Tài liệu tổng hợp về bệnh và sức khỏe con người

doc 186 trang ngocly 90
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu tổng hợp về bệnh và sức khỏe con người", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctai_lieu_tong_hop_ve_benh_va_suc_khoe_con_nguoi.doc

Nội dung text: Tài liệu tổng hợp về bệnh và sức khỏe con người

  1. 1/ Tác dụng chữa bệnh thần kỳ của rau má Rau má không chỉ là một loại rau thông dụng, có thể ăn hàng ngày mà còn là một vị thuốc chữa được nhiều chứng bệnh như: mụn nhọt, hạ sốt, làm đẹp, tăng cường sức khỏe, giải độc, táo bón, tim mạch . Hạ sốt Khi trẻ bị sốt có thể dùng rau má, rửa sạch, vò nát, đổ xâm xấp nước, đun sôi nhỏ lửa khoảng 15 phút rồi chắt ra cốc lớn. Cứ khoảng một tiếng cho trẻ uống vài thìa. Trẻ sẽ giảm sốt. -Trị mụn: Nhiều người nghiên cứu cho thấy hoạt chất của rau má là những Saponin (Axit Asiatic, Axit brahmic ) có tác dụng giúp các mô liên kết tái tạo nhanh chóng làm tổn thương mau lành và lên da non, giúp trị mụn hiệu quả. Ngày nay có nhiều loại thuốc trị mụn viên nang được chiết suất từ tinh chất rau má. Rau má tươi 30-100g rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống hàng ngày hoặc dùng máy xay sinh tố xay nhuyễn rồi hòa đường uống. -Giúp tăng trí nhớ: Lá rau má sấy khô tán bột, uống chung với sữa mỗi ngày 3-5 gam sẽ có tác dụng tốt cho những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ và thị lực. -Làm lành các vết thương: Đây là tác dụng của Asiaticosid, hoạt chất chính của rau má. Nhiều công trình nghiên cứu lâm sàng ủng hộ ý kến cho rằng rau má có tác dụng trên một số tế bào biểu bì, kích thích sự sừng hóa và làm lành vết thương. Rau má còn có tác dụng bảo vệ lớp áo trong của mạch máu. -Điều trị giãn tĩnh mạch: Dùng thuốc rau má có kết quả tốt đối với vi tuần hoàn và mao mạch, điều trị tang áp lực tĩnh mạch. -Bảo vệ thần kinh: Một công trình nghiên cứu năm 1999 cho biết, các dẫn xuất của chất asiaticosid có khả năng bảo vệ thần kinh chống lại độc tố thần kinh beta-amyloid. 3 trong số 28 dẫ xuất Asiatisid có thể được đưa vào nghiên cứu điều trị bệnh Alzheimer nhờ khả năng bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi tác động của beta-amyloid.
  2. -Chống loét dạ dày: Ngoài ra rau má còn có tác dụng chống loét dạ dày, làm chậm phát triển u, kháng virut và kháng nấm. -Dưỡng ẩm cho da: Bạn có thể dùng rau má để dưỡng da kể cả bên trong lẫn bên ngoài. Bạn có thể dùng từ 30-40g rau má tươi mỗi ngày. Rau má khi mua về, bạn rửa sạch, giã nát hoặc xay nát, lọc lấy nước. Cho thêm một ít đường vào cho dễ uống. Sau đó bạn có thể lấy bã rau má dùng đắp mặt hoặc rửa mặt bằng nước rau má tươi. Trong một số trường hợp, rau má làm tăng lượng cholesterol và lượng đường trong máu, vì vậy những người có cholesterol cao và bệnh tiểu đường nên tránh lạm dụng sử dụng rau má quá nhiều. Thảo mộc này cũng có thể dẫn đến sẩy thai nếu sử dụng trong thời kỳ mang thai. Do vậy, trẻ em, phụ nữ mang thai và đang cho con bú cũng nên tránh dùng loại rau này. Rau má có thể tương tác với các thuốc gây buồn ngủ và thuốc chống co giật, barbiturat, benzodiazepin, thuốc mất ngủ, và các thuốc chống trầm cảm Nó cũng có thể làm giảm hiệu quả của insulin và thuốc tiểu đường uống khác, cũng như các thuốc hạ cholesterol. Theo BS. Nguyễn Hồng Siêm, Chủ tịch Hội Đông y Hà Nội, dùng quá nhiều rau má và kéo dài có thể gây biến chứng cho một số tế bào máu, tế bào gan, tế bào thận. Một ngày mỗi người bình thường có thể dùng một cốc rau má, tương đương với khoảng 40 gram rau má trở lại, nhưng cũng không nên uống quá một tháng. Nếu muốn dùng đợt sau thì phải nghỉ tối thiểu là nửa tháng rồi mới dùng tiếp.
  3. 2/Ăn sao cho đúng Có thực mới vực được đạo. Ăn thì ai cũng phải ăn. Nhưng lắm khi sinh bệnh không vì miếng ăn mà vì cách ăn. Nói có sách mách có chứng, ở CHLB Đức rõ ràng không thiếu bệnh viện chuyên khoa với công nghệ tiên tiến, cũng không thiếu thuốc đặc hiệu. Ấy vậy mà hàng năm vẫn có cả chục ngàn người tìm các tu viện cổ kính ở tiểu bang Badem-Wurtemberg để học cách ăn! Sở dĩ như thế không dưới 60% bệnh nhân bên đó quyết liệt đòi hỏi được điều trị bằng liệu pháp sinh học thay vì với thuốc hóa chất tổng hợp. Thêm vào đó, hơn 70% thầy thuốc ở Đức trước sau vẫn trân trọng kinh nghiệm của y học dân gian. Đó là lý do tại sao hàng trăm ngàn bệnh nhân ở Đức thường xuyên tham gia chương trình nghỉ dưỡng trong các tu viện để được chăm sóc sức khỏe với nước khoáng, dược thảo, món ăn theo kinh nghiệm của các thầy thuốc đồng thời là thầy tu. Nhiều bệnh nhân, kể cả không ít thầy thuốc bên đó, đều nằm lòng nhiều bài thuốc dược thảo gia truyền của nữ tu Hildegard von Bingen, thay vì chuộng lối dùng thuốc theo kiểu đau đâu chữa đó để rồi trả giá bằng phản ứng phụ khó lường. Bên mình thì phản ứng phụ của thuốc dường như vẫn còn là chuyện trà dư tữu hậu! Nếu tưởng thầy dòng ở xứ làm xe BMW chữa bệnh mát tay nhờ biết cách “tiếp thị” đặc sản nào đó theo kiểu độc quyền “made by thầy tu” thì sai. Cái hay của thầy thuốc mặc áo dòng bên Đức chính là biện pháp hướng dẫn cho “khách hàng” về cách ăn uống sao cho đừng mang bệnh vào thân. Theo các thầy tu trên quê hương của Goethe, nhiều trường hợp mắc bệnh một cách oan uổng, dù tính cho cùng chẳng oan chút nào, là vì gia chủ: 1. Ăn quá nhanh đến độ mỗi miếng ăn không được nhai tối thiểu 10 lần. Thức ăn vì thế xuống đến bao tử ở dạng khó được hấp thu. Hậu quả là ăn có thể nhiều nhưng hưởng chẳng bao nhiêu! 2. Ăn trong trạng thái quá căng thằng vì mang theo công việc lên bàn ăn nên tuyến yên không trung hòa nổi lượng nội tiết tố thặng dư do stress. Hậu quả là lượng nước chua trong dạ dày được bài tiết quá sớm trước bữa rồi sau đó quá trễ sau bữa ăn, nghĩa là lúc bao tử còn trống. Dạ dày vì thế dễ bị viêm loét. Đã vậy nếu gia chủ ăn khi đang bực bội hay buồn rầu thì không cần học bói dịch cũng biết sớm muộn cũng gặp hạn “quan lang”! 3. Quên uống ly nước lớn trước bữa ăn ít phút, hay chọn món canh khai vị, để nhờ nước vừa pha loãng dịch vị, vừa giúp bao tử xay nhuyễn thức ăn, thay vì lúc nào cũng phải rồ ga vì gặp hàng cứng rồi mau cháy máy! 4. Ăn một lần quá no khiến trái tim sau đó phải gồng mình bơm thêm máu đến trục tiêu hóa rồi đành bỏ quên nơi khác như não bộ, thành tim, đáy mắt Chính vì thế phải ăn chầm chậm, ăn vừa đủ no nếu đã thiếu máu cơ tim, đã bị bệnh võng mạc. Với người ăn quá nhanh, đến khi có được cảm giác no thì lượng thức ăn đã quá tải trong dạ dày. 5. Dùng nhiều thực phẩm sống trong bữa cơm chiều để rồi suốt đêm khó ngủ vì
  4. hiện tượng lên men trong khung ruột. Đó là chưa kể hậu quả lâu dài trên trục thần kinh – nội tiết – biến dưỡng vì các cơ quan nội tiết như tuyến thượng thận, tuyến giáp trạng ngày nào cũng phải tăng năng suất. 6. Không lưu ý về quân bình giữa thực phẩm gốc động vật và rau quả tươi theo tỷ lệ món đỏ đừng hơn phân nửa món xanh, thậm chí chỉ 1/3 càng tốt, để độ pH trong máu đừng quá chua rồi kéo theo rối loạn biến dưỡng. 7. Hay tráng miệng bằng món quá ngọt ngay sau bữa ăn khiến tụy tạng mau mệt nhoài vì đã bù đầu với việc điều chỉnh lượng đường huyết ngày nào cũng bội tăng mấy chục lần. 8. Không cho cơ quan cơ quan trọng yếu giữ nhiệm vụ giải độc như lá gan, trái thận, khung ruột có dịp nghỉ xã hơi nhờ không phải đối đầu với độc chất ngoại lai hay phế phẩm nội sinh từ tiến trình biến dưỡng. Đáng tiếc vì biện pháp tương đối đơn giản. Đó là nhịn đói ít ngày trong tháng, hay một ngày trong tuần, hay vài ngày trong tuần chỉ ăn một bữa. 9. Ăn nhậu là tiếng kép. Đừng uống rượu mà không ăn. Nên nhớ là lượng thức ăn khi “vô” giữ vai trò chất độn để nhờ đó giảm độ hấp thu của rượu vào máu. 10. Nhậu nhẹt cũng là tiếng kép. Thầy tu bên Đức không cấm nhậu, miễn là đừng nhậu đến nhẹt! Trong chương trình dinh dưỡng của các nhà dòng bao giờ cũng hoan nghênh ly rượu vang đỏ hay cốc bia đen sau mỗi bữa ăn. Kẹt một nổi là ở xứ mình nhiều người vẫn chưa phân biệt được giữa một ly với một chai rượu mạnh hay một két bia! Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) ắt hẳn đã có cơ sở vững chắc khi quả quyết sai lầm trong chế độ dinh dưỡng là nguyên nhân của tối thiểu 70% bệnh chứng nghiêm trọng. Không cần dông dài, khỏi cần thống kê cũng hiểu tại sao nhiều bệnh chứng nghiêm trọng như ung thư, cao huyết áp, tiểu đường, thấp khớp, dị ứng lại có tỷ lệ cao đến thế ở nước ta! Không cần dông dài cũng hiểu tại sao doanh nhân là miếng mồi ngon của nhiều bệnh chứng chỉ vì mấy ai tránh khỏi ăn uống thất thường, ăn quá nhanh, uống nước không đủ Đáng tiếc vì ăn thì ai cũng phải ăn nhưng do cách ăn mà sinh bệnh thì đúng là vụng về đến độ đáng trách. Bs. Lương Lễ Hoàng
  5. 3/ Sáu bước đơn giản để giữ đầu óc minh mẫn Khám phá mới nhất bây giờ để ngăn ngừa bệnh Alzheimer là vitamine D3, mỗi ngày uống 2000IU, uống liên tục tới lúc chết. Khám phá này đã được phổ biến rộng rãi trên thế giới. Dĩ nhiên là cách ăn uống của Mehmet Oz và BS Michael Roizen rất tốt, nhưng vitamine D3 vẫn là chính. Cơ thể thiếu Vitamin D sẽ gây những bệnh Phúc trình mới nhất của chính phủ cho biết rằng thuốc bổ (supplements), hay thuốc chữa bệnh không giúp gì được cả trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer, tức là bệnh mất dần trí nhớ, bệnh lú lẫn. Đây là căn bệnh nhiều người già bị vướng phải, như trường hợp của cựu Tổng thống Ronald Reagan. Nhưng, phúc trình đó lại đưa ra những bằng chứng là nếu chúng ta chịu khó tập thể dục, tỏ ra năng động, ăn uống lành mạnh, giữ cho áp huyết thấp để máu có thể đưa lên não dễ dàng, chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh mất trí nhớ. Bản phúc trình không gỉải thích vì sao. Nhưng chúng tôi sẽ phân tích cho độc giả biết rõ: trí nhớ của chúng ta trở nên yếu kém, sự suy nghĩ trở nên loạng quạng (fuzzy) khi lớn tuổi là do ảnh hưởng gộp của nhiều yếu tố khác nhau, yếu tố chính là óc của chúng ta không nhận đủ máu đưa lên đầu, vì mạch máu bị tắc nghẽn, hay bị hở, gọi chung là vascular dementia. Trong cả hai trường hợp, óc của chúng ta không nhận đủ dưỡng khí (oxygen) và đường (blood sugar). Chúng ta có thể ngăn ngừa những rắc rối này, hay sửa chữa những trục trặc đó bằng cách giữ cho mạch máu dẫn máu lưu thông lên não bộ đuợc thông tuông dễ dàng. Điều này có nghĩa là chúng ta cần làm những gì để giúp máu bơm lên đầu dễ dàng. Phòng bệnh là biện pháp chúng ta nên làm sớm. 1. Hoạt động thể lực giúp máu chạy đều lên óc Các nghiên cứu khoa học cho thấy các cụ già trên 65 tuổi chịu khó tập thể dục ít nhất ba lần một tuần tránh được một phần ba rủi ro vướng bệnh Alzheimer. Bạn có thể làm một trong những hoạt động sau đây tùy theo sở thích của mình: đi bộ (mỗi ngày đi bộ, ít nhất 10,000 bước đi), làm vườn, hay khiêu vũ. 2. Ăn nhiều rau và hoa quả: Rau tươi, trái cây tươi là thức ăn chính cho bộ óc. Trong hoa quả và rau có chứa chất “flovonoids” giúp tăng cường hệ thống ngăn ngừa độc tố. Trong một cuộc nghiên cứu, nhóm người thích ăn rau quả tươi, uống trà, cà phê, hay rượu nho, có nhiều chất “flovonoids” thường có não bộ hoạt động tốt hơn người không dùng rau quả tươi, và sự suy sụp cuả não bộ tránh được tới 10 năm. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy mỗi tuần uống vài lần nước ép từ rau quả, sẽ giúp ngừa được 76% bệnh lú lẫn. 3. Hay ăn thực đơn của dân Điạ Trung Hải: gồm có rau tươi, hạt đậu (grain), dầu olive, cá, và các loại hạt (nuts) sẽ giúp áp huyết giữ ở mức tốt. Ăn thực đơn của dân Điạ Trung Hải sẽ giúp tránh được bệnh Alzheimer khoảng 48% . Người hút thuốc lá có nhiều rủi ro bị Alzheimer hơn người không hút thuốc đến 80%.
  6. 4. Đừng uống rượu mạnh quá độ. (Tốt hơn là không nên uống dù là một giọt cũng không thấm vào môi) Uống một chút rượu có lợi cho việc gìn giữ tế bào chất xám. Nhưng uống nhiều quá lại gây nguy hại cho đầu óc, 25% người bị bệnh mất trí nhớ dính líu đến nghiện rượu. Đàn bà chỉ nên uống rượu mỗi ngày một ly. Đàn ông đuợc uống tới hai ly. 5. Duy trì huyết áp ổn định ở mức thấp: Huyết áp cao có thể làm cho mạch máu trên đầu bị hở hay đứt. Chính vì vậy, các chuyên gia y tế nói rằng huyết áp cao là nguyên nhân của 50% trường hợp gây ra lú lẫn. Chúng ta hãy ráng duy trì huyết áp ở mức thấp – lý tưởng là 115/75 – bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục hàng ngày, đừng để lên cân, béo mập. Nên theo dõi mức đường trong máu. Bệnh tiểu đường là dấu hiệu báo trước có thể bị hở mạch máu đầu, chảy máu trong não, gây ra bệnh lú lẫn. 6. Tránh đừng để bụng phệ: Cuộc nghiên cứu theo dõi 6,000 người đưa ra kết quả cho thấy cái bụng phệ rất hại cho động mạch chính dẫn máu về tim, và máu lên đầu. Vì thế chúng ta nên duy trì vòng bụng dưới 35 inches cho các bà, và dưới 40 inches cho các ông. Chỉ có một bộ phận nên gìn giữ cho to lớn. Đó chính là não bộ của bạn. “Phòng bệnh Alzheimer” Bài viết của hai bác sĩ Mehmet Oz và Michael Roizen Nguyễn Minh Tâm dịch (Theo S.F Examiner)
  7. 4/ Tác hại của việc đi ngủ muộn Tác hại của việc thức khuya, ngủ muộn có rất nhiều, có loại về lâu dài mới phát tác, có loại thì ngay hôm sau đã có thể phát tác rồi, ví dụ như mắt thâm quầng, mệt mỏi, trí nhớ giảm sút Buổi tối : Từ 21-23h là quãng thời gian hệ miễn dịch (bạch cầu lymph) bài độc (đào thải chất độc), lúc này trạng thái yên tĩnh hoặc nghe âm nhạc thư giãn. _ Từ 23h – 1h sáng là quãng thời gian bài độc của gan, cần tiến hành trong khi ngủ say. _ Từ 1h – 3h sáng là thời gian bài độc của mật, cũng cần thực hiện trong giấc ngủ say Ngủ muộn có nguy cơ gây ra nhiều bệnh tật. _ Từ 3h – 5h sáng là thời gian bài độc của phổi. Cũng chính là lý do tại sao mà người đang mắc bệnh ho lại hay ho dữ dội vào lúc này, bởi hoạt động bài độc đã chạy đến phổi. Vì thế, không nên dùng thuốc chống ho để tránh gây cản trở việc đào thải các chất cặn bã trong người vào lúc này. _ Từ 5h – 7h là khoảng thời gian ruột già bài độc, cho nên cần đi toalet vào lúc này. _ Từ 7h – 9h là lúc ruột non hấp thụ chất dinh dưỡng nhiều nhất, cho nên cần phải ăn sáng. Những người đang phải trị bệnh tốt nhất ăn sớm hơn, từ trước 6h sáng, còn với người ăn dưỡng sinh thì ăn trước 7h sáng. Những người không ăn sáng cần thay đổi thói quen xấu này, dù có đợi đến 9, 10h mới ăn cũng tốt hơn là không ăn. Nửa đêm cho đến 4h sáng là thời gian tủy sống tạo máu, cần phải ngủ say, không nên thức khuya Tác hại của việc thức khuya, ngủ muộn có rất nhiều, có loại về lâu dài mới phát tác, có loại thì ngay hôm sau đã có thể phát tác rồi, ví dụ như mắt thâm quầng, mệt mỏi, trí nhớ giảm sút Nguyễn Minh sưu tầm
  8. 5/ 10 lý do không nên bỏ qua mướp đắng Dù có vị hơi đắng, nhưng mướp đắng (hay khổ qua) lại rất hữu ích với sức khỏe. Để có được lợi ích đó, hãy tìm mua và nấu ăn nó thường xuyên. 1. Bệnh tiểu đường loại II Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng mướp đắng làm giảm lượng đường trong máu thông qua việc tăng cường trao đổi glucose. Uống một cốc nước ép mướp đắng mỗi ngày và trải nghiệm hiệu quả. Ngừng uống nếu bạn bị đau bụng, tiêu chảy hoặc sốt. Theo dõi lượng đường trong máu thường xuyên và điều chỉnh thuốc khi cần thiết, với sự trợ giúp của bác sĩ. 2. Sỏi thận: Sỏi thận cực kỳ đau đớn. Mướp đắng có thể giúp bạn thoát khỏi căn bệnh này một cách tự nhiên. Mướp đắng làm giảm axit cao gây ra sỏi trong cơ thể. Hòa bột mướp đắng với nước để tạo thành một loại trà hữu dụng cho sức khỏe. Loại trà này có hương vị hấp dẫn và bạn có thể sử dụng mà không cần thêm đường. 3. Giảm lượng cholesterol: Mướp đắng giúp làm giảm lượng cholesterol, từ đó giúp bạn thoát khỏi nguy cơ mắc bệnh đau tim và đột quỵ. Cholesterol cao chỉ có thể được chẩn đoán bằng xét nghiệm máu. Ăn mướp đắng thường xuyên sẽ đem lại hiệu quả đáng ngạc nhiên. 4. Ung thư tuyến tụy: Một trong những lợi ích sức khỏe đáng ngạc nhiên nhất của mướp đắng là đặc tính chống ung thư. Mướp đắng đã được chứng minh có tác dụng làm gián đoạn việc sản xuất đường, có khả năng ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư tuyến tụy. Nó cũng có thể ức chế tế bào ung thư khác trong gan, đại tràng, vú, hoặc tuyến tiền liệt. 5. Tốt cho da: Mướp đắng rất có lợi cho da. Uống nước ép mướp đắng thường xuyên có thể làm làn da trắng và mịn màng, giảm mụn trứng cá. Mướp đắng thậm chí còn giúp điều trị bệnh vẩy nến và eczema Hãy thử món canh mướp đắng để chữa các bệnh ngoài da hoặc cho làn da đẹp hơn.
  9. 6. Giảm cân: Mướp đắng rất ít calo và rất nhanh làm bạn cảm thấy no. Ăn mướp đắng thường xuyên giúp bạn giảm cân hoặc duy trì mức cân nặng lý tưởng. Loại quả này cũng chứa hàm lượng dinh dưỡng cao. 7. Bổ gan: Mướp đắng là thực phẩm bổ gan, hỗ trợ tiêu hóa, cải thiện chức năng túi mật, và làm giảm tích trữ chất lỏng. Xơ gan, viêm gan, táo bón có thể thuyên giảm bởi mướp đắng. Bạn nên uống nước ép mướp đắng ít nhất một lần một ngày. Mướp đắng cũng hỗ trợ giảm cân và làm giảm triệu chứng ruột kích thích. 8. Chuyển hóa carbonhydrate: Đây là một lợi ích rất quan trọng đối với những người có bệnh tiểu đường loại II. Carbohydrate chuyển sang đường, và mướp đắng giúp chuyển hóa các loại đường. Chuyển hóa carbohydrate nhanh hơn có nghĩa là ít chất béo được lưu trữ trong cơ thể hơn dẫn đến giảm cân và duy trì cân nặng khỏe mạnh. Chuyển hóa carbohydrate nhanh cũng hỗ trợ tăng trưởng và phát triển cơ bắp. 9. Nguồn Vitamin K dồi dào: Vitamin K giúp tăng cường sức khỏe của xương, chống đông máu, và là chất chống viêm. Vitamin K giúp cải thiện chứng viêm khớp, đau khớp. Việc bổ sung mướp đắng đáp ứng nhu cầu vitamin K hàng ngày cho cơ thể bạn. Ngoài ra, nó cũng là nguồn chất xơ tuyệt vời mà bạn không nên bỏ qua. 10. Tăng cường miễn dịch: Một hệ miễn dịch khỏe mạnh là quan trọng cho việc chống nhiễm trùng và bệnh tật. Mướp đắng giúp ngăn ngừa cảm lạnh và có lợi cho hệ tiêu hóa. Nó còn giúp ngăn chặn hoặc hạn chế dị ứng thực phẩm, loại bỏ các bệnh nhiễm trùng nấm men tự nhiên. Một lợi ích khác là giúp điều trị chứng trào ngược axit và chứng khó tiêu. Quỳnh Trang (Theo vnexpress.net) 6/ Coi chừng khi tiếp xúc với cây vạn tuế
  10. Vỏ, ngọn cây và hạt vạn tuế đều chứa chất độc có thể gây ung thư hoặc rối loạn thần kinh mãn tính. Cây vạn tuế tên khoa học là Cycas revoluta Thunb, thuộc họ thiên tuế Cycadaceae. Loài thực vật này phân bố ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ. Ở Việt Nam cây thường được trồng để làm cảnh trong nhà. Tuy nhiên theo cảnh báo đăng trên tờNational Tropical Botanical Garden, mọi người không nên tiếp xúc gần hoặc dùng tay bứt lá, hạt, vỏ vạn tuế, bởi có thể bị ngộ độc. Cụ thể các hợp chất alkaloids trong thân cây có thể gây ung thư, acid amin là nguyên nhân làm rối loạn thần kinh mãn tính, ngay cả trong hạt vạn tuế cũng có chất cycasin độc tính khá cao. Các nhà khoa học khuyên không nên tiếp xúc thường xuyên hoặc đặt cây vạn tuế trong phòng kín bởi nó có thể gây bệnh, ngộ độc thậm chí gây tử vong cho người. Nên đặt cây tránh xa tầm với của trẻ em, bởi cơ thể non nớt của bé dễ bị tổn thương nếu vô tình chạm vào cây. 7/ Lợi ích của đi bộ
  11. Tục ngữ có câu : Người già đôi chân già trước, giữ đôi chân tốt chính là mấu chốt phòng bệnh để kéo dài tuổi thọ. Các chuyên gia nghiên cứu phương pháp tự chữa bệnh cho rằng : Trên đôi bàn chân có rất nhiều đầu mối thần kinh liên quan đến các tạng phủ. Cho nên dùng tay để chà xát, xoa bóp rất có lợi cho sức khoẻ. Thí dụ : - Mu ngón chân út có liên quan đến bàng quang, xát ngón chân út có thể chữa được chứng bí đái, đái són, đái buốt - Mu ngón chân thứ hai có liên quan đến dạ dày, xát ngón thứ 2 có thể chữa được chứng chướng bụng, đầy hơi, ợ chua. - Ngón chân cái có liên quan đến gan, tì, lòng bàn chân có liên quan đến thận. - Xát gan bàn chân có thể chữa được lưng đau, mỏi, ù tai, nghễnh ngãng. - Ngón thứ tư có liên quan đến gan, xát ngón này có thể chữa được táo bón, lưng vai đau mỏi Thường xuyên xát gan bàn chân không những làm tăng lưu lượng máu, tăng tính đàn hồi thành mạch máu, mà còn kích thích não bộ trị được chứng nhức đầu, hoa mắt, mất ngủ, mộng mị Người già thường xuyên xát chân còn phòng được chứng tê bì, chân tay giá lạnh. Phương pháp xát chân cụ thể : Trước tiên ngâm chân vào nước nóng 15 phút, lau sạch Ngồi trên giường hoặc ghế, chân nọ gác lên đầu gối chân kia, một tay xoa gan bàn chân, một tay xoa mu bàn chân, xát đi, xát lại khoảng 200 lần là vừa. Ðổi chân, cũng làm như trên. Xát cho đến khi nóng, người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu là được. Mỗi ngày làm 2 lần vào buổi sáng và tối. Lợi ích của đi bộ: Ði bộ mỗi ngày 30 phút sẽ đem lại cho bạn những tác dụng không ngờ đối với sức khoẻ thể chất và tinh thần. 1. Tốt cho tim
  12. Một nghiên cứu gần đây đưa ra kết luận, nếu đi bộ nhanh 30 phút mỗi ngày sẽ làm giảm nguy cơ phát triển hội chứng chuyển hoá (metabolic syndrome)- một nhóm các triệu chứng ban đầu dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, tiểu đường, và đột qụy. Theo thống kê tại Mỹ, có khoảng 24 triệu phụ nữ nước này mắc hội chứng chuyển hoá. Không có thời gian để đi bộ nửa giờ mỗi ngày ư ? Một nghiên cứu ở Anh cho thấy rằng, hoạt động thường xuyên (Kết hợp đi bộ và đi xe đạp) đồng nghĩa với việc giảm 11 % nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch, đặc biệt là đối với phụ nữ. 2. Loại bỏ nguy cơ mắc ung thư vú Ði bộ chỉ cần vài giờ mỗi tuần có ý nghĩa đặc biệt trong việc giảm nguy cơ mắc ung thư vú, (theo công bố trên tờ tạp chí của hội y học Mỹ). Ðồng thời đi bộ làm giảm béo, tăng khả năng sản sinhestrogen. Kết quả của nghiên cứu trên 74.000 phụ nữ ở tuổi mãn kinh (50-79 tuổi) với những người có thể trạng bình thường, nguy cơ mắc ung thư vú giảm đi 30 %, còn những người thừa cân thì chỉ giảm từ 10-20 %. Nghiên cứu trên phụ nữ trẻ hơn cũng đưa đến kết quả tương tự. 3. Giúp ngủ ngon hơn Ði bộ nhanh vào buổi chiều giúp bạn có được một giấc ngủ ngon hơn (Theo lời khuyên của tổ chức Giấc ngủ Quốc tế). Hơn nữa, nhiều ý kiến còn cho rằng, đi bộ làm tăng lượng hormone serotonin giúp cho bạn được thư giãn Tuy nhiên bạn đừng nên đi bộ 2 giờ trước khi ngủ vì nó quá muộn để cơ thể nghỉ ngơi trở lại. 4. Làm giảm sự đau nhức cơ thể Hãy đi bộ và bạn sẽ giảm sự đau nhức cơ thể (Ðó là lời khuyên của các nhà khoa học, Ðặc biệt là môn đi bộ nhanh (Chiwalking- một ý tưởng kết hợp Thái cực quyền, Yoga và Pilates- một môn thể dục mềm dẻo). Nó giống như việc đi bộ thường xuyên nhưng bởi vì bạn thư giãn có ý thức, nó làm cơ thể bạn trở nên cân bằng bao gồm việc vận động cánh tay, làm cho chân không bị stress như khi đi bộ. Kết quả làm giảm đi sự đau nhức. Môn Chiwalking hiện ngày một phổ biến ở Mỹ. 5. Nó làm cho bạn hạnh phúc Ði bộ có thể làm cho bạn giảm bớt sự buồn chán, lo âu và stress, đó là một hiệu quả mà ít ai ngờ tới. Chỉ cần 30 phút đi bộ sẽ khiến cho tâm trạng của bạn trở nên khá hơn. theo nhà nghiên cứu thuộc trường đại học Texas - Mỹ). Bỏ ra 90 phút đi bộ 5 lần mỗi tuần là bạn sẽ có được tâm trạng tốt nhất (nghiên cứu của đại học Temple). Một giải thích được đưa ra : Ði bộ giúp cơ thể sản sinh ra endorphin, một hoá chất làm cải thiện tâm trạng tạo cho bạn cảm giác lạc quan, yêu đời hơn. 6. Giúp làm giảm bớt trọng lượng của cơ thể Ði bộ 30 phút mỗi ngày có thể tránh sự tăng cân ở hầu hết những người ít hoạt
  13. động tự nhiên. Mặt khác, nếu phụ nữ đi bộ một giờ mỗi ngày và năm lần trong một tuần sẽ tiêu hao 1.500 calo mỗi ngày và giảm khoảng 11 kg cân nặng bị thừa mỗi năm. Việc đi bộ có thể kiểm soát trọng lượng cơ thể của bạn. 7. Duy trì trí nhớ cho người cao tuổi Một vài nghiên cứu trên nhóm người cao tuổi chỉ ra rằng đi bộ thậm chí chỉ cần 45 phút mỗi tuần sẽ giúp tránh được bệnh Alzheimer. Ði dạo hoặc tản bộ thông thường cũng đồng nghĩa với việc trí não được luyện tập và trở nên minh mẫn hơn ở tầng lớp người cao tuổi. 8. Bảo vệ xương của bạn Chỉ cần 30 phút đi bộ 3 lần mỗi tuần là cách tuyệt vời để bảo vệ và rèn luyện cho xương của bạn. Giống như một bài tập, khi đi bộ sẽ đòi hỏi người phải sử dụng 95 % hệ cơ, thực tế quá trình này giúp thúc đẩy và khiến cho xương của bạn trở nên khoẻ mạnh và rắn chắc hơn. Nguyễn Minh sưu tầm 8/ Những cấm kỵ khi sử dụng gừng
  14. Từ xưa, gừng được biết đến không chỉ như là một trong các loại thực phẩm gia vị, mà nó còn được dùng trong y học dân gian để điều trị hoặc làm giảm các triệu chứng bệnh lý thường gặp. Tuy nhiên, khi sử dụng gừng không đúng cách sẽ gây hại cho sức khỏe. Khi bị húng hắng ho, một lát gừng với mấy hột muối là hết liền. Tuy nhiên đọc bài này mới thấy có nhiều điều mình chưa biết. Từ xưa, gừng được biết đến không chỉ như là một trong các loại thực phẩm gia vị, mà nó còn được dùng trong y học dân gian để điều trị hoặc làm giảm các triệu chứng bệnh lý thường gặp. Tuy nhiên, khi sử dụng gừng không đúng cách sẽ gây hại cho sức khỏe. Vì vậy, khi dùng gừng làm thuốc hay để ăn, bạn hãy chú ý đến một số điều cần lưu ý sau. Bệnh dạ dày: Đối với người bị đau dạ dày, viêm loét dạ dày, loét tá tràng sẽ được các bác sĩ khuyên không nên ăn gừng, vì trong thành phần của gừng có những chất chủ yếu hoạt động trên các niêm mạc dạ dày. Từ đó, các niêm mạc bị kích thích, bào mòn và gây ra những vết loét. Ngoài ra, khi đã được chẩn đoán có bất kỳ triệu chứng ung thư ở đường tiêu hóa thì chống chỉ định tuyệt đối không được ăn gừng, vì nó sẽ kích thích khối u phát triển rất nhanh. Cũng giống như niêm mạc dạ dày, nếu ăn gừng với số lượng nhiều có thể gây ra những viêm, loét bao phủ hết thành ruột và đại tràng. Bệnh gan: Người bị bệnh viêm gan cấp và mãn tính, xơ gan không nên ăn gừng, vì nó kích thích sự bài tiết của các tế bào gan, vì những tế bào này sẽ bị hoại tử khi đang trong trạng thái được kích thích. Ngoài ra, người bị sỏi mật cũng được khuyên không nên ăn gừng, vì nó sẽ làm cho các viên sỏi bị mắc kẹt trong đó, thậm chí trong nhiều trường hợp cần thiết phải phẫu thuật. Bệnh trĩ, xuất huyết: Nếu bạn có tiền sử bị rối loạn chảy máu (trong đó có cả chảy máu cam, tử cung ) thì nên hạn chế ăn gừng bất kỳ dạng nào, bởi nó sẽ làm tăng tình trạng chảy máu. Ngoài ra, bạn không được ăn gừng khi bị đột quỵ, nhồi máu cơ tim, huyết áp cao hay đã có tiền sử đột quỵ, nhồi máu và thiếu máu cục bộ. Phụ nữ mang thai:
  15. Theo kinh nghiệm dân gian, gừng được dùng trong thời gian đầu của thời kỳ mang thai nhằm giảm các triệu chứng buồn nôn, tiết nước bọt và giảm các triệu chứng ngộ độc. Còn trong nửa cuối của thai kỳ nên hạn chế dùng gừng, vì nó có thể làm tăng huyết áp gây nguy hiểm cho thai phụ. Và trong thời kỳ cho con bú cũng không nên ăn gừng, vì nó có thể được bài tiết vào sữa mẹ gây ra chứng mất ngủ ở trẻ em. Người thân nhiệt cao: Trong trường hợp này không nên ăn gừng vì nó sẽ làm thân nhiệt tăng cao hơn. Tuy nhiên, nếu bị cúm virus mà không sốt hay sốt nhẹ vẫn có thể dùng gừng, nhưng khi đã có dấu hiệu sốt cao và có nguy cơ tổn thương các mạch máu và xuất huyết thì tuyệt đối không được dùng gừng. Tương tác của thuốc và gừng: Trong thực tế gừng có thể phù hợp và kết hợp được với nhiều loại thuốc. Nhưng cũng nên cẩn trọng hơn khi dùng thuốc phải có khuyến cáo của bác sĩ. Điều không nên làm là kết hợp gừng với những loại thuốc giảm huyết áp, chống loạn nhịp tim và thuốc kích thích cơ tim. Vì hoạt tính của những loại thuốc này sẽ tăng lên khi có sự kết hợp với gừng và gây ra tình trạng công thuốc, quá liều. Ngoài ra, gừng cũng không được dùng với thuốc hạ đường huyết vì gừng sẽ làm giảm lượng đường trong máu của bạn, điều này đã được quy định riêng cho bệnh tiểu đường. Theo Đông y, bạn dùng gừng không được gọt vỏ, vì như vậy sẽ mất hết dược tính của gừng. Không được ăn gừng tươi đã bị dập hay mọc mầm, vì gừng ở dạng này dễ sinh ra một loại độc tố cực mạnh, thay đổi tính chất của gừng, dẫn tới hoại tử tế bào gan gây ung thư gan và thực quản. Hơn nữa, thời gian buổi tối cũng không được ăn gừng, vì nó có thể ảnh hưởng xấu đến sinh lý và sức khỏe. Nguyễn Minh sưu tầm 9/ Tuyệt vời bí rợ (bí đỏ)
  16. Quả và hạt bí rợ là những người bảo vệ cho túi tiền của nam giới. Những hóa chất có trong quả và hạt bí rợ gọi là phytosterols, vốn có thể làm gọn lại những tiền liệt tuyến bị phì đại. Quả bí rợ (bí đỏ) thuộc nhóm rau quả rất giàu dinh dưỡng. Chỉ cần ăn một chén bí đỏ, bạn đã làm xong một chuyện tử tế với sức khỏe của mình. Bí rợ (bí đỏ - pumpkin) là một thành viên trong đại gia tộc bầu bí (curcubitaceae), có nguồn gốc từ châu Mỹ và được thổ dân xem như là thần dược để chữa trị nhiều bệnh tật và bồi bổ cơ thể. Pumpkin có nguồn gốc từ tiếng Latin, có nghĩa là “quả dưa lớn”. Thổ dân châu Mỹ xem bí đỏ như thần dược. Quà tặng của thiên nhiên Chỉ cần thưởng thức một chén bí đỏ, chúng ta đã làm xong một chuyện tử tế cho sức khỏe của chính mình. Bí rợ thuộc nhóm rau quả rất giàu dinh dưỡng, là “doanh trại” của những “chiến sĩ” chống ôxy hóa (antioxidants) xả thân chiến đấu chống lại các gốc tự do (free radicals). Màu vàng tươi của bí rợ là do sự hiện hữu của beta-carotenes. Đây là những chất chống ôxy hóa khét tiếng do được chuyển hóa thành vitamin A khi vào cơ thể. Vitamin A có nhiệm vụ quan trọng là hỗ trợ hệ miễn dịch, do đó có chức năng tăng cường “hàng phòng thủ” của cơ thể, đồng thời giúp cơ thể “nâng cấp” lại những tế bào bị tổn hại vì gốc tự do. Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng những người tiêu thụ thực phẩm giàu beta-carotenes sẽ có tần suất thấp nguy cơ bị một số bệnh ung thư. Cùng với beta-carotenes, thịt bí rợ cũng chứa alpha-carotenes có tác dụng ngăn chặn những căn bệnh thoái hóa như đục thủy tinh thể. Bí rợ chứa nhiều vitamin C, chất xơ nên kiêm luôn tác dụng điều hòa huyết áp. Do chứa một hàm lượng kẽm đáng kể nên ngoài việc hỗ trợ hệ miễn dịch, bí rợ còn có tác dụng hỗ trợ những trường hợp loãng xương. Ngoài những dưỡng chất trên, bí rợ còn chứa nhiều calcium, carbohydrates, folate, sắt, magnesium, vitamin B3, protein, vitamin E Giá trị chữa bệnh cao
  17. Quả và hạt bí rợ là những người bảo vệ cho “túi tiền” của nam giới. Những hóa chất có trong quả và hạt bí rợ gọi là phytosterols, vốn có thể làm gọn lại những tiền liệt tuyến bị phì đại. Một nghiên cứu được thực hiện tại Budapest - Hungary cho thấy đàn ông bị phì đại tiền liệt tuyến lành tính (benign enlarged prostate) nếu điều trị bằng hạt bí rợ thì bệnh trạng sẽ được cải thiện một cách đáng kể. Sự cải thiện này nhờ vào “song cước”. Một là củng cố dòng nước tiểu, giảm số lần đi tiểu đêm; hai là ức chế sự sản sinh loại hormone sinh dục nam - testosterone, vốn được xem là “đồng phạm” gây phì đại tiền liệt tuyến. Hạt bí rợ còn là một chất kháng viêm hữu hiệu, có tác dụng tốt trong những trường hợp viêm khớp. Tác dụng kháng viêm của hạt bí rợ đã qua mặt một loại thuốc trị viêm khớp đình đám là Indomethacin vì không gây ra những tác dụng phụ. Ăn bí rợ còn giúp cơ thể “hóa giải” sự hình thành sỏi calcium oxalate ở thận. Quả bí rợ chứa nhiều L-trytophan nên được xem là một loại thực phẩm bổ não, đồng thời giúp cơ thể đương đầu với stress. Y học dân gian (cả đông y và tây y) dùng hạt bí rợ để trị giun. Cọng bí rợ còn là bạn tốt của phụ nữ. Lấy cọng bí rợ đem nấu nước uống sẽ giúp phụ nữ vơi đi nỗi đau trong những ngày “đèn đỏ”. Ds. Nguyễn Bá Huy Cường 10/ 4 động tác đơn giản phòng chống đột quỵ
  18. Ngoài một lối sống và dinh dưỡng lành mạnh, các động tác tự mát-xa dưới đây sẽ giúp những người có nguy cơ cao phòng chống được chứng đột quỵ khó lường. -Nắm tay : Phòng tràn máu não: Nghiên cứu phát hiện, tràn máu não liên quan đến phương thức vận động, thói quen sinh hoạt của người bệnh, thiếu vận động thì thành mạch máu não phải rất yếu, dễ gây ra vỡ nứt, vì vậy người bệnh nên hoạt động tay trái nhiều, cách làm như sau: Mỗi sáng, trưa, tối nắm tay không 3 lần, mỗi lần nắm từ 400- 800 lượt. - Nhún vai : Phòng chống tắc nghẽn mạch máu não: Nhún vai có thể làm cho thần kinh, huyết quản và cơ bắp phần vai thư giãn, hoạt huyết thông mạch, để cung cấp động lực cho lưu lượng máu ở động mạch cổ lưu thông vào não. Cách làm như sau: mỗi sáng tối nhún vai theo động tác lên xuống, mỗi lần thực hiện 4-8 phút. -Lắc đầu : Phòng chống đột quỵ : Chuyên gia phân tích từ thực tế là công nhân phun sơn rất ít phát sinh đột quỵ do khi làm việc, phần đầu và cổ chuyển động nhiều. Phần đầu chuyển động trước sau có thể gia tăng sức bền của mạch máu, có lợi trong việc phòng chống đột quỵ. Cách làm là: ngồi thẳng, thư giãn cơ bắp vùng cổ, sau đó chuyển động đầu theo hướng trước, sau, trái, phải, mỗi lần thực hiện 30-50 lần, tốc độ chậm, làm 3 lần mỗi ngày, người bị huyết áp thấp có thể nằm ngửa để tập. - Mát-xa phần cổ : Ít bị đột quỵ : Mát-xa phần cổ có thể thúc đẩy mạch máu, cơ vùng cổ thư giãn, giảm bớt cholesterol tích tụ, làm cho mạch máu hồi phục đồng thời cải thiện cung cấp máu cho não, phòng chống gây ra đột quỵ. Cách làm là: hai sau chà xát vào nhau cho nóng, mát xa hai bên trái phải của vùng cổ, tốc độ nhanh một chút, đến lúc da phần cổ đỏ lên là được. Dương Hằng (Theo Sohu) 11/ 6 tác dụng không ngờ từ bánh mì
  19. Trong ấn bản mới nhất của Tạp chí dinh dưỡng Bulletin, tiến sĩ O’Connor của quỹ dinh dưỡng Anh đã viết: Bánh mì cung cấp hơn 10% lượng protein, chất sắt vào cơ thể chúng ta mỗi ngày, giúp chúng ta đáp ứng một số nhu cầu dinh dưỡng quan trọng. Chúng ta ăn trung bình từ 2 đến 3 lát bánh mì mỗi ngày, nhưng sau đây sẽ là những lý do mà bạn muốn tăng thêm “con số” đó. 1. Giúp làn da đẹp: Làn da chúng ta rất cần protein - chất cần thiết giữ cho da chúng ta khỏe mạnh. Chất dinh dưỡng này thường có trong bít tết, cá và đồ nướng, nhưng có một điều ngạc nhiên là nó cũng có trong bánh mì. Vì vậy, bốn lát bánh mì mỗi ngày có thể cung cấp 1/4 lượng protein cho phụ nữ và 1/5 cho nam giới. 2. Giúp xương chắc khỏe: Bốn lát bánh mì trắng mỗi ngày cung cấp cho chúng ta 164mg calcium (giống như 100g sữa chua) trong khẩu phần 800mg calcium mỗi ngày mà chúng ta cần nạp vào cơ thể. Các bạn nữ ở độ tuổi 10 đến 15 thường chỉ ăn khoảng 300mg calcium mỗi ngày, đây là vấn đề rất nghiêm trọng đối với sự phát triển của xương và nguy cơ gãy xương là rất cao. Vì vậy, ăn bánh mì vào mỗi bữa sáng hay bữa trưa giúp tăng đáng kể các chất giúp xương chắc khỏe. 3. Giúp não hoạt động tốt nhất: Chất sắt giúp chúng ta tràn đầy sinh lực và giúp não bộ làm việc chính xác và tự tin. Hiện nay, rất nhiều phụ nữ ở Anh ăn quá ít chất sắt, vì thế, họ luôn cảm thấy mệt mỏi, kiệt sức, hay gắt gỏng trong khi làm việc. Từ năm 1953, chất sắt đã được thêm vào bột bánh mì. Theo một nghiên cứu thì một lát bánh mì trắng cung cấp 0.6mg trong tổng số 15 mg phụ nữ cần mỗi ngày. Vì vậy, bốn lát bánh mì mỗi ngày sẽ giúp bạn tăng lượng sắt, và nó thật hữu ích nếu bạn muốn tránh ăn thịt bò và dầu cá. 4. Giúp cải thiện tâm trạng: Chúng ta cần chất folic acid để giúp các dây thần kinh khỏe mạnh. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên có khoảng 400 microgam những chất đó hằng ngày, bốn lát bánh mì sẽ cung cấp 1/4 nhu cầu cho họ. 5. Giúp giảm béo: Nếu bạn đang trong chế độ ăn kiêng thì một trong những loại thực phẩm đầu tiên bạn nên nghĩ đến đó là bánh mì. Một lát bánh mì trắng chỉ chứa khoảng 77 calories, ít hơn 6 calories so với một chiếc bánh quy và tương đương với lượng bơ mà bạn dùng kèm với lát bánh mì đó. Vì vậy, bánh mì có thể giúp bạn tránh béo phì nếu có chế độ ăn hợp lý. 6. Tốt cho tiêu hóa:
  20. Bánh mì cung cấp cho con người chất xơ, nó rất tốt cho tiêu hóa. Hai lát bánh mì nâu được ăn vào bữa trưa sẽ cung cấp 1/3 nhu cầu chất xơ hàng ngày của bạn. Chính vì những lý do trên, chúng ta nên có cái nhìn đúng đắn về bánh mì và có chế độ ăn hợp lý để nhận được hết lợi ích từ bánh mì. Nguyễn Minh sưu tầm 12/ Một vài điều cần biết khi ăn bưởi Mặc dù bưởi là trái cây tốt cho sức khỏe, nhưng điều đó không có nghĩa là không có những cấm kỵ khi ăn bưởi Bưởi là loại quả xuất hiện nhiều ở mùa thu đông. Bưởi có vị ngọt, bên trong có chứa rất nhiều dưỡng chất, thích hợp ăn vào mùa thu đông hanh khô. Trong đông y cho rằng bưởi có công hiệu lợi cho dạ dày, là thực phẩm tiêu hóa, trị hen suyễn, giải rượu. Theo nghiên cứu phát hiện, bưởi còn chứa nhiều thành phần chất như protein, chất béo, carbohydrate, chất xơ, hàm lượng vitamin C phong phú, vitamin B2, viatamin P, carotene, insulin và nguyên tố vi lượng như canxi, kali, phốt pho, sắt nên rất có lợi cho cơ thể. Do trong trái bưởi có chứa chất kali rất phong phú, cho nên là loại trái cây trị liệu lý tưởng cho những người mắc bệnh thận, và bệnh về mạch máu não, hơn nữa trong tép bưởi tươi có chứa thành phần chất như insulin, cũng là một loại thực phẩm lý tưởng cho những người mắc bệnh tiểu đường. Vitamin P trong trái bưởi có thể tăng cường chức năng của các lỗ chân lông trong da, giúp mau lành những viết thương ở ngoài da, hơn nữa hàm lượng calo trong trái bưởi ít, nó có thể giúp giảm béo, có tác dụng làm đẹp da. Rất phù hợp với nguyên tắc “đẹp tự nhiên” của chị em, là loại hoa quả thích hợp nhất cho sự chọn lựa của các bạn gái trong mùa thu đông. Hàm lượng vitamin C trong trái bưởi là chất hóa học của quả trong tự nhiên có thể giảm làm giảm hàm lượng cholesterol trong máu của cơ thể, đồng thời còn có lợi cho việc hấp thụ canxi, sắt giúp tăng cường thể chất. Khi mọi người ăn bưởi, thường là bóc vỏ và tiện tay bỏ đi, thực tế vỏ bưởi rất quý, nếu có thể tận dụng tất cả công năng này bạn sẽ có thể có được kết quả không thể ngờ tới. Vỏ bưởi có tác dụng thúc đẩy sự lưu thông máu, cải thiện quá trình trao đổi chất,
  21. ngoài ra sự khuyếch tán hương vị còn có thể loại bỏ mệt mỏi và giảm bớt căng thẳng. Ngoài ra, lượng vitamin C và chất keo phong phú trong tép bưởi có tác dụng dưỡng ẩm cho da và giữ nước cho cơ thể, ngăn chặn các nếp nhăn và chân chim. Bưởi còn chứa nhiều thành phần chất như protein, chất béo, carbohydrate, chất xơ, chứa hàm lượng vitamin C phong phú và nguyên tố vi lượng như canxi, kali, phốt pho, sắt , nên rất có lợi cho cơ thể. Thường xuyên ăn bưởi, có tác dụng hỗ trợ việc trị liệu đối với các bệnh nhân cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh xơ cứng động mạch, có công dụng giúp giảm béo. Ngoài ra, vỏ bưởi có chứa chất glycosides mang hoạt tính sinh lý, có thể tăng độ lưu thông cho máu, giảm thiểu sự hình thành của huyết khối, chính vì vậy có tác dụng phòng bệnh tắc nghẽn mạch máu não. Tuy nhiên, dưới đây là một số lưu ý khi ăn bưởi. 1. Bệnh nhân tiêu chảy có hệ tiêu hóa kém không nên ăn bưởi Bưởi có tính lạnh, khiến cho người bị tiêu chảy ăn vào sẽ càng nghiêm trọng. Do vậy, nếu trong người yếu thì không nên ăn nhiều bưởi. Thông thường người ta chỉ dùng bưởi để hạ nhiệt, hạ quá mức cũng sẽ gây ra triệu chứng đau bụng 2. Không được ăn bưởi khi uống một số loại thuố Bệnh nhân có lượng mỡ trong máu cao nếu dùng một cốc nước ép bưởi để uống một viên thuốc giảm béo thì có thể dẫn đến hiện tượng đau cơ, thậm chí là dẫn đến bệnh về thận. Một số bệnh nhân trong thời kỳ sử dụng thuốc chống dị ứng nhất định, nếu ăn bưởi hoặc là uống nước ép bưởi, nhẹ thì có thể gây ra đau đầu, tim đập mạnh, loạn nhịp tim , nghiêm trọng có thể dẫn đến đột tử. Ngoài ra, còn một số thành phần khi kết hợp với bưởi có thể gây ra tác dụng phụ như: Dung dịch Cyclosporine, chất caffeine, canxi đối kháng, Cisapride Uống một cốc nước ép bưởi, cùng với các thành phần có chứa trong thuốc có thể gây ra tác dụng phụ nếu sử dụng cùng nhau trong vòng 24 giờ đồng hồ. Do vậy, các chuyên gia sức khỏe khuyên rằng, bệnh nhân đang sử dụng thuốc, đặc biệt là người già, tốt nhất là không nên ăn bưởi và uống nước ép từ bưởi. Dù ăn hoặc uống nước ép bưởi vài giờ trước hoặc sau khi bạn uống thuốc vẫn có thể còn nguy hiểm, vì vậy tốt nhất là tránh hoặc hạn chế loại thực phẩm này. Nguyễn Minh sưu tầm 13/ Lá mơ trị ho
  22. Có ai đã từng đau khổ vì BỊNH HO ho liên tu bất tận, ho đến muốn ngộp thở luôn; ho ran cả ngực, rát cổ họng, cái đầu như sắp bị nứt ra vậy ? Có nhiều toa thuốc Nam chung qui về các món như chanh muối, mật ong và rượu mạnh. NHƯNG CÓ MỘT MÓN THUỐC TRỊ HO THẬT ĐƠN GIẢN và CÓ HIỆU LỰC THẬT NHANH CHÓNG. Hôm qua còn ho sù sụ, chiều tối uống thuốc nầy và ngủ một giấc thật thoải mái, sáng hôm sau KHÔNG CÒN HO NỮA, mau chóng khỏi bịnh không ai ngờ. 1- Bốc chừng một nắm LÁ RAU MƠ - Loại DÂY MƠ này người Bắc rất thân quen và dùng làm thức ăn rất ngon miệng. Còn người NAM thì gọi bằng một cái tên nhà quê, thật thà là LÁ THÚI ĐỊT. Rất dễ trồng và người ta hay cho nó leo theo các hàng rào để hữu dụng và vừa làm cảnh nữa. Mặt trên của lá mơ có màu xanh lá cây và mặt dưới có màu tím và cả 2 mặt đều có lông mịn. Ở Nam Cali có nhiều nhà trồng dây mơ lắm. và ở bên Úc lúc đầu tưởng khó tìm, nhưng khi gặp người nầy, người nọ hỏi thăm một chút là có ngay, bao nhiêu cũng có ở Vùng Springvale. Chắc các nơi khác cũng đều có người Việt mình trồng. 2- Giã nát lá mơ trong một cái cối, giã cho nát bấy ra. Sau đó vắt lấy nước cốt, đựng trong một cái chén nhỏ, độ chừng 30 ml thôi (Nếu uống cả chén thì sẽ bị bón đấy). 3- Lấy một muỗng cà phê MẬT ONG, hòa tan vào 30 ml nước cốt lá mơ (VẪN CÒN KẸO KẸO; vì mật ong khó tan vào nước lạnh). 4- Đem chén nước mơ và mật ong để trong Microwave, bấm chừng 15 giây (15") - Đem ra thấy ấm ấm và quậy cho mật ong thật hòa tan vào nước mơ. Uống từ từ cho hết, để cho thuốc thắm vào cổ họng, chừng 1 hay 2 phút sau rồi sẽ uống 1 ngụm nước tráng miệng thôi. Thuốc có mùi nồng nồng, khó uống nhưng không làm lợm giọng như vị đắng của thuốc Bắc. Chỉ uống 1 lần trước khi đi ngủ và sáng hôm sau là sẽ thấy không còn ho nữa. Nếu còn ho chút ít thì trưa hôm sau uống thêm 1 lần nữa là chấm dứt hẳn ngay.
  23. Bà con CỨ LÀM THỬ SẼ THẤY HIỆU QUẢ khó ngờ !!! Người truyền bá Toa Thuốc Ho nầy là người Gốc Rạch Giá, hiện sống ở Nam Cali. Còn người ghi lại toa thuốc nầy để phổ biến và để cám ơn Chị Yến Nguyệt đã tìm kiếm lá mơ và ra tay thực hiện chén thuốc hồi năm 2012. Uống xong đi ngủ không thấy ho hen gì nữa, và sáng hôm sau, trên chuyến bay từ Nam Cali qua Houston, không còn ho 1 tiếng nào cả. Vì trước đó mấy ngày, sợ sẽ làm phiền ghế hàng xóm trên chuyến bay nên suýt định hủy bỏ, chờ hết ho mới đi tiếp thì mọi dự định đều phải xáo trộn. May quá! nhờ toa thuốc ho vạn tuế !!! Về lại Úc, Mùa Thu 2013 cũng đang bị ho ráo riết cả tuần, hôm qua tìm được LÁ MƠ, cũng của người Rạch Giá, và SÁNG NAY đã không còn ho, đã khỏi. Gia đình cho lá mơ hối thúc phải sớm phổ biến món thuốc ho gia truyền gốc Rạch Giá nầy. Nên hôm nay, toa thuốc ho được trình làng cùng bà con là như vậy! Nguyễn Minh sưu tầm 14/ Bệnh nào, uống nước cách đó Nếu muốn giảm béo nhưng lại uống không đủ nước thì mỡ trong cơ thể không thể tiến hành trao đổi chất, kết quả là thể trọng lại càng tăng. Tàn nhang - Sáng sớm uống 1 cốc nước đun sôi để nguội Có người còn uống nước muối, có người lại uống nước mật ong, lại có người muốn trắng da nên uống nước chanh, vậy tóm lại thì uống nước gì là tốt nhất? Cơ thể trải qua một quá trình trao đổi chất vào ban đêm, những “độc tố” trong cơ thể cần một ngoại lực tác động mạnh vào để bài trừ ra ngoài, nên nước đun sôi để nguội không có đường, không có chất dinh dưỡng là thức uống tốt nhất. Nếu là nước có cho thêm đường hay các chất dinh dưỡng khác vào thì như vậy lại cần thời gian để chuyển hóa trong cơ thể, không tạo ra tác dụng nhanh chóng “tẩy rửa” cơ thể của chúng ta, một cốc nước sáng sớm chính là phương thức bài độc cực hay. Cảm mạo - Cần uống nhiều nước hơn khi bình thường Mỗi khi bị cảm mạo bạn thường thấy bác sĩ nhắc nhở: “cần uống nhiều nước vào!” - Câu nói này trong y học sẽ là tốt nhất đối với người bị cảm mạo. Bởi vì khi bạn bị cảm, sốt, cơ thể sẽ tạo ra phản ứng tự nhiên để bảo vệ cơ thể đó
  24. chính là tự thân giảm nhiệt độ, lúc này cơ thể sẽ có những biểu hiện như đổ mồ hôi, hô hấp nhanh, lượng nước trên da bay hơi nhiều hơn Lúc này cần bổ sung một lượng lớn nước vào cơ thể, cơ thể cũng sẽ sinh ra biểu hiện khát nước. Uống nhiều nước không chỉ thúc đẩy việc tiết ra mồ hôi và bài tiện, mà còn có lợi cho việc điều tiết nhiệt độ cơ thể, nhanh chóng bài trừ vi rút bệnh ra khỏi cơ thể. Đau dạ dày - Thường xuyên ăn cháo Những người bị bệnh đau dạ dày hoặc cảm thấy dạ dày bị khó chịu thì có thể ăn cháo. Nhiệt độ khi ninh cháo cần phải cao hơn 60oC, dưới nhiệt độ như vậy làm cho cháo sánh lại, cháo ninh nhừ nhờ lửa lớn vừa ăn vào là tan ngay, vào bụng vô cùng dễ tiêu hóa nên rất thích hợp với những người có bệnh về dạ dày. Trong cháo có chứa lượng nước rất lớn, còn có khả năng nhuận tràng, thuận lợi đẩy những chất có hại trong tràng vị ra ngoài cơ thể. Táo bón - Uống nước từng ngụm lớn Nguyên nhân gây nên táo bón nói đơn giản có 2 loại: một là trong cơ thể thiếu nước, hai là cơ quan đường ruột không có khả năng bài tiết. Nói về nguyên nhân thứ nhất thì phải thường xuyên uống nhiều nước. Nói về nguyên nhân thứ 2 thì cách giải quyết tạm thời là uống nước từng ngụm lớn, động tác nuốt nhanh, như vậy nước có thể nhanh chóng kích thích nhu động ruột thúc đẩy bài tiện. Nên nhớ, không nên uống từng ngụm nhỏ vì như vậy tốc độ nước chảy chậm, nước dễ được hấp thu vào dạ dày và gây ra tiểu tiện. Buồn nôn - Dùng nước muối thúc đẩy nôn ọe Xuất hiện tình trạng buồn nôn rất phức tạp. Có khi là một loại phản ứng bảo vệ khi ăn những thức ăn không thích hợp, gặp tình trạng như vậy không nên sợ hãi nôn ọe, bởi vì chỉ có nôn ra những thứ ấy mới có thể giúp cơ thể dễ chịu hơn rất nhiều. Nếu cảm thấy rất khó nôn ra thì có thể dùng cốc nước muối nhạt để thúc đẩy nôn ọe, chuẩn bị 1 cốc nước muối nhạt cầm trên tay, uống vài ngụm lớn sẽ thúc đẩy nhanh chóng nôn hết ra. Sau khi nôn sạch có thể dùng nước muối để súc miệng, có tác dụng tiêu viêm đơn giản. Ngoài ra, điều trị tình trạng mất nước nghiêm trọng sau khi nôn, nước muối nhạt cũng là chất dịch bổ sung nước rất tốt, có thể hoãn giải trạng thái suy nhược của người bệnh. Nóng bức - Bổ sung nước bằng những ngụm nhỏ và gián đoạn
  25. Nóng bức mà chúng ta đang nói đến ở đây là chỉ sau khi bạn vận động cường độ mạnh, nhiệt độ cơ thể tăng lên, mồ hôi tiết ra rất nhiều. Lúc này cơ thể cảm thấy mệt mỏi, uống nước là cách thích hợp nhất để chăm sóc cơ thể khẩn cấp. Nước có thể điều tiết sự tuần hoàn bình thường của huyết dịch và các tổ chức dịch, hòa tan chất dinh dưỡng, cung cấp thể năng, tiêu tán nhiệt lượng, điều tiết nhiệt độ cơ thể, tăng khả năng chịu đựng. Nhưng cần chú ý là trong khi vận động cấm kỵ bổ sung nước nhiều, ví dụ như uống một hơi hết 2 bình nước ngọt, như vậy sẽ làm tăng gánh nặng cho tim, vì vậy trong khi vận động nên bổ sung nước từ từ, gián đoạn và bằng những ngụm nhỏ. Bổ sung nước trước khi vận động cũng là một phương án bảo vệ cơ thể rất tốt. Béo phì - Sau khi ăn cơm nửa tiếng uống một chút nước đun sôi để nguội. Nếu muốn giảm béo nhưng lại uống không đủ nước thì mỡ trong cơ thể không thể tiến hành trao đổi chất, kết quả là thể trọng lại càng tăng. Nhiều phản ứng hóa học trong cơ thể được tiến hành đều nhờ nước làm chất môi giới xúc tác. Chức năng tiêu hóa, chức năng nội phân tiết trong cơ thể đều cần có nước, những chất độc trong khi trao đổi chất sinh ra đều cần nước để tiêu trừ, uống nước đúng cách có thể tránh được rối loạn chức năng tràng vị. Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau khi ăn cơm bạn có thể uống chút nước để tăng cường chức năng tiêu hóa của cơ thể, giúp bạn duy trì vóc dáng. Ho - Uống nhiều nước nóng Gặp các triệu chứng như ho, có đờm, rất nhiều người cảm thấy mệt mỏi, khó chịu, đờm dịch khó khạc ra Lúc này phải làm gì? Điều bạn cần làm chính là uống nhiều nước, hơn nữa phải là nước nóng. Trước tiên, nước nóng có thể làm loãng đờm, làm cho đờm dễ khạc ra ngoài. Tiếp theo, uống nhiều nước sẽ tăng lượng nước tiểu, có thể thúc đẩy nhanh chóng bài tiết những chất có hại. Ngoài ra, còn có thể dẹp bỏ được tình trạng xung huyết và thủy thũng của khí quản và niêm mạc khí quản nhánh, làm cho tần suất ho cũng giảm xuống. Như vậy cơ thể cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Phiền muộn - Uống thật nhiều nước Trạng thái tinh thần của con người nếu đem liên hệ với cơ năng sinh lí thì có một
  26. loại vật chất làm mấu chốt cho việc liên hệ ấy, đó chính là kích tố. Nói một cách đơn giản, kích tố chia làm 2 loại: một loại sinh ra khoái cảm, một loại sinh ra buồn phiền. Endorphin sinh ra trong não được gọi là “hormone hạnh phúc”, còn sinh ra trong tuyến thượng thận thì được gọi là “hormone phiền muộn”. Khi con người rơi vào trạng thái đau khổ phiền muộn, tố tuyến thượng thận sẽ bay lên, nhưng nó cũng giống như những chất độc khác cũng có thể bài tiết ra ngoài cơ thể, một trong những cách để đưa được nó ra ngoài cơ thể chính là uống nhiều nước. Nguyễn Minh sưu tầm 15/ Bệnh khô mắt Mắt bị khô khi nước mắt ta tiết ra không đủ để làm mắt nhờn ướt. Ta không đủ nước mắt có thể vì nhiều lý do: mắt không tiết đủ nước mắt hoặc nước mắt tiết ra không tốt. Triệu chứng Thường thì cả 2 bên mắt đều bị khô, đưa tới những triệu chứng sau: - Mắt cảm thấy như bị châm, trầy hay bỏng - Những sợi chất nhờn vương trong hay quanh mắt - Khi trời có khói hay gió, mắt bị khó chịu - Mắt bị mỏi sau khi đọc sách một thời gian ngắn - Nhậy cảm với ánh sáng - Khó mang kính sát tròng - Có những lúc bị ra nước mắt thật nhiều - Mắt nhìn bị mờ, nhất là cuối ngày hoặc sau khi phải chú ý một thời gian dài. Nguyên nhân Như trên đã nói, ta bị khô mắt là do nước mắt tiết ra không đủ. Nước mắt là sự pha trộn của nước, dầu béo (fatty oils), chất đạm và những chất điện giải. Hỗn hợp này giúp bề mặt của mắt bằng phẳng và trong, cũng như bảo vệ mắt khỏi nhiễm trùng. Một số người thường bị khô mắt do sự mất cân bằng giữa những chất trong hỗn hợp nước mắt. Một số người khác bị khô do không đủ nước mắt. Một vài nguyên nhân khác: mí mắt có vấn đề, thuốc men, những yếu tố môi trường như gió, bụi Nước mắt không tốt Màng nước mắt gồm có 3 lớp căn bản: dầu, nước và chất nhờn. Bất cứ lớp nào “có vấn đề” cũng đều có thể gây ra khô mắt.
  27. - Lớp dầu: Là lớp ngoài cùng của màng nước mắt, do những tuyến nằm nơi rìa mí mắt tiết ra, chứa những chất dầu béo gọi là lipds. Lớp này làm mắt lớp màng nước mắt phẳng mịn và giúp lớp nước ở giữa bớt bị bốc hơi. Nếu các tuyến chất dầu không tiết đủ, lớp nước mắt sẽ bốc hơi nhanh làm mắt bị khô. Mắt rất dễ khô khi các tuyến này bị nghẹt, triệu chứng thường xẩy nơi các bệnh viêm rìa mí mắt (blepharitis), bệnh da sưng đỏ (rosacea) và một vài loại bệnh ngoài da khác. - Lớp nước: Lớp giữa của màng nước mắt gồm hầu hết là nước, với một ít chất muối, được tiết ra từ những hạch nước mắt, có nhiệm vụ làm sạch mắt và quét đi những phần tử từ ngoài vào hay những chất gây khó chịu. Nếu lượng nước tiết ra bị thiếu thì lớp dầu và lớp chất nhờn sẽ đụng nhau và tạo ra những dây ghèn. - Lớp chất nhờn: Lớp trong cùng của màng nước mắt giúp trải đều nước mắt trên mặt ngoài của mắt. Nếu thiết chất nhờn này, trên mặt ngoài của mắt sẽ có những điểm khô. 2. Nước mắt không được tiết ra đủ Do những nguyên nhân sau: - Người lớn hơn 50 tuổi: Càng lớn tuổi thì nước mắt càng ít đi. Người trên 50 tuổi rất dễ bị khô mắt. - Đàn bà tuổi hết kinh: Nước mắt ít đi có thể do kích tố thay đổi. Do đó đàn bà tuổi hết kinh dễ bị khô mắt. - Bị một bệnh nào đó khiến nước mắt giảm đi, thí dụ như tiểu đường, thấp khớp, lupus, scleroderma, bệnh Sjogrens, bệnh tuyến giáp trạng, và bệnh thiếu vitamin A. - Đã từng được mổ mắt bằng tia laser thí dụ LASIX. Chứng này thường chỉ xẩy ra tạm thời. - Tuyến nước mắt bị hư hại do viêm sưng hay tia quang tuyến - Vấn đề của mí mắt: Mỗi khi ta chớp mắt, mặt ngoài của mắt được phủ một màng mỏng nước mắt. Mí mắt bị cụp vào hay vảnh ra sẽ làm cho nước mắt không phủ đều do ta khó chớp mắt, do đó ta bị khô mắt. 3. Thuốc gây ra khô mắt Gồm có thuốc trị cao máu, thuốc chống dị ứng antihistamines và thuốc nghẹt mũi, thuốc ngừa thai, thuốc chữa trầm cảm, thuốc giảm đau như ibuprofen (Motrin, Advil) và naproxen (Aleve), thuốc trị mụn có chứa chất isotrenitoin. 4. Những nguyên nhân khác Gồm có: gió, độ cao, không khí khô, những việc khiến ta phải chú ý lâu thí dụ như ngồi trước máy vi tính, lái xe, hay đọc sách. Hậu quả của chứng khô mắt, gồm có: - Dễ bị nhiễm trùng mắt do mặt ngoài mắt không được nước mắt bảo vệ - Bị sẹo trên mặt ngoài mắt: Chứng khô mắt nếu không được chữa, có thể đưa đến viêm mắt và sẹo trên mặt ngoài của mắt khiến bệnh nhân không nhìn rõ. Tự chữa Người bị khô mắt nhẹ có thể dùng những loại thuốc nhỏ mắt mua tự do và rửa mắt thường xuyên để tự chữa. Nếu bị nặng hơn nên gặp bác sĩ để được định bệnh và chữa bệnh theo từng nguyên nhân.
  28. 1. Thuốc nhỏ mắt mua tự do Có rất nhiều loại “nước mắt giả” giúp cho mắt bớt khô. Nên hỏi bác sĩ mắt loại nào thích hợp cho mình. Sau đây là cách chọn thuốc: - Thuốc có chất bảo quản hay không: Thuốc có chất bảo quản có thể để lâu được và có thể được dùng 4 lần mỗi ngày, dùng thường xuyên hơn có thể khiến mắt bị khó chịu. Thuốc không có chất bảo quản chỉ dùng được một lần nên thường gồm nhiều ống nhỏ, dùng một ống mỗi lần. Nếu cần phải nhỏ nhiều hơn 4 lần mỗi ngày nên dùng loại thuốc không có chất bảo quản. - Thuốc nhỏ (eye drops) hay thuốc nhờn (ointment): thuốc nhờn bảo vệ mắt lâu hơn nhưng có thể làm khó chịu và không nhìn rõ được nên chỉ dùng trước khi đi ngủ. Dùng thuốc nhiều hay ít là tùy theo triệu chứng. Có người cần nhỏ thuốc mỗi giờ, có người chỉ cần 1 lần mỗi ngày. 2. Cách chữa khác - Rửa mắt để giảm viêm sưng: Người hay bị viêm rìa mí mắt hay những bệnh khác gây ra sưng mắt khiến nghẽn đường cho chất nhờn tiết ra, nên dùng cách rửa mắt bằng miếng bông ướt đặt lên mắt khoảng 5 phút và nhẹ nhàng day cho chất rỉ rơi ra hoặc rửa mí mắt bằng xà bông nhẹ. Nên rửa như vậy mỗi ngày, ngay cả khi mắt không bị khô. - Phương pháp “ngoại khoa”: Một vài nghiên cứu sơ khởi cho thấy chất acid béo omega-3 có thể giúp giảm triệu chứng khô mắt nhờ giảm phản ứng viêm trong cơ thể. Nếu nuốn tránh vị tanh cá sau khi uống chất omega-3 FA, có thể ăn hay uống những thứ có chứa chất này như canola oil, dầu đậu nành, dầu flaxseed, hạt walnut, cá hồi, cá mòi, trứng từ gà nuôi bằng thức ăn chứa nhiều omega-3 FA Ngừa bệnh Nên theo những chỉ dẫn sau: - Tránh gió thổi thẳng vào mắt bằng cách không chĩa máy sấy tóc, máy sưởi, máy lạnh hay quạt máy vào mắt - Đeo kính vào những ngày có gió nhiều và đeo goggle khi bơi - Bật máy phun hơi ẩm vào những ngày khô - Đeo kính to bản che chở mắt - Cho mắt nghỉ khi phải làm việc cần sự chú ý quá lâu bằng cách nhắm mắt vài phút hay chớp mắt liên tục cho chất nhờn được tiết ra. - Đặt màn hình máy vi tính thấp xuống dưới tầm mắt để khỏi phải mở mắt quá to, giúp nước mắt không bị bốc hơi nhanh. - Bỏ hút thuốc và tránh khói thuốc. Nguyễn Minh sưu tầm 16/ Trị muỗi bằng tinh dầu sả
  29. Nhà tớ có vườn nên muỗi nhiều, muỗi lại yêu tớ nhất nhà, nên tớ cũng khốn khổ bao nhiêu năm nay. Tớ áp dụng tất cả các cách trừ muỗi hiện có trên thị trường đều thấy tốn tiền và lích kích. Nay tớ tìm ra cách trừ muỗi đơn giản, hiệu quả, sạch sẽ, không độc hại, thấy nhiều người cũng khốn khổ vì muỗi nên đưa lên đây cho mọi người tham khảo và tự làm. Từ các thể loại nhang muỗi, thuốc xịt, thuốc xoa trên da cũng chỉ được một lúc mà thấy khó chịu cho người, nhất là trẻ em. Có thể còn độc hại, vì trong các thuốc đó không biết họ cho những gì, nhang muỗi lại còn bị khói. Sau khi tìm khắp trên mạng và áp dụng loại thuốc xịt của nước ngoài bằng tinh dầu sả (cây sả), tớ lấy vài hộp thuốc cũ, khoan lỗ trên nắp, cắt mấy đoạn băng y tế chập lại luồn qua như kiểu bấc (tim) đèn dầu. Điều chỉnh cái tim cao khoảng từ 0,5 đến 1 cm, tùy theo mình muốn tinh dầu tỏa ra nhiều hay ít. Để vào mỗi góc phòng chỗ kín đáo. Mỗi phòng chỉ cần 1 lọ. Chỉ cần mùi rất ít, thoang thoảng và có khi mình không cảm nhận thấy có mùi dầu sả trong phòng nhưng muỗi cũng đi hết, vì muỗi cũng rất thính. Nhà mình phòng từ 15 đến hơn 30 m2, nhưng thấy muỗi đều đi hết, mặc dù cửa nhà vẫn mở thoải mái. Dầu sả lít thì của VN, mua tại các cửa hàng y tế. Ở SG, tớ mua ở Tô Hiến Thành giá 75.000/ lít, hoặc có thể chợ Kim biên cũng có. Một lít làm được hơn chục lọ, như vậy quá hiệu quả. Vài tháng mới phải thăm và châm thêm, nếu thấy trong lọ hết dầu. Mình thấy cách này hay và hiệu quả hơn các loại khác, tìm khắp trên mạng không thấy, nên đưa lên để mọi người áp dụng. Hy vọng nhiều người không bị muỗi làm khổ . Nguyễn Minh sưu tầm 17/ 30 Cách ngăn ngừa và trị ung thư
  30. Mỗi năm, cả thế giới phát hiện 10 triệu trường hợp ung thư (UT), nhưng theo Tổ chức y tế thế giới, ước tính đến năm 2020 có khoảng 15 triệu, tăng 50%, nếu chúng ta không tích cực “hành động”. Hầu hết các chứng UT có thể biết trước, thay đổi cách sống có thể làm giảm nguy cơ. Đây là “tế cấp tam thập điều” để ngăn ngừa UT: 1. Một nghiên cứu của Phần lan thấy rằng, quá trình lên men có liên quan tới việc dưa bắp cải (sauerkraut, của Đức) sản sinh các hợp chất kháng UT – kể cả ITC, indole và sulforaphane. Để giảm lượng sodium, hãy rửa dưa muối trước khi ăn! 2. Ăn bông cải (broccoli), nhưng nên hấp hoặc chưng chứ đừng nấu bằng lò vi-ba. Bông cải là “siêu thực phẩm ngăn ngừa UT, nên ăn thường xuyên. Tuy nhiên, nghiên cứu của Tây ban nha thấy rằng, bông cải nấu bằng lò vi-ba làm giảm 97 % flavonoid (chất kháng UT). Do đó nên luộc, hấp, chưng, trộn hoặc ăn sống. 3. Ăn món trộn với dầu hạnh nhân Brazil (brazil nut), vì chất selenium giúp ngăn chặn quá trình phát triển tế bào UT và “điều chỉnh” AND. Nghiên cứu của ĐH Harvard ở hơn 1.000 người đàn ông (bị UT tiền liệt tuyến) cho thấy rằng, những người có mức selenium cao thì giảm phát triển bệnh 48% trong 13 năm kế tiếp, so với những đàn ông có mức selenium thấp. Nghiên cứu trong 5 năm, ĐH Cornell và ĐH Arizona thấy rằng, lượng 200mg selenium mỗi ngày (tương đương 2 hạt hạnh nhân Brazil) giúp giảm 63% UT tiền liệt tuyến, giảm 58% UT trực tràng, 46% bướu phổi ác tính, và giảm 39% hầu hết các loại UT gây tử vong. 4. Bổ sung calcium và vitamin D. Nghiên cứu của Trường Thuốc Dartmouth cho thấy rằng, việc bổ sung này làm giảm polyp đại tràng (nguy cơ gây UT) ở những người dễ phát triển bệnh này. 5. Hãy thêm tỏi vào món ăn! Tỏi chứa sulfur khả dĩ kích thích sức đề kháng UT tự nhiên của hệ miên nhiễm, và có thể ngăn ngừa ung bướu. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng, tỏi có thể làm giảm UT bao tử khoảng 12%. 6. Phi 2 nhánh tỏi đập giập với 2 muỗng dầu ôliu, rồi trộn với cà chua và dùng với mì sợi. Chất lycopene (có trong cà chua) giúp đề kháng UT đại tràng, UT tiền liệt tuyến và UT bàng quang. Dầu ôliu giúp cơ thể hấp thu lycopene, còn mì sợi (giàu chất xơ) giúp giảm nguy cơ UT đại tràng. 7. Mỗi tuần, nên mua dưa đỏ (cantaloupe) về xắt miếng và cho vào tủ lạnh để ăn dần mỗi sáng. Dưa đỏ giàu carotenoid – loại hóa chất thực vật làm giảm nguy cơ UT phổi. 8. Trộn nửa chén trái việt quất (blueberry) với bột ngũ cốc dùng mỗi sáng. Việt quất giàu chất chống ôxít hóa. Chính chất chống ôxít hóa làm trung hòa các căn nguyên tự do làm tổn hại tế bào và gây bệnh. 9. A-ti-xô giàu silymarin – chất chống ôxít hóa khả dĩ chống UT da. Loại này dễ
  31. ăn và ngon. Có thể luộc hoặc hấp khoảng 30-45 phút thì mềm. 10. Thịt nướng ăn ngon miệng nhưng nó chứa nhiều hóa chất gây UT. Viện nghiên cứu UT Mỹ thấy rằng, thịt ướp nước sốt và nướng thì giúp giảm tạo ra loại hóa chất như vậy. Nên luộc thịt rồi nướng. 11. Nghiên cứu cho thấy rằng, những đàn ông uống 8 ly nước lớn mỗi ngày giúp giảm nguy cơ UT bàng quang được 50%. Phụ nữ uống nước nhiều giúp ngăn ngừa UT đại tràng khoảng 45%. 12. Hãy có thói quen uống trà! Trà xanh được đánh giá cao ở Á châu hằng ngàn năm qua. Tây phương nghiên cứu mới đây cho thấy trà đề kháng nhiều loại UT, kể cả bệnh tim. Một số khoa học gia tin rằng, một loại hóa chất trong trà là EGGG có thể là một trong các hợp chất kháng UT mạnh nhất được phát hiện từ trước tới nay. 13. Hãy uống một chút bia, nhưng đừng uống nhiều! Bia đề kháng vi khuẩn Helicobacter pylori, loại gây ung bướu khả dĩ dẫn đến UT bao tử. Uống bia, rượu nhiều có thể gây UT vú, miệng, họng, thực quản và gan. 14. Các nhà nghiên cứu Úc dân Canada và thấy rằng, những người ăn từ 4 phần cá hồi trở lên mỗi tuần thì giảm gần 1/3 nguy cơ bệnh bạch cầu. Các nghiên cứu khác cho thấy việc ăn cá có mỡ (cá hồi, cá thu, cá bơn, cá mòi và cá ngừ - kể cả tôm, sò) thì giảm nguy cơ UT tử cung ở phụ nữ. Omega-3 có trong cá rất có lợi cho sức khỏe và kỳ diệu! 15. Nên bổ sung viên đa vitamin mỗi sáng. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, vitamin và khoáng chất khả dĩ cải thiện hệ miễn nhiễm và giúp ngăn ngừa nhiều chứng UT. 16. Mỗi ngày phơi nắng sáng 15 phút để làm khỏe xương. Ánh nắng chứa nhiều vitamin D tự nhiên rất cần cho cơ thể. Nghiên cứu cho thấy rằng, thiếu vitamin D có thể làm tăng nguy cơ mắc nhiều chứng UT như UT vú, đại tràng, tiền liệt tuyến, buồng trứng, bao tử, loãng xương, tiểu đường, đa ngạch kết (xơ cứng) và cao huyết áp. Nhưng nên tránh ánh nắng gắt, vì nó có thể gây UT da. Cũng có thể bổ sung vitamin D. 17. Cắt đôi trái kiwi và múc phần “thịt” mà ăn. Trái kiwi chứa chất chống ôxít giúp ngăn ngừa UT. Nó còn chứa vitamin C, vitamin E, lutein và đồng. 18. Cẩn thận khi quan hệ tình dục. Có thể đề phòng bằng cách dùng bao cao-su để ngăn ngừa lây nhiễm papillomavirus (HPV), loại virus này có thể gây UT cổ tử cung. 19. Giảm ăn mỡ động vật. Nghiên cứu của ĐH Yale cho thấy rằng, các phụ nữ ăn nhiều mỡ động vật có nguy cơ 70% bị bạch cầu, ăn nhiều chất béo bão hòa tăng nguy cơ là 90%. Do đó, nên ăn ít chất béo động vật, thay vào đó nên dùng dầu thực vật và dầu cá.
  32. 20. Nho chứa nhiều hợp chất resveratrol giúp đề kháng UT, ăn nho chứ đừng uống rượu nho! vì rượu làm tăng nguy cơ UT vú ở phụ nữ. Nho có khả năng làm mạnh hệ miễn nhiễm. 21. Hành tươi tốt cho sức khỏe vì nó khả dĩ chống UT tiền liệt tuyến khoảng 50%. Ăn sống tốt hơn nhúng tái hay nấu chín. 22. Hằng ngày nên dùng nước chanh. Các nhà nghiên cứu Úc thấy rằng, chanh có khả năng làm giảm UT miệng, họng và bao tử. 23. Sau bữa tối nên đi dạo 30 phút. Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Hutchinson ở Seattle, hoạt động này giúp giảm nguy cơ UT vú. Đi bộ giúp điều chỉnh mức estrogen (hormone gây UT vú) và giảm cân hiệu quả. 24. Dùng thực phẩm hữu cơ, vì chúng không có thuốc trừ sâu hoặc thuốc tăng trưởng. Cả 2 loại thuốc này đều có thể làm tổn thương tế bào và gây UT. 25. Cây bồ công anh (dandelion) có thể làm giảm nguy cơ UT. 26. Tự giặt ủi quần áo không dùng máy sấy khô. Nhiều loại máy sấy khô (Dry cleaning) dùng hóa chất perc (perchloroethylene), chất này có thể gây tổn hại thận, gan và UT. Đừng lạm dụng ly nhựa uống nước hằng ngày hoặc đựng đồ ăn bằng đồ nhựa! 27. Dùng dưa leo (dưa chuột) tươi thay vì dưa muối và dùng cá hồi tươi. Nghiên cứu cho thấy rằng, thực phẩm muối hoặc hun khói chứa nhiều carcinogen (chất gây UT). 28. Đừng ăn nhiều khoai tây chiên và bánh qui, vì chúng chứa nhiều acrylamide – chất gây UT, sản sinh trong quá trình nướng! Theo Michael Jacobson, giám đốc điều hành Trung tâm Khoa học về Quan tâm cộng đồng, acrylamide gây khoảng 1.000 đến 25.000 trường hợp UT mỗi năm. FDA đang xem xét mức nguy hại của acrylamide. 29. Nên nằm giường vải, ngồi ghế vải (kiểu ghế bố) để cơ thể thoải mái, tránh tổn hại da. 30. Nghiên cứu của ĐH Quốc gia New York ở Stony Brook cho thấy rằng, quý ông chịu stress nhiều và ít giao thiệp, hoặc các thành viên gia đình có mức cao về sinh kháng thể tiền liệt tuyến (prostate-specific antigen – PSA) trong máu thì dễ bị UT tiền liệt tuyến. Trầm Thiên Thu (Theo Reader’s Digest) 18/ Nguy hiểm khi lấy ráy tai
  33. Tại Hoa kỳ, mỗi năm có khoảng 12 triệu người cần được điều trị vì nút ráy tai hoặc vì nhi ều ráy tai quá. Chứng nút ráy tai (impaction) có thể gây đau đớn, áp suất, ngứa, thối tai, ù tai, chảy mủ và, trong trường hợp tệ hại nhất, có thể làm điếc tai. Đừng nên đụng tới ráy tai khi không cần thiết ! Ráy tai (earwax) là chất sáp mẩu vàng ở bên trong tai. Theo khuyến cáo mới đây của viện American Academy of Otolaryngology (AAO) thì “ráy tai có chức năng của nó, vì vậy nếu không cẩn thiết thì đừng đụng tới!” Tại Hoa kỳ, mỗi năm có khoảng 12 triệu người cần được điều trị vì nút ráy tai hoặc vì nhi ều ráy tai quá. Chứng nút ráy tai (impaction) có thể gây đau đớn, áp suất, ngứa, thối tai, ù tai, chảy mủ và, trong trường hợp tệ hại nhất, có thể làm điếc tai. Viện AAO đã đưa ra một bản hướng dẫn nhằm hai mục đích: - xác định những trường hợp nào ráy tai cẩn phải lẩy ra, - cho bác sĩ biết phương pháp lấy ráy tai nào tốt nhất. Ráy tai là một tác nhân tự rửa, với những tính chất bảo vệ, làm trơn và kháng khuẩn. Các hạch nhỏ trong ống tai ngoài luôn luôn bơm ra một chất lỏng như nước, chất này quyện với các cụm lông tai và da bị chết để tạo thành ráy tai (earwax/ cerumen). Ráy tai dư thừa bị đẩy từ từ ra khỏi ống tai, thúc đẩy bởi chuyển động nhai và khác nữa của hàm răng, rồi lôi cuốn theo bụi bậm và các hạt nhỏ khác ra khỏi ống tai. Cuối cùng, những cục ráy tai khô sẽ rơi ra khỏi lỗ tai. Khi sự vận hành nói trên của ráy tai bị trục trặc, hoặc khi người ta ngoáy lỗ tai với một que bông gòn hay với những vật lạ khác như cái ngoáy tai hay que diêm, thì ráy tai có thể dồn lại và bịt một phần ống tai. Ngoài ra, nhiều người lại còn gắn nút nghe (earplugs) vào lỗ tai khi đeo máy trợ thính, làm nghề truyền tin hay vì ham nghe nhạc với máy walkman. Điều này cũng cản trở ráy tai tự rơi ra khỏi tai. Hơn nữa, những người lớn tuổi dễ bị nghẹt lỗ tai hơn là các người trẻ, vì họ có ráy tai dày và khô hơn; vả lại, trong tai họ có nhiểu lông hơn nên cản trở sự vận hành của ráy tai. Sau hết, nhiều người lại thích tự lấy ráy tai, làm cho vấn để trở nên phức tạp hơn. Đối với mọi người, bản hướng dẫn khuyên đừng nên đụng tới ráy tai, trừ khi có những triệu chứng là có quá nhiều ráy tai. Nếu ở nhà, bạn có thể nhỏ vào tai vài giọt thuốc lấy ráy tai có bán tự do tại các tiệm thuốc tây. Bạn có thể mua bất cứ nhãn hiệu nào cũng được, vì chúng đều tốt như nhau; nếu không, bạn cũng có thể dùng nuớc khử trùng hay nước muối cũng được. Các giọt thuốc nhỏ vào tai chỉ có công dụng làm lỏng ráy tai mà thôi, còn thường thì tai sẽ làm tiếp công việc đẩy ráy tai ra ngoài. Bản hưởng dẫn còn khuyên không nên dùng que bông gòn hay bất cứ vật gì khác
  34. để ngoáy lỗ tai. Cách dùng vòi xịt tưới qua đường miệng (oral jet irrigators) hay các phương pháp y học không tập quán cũng không nên sử dụng. Trong cách đốt nến vào tai (ear candling), người ta lấy vải cuốn thành một ống rỗng, nhúng vào trong sáp ong, rồi để cho nguội và cứng lại. Sau đó, ống sáp được đút vào trong lỗ tai, và người ta đốt cháy đầu bên ngoài của ống trong vòng 15 phút. Người ta tin rẳng, cách này sẽ hút ráy tai ra ngoài; nhưng nghiên cứu cho thấy, thật ra chất hút ra chỉ là từ nến sáp. Hơn nữa, đôi khi bệnh nhân còn bị phỏng tai. Nếu nhỏ thuốc mà triệu chứng không dứt hoặc bạn không thích nhỏ thuốc mà vẫn còn triệu chứng, thì đây là lúc bạn phải đi gặp bác sĩ. Bác sĩ có ba phương pháp thông dụng và tốt nhất để lấy ráy tai cho bạn. Đó là bơm đầy dung dịch nước vào trong tai, soi kính hiển vi và dùng dụng cu y khoa để lấy ráy tai, rồi kê toa cho bệnh nhân mua thuốc về nhà nhỏ vào tai. Bác sĩ Peter Roland thuộc Đại học Texas Southwestern Medical Center, Dallas, khuyên mọi người đừng có bối rối khi bác sĩ phát hiện ra một chút ráy trong tai. Ông nói: “Có những bệnh nhân của tôi kinh ngạc, khi tôi trông thấy một chút ráy trong tai họ, và đã xin lỗi tôi vì để tai dơ. Điều tôi muốn nói là ráy trong tai có chức năng sinh lý học của nó, và đừng nên đụng vào, trừ khi có lý do xác đáng” . Admin 19/ Cẩn thận bột ngọt chay
  35. Bột nêm thực chất là siêu bột ngọt rất có hại cho sức khỏe, tuyệt đối không có thứ khỉ gì gọi là "bột ngọt chay nguyên chất" cả, bột ngọt là bột ngọt, không có chay mặn gì cả, mà cũng chẳng có cái thứ nào nguyên chất, hóa chất thì có. Chơi chử "bột ngọt chay nguyên chất" để lừa bịp người tiêu dùng, lường gạt những người ngu ngốc ít học, nhẹ dạ dể tin. Tỉnh táo trước lời ngon ngọt của bột nêm hay bột nêm chay mà đồng tu Thanh Hải còn gọi là bột ngọt chay "nguyên chất" do đồng tu sản xuất bên Đài Loan. Ngại bột ngọt chứa nhiều hóa chất gây cứng cổ, nhức đầu , nhiều người đã chuyển sang dùng các loại bột nêm từ thịt, cá, một số loại nấm để tốt hơn cho sức khoẻ. Cách lựa chọn này liệu có thật sự an toàn cho người tiêu dùng? Trong bữa ăn hàng ngày, cần hạn chế việc sử dụng bột nêm. Trên thị trường hiện xuất hiện nhan nhản hàng chục loại gia vị bột nêm với đủ nhãn hiệu khác nhau và những lời quảng cáo thoạt nghe dễ có cảm giác ngon, tiện lợi và an toàn tuyệt đối. Mà quả thật, các loại bột nêm này có thể thay thế cho tất cả các loại thịt, cá, tôm, cua cần thiết cho một món xúp, hay một món xào. Chỉ cần một thìa bột nêm, bạn sẽ có ngay một nồi canh rau ngon ngọt như đã được hầm từ xương. Rất ít người biết rằng, chính sự thay cá, thịt bằng bột nêm đó tạo ra nguy cơ sức khoẻ của họ ngày càng hao mòn, xuống dốc. Bột nêm không thể thay thế thịt, cá Cần nói ngay rằng, bột nêm chính là chất phụ gia siêu bột ngọt. Tính ngọt của loại gia vị này gấp 200 lần các loại bột ngọt khác. Đặc biệt, trong bột nêm chứa chủ yếu một loại chất tên gọi I & G, kết hợp từ hai chất Disodium 5’ – Guanylate và Disodium 5’ – Inosinate. Theo nghiên cứu của các chuyên gia thuộc cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ, hai chất trên nếu kết hợp với nhau sẽ tạo ra một số độc chất, mà nếu tích trữ chúng trong cơ thể người quá nhiều, có thể gây quái thai và rối loạn chuyển hoá. Hơn nữa, khi đã cho các loại bột nêm này vào nồi lẩu hoặc món xào, chúng sẽ tạo cho người ăn cảm giác như nếm được món xúp ngon lành từ thịt hầm. Nguy hiểm hơn, chất I & G còn khiến người ăn luôn cảm thấy ngon miệng, ăn rồi lại muốn ăn nữa. Chính sự ngon miệng này đã đánh lừa cảm giác mọi người, và giúp các loại gia vị bột nêm ngày càng được nhiều người tin dùng. Ngoại trừ những nhà sản xuất và các nhà nghiên cứu, ít người tiêu dùng biết rằng bột nêm chỉ là một chất phụ gia. Chúng hoàn toàn không thể thay thế các nguyên
  36. liệu thực phẩm thịt, cá. Vì vậy, nếu bạn lạm dụng quá nhiều bột nêm trong nấu ăn, thì có nghĩa bạn đang đưa nhiều hoá chất vào cơ thể mình và những người thân trong gia đình. Mà đã là hoá chất, thì ít nhất chúng cũng gây nhiều tác hại về tim mạch, gan, thận, hoặc gây dị ứng, tê môi, tê lưỡi, mệt mỏi cho người sử dụng. Xử trí khi ngộ độc bột nêm Một số trường hợp dùng quá nhiều chất phụ gia như bột nêm có thể đưa đến các biểu hiện bị ngộ độc hoá chất như cứng cổ, nhức đầu, xây xẩm mặt mày hay dị ứng, ngứa ngáy cơ thể Nếu gặp tình huống đó, hãy cho nạn nhân uống thật nhiều nước, hoặc các loại nước chanh, nước chè đường sẽ giúp tuần hoàn máu, giải độc cơ thể. Một số quốc gia phương Tây, các nước phát triển hiện không cho phép sử dụng các chất phụ gia như bột nêm trong nấu ăn. Ngay ở Việt Nam, loại chất I & G chứa trong bột nêm cũng không có mặt trong danh sách các chất phụ gia được phép sử dụng của bộ Y tế. Tuy nhiên, vì lợi nhuận cao ngất ngưởng, một số nhà sản xuất vẫn ngang nhiên sử dụng chất này trong sản phẩm, phủ lấp chúng bằng những lời quảng cáo thái quá. Người tiêu dùng thì lại cứ vô tư tin vào những hình ảnh đẹp, những lời ngọt ngào trên quảng cáo mà mua đem về sử dụng. Hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào xác định liều lượng bột nêm dùng trong ngày bao nhiêu là hợp lý. Việc chọn hay không chọn bột nêm cho bữa ăn hàng ngày chỉ có thể phụ thuộc vào một người tiêu dùng thông minh, tỉnh táo. Trong bữa ăn hàng ngày, bạn cần hạn chế việc sử dụng bột nêm. Thay vì phải dùng chất phụ gia, các bà nội trợ hãy làm siêng chạy ra chợ mua cá, thịt tươi để đủ chất cho gia đình. Một nồi canh có đầy đủ thịt, rau thì bạn không cần phải thêm bất cứ gia vị bột ngọt, bột nêm nào. Minh Nguyên (sưu tầm) (Theo SGTT) 20/ 10 phương pháp giúp giảm đau răng
  37. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đau răng gồm sâu răng, nhiễm trùng, áp-xe và bệnh nướu răng. Khi chưa kịp đến nha sỹ, bạn có thể tự làm giảm cơn đau răng bằng những vị thuốc từ thiên nhiên đấy nhé! Dưới đây là 10 phương pháp bạn có thể tận dụng để đẩy lùi cơn đau khó chịu này: Chườm đá Một trong những biện pháp tốt nhất để làm giảm đau cho răng là chà các khu vực răng bị đau với nước đá. Làm như vậy vài lần trong ngày. Nước đá sẽ gây tê và do đó giảm bớt sự đau đớn. Nước soda Nước soda được coi là có thể giảm đau răng tạm thời. Bạn cũng có thể thay thế nước soda bằng rượu whisky. Mỗi lần súc miệng khoảng vài giây, làm vài lần như vậy trong ngày. Dùng tỏi Nguyên nhân chính của đau răng là sự nhiễm trùng, răng yếu, tổn thương, hay răng rụng mất. Mỗi khi răng đau, lấy vài tép tỏi, ngâm với muối và đặt vào chỗ đau. Chỗ đau sẽ dịu đi nhanh chóng mà không cần phương pháp nào khác đi kèm. Bạn cũng có thể nghiền nát một tép tỏi rồi đặt trực tiếp lên răng đau. Để trong vài phút, sau đó bạn súc miệng bằng nước ấm. Mỗi sáng thức dậy, nhai 1 tép tỏi, cách này giúp răng chắc khỏe hơn. Đắp gừng hoặc ớt đỏ Gừng và ớt đều có tính kháng viêm vì thế bạn có thể pha hỗn hợp gồm nước cùng gừng tươi nghiền hoặc ớt đỏ xay nhuyễn. Dùng bông gòn nhúng vào hỗn hợp, vắt nước rồi đắp bông gòn lên vùng răng đau. Hỗn hợp này rất nóng, có thể gây bỏng rát, vì thế bạn tránh để bông gòn đụng vào nướu. Và nên vừa làm vừa nghe ngóng để xem cách này có hợp với bạn không nhé! Thoa dầu bạc hà Theo Trung tâm Y khoa trường Đại học Maryland, Mỹ, chất menthol trong bạc hà có tác dụng chống viêm. Khi bị đau răng, bạn có thể sử dụng tinh dầu bạc hà thoa lên răng hoặc lấy lá bạc hà giã nhuyễn rồi đắp lên chỗ răng đau để làm giảm cơn đau.
  38. Súc miệng với trà xanh Trà xanh chống ô-xy hóa, chống viêm và sát trùng tốt. Súc miệng với trà xanh không đường sẽ giúp bạn giảm đau răng. Theo Trung tâm Y khoa Đại học Maryland, Mỹ, tính chất kháng khuẩn của trà xanh có khả năng ngăn chặn hoặc làm chậm sự phát triển của sâu răng. Súc miệng với trà xanh có thể giúp làm lành áp-xe hoặc viêm nướu. Cách đơn giản là bạn nấu nước trà xanh để súc miệng nhiều lần trong ngày Dầu đinh hương Dầu đinh hương có chứa hợp chất eugenol giúp giảm đau. Chất này có tác dụng như thuốc gây tê. Bạn có thể dùng bông thấm dầu đinh hương rồi đặt vào chỗ răng đau. Lưu ý: Phụ nữ có thai, cho con bú, người dị ứng với eugenol, trẻ em, người bị rối loạn đông máu, tiểu đường hay hạ đường huyết thì không nên sử dụng dầu đinh hương nhé! Bột nghệ Nghệ chứa các hợp chất kháng khuẩn, chống viêm nên có thể làm dịu cơn đau răng. Bạn có thể lấy 1 thìa cà-phê bột nghệ trộn với nước rồi thoa lên răng bị đau. Ngoài ra, bạn có thể lấy củ nghệ tươi nướng trên lửa, sau đó nghiền thành bột mịn rồi rắc lên nướu và vùng răng bị đau, cơn đau sẽ nhanh chóng qua đi. Nhai lá ổi Để giảm đau nhức răng, bạn có thể nhai lá của cây ổi nếu như nhà bạn hoặc gần nhà bạn có cây ổi nhé. Nếu không có cây ổi, bạn có thể tìm đến một loại đồ uống có rượu mạnh hoặc một nước súc miệng có chứa rượu để giảm đau và chống nhiễm trùng. Dùng nước chanh Một cách khác để làm giảm đau răng là thoa nước chanh vào chỗ răng bị đau. Vitamin C trong trái chanh có khả năng tiêu diệt vi khuẩn và làm giảm đau răng hữu hiệu. Nguyễn Minh sưu tầm (Theo webphunu)
  39. 21/ 100% mỳ tôm nhiễm độc 100% mẫu mỳ tôm, măng tươi đều có axít oxalic - tác nhân gây ra sỏi thận nguy hiểm là thông tin gây sốc được Phó Chủ tịch Hội Y tế công cộng Phạm Ngọc Sơn công bố ngày 27/12/2013 tại hội thảo về an toàn thực phẩm, được tổ chức tại TP.HCM. Tết Nguyên đán cận kề cũng là lúc tiệc tùng, cỗ bàn diễn ra liên miên, bởi hàng nào cũng muốn tích trữ thật nhiều. Vậy nhưng thông tin vừa được công bố khiến không chỉ người tiêu dùng, giới kinh doanh mà đến các chuyên gia cũng tỏ ra bất ngờ, dù trước đó đã nhiều thực phẩm được phát hiện có nhiễm axít oxalic. Loại axit này chỉ có thể phát hiện được khi có thử nghiệm hóa học. Vậy nên người tiêu dùng không khỏi hoang mang, nhưng cũng chỉ biết mua hàng bằng cảm tính hoặc nhắm mắt mua liều. Tuy nhiên, con số 100% măng đều ngậm độc thì quả thật đáng sợ. Không chỉ măng mà loại thực phẩm đang được sử dụng hằng ngày ở các gia đình là mỳ ăn liền cũng được xác định nhiễm hóa chất này. Bên cạnh đó còn có những thực phẩm khác cũng bị nhiễm như há cảo, nấm mèo, bánh bông lan, bánh cuốn, cà rốt, trà Đây mới chỉ là những sản phẩm được kiểm tra ngẫu nhiên, và hầu hết đều có nhiễm hóa chất, vậy nếu kiểm tra đại trà trên diện rộng thì số thực phẩm ngậm độc chắc chắn còn lớn hơn nhiều với tỷ lệ đủ khiến nhiều người phải sốc nặng. Hiện nay, nhiều cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm đang dùng axít oxalic như một chất tẩy trắng, bất chấp loại axít này vốn không được phép dùng trong chế biến thực phẩm. Bên cạnh đó, axít oxalic vốn có nhiều trong các rau quả, thực phẩm tự nhiên nên cũng rất khó để xác định những loại thức ăn, bún, mỳ tôm có axít oxalic là do nhân tạo hay là do thành phần tự nhiên của sản phẩm tạo thành. Hồi tháng 7 năm nay, trong 7 mẫu bún tươi, bánh canh, thực phẩm làm từ gạo lấy ngẫu nhiên ở các điểm bán nhỏ lẻ ngoài thị trường, Chi cục An toàn thực phẩm TP.HCM đã phát hiện 2 mẫu chứa áitt oxalic với hàm lượng 54,5 và 304mg/1kg. Đến tháng 9 lực lượng chức năng cũng đã tiến hành kiểm tra cơ sở chế biến măng chua của ông Nguyễn Văn Lâm ở ấp Suối Muồn, xã Thái Bình, huyện Châu Thành.
  40. Tại thời điểm kiểm tra, nhà ông Lâm có chứa gần 100 tấn măng chua. Kết quả kiểm nghiệm, số mẫu măng le muối thành phẩm có chứa 680 mg/kg axít oxalic, mẫu măng tre muối thành phẩm có chứa 61,4 mg/kg axít oxalic. Mẫu nước ngâm măng cũng có chứa 45,5 mg/kg axít oxalic. Kiểm định mẫu nước thải cho kết quả chất COD vượt 11 lần, BOD vượt 18 lần, Coliform vượt trên 48 lần mức cho phép. Ông Lâm đã thừa nhận dùng axít oxalic tẩy trắng cho măng. Vào tháng 10 cục An toàn thực phẩm TP.HCM đã tiến hành lấy 4 mẫu hủ tíu khô, mì căn, mì sợi khô đem đi kiểm nghiệm cũng đều có chứa axít oxalic. Axít oxalic nếu tích tụ lâu ngày trong cơ thể sẽ là nguyên nhân gây nên những căn bệnh như sỏi thận, hại đến các khớp xương vì vậy những người bị sỏi thận cũng cần tránh những loại thực phẩm, rau củ hay mỳ tôm vốn chứa nhiều axít oxalic. Càng gần đến Tết những thông tin thực phẩm bẩn lại càng dồn dập, ban đầu người tiêu dùng còn cảm thấy e ngại và sợ sệt tìm cách phòng chống. Song nếu cứ chỉ tẩy chay để được làm người tiêu dùng thông minh thì có lẽ sẽ chẳng còn gì để ăn uống cho đảm bảo an toàn với tần suất hàng bẩn ngày càng nhiều và lan rộng như hiện nay nếu không có sự can thiệp của giới chức và chuyên môn. Nhưng nhìn lại thì thấy các biện pháp của các cơ quan liên quan đưa ra cũng chỉ như là "gãi ngứa" ngoài giày. Và vì không có những chương trình kích cầu, khuyến nông nên người sản xuất cứ vô tư dùng hóa chất để làm đẹp thực phẩm, tăng lợi nhuận cho hàng hóa, còn người bán thì tìm mọi cách để bảo quản kéo dài thời gian sử dụng sản phẩm bất kể an toàn hay không. Thế nên dù có thông minh đến đâu thì người dân vẫn cứ rơi vào cái vòng luẩn quẩn và sa vào ma trận thực phẩm bẩn và độc mà chẳng thể tìm lối ra. Nguyễn Minh sưu tầm (Theo Sống Mới)
  41. 22/ Ngủ dậy vẹo cổ Một sáng nào đó khi thức dậy, bạn chợt phát hiện cổ mình bị căng cứng, cử động rất khó khăn, kèm theo cảm giác đau nhức khó chịu. Sự đau nhức càng tăng lên khi cố làm động tác quay cổ, có khi đau lan xuống bả vai, chi trên hoặc vùng liên sống bả, khiến cho cổ phải nghiêng về một bên trong tư thế rất gò bó để chống đau. Nếu có những biểu hiện đó, rất có thể bạn đã mắc chứng bệnh vẹo cổ mà y học cổ truyền thường gọi là lạc chẩm hay thất chẩm. Nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh vẹo cổ khi ngủ dậy thường là do tư thế lúc ngủ không hợp lý, gối đầu quá cao hoặc quá cứng khiến cho đầu cổ lệch về một bên, các cơ vùng cổ như cơ thang, cơ ức đòn chũm bị căng giãn kéo dài mà sinh đau. Ngoài ra, tình trạng thoái hóa cột sống cổ hoặc cổ bị lạnh cũng là những yếu tố góp phần làm bệnh phát sinh hoặc nặng thêm. Khi lâm vào tình trạng khó chịu này, trước tiên, bạn phải hết sức bình tĩnh và sau đó lần lượt tiến hành các thao tác sau đây: Dùng lòng bàn tay xoa xát vùng cổ trong vài phút, sao cho tại chỗ nóng lên là được, có thể thoa thêm một chút dầu cao hoặc cồn rượu xoa bóp để làm tăng tác dụng trị liệu. Cũng có thể chườm vùng cổ vai bằng muối sao nóng hoặc muối sao với lá ngải cứu. Dùng các ngón tay nhẹ nhàng day ấn cổ vai để xác định được các điểm đau nhiều (áp thống điểm). Sau đó, dùng ngón tay cái hoặc ngón giữa day ấn các điểm này trong vài phút. Chú ý mỗi điểm day đều với một lực vừa phải chừng 30 giây rồi ấn áp thống điểm từ nhẹ đến mạnh trong năm giây, nghỉ hai giây rồi lại tiếp tục ấn, tiến hành chừng 3 – 4 lần như vậy là được. Khi ấn, cảm giác đau nhức thường tăng lên, nhưng không vì thế mà giảm cường độ tác động. - Tiếp theo, dùng ngón tay trỏ hoặc đầu bút bi (không phải đầu nhọn) day ấn huyệt lạc chẩm trong vài phút, mỗi ngày kiên trì day ấn vài lần. Vị trí huyệt lạc chẩm: ở mu bàn tay, nằm giữa hai xương bàn tay hai và ba, trên khớp xương bàn - ngón 0,5 thốn (1 thốn bằng 2,2cm, khoảng một đốt ngón tay), khi ấn có cảm giác đau tức nhất. Huyệt vị này còn có tên gọi là hạn cường, là kỳ huyệt, có tác dụng chữa trị các chứng bệnh như cứng gáy, đau nửa đầu, đau dạ dày, đau họng, đau vai và cánh tay Vì là huyệt hết sức hữu hiệu trong trị liệu chứng vẹo cổ nên được gọi là huyệt lạc chẩm. Ngoài thủ thuật day bấm, người ta còn dùng kim châm cứu châm thẳng hoặc xiên, sâu từ 0,5-1 thốn, tại chỗ thường có cảm giác căng tức, có khi cảm thấy như điện giật lan tới mút ngón tay. Chứng vẹo cổ sau ngủ dậy, khi phát hiện, cần chữa trị ngay, nếu không có thể thành di chứng đau cổ, vẹo cổ, ảnh hưởng đến sức khỏe sau này và chất lượng cuộc sống. Thực tế cho thấy nhiều người hoàn toàn có thể tránh được di chứng nếu biết day huyệt. Bạn chỉ áp dụng thủ pháp trị liệu như đã mô tả ở trên chừng 3-4 lần là có thể chữa khỏi chứng vẹo cổ, hoặc ít nhất cũng giúp bệnh trạng thuyên giảm nhiều.
  42. Người bệnh phải tuyệt đối nghỉ ngơi .Nếu cần có thể dùng một vài loại thuốc giảm đau thông thường như aspirin hoặc các thuốc giảm đau và chống viêm không steroid kết hợp Về Đông Y có hai bài thuốc trị vẹo cổ sau đây: Bài 1: Bạch chỉ 8g, cam thảo 6g, ma hoàng 8g, phòng phong 8g, quế chi 8g, gừng 4g, đại táo 12g. Sắc uống ngày một thang. Bài 2: Chính thảo 6g, độc hoạt 8g, đương quy 12g, hoàng kỳ 16g, khương hoàng 12g, khương hoạt 8g, xích thược 12g, gừng 4g, đại táo 12g. Sắc uống ngày một thang. Nếu hiệu quả không rõ rệt thì đi khám bác sĩ để tìm thêm nguyên nhân và loại trừ biến chứng của các bệnh khác. Biện pháp tránh chứng bệnh vẹo cổ - Khi ngủ, không nên gối đầu quá cao khi ngủ. - Không nên ngồi một chỗ quá 45 phút. - Nếu là nhân viên văn phòng nệntập thể dục tại nơi làm việc bằng các động tác nhẹ nhàng:như vận động, đi lại, vươn vai. - Ngồi đúng tư thế bằng cách luôn giữ ngực thẳng, cằm hơi cúi về phía trước, lưng và cột sống cùng nằm trên một đường thẳng. - Tránh nghiêng cổ lâu về một phía. - Bổ sung các vitamin B, C, E.
  43. 23/ Bệnh viêm phổi Với thời tiết mưa lạnh thay đổi bất thường như hiện nay, thì số người mắc bệnh Viêm Phổi cũng gia tăng. Viêm phổi là bệnh khá phổ biến. Tại Hoa Kỳ mỗi năm có từ 2-3 triệu người bị Viêm phổi với cả gần 50,000 tử vong trong khi đó, tại các quốc gia đang phát triển thỉ bệnh là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong dân chúng. Nguyên nhân Nguyên nhân gây ra Viêm phổi là do các loại vi khuẩn, virus có mặt thường xuyên trong môi trường mà ta sinh sống. Khi sức đề kháng với bệnh tật bị suy yếu, các vi sinh vật này sẽ vượt qua hàng rào bảo vệ, xâm nhập phổi và gây ra bệnh. Vi khuẩn Streptococcus pneumonia là vi khuẩn gây viêm phổi thông thường nhất. Dấu hiệu bệnh Khi bị viêm phổi do vi khuẩn thì các dấu hiệu bệnh xuất hiện khá nhanh. - Bệnh nhân bắt đầu ho ra đàm đôi khi lẫn máu. Đàm là những chất nhớt tiết ra từ phổi khi bi các vi sinh vật kích thích. Ho là phản ứng của cơ thể để loại bỏ đàm nhớt, nếu không thì sự hố hấp trao đổi không khí sẽ bị trở ngaị. - Sốt: Nhiệt độ cơ thể tăng, có khi tới 39 C hoặc 102F. Bệnh nhân cũng thấy ớn lạnh run lập cập và đổ mồ hôi. - Khó thở, đau ngực. Hơi thở ngắn và dồn dập nhanh, không đủ thì giờ cho sự trao đổi giữa dưỡng khí và thán khí, bệnh nhân mệt mỏi, xanh sao. Nếu màng phổi cũng bị viêm nhiễm thì cơn đau ngực lại gia tăng như xé cắt lồng ngực, nhất là khi ho hoặc thở mạnh hít vào. - Nhức đầu, nhịp tim nhanh có khi lên tới trên 100 nhịp/phút. - Cơ thể mệt mỏi, yếu sức uể oải không muốn cất nhắc làm bất công việc nặng nhẹ nào. - Nhiều người bị nôn mửa, thậm chí kèm theo tiêu chẩy. Ở người cao tuổi, nhiệt độ đôi khi lại không cao lắm, ho lại không có đàm khiến cho họ không chú tâm tới bệnh, tới khi bệnh trầm trọng thì quá trễ.
  44. Với viêm phổi do virus gây ra thì dấu hiệu lạị không rõ ràng, đôi khi có thể lầm tưởng là mình chỉ bị common cold. Nhiều trường hợp, Cảm lạnh và Cúm tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập cơ thể, gây ra Viêm Phổi, là biến chứng trầm trọng, có thề gây ra tử vong ở trẻ em và người tuổi cao mà sức đề kháng suy kém. Ai hay bị Viêm phổi? - Tuổi tác. Hai lớp người dễ bị viêm phổi là người trên 65 tuổi và các cháu bé dưới 1 tuổi. Ở người trên 65 tuổi, tính miễn dịch của cơ thể giảm còn ở các cháu bé thì sức đề kháng với vi khuẩn chưa được phát triển đầy đủ. - Hút thuốc lá làm suy yếu hệ miễn dịch khiến cho viêm phổi dễ dàng xảy ra dù là ở người trai tráng khỏe mạnh. - Người đang có bệnh kinh niên như tim mạch, tiểu đường, bệnh hen suyễn hoặc đang trải qua hóa trị hơặc xạ trị với các bệnh ung thư. - Uống nhiều rượu; - Đang dùng các loại thuốc chống acid bao tử như Prisolex; - Làm việc trong môi trường không khí ô nhiễm với bụi bậm hóa chất như tại nông trại, công trường - Sống chung với nhiều người như trường học, nhà dưỡng lão, bệnh nhiễm dễ lây lan từ người nyày sang người khác. Làm sao xác định bệnh Khi các dấu hiệu bệnh kể trên kéo dài sau vài ba ngày mà không thuyên giảm thì nên đi bác sĩ để khám tìm bệnh. - Thường thường, chụp X-ray phổi xác định bệnh với các vết mờ của các vùng phổi bị viêm xuất hiện trên phim. - Thử máu để đo số lượng bạch huyết cầu. Nếu số lượng lên cao thì đó là dấu hiệu của sự nhiễm trùng, vì các tế bào này được sản xuất nhiều để chống lại sụ xâm nhập của tác nhân gây bệnh. Bác sĩ cũng thử đàm hoặc chất tiết từ cơ quan hô hấp để tìm ra các loại vi sinh vật
  45. có thể gây ra bệnh, rồi dùng các dược phẩm thích hợp. Ta cũng thấy bác sĩ dùng ống khám bệnh để nghe hơi thở bất thường trên ngực, trên lưng bệnh nhân: những tiếng khò khè vì ống phổi có đàm, những vùng phổi bị thương tích không truyền được âm thanh của hơi thở. Bệnh Viêm phổi có nguy hiểm không? Với người khỏe mạnh, có sức đề kháng cao và được điều trị đúng lúc, đúng cách với kháng sinh hữu hiệu, họ có thể vượt khỏi các biến chứng của bệnh viêm phổi. Nhưng với người cao tuổi hoặc trẻ em quá nhỏ, viêm phổi có thể đưa tới các biến chứng trầm trọng như: - Nhiễm trùng huyết: khi vi khuẩn từ tế bào phổi xâm nhập dòng máu ở các phế nang, đưa tới nhiễm vi khuẩn tổng quát, gây nguy hại cho các bộ phận khác của cơ thể thậm chí cả tử vong. - Túi mủ trong phổi khi mà vi sinh vật tích tụ trong phổi tạo ra các túi mủ, hủy hoại sự hô hấp và gây tổn thương cho phổi. - Viêm nhiễm màng phổi, màng phổi ứ nước gây đau đớn, khó khăn khi thở. - Khi phổi bị viêm gây ra tổn thương ở nhiều vùng, sự hô hấp giảm đưa tới rối loạn trao đổi không khí, ảnh hưởng tới sức khỏe chung của con người. Bác sĩ chữa viêm phổi ra sao? - Viêm phổi gây ra do virus thường mau lành dù không điều trị. Vả lại, cũng không có thuốc đặc trị cho virus viêm phổi. Kháng sinh không có công hiệu gì với virus. Bệnh nhân chỉ cần nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, tự chăm sóc ít ngày là vượt qua, ngoại trừ khi lại bị bội nhiễm với các loại vi khuẩn. - Với viêm phổi do vi khuẩn, bác sĩ có thể lựa nhiều loại kháng sinh thích hợp để loại trừ vi khuẩn đó. Thời gian uống kháng sinh tùy theo tình trạng nặng nhẹ của bệnh cũng như sức khỏe của mỗi người, có thể là 2 tuần lễ. Xin uống thuốc theo đúng hướng dẫn của bác sĩ. Không tự ngưng thuốc khi thấy dấu hiệu bệnh thuyên giảm, vì vi khuẩn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, và chúng có thể trở nên quen nhờn với thuốc. Ngoài ra, thuốc hạ nhiệt độ như Tylenol, Ibuprofen cũng cần dùng tới. Xin đừng cho trẻ em dùng thuốc Aspirin, vì thuốc có thể gây ra tác dụng phụ quan trọng! Hỏi ý kiến bác sĩ coi có cần uống thêm thuốc ho, vì ho là để loại bỏ nhớt đàm từ phổi. Nếu cần, chỉ nên uống vừa đủ thuốc ho để bớt khó chịu và ngủ dễ dàng.
  46. Nên uống nhiều nước để đàm loãng, dễ ho được loại bỏ khỏi cơ thể. Thường thường, viêm phổi có thể điều trị tại nhà, uống các dược phẩm do bác sĩ biên toa. Chỉ vào bệnh viện nếu trên 65 tuổi, ho nhiều, khó thở, nhịp tim nhanh, huyết áp xuống thấp, cần thở với bình dưỡng khí, không ăn uống được. Có thể phòng ngừa bệnh viêm phổi không? Sau đây là một số biện pháp mà mọi người có thể áp dụng để giảm thiều rủi ro bị bệnh Viêm Phổi. 1. Ngưng hút thuốc lá, nếu đang hút. 2. Đừng tiếp xúc quá gần với người đang bị bệnh truyền nhiễm như cảm lạnh, cúm, viêm phổi. 3. Rửa tay thường xuyên để giảm thiểu sự lây lan của bệnh, vì vi sinh vật gây bệnh dính trên tay của mình, rồi đưa tay dơ lên miệng, lên mũi. Nếu không có dịp rửa tay bằng nước với xà bông, có thể tạm thời lau chùi tay với dung dịch có chất cồn. Khi ho, hắt hơi, dùng giấy hoặc khuỷu tay áo để che mũi miệng thay vì dùng bàn tay. 4. Chích ngừa Với người trên 65 tuổi, người hút thuốc lá, hoặc người có bệnh kinh niên được chích loại vaccine dành riêng cho họ gọi là PPSV (Pneumococcal polysaccharide vaccine. Với trẻ em là pneumococcal conjugate vaccine PCV. Xin hỏi bác sĩ về lịch trình chích ngừa cho từng loại tuổi. Ngoài ra, mọi người cũng cần chích ngừa các bệnh có thể gây ra viêm phổi, như chích ngừa cúm mỗi năm; chích ngừa thủy đậu, ban sởi nếu chưa bao giờ mắc các bệnh này hoặc chưa bao giờ chích ngừa chúng. Tự chăm sóc Ngoài việc uống thuốc theo toa bác sĩ, bệnh nhân nên có chương trình tự chăm sóc, như là: - Nghỉ ngơi đầy đủ để dưỡng bệnh và trị bệnh;
  47. - Không đi làm hoặc đi học cho tới khi hết nóng sốt, để tránh truyền bệnh của mình cho người khác; - Uống nhiều chất lỏng như nước, các loại súp để tránh thiếu nước trong cơ thể và để long đàm, dễ loại ra ngoài; - Giữ hẹn tái khám với bác sĩ. Kết luận Một vài kết luận nên ghi nhớ: - Tuy Viêm phổi là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 6 trong số các bệnh tại Hoa Kỳ, - và bệnh viêm phổi rất dễ lây lan từ người này qua người khác, bằng những hạt nước nhỏ li ti từ mũi miệng người bệnh đưa vào không khí mà mọi người hít thở, - Nhưng Viêm phổi là bệnh có thể phòng ngừa và điều trị được. Bs. Nguyễn Ý Đức
  48. 24/ Rượu gừng nhiều công dụng Rượu gừng có công dụng tuyệt vời trong điều trị cảm, đau khớp, buồn nôn, hạ cholesterol, khó tiêu, bệnh gout, hội chứng ruột kích ứng Để chế biến rượu gừng, lấy nửa chén gừng tươi băm nhuyễn (gừng khô thì khoảng 1/4 chén), cho vào hũ thủy tinh miệng rộng, màu tối, sạch và khô nhằm tránh ánh sáng, ô nhiễm. Sau đó, cho vào hũ một chén rượu Vodka (nếu là gừng tươi) hoặc 2/3 chén rượu Vodka cộng 1/3 chén nước (gừng khô), đậy nắp lại và lắc hũ trong khoảng 2 phút. Dùng giấy ghi tên sản phẩm và ngày chế biến, dán vào hũ để tránh nhầm lẫn. Trong 2 tuần kế tiếp, lắc hũ khoảng 1 phút mỗi ngày, sau đó lọc bỏ bã lấy phần rượu, pha một muỗng cà phê với tách nước ấm để uống. Rượu gừng để ở nơi khô mát, tránh ánh sáng, có thể bảo quản 1 - 2 năm. Người đi chơi xa có thể đem theo sản phẩm này để tránh nôn mửa do say xe và phòng cảm mạo khi thay đổi thời tiết. Những bệnh nhân đang hóa trị liệu cũng nên dùng rượu gừng để giảm buồn nôn. Lưu ý, phụ nữ có thai và bệnh nhân mắc các bệnh về mật không nên dùng sản phẩm này. Khi đi khám bệnh, lúc bác sĩ kê đơn thuốc, bạn cần báo mình đang dùng rượu gừng để tránh “nguy cơ” tương tác thuốc. Dược sĩ Nguyễn Bá Huy Cường (ĐH Dược Murdoch - Úc) Dược sĩ Nguyễn Bá Huy Cường
  49. 25/ Nên ăn đậu Các loại đậu chứa nhiều pectin có thể giữ vai trò quan trọng trong sự làm giảm lượng cholesterol trong máu, còn tốt hơn cả loại cám yến mạch (oat bran). Hỏi Tôi bị bệnh tiểu đường từ hơn 10 năm và mới đi khám bác sĩ gia đình về, và bà ấy có khuyên tôi là nên ăn nhiều các loại hạt đậu. Theo bà ấy thì đậu có nhiều chất đạm tốt và cũng giảm đường trong máu. Có đúng không bác sĩ? Xin bác sĩ giải thích giùm nhé! Ông Nghi- GA Đáp Đúng như bác sĩ của ông nói, đậu là một loại thực phẩm có nhiều tác dụng tốt đối với cơ thể, đặc biệt là bệnh nhân bị bệnh tiểu đường. Sau đây, chúng tôi xin trình bầy cặn kẽ để bà và quý độc giả Trẻ hiểu rõ. Đậu được trồng ở khắp nơi trên thế giới và có tới trên mười ngàn loại khác nhau. Tuy nhiên, các bà nội trợ thường chỉ quen thuộc với một số ít các loại đậu như là đậu hà lan, đậu tây (cô ve), đậu đen, đậu đỏ, đậu pinto, đậu ngự, đậu nành Hạt đậu nằm trong vỏ dài mà khi chín khô sẽ nứt ra làm đôi. Theo các nhà khảo cổ thì đậu được trồng trước tiên ở các quốc gia Đông Nam Á châu từ cả chục ngàn năm về trước. Nhiều nơi, đậu được gieo giữa hai luống ngô, vì đậu có thể hấp thụ nitrogen từ không khí, tồn trữ dưới đất và làm đất giầu thêm chất này để giúp ngô tăng trưởng. Giá trị dinh dưỡng Hạt đậu là nguồn dinh dưỡng rất phong phú, ngon mà tương đối lại rẻ tiền. Đậu nành cung cấp đủ các loại amino acid thiết yếu mà cơ thể cần. Đậu có nhiều calci, cho nên các vị tu hành, người ăn chay có thể sống lành mạnh chỉ với đậu hũ và các loại sản phẩm khác của đậu nành. Nói chung, đậu có lượng đạm chất cao hơn các các loại ngũ cốc khác từ hai đến năm lần.
  50. Hạt đậu có nhiều sinh tố nhóm B, nhiều sắt, kali, rất nhiều chất xơ. Đa số hạt đậu đều có rất ít chất béo và năng lượng, ngoại trừ đậu nành và đậu phộng lại có nhiều chất béo tốt ở dạng chưa bão hòa. Đậu có ít năng lượng nhưng chứa nhiều nước. Một trăm gram đậu nấu chín cung cấp khoảng 100-130 Calori và 7 gram chất đạm, tương đương với số đạm trong 30 gram thịt động vật. Đậu nẩy mầm có nhiều đạm hơn đậu nguyên hạt. Khi ăn chung đậu với các loại hạt, đạm của đậu có phẩm chất tương đương với đạm động vật. Người Bắc Mỹ và người châu Âu ít chú ý đến các loại đậu vì phải mất nhiều thời gian để nấu hoặc phải ngâm đậu trước khi nấu. Để tiết kiệm thì giờ, dùng đậu chế biến nấu sẵn đựng trong hộp rất tiện lợi: chỉ cần đổ bớt nước mặn trong đậu hoặc rửa đậu cho bớt mặn rồi nấu. Nhưng người Nam Mỹ và Á Châu xem các loại hạt đậu là một thành phần quan trọng của lương thực. Ở Châu Mỹ La Tinh, từ Mễ Tây Cơ xuống đến Trung Mỹ, Nam Mỹ, đâu đâu cũng thấy có đậu đen và đậu đỏ (black and red beans) trong các bữa ăn. Ở Ấn Độ, đậu lăng (lentil) được ăn trộn với gạo và rất phổ biến. Nhật Bản có loại đậu màu nâu gọi là azuki được ăn với cơm. Ưu điểm của đậu 1. Đậu chứa một loại chất xơ gọi là pectin. Chất xơ này có khả năng hút nước và nở ra trong dạ dày khiến người ta có cảm giác no không thèm ăn. Nó cũng làm chậm tiến trình hấp thụ thực phẩm trong ruột, giúp bệnh nhân tiểu đường tránh được sự tăng gia quá mau đường huyết, và cơ thể khỏi phải tiết ra nhiều insulin. Các loại đậu chứa nhiều pectin có thể giữ vai trò quan trọng trong sự làm giảm lượng cholesterol trong máu, còn tốt hơn cả loại cám yến mạch (oat bran). Trong các loại đậu, đậu nành được xem là hữu hiệu nhất để giảm cholesterol và triglyceride trong máu. Nghiên cứu ở Ý và Thụy Sĩ cho thấy là, bệnh nhân có cholesterol cao, mà ăn nhiều chất đạm từ đậu nành thay thế cho thịt cá, thì mức cholesterol của họ giảm xuống đến 31%. Kết quả này xem ra còn tốt hơn tác dụng của các loại thuốc giảm cholesterol đắt tiền bán trên thị trường.
  51. Bác sĩ James Anderson thuộc Đại học Kentucky, khuyên bệnh nhân mỗi ngày ăn một cốc đậu pinto nấu chín để hạ cholesterol. 2. Cũng theo bác sĩ Anderson, ăn đậu thường xuyên giảm nhu cầu Insulin để chữa bệnh tiểu đường, vì đậu làm đường trong máu tăng lên rất chậm. 3. Gần đây các nhà khoa học lại mới tìm ra một tác dụng vô cùng bổ ích của các hạt đậu, đó là khả năng chống ung thư. Đậu có chứa chất acid phytic, một chất chống oxy hóa rất mạnh, có thể chận đứng tiến trình ung thư hóa của tế bào. Ngoài ra, khảo cứu trên một số động vật trong phòng thí nghiệm cho thấy đậu, nhất là đậu “pea” và đậu lăng “lentil” có chứa chất ức chế protease là chất có khả năng phòng chống ung thư da, vú và gan ở động vật. Thử nghiệm ở người cũng thấy tác dụng tương tự về phòng chống ung thư vú và nhiếp hộ tuyến. Chuyên gia về ung thư Anne Kennedy cho chuột ăn một hóa chất gây ung thư, nhưng khi chất ức chế protease được bôi vào miệng chuột thì ung thư không xẩy ra. 4. Đậu giúp đại tiện đều đặn, dễ dàng vì phẩn to hơn, mềm hơn, từ đó giảm thiểu được các nguy cơ ung thư ruột già và trực tràng. Đó là kết quả các nghiên cứu của Tiến sĩ Sharon Fleming, Đại học Berkeley, California. 5. Một khoa học gia Ấn Độ là SN. Sanyaldan nhận thấy dân số của người Tây Tạng không thay đổi trong suốt 200 năm. Thực phẩm chính của họ là một loại đậu. Sau nhiều năm tìm hiểu, ông ta thấy rằng đậu này có khả năng ngăn ngừa sinh đẻ nhờ hóa chất m-xylohydroquinone. Ông ta thử cho phụ nữ dùng chất này thì tỷ lệ sinh đẻ giảm hẳn, còn với nam giới thì chất này cũng làm cho số lượng tinh trùng giảm. Nhận xét này đang được nghiên cứu kiểm chứng thêm. Ngoài ra có lẽ tác dụng của nó không mạnh bằng các dược phẩm ngừa thụ tinh hiện có, nên ít ai để ý đến Coi vậy thì các loại đậu đều rất tốt cho cơ thể. Chúng tôi nghĩ là ông có thể làm theo như lời khuyên của vị bác sĩ gia đình. Nhưng cũng xin đừng quên dùng thuốc hạ đường huyết đều đặn và dành thời gian để vận động cơ thể mỗi ngày. Chúc ông mọi sự bình an. Bs. Nguyễn Ý Đức
  52. 26/ Mẹo đơn giản giúp thoát mỏi mắt vì máy tính Theo một nghiên cứu mới, 20 giây chớp mắt liên tục có thể giúp những người sử dụng máy tính tránh bị căng mỏi mắt. Tiến sĩ Edward Mendelson đến từ Trung tâm Y tế Tây Nam thuộc Đại học Texas (Mỹ) và các cộng sự đã tìm ra một bài tập thể dục đơn giản, cho đôi mắt của những người thường xuyên phải ngồi trước màn hình máy tính. Ông Mendelson cho hay: “Cứ 20 phút, người dùng máy tính nên nghỉ khoảng 20 giây để chớp mắt kết hợp với nhìn tập trung vào một vật thể cách mình khoảng 6 mét. Hãy cho phép mình có thời gian thực hiện 20 lần chớp mắt hữu ích như vậy! Chớp mắt là cách dưỡng ẩm tự nhiên cho đôi mắt. Vì vậy, các lần chớp mắt như trên sẽ giúp bôi trơn và làm tươi mới ‘cửa sổ tâm hồn’ của chúng ta”. Theo ông Mendelson, chiến lược “20 - 20 - 6 - 20” được thiết kế như một giải pháp chống hội chứng rối loạn thị giác do sử dụng máy vi tính (CVS), ảnh hưởng tới hàng triệu người lao động và kẻ “nghiện” trò chơi điện tử. Các triệu chứng của CVS như mắt khô mỏi, nhìn mờ, đau đầu, mỏi vai, đau lưng thường là tạm thời, nhưng đối với nhiều người có thể là vấn đề thường nhật, buộc họ phải tìm kiếm sự chữa trị y tế. CVS thậm chí có thể gây cảm giác đau đớn đối với một số người và buộc họ phải đeo kính thuốc. Những người nhiều nguy cơ mắc hội chứng CVS nhất là bất kỳ ai ngồi trước màn hình máy tính ít nhất 3 tiếng đồng hồ. Đặc biệt, vấn đề càng trở nên trầm trọng đối với các nhân viên văn phòng làm việc trong điều kiện vô trùng và thiếu tự nhiên trong những tòa nhà hiện đại. Nhà nghiên cứu Mendelson nhấn mạnh: “Các văn phòng hiện nay thường mát mẻ và khô ráo, tạo cảm giác dễ chịu và thoải mái cho người làm việc, ngoại trừ đôi mắt của họ”. Các nhà khoa học cho biết, dùng thuốc nhỏ mắt trước khi làm việc với máy tính có thể giúp phòng tránh bị khô mắt; nhưng việc nghỉ thư giãn, tách khỏi màn hình máy tính sẽ giúp khắc phục những triệu chứng CVS khác như đau đầu, mỏi cổ và căng cơ do ngổi một tư thế quá lâu. Tuấn Anh (Theo Daily Mail)
  53. 27/ Những bệnh về mắt có thể làm mù mắt Tăng nhãn áp xảy ra trong thầm lặng. Khoảng phân nửa số người bị bệnh này không biết về nó. Thời kỳ đầu không có triệu chứng gì và bệnh tiến triển rất chậm, đến nỗi những thay đổi nhỏ về tầm nhìn không được nhận thấy. Bệnh tăng nhãn áp, hay còn gọi là cườm nước(glaucoma) là một bệnh gây sợ hãi cho người ta, vì nó có thể dẫn tới mù mắt. Tăng nhãn áp xảy ra khi áp lực bên trong mắt (nhãn áp) tăng cao khác thường, gây tổn thương cho những mạch máu li ti và dây thần kinh thị giác. Hai đến ba triệu người Mỹ bị tăng nhãn áp, và có đến 120.000 người trong số này bị mù. Nguy cơ của bệnh tăng nhãn áp gia tăng theo tuổi tác. Tăng nhãn áp xảy ra trong thầm lặng. Khoảng phân nửa số người bị bệnh này không biết về nó. Thời kỳ đầu không có triệu chứng gì và bệnh tiến triển rất chậm, đến nỗi những thay đổi nhỏ về tầm nhìn không được nhận thấy. Triệu chứng đầu tiên là một đốm đen nhỏ ở trong mắt. Khi bệnh gia tăng, tầm nhìn ngoại biên mất dần, chỉ có thể nhìn thấy những vật trước mắt, không thấy hai bên, rồi dẫn đến mù. Thị lực bị mất bởi tăng nhãn áp không thể phục hồi lại được. Cách duy nhất để phát hiện ra bệnh này trong thời kỳ đầu là đi khám mắt. Tăng nhãn áp cơ bản là vấn đề thông thoát nước. Nước luôn luôn ra vào nhãn cầu. Thủy dịch này đem chất dinh dưỡng cho mắt và mang đi những chất bị thải. Bình thường, lưu lượng thủy dịch vào trong bằng lượng đem ra khỏi mắt. Tuy nhiên, nếu thủy dịch vào trong mắt nhanh hơn lúc nó thoát ra, nhãn áp bắt đầu hình thành. Khi áp lực tăng, sức ép vào trong nhãn cầu tăng. Áp lực làm giảm máu lưu thông để nuôi dây thần kinh thị giác, gây tổn thương cho dây thần kinh rồi dẫn đến mù lòa. Vẫn chưa có cách chữa cho bệnh này; điều có thể làm là ngăn ngừa không để bệnh nặng thêm. Việc điều trị gồm nhỏ thuốc vào mắt để giảm lưu lượng thủy dịch vào trong mắt, hoặc làm tăng lượng thoát ra ngoài. Thuốc nhỏ mắt cần phải được dùng đều đặn để điều hòa áp lực. Nếu cứ tiếp tục việc điều trị này mãi, thì thị lực được duy trì trong hầu hết các trường hợp. Mặc dầu nguyên nhân chính xác của tăng thủy dịch trong mắt chưa được biết, nhưng sự giữ nước có liên quan đến bệnh này. Vì vậy, thuốc lợi tiểu đã hữu dụng trong việc giảm áp lực trong mắt. Thế thì nước dừa sẽ hữu ích ở đây. Nhiều nghiên cứu được thực hiện đã chứng tỏ rằng, nước dừa hữu hiệu trong việc giảm thủy lực trong mắt. Thủy lực giảm thấy rõ ít nhất hai tiếng rưỡi sau khi uống nước dừa.