng tuyến và chẳng hề sợ khi nghĩ đến một cuộc tấn công. Một cuộc đột kich của đặc công khó có thể xảy ra. Pháo kich là chuyện có
  115. khả năng nhât, nhưng lo về nó chẳng có cach nào ngoài việc chui xuống hố cầu nguyện. Bât cứ cuộc tấn công lớn nào cũng sẽ chạm trán đám thuỷ quân lục chiến trươc khi đến Đưc. Anh ta sẽ có khối thì giờ để chuẩn bị chiến đấu hoặc bỏ chạy. Anh ta nghĩ có lẽ phải chạy. Thật kỳ cục, một tuần lễ trươc, bỏ chạy là chuyện anh ta nghĩ đến sau cùng, còn giờ đây, nó lại ở ngay sờ sờ trong đầu. Cái ý nghĩ bỏ chạy khỏi chiến
  116. trường, khi mà anh ta đã được dạy bám trụ chiến đấu và tấn công, không còn hâp dẫn đối với Đưc. Khi bàn với bạn bè thì nó càng trở nên là điều châp nhận được. Chiến đấu để rồi chêt là điều ngu xuẩn khi cuộc tấn công thể nào cũng tràn ngập vị trí của mình. Một thuỷ quân lục chiến nói được tiếng Anh dịch lại thành ngữ của Mỹ "Advance to the rear" (tiến về phía sau). Lần đầu tiên trong đơn vị của
  117. Đưc, chuyện rut lui trở thành giải phap châp nhận dượcđể thay cho việc tiến tới. Họ đã biêt chuyện rut lui khỏi vùng cao nguyên. Họ đã biêt chính tổng thống của họ ra lệnh ấy. Nếu cả cao nguyên chẳng còn nghĩa lý gì thì Mỹ Chánh có nghĩa gì nữa? Về mặt tâm lý, đây là mầm mống nản chí khổng lồ đã gieo vào quân đội Sài Gòn. Chính là với lệnh rut lui khoi cao nguyên của Thiệu đã cấy vào binh sĩ của họ ý nghĩ
  118. rut lui nếu không muốn nói là đầu hàng. Khi Đưc ngồi trong giao thông hào đêm ấy, bàn chân anh ta hơi co lên khỏi cái mặt đât lạnh và ẩm ươt , thì sờ sờ trong tâm trí anh ta là chuyện bỏ chạy, là ý nghĩ chạy khỏi chiến đấu để tìm cái sống. Phần lớn những người còn lại trong cac đội quân 1 triệu người của SG đã nghĩ tương tự trong đêm ấy. Binh nhì Đưc đang thẫn thờ ngắm dòng sông Mỹ Chánh thì
  119. trận tấn công băt đầu. một lần nữa, lại cũng những chiêc xe tăng Băc Việt Nam đã đánh bật lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 2.500 người này ở giữa tỉnh Quảng Trị. Giờ đây, từ hướng Đông và dọc theo bờ Nam sông Mỹ Chánh, những chiêc xe tăng xuât hiện, những chiêc xich săt nghiến ken ket, nghe rõ mồn một trong cái đêm quang đãng và vẫn còn lành lạnh của mùa xuân. Đưc có thể thấy một số gần anh ta nhả đạn. Pháo binh
  120. SG bắn rải rac xung quanh thuỷ quân lục chiến. Cac xe tăng Băc Việt Nam loại T.54 và xe lội nươc PT.76 đang bắn thẳng vào phòng tuyến lính thuỷ đánh bộ. Cac tay súng đại liên, với loại súng cỡ đạn 7,62 và 12,7 ly ló đầu khỏi thap pháo, nhả đạn như mưa vào lính thuỷ đánh bộ. Sẽ không dễ gì khi rút lui lần này, Đức nghĩ vậy. Lần trước, xe tăng không bắn, bật đèn cho thuỷ quân lục chiến thấy đường mà chạy về nam Mỹ Chánh.
  121. Giờ đây rút lui sẽ là nhận lấy một tràng đạn ghim sau lưng. Một quả đạn pháo của xe tăng xé gió bay về hướng anh ta. Anh ta rút vào hố cá nhân tránh nó. Quả đạn nổ, văng một ít đất lên người Đức. Anh ta không hề biết gì nhưng lỗ tai bị ù đặc. Khi đỡ ù tai, anh ta nghe được một thứ âm thanh mới ở trong trước mặt bên kia sông. Xe tăng Bắc Việt Nam đang từ phía Bắc tới. Đây mới là vấn đề. Với hoả lực yểm trợ tốt, lính cs ngồi gọn
  122. trong xe tăng lội nước PT.76 băng qua sông đổ bộ lên ngay sở chỉ huy lực lượng của Đức. Nhiều người đang bị giết trên vành đai phòng thủ. Tiếng kêu la của số người bị thương vọng đến tai Đức, trong khi tiếng súng lặng đi. Lực lượng này của cs rõ ràng lớn hơn ngay cả lực lượng đã đuổi toàn bộ sư đoàn thuỷ quân lục chiến ở Quảng Trị chạy dài. Sau này Đức nhớ rằng anh ta có lẽ là người thứ 25 trong đơn
  123. vị mình bắt đầu bỏ chạy. Không có mệnh lệnh nào cả. Có thể cuộc rút chạy của tiểu đoàn dân vệ 350 người ở phía Đông đã làm đám thuỷ quân lục chiến chuyển động. Đám thuỷ quân lục chiến vẫn cố giữ kỷ luật nhưng cứ lùi. Tiến về phía sau mà, Đức nghĩ vậy. Đức nhận ra rằng mình đang ở với khoảng năm chục người trong cùng đơn vị. Họ lui kiểu cóc nhảy, bằng trực giác, đảo ngược lại thủ tục tấn công mà
  124. họ được huấn luyện. Một dặm rồi hai dặm. Rất nhiều lính thuỷ quân lục chiến đã ngã xuống. Những người nào còn sức đều cố chạy. Người ta nói cs nhân đạo đối với lính bị thương. Sự việc đã đúng như vậy. Trận đánh chiếm Huế được băt đầu như thế từ phía Bắc. * Trong vài giờ sau, nó cũng bắt đầu như thế từ phía sau: Đại uý Phước lắng nghe cuộc rút quân
  125. của thuỷ quân lục chiến trên chiếc đài bắt tần số sở chỉ huy. Phước nhìn lại một lần nữa chiếc xe Jeep của mình, vật có thể hộ thân giúp anh ta chạy theo quốc lộ 1 về Đà nẵng. Nhưng đạn pháo rơi nhiều dọc đường. Bấy giờ, Phước rất sợ. Đã quá nửa đêm để sang ngày khác, ngày thứ bẩy 23-3. Phước gọi các đại đội khác báo cáo tình hình. Các đại đội trưởng cho biêt quân lính đang hoang
  126. mang Quân đội Bắc VN đẵ cắt nát 2 tiểu đoàn quân biệt động giữ sườn phía Tây của Phước ngọt như cá mập bơi trong nước. Cũng giống như cá mập, CS nghiền vụn ngay đám 700 quân biệt động này. Đơn vị của Phước bị khep chặt bởi một vòng vây. Nhưng bộ đội CS rõ ràng với ý định quét sạch đám quân biệt động chưa đả đọng gì đến chuyện tấn công tiểu đoàn của Đức thuộc sư đoàn bộ binh
  127. số 1 vốn được coi là giỏi nhất. 4 giờ sáng, tiểu đoàn bị tấn công. báo cáo bằng điện đài của các đại đội trưởng cho thấy rằng ít nhất có 2 tiểu đoàn Bắc VN tấn công, mỗi tiểu đoàn một hướng. Phước đang vặn từ tần số này sang tần số khác, cố gắng nắm mọi báo cáo. Thình lình nhân viên điện đài vặn tần số khác. Phước nghe được một giọng không quan, đang ra lệnh tấn công. Anh ta nhận ra ngay lập tức đó là một sĩ quan phía
  128. bên kia, Bắc VN, có lẽ là tiểu đoàn trưởng căn cứ vào loại chỉ thị và thẩm quyền của giọng nói. Phước cố gắng phát hiện kiểu cách ra lệnh của phe địch. Những gì nghe được làm anh ta rợn người. Người chỉ huy đang ra lệnh ấy giữ vững vị trí đợi các đơn vị khác tấn công. Trung đoàn hay sư đoàn nữa? Những người khác cùng ngồi trong lều chỉ huy đều nghe được. Một binh nhất còn trẻ hét vào mặt Phước rằng tất cả bọn
  129. họ sắp sửa chết hết. Sau này Phước cho biết là đã phải "đánh gục anh chàng" tuy cố gắng không gây thương tật cho anh ta. Tình cờ Phước đồng ý với kết luận của người lính trẻ ấy. Anh ta cầm tổ hợp của điện đài ấn nut nói mấy làn. Người sĩ quan Bắc Vn cảnh giác đòi biết cho được ai đang trên tần số. Phước không trả lời, nhưng cảm thấy trach nhiệm đối với những người như chàng binh nhất. Phước ấn nut tổ hợp lần
  130. nữa, hit một hơi dài và đằng hắng hai lần rồi bắt đầu nói: "Đây là đại uý Trần bá Phước, tiểu đoàn trưởng quân đội VNCH. Các ông đang tấn công vị trí của tôi. Tôi muốn đầu hàng" Im lặng trong chốc lát, Phước nhắc lại lời nói và buông tay khỏi nut "nói" để người sĩ quan Bắc VN có cơ hội trả lời. Trận đánh tiếp tục. Phước định nói lần nữa, nhưng thấy một giọng khác xuất hiện trên điện đài,
  131. hình như sĩ quan cao cấp hơn. "Đây là ông Ba (bí danh của người chỉ huy cộng sản thương dùng) của Quân đội giải phóng nhân dân". Người ấy nói: Ông Ba thông báo không đứng ra nnhậ sự đầu hàng của Phước mà thuộc quyền sĩ quan cao cấp hơn. Ông ta yêu cầu trả lời. Phước trả lời xin đợi vài phút. Ông Ba cho biêt sẽ đợi vài ngày nếu cần, nhưng trong luc ấy cuộc tấn công sẽ tiếp tục. Phước lên điện đài nói chuyện
  132. với các đại đội trưởng của mình, phác hoạ tình huống và đề cập điều kiện đầu hàng CS. Trong vong 5 phút, ba trung uý đồng ý với Phước. Một đại đội trưởng là thiếu uý khác quan điểm với các đại đội trưởng kia. Phước van nài anh ta bằng cách vạch ra rằng đường rut lui đã bị cắt rồi. Bắc Vn đang thêm quân tới. Tiểu đoàn sẽ bị tràn ngập. Hai giờ nữa mới sáng, mới có sự yểm hộ của không quân. Người thiếu uý vẫn không đồng
  133. ý Thình lình điện đài của người sĩ quan trẻ im bặt. Phước sắp thử tần số khác thì lại nghe một trung sĩ ôn tồn thông báo cho biết tai nạn đã xảy ra ở sở chỉ huy đại đội. Thiếu uý đã bất lực. Thực ra người ấy đã bất động vĩnh viễn rồi. Trung sĩ này đang chỉ huy đại đội. Họ chấp nhận đề nghị của Phước: Đầu hàng! "TTXVN - (Hà Nội) 27-3. Theo tin của TTXGP, ngày 26-
  134. 3, 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 1 thuộc sư đoàn 1 - Quân đội SG ở tỉnh Thừa Thiên đã bỏ sang phía cách mạng đem thoe mọi vũ khí " Cho dù đầu hàng hay đổi bên thì đây vẫn là cuộc bỏ ngũ tập thể đầu tiên sang phía bên kia của quân đội SG. Vậy thì cuộc đầu hàng tập thể của một trong những tiểu đoàn ưu tú của cái sư đoàn bộ binh ưu tú áy là một bước quan trọng đẩy mạnh quá trình suy sụp tinh thần của quân
  135. đội SG. Nó cho thấy sẽ không có cảnh CS tắm máu ở miền Nam VN. Trong vung Huế - Đà nẵng người ta biết rộng rãi tin tiểu đoàn của Phươc không bị trả thù, được đối sử quá tốt, thậm chí không giống tù binh tí nào vì đã được mang ra khỏi tinh Quảng Trị và ngủ trong các nhà bỏ lại của dân. Bộ đội Bắc Việt Nam & VC giờ đây kiểm soát hoàn toàn 10 trong số 44 tỉnh của Nam VN: Thừa Thiên tỉnh bao quanh Huế
  136. đã ở trong tay họ dù Huế chưa sụp đổ. Đà nẵng đang ỏ trong nguy cơ nghiêm trọng. Điều quan trọng xét vè mặt chiến lược là việc họ chiếm Quảng Ngãi đã cắt Nam Vn làm đôi. Ba trong số 12 sư đoàn chiến đấu của Nam VN hoàn toàn tan nát. Thuỷ quân lục chiến không còn chiến đấu với tư cách sư đoàn nữa Quân biệt động hầu như bị tiêu diệt. Bắc VN mất một it người theo cách tính của họ, nhưng tinh
  137. thần chiến đầu lên cao. Sự giải phóng hoàn toàn đã nằm trong tay rồi. Giờ đây, binh nhì Đưc của thuỷ quân lục chiến có thể nhìn thấy được Huế. Anh ta đã chạy, rut lui trong hơn 24h & không được ngủ. Đưc còn cach Huế chỉ đôi ba dặm. Người sĩ quan chỉ huy có được 1 điện đài. Toàn thể binh sĩ đều nghe được mẹnh lệnh. Ngô Quang Trưởng từ sở chỉ huy quân đoàn 1 ở Đà nẵng đã
  138. ra lệnh tổng phong thủ Huế. Huế sẽ không bị bỏ rơi. Sẽ có 1 trận đánh bảo vệ thành phố ấy. Đây là lệnh từ tổng thống và tư lệnh quân đoàn 1. Trên những tần số khác, thuỷ quân lục chiến nhận lệnh. Ước lượng khoảng 25.000 binh sĩ mang súng của quân đội Sg làm cuộc phòng ngự Huế để đọ sức với khoảng 40.000 bộ đội CS. Phòng tuyến đã được vạch ra. Nhưng SG đã rut lui khỏi Huế! Không một ai, nhất là Trưởng
  139. lại dám thú nhận đã ra lệnh bỏ rơi Huế mà không chiến đấu. Trong lúc Đưc đang ngủ thì có dấu hiệu cuộc rut lui đã đến. NGười ta đánh thưc Đưc dậy. Anh ta không thể nào tin được dù cuộc di tản đang bắt đầu. Sĩ quan khóc công khai. Binh sĩ thở phào nhẹ nhõm vì rõ ràng họ không phải chết ở Huế. Bắc VN tấn công vào trưa hôm ấy, ngày 25-3. Từ phía Tây Nam & Bắc, CS đi vào Huế. Ở phía Nam, ngược QL1
  140. xuất hiện Phươc trước đây là đại uý quân đội SG. Bây giờ Phươc là người dẫn đường cho CS. Ông Ba nói thẳng với Phươc là một âm mưu đưa tiểu đoàn ông vào bẫy thì sẽ phải đổi bằng sinh mạng của Phươc. Phươc không lừa dối. Ông ta cầm ống liên hợp của cái điện đài loại PRC-25 do Mỹ chế tạo & gọi đến sở chỉ huy Huế, nói chuyện với người thiếu tá trong nội thành. Thành Huế cách họ có nửa dặm.
  141. Ông ta nói với người thiếu tá trên điện đài rằng ông ta tận măt biêt rõ Huế đang bị bao vây. Vũ khí mà Bắc VN là đáng sợ. Lực lượng của họ là vô địch Người thiếu tá trong thành nội đồng ý giao thành luc 9h sáng. Một giờ sau, 10h sáng, một trợ lý của ông Ba nhận khẩu M.16 tượng trưng mà người thiếu tá trao cho ở cổng thành nội. Ông Ba không đich thân nhận súng mà đang tổ chức kéo một lá cờ VC khổng
  142. lồ trên cột cờ thành nội. Lá cờ này lớn hơn cả lá cờ 3 sọc của SG. Nó đã được may ở một âp thuộc Quảng Trị, coi như công trình của cả xã một tháng trước đó. Kich thươc thực sự chưa rõ, nhưng những người tận mắt nhìn thấy nói khoảng 8m x 5m. Có lẽ còn lớn hơn thế.
  143. CHƯƠNG 5: PHÚT MỞ MÀN CỦA GIAI ĐOẠN CUỐI: MẤT ĐÀ NẴNG Việc mất Huế là thảm hoạ có một không hai cho chính quyền SG trong cuộc chiến. Từ ngày ông Ba kéo là cờ VC lên trên thành nội, Nam VN đã đến ngày tận số. Mọi người Nam VN đều biết Huế, SG có thể là thủ đô, Đà nẵng có thể là một thành phố quan trọng hơn về mặt thương mại, nhưng nhiều
  144. người chống cộng và dân chung thân chính quyền rât sững sờ trươc việc mất Huế. Với tính cách giành một thắng lợi nhanh gọn, Bắc Vn đã làm rất tôt trong việc chiếm Huế. Nhưng việc chiếm Huế mà không phải giao tranh là thắng lợi quan trọng nhất trong cuộc chiến. Cái sự kiện quân đội SG được lệnh rut khỏi thành phố làm mọi người sửng sốt gấp đôi. Thiệu không để dấu hiệu yếu kém nào lộ ra bề ngoài tuy
  145. nhiên bên trong các hội đồng cơ cấu quyền lực SG, khó khăn bộc lộ lan tràn. Quân đội vốn là nền tảng của chế độ lại đang tan rã bỏ rơi từng mảng đất rộng lớn & các thành phố mà không chiến đấu. Thiệu chẳng ngu gì vì có quyền lực, và khư khư muốn giữ lấy nó, tin rằng chỉ mình mình là có thể cứu Nam VN khỏi tai hoạ bàn tay đám ngoại bang muốn thấy nó đổ sụp. Thiệu kể luôn người Mỹ vào đám ngoại bang
  146. này. Chính trong lúc ấy, tịa Đà nẵng, sự hỗn loạn đang lớn dần & trở nên tồi tệ. Thành phố này là điểm tập trung cho 1 triệu hoặc 1,5 triệu người di tản. Ngày Huế sụp đỏ, 14 hoả tiễn đã rơi trúng căn cứ không quân Đà nẵng. Sự hoảng loạn tự nó lớn lên ở Đà nẵng và chẳng ai có thể làm gì đối với nó. Ngô Quang Trưởng vẫn còn làm việc vào ngày sau hôm Huế sụp đổ, nhưng hoạt động của Trưởng đã trở nên mơ hồ.
  147. Trưởng muốn đám sống sot của sư đoàn bộ binh 1 đi về phía Tây & Tây Nam. Đám biệt động quân ở phái Nam thay lính dù đã bị Thiệ rut về SG. Vùng phía Nam là mắt xich yếu nhât. Nhưng đám quân còn lại từ Huế đổ bộ lên Đà nẵng thì thật thảm thương. Binh sĩ ném bỏ trang bị. Sư đoàn 1 bộ binh không còn là lực lượng quân sự nữa. Đây là đám người cuồng dại. Dân chúng há hốc mồm nhìn đám người đó, lòng cay
  148. đắng vì trước đây nó là lực lượng thiện chiến nhất của quân đội SG. Rạng sáng ngày 28-3, bộ chỉ huy của CS ở Đà nẵng đã ban hành mệnh lệnh. Lệnh đó được chuyển nhanh chong xuống các đơn vị thâp nhât, không cần giữ bí mật nữa. Nó được đài phát thanh CS loan đi như tài liệu tuyên truyền: " Nhân dân Đà nẵng hãy nổi đạy cùng với các lực lượng vũ trang giải phóng nắm lấy quyền
  149. quyết định vận mệnh của mình. Bọ địch đã bị bao vây & đang bị tấn công. Chúng đang tìm cách tháo chạy. Thời cơ giải phóng tỉnh Quảng Đà và TP Đà nẵng đã đến " Mệnh lệnh thật giản đơn và rõ ràng. Bắc VN đã cảm thấy việc tấn công Đà nẵng gần kề đến nỗi bỏ qua cả bí mật trong mệnh lệnh tấn công. Họ cảm thấy phổ biến lệnh ấy thuc đẩy sự đầu hàng của Đà nẵng Vào trưa ngày 28-3, một buổi
  150. trưa thứ sáu ở các nơi khác trên thế giới với ngày nghỉ cuối tuần đang đến và chẳng còn chuyện gì khác thì Đà nẵng lại đang ở cơn co quắp cuối cùng của sự kinh hoàng. Binh sĩ từ Huế đến đang nổi loạn. Nhưng sĩ quan nào kiểm soát nổi đám lính sống sót từ Quảng Ngãi - Tam kỳ ra, cũng như từ Quảng Trị về. Họ đang biến thành các đám đông cuồng dại. Tiếng súng nổ như pháo Tết. Giết người và hãm hiếp trở
  151. thành chuyện bình thường. Cướp bóc ngự trị ngay ngày hôm ấy. Trong cái mệnh lệnh cuối cùng được xem là còn bình tĩnh, Trưởng ra lệnh cho các xe tăng của quân đội Nam VN xuống đường tái lập trật tự và giới nghiêm 24/24 giờ. Nó chẳng làm được chuyện gì vì đa số lính trên các xe tăng gia nhập đám người vơ vết. Lính khac thì sợ chăngnr ai chống lại vì không ai muốn chết trong cái
  152. ngày có vẻ là cuối cùng của cuộc chiến. Họ càng chẳng muốn chết trong chiến trận với đồng ngũ cùng mang thứ quân phục với mình. Quá trư 28-3, tình hình quân sự xung quanh Đà nẵng thật đen tối. Hội An, cách Đà nẵng 15 dặm về phía Nam đã bị bỏ rơi, tạo thuận lợi cho CS thọc vào Đà nẵng. 9h tối, hoả tiễn bắt đầu rơi xuống Đà nẵng. Các tuyến phòng thủ phía Nam và phía
  153. Tây sụp đổ. Ngô Quang Trưởng, người anh hùng, người lính chiên, người đào hố tử thủ, đã rút ra ngoài tìm đến một chiếc tầu gần bờ. Trưởng đã một mực sử dụng giả thuyết cho răng trong thành phố quá nguy hiểm, sẽ bị đám lính lang thang cướp bóc gây nguy hại cho sự chỉ huy, Trưởng cho biêt sẽ chỉ huy trận đánh giành Đà nẵng tù ngoài bờ. Điều nhanh chóng thấy rõ là Trưởng không biết bơi, it nhất
  154. là bơi không giỏi. Sóng nước không lớn, nhưng các ngọ sóng bạc đầu đang ở cách bờ khoảng 100m. Ngọn sóng thứ nhất vật ngã Trưởng, ngọn sóng thứ hai phủ lên người viên tướng này. Trong tình hình Trưởng ra đi còn khoảng 100.000 lính có mặt trong vùng. Ước đoán có khoảng 80% đang cố sức thoát ra hoặc vơ vét cái gì có thể kiếm được trong khoái lạc bắn giết và cướp bóc. Các tướng khác đang hoạch định hai
  155. chuyến bay bí mật. Đà nẵng đã được trao tay rồi. Nó chẳng còn nữa, mất hết, đã được trao về cho VC & Bắc VN. Thành phố Đà nẵng, thành phố lớn thứ nhì ở Nam VN đã sụp đổ. So với bất kỳ thành phố nào trên toàn bộ đất nước được nó phòng thủ mạnh nhât và được cầm đầu bởi viên tướng được coi là giỏi nhất trong quân đội SG. Các kho của nó chất đầy lương thực đủ dùng trong nhiều tháng, chứa đầy đạn dược và vũ
  156. khí đủ dùng trong 60 ngày. Hai xe vận tải chở đày du kích, quá nửa là phụ nữ đã vào chiếm thành phố. Một lần nữa, CS đã chiến thắng gần như không một phát súng. Gần như thế! CS lúc đó có 13 tỉnh Nam VN dưới quyền kiểm soát của họ. Với việc chiếm Đà nẵng, CS nắm được đúng 50% lãnh thổ Nam VN đằng sau phòng tuyến của họ. Ngày 30-3, một ngày sau khi Đà nẵng sụp đổ, lại là ngày chủ
  157. nhật. Chủ nhật nên không có cuộc họp báo của chính quyền SG nhưng Lê Trung HIền vẫn có mặt ở văn phòng. Hiền đang nghĩ cách xem phải nói gì về Đà nẵng trong buổi họp báo xế trưa hôm ấy. Hiền sẽ không nói láo mà chiến thuật của Hiền là thận trọng thế nàođể khỏi ghi công cho kẻ thù trước khi họ xứng đáng nhận nó một cách công khai. Hôm ấy các nhà báo cũng tránh hỏi Hiền về việc mất cái thành
  158. phố lớn thứ nhì đó.
  159. CHƯƠNG 6: MỌI VIỆC VẪN ỔN ĐỊNH Khi bộ đội Cs vào chiếm thành phố ngày 29-3 thì binh nhì Đưc đang ở trên một tầu hải quân Nam VN ở ngoài khơi Đà nẵng. Có lẽ có khoảng 2.000 lính thuỷ đánh bộ trên tầu, phần lớn phải đứng thôi. Quả thật chẳng còn chỗ nào mà nằm nữa. Mũi tầu đang hướng về phía Cam Ranh. Lúc 2h trưa, một chiếc trực thăng Mỹ lượn
  160. sát phía trên con tầu. Trên máy bay có Kenedy, một nhà báo và là bạn của tổng thống Ford vừa sang Nam VN. Trên tầu, đám bạn của Đưc đã dương súng M.16 nhằm chiếc trực thăng mà bắn. Đó là một cách bầy tỏ sự phẫn nộ. Chiếc trực thăng với lá cờ Mỹ đang chế nhạo họ, họ nghĩ như vậy. Những người nào không có súng thì la hét, chửi rủa chiếc trực thăng, vung nắm đấm lên đả đảo nó. Chiếc trực thăng trao mình rồi bay vọt ra
  161. xa. Không ai bị thương và máy bay cũng không hề gì, nhưng Kenedy tỏ ra sửng sốt. Chính cái sư đoàn thuỷ quân lục chiến mà Kenedy khen ngợi nhiều lần là cái sư đoàn giỏi nhất nhì trong quân đội SG lại tìm cách giêt người Mỹ. Biến cố ấy cho Kenedy cái nhìn sâu sắc vào tinh thần quân đội SG. Nói tóm tắt, rõ ràng là nó chẳng còn tinh thần nào cả. Kenedy định viết báo cáo riêng cho Ford sau khi từ Nam VN trở về.
  162. 30-3, một ngày sau khi Đà nẵng sụp đổ, tướng P. Weyand tham mưu trưởng lục quân Mỹ là chuyến công du tìm hiểu sự thật ở Nam VN đã có mặt ở Nha Trang. Weyand đang tận mắt quan sát những gì còn lại của quân khu 2 Nam VN, vùng miền Trung đất nước. Tư lệnh quân khu là Phú. Chính Phú là kẻ đơn độc đứng trước mặt Thiệu ngày 14-3 khi tay tổng thống này ra lệnh rut khỏi Tây Nguyên.
  163. Phú đang thuyết trình cho Weyand tình hình. Lẽ tất nhiên không có gì để lạc quan. Nha Trang còn yên tĩnh. Theo con mắt của các sĩ quan hành quân thì không có gì hiểm nghèo cả. Weyand nhất trí như thế. Lý do cho sự lạc quan ấy là niềm tin rằng: CS, sau khi chiếm được những mảnh đất khổng lồ và trung tâm dân cư, sẽ phải ngừng bước tiến để củng cố thành quả và bổ xung lực lượng. Những dữ kiện và lập luận mà
  164. Weyand thu được là cho ông ta có thể về Washington mà nói: :"Lực lượng Nam VN không mất tinh thần xét theo bất cứ khía cạnh nào. Quân đội SG sẽ đứng lên chiến đấu" Còn ở Nha Trang hôm ấy, Weyand nói: “mọi việc đang ổn định”. Các nhà báo ghi lia lịa. “Tôi phấn khởi trước những gì nhìn thấy được do quân đội Việt Nam Cộng hoà đang làm. Họ đang hành động giỏi”. Weyand nói quân đội Sài Gòn
  165. đã quyết định phòng thủ “phần sinh tử” của Nam Việt Nam, và “phần sinh tử” ấy bao gồm Nha Trang và vùng đất phía Nam của nó. Phú đã tuyên bố sẽ phòng thủ luôn cả Quy Nhơn và tỉnh phía Bắc Nha Trang. Weyand, Phú và các chuyên gia của họ đều xem những gì xảy ra trước đây đều là chân lý vĩnh cửu. Những đơn vị bộ đội cs chưa bao giờ có thể di chuyển nhanh. Phương án chiến đấu của họ có phạm vi hạn chế và
  166. chẳng còn chỗ cho cấp chỉ huy chiến trường quyết định. Vào thời điểm Nha Trang, các các sĩ quan tình báo Sài Gòn vẫn cho rằng chiến thuật cs vẫn như cũ. Họ đã thu được thành quả cơ bản ở Tây Nguyên, quân khu 1 thì Bắc Việt Nam hẳn phải dừng lại củng cố. Các đường tiếp tế phải đuổi bắt kịp xe tăng và bộ binh. Đấy là cách mà mấy năm qua họ đã từng chiến đấu. Chẳng ai nghĩ hoặc nghĩ quá ít đến việc Bắc Việt Nam
  167. đã cải tiến phương phác tác chiến và trên thực tế đã giao thêm quyền quyết định cho các tư lệnh chiến trường. Các tuyến tiếp tế đang đi theo quân Bắc Việt Nam chứ không còn nằm cố định sau phòng tuyến nữa. Một điểm khác chẳng mấy ai nghi ngờ là Weyand cũng như Phú và chính quyền Sài Gòn đánh giá không đúng sự đổ vỡ tinh thần của dân chúng chống + và binh lính Sài Gòn. Họ cảm thấy bị phản bội. Không những
  168. bởi Mỹ không còn viện trợ mà bởi cả tổng thống của họ là Thiệu. Trong lúc ấy họ lại coi Bắc Việt Nam thuộc hạng siêu nhân. Thế là thấy được “Việt Nam Cộng hoà” tận số rồi. Weyand và các nhà lãnh đạo Mỹ vì lý do nào đó mà đui mù trước thực tế này, thái độ đó sẽ gây biết bao thống khổ trong 31 ngày kế tiếp. Thống khổ đầu tiên thấy được là tấn thảm kịch Nha Trang sụp đổ ngày 1-4, không có lấy một
  169. cuộc giao tranh, sụp đổ trong sự hoảng loạn. Hoảng loạn bắt đầu từ việc mất Quy Nhơn. Tên tỉnh trưởng và tư lệnh sư đoàn 22 đã bỏ rơi tỉnh lỵ Bình Định quá nhanh chóng. Phần nửa cái sư đoàn 10 nghìn người ấy với trang bị đầy đủ để đánh nhau lại bỏ chạy lên tàu thuyền. Bộ đội Bắc Việt Nam, ước lượng chỉ độ cấp trung đoàn đã xung phong vào Dục Mỹ. Việc Dục Mỹ bị bỏ rơi không có ai chống cự đã vọng về Nha Trang. Sở
  170. chỉ huy của Phú đã gói ghém hành trang, rõ ràng là nó lại sắp di chuyển. Sự hoảng loạn từ đó mà lớn lên không ai ngăn được. Binh nhì Đức và đám thuỷ quân lục chiến đến vịnh Cam Ranh ngày 1-4. Bọn quân cảnh, bình thường dữ tợn, nhưng lúc này thấy hãy nên tránh xa bọn thuỷ quân lục chiến. Bọn này lên bờ, bắt đầu chất người lên xe tải, xe jeep, xe du lịch, chĩa súng vào người lái yêu cầu chở đi Nha Trang. Những người lái
  171. hiểu ngay vì không muốn bánh xe bị bẹp gí bởi đạn M.16. Vừa ra khỏi vịnh Cam Ranh, đám thuỷ quân lục chiến nhanh chóng biết được Nha Trang giờ đây hoặc chẳng bao lâu nữa sẽ nằm trong tay cs. Gần một nửa đám lính này lại gí súng vào lái xe yêu cầu đưa họ quay lại vịnh Cam Ranh. Họ lại lên những chiếc tàu đã chở họ từ Huế đi Đà Nẵng, từ Đà Nẵng đi Cam Ranh và bây giờ từ Cam Ranh xuôi tiếp về phía Nam.
  172. Đức không có mặt trong tốp đó. Đức và hàng nghìn người khác cứ ngồi trên xe chạy dọc quốc lộ 1. Mục tiêu là đến Sài Gòn. Hàng nghìn người khác bỏ chạy về phía Nam, trong đó có cả Phú và sở chỉ huy quân đoàn 2. Cũng như Đà Nẵng, việc Nha Trang sụp đổ được xác nhận bằng một cú điện thoại đến chỉ huy quân sự ở Sài Gòn. Từ Nha Trang, tỉnh trưởng Khánh Hoà đã gọi về lúc xế chiều. Ông ta hét vào tai người sĩ quan trả lời
  173. điện thoại, làm cho người này sững sờ với câu nói: “Tôi đi đây, tình hình tuyệt vọng rồi”. Rồi ông ra cúp điện thoại. Giờ đây, cái gọi là quân lực Sài Gòn một triệu người đã bị tiêu diệt đúng phần nửa. Sáu sư đoàn rưỡi được gọi một cách văn vẻ là “mất hiệu lực tác chiến”. Chẳng sư đoàn nào sẽ chiến đấu trở lại. Những gì còn lại: chỉ có nửa sư đoàn dù và sư đoàn 18 được xem là còn đôi chút giá trị. Các sư đoàn 5 và
  174. 25 đã mất hiệu lực vì tư lệnh của chúng nằm tù do tham nhũng và bán vật liệu cho Việt Cộng. Ba sư đoàn khác nằm trong vùng châu thổ, năng lực đáng nghi ngờ và không thể chuyển về Sài Gòn được. Hai tỉnh khác cùng Nha Trang rơi vào tay cs là Quy Nhơn và Tuy Hoà. Thế là 15 trong số 23 tỉnh phía Bắc Sài Gòn vĩnh viễn nằm trong tay Bắc Việt Nam và VC. Riêng tại Đà Nẵng, 100 nghìn lính Sài Gòn bị bắt. Tổng
  175. số lực lượng bị mất ước chừng 300 nghìn người, chưa kể số binh sĩ chẳng bị bắt, bị thương mà chỉ hoàn toàn vô tổ chức. Ba trong bốn thành phố lớn nhất ở Nam Việt Nam đã nằm trong tay cs. Khoảng 2 triệu dân di tản về phía phòng tuyến Sài Gòn. Họ là những người làm nghẽn đường đi, ngốn thức ăn, làm mất thì giờ và đòi chiếm đủ mọi thứ phương tiện khác. Chính trong ngày này, cột trụ của Thiệu là Trần Thiện
  176. Khiêm thông báo ý định từ chức. Khiêm nói thẳng với Thiệu rằng Thiệu đã mất hết tín nhiệm không những đối với các nhà chính trị mà còn cả với quân đội nữa. Khiêm là một trong hai tướng 4 sao ở Sài Gòn (tay kia là Cao Văn Viên) là lý do chính giữ Thiệu tại vị. Chừng nào Khiêm còn ủng hộ Thiệu thì đa số các tướng khác cũng vậy. Thiệu đang cố tìm cách né tránh những lời đả đảo đã huỷ bỏ luôn buổi họp chia tay với
  177. tướng Weyand lúc 5 giờ chiều ngày 1-4. Thiệu hẹn gặp lại Weyand, Martin và tướng Viên vào sáng ngày 2-4. Weyand đang nóng nảy muốn cuốn gói về sớm để báo cáo với tổng thống Mỹ. Nhưng Thiệu lại huỷ bỏ buổi hẹn ấy lần nữa. Đang bù đầu với những khó khăn chính trị, Thiệu chưa sẵn sàng gặp những người Mỹ này. Rốt cuộc, chiều ngày 2-4, lúc 17 giờ Thiệu mới chịu tiếp họ. Tay tổng thống đã bị tác động nên
  178. khinh miệt gay gắt với Martin và Weyand, Thiệu rút ra một lá thư của cựu Tổng thống Nixon hứa can thiệp bằng quân lực Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam nếu cs vi phạm hiệp định. Thiệu mắng nhiếc chính quyền Mỹ, nói thẳng vào mặt Weyand là về phần mình, con người Thiệu đã bị Kissinger viết chung một hoá đơn bán đứt cùng với Hiệp định Paris rồi. Cuộc gặp gỡ cù cưa, cù nhầy cho đến lúc nó chấm dứt.
  179. Trong lúc những chuyện đại loại như vậy đang diễn ra ở Việt Nam thì ở Washington, Nhà Trắng nhận được báo cáo: Mọi việc vẫn ổn định và có chiều hướng tốt.
  180. Chương 7 : Tuyến phòng thủ và trẻ em Trận đánh chiếm Sài Gòn đã bắt đầu từ cái ngày sau thảm họa Nha Trang, mặc dù lúc ấy ít ai nhận ra điều đó. Đúng 4 tuần sau, nó kết thúc thảm họa di tản sứ quán Mỹ vài giờ. Với những ai ở Việt Nam 4 tuần ấy, các sự kiện như nhoè đi. Những giờ phút thật dài, trí nhớ không hoàn toàn đáng tin
  181. cậy nữa. Muốn viết phải sắp xếp lại dữ kiện, không thể dựa vào trí nhớ riêng của mình. Phải dựa vào cả những ghi chú, điện văn có liên quan. Sự kiền dồn dập như phim quay nhanh. Với người Nam Việt Nam, nó còn là thảm kịch, sợ hãi, tuyệt vọng. Tháng 4 ở Sài Gòn là toàn bộ cuộc chiến tranh 30 năm thu nhỏ lại. Trẻ con Việt Nam được thế giới nhìn như đám cô nhi lăn lóc trở thành chất xúc tác cho cái bệnh
  182. di tản sau khi Nha Trang sụp đổ. Những người quản lý các viện mồ côi ở Sài Gòn để lộ ý muốn của họ cho đám trẻ con đi. Điều này tức khắc trở thành thời cơ tuyên truyền không chỉ riêng cho những người thực tâm giúp đỡ trẻ em. Những kẻ mỉa mai, ích kỷ đã tìm thấy thời điểm ngon lành. Trong bọn này phải liệt Martin vào đấy. Vào một lúc không được kín đáo, Martin đã nói với một người trong đám thân tín rằng, vấn đề
  183. di tản trẻ con là đòn tuyên truyền tuyệt diệu. Viên đại sứ cảm thấy việc làm rùng beng tối đa chương trình di tản trẻ em giúp vào việc lái dư luận quốc hội Mỹ nghiêng về phía Sài Gòn. Mọi âm mưu đã thành công. Chiều ngày 3-4, một chiếc DC.8 đã chở 85 trẻ mồ côi và một số nhà báo chọn lọc từ Nam Việt Nam đi Mỹ. Chiếc C5A đã hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất sáng sớm ngày 4-4. Nó quá lớn đến nỗi có vẻ chậm
  184. chạp trong khi bay. Công nhân bốc xuống hàng chục tấn thiết bị quân sự cho cái quân đội khốn khổ. Người ta sắp đặt cho nó cất cánh trưa hôm ấy với chuyến hàng chính thức là trẻ mồ côi và những người Mỹ, danh nghĩa là đi theo chăm sóc trẻ. Các nhà báo được ân cần mời ra Tân Sơn Nhất để chụp hình và phỏng vấn đám trẻ lên phi cơ. Chiếc C5A thuộc loại máy bay khổng lồ trên trời. Một số ít may mắn kiếm được ghế
  185. ngồi còn tuyệt đại đa số khoảng gần 400 trẻ em phải chui xuống dưới các dây chằng hàng. Cuối cùng cái cửa sổ khổng lồ cũng được đóng lại. Nó được đài không lưu báo là trống chỗ để di chuyển ra đầu đường băng. Phanh nhả ra. 4 động cơ phản lực khổng lồ rít lên. Chiếc máy bay lấy đà rồi cất cánh. 4 giờ 45 phút chiều hôm đó, máy bay ra đến biển Đông ở độ cao 4 dặm. Nó tiếp tục nâng độ cao lên 8 dặm mới ổn định
  186. đường bay. Lúc bấy giờ, trong máy bay hành khách còn bị chằng dây an toàn. Phần đông người lớn nắm tay nhau thành trò vui. Một số người cất tiếng hát. Bỗng nhiên, cánh cửa máy bay văng mất, sức hút của gió cuốn đi những vật gì không được cột chặt trong máy bay, kể cả mấy đứa trẻ sơ sinh. Chiếc máy bay cố tìm cách quay lại Tân Sơn Nhất. 20 phút sau, phi công không sao giữ được máy bay ổn định nên
  187. quyết định hạ cánh khẩn cấp. Chiếc phản lực khổng lồ chạm xuống một cái gò trên ruộng lúa, lướt qua con rạch rồi sựng lại trong đám ruộng kề đó, cách Tân Sơn Nhất không đầy 2 dặm. Lửa bùng cháy và khói làm cho số lớn người trên máy bay bị thiệt mạng. Martin nhận cú điện thoại báo tin tai nạn máy bay rơi. “Chiếc C5A đã rơi”-một viên chức Hoa Kỳ nói với Martin bằng điện thoại siêu tần số của
  188. toà đại sứ. “Vâng”, Martin trả lời. “Có người sống sót”, viên chức ấy nói tiếp. “Vâng, cảm ơn anh”. Martin đáp rồi cúp điện thoại. 19 giờ sau, một máy bay phản lực B.747 chở 400 trẻ em khác ra khỏi Việt Nam. Cuộc di tản những người Mỹ vẫn không được sứ quán Hoa Kỳ giúp đỡ. Martin sẵn sàng giúp trẻ con bởi vì đám cô nhi ấy “giúp” ông ta. Còn với đồng bào của viên đại sứ, Martin vẫn giữ vững lập
  189. trường là pháp luật phải được tôn trọng. Quân đội Sài Gòn đã bỏ thêm Đà Lạt vào ngày 3-4. Ở Sài Gòn người ta tự hỏi khi nào phòng tuyến được giữ vững? Khi Đà Lạt được trao cho cs thì Khiêm đọc diễn văn cuối cùng trên đài phát thanh quân đội Sài Gòn. Thực tế Khiêm vẫn là quân nhân nhưng đã lột sao để nắm vai trò dân sự là thủ tướng. Với giọng đều đều, Khiêm đã đọc bài diễn văn chiến đấu trong giờ
  190. ngủ trưa, không chắc có đến 10% người nghe, van nài đồng bào đừng rút lui, công bố ý định từ chức để phản đối Thiệu. Ngày 4-4 ấy là ngày bận rộn đối với Thiệu. Chấp nhận cho Khiêm từ chức, mở cuộc bắt bớ thứ hai các đối thủ chính trị, gặp Weyand trước khi viên tướng này về báo cáo với Ford. Weyand cho Thiệu biết rằng viện trợ cho Nam Việt Nam sẽ gặp khó khăn nếu rút lui nữa. Mỹ đã quyết định lập phòng
  191. tuyến Phan Rang-Tây Ninh, nhưng Nha Trang sụp đổ làm Weyand xúc động vì ở đó ông ta đã nói với các nhà báo rằng, Sài Gòn sẽ chiến đấu. Weyand đã nói thẳng với tay tổng thống Nam Việt Nam rằng những cuộc rút lui quy mô lớn làm mất phiếu quốc hội ủng hộ Sài Gòn. Lực lượng của Thiệu ít nhất cũng phải một lần chiến đấu, thắng được một trận càng tốt. Thiệu hứa một trận đánh như vậy sẽ diễn ra. Sau đó, Thiệu
  192. triệu tập các cố vấn quân sự và quyết định Phan Rang là địa điểm. Thiệu moi móc trong chốc lát rồi quyết định trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi sẽ cầm đầu cuộc chống giữ ấy. Viên tướng ba sao này chẳng có thành tích chiến trường nào đáng nói. Nghi đã làm tư lệnh quân khu 4 nhưng tham nhũng công khai, đến nỗi người Mỹ cũng thấy ngượng và đã buộc Thiệu phải cách chức Nghi năm 1974. Nghi không có tài nhưng
  193. có lòng trung thành đặc biệt với Thiệu, điều có thể sử dụng vào năm1975 này. Lần này, Thiệu giao cho Nghi quyền chỉ huy Phan Rang và Phan Thiết cách Sài Gòn 165 dặm về phía Đông Bắc. Về nguyên tắc, Nghi phải báo cáo về sở chỉ huy quân đoàn 3 ở Biên Hoà. Tối ngày 4-4, Thiệu lên đài truyền hình, khiến người ta phải nhức mắt. Thiệu chửi Mỹ đã cắt viện trợ và kết luận: làm sao người ta có thể tin ở Mỹ được.
  194. Thiệu chửi báo chí, doạ trừng trị các hãng thông tấn ngoại quốc bóp méo sự thật. Thiệu sôi nổi hỏi tội các cấp chỉ huy không chịu cố thủ. Với kế hoạch bỏ rơi Tây Nguyên, Thiệu coi đó là”chiến dịch quân sự xuất sắc bị quân đội thực hiện tồi”, Huế mất vì “phải chọi với lực lượng cộng sản ưu thế hơn”. Đà Nẵng sụp đổ vì “không có thì giờ dựng lên một vành đai phòng thủ trong tình hình hoảng loạn”. Thiệu xác
  195. định mình vẫn sẽ là tổng thống và quân đội sẽ chiến đấu từ Phan Rang. Kết thúc bài diễn văn gay gắt, Thiệu ra lệnh tống giam ba tướng: Phạm Văn Phú vì đã cãi vã với Thiệu về chuyện bỏ Tây Nguyên, Phạm Quốc Thuần vì không phòng thủ Nha Trang, Dư Quốc Đống để mất Phước Long. Còn viên tướng thứ tư mà Thiệu muốn bỏ tù thì lại đang nằm giường bệnh vì bị giày vò và xấu hổ, đó là Ngô Quang Trưởng. Trưởng chằng
  196. giữ nổi thành phố nào ở khu vực phía Bắc, nằm bệnh viện và đang tuyệt thực. Nhưng Trưởng không điên. Đến ngày tận số của Nam Việt Nam thì Trưởng là người đầu tiên leo lên trực thăng Hoa Kỳ. Binh nhì Đức của thuỷ quân lục chiến ngồi xe xuôi theo quốc lộ 1, rời Cam Ranh ngày 1-1. Anh ta dừng chân ở quận lỵ Du Long cùng bạn bè “mua” thức ăn bằng súng, thuê gái đĩ bằng dao găm nhởn nhơ vài
  197. ngày. Đến ngày 6-4, khi bốn lính thuỷ quân lục chiến, trong đó có Đức-cười sằng sặc bẻ khóa vồ một xe Jeep và đi thẳng tiếp về Sài Gòn thì đã tươi tỉnh lại. Ra khỏi thị trấn 15 dặm, cả bọn đụng đầu với quân cảnh và bị xung vào quân đội một lần nữa. Đám quân cảnh ấy đang làm việc cho Vĩnh Nghi. Bất cứ ai có vẻ có khả năng chiến đấu đều bị xung vào hoặc ép trở lại quân đội Sài Gòn để phòng thủ Phan Rang.
  198. Một trong các lý do chọn Phan Rang làm phòng tuyến vì đó là quê Thiệu. Nhiều người cho đấy là lý do độc nhất. Tay tổng thống này sinh ra ở bên ngoài Phan Rang, gần Ninh Chữ và sát bờ biển. Mẹ Thiệu sống ở đó đến đầu thập kỷ 70. Tổng thống hay về thăm quê, thường xuyên hơn mọi vùng khác của đất nước. Thiệu theo đạo Thiên chúa là do chiều ý vợ. Lúc nhỏ, Thiệu theo đạo Phật nên vẫn về Ninh Chữ đều đặn để thăm mồ
  199. mả tổ tiền. Nghi chẳng phải là con người khờ dại về chính trị nên đã vạch kế hoạch phòng thủ Phan Rang bao gồm cả Ninh Chữ, cách Phan Rang 5 dặm về phía Bắc, hơi chếch về hướng Đông. Ninh Chữ không phải là nơi hoàn toàn có thể phòng thủ được. Vài chuyên gia cũng thắc mắc nhưng Nghi giải thích rằng, nó có thể kiếm soát được đường rút lui, hoặc mất Ninh Chữ thì tỉnh lỵ sẽ nằm trực tiếp dưới
  200. hoả lực cs. Đức và 3 người bạn thuỷ quân lục chiến đến Ninh Chữ. Có mặt ở đây gồm quân biệt động, lính bộ binh, nghĩa quân và cả mấy lính không quân. Một số trong đám lính này thậm chí chẳng hề biết viên đạn nằm ở đầu nào của cây súng. Nét chung nhất của lực lượng phòng thủ Ninh Chữ là hầu hết số lính bỏ chạy khỏi chiến trường nơi khác trong 3 tuần lễ qua. Ninh Chữ trở thành một làng chết
  201. được bảo vệ bởi đám lính thích bỏ chạy. Ít ai tin rằng họ sẽ thôi không chạy nữa. Trung tá Bảo xuất hiện vào chiều ngày 7-4 để lãnh trách nhiệm phòng thủ Ninh Chữ. Ông ta báo cáo trực tiếp về tướng Nghi. Theo lời ông ta nói với lính rằng ông ta có ý định giữ vững Ninh Chữ cho viên tướng cũng như cho tổng thống. Bảo là con người nổi bật. Cầm đầu đám lính có một không hai với bộ đồ trận mới toanh và
  202. giầy bóng loáng. Ông ra không cho biết mình từ đâu đến, tuy nhiên Đức và đám bạn thân đoán được rằng ông ta từ bộ chỉ huy Sài Gòn ra và được Nghi đích thân lựa chọn. Khó xác định được đúng ngày trận đánh Phan Rang khởi sự. Thành phố bị pháo kích và dân chúng bỏ đi từ trước khi Nghi nắm quyền chỉ huy phòng thủ. Cuộc tấn công lớn bằng bộ binh xảy ra lần đầu tiên ngày 7- 4. Nhưng những biến cố khác
  203. làm mờ cuộc phòng thủ Phan Rang. Đó là cuộc ném bom dinh Tổng thống Thiệu ngày 8- 4, một điểm ngoặt dẫn đến cuộc di tản người Mỹ.
  204. Chương 8 : Cái hố tử thủ Trận đánh Sài Gòn đã bắt đầu, nhưng dân chúng chỉ phát hiện được vào ngày 9-4, một ngày sau cuộc ném bom dinh Thiệu. Ngày 7-4, trận đánh Phan Rang bắt đầu nóng bỏng. Đức không nhìn thấy nhưng nghe được tiếng pháo kích nặng nề trong tỉnh lỵ và căn cứ không quân cạnh đó. Ở Sài Gòn, Thiệu ra lệnh tống giam tư lệnh không
  205. quân Tân Sơn Nhất. Tướng 2 sao Nguyễn Văn Hiếu, phó tư lệnh quân khu 3 tự tử sau khi cãi nhau với tướng 3 sao Nguyễn Văn Toàn về chuyện phòng thủ thủ đô. Trận đánh lớn nhất là ở tỉnh Long Khánh, cách Sài Gòn 38 dặm về hướng Đông Bắc. Toàn bộ một sư đoàn cs tràn đến Xuân Lộc. Một cái hố tử thủ đã được đào vào thời điểm ấy. Phòng thủ Xuân Lộc là lính sư đoàn 18, sư đoàn tệ nhất trong
  206. quân đội Sài Gòn. Khi mới được thành lập, nó mang danh sư đoàn 10 và đi đến chỗ màng biệt hiệu “năm-bơ ten” (number ten), một tiếng Anh mà người Việt Nam nói bóng để chỉ “đồ tồi tệ nhất”. Do sự nhục mạ của dân chúng ngày càng nhiều đối với sư đoàn “năm-bơ ten”, nó được đổi thành sư đoàn 18. Giữa thập kỷ 60, nó là sư đoàn quá tệ, tới mức không gây đe dọa gì cho đám tướng lĩnh vốn sợ đảo chính nên nó được đóng
  207. tròng vùng Sài Gòn. Hai nghìn quả đạn pháo mở đầu cho trận đánh Xuân Lộc. Trận đánh kéo dài một ngày rưỡi. Xuân Lộc chưa chịu gục, nhưng các tư lệnh Bắc Việt Nam còn những lá bài khác trong tay. Hoa Kỳ đang viện trợ khẩn cấp cho Nam Việt Nam. Viện trợ ấy được trả bằng tiền trong các khoản lưu trữ từ 2 năm trước chưa dùng đến. Quốc hội Mỹ chưa chịu chi thêm viện trợ nhưng tiền trong két sắt lúc ấy
  208. vẫn còn quá đủ để giữ cho việc tuồn trang bị và đạn dược đến tay quân đội Sài Gòn trong nhiều tháng liên tục. Khi trận Xuân Lộc bùng nổ, một chiếc C5A hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất lúc sương mù vừa tan, mang đến 27 tấn mũ sắt và áo giáp chống đạn. Máy bay đỗ, đài Sài Gòn báo cho công chúng Việt Nam biết là ở phía bên kia địa cầu, Tổng thống Ford kêu gọi trng đêm rằng, quốc hội Mỹ nên cho Sài
  209. Gòn 722 triệu đôla viện trợ quân sự và 250 triệu đôla viện trợ kinh tế. Thật ra, quân đội Sài Gòn chẳng cần tiền mà cần thay lãnh đạo. Một quyết định ngờ nghệch do tay tổng thống đưa ra ngày 11-4 là tung một lữ đoàn dù nữa vào Xuân Lộc để mong giành lấy chiến thắng, dù tượng trưng, mà Sài Gòn đang hết sức cần thiết. Lữ đoàn được chở bằng xe đến Long Bình. Ở đấy, lính dù được chất lên các
  210. trực thăng khổng lồ loại Si-núc. Mục tiêu cuối cùng là Xuân Lộc, nhưng hoả lực mãnh liệt của cs trong thành phố khiến không thể nào chở quân bằng máy bay vào tỉnh lỵ được. Vì thế phải chọn một bãi đáp trong đồn điền cao su do Pháp quản lý, cách Xuân Lộc 5 dặm về hướng Đông. Đại đội đi đầu được thả xuống. Binh lính dàn trận. Chẳng có lấy một phát súng nổ. Trực thăng bay đi bay lại giữa đồn điền và Long Bình
  211. mang thêm lính dù đến. Các sĩ quan ở Sài Gòn và ở chiến trường khen nhau rối rít về cuộc hành quân bất ngờ này. Trước lúc hoàng hôn, sư đoàn Bắc Việt Nam bao quanh đồn điền cao su bắt đầu mở trận tấn công. Đám lính dù quả thật chẳng hề có cơ hội chiến đấu nào nữa. Liều thuốc an thần cho Xuân Lộc thế là tan nát. Bị hoàn toàn bất ngờ, bị áp đảo ở tỷ lệ 3 đánh 1, đám lính dù đã bại trận ngay lúc đánh bắt đầu.
  212. Đó là trận đánh úp lớn nhất trong cuộc chiến được thực hiện hoàn hảo của một sư đoàn Bắc Việt Nam. Con số tử thương không lớn nhưng số lính dù tan tác tứ phương. Lữ đoàn bị xoá tên, không còn là lực lượng tác chiến nữa. Điều quan trọng sau trận đánh úp là 1 sư đoàn Bắc Việt Nam nữa bước vào tham chiến ở Xuân Lộc. Hai nghìn quả đạn pháo nữa nã vào tỉnh lỵ. Như vậy không đáng sợ bằng đêm
  213. đó, cs dùng đặc công chui vào phá một kho đạn nhằm trang bị lại cho 15 tiểu đoàn lính Sài Gòn. Đêm sau, một quả đạn pháo trúng số độc đắc lại rơi trúng trung tâm kho đạn khổng lồ ở Biên Hoà. Kho này cần cho trận đánh Xuân Lộc gồm bom, đạn pháo và đạn súng bộ binh. Thêm đòn nghiêm trọng đánh vào Sài Gòn. Chiếc hố tử thủ đã đào nhưng chẳng có gì để lấp ở đó. Binh nhì Đức trở lại với cuộc
  214. chiến được 4 ngày sau trận đánh Phan Rang mở màn ngày 9-4. Anh ta chẳng thích thú gì, nhưng ở Ninh Chữ ngày 13-4, một lần nữa anh ta cảm thấy cuộc sống của mình có mục đích. Hoả lực của Bắc Việt Nam ở đây rất nặng. Đức có thể nghe được và thấy được rằng nó còn nặng hơn ở Phan Rang nhiều. Có thể nghe thấy giao tranh dữ dội nhất là ở căn cứ không quân, nơi Nghi đóng sở chỉ huy.
  215. Những đợt tấn công bằng bộ binh vào Ninh Chữ chỉ là thăm dò. Chẳng có gì đáng để cố thủ ở trong làng, nhưng Đức và đồng ngũ cũng ở trong tình trạng báo động hoàn toàn suốt 6 đêm liền. Tiếng súng tuy nhiều nhưng thương vong ít. Trung tá Bảo, tay sĩ quan Sài Gòn khi mới đến có dáng dấp oai vệ giờ đây trông cũng như bọn họ, cũng mệt mỏi, dơ bẩn và nhàu nát. Cs càng ngày càng đổ thêm
  216. quân xuống quốc lộ 1. Ngồi trên xe tăng, xe nhà binh, xe đò và bất cứ xe gì mà họ gom được trên đường, đoàn quân áo xanh Bắc Việt Nam đổ về phía Nam, bỏ hầu hết những vùng mới chiếm được cho bộ đội địa phương. Họ tiến xuống phía Nam thật nhanh theo các con đường, quyết liệt cũng như đường mòn, đường biển. Chỉ trừ những cuộc hành quân trực thăng vận khi Mỹ có mặt, còn chẳng có quân đội nào trong
  217. lịch sử Việt Nam lại di chuyển nhanh chóng như lực lượng Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Vĩnh Nghi ở lại sở chỉ huy Phan Rang cảm thấy tình hình tuyệt vọng. Thậm chí Nghi không biết đích xác mình có bao nhiêu quân, chỉ ước lượng có độ 1 sư đoàn, 7 đến 8 nghìn lính. Đó là tài xế, thư ký, dân vệ mới xung vào quân đội để giữ mạng sống cho mình. Không có chuyện trốn thoát bằng đường bộ. Nhưng lực lượng của Nghi cứ
  218. teo dần đồng thời với dân chúng ở Phan Rang. Thông tin liên lạc giữa Nghi và các vị trí bao quanh có vẻ khó. Trong phiên trực gác, Đức đi cặp với một trong số ít dân vệ. Khi trò chuyện, người ấy đề cập cho Đức biết chuyện mồ mả gia đình Thiệu chỉ cách nơi họ núp trong hố đạn có khoảng 300 mét thôi. Đức nhận xét với vẻ châm biếm là giờ đây anh ta đã hiểu tại sao họ lại bảo vệ Ninh Chữ.
  219. Vòng đai Xuân Lộc được nới rộng nhưng chỉ là lý thuyết sớm mai một. Bởi vì, tại Biên Hoà, cách Sài Gòn có 14 dặm, cs đang tiến lên. Đêm 14-4, các pháo thủ đã nhằm trúng kho đạn. Khi phi công trình diện lãnh công vụ vào sáng ngày 15- 4 thì một trong hai đường lăn không còn sử dụng được vì đạn pháo đào những lỗ trên đường băng bê tông. Những cuộc yểm hộ cho Xuân Lộc và Phan Rang đều phải ngừng lại. Pháo 130 ly
  220. vẫn bắn. Việc phi cơ không cất cánh được thành vấn đề nghiêm trọng. Một nửa số máy bay của không quân Sài Gòn nằm ở tại căn cứ này. Tại Xuân Lộc, Lê Minh Đảo biết là 3 sư đoàn Bắc Việt Nam (thực tế là 4) đe dọa sư đoàn mình. Đảo ra lệnh cho trung đoàn thứ ba và cũng là trung đoàn sau cùng nhảy vào trận đánh. Bắc Việt Nam tìm cách đẩy lùi trung đoàn này và cố chặn cả lực lượng cứu viện từ
  221. Trảng Bom tới. Họ tiếp tục vây hãm Xuân Lộc. Các lực lượng khác được lệnh vòng qua tỉnh lỵ và cứ tiếp tục tiến về Sài Gòn. Lực lượng cs tiếp tục thế cóc nhảy, cắt đứt quốc lộ 1 ở phía sau trung đoàn 3 của Đảo. Họ đã ở phía Tây Trảng Bom cách Sài Gòn 21 dặm. Lực lượng địa phương của cs trong vùng Sài Gòn nhận lệnh cấp thời. Vấn đề chỉ còn là thủ đô Nam Việt Nam sụp đổ thế nào và vào lúc nào mà thôi.
  222. Ngày 15-4, Phan Rang thất thủ. Lực lượng Bắc Việt Nam bao trùm mọi phía của thành phố. Pháo binh phá nó tan hoang, bộ binh yên chí chờ đợi. Khi bộ binh và xe tăng tiến lên, sức chống cự họ chẳng còn mấy nữa. Thành phố thất thủ và cờ VC được kéo lên. Tại sở chỉ huy của Vĩnh Nghi ngày 15-4, tình hình chưa quá tệ. Nghi nghe tin thị xã thất thủ với thái độ bình thản. Lúc ấy Nghi liên lạc với Toàn, tư lệnh quân khu
  223. 3. Qua điện đài, Toàn bảo Nghi rằng, Phan Rang phải chiến đấu càng lâu càng tốt để làm chậm bước tiến khổng lồ của cs xuống quốc lộ 1. Tin Phan Rang thất thủ làm Toàn sững sờ. Nhưng báo cáo của Nghi về việc còn giữ được căn cứ không quân làm Toàn hứng khởi. Toàn nói với Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên để phái thêm lính sang sắp xếp lại ở Hàm Tân, đặt lính Sài Gòn ngăn cách hai lực lượng cs đang
  224. tiến công Phan Rang với lực lượng bị chặn lại ở Xuân Lộc. Đây là kế hoạch tuyệt vời nhưng thời điểm thực hiện đã tuyệt vọng rồi. Chiều tối ngày 15-4, kế hoạch và sự lạc quan này bay ra cửa sổ cùng tiếng nổ giòn của đại bác 130 ly đang dội tập trung vào căn cứ không quân Phan Rang. Từng cứ điểm vành đai bị phá tan tành. Binh lính bị giết hoặc chạy hết. Trinh sát viên hướng dẫn pháo bắn ngày
  225. càng gần sở chỉ huy, nơi Nghi đang nằm im dưới đất. Đến đêm, xe tăng và bộ binh Bắc Việt Nam bắt đầu tiến vào căn cứ. Trong bóng đêm, đốm sáng lập loè bay tứ phía. Làn đạn xanh từ súng cs nhiều hơn làn đạn đỏ của vũ khí Sài Gòn do Mỹ chế tạo. Trận chiến dữ dội. Khoảng gần sáng, Vĩnh Nghi báo cho các vị trí nằm ngoài sở chỉ huy Biên Hoà biết sở chỉ huy của mình sẽ mất vào bất cứ lúc nào.
  226. Ở Ninh Chữ, binh nhì Đức xúc động về việc mất tỉnh lỵ hơn tướng Nghi, tuy anh ta và 400 binh sĩ khác chưa chịu đựng hoả lực bắn bao nhiêu. Ninh Chữ trở thành hòn đảo đơn độc. Bây giờ họ lại nghe qua điện đài lời báo của Nghi nói với đám binh sĩ ở Ninh Chữ và quanh Phan Rang hãy thoát đi bằng cách tốt nhất có thể được. Bộ đội Bắc Việt Nam bỏ qua làng ấy. Tàu thuyền sẵn và biển quá gần đến nỗi Đức có thể ngửi
  227. mùi nước mặn. Nhưng với Đức, ba lính thuỷ quân lục chiến và một lính biệt động thì lệnh rút lui ấy là một trong quá nhiều lệnh kiểu này. Đã rút hơn nửa chiều dài của Nam Việt Nam rồi! Không có chỗ để đứng lại hay sao? Tại Ninh Chữ có một máy ủi đất và một trong ba lính thuỷ quân lục chiến biết cách bẻ khóa công tắc. Nó hụ lên thành một vật sống. Một người lính ngồi ghế lái, còn Đức và những
  228. người khác ngồi trên nóc, ở phía sau. Trung tá Bảo, viên sĩ quan Sài Gòn ra chịu trách nhiệm phòng thủ Ninh Chữ ra lệnh cho đám binh sĩ rời khỏi máy ủi. Đức và hai người lính bèn chĩa thẳng những khẩu M.16 vào viên sĩ quan để biểu lộ ra mặt sự chống lệnh. Bảo rút lui vào chỗ để máy truyền tin của ông ta. Chiếc máy ủi chạy thẳng hướng đến khu mồ của gia đình Thiệu. Trong vòng 5 phút, các bia đá
  229. bị lưỡi gạt nghiến nát và mặt đất bị xới tung lên. Chẳng còn cách nào để nhận ra những ai đã được chôn ở đấy. Năm binh sĩ bước khỏi máy ủi đất với sự mệt mỏi chán chường và đi ra biển. Bảo cũng báo cáo hành động của họ cho Nghi biết và vặn tắt điện đài rồi cũng đi bộ ra biển. Ba ngày sau, họ đến được Vũng Tàu bằng chiếc thuyền đánh cá. Còn Vĩnh Nghi sa vào tay quân Bắc Việt Nam khi họ đánh căn cứ không quân.
  230. Chương 9 : Kẻ cầm đầu chế độ Hai ngày sau khi Phan Rang sụp đổ, tỉnh lỵ anh em với nó là Phan Thiết cũng bị Bắc Việt Nam chiếm nốt. Thế là cs kiểm soát 20 tỉnh, trọn vẹn 2 quân khu, hai phần ba Nam Việt Nam rồi. Ở Sài Gòn, các thế lực đều đòi thủ cấp chính trị của Thiệu, kẻ cầm đầu chế độ. Phe tự nhận là trung lập của Sài Gòn, không thích cs và không
  231. thích chống + cũng muốn Thiệu ra đi. Phe cực hữu cũng muốn Thiệu ra đi, và éo le thay, chính họ lại công khai tấn công vào sự tham nhũng của tổng thống. Từ tháng 9-1974, nhóm này đã phổ biến “bản cáo trạng số 1”. Các nhật báo Sài Gòn đăng cáo trạng này đều bị tịch thu nhưng vẫn còn rất nhiều bản được chuyền tay trong dân chúng khắp đất nước. Những lời tố cáo đó mang tính chất nghiêm trọng và có giá trị tài liệu.
  232. Thiệu, với lợi tức chỉ vài trăm đôla hàng tháng mà có hai căn nhà ở Sài Gòn, trị giá hơn 150 nghìn đôla, một nhà thuỷ tạ ở sát phía Bắc Sài Gòn, một “vila tráng lệ” ở Thuỵ Sĩ, nhiều đất đai ở vô số tỉnh. Vợ Thiệu xây cái gọi là bệnh viện cho người nghèo, đã dùng hàng lậu thuế để trang trải việc xây dựng, bòn rút ngoại viện vào túi và kết cục thì dân nghèo không thể vào bệnh viện này. Anh vợ Thiệu thì đầu cơ nâng giá phân bón hóa
  233. học do Mỹ cung cấp, bán cho nông dân với giá cắt cổ. Cố vấn cho Thiệu là Đặng Văn Quang và Trần Thiện Khiêm tổ chức buôn thuốc phiện lậu. Một người cô của Thiệu tích trữ đầu cơ và nâng giá gạo, thâu tóm nhiều phương tiện vận tải để làm giàu. Thiệu còn “nhận quà” bằng đất đai, dùng công binh xây trang trại riêng Những lời tố cáo như bom nổ. Tuy bản cáo trạng thứ hai không gây náo động như bản
  234. cáo trạng thứ nhất, nhưng lại được dư luận rộng rãi tin. Thế là những người cánh hữu cương quyết đòi uống máu Thiệu về mặt chính trị. Còn ở mức độ rộng lớn, quân đội Sài Gòn muốn Thiệu ra đi vào tuần thứ nhì của tháng 4-1975. Đây là lá phiếu quan trọng nhất chống lại tổng thống. Sau 10 năm ở chức vụ cao nhất tại Nam Việt Nam trong đó 8 năm làm tổng thống, năm 1975 Thiệu là người giàu nhất Nam Việt Nam nhờ tham
  235. nhũng. Trong chức vụ, Thiệu không hề được phép nhận hơn số lương 600 đôla mỗi tháng, và có lẽ từ 300 đến 400 đôla phụ cấp. Thế nhưng dù xét bất cứ tiêu chuẩn nào, thì Thiệu đã và vẫn còn giàu sụ. Làm thế nào giàu được, đó là chuyện phức tạp và quanh co. Những gì sắp kể ra đây chắc chắn là không đủ. Cái biết được là với hai trường hợp ngoại lệ- một vila ở Thuỵ Sĩ và một ngân hàng Sài Gòn bị phá sản-còn
  236. tên thì cả Thiệu lẫn tên vợ Thiệu đều không tim thấy trong bất cứ hồ sơ nào. Thế mà họ đã trở nên giàu có. Theo các cuộc phỏng vấn và các nguồn điều tra khác thì gia đình Thiệu đã ăn cắp hàng trăm triệu đôla. Đó là tiền thuế của dân Mỹ và dân chúng đất nước họ. Công cuộc làm tiền của Thiệu là dựa trên chiến tranh và môi trường cuộc chiến do viện trợ Mỹ nuôi dưỡng. Có lẽ Thiệu thành thật tin rằng không bao
  237. giờ thương lượng được với cs. Thiệu tin như vậy nên cuộc chiến tiếp tục. Bởi vì cuộc chiến tiếp diễn nên Thiệu và gia đình Thiệu giàu thêm. Ở hạ tầng, sự tham nhũng đơn giản. Nhưng ở thượng tầng, nó là một mạng lưới phức tạp. Cũng như đảng maphia, nó lấy việc bảo vệ tay thủ lĩnh làm mục đích chính. Ở hạ tầng, nó là sự mua bán thế lực vụn vặt, bảo vệ và tống tiền. Một tiệm thuốc đường Catinat bán công khai thuốc cần
  238. sa nha phiến cho lính Mỹ vì chủ tiệm được cảnh sát bảo vệ. Các chỉ huy Mỹ cấm lính tới đó vì thuốc ma tuý được chuyển qua gái bán bar. Những tay buôn gỗ ở Tây Nguyên hoạt động được vì các cấp chỉ huy quân đội được trả một số phần trăm lợi nhuận. Tiền lời ngừng trả thì đoàn xe trở gỗ bị phục kích bởi "du kích Việt Cộng" Khi tham nhũng trở nên quan trọng và số tiền dính líu nhiều hơn thì hệ thống trở thành một
  239. mạng lưới hình tháp. Ngồi trên đỉnh tháp tham nhũng tại Nam VN là Thiệu. Tháp chỉ là công cụ tổ chưc không nhất thiết là con đường chuyển tiền. Bằng cách cho những người xung quanh cái tháp ấy tự kiếm ăn, Thiệu tạo được ân nghĩa và những món nợ quyền lực. Từ 1965 - 1975, y đã tạo hàng ngàn hoặc hàng vạn ơn nghĩa. Khi cần đền đáp thì lớn bé trong cái tháp ấy răm rắp tuân theo.
  240. Phải hiểu rằng ở Nam VN, dù hiến pháp có được tuân theo triệt đểthì tổng thống vẫn có quyền lực bao la. Thiệu có quyền nhiều hơn cả hiến pháp cho phép. Là chủ tịch hội đồng tướng lĩnh, một cơ quan nằm ngoài hiến pháp, Thiệu nắm quyền hành trưởng hội đòng này. Là tổng tư lệnh quân đội, đứng đầu tổ chức hành chính công vụ, một tay Thiêuh nắm hơn 3 triệu chỗ làm, một nửa chỗ công ăn việc làm của chế