Máy phát điện sử dụng trấu
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Máy phát điện sử dụng trấu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- may_phat_dien_su_dung_trau.pdf
Nội dung text: Máy phát điện sử dụng trấu
- Máy phát điện sử dụng trấu
- Máy phát điện sử dụng trấu Trấu là loại rác thải trong nông nghiệp, sẽ trở thành chất đốt để sản xuất điện với giá rẻ hơn 30% so với mức giá hiện nay và đã được ông Giám đốc Ronnie Lo giới thiệu tại cuộc hội thảo về máy phát điện sử dụng trấu, tổ chức tại Cần Thơ ngày 1/11/2003 do Công ty TNHH Năng lượng Sinh khối Jiangxi Peako (Trung Quốc), thuộc Công ty Peako - Hồng Công sáng chế. Sự hấp dẫn nhất của máy phát điện chạy bằng trấu là giá sản xuất điện thấp. Theo tìm hiểu của ông Ronnie Lo, các nhà máy sản xuất thép, xi măng, chế biến thủy, hải sản,v.v của Việt Nam thường sử dụng điện ở mức độ lớn, có nhà máy phải tốn hơn một tỷ đồng/tháng cho chi phí này. Vì thế, nếu sử dụng điện từ nguồn này, các nhà máy sẽ giảm được từ 20-30% chi phí cho điện năng. Theo tính toán của Công ty Jiangxi Peako, sử dụng công nghệ này để sản xuất điện, giá thành chỉ ở mức 500 đồng/kwh. Nhà máy Peako Mark-I tại tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, do Công ty này xây dựng đã được nghiệm thu từ tháng 9/2002, hoạt động rất tốt, sản xuất điện với giá bán rất cạnh tranh: 0,032 USD/kwh. Tro thải từ máy phát điện có thể được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất xi-măng, phân bón,v.v Giá các loại máy phát điện kiểu này dao động tùy theo công suất. Máy có công suất 400 kw có giá chỉ 200.000 USD; máy có công suất 1.800 kw có giá khoảng 1,2 triệu USD. Nếu các nhà máy sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có quy mô vừa phải, chỉ cần vài trăm ngàn USD là tự tạo được nguồn điện phục vụ sản xuất. Việt Nam có sản lượng lúa khoảng 30 triệu tấn/năm, tức có khoảng 7,5 triệu tấn trấu thu được qua xay xát. Lâu nay, các bạn ít quan tâm để sử dụng lượng trấu này một cách có hiệu quả, có nơi chỉ để đun nấu, nung gạch, thậm chí đốt bỏ. Một nhà máy sản xuất điện bằng công nghệ này, chỉ cần tối đa là 5 công nhân và 350 m2 mặt bằng. Cơ chế vận hành của máy phát điện chạy bằng trấu có thể khái quát như sau: Trấu được chuyển vào mô đun bằng hệ thống bơm hút tự động, đốt nóng để phát sinh khí than (H2, CH4, CO). Khí than được truyền qua thiết bị tách bằng gió để loại bỏ các hạt thô, sau đó đi qua chuỗi lọc máy hơi đốt và các tháp làm nguội. Trong quá trình này, nước được dùng như một phương tiện để lọc và làm nguội khí than. Sau đó, khí được bơm vào động cơ qua thiết bị tĩnh điện có điện thế cao để loại bỏ hạt và chất dính còn lại. Cuối cùng, đưa vào sử dụng ở các động cơ khí đốt pít-tông đến máy phát điện để tạo ra điện năng. Tiêu chí mà Công ty Peako đặt ra khi sản xuất chiếc máy phát điện kiểu này là sản xuất điện giá rẻ, cải thiện môi trường. Khi vận hành, máy tạo ra khí H2, CH4, CO. Nguồn khí này đi qua thiết bị tách bằng gió để loại bỏ các hạt thô, sau đó làm sạch và làm nguội bằng nước. Công nghệ này có quy trình xử lý khí chính xác. Lượng nước tiêu thụ rất nhỏ (dưới 0,5 lít/kwh) và dòng chảy được xử lý tuần hoàn dễ dàng để tái sử dụng, hạn chế được việc gây ô nhiễm cho môi trường.
- Dù chỉ mới chính thức chào hàng ở thị trường Việt Nam từ tháng 6/2003 , nhưng ông Ronnie Lo tin tưởng khách hàng sẽ chấp nhận máy phát điện nói trên bởi những ưu việt của công nghệ này. Sau các cuộc hội thảo và quảng bá, rất nhiều người đã tìm đến Công ty Peako để hỏi thêm thông tin. Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Môi trường, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cũng đánh giá rất cao công nghệ này Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 8/11/2003 Làm sạch chất thải độc hại bằng sinh học Các enzim, vi khuẩn và nấm đang được đưa vào ứng dụng làm sạch ô nhiễm đô thị; ô nhiễm công nghiệp, khu vực khai thác mỏ, chất thải có nguồn gốc là thuốc trừ sâu và những vùng nông nghiệp bị ô nhiễm do sử dụng hoá chất. Tiến sỹ John Oakeshott thuộc Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Ô-xtrây-lia (CSIRO) cho rằng, việc xử lý bằng sinh học thuốc trừ sâu và các chất độc hại khác có khả năng thu nhiều đô la do xuất khẩu, khi các nhà nghiên cứu Ô-xtrây-lia tìm được thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, đây cũng có nghĩa là đã tiết kiệm nhiều cho ngành công nghiệp Ô-xtrây-lia CSIRO tổ chức một Hội thảo Quốc tế về Biện pháp Xử lý bằng sinh học ở Melbourn trong hai ngày, với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu thuộc Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp (CSIR) của Ấn Độ, và các đại biểu của một số Viện Nghiên cứu Khoa học châu Âu và châu Á. Mục đích của Hội thảo nhằm phát triển Liên minh Nghiên cứu dưới sự lãnh đạo của các Cơ quan Nghiên cứu Quốc tế. TS. Greg Davis nghiên cứu về Đất và Nước của CSIRO cho rằng “Làm sạch những khu công nghiệp cũ và cả những sự cố tràn hoá chất gần đây có thể rất tốn kém, song biện pháp xử lý bằng sinh học đem lại những tiết kiệm đáng kể và thúc đẩy quá trình xử lý tự nhiên sạch hơn.” TS. Davis cho rằng, đôi khi tốc độ làm sạch tự nhiên của các vi khuẩn tương ứng với các mức giảm ô nhiễm, thì trong nhiều trường hợp cần phải tăng tốc độ làm sạch của vi khuẩn để quá trình làm sạch diễn ra nhanh hơn và rẻ hơn- hạn chế sự di chuyển và rủi ro của các chất ô nhiễm hoá học trong thời gian ngắn. Thách thức lớn là tìm ra các vi khuẩn có khả năng thích hợp, sau đó là việc xác định quy mô các quá trình xử lý, từ phòng thí nghiệm đến hiện trường phải chỉ ra rằng các vi khuẩn thực sự có thể xử lý được ô nhiễm. Nhóm CSIRO đã nghiên cứu
- phạm vi các chất gây ô nhiễm gồm: cácbon hyđrô trong dầu mỏ, thuốc trừ sâu, các chất dinh dưỡng, dung môi trong công nghiệp và các kim loại. Các vi khuẩn làm giảm sunphát cũng đang phát triển, loại vi khuẩn này đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý axít trong hệ thống thoát nước ở những khu vực mỏ có liên quan nhiều đến ngành công nghiệp khai thác. TS. Oakeshott, nhà Côn trùng học của CSIRO cho biết; 4 Bộ phận của CRISO có khả năng xử lý sinh học và họ đang khảo sát khả năng của các ngành công nghiệp mới trên cơ sở sử dụng các quy trình xử lý và các chất liệu sinh học. Một cách tiếp cận mới là phát triển quy trình xử lý gốc enzim để khử độc các chất cặn ở các khu vực nước thải trong sản xuất nông nghiệp, xử lý công nghiệp. Nguồn: CSIRO, 11/2003 EPA thông qua công nghệ phát hiện Colitag E.coli đảm bảo an toàn cho nước uống Chỉ số vật giá hàng tiêu dùng (CPI International, California, CA) đã được Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) thông qua. Phương pháp thử nghiệm của CPI dùng để phát hiện vi khuẩn coli trong nước uống công cộng đã được đăng ký sản phẩm là Colitag (TM) . David Hejl, chủ tịch/ trưởng điều hành của CPI cho rằng, đây là một sự kiện nổi bật sau 7 năm nỗ lực của công ty nhằm đảm bảo mức độ an toàn cao khi thử nghiệm nước uống công cộng. Các phòng thí nghiệm tư nhân và các cơ quan trực thuộc thành phố cũng như các tổ chức chính quyền có trách nhiệm về việc xét nghiệm nước, hiện nay có thể bảo vệ công chúng bằng độ tin cậy đối với sản phẩm xét nghiệm này. Colitag (TM) do tiến sĩ George Chang, giáo sư Trường Đại học California ở Berkeley phát triển từ đầu những năm 1990. Theo TS. Chang, Colitag (TM) khác hẳn các phương pháp xét nghiệm trước đây đã được EPA chấp nhận trong 10 năm qua vì có thể xác định được loại E.Coli yếu, song không bị diệt bằng các biện pháp xử lý nước. TS. Chang nhận xét “nếu xử lý không triệt để có thể sẽ có những mầm bệnh gây hại vẫn có thể phục hồi trong cơ thể người nào đó và gây ra bệnh nguy hiểm. Một khi, quy trình xử lý nước không tốt, thì E. coli có thể “tẩu thoát” khỏi quá trình xử lý vệ sinh và chúng vẫn tồn tại". Khi được thông báo Colitag (TM) đã được EPA chấp thuận thông qua, TS. Chang cho biết: “hiện nay công chúng sẽ có lợi ích lâu dài về sản phẩm xét nghiệm nước cuối cùng. Colitag (TM) sẽ được hầu hết các tổ chức công cộng sử dụng để xét nghiệm E. coli trong các hệ thống nước, từ nước uống, các hệ thống nước thải đến các ao công cộng và bãi biển. Sản phẩm Colitag (TM) cũng sẽ được các nhà sản xuất lương thực, thực phẩm và đồ uống sử dụng. CPI International có trụ sở ở Santa Rosa, CA, có các văn phòng ở Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hà Lan. Ngoài ra, Colitag (TM) còn sản xuất các phụ tùng, dụng cụ phân tích,
- các dung dịch và chất tẩy rửa có tiêu chuẩn tinh khiết cao, cũng như các sản phẩm phân tích thử nghiệm khác phục vụ các ngành công nghiệp về môi trường, hoá dầu, dược phẩm, công nghệ sinh học và bán dẫn. Nguồn: Business Wire, 2/2004 Giải pháp ứng cứu sự cố tràn dầu Giải pháp thùng chứa không đáy là một công nghệ mới, hoàn toàn do người Việt Nam sáng chế, bảo đảm ứng cứu các sự cố tràn dầu đạt hiệu quả cao, nhanh, sạch, linh hoạt và rẻ hơn rất nhiều lần so với các công nghệ đang được áp dụng. Hiện nay, khi sự cố tràn dầu xảy ra ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, biện pháp ứng cứu phổ biến là dùng phao quây lại, sau đó dùng đầu hút skimmer để hút dầu lên. Dung dịch thu được là một hỗn hợp dầu - nước, trong đó nước thường nhiều gấp 20-30 lần dầu. Toàn bộ hỗn hợp này sẽ được đưa lên tàu, chở về đất liền mới xử lý. Chẳng hạn một sự cố làm tràn khoảng 10.000 tấn dầu, lượng hỗn hợp dầu - nước sẽ lên tới trên 200-300 nghìn tấn. Vận chuyển được khối lượng này vào bờ để xử lý phải cần đến rất nhiều tàu trọng tải lớn, thời gian ứng cứu kéo dài, và chi phí rất cao, có thể lên tới hàng trăm triệu, hoặc cả tỷ USD. Vấn đề đặt ra là tìm biện pháp để nhanh chóng xử lý, thu hồi dầu tràn tại chỗ, không cần vận chuyển hỗn hợp dầu - nước vào đất liền. Hệ thống tách SOW-TD hoạt động theo nguyên lý: hỗn hợp xả xuống đi qua hệ thống lưới lọc đan bằng những kim loại như platini, bạc, vàng,v.v tạo ra những điện tích có khả năng hãm dầu lại, hất ra xung quanh rồi nổi lên, chỉ còn nước lọt xuống dưới. Hệ thống được kỹ sư Khánh chế tạo và thử nghiệm từ năm 1997 và đã được Cục Sở hữu Công nghiệp cấp bằng Sáng chế độc quyền. Máy có thể làm việc liên tục 6 tháng mới phải rửa. Kích thước gọn nhẹ, chỉ bằng 1/6 máy ngoại nhập cùng công suất và rẻ hơn máy ngoại từ 1,5 đến 2 lần. Công nghệ này thực chất là ứng dụng phối hợp hệ thống tách dầu SOW-TD có công suất cao (do ông Khánh sáng chế), với một bể chứa dầu không đáy. Kết cấu của "thùng chứa dầu không đáy" cũng rất đơn giản: được làm bằng kim loại có tiết diện hình trụ và không có đáy, với kích thước tùy định. Thùng được gắn kết vào xà lan ứng cứu, bên trong thùng sâu dưới mặt nước gắn một hệ thống tách dầu - nước. Khi xảy ra sự cố tràn dầu, người ta sẽ sử dụng phao quây, đầu hút skimmer hút hỗn hợp dầu - nước xả vào hệ thống tách dầu - nước (được lắp sẵn trong thùng không đáy). Hệ thống này sẽ lập tức tách dầu cho nổi lên trên, nước tụ phía dưới thùng. Khi lớp dầu trong thùng cao dần lên tới mức 1-2 m, dùng vòi hút lượng dầu sạch này lên xà lan; trong khi vẫn tiếp tục bơm xả hỗn hợp dầu - nước vào thùng.
- Theo tính toán của kỹ sư Khánh, chỉ cần đầu tư dưới 200.000 USD cho một thùng không đáy như vậy cùng với hệ thống tách dầu - nước, và các chi tiết đi theo là đủ để sẵn sàng ứng cứu cho các vụ tràn 1.000 tấn dầu. Nguồn: TBKTVN, VnExpress, 17/2/2004 Vật liệu xử lý nước phèn thành nước ngọt do Việt Nam sản xuất Vật liệu xử lý nước phèn DS3 - loại vật liệu xử lý nước đầu tiên được sản xuất ở Việt Nam theo hiệu ứng tích số tan không những chỉ khử được tính axít của nước mà còn có thể loại bỏ sắt, nhôm, sunphát và hầu hết các chất gây ô nhiễm khác có trong nước phèn. Trong 5 năm qua, vật liệu DS3 đã giúp rất nhiều người dân nghèo vùng sâu ĐBSCL có nước sinh hoạt. Theo TS. Nguyễn Bá Trinh, Viện Hóa học, Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Việt Nam, tác giả của DS3, thì đặc điểm chính của nước phèn là độ pH thấp, chứa nhiều sắt II, nhôm và sunphát. Để xử lý nước phèn thành nước sinh hoạt, cần điều chỉnh độ pH về miền trung tính (6,5 - 8,5). Để giải quyết vấn đề này có thể sử dụng các loại vật liệu dễ kiếm trong tự nhiên hoặc một số hóa chất dùng trong thực phẩm, có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau như trao đổi ion, thẩm thấu ngược, siêu lọc, điện thẩm. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay chưa thể áp dụng những phương pháp này cho vùng sâu, vùng xa ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở những nơi này, thiết bị xử lý nước phèn phải có hiệu quả nhưng đơn giản, dễ sử dụng, phù hợp với điều kiện kinh tế và phong tục tập quán của đồng bào địa phương. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về hiện tượng tương tác lỏng - rắn, gọi là hiệu ứng tích số tan, phương pháp loại ion tan trong nước mới gọi là phương pháp tích số tan (đã được TS. Nguyễn Bá Trinh công bố tại hội nghị môi trường quốc tế, Athens Hy Lạp năm 1995), sau một thời gian nghiên cứu ông đã tìm ra vật liệu DS3 đáp ứng các điều kiện trên. "Loại vật liệu này là một hỗn hợp khoáng đã được gia nhiệt ở nhiệt độ và thời gian thích hợp. Phần hữu cơ bổ sung bị than hóa làm cho hỗn hợp trở thành một khối rắn, đồng thời tạo cho vật liệu khả năng hấp phụ các chất hữu cơ". Các thí nghiệm thực tế về khả năng khử phèn của DS3 ở hệ lọc đơn giản đều cho thấy nước phèn ở Kênh Bobo và kênh Mỹ An sau khi lọc đạt tiêu chuẩn nước sinh hoạt (kết quả này được cơ quan chức năng Bộ Y tế chứng nhận). So với kinh nghiệm dân gian dùng tro (hay dùng nhất là tro cây tràm), dùng thuốc muối, vôi để xử lý nước phèn vốn chỉ giúp giảm vị chua trong nước chứ không loại được kim loại nặng và các chất ô nhiễm khác, công nghệ thùng lọc nước phèn đơn giản sử dụng DS3 rõ ràng bảo đảm nguồn nước sinh hoạt an toàn hơn cho người dân. Thời gian sử dụng của thùng lọc nước phèn khá lâu. Thực tế ở huyện Thủ Thừa cho thấy sau 2 năm sử dụng, khả năng khử phèn của thùng lọc suy giảm không đáng kể.
- Nhìn chung, giá thành xử lý nước phèn theo công nghệ này khoảng 2.000 - 3.000 đồng/m3. Phương pháp xử lý nước phèn sử dụng vật liệu DS3 mang lại lợi ích cả về kinh tế và xã hội đã được nhiều địa phương ở ĐBSCL lựa chọn để giải quyết nước sinh hoạt cho dân. Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, 20/2/2004 Xử lý crôm trong nước thải bằng rơm rạ Từ phế phẩm của nông nghiệp là rơm, rạ, sinh viên Trần Thị Kiều Chinh, khoa Hóa của Trường đại học Sư phạm Quy Nhơn, Bình Định, đã thực hiện thành công đề tài nghiên cứu khoa học: "Thăm dò khả năng xử lý crôm trong nước thải bằng rơm rạ". Đề tài đã được trao giải nhất "Sinh viên nghiên cứu khoa học của trường" và được Bộ Giáo dục và Đào tạo trao tặng giải thưởng "Sinh viên nghiên cứu khoa học toàn quốc năm 2003". Là một nguyên tố kim loại nặng có trong nước thải, crôm và các hợp chất của chúng đều độc, đặc biệt các hợp chất có bậc ôxy hóa cao như cromat, biromat,v.v Vì vậy, mục đích ban đầu của đề tài là hướng đến xử lý các chất thải này bằng các vật liệu tự nhiên và nếu có hiệu suất cao thì có thể ứng dụng vào thực tế. Theo tác giả, rơm, rạ chính là dạng phế phẩm nông nghiệp rất gần gũi với người nông dân, có quá nhiều ở miền đất nông nghiệp mà phần lớn hiện đang có một công dụng đơn giản là đun bếp. Sở dĩ em chọn nghiên cứu xử lý nước thải vì hiện nay qua phân tích các mẫu nước tại các vùng nông thôn trong tỉnh Bình Định, hầu hết các mẫu nước ngầm đều nhiễm vi sinh. Trong khi đó ở một số vùng có làng nghề truyền thống của Bình Định như làng nghề chế biến tinh bột sắn Hoài Nhơn, sản xuất gạch ngói Tây Sơn, sản xuất nước mắm ở An Nhơn, sản xuất vôi ở Tuy Phước,v.v thì hằng ngày các nơi đây đã thải ra một hàm lượng chất độc lớn, gây ô nhiễm không khí, gây ô nhiễm nước, nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu nào để xử lý. Vì thế, tác giả đã hoàn thành giải pháp xử lý crôm, loại bỏ bớt được sự độc hại của nguyên tố này trong nước thải. Qua phân tích thành phần hóa học trong rơm, rạ, cho thấy thành phần chính của rạ là xenlulôza, nếu tính theo khối lượng khô thì trong rơm có từ 3 - 4,5% chất có đạm, 1,2 - 2% chất béo, 30% các chất dẫn xuất không chứa đạm, 35 - 36% xenlulôza và 14- 15% chất khoáng. Sau khi phân tích các thành phần hóa học của rơm, rạ, và rơm, rạ có khả năng hấp thụ crôm rất tốt. Phương pháp này vừa rẻ tiền, vừa có hiệu quả xử lý rất cao. Nguồn: Tạp chí Tài hoa trẻ, 21/2/2004 Những lợi ích của phân ủ bằng giun Khoảng 1/3 tổng lượng chất thải sinh hoạt là chất thải hữu cơ có thể tái chế một cách dễ dàng. Chất thải hữu cơ là một loại nguyên liệu thô có giá trị có thể được chế biến thành phân ủ có chất lượng tốt nhất, đưa chất hữu cơ thiết yếu vào đất trồng. Phân ủ đem lại sự phì nhiêu cho đất; cải tạo cấu trúc của đất, giúp giữ nước đồng
- thời còn làm cho đất tiêu úng tốt. Nếu như loại chất thải này bị chôn lấp thì tiềm năng của chúng sẽ bị mất đi và các chất ô nhiễm sẽ phát tán vào không khí và nguồn nước gây ô nhiễm môi trường. Dùng giun để ủ phân là một phương pháp ủ được sử dụng ngay tại nhà hoặc ủ trên quy mô thương mại lớn. Phân ủ bằng giun là gì? Phân ủ bằng giun là dùng giun và các vi sinh khác (vi khuẩn, nấm và các động vật nguyên sinh) để biến chất thải hữu cơ thành mùn giàu dinh dưỡng. Quá trình này diễn ra một cách tự nhiên trong các khu vực thực vật bị phân hủy như: lá rụng và cây cối mục nát. Giun ăn cả chất hữu cơ phân hủy và các vi sinh vật. Chất hữu cơ đi qua hệ thống tiêu hóa của giun sau đó được bài tiết thành khuôn. Phân ủ được tạo ra theo khuôn này cùng với các chất thải hữu cơ khác. Sản phẩm cuối cùng là chất tinh mịn, có độ xốp, thoáng khí và giữ ẩm tốt. Phân tích phân ủ do giun tạo ra cho thấy loại phân ủ theo cách này giàu dinh dưỡng hơn so với đất, canxi nhiều gấp ba lần, nitơ, phốt pho và kali cũng nhiều hơn vài lần. Phân ủ này chứa tỷ lệ mùn cao. Mùn này giúp các hạt đất hình thành các cụm tạo các rãnh để không khí đi qua và làm cho khả năng giữ nước tốt hơn. Axít humíc trong đất mùn tạo ra những vị trí liên kết các chất dinh dưỡng trong cây và cung cấp các chất dinh dưỡng đó theo nhu cầu của cây. Axít humíc giúp ngăn ngừa các mầm bệnh, nấm, giun tròn và các vi khuẩn gây hại cây. Phân giun tạo ra là mô đất có hoạt tính sinh học chứa hàng nghìn vi khuẩn, enzym và các phế thải của cây cối. Quá trình ủ phân sẽ tiếp tục diễn ra sau khi sản phẩm do giun tạo ra được làm lắng đọng. Hoạt động của vi sinh trong phân giun cao hơn trong đất 10-20 lần và chất hữu cơ cao hơn thức ăn của giun. Giun là những tác nhân ủ phân nhanh, mỗi ngày chúng có thể ăn chất thải bằng nửa trọng lượng bản thân, 2000 con giun mỗi tuần có thể ăn 3kg chất thải. Có rất nhiều loài giun khác nhau, mỗi loài có vai trò riêng trong phân hủy chất thải hữu cơ. Loài giun phân hủy chất thải hữu cơ tốt nhất là Dedrabaena veneta, Lumbricus rubellus và Aisenia andreii, giun hổ, giun ăn chất thải trên mặt. Loài giun này sinh sản rất nhanh, trưởng thành trong 6 tuần, mỗi tuần có thể sinh sản 3 lần trong suốt một năm, đó là tuổi thọ thông thường của chúng. Giun sinh sản có thể làm kén mỗi tuần 2-3 lần và sẽ nở trong 21 ngày, mỗi kén nở được 2 hoặc ba con giun, giun trưởng thành trong vòng 60-90 ngày. Giun hô hấp qua da, do đó cần phải môi trường ẩm để trao đổi không khí. Giun hoạt động tích cực nhất trong điều kiện nhiệt độ khoảng từ 130C đến 250C, mặc dù chúng có thể chịu được nhiệt độ từ 0-350C. Cả cỏ dại và các mầm bệnh đều bị giết chết trong quá trình ủ phân bằng giun. Phân ủ bằng giun thường bị vi khuẩn chi phối, nhưng sinh khối nấm cũng có thể xuất hiện. Phân ủ bằng giun, lượng nhiệt tao ra rất nhỏ; giun ăn cả loại giun tròn hại rễ cây, vi khuẩn gây bệnh, nấm và các hạt cỏ dại nhỏ.
- So sánh phân ủ bằng giun và phân ủ thông thường Phân ủ bằng giun nói chung được coi là phương pháp sản xuất tiện lợi, tốn ít thời gian hơn so với phân ủ thông thường. Phân ủ do giun tạo ra cũng có giá trị dinh dưỡng đất lớn hơn so với phân ủ hiếu khí. Nhiều sinh vật gây bệnh như Salmonella, các vi rút gây bệnh đường ruột dạng coli trong phân và các trứng giun ký sinh có thể tập trung trong các hệ thống phân ủ trộn và phân ủ bằng giun. Các phương pháp ủ phân hiếu khí truyền thống cần tăng nhiệt độ trong đống phân ủ từ 57-710C mới diệt được các mầm bệnh này. Tuy nhiên, trong phân ủ bằng giun nhiệt độ phải giữ dưới 320C để duy trì giun hoạt động có hiệu suất cao. Do nghiên cứu chưa nhiều về các mầm bệnh tồn tại trong phân ủ bằng giun, nên các chất rắn sinh học đã được tiến hành ủ trước ở nhiệt độ cao để diệt các mầm bệnh đó trước khi ủ phân bằng giun. Vì vậy làm cho chi phí ủ phân bằng giun tăng cao. Tuy nhiên, gần đây của Hoa Kỳ đã phối hợp điều tra nghiên cứu vấn đề này cùng với Cơ quan Bảo vệ Môi trường của quận Cam, Công ty Giun đất Hoa Kỳ và Thành phố Ocoee, Florida. Nghiên cứu được tiến hành trong hai khu vực: khu vực thứ nhất trong hai đống chất rắn sinh học (15-20%) đã làm vô hiệu hoá salmonella, các dạng coli trong phân và các vi khuẩn đường ruột, khu thứ hai, trong hai đống chất rắn sinh học đã làm vô hiệu hoá chứng giun. Kết quả là tất cả các mức độ mầm bệnh đạt được những yêu cầu của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ quy định đối với phân ủ trong 144 giờ. Những kết quả nghiên cứu của Đại học Mississipi cho thấy rằng phân ủ bằng giun làm tăng sinh trưởng cây trồng, phát triển rễ, tăng trọng lượng khô, tăng số lượng hoa ban đầu so với sử dụng phân bằng rêu mùn. Hàm lượng dinh dưỡng của phân ủ liên quan chặt chẽ với dạng thức ăn của giun. Phân ủ bằng giun nuôi bằng chất thải sinh hoạt không phù hợp để xử lý số lượng lớn chất thải từ vườn tược và cần phải pha trộn các loại chất thải hữu cơ để hoạt động hiệu quả . Phân ủ bằng giun theo quy mô gia đình Phân ủ bằng giun ở quy mô nhỏ hầu như ít gặp những vấn đề nan giải hơn các hệ thống phân ủ trên quy mô thương mại. Hệ thống ủ phân trên quy mô gia đình chỉ tận dụng tốt nhất các chất thải lương thực, thực phẩm với chất thải vườn tược như cỏ, lá cây thường được ủ thành đống. Quy trình xử lý này tạo ra hai sản phẩm giá trị; phân ủ và chất lỏng có thể được sử dụng để bón cây trong vườn và trong nhà ươm. Các thùng ủ phân gia đình chiếm khoảng không gian nhỏ và có thể đặt gần cửa bếp, ít phát ra mùi hôi vì giun ăn hết chất thải trước khi phân hủy. Để làm thùng nuôi giun, có thể tận dụng bất kỳ loại thùng hàng nào. Có thể dùng thêm vật liệu đệm lót như phân bón hoặc phân ủ đã ngấu với một ít giấy báo vụn và một ít giun.
- Quần thể giun được hình thành chậm bằng thức ăn bổ sung như bã cà phê, túi chè và vỏ chuối, loại thức ăn này giun khá ưa thích. Sau một vài tuần khi quần thể giun đã được hình thành và sinh sản, thì có thể bổ sung nhiều thức ăn hơn kể cả thịt. Nếu như trong thùng nuôi giun quá ẩm ướt thì phải bổ sung thêm giấy báo. Giun ăn cả giấy và chất thải lương thực. Nhiệt độ trong thùng cần giữ ở 4-200C, do đó mùa đông không nên đặt thùng ra ngoài trời hoặc cũng phải tránh những ngày nắng to. Khi quần thể giun quá lớn thì phải chuyển giun sang thùng khác hoặc bổ sung giun vào đống phân ủ. Khi lấy phân ủ, phải đặt thùng ra nơi có ánh sáng, như vậy giun sẽ bò xuống phía dưới, vào chỗ tối và khi đó lấy phân ủ ở phía trên cùng. Hoặc có thể đẩy lượng phân ủ trong thùng sang một bên và cho thêm thức ăn mới và nền được bổ sung vào phần bên cạnh của thùng, giun sẽ bò sang phần nền mới, lúc đó có thể lấy phân ủ ra. Phân ủ bằng giun trong thùng đặt ở bếp hoặc trong lớp học là một phương pháp đáng được quan tâm nhằm tận dụng chất thải hữu cơ mà không phải chôn lấp, song phương pháp này vẫn chưa được áp dụng phổ biến. ở Australia, ước tính có ít nhất là 4% chất thải sinh hoạt được làm phân ủ bằng giun. Phân ủ bằng giun ở quy mô lớn Các hệ thống phân ủ bằng giun ở quy mô thương mại lần đầu tiên được thực hiện ở châu Mỹ từ đầu những năm 1990. Các yếu tố cần được xem xét khi lựa chọn ủ phân bằng giun ở quy mô lớn bao gồm: - Khối lượng và thể loại nguyên liệu có sẵn - Cung cấp tài chính - Quy định pháp lý - Vị trí và quy mô - Điều kiện khí hậu - Đáp ứng về lao động Phân ủ bằng giun theo quy mô này thường gặp khó khăn khi kiểm soát nhiệt độ vì quá trình ủ sẽ sinh ra nhiệt độ cao hơn và thời gian ủ cũng lâu hơn so với các hệ thống ủ ở quy mô nhỏ. Phần lớn các hệ thống ủ ở quy mô thương mại sử dụng cơ giới để lấy phân ủ vào giai đoạn cuối của quá trình ủ phân. Có nhiều phương pháp khác nhau được áp dụng ở quy mô thương mại, chẳng hạn, một trong những phương pháp ủ phân ở Yelm thuộc Oashington, Hoa Kỳ đã sử dụng 15 tấn giun đỏ trong quá trình ủ phân và dùng nhiều loại thức ăn cho giun như phân gia súc, vỏ bào, giấy bìa và chất thải lương thực.
- Kết luận Sử dụng những tập tính tự nhiên của giun để biến các chất thải hữu cơ thành phân ủ mang lại nhiều lợi ích. Kết quả là: giảm được khối lượng chất thải đáng lẽ cơ quan chính quyền địa phương phải thu gom mang đi chôn lấp, tiết kiệm tiền của và giảm những tác động về vận chuyển. ủ phân bằng giun cũng làm thay đổi thành phần chất thải, giảm khả năng gây ô nhiễm. Phân ủ bằng giun tốt và chứa nhiều chất dinh dưỡng hơn so với phân ủ truyền thống. Tuy nhiên, quy trình sản xuất phân ủ nhạy cảm hơn phân ủ thông thường và cần phải rất chú ý, nhất là khi sản xuất ở quy mô lớn. Phân ủ bằng giun ở quy mô gia đình rất giàu dinh dưỡng, vì vậy khi sử dụng riêng để bón cây cần phải trộn thêm với đất và các vật liệu khác, do đó kết hợp lý tưởng là phải có một đống phân ủ thông thường cho các chất thải vườn tược và đống phân ủ bằng giun dùng cho các chất thải gia đình. Nguồn: Warmer Bulletin, 1/2004. Nghiên cứu tái chế bóng đèn huỳnh quang ở Anh Hiện nay ở Anh, hàng năm có khoảng 100 triệu bóng đèn tuýp huỳnh quang phế thải và đại đại đa số người sử dụng không có giải pháp nào hơn các thông lệ truyền thống là vứt bỏ rồi đưa ra bãi thải. Tuy nhiên, báo cáo nghiên cứu của Chương trình hành động về chất thải và tài nguyên (WRAP) cho biết, bóng đèn thuỷ tinh thu hồi được đưa về nhà máy để tái chế thành các bóng đèn tuýp và bóng đèn tròn mới. British Glass, nhà sản xuất bóng đèn tuýp và bóng điện tròn lớn nhất của Anh tiến hành công trình nghiên cứu “Xây dựng phương pháp luận tái chế thuỷ tinh làm bóng đèn điện, khắc phục những rào cản kỹ thuật và thực tiễn trong tái chế”, phối hợp với Công ty TNHH tái chế Mercury chuyên tái chế thuỷ ngân làm đèn điện và SLI. Mục đích của công trình nghiên cứu này là giải quyết khó khăn chủ yếu hiện nay làm cản trở các nhà sản xuất bóng đèn điện là sử dụng thuỷ tinh tái chế, chưa đảm bảo an toàn về nồng độ hoá chất và tác động môi trường của bất kỳ chất ô nhiễm nào còn sót lại trong sản phẩm. Trong khi thuỷ tinh có thành phần chủ yếu theo trọng lượng, thì hàm lượng thuỷ ngân và các lớp phủ phức chất của bóng đèn gây ra nan giải truyền thống về tái chế cũng như gây nguy hiểm môi trường khi thải ra bãi thải. Giải quyết được những nan giải này thì có thể thu hồi và tái chế trong tương lai khoảng 20000 tấn thuỷ tinh. Kế hoạch nghiên cứu đã thành công đã chứng tỏ rằng bóng đèn thuỷ tinh đã hết hạn sử dụng được thu hồi, có thể nấu lại không gây hậu quả tiêu cực. Quy trình của Công ty tái chế Mercury có thể loại bỏ an toàn gần 100% thuỷ ngân và sử dụng thuỷ
- tinh để tái chế, nhà sản xuất bóng đèn thuỷ tinh có thể thu được những lợi ích về môi trường; giảm được các yêu cầu nhiên liệu và các phát tán CO2. Kế hoạch còn đáp ứng các yêu cầu sắp tới của bản Chỉ thị về chất thải thiết bị điện và điện tử (WEEE) vì Anh phải thực hiện đầy đủ Chỉ thị này vào năm 2006. Ước tính chất thải thiết bị điện và điện tử chiếm khoảng 4% trong các chất thải đô thị và là một trong các dạng chất thải đang tăng nhanh nhất. Để giải quyết vấn đề này, Chỉ thị WEEE buộc nhà sản xuất phải có trách nhiệm và sẽ yêu cầu các Công ty phải thu hồi và tái chế các sản phẩm của họ. Rào cản chủ yếu đối với tái sử dụng các bóng đèn thuỷ tinh được thu hồi không phải tập trung vào hàm lượng thuỷ ngân mà vào hàm lượng chì khi vận hành lò nung và các phát tán chì vào không khí. Tuy nhiên, đã có các phương pháp khắc phục những vấn đề nan giải này. Nguồn: Warmer Bulletin, 19/2004 Nhật Bản đang thử nghiệm pin nhiên liệu hyđro không gây ô nhiễm Một Công ty của Nhật Bản có ý định kiểm tra hệ thống thử nghiệm sử dụng điện - hyđrô để cung cấp nguồn điện cho các phương tiện giao thông không gây ô nhiễm, ưu việt hơn dùng nhiên liệu hóa thạch. Công ty Môtô Honda cho biết cuộc thử nghiệm đối với phương tiện chạy bằng pin nhiên liệu FCX sẽ bắt đầu vào cuối tháng 4 ở đảo Yakushima, Nam Nhật Bản, đây là một nội dung của dự án “không có phát thải”. Các nhà sản xuất ô tô trên thế giới đang cạnh tranh dành vị trí đứng đầu trong phát triển pin nhiên liệu, mà sản phẩm chủ yếu của các loại xe cộ thân thiện với môi trường là nước. Nhưng các phương pháp sản xuất pin nhiên liệu hydro cũ lại dựa vào nhiên liệu hóa thạch gồm dầu lửa và khí thiên nhiên, đã tạo ra CO2 trong quá trình sản xuất - những chất này đã góp phần làm nóng lên toàn cầu. Theo dự án mới, hyđrô được sản xuất thông qua quá trình điện phân nước bằng cách dùng điện phát ra từ các nhà máy điện ở trên các đảo nhỏ, nơi có điều kiện lý tưởng do các dòng chảy từ những dốc núi xuống, nằm ở phía Đông Nam cách Kyoto khoảng 1000 km . Khí tạo ra được tích trữ ở “trạm chứa hyđrô” và cung cấp cho xe cộ sử dụng nhiên liệu FCX để chuẩn bị cho thử nghiệm xe chạy trên đường ở Yakushima bắt đầu vào cuối tháng 4. Dự án này đang được triển khai bởi tập đoàn của các viện trường kết hợp, đứng đầu là Phòng thí nghiệm của hãng Honda, Trường đại học Kogoshima và Công ty Yakushima Denko. Hãng Honda cho biết loại xe ô tô chạy bằng pin nhiên liệu FCX sử dụng ắc quy kiểu vách ngăn FC của hãng Honda được giới thiệu vào tháng 10/2003 có thể khởi
- động được ở nhiệt độ âm 200C, một bình nhiên liệu của một ô tô trước đây chạy được 355km, thì nay đã tăng lên 395km/bình và tiết kiệm nhiên liệu được 10%. Trong năm 2002, hai đối thủ ở Nhật Bản là hãng Honda và hãng mô tô Toyota trở thành những nhà sản xuất ô tô đầu tiên trên thế giới bắt đầu cho thuê loại ô tô chạy bằng pin nhiên liệu phát điện bằng oxy và khí hyđrô điều áp. Chi phí cho sản xuất cao, thiếu cơ sở hạ tầng để bơm hyđrô vẫn là những trở ngại để thể hiện rõ lợi ích của xe chạy bằng loại nhiên liệu này trước khi các công ty thu hút được những khách hàng. Nguồn: AFP, 4/2004 Khan hiếm nước, vấn đề khử mặn và ô nhiễm Tình trạng thiếu nước trầm trọng do gia tăng dân số, đô thị hóa và chất lượng cuộc sống trên thế giới ngày càng cao hơn đã khiến nhiều quốc gia (nhất là các vùng khô hạn và bán khô hạn) phải chấp nhận các công nghệ khử mặn, trước hết là để đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt. Ngành công nghiệp khử nước mặn đã trở thành một ngành thương mại từ những năm 1950 và 1960. Do giảm được nhiều về giá thành và tăng hiệu quả, đặc biệt trong những năm 1970, công việc khử mặn đã trở thành một chiến lược và là nguồn cung cấp nước đáng tin cậy để đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt. Hiện nay, có hơn 13.600 nhà máy khử mặn các loại khác nhau ở hơn 120 nước thuộc các khu vực Trung Đông, châu Âu, Địa Trung Hải, cũng như Bắc Mỹ và Caribe. Công suất khử mặn trên thế giới đạt gần 9,6 tỷ m3, trong đó các nước thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng vịnh (GCC) như ả Rập , Cô oét, Tiểu Vương quốc ả Rập thồng nhất, Bahrain, Qatar và Oman chiếm 47% tổng công suất. Các nhà máy khử mặn thải ra các khí, nước muối nóng, các hóa chất xử lý và các nguyên tố vi lượng gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Những tác động tiêu cực của quá trình khử mặn đối với sức khỏe và môi trường cho đến nay đã được hạn chế. Hơn nữa, về lâu dài thì công suất khử mặn sẽ tăng lên, vì vậy hiệu quả tiềm năng của các nhà máy khử mặn ở cả vùng ven biển lẫn trong đất liền cần phải được chú ý. Cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất nước khử mặn Các quốc gia thuộc GCC là một ví dụ điển hình về đô thị hóa nhanh và gia tăng dân số đã làm tăng mạnh nhu cầu nước sinh họat. Tỷ lệ gia tăng dân số trung bình của khu vực (hơn 3,4%) đã làm cho dân số tăng từ 14 triệu năm 1970 lên gần 30 triệu dân năm 2000. Nhu cầu nước sinh hoạt tăng từ 2,6 tỷ m3 lên gần 4 tỷ m3 trong giai đoạn 1990-2000. Nhu cầu này sẽ tăng lên tới 10,4 tỷ m3 vào năm 2030. Trong hơn 30 năm qua các nước thuộc GCC đã tiến hành xây dựng và mở rộng các nhà máy khử mặn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên. Hiện nay, có 6 quốc gia đã xây dựng được 36 nhà máy lớn để khử mặn nước biển và nước lợ: 21 nhà máy nằm trên bờ biển Đỏ và 15 trên vùng vịnh. Sản lượng chung của các nhà máy khử mặn ở các quốc gia thuộc GCC tăng từ 1,5 tỷ m3 trong năm 1990 lên 2,7 tỷ m3 năm 2000,
- do các nhà máy đã được bổ sung và mở rộng. Năm 2001 chỉ riêng công suất của một nhà máy ở ả Rập Saudi đã đạt hơn 1 tỷ m3, đây là nhà máy khử mặn lớn nhất thế giới. Hơn 85% các nhà máy khử mặn thuộc GCC sử dụng các hệ thống chưng cất nhanh nhiều tầng (MSF). Các hệ thống này có hai tác dụng, vừa có thể sản xuất nước và điện. Phần lớn các nhà máy còn lại dựa trên công nghệ thẩm thấu ngược (RO) sử dụng các màng lọc. Cả hai dạng quy trình này đều cần năng lượng để tạo hơi nước, nước nóng và vận hành các máy bơm. RO cần khoảng 1,4-5,5 KWh/m3, phụ thuộc vào độ mặn của nước cấp. Các nhà máy MSF cần khoảng 3,5-6 KWh/m3 để chạy các máy bơm và 16-32 KWh/m3 để làm nóng nước, phụ thuộc vào hệ số tính toán và tỷ số hiệu suất. Phần lớn các các nhà máy MSF trong GCC được sử dụng để sản xuất điện năng và nước. Tổng công suất điện năng xuất khẩu hàng năm (nghĩa là năng lượng sản xuất ra cao hơn và vượt các yêu cầu của nhà máy) của các nhà máy MSF ở ả Rập Saudi đạt khoảng 21,86 triệu MWh trong năm 2000, khoảng 20% tổng lượng điện sản xuất của nước Anh. Giá thành của khử mặn nước biển ở ả Rập Saudi vào khoảng 0,7 USD/m3 đối với các nhà máy MSF hai tác dụng, nếu như năng lượng đã sử dụng theo giá mua trên thế giới. Chi phí khử mặn nước biển thực tế nhiều hơn của một nhà máy có công suất trung bình cũng sản xuất điện năng vào khoảng 0,9 USD/m3. Chi phí khử mặn nước sử dụng RO và nước lợ ở các nước GCC vào khoảng từ 0,3 đến 0,85 USD/m3 phụ thuộc vào độ mặn của nước cấp và khối lượng sản xuất nước. Chi phí này chưa tính đến năng lượng tăng thêm để bơm nước khử mặn vào các thành phố trong đất liền. Năm 1978, chi phí khử mặn ở ả Rập Saudi là khoảng 3 USD/m3. Chi phí này sẽ giảm xuống nếu cải tiến tiêu thụ và hiệu quả năng lượng trong vận hành và các công nghệ màng. Những tác động của các nhà máy khử mặn + ảnh hưởng của sử dụng năng lượng tới chất lượng không khí Nhiều nhà máy khử mặn sử dụng dầu làm nhiên liệu, một số sử dụng dầu thô và một số nhà máy dùng khí thiên nhiên. Hàm lượng lưu huỳnh trong dầu thô là 2,9% theo trọng lượng, còn dùng dầu làm nhiên liệu thì hàm lượng lưu huỳnh là 1,7 – 3,7% theo trọng lượng. Những chất ô nhiễm chủ yếu đầu tiên phát tán là sunfua dioxit (SO2), oxit nitơ (NOx), cacbon monoxit (CO) và các hạt (PM). Các phát tán khác là các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOC) và ozon. Những tác hại về sức khỏe do tiếp xúc nhiều và tái diễn các chất ô nhiễm không khí đã được thông tin rộng rãi. Đó là các bệnh hô hấp mãn tính kích thích mắt và cổ họng. Các mức SO2 cao làm trầm trọng thêm các bệnh mãn tính như bệnh hen suyễn: liều lượng cao từ 5000 đến 13000 microgam/m3 có thể gây ra bệnh phổi. Các hạt mịn làm tăng tỷ lệ tử vong và các bệnh hen xuyễn ở trẻ em và người lớn, đồng thời dễ có khả năng bị ung thư. Các mức ôzôn cao rất nguy hại cho con người và cây trồng. Một số thành phần của các hợp chất VOC gây ngộ độc cao và gây bệnh ung thư.
- Ước tính rằng các nồi hơi của 3 nhà máy khử mặn lớn mỗi năm sử dụng tới 3 triệu tấn dầu nhiên liệu nhóm 6 và từ ống khói của 3 nhà máy này hàng năm phát tán 5161 tấn hạt mịn, 107.472 tấn SO2 và 18.174 tấn NOx. Một nghiên cứu cho biết rằng các mức SO2 của một nhà máy khử mặn tạo ra vượt quá các giới hạn cho phép, khi sản lượng điện trong những thời kỳ ngắn hàng năm đạt tới 3600 MW. Do sản xuất điện trong thời gian dài sẽ tăng lên, vì vậy cần phải chuyển đổi nhiên liệu sử dụng từ dầu sang khí thiên nhiên để giảm các mức phát tán đủ để ngoại trừ những nguy hại lâu dài đối với sức khỏe và môi trường. Do đó các nước GCC đã bắt đầu thực hiện các kế hoạch thay đổi nhiên liệu. + Những ảnh hưởng đối với môi trường biển Nguồn tài nguyên biển ở gần khu vực nhà máy khử mặn đều bị ảnh hưởng do độ mặn, nhiệt độ, các dinh dưỡng và các kim loại như đồng, niken, sắt, crôm và kẽm tăng lên. Nhiệt độ nước gần các cửa cống xả của nhà máy khử mặn đo được cao hơn khoảng 5-60C so với môi trường xung quanh. Vào mùa đông nhiệt độ tăng sẽ kích thích họat động sinh học, còn về mùa hạ họat động sinh học lại giảm đáng kể. Cần phải tiến hành nghiên cứu mô phỏng chi tiết bằng các mô hình thủy động học thích hợp để dự báo về tăng nhiệt độ và độ mặn. Nồng độ muối cao của nước thải và những dao động của độ mặn có thể làm chết các sinh vật gần các cửa cống xả của nhà máy. Ngoài ra, nước thải của các nhà máy khử mặn mặn hơn nước biển và có thể lắng xuống đáy gây nguy hiểm tiềm tàng cho các quần xã sinh vật đáy. Có thể giảm đáng kể những ảnh hưởng này nếu như nước thải của nhà máy khử mặn được hoà với nước thải được làm mát (hoặc dùng nước thải của nhà máy xử lý nước thải) thì độ mặn thấp hơn độ mặn nước biển. Nước mặn thải từ các nhà máy khử mặn chứa một lượng nhỏ đồng, niken và mangan do các kim loại bị ăn mòn từ ống dẫn, thùng nước và các buồng chưng cất. Các kim loại tập trung ở lớp cao hơn vài milimét trên mặt biển (một lớp rất mỏng) có thể rất độc hại đối với trứng cá, phù du và ấu trùng. Các tác động khác dưới đây cũng cần phải tiến hành nghiên cứu thêm : ♦ khử trùng trước nước cấp bằng clo để ngăn chặn ô nhiễm sinh học; ♦ các hóa chất chống ăn mòn phải có các mức oxy thấp hơn các mức oxy của nước nhận vào; ♦ các hóa chất ở giai đoạn tiền xử lý trong nguồn nước cấp như: bioxít, SO2, sắt clorua, các chất điện ly cao phân tử và các chất chống bịt kín như: axít polyacrylic, các chất chống tạo bọt và các polyme; ♦ các hóa chất dùng để thông đường ống và làm sạch các màng trong nhà
- máy RO như các hợp chất natri, axit clohyđric, axit xitric, poly photphat kiềm, bioxit, sulphát đồng và acrolein; ♦ các hóa chất dùng để bảo vệ các màng của RO (như propylen, glycol, glyxerin và natri bisulfit); ♦ các kim loại thải ra do nước muối tiếp xúc với các linh kiện của nhà máy và đường ống. Các thiết bị lấy nước vào Nước hút trực tiếp từ biển vào thường làm cho các sinh vật biển bị mất theo hoặc chúng bị giữ lại trên các lưới chắn tại điểm lấy nước vào hoặc chúng bị cuốn vào nhà máy cùng với nước cấp và thường bị chết trong quá trình xử lý trong nhà máy. Một số ít bị thiệt hại khi chúng lọt qua lưới chắn và qua các bộ lọc trong nhà máy. Xử lý nước mặn do các nhà máy RO trong đất liền thải ra Nước mặn của các nhà máy RO trong đất liền cách xa bờ biển xả ra bừa bãi gây ô nhiễm nghiêm trọng nước ngầm ở tầng nông và sâu, góp phần đáng kể tạo ra gương nước nông và dâng cao trong và xung quanh các thành phố và các khu công nghiệp. Vấn đề nan giải này đã xảy ra trong một số khu đô thị và công nghiệp trong đất liền có hàng trăm nhà máy RO hoạt động để sản xuất nước ngọt từ nước ngầm lợ dùng để làm nước uống và phục vụ sản xuất công nghiệp. Những vấn để nan giải này có thể khắc phục được bằng cách xử lý hợp lý nước mặn, bằng giảm khối lượng tới mức tối thiểu. Các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường Về lâu dài công suất khử nước mặn trên thế giới sẽ tăng lên, vì vậy cần phải hết sức quan tâm đến các tác động tiềm tàng và lâu dài của việc khử mặn ở vùng ven biển. Nếu quy hoạch hợp lý thì có thể khắc phục tới mức tối thiểu tác động tiêu cực bằng cách sử dụng khí thiên nhiên làm nhiên liệu và xây dựng các vùng đệm xung quanh các nhà máy. Số lượng và chiều dài các đường ống dẫn nước và các đường dây tải điện dự kiến mở rộng cần phải hạn chế tới mức tối thiểu, đồng thời kích thước của các kết cấu cửa cống lấy nước vào và xả nước ra cũng phải giảm càng nhiều càng tốt. Các hóa chất tác động ít cần được thay thế ở nơi có thể nhằm giảm tới tối thiểu những tác động nguy hại đối với các hệ sinh thái biển. Sử dụng vòi phun nhiều tia và pha loãng nước mặn với nước mát sẽ có hiệu quả để loại bỏ những tác động có hại. Để đánh giá những tác động của các dự án khử mặn tới sức khỏe con người và môi trường, thì việc tiếp cận có hệ thống từng bước cần được tuân thủ để hướng dẫn đánh giá tác động môi trường, như vậy sẽ giúp làm giảm tác động và xác định các biện pháp giảm thiểu. Chẳng hạn, ở Hoa Kỳ các dự án khử mặn phải được xây dựng và vận hành theo khuôn khổ các quy định của đạo luật quản lý vùng ven biển, đạo luật nước sạch và đạo luật chính sách môi trường quốc gia. Kết luận Bằng những tiến bộ khoa học và công nghệ, các quy trình khử mặn đã được chấp
- thuận áp dụng ở hơn 120 nước trên thế giới nhằm khắc phục khoảng cách giữa cung và cầu về nước sinh họat, nhất là ở các vùng khô hạn và bán khô hạn. Hy vọng, trong tương lai gần các chi phí khử mặn sẽ giảm xuống do quá trình hoàn thiện bởi hiệu quả vận hành, các công nghệ màng và tiêu thụ năng lượng. Những tác động tới sức khỏe và môi trường của các nhà máy khử mặn có thể được giảm thiểu bằng quy hoạch hợp lý và sử dụng tiếp cận hệ thống trong việc hướng dẫn đánh giá tác động môi trường. Nguồn: UNEP Industry and Environment, 3/2004 Công nghệ mới chống đóng xỉ buồng đốt lò hơi Các nhà máy nhiệt điện đốt than kiểu cũ ở nước ta như nhà máy nhiệt điện Ninh Bình, Uông Bí, Phả Lại 1,v.v đều bị hiện tượng đóng xỉ tại buồng đốt lò hơi, khiến cho lò hay phải ngừng vận hành, hiệu suất sinh điện thấp, đồng thời gây ô nhiễm môi trường. Giải pháp mới của các kỹ sư Viện Năng lượng đã khắc phục được tình trạng đó. Nhà máy nhiệt điện Ninh Bình có 4 lò hơi do Trung Quốc chế tạo từ đầu những năm 1970. Sau gần 30 năm vận hành, đến nay các lò đều đạt hiệu suất thấp (77-79%), có hiện tượng đóng xỉ xung quanh bộ đốt và tường lò gây sập. Ngoài ra, lò chỉ hoạt động được 30-35 ngày là phải dừng lại 3-4 ngày để làm sạch và khởi động lại. Việc ngừng này làm giảm lượng điện phát lên lưới, vừa tốn kém, vừa gây ô nhiễm môi trường do thải nhiều khí độc NOx. Trước thực trạng này, kỹ sư Nguyễn Tuấn Nghiêm, Phòng Điện Nguyên tử - Nhiệt điện và Môi trường, Viện Năng lượng (Tổng công ty Điện lực Việt Nam), và cộng sự đã nghiên cứu khả năng ứng dụng vòi phun đốt than bột mới trong lò hơi. Công nghệ này có trên thế giới từ lâu, nhưng ở Việt Nam chưa ai thực hiện. Nguyên lý của giải pháp là lợi dụng dòng đặc, dòng loãng để tạo ra một cơ chế cháy hiệu quả (bắt cháy sớm, cháy kiệt) nhưng không đóng xỉ trong lò. Nói cách khác, than và khí được đưa vào đốt theo 2 dòng khác nhau sẽ tạo ra một lớp cách ly với thành lò, khiến xỉ sinh ra không bám vào thành lò mà rơi xuống dưới. Giải pháp được áp dụng cho lò số 4 của Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình từ năm 2000, và đến nay đã chứng tỏ lợi ích rõ rệt, hiệu suất lò đạt bình quân trên 80%, hiện tượng đóng xỉ buồng đốt lò hơi được loại bỏ hoàn toàn, chu kỳ vận hành kéo dài lên đến 4 tháng. Mặt khác, do không phải đốt lại lò thường xuyên nên chi phí khởi động lò hạ xuống, đồng thời giảm được khoảng 30% lượng khí độc NOx. Hiện tại, lò số 3 của nhà máy cũng đã được lắp hệ thống mới và đang chạy hiệu chỉnh. Nhà máy chủ trương sẽ tiếp tục áp dụng giải pháp này với cả 2 lò còn lại. Việc thay đổi công nghệ đòi hỏi phải thay đổi kết cấu cụm vòi đốt. Ước tính, đầu tư cho một lò mất khoảng 1,45 tỷ đồng, nhưng sau khoảng 1 năm là có thể bù lại khoản chi phí này từ việc tiết kiệm than, dầu và nâng cao khả năng sản xuất điện. Toàn bộ các thiết bị thay thế, cũng như các công đoạn lắp đặt, vận hành,v.v đều được chế tạo và thực hiện trong nước. Ngoài ra, với thiết kế mới, có thể lắp đặt hệ thống lấy xỉ bằng cơ giới thay cho việc người công nhân phải trực tiếp cào xỉ thủ công như kiểu cũ. Giải pháp này không chỉ áp dụng cho ngành điện, mà còn có thể áp dụng cho các
- ngành khác có sử dụng lò hơi dạng đốt than phun như Nhà máy Phân đạm Hà Bắc,v.v Tổng công ty Điện lực cũng đang xem xét ứng dụng cho Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí. Công trình của ông Nghiêm và cộng sự đã lọt vào vòng chung kết Giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam 2004. Nguồn: VnExpress, 13/4/2004 Xử lý nước thải bằng phương pháp tuần hoàn tự nhiên Để giảm lượng ô nhiễm môi trường do nước thải gây ra, các quốc gia trong khu vực như: Thái Lan, Trung Quốc, Phi-líp-pin, Nhật Bản đã ứng dụng thành công phương pháp xử lý bằng hệ thống tuần hoàn tự nhiên (NCSWT). Vừa qua, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Môi trường và An toàn Hóa chất (Viện Hóa học Công nghiệp) đã thử nghiệm thành công NCSWT tại Hà Nội, mở ra hướng làm sạch nước sông, hồ đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. NCSWT là hệ thống tuần hoàn tự nhiên để làm giảm các chất ô nhiễm hữu cơ, các hợp chất hữu cơ, hợp chất chứa ni-tơ, phốt-pho, chất rắn lơ lửng, màu và mùi trong nước thải. Nguyên tắc của hệ thống dựa trên hoạt động của các vi sinh vật có sẵn trong tự nhiên nhằm phân hủy các hợp chất hữu cơ. Để tạo điều kiện tốt hơn cho các vi sinh vật này sinh trưởng và phát triển, hệ thống sử dụng nhiều loại vật liệu tự nhiên, được xử lý theo các phương thức khác nhau, tạo nên môi trường sống phù hợp với chức năng phân hủy các chất ô nhiễm có trong nước bẩn. Hệ thống còn có các quá trình làm sạch nước ô nhiễm dựa trên nguyên lý cơ học (lắng, lọc) và quá trình hóa học (ôxi hóa, hấp thụ, hấp phụ). Kết quả là nước ô nhiễm khi chảy lần lượt qua 5 ngăn của hệ thống sẽ được làm sạch với hiệu suất cao. Tại Nhật Bản, hiện có 40 hệ thống NCSWT với quy mô và công suất khác nhau, góp phần rất lớn vào quá trình làm sạch một số sông, hồ nổi tiếng. Năm 2000, với sự giúp đỡ của trường Đại học Tổng hợp Tô-ky-ô, các cán bộ Viện Hóa học Công nghiệp của Việt Nam đã sang Nhật Bản để nghiên cứu và học tập về NCSWT. Sau đó, hệ thống này đã được xây dựng tại phòng thí nghiệm của Viện với vật liệu sẵn có trong nước. Kết quả thu được sau hơn 2 năm nghiên cứu trong phòng thí nghiệm là rất khả quan. Thành phần các chất độc hại, thủ phạm chính gây ô nhiễm nguồn nước như: BOD, COD, coliform,v.v giảm rõ rệt. Tháng 1/2004, với sự hợp tác giữa Viện Hóa học Công nghiệp, Trung tâm Quốc tế Chuyển giao Công nghệ Môi trường và Công ty Toyo Denka (Nhật Bản), hệ thống NCSWT thử nghiệm được lắp đặt tại Cầu Diễn với công suất tối đa là 60 m3/ngày đêm. Theo số liệu phân tích, hiệu quả xử lý trung bình một số chất sau quá trình xử lý tại trạm này như: COD, BOD 5, LAS, coliform, DO, pH gần tương đương với các hệ thống đang vận hành tại Trung Quốc, Thái Lan và Nhật Bản. Chắc chắn hiệu quả trên sẽ tăng lên theo thời gian khi hệ vi sinh vật tăng lên tối đa. Thành công lớn nhất do NCSWT đem lại là chi phí thấp hơn so với một số công nghệ xử lý nước thải đang vận hành. Hệ thống xử lý nước thải tại thành phố Việt Trì (Phú Thọ), Công ty Bánh kẹo Tràng An, Khu Công nghiệp Biên Hòa II,v.v đều có giá thành trên 4000 đồng/m3.
- Trong khi đó, với NCSWT, nếu được xây dựng quy mô tương tự các cơ sở trên, giá thành chỉ vào khoảng 1200-1400 đồng/m3 và vẫn cho chất lượng nước sau xử lý đạt loại A Quá trình áp dụng trong khu vực cho thấy, NCSWT có ưu điểm là được làm từ các vật liệu rẻ tiền, dễ kiếm như: than củi, vỏ chai nhựa đã qua sử dụng, đá vôi,v.v Dòng nước thải chảy trong hệ thống theo nguyên lý tự chảy, mức độ tiếp xúc giữa nước thải với vi sinh vật, các môi trường khử chất bẩn lớn, do đó hiệu quả xử lý của hệ thống luôn ổn định, hiệu suất và cường độ phân hủy các chất ô nhiễm trong nước thải đạt rất cao. NCSWT không sử dụng hóa chất trong quá trình xử lý. Quá trình vận hành hệ thống khá đơn giản và giảm chi phí xử lý (chủ yếu là năng lượng cho quá trình thổi khí). Thời gian thay vật liệu xử lý khá lâu, khoảng 10-15 năm. Từ kết quả thử nghiệm thành công, nhóm các nhà khoa học đã đề xuất phương án áp dụng NCSWT làm sạch nước sông, hồ bị ô nhiễm tại Hà Nội. Trước mắt, Trung tâm Môi trường và An toàn Hóa chất đề xuất 3 phương án xử lý nhằm cải thiện chất lượng nước sông Tô Lịch vốn đang bị ô nhiễm trầm trọng. Hiện nay, tổng lượng nước thải sinh hoạt của Hà Nội xấp xỉ 500.000 m3/ngày đêm, nước thải trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ khoảng từ 250.000-300.000 m3/ngày đêm. Cho đến nay, có 36 xí nghiệp, nhà máy, 25 cơ sở dịch vụ lớn và 5 bệnh viện đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải. Lượng nước thải được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường chiếm tỉ lệ rất nhỏ, khoảng 5% tổng lượng nước thải của thành phố. (Theo tham luận của UBND thành phố Hà Nội tại Hội nghị Bảo vệ Môi trường Lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy năm 2003) Nguồn: Hà Nội Mới, 3/5/2004 Rửa xe ô tô thân thiện với môi trường Một nghiên cứu mới đây của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Đan Mạch cho thấy trong cùng thời gian, dùng thiết bị mới để rửa xe ô tô có thể làm giảm lượng nước thải xả từ các trạm rửa xe tới 90% so với mức nước thải xả từ trạm rửa xe truyền thống. Ngoài ra, thiết bị rửa xe này còn khử được các kim loại nặng, dầu có trong nước thải. Kể từ năm 1999, các nhân viên của ngành công nghiệp rửa xe Đan Mạch đã góp phần làm giảm áp lực môi trường do rửa xe gây ra. Các tác động môi trường do rửa xe: Hiện nay, ở Đan Mạch, số lần rửa ô tô khoảng 1.030, trung bình mỗi lần rửa là 10.000 ô tô/ năm. Như vậy, tổng số xe được rửa bằng thiết bị này là xấp xỉ 10,3 triệu xe mỗi năm. Rửa xe ô tô theo kiểu truyền thống mỗi xe xả khoảng 140 lít nước thải. Nước thải chứa một số kim loại nặng và các chất hỗn hợp, nhất là các chất tẩy rửa, phtalat, các dư lượng dầu và silic. Đó là các chất thực sự không được đón nhận trong nhà máy xử lý nước thải đô thị và môi trường thủy sinh. Các tác động môi trường do rửa xe được nghiên cứu trong dự án “thiết bị rửa xe – hiện trạng và chiến lược”, dự án đã đưa ra một số đề xuất quy định về nước thải rửa xe trong thành phố. Ngoài ra, dự án còn đề xuất các giải pháp công nghệ sạch hơn có thể
- làm giảm các tác động môi trường của việc rửa xe. Dự án mới đã chú trọng vào ba hoạt động chủ yếu: thay thế các chất trong các hóa chất rửa xe gây nguy hại cho môi trường, thử nghiệm thiết bị xử lý, và nghiên cứu tác động của nước thải do rửa xe thủ công. Khoảng 35% số xe của cá nhân ở Đan Mạch được rửa theo kiểu thủ công. Nguồn: warmer, 5/2004 Nhật Bản biến chất thải xây dựng thành nhiên liệu sinh học Năm công ty bao gồm cả Tổng công ty đấu thầu Taisei và Công ty kinh doanh nhà Marubeni sẽ tham gia vào công việc kinh doanh mới nhằm chiết xuất nhiên liệu cho xe ô tô từ các vật liệu bằng gỗ đã bị loại bỏ trong xây dung Tạp chí Asia Online cho biết các công ty này sẽ cùng thành lập một công ty mới vào tháng 4/2004 với số vốn là 100 triệu yên (960 836 USD) dự kiến bắt đầu việc sản xuất ethanol với số lượng lớn dùng cho xe ô tô vào năm tài chính 2007. Việc sử dụng nhiên liệu sinh khối được xem là phương pháp hiệu quả để giảm thiểu các khí nhà kính. Công ty mới sẽ dự định tự củng cố công việc kinh doanh môi trường mới, hướng tới xây dựng cơ sở hạ tầng về nhiên liệu sinh học theo hướng của chính phủ và cho ngành công nghiệp ô tô. Các công ty khác cùng tham gia là: Công ty trách nhiệm hữu hạn Sapporo Brewerie, Công ty xử lý chất thải xây dựng Daiei Inter Nature System và Công ty sản xuất vật liệu xây dựng Tokyo Board Industries. Các công ty sẽ tiêu tốn hơn 3 tỷ yên cho việc xây dựng nhà máy sản xuất ethanol ở quận Osaka. Bắt đầu vào năm tài chính 2007, nhà máy sẽ xử lý 30.000 tấn vật liệu gỗ bỏ đi mỗi năm để tạo ra 3.700 nghìn lít ethanol sẽ được cung cấp cho 100 trạm khí trong vòng một năm. Ethanol sẽ được vận chuyển với giá khoảng 50 yên mỗi lít và vào năm đầu tiên công ty đặt ra mục tiêu đạt doanh thu 500 triệu yên. Để sản xuất ethanol đạt hơn 90% tinh khiết, thì vật liệu gỗ sẽ được phân hủy nhờ axít và sau đó được lên men. Công nghệ này dựa vào các kỹ thuật chiết suất do công ty Marubeni nhập từ Hoa Kỳ và công ty Sapporo Breweries sẽ trang bị cho kiến thức chuyên môn về lên men. Trong khi đó, công ty Taisei và công ty Daiei sẽ cung cấp vật liệu gỗ bỏ đi. Nguồn: Warmer, 5/2004. Xử lý chất thải ở Thái Lan Theo Liên đoàn công nghiệp Thái Lan (FTI), thì việc kinh doanh xử lý chất thải ở Thái Lan đang bắt đầu phát triển đáp ứng những mối quan tâm ngày càng nhiều về nhu cầu cải tiến việc xử lý chất thải độc hại nhằm đáp ứng điều kiện cần thiết của các đối tác thương mại quốc tế.
- Hiện nay, Thái Lan có hơn 120.000 nhà máy đang hoạt động, trong đó chỉ có một nửa số nhà máy được báo cáo có đủ điều kiện xử lý chất thải. Cuối năm 2003, Cục các công trình công nghiệp đã hướng dẫn các chủ nhà máy phải ghi rõ cách thức xử lý chất thải độc hại và chất thải thông thường. Nhóm công nghiệp xử lý chất thải (WTIG) gồm 30 thành viên thuộc FTI đang khuyến khích các nhà máy phải đáp ứng những nguyên tắc xử lý cục bộ và các quy định quốc tế, đặc biệt những quy định do Liên minh châu Âu đề ra được tập trung vào các biện pháp xử lý thích hợp đối với chất thải điện và điện tử. Cơ quan kiểm soát ô nhiễm (PCD) Thái Lan cho biết: các ngành công nghiệp địa phương đã phát thải 1,4 triệu tấn chất thải độc hại trong năm 2002, tăng từ 1,3 triệu tấn so với năm trước. Năm 2003 khối lượng này tăng tới 1,5 triệu tấn. PCD đã công bố chỉ có 10% chất thải độc hại được xử lý và có ít nhà máy đầu tư vào các thiết bị xử lý thích hợp. WTIG tin tưởng vào những tiến bộ tương lai trong công tác xử lý chất thải, IWD đã phê chuẩn cho12 công ty xử lý chất thải công nghiệp năm 2002, năm 2003 phê chuẩn thêm 10 công ty . Các công ty này đã đề nghị Bộ Khoa học Công nghệ Thái lan đầu tư xây dựng Trung tâm nghiên cứu và xử lý chất thải điện và điện tử. Trung tâm này sẽ có sự hỗ trợ về kỹ thuật của Đức, Trung tâm sẽ đào tạo các nhà sản xuất xử lý chất thải điện và điện tử. Nhóm công nghiệp xử lý chất thải kết hợp với Cục các công trình công nghiệp phân chia các nhà máy theo khả năng xử lý chất thải của họ. Nguồn: Bangkokpost, 2/ 2004. Xe máy chạy gas tiết kiệm nhiên liệu và bảo vệ môi trường Công nghệ chuyển đổi xe gắn máy sử dụng xăng sang sử dụng khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG), do PGS.TSKH Bùi Văn Ga, Hiệu trưởng Trường cao đẳng công nghệ Ðà Nẵng kiêm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bảo vệ môi trường làm chủ nhiệm đề tài đất có kết quả thành công đáng chú ý. Bằng cách chế tạo thêm các phụ kiện hệ thống sử dụng nhiên liệu gas gồm bình chứa gas, van tiết lưu, bộ chế hòa khí, bộ phận tải, bộ phận điều khiển gas nhưng không làm thay đổi mẫu mã, kết cấu của xe. Chiếc xe gắn máy bình thường chạy bằng xăng đã được chuyển sang chạy hoàn toàn bằng gas. Tuy nhiên, để thuận tiện cho người sử dụng, hệ thống sử dụng nhiên liệu xăng vẫn được giữ nguyên để người sử dụng có thể chuyển đổi qua lại giữa việc dùng xăng hoặc gas một cách dễ dàng. Qua thời gian sử dụng cho thấy kết quả tiêu hao nhiên liệu trung bình khoảng một kg gas/100km, tiết kiệm được 50% so với sử dụng nhiên liệu xăng hiện nay. Hơn nữa, trên thực tế do nhiên liệu gas ở thể khí cho nên không bị ngưng tụ trên gương mặt xi- lanh, phần đỉnh xi-lanh không bị mòn nhanh như khi xe chạy bằng xăng. Chỉ số Octane của gas cao hơn xăng cho nên không có nguy cơ kích nổ gây quá nhiệt của các chi tiết trong buồng máy, tuổi thọ của động cơ sẽ kéo dài hơn so với chạy bằng xăng. Nhưng điều đáng quan tâm hơn là tiết kiệm được một lượng lớn xăng dầu dùng cho xe gắn máy trong cả nước và hiện nay giá xăng dầu đang tăng. Hơn nữa là góp phần giảm mức độ ô nhiễm môi trường đang ngày càng trầm trọng.
- Qua phân tích khí ở các chế độ khác nhau, cho thấy nồng độ các chất ô nhiễm của xe gắn máy khi chạy bằng gas đều giảm so với chạy bằng xăng. Mức độ giảm có thể đạt từ 30 đến 80%, tải càng lớn thì mức độ giảm ô nhiễm của động cơ chạy bằng gas càng tăng. Khi tăng tốc độ, nồng độ CO trong khí xả khi dùng gas giảm nhanh chóng, trong khi đó nồng độ của nó trong khí xả khi dùng xăng lại tăng. Về tính an toàn, bình gas còn có van an toàn tác động ở 18 atm nên việc cháy nổ bình gas không thể xảy ra được. Bình chứa gas được làm bằng thép cho nên không sợ bị nổ, vỡ khi va chạm. Ở nước ta, phương tiện đi lại chủ yếu của người dân vẫn là xe gắn máy hai bánh. Ðể đưa giải pháp này ra áp dụng rộng rãi trong xã hội, tác giả đề tài cho biết: Cuối năm 2001, Trung tâm nghiên cứu bảo vệ môi trường Ðại học Ðà Nẵng đã ký hợp đồng triển khai ứng dụng LPG trên xe gắn máy hai bánh với Công ty TNHH Hải Thành, một đơn vị chuyên sản xuất cơ khí và bình gas dân dụng lớn ở TP Hồ Chí Minh, dựa trên cơ sở đề án xây dựng hệ thống cung cấp gas cho xe gắn máy có quy mô trên toàn quốc của Viện dầu khí thuộc Tổng công ty dầu khí Việt Nam. Công ty này sẽ chế tạo bình gas đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế đối với bình gas trên mô-tô. Bình gas cũng được nghiên cứu theo hướng có thể thay thế khi hết gas, sẽ thuận tiện cho người sử dụng hơn so với bình gas gắn cố định trên xe. Nhà máy cơ khí ô-tô Ðà Nẵng sẵn sàng hợp tác Ban chủ nhiệm đề tài. Trước đây đã có kế hoạch sản xuất thử 100 bộ phụ kiện LPG cho xe gắn máy. Nhưng vì nhà máy chưa có dây chuyền sản xuất bình gas hàng loạt và điều quan trọng là ở nước ta chưa có hệ thống các trạm bơm gas cho xe gắn máy. Vấn đề còn lại là các doanh nghiệp nhanh chóng thực hiện đề án xây dựng mạng lưới các trạm bán gas cho xe gắn máy ở các thành phố lớn. Mặt khác, là vận động nhân dân thay đổi thói quen sử dụng với mục đích tiết kiệm xăng và góp phần bảo vệ môi trường đang ngày càng bị ô nhiễm ở nước ta. Nguồn: Nhân dân, 12/7/2004
- Tiêu hủy chất thải nguy hại bằng lò nung xi măng Chất thải nguy hại như dầu thải, sơn, thuốc trừ sâu lâu nay vẫn làm đau đầu các nhà khoa học bởi chúng cực kỳ độc hại và rất khó xử lý. Mới đây, nhà máy xi măng Holcim (Kiên Giang) đã tận dụng nhiệt rất cao trong lò nung xi măng để thiêu hủy triệt để các chất này. Những chất thải có thể đốt trong lò nung xi măng: - Dung môi hữu cơ, dầu thải chứa PCB - Sơn, keo dán, vecni - Plastic, PVC, lốp xe thải - Thuốc trừ sâu có nguồn gốc hữu cơ - Bùn xưởng in, dầu axit, chất lỏng kiềm - Đất nhiễm bẩn - Tro công nghiệp, xỉ - Bùn cặn sau xử lý nước thải Công nghệ chỉ áp dụng với những lò nung xi măng kiểu quay hiện đại - loại có lắp đặt hệ thống thiết bị thiêu đốt chất thải. Nguyên lý hoạt động như sau: Chất thải nguy hại tập kết đến nhà máy được tiền xử lý (ví dụ lốp cao su, nhựa được băm nhỏ), phối trộn theo tỷ lệ thích hợp với nguyên liệu xi măng, rồi đưa vào buồng đốt. Tại béc đốt (lò nung chảy), nhiệt độ lên đến 1.400 đến 2.0000C, đủ để phá hủy hoàn toàn cấu trúc bền vững của chất thải độc hại. Lò nung cũng tận dụng nhiệt năng từ các chất thải hữu cơ để thay thế, tiết kiệm một phần nhiên liệu. Cặn bã còn lại của chất thải sau khi thiêu đốt là CaO, SiO2, Al2O3, Fe2O3 thì trở thành nguyên liệu cho xi măng. Theo PGS Nguyễn Văn Lâm, Phó giám đốc Trung tâm tư vấn công nghệ môi trường, thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật VN, do loại lò này có thời gian lưu cháy lâu (từ 6 đến 10 giây) nên các chất thải độc hại sẽ bị phân hủy triệt để hơn nhiều so với trong các lò thiêu bình thường (chỉ có thời gian lưu 2 giây). Khí thải có tính axit từ lò nung được được tuần hoàn trở lại buồng nguyên liệu. Do tính kiềm của các nguyên liệu tại đây, nên khí thải sẽ được trung hòa và phần lớn được làm sạch. Cũng do quá trình tương tác này, nhiệt của dòng khí thải lạnh đi đáng kể, ngăn chặn tối đa sự tạo ra các chất độc hại dioxin, furan Thử nghiệm đốt 40 tấn thuốc bảo vệ thực vật tại Công ty xi măng Holcim, Kiên Giang hồi tháng 10/2003 cho hiệu suất gần 100%, chất lượng xi măng không bị ảnh hưởng. Cũng theo ông Lâm, việc lắp đặt hệ thống xử lý chất thải tuy có thể tốn kém ban đầu, nhưng bù lại rất nhanh thu hồi vốn, do có thể tiết kiệm đến 20-25% nhiên liệu
- và 5-10% nguyên liệu. Nó cũng hạn chế gần như hoàn toàn việc gây ô nhiễm môi trường. Thêm nữa, nhà máy xi măng có thể thu phí đốt từ những cơ sở có rác thải cần thiêu đốt. Công nghệ trên hiện đã được áp dụng tại 70 nước, trong đó có Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Tây Ban Nha, Thụy Điển Tại Việt Nam, Cục Bảo vệ Môi trường kết hợp với Dự án môi trường Việt Nam - Canada (VCEP) đang phối hợp thực hiện dự án thí điểm tại công ty Holcim. Cục đang xem xét áp dụng công nghệ này cho một số nhà máy xi măng khác là Nghi Sơn (Thanh Hoá) và Chinfon (Hải Phòng). Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nay mỗi năm các ngành kinh tế nước ta thải ra khoảng hơn 113.000 chất thải rắn nguy hại, song lại chưa có cơ sở nào xử lý tập trung. Những cơ sở sản xuất đơn lẻ thường không đủ kinh phí để tự đầu tư hệ thống xử lý. Nhiều cơ sở phải tồn kho hoặc chôn lấp. Cả hai dạng này đều gây ô nhiễm nặng nề và cần được xử lý ngay. Các chuyên gia của Bộ nhận định nhờ hiệu suất phá hủy chất độc và hiệu quả làm sạch khí thải rất cao, nên lò nung xi măng kiểu quay có thể là giải pháp lý tưởng trong việc xử lý các loại chất thải này. Nguồn: vnexpress.net, 9/6/2004. Tấm lợp không có A-mi-ăng Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sản phẩm tấm lợp A-mi-ăng + xi măng (AC) được phát hiện có nhiều tác hại đến sức khỏe con người nên dần bị cấm sử dụng, trong đó, A-mi-ăng màu xanh được khẳng định chắc chắn là nguồn gây bệnh ung thư và đã bị cấm sản xuất từ đầu những năm 90. Ở nước ta, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 115/2001/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng (VLXD) Việt Nam đến 2010”, trong đó nêu rõ từ năm 2004 không được sử dụng vật liệu A-mi-ăng trong sản xuất tấm lợp,v.v . Thực hiện Quyết định này, Bộ Xây dựng giao cho Viện VLXD nghiên cứu sử dụng các loại sợi khác trong sản xuất tấm lợp không có A-mi-ăng, làm cơ sở cho việc chế tạo các cấu kiện nhẹ như tấm lợp, tấm trần, tấm tường, góp phần đa dạng hóa sản phẩm VLXD trong những năm tới. Trên cơ sở khảo sát công nghệ nước ngoài, Viện VLXD đã nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất tấm lợp sử dụng sợi polyvinylalcol (PVA) thay thế A-mi-ăng. PVA được chọn vì có độ phân cực lớn, tạo tính tương thích với các sản phẩm thủy hóa xi măng, dễ dàng phân tán trong hồ liệu, bám dính tốt với đá xi măng. Sợi PVA có cường độ chịu kéo và mô đun đàn hồi cao, bền trong môi trường a-xít, kiềm và ánh sáng, không gây độc tính về mặt hóa học đối với con người. Về mặt cơ học, nó có đường kính lớn, không bị “sợi hóa” dưới tác dụng cơ học nên không gây ra các bệnh về đường hô hấp. PVA đã được sử dụng phổ biến trong ngành dệt ở các nước phát triển gần 50 năm nay và chưa phát hiện trường hợp nào bị ung thư phổi do tiếp xúc với nó. Khi bị phân hủy do nhiệt nó chỉ sinh ra khí CO và CO2 với nồng độ nhỏ hơn 10 lần so với sợi bông. PVA là vật liệu cơ bản tạo ra tấm lợp PVA-C, công nghệ hiện đang được nhiều nước đưa vào sản xuất đại trà.
- Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm sản xuất từ các nước đã chuyển đổi để vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta, tận dụng triệt để hệ thống thiết bị sản xuất tấm lợp AC hiện có, Viện VLXD tiến hành thử nghiệm tạo tấm lợp PVA-C trên quy mô công nghiệp tại Nhà máy Bê tông và Xây dựng Xuân Mai và Công ty Cổ phần Nam Việt. Kết quả kiểm tra thành phẩm theo tiêu chuẩn TCVN 4434-2000 quy định cho tấm lợp AC, các chỉ tiêu của tấm sóng PVA-C đều đạt tiêu chuẩn. Riêng với tấm phẳng, do ta chưa có tiêu chuẩn nên dựa vào tiêu chuẩn của Ôxtralia và Niu Di-lân để so sánh thấy hoàn toàn đạt yêu cầu. Dây chuyền công nghệ và kỹ năng lao động của những người đang vận hành sản xuất tấm lợp AC đều được sử dụng trong sản xuất tấm PVA-C. Quá trình sản xuất chỉ cần bổ sung thêm cụm thiết bị gia công tinh bột giấy, pha phụ gia trợ lọc và cải tiến một số chi tiết trên thiết bị trộn liệu, xy lanh xeo và côn nước đục. Nguồn vật liệu tạo ra sợi PVA trước mắt phải nhập khẩu nhưng trong tương lai gần hoàn toàn có thể sản xuất trong nước với giá thành hợp lý. Độ bền của tấm lợp PVA-C trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của nước ta hiện là vấn đề đang được thảo luận. Tuy nhiên, Viện VLXD đã thử nghiệm chúng bằng chu kỳ nóng - ẩm dựa theo tiêu chuẩn Ôxtralia và Niu Di-lân quy định cho tấm lợp, tấm phẳng xen-lu-lô - xi măng. Kết quả đạt yêu cầu. Nhóm nghiên cứu đang tiếp tục thử nghiệm độ bền tấm lợp bằng phương pháp thử tăng tốc mà các nhà khoa học nước ngoài đã áp dụng theo ISO 8836-1993 để cho kết quả chính xác nhất. Theo các nhà khoa học, có 2 vấn đề là độ bền và giá thành (hiện cao hơn khoảng 20-25% so với tấm lợp AC) sẽ được giải quyết khi bổ sung thêm máy ép lọc vào dây chuyền sản xuất. Tác động của lực ép sẽ nâng cao được độ bền tấm lợp. Ngoài ra, khi có máy ép có thể sử dụng được xi măng mác thấp và các phụ gia khoáng rẻ hơn Melakit đang dùng, giá thành chắc chắn sẽ giảm xuống. Viện VLXD đang phối hợp với Công ty Cổ phần Tấm lợp và VLXD Đông Anh hoàn thiện công nghệ này. Nguồn: Hà nội mới, 29/06/2004 Hệ thống xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ Xí nghiệp sửa chữa và đóng mới phương tiện thủy (XNSC - ĐMPTT) thuộc Công ty 128 của Quân chủng Hải quân đã nghiên cứu thiết kế, lắp đặt và đưa vào vận hành hệ thống xử lý chất thải dầu, mỡ có nhãn hiệu CT-128. Hệ thống này cho phép xử lý hiệu quả chất thải nhiễm dầu, mỡ sinh ra trong quá trình sửa chữa, đóng mới sản phẩm của XNSC - ĐMPTT, được Sở Tài nguyên - Môi trường thành phố Hải Phòng cho phép áp dụng. Trước đây, các chất thải dầu, mỡ của XNSC - ĐMPTT được thu gom, đổ ra bãi chứa, rồi xử lý. Do bãi chứa hẹp, lượng chất thải ngày càng nhiều không bảo đảm an toàn cho môi trường. Vì thế, việc xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ trở thành vấn đề bức xúc. Từ năm 2000, các cán bộ kỹ thuật của XNSC - ĐMPTT đã tìm hiểu, biên soạn tài liệu của nước ngoài và nghiên cứu, xây dựng quy trình xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ phù hợp với điều kiện ở nước ta.
- Hệ thống xử lý chất thải dầu, mỡ CT-128 dùng máy tẩy rửa 3000PSI và 4000PSI để phun rửa. Sau đó dùng máy bơm Wilden do Hoa Kỳ chế tạo với công suất 300 lít/phút hút toàn bộ các hoá chất, chất thải chứa dầu mỡ vào bể xử lý. Máy bơm Wilden có khả năng hút được toàn bộ các chất thải dạng bùn nên bảo đảm hút sạch các chất vào nơi thu gom. Chất thải nhiễm dầu, mỡ được xử lý bằng hoá chất Greese Master, Rutesco nhập ngoại để tẩy dầu, mỡ, tẩy gỉ. Các hoá chất này đều nằm trong danh mục các hóa chất có độc tính thấp do Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an cho phép sử dụng ở nước ta. Chất thải đã qua xử lý bảo đảm tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh công nghiệp và vệ sinh môi trường, không còn khả năng gây ô nhiễm. XNSC - ĐMPTT đã xây dựng Bộ Quy trình Công nghệ, Hướng dẫn sử dụng hệ thống xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ CT-128 theo các tiêu chuẩn quy định hiện hành của hệ thống tiêu chuẩn về môi trường của nước ta. Chi phí cho đầu tư nghiên cứu, lắp đặt dây chuyền công nghệ hệ thống xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ CT-128 của Xí nghiệp lên tới gần 1 tỷ đồng. Nguồn: Quân đội Nhân dân, 5/6/2004 Giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng chất thải Trong vòng 5-6 năm trở lại đây, cum từ "sản xuất sạch hơn" đã quen dần ở Việt Nam. Sản xuất sạch là biện pháp giảm thiểu chất thải, tiết kiệm nguyên liệu và nâng cao hiệu quả kinh tế cho các doanh nghiệp. Một loạt công nghệ sản xuất sạch do Trung tâm sản xuất sạch đặt tại Đại học Bách Khoa Hà Nội nghiên cứu, ứng dụng tại một số cơ sở dệt, nhuộm, chế biến thực phẩm đã giúp các cơ sở này dần ra khỏi danh sách các doanh nghiệp gây ô nhiễm nặng bị Nhà nước xử lý. Trung tâm nhiệt đới Việt-Nga, chi nhánh phía Nam, thực hiện công trình "Nghiên cứu các giải pháp công nghệ trong thiết kế chế tạo các thiết bị xử lý bụi, vi khuẩn, độc tố hoá chất, nước để nâng cao chất lượng các sản phẩm dược và thuỷ sản xuất khẩu", từ năm 2001 đến hết 2003, đã cho ra đời 28 loại thiết bị-sản phẩm xử lý ô nhiễm bụi, vi khuẩn và hoá chất độc; thiết bị điều chế không khí vô trùng Các nhà nghiên cứu cũng đã thiết kế, chế tạo thành công các thiết bị xử lý nước cấp, nước thải chứa kim loại nặng, chứa beta-lactam trong sản xuất dược và chế tạo một số loại khẩu trang phòng độc, phòng sự cố môi trường về sinh học và hoá học. Mới đây, các nhà khoa học ở Đại học Văn Lang, thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra ý tưởng xây dựng trung tâm trao đổi chất thải công nghiệp (một trong những chiến lược hình thành khu công nghiệp sinh thái) để giải quyết những vấn đề về rác thải công nghiệp nói chung, nhất là trong các khu công nghiệp-khu chế xuất. Trung tâm này có chức năng vừa cung cấp thông tin về chất thải cần trao đổi giữa các nhà máy trong khu công nghiệp, vừa là cơ sở tiếp nhận, sơ chế hoặc tái chế chất thải trước khi cung cấp cho những nơi có nhu cầu dưới dạng một khu liên hợp tái sinh, tái chế chất thải.
- Đây là ý tưởng xuất phát từ thực tế hoạt động tái sử dụng, tái sinh, tái chế và trao đổi chất thải đã và đang diễn ra tại nhiều cơ sở sản xuất trong các khu công nghiệp. Chẳng hạn như ở khu công nghiệp Biên Hoà 1, tại 53 doanh nghiệp có chất thải rắn, có tới 14 doanh nghiệp tái sử dụng phế liệu, phế phẩm trong chính dây chuyền công nghệ của cơ sở mình; 5 doanh nghiệp đã trao đổi phế liệu với nhau như dây đồng và nhựa phế phẩm, sắt thép, phế liệu và phôi kim loại. Công nghệ tái chế nhựa thành nhiều sản phẩn khác nhau cũng đang được ứng dụng ở nhiều cơ sở. Tại Khánh Hoà, rác thải Nix (từ xỉ đồng) của nhà máy đóng tàu Hyundai Vinashin thải ra đã được sử dụng làm vật liệu trong gạch trang trí và gạch bê tông tự chèn, gạch blok trồng cỏ, gạch xây tường có độ chịu lực cao gấp nhiều lần so với bình thường. Tuy nhiên, các hoạt động tái sử dụng, tái chế , tái sinh các loại phế liệu mới chỉ áp dụng đối với các loại phế liệu có giá trị cao và chưa có hệ thống, nhiều khi thông qua những người thu mua phế liệu hoặc những cơ sở tái chế ở bên ngoài khu công nghiệp, rủi ro trong quá trình vận chuyển chất thải cao, quá trình tái chế thủ công làm phát sinh nhiều sản phẩm phụ khác, đôi khi mức độ ô nhiễm môi trường của các sản phẩm phụ này còn cao hơn phế phẩm tái chế. Tiềm năng tái sử dụng chất thải, nước thải chưa được sử dụng triệt để. Chưa kể tới việc xử lý và tận dụng một cách hợp lý một lượng khổng lồ rác thải sinh hoạt và rác độc hại từ các khu công nghịêp, rác thải y tế. Trong dự thảo báo cáo cuối cùng của đoàn nghiên cứu thí điểm về "Tái sử dụng hữu hiệu rác thải công nghiệp và rác thải sinh hoạt để cải thiện môi trường và phòng ngừa ô nhiễm tại Việt Nam", Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) đã đưa ra một số đề xuất như sử dụng chất thải làm một phần trong nguyên liệu sản xuất xi măng, làm phân và nuôi giun. Sử dụng rác và gas từ các bãi rác làm nguyên liệu cho nhà máy điện. Theo đoàn chuyên gia, với lượng rác ở thành phố Hồ Chí Minh, thành phố này có thể xây dựng ba nhà máy sản xuất điện với tổng chi phí đầu tư khoảng gần 42 triệu USD, thời gian hoàn vốn 18 năm. Nguồn: TTXVN, 6/8/2004 Hệ thống chuyển đổi nhiệt của ống khói thành điện Một hệ thống được thiết kế để thu nhiệt thải từ các ống khói công nghiệp thành điện có thể làm tăng hiệu suất đáng kể ở các nhà máy điện, giảm thiểu các phát thải cácbon. Hệ thống này còn giúp giảm đáng kể chất ô nhiễm độc hại vào khí quyển. Đối với hiệu suất của hệ thống thu nhiệt này, điều quan trọng là sử dụng hơi prôpan ưu việt hơn hơi thông thường để chạy tuabin phát điện. Hệ thống này cũng có thể hoạt động trong điều kiện nhiệt thải có nhiệt độ thấp. Khi hơi được sử dụng để chạy máy phát, chúng phải được nén và nhiệt độ tăng đến 650°C. Ở dưới mức 450°C, quy trình hoạt động không hiệu quả bởi áp suất hơi sẽ giảm xuống rất thấp. Điều này có nghĩa là nhiệt trong khí ống khói ở mức dưới 450°C sẽ không thể dùng để phát điện và do vậy chúng sẽ thoát ra ngoài khí quyển.
- Đó cũng là một lý do tại sao các nhà máy điện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch có hiệu suất chung chỉ là khoảng 35%. Nhiều quy trình sản xuất công nghiệp như ở các nhà máy hóa chất và lọc dầu đều có lỗ thoát nhiệt thải. Khác với nước, prôpan có nhiều đặc điểm phù hợp để sản xuất điện ở nhiệt độ thấp hơn. Sau khi được nén ở trạng thái lỏng, điểm sôi của prôpan hạ thấp, tức là prôpan có thể bay hơi ở nhiệt độ thấp hơn nước. Nhưng prôpan vẫn còn chứa nhiều nhiệt hữu ích sau khi đi qua turbine, vì vậy phần lớn nhiệt vẫn thoát ra và do hiệu suất chỉ tăng lên chút ít nên thường không có hiệu quả. Daniel Stinger, kỹ sư về tuabin và Farouk Mian - kỹ sư hóa dầu đã phát triển một phương pháp đơn giản để khai thác hầu hết phần nhiệt thải này. Họ đã dự định đặt một tuabin thứ hai hoạt động nhờ vào nhiệt dư từ tuabin thứ nhất, có thể thu hết phần năng lượng dư thừa. Nhiệt dư từ tuabin thứ nhất có thể bay hơi, sau đó được nén cho tới khi có đủ prôpan để vận hành được tuabin thứ hai. Hai kỹ sư này cho rằng nhiệt độ của dòng khí ống khói sau quy trình sẽ là 55 °C. Họ cũng đã thành lập công ty Wow Energy, tại Sugar Land, Texas, để cấp giấy phép công nghệ cho ngành công nghiệp một khi được cấp bằng sáng chế. Quan niệm của Wow có thể cho phép ngành công nghiệp sử dụng các nguồn nhiệt thải dưới 450 °C. Các tính toán của công ty Wow Energy cho thấy những nhà máy điện sử dụng tuabin kép có thể tăng hiệu suất từ 35% đến 60%. Hai công ty BP và Chevron Texaco đang rất quan tâm tới việc lắp đặt hệ thống để khai thác lượng nhiệt thải các nhà máy công nghiệp của họ.Theo cách này, nếu chỉ chuyển đổi khoảng 20% lượng nhiệt thải để chuyển thành điện, thỉ chỉ riêng Hoa Kỳ cũng đã tăng thêm được hơn 200 giga oát công suất phát điện - chiếm gần 20% các nhu cầu về điện. Giá điện không thể thấp hơn nữa, vì hệ thống này có thể sản xuất 1 Mega oát điện bằng với giá điện sản xuất bằng các tuabin hơi truyền thống. Song nhiều điện được sản xuất ra từ cùng một lượng nhiên liệu có nghĩa ít phát thải CO2 hơn. Nhưng chu trình sản xuất khép kín của Wow Energy vẫn chưa được thử nghiệm, song các kỹ sư nghiên cứu cho rằng phương pháp này rất khả thi và có kết quả. Nếu hệ thống này hoạt động, sẽ mở ra triển vọng về khả năng thu nhiệt thừa ở mức thấp mà hiện nay chưa được thử nghiệm khai thác. Một ưu điểm tiềm năng khác là nhờ có hệ thống này mà nhiệt độ của khí thải từ ống khói có thể giảm xuống còn 55°C. Nhiều chất ô nhiễm thâm nhập vào khí quyển như oxit thủy ngâm và oxit cađimi có thể lắng đọng trong ống khói, sau đó có thể được xử lý an toàn bằng xử lý hóa học. Nguồn: New Scientist, 7/2004
- Dùng than antraxit xử lý nước thải công nghiệp Sản phẩm than antraxit được coi là loại vật liệu lọc nước lý tưởng, đặc biệt trong xử lý nước thải công nghiệp. Than antraxit đã được đối tác Nhật Bản đặt mua. Từ lâu, người ta đã phát hiện ra rằng, than antraxit có tính chất vật lý tương đối tốt, không bị tác động bởi các chất hoá học, than có nhiều góc cạnh, độ rỗng cao,v.v , khi sử dụng để lọc ngược lưu hay lọc nước trong hồ lớn sẽ mang lại hiệu quả cao mà không một vật liệu lọc nào có thể thây thế được. Vì vậy, than antraxit là loại vật liệu lọc nước lý tưởng. Hiện nay, Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư Việt Nam (Vicosimex) có nhà máy sản xuất vật liệu xử lý nước thải công nghiệp với đủ loại sản phẩm phong phú, có thể xử lý được tất cả các loại nước thải công nghiệp. Công ty Vicosimex cho biết, việc xử lý nước thải công nghiệp đang là một vấn đề quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Xuất phát từ ý tưởng xử lý các chất thải công nghiệp để đem lại môi trường trong sạch, đội ngũ cán bộ kỹ thuật của Vicosimex đã nghiên cứu và chế tạo thành công loại than antraxit lọc nước. Công ty đã xây dựng nhà máy sản xuất loại than này với tổng vốn đầu tư hơn 3 tỷ đồng và 500 tấn than antraxit đầu tiên đã được Công ty xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Than antraxit do Vicosimex sản xuất ra chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường Nhật Bản, vì vậy chất lượng sản phẩm phải đáp ứng theo các tiêu chuẩn của Hiệp hội Cấp nước Nhật Bản, tất cả được đánh giá trên cơ sở mật độ phân bố cỡ hạt, tính hóa học của than (thành phần) và tiêu chuẩn về cơ lý của sản phẩm,v.v Ngoài ra, sản phẩm được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn quy trình công nghệ của người mua yêu cầu như Công ty Tokai Sand (Nhật Bản), từ khâu nghiền nguyên liệu đến việc đóng gói thành phẩm. Với quy trình công nghệ này, sản phẩm được bảo đảm chất lượng tốt nhất, đáp ứng được nhu cầu của thị trường Nhật Bản và trong tương lai, sản phẩm này sẽ là một trong những vật liệu xử lý nước thải công nghiệp của Việt Nam. Hiện nay, Vicosimex đang nghiên cứu, xúc tiến việc đưa loại than lọc nước này vào sử dụng tại các khu công nghiệp của các tỉnh miền Trung, trước mắt là Khu công nghiệp Hòa Khánh (Tp. Đà Nẵng). Bước đi này của Vicosimex đã được lãnh đạo TP. Đà nẵng và các nhà khoa học của Đại học Đà Nẵng đặc biệt quan tâm và ủng hộ. Sự ra đời của than Anthracite lọc nước thải đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc nghiên cứu chất xử lý nước thải công nghiệp, nhằm baor vệ môi trường trong sạch hơn.
- Nguồn: Đầu Tư, 30/7/2004 Quy trình mới sản xuất nhiên liệu hydro Các nhà khoa học Ôxtrâylia đã tạo ra một đột phá về sử dụng ánh nắng mặt trời để sản xuất hydro từ nước, đây có thể là nguồn năng lượng sạch thay thế cho các nguồn nhiên liệu hóa thạch trên thế giới đang cạn kiệt dần. Nhiều người cho rằng đây sẽ là nguồn nhiên liệu sạch và có hiệu quả nhất để cung cấp nguồn năng lượng cho các phương tiện từ xe cộ tới lò sưởi và máy điều hòa. Từ lâu các nhà khoa học đã biết cách tách nước thành hai nguyên tố oxy và hydro. Tuy nhiên, quy trình xử lý này cần có nguồn điện, nhất là điện được lấy từ các nhiên liệu hóa thạch, điều này làm cho quy trình không hiệu quả và tốn kém. Janusz Nowotny và Charles Sorrell là những nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu nguyên liệu để bảo tồn năng lượng, Đại học New South Wales, Sydney, Ôxtrâylia đang nghiên cứu một phương pháp tiết kiệm sử dụng titan dioxit (TiO2) làm chất xúc tác trong quá trình tách nước thành oxy và hydro nhờ sử dụng năng lượng mặt trời. Chất liệu của kem đánh răng TiO2 được sử dụng phổ biến làm chất mầu trắng trong sơn, giấy, mỹ phẩm, kem chống nắng và kem đánh răng. TiO2 được tìm thấy ở dạng tinh khiết nhất không những trong rutil, cát biển mà còn được tách từ một số loại quặng. Tại Hội thảo quốc tế về các nguyên liệu để sản xuất năng lượng hydro, tại Sydney, Nowotny và Sorrel thông báo đã tìm ra phương pháp làm tăng đáng kể hiệu suất của quy trình sử dụng ánh sáng mặt trời để tách hydro từ nước nhờ thiết bị phát hiện TiO2.Nowotny cho biết: Thị trường hydro có nhiều tiềm năng hơn so với các thị trường than đá, dầu và khí hiện nay. Mặc dù thời tiết nắng ở Ôxtrâylia là địa điểm lý tưởng để sản xuất năng lượng mặt trời, song Sorrel vẫn cho rằng công nghệ này có thể áp dụng ở mọi nơi trên thế giới. Hiệu ứng Honda – Fujishima Năm 1967, các nhà khoa học Nhật Bản đã phát hiện TiO2 được sử dụng để tách hydro từ nước trong quy trình gọi là hiệu ứng Honda – Fujishima. Phát hiện này đã được đăng trên tạp chí Nature và nhận được nhiều giải thưởng bao gồm Giải thưởng của Nhật Bản năm 2004 về Công nghệ hóa chất đối với môi trường. Hydro là nhiên liệu “rất đơn giản song lại rất hiệu quả”. Kể từ khi phát hiện vào năm 1967, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào các nguyên liệu có thể được dùng để tách nước nhờ ánh nắng mặt trời. Fujishima, Chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Kanagawa cho rằng, sử dụng TiO2 làm chất xúc tác để sản xuất năng lượng sẽ làm cho “không khí, nước và khí quyển sạch hơn”.
- Cần nhiều năm để sản xuất năng lượng hydro Thế giới còn phải mất nhiều thời gian mới có thể chuyển được từ sử dụng các nhiên liệu hóa thạch sang nhiên liệu hydro trên quy mô lớn để đáp ứng các nhu cầu về năng lượng. Trước hết, hiệu ứng Honda – Fujishima dù có tăng hiệu suất đáng kể, song vẫn phải được thích nghi với các thiết bị được sử dụng khả thi về mặt thương mại. Các kỹ sư sẽ phải thiết kế pin nhiên liệu để thu ánh nắng mặt trời từ mái nhà và từ những nơi khác trên trái đất. Cơ sở hạ tầng năng lượng của thế giới chủ yếu vẫn dựa vào các nhiên liệu hóa thạch và năng lượng hạt nhân. Việc chuyển từ xe chạy bằng xăng và các trạm khí sang nhiên liệu hydro sẽ cần tới một khoản đầu tư lớn và mất nhiều năm. Các vấn đề về lưu giữ và an toàn vẫn cần phải được giải quyết. Hydro sẽ không bao giờ rẻ như các dạng năng lượng hiện có. Khi buộc các công ty phải chịu trách nhiệm về thiệt hại môi trường thì sẽ không một công ty nào lại sử dụng bất cứ nhiên liệu nào khác ngoài hydro. Nguồn: National Geographic News, 27/8/2004 Thiết bị lọc nước sạch có quy mô nhỏ Các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam vừa hoàn thiện một thiết bị lọc nước quy mô nhỏ, cho phép lọc nước sạch từ nhiều loại nước có sẵn trong tự nhiên theo quy trình chưng cất, với sự hỗ trợ của ánh sáng mặt trời. Theo PGS.TS. Nguyễn Tiến Tài, trưởng nhóm nghiên cứu ở Viện Hoá học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, với thiết bị được chế tạo thử này, những vùng khan hiếm nước ngọt như hải đảo, núi cao, vùng sâu vùng xa, vùng khan hiếm nước sạch có thể yên tâm thu được ít nhất 2-4 lít nước hoàn toàn sạch mỗi ngày vào ngày có nắng. Nước nguyên liệu đầu vào có thể là một trong các loại nước phổ biến như nước sông, ao, hồ, nước phèn, hoặc nước mặn. Cơ chế hoạt động của thiết bị thực ra không mới. Một trong những bộ phận chính của thiết bị là bề mặt hấp thụ ánh nắng mặt trời đồng thời là bề mặt ngưng tụ nước bốc hơi. Sự độc đáo của thiết bị này ở Viện Hoá học là có thể vẫn hoạt động chưng cất nước bình thường sau 4-8 tiếng từ khi tắt nắng. Nhờ vậy, sản lượng nước sạch thu được với thiết bị cùng kích cỡ tăng gần gấp đôi. Nguồn: Tiền Phong, 21/9/2004 Sản xuất chất keo tụ hiệu quả cao từ dung dịch tẩy gỉ sắt Công ty Cổ phần Dây lưới thép Nam Ðịnh (Winesco), đơn vị Anh hùng Lao động sản xuất dây thép mạ kẽm, lưới thép mắt xích, lưới lục giác cỡ nhỏ, lưới ô vuông nan sóng, dây thép gai, rọ đá,v.v Trong quá trình sản xuất, Winesco thải
- ra một số lượng lớn chất phế thải độc hại, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nếu chỉ tính trong một tháng, con số đó đã lên đến 45 tấn hay 90 m3 chất thải, không biết thiêu hủy ở đâu. Để giải quyết ô nhiễm bảo vệ môi trường, tập thể các nhà khoa học do TS. Lê Thị Mai Hương, Phó Chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ vô cơ (Trường đại học Bách khoa Hà Nội) đứng đầu, đã nghiên cứu đề tài khoa học: "Sản xuất chất keo tụ hiệu quả cao từ dung dịch tẩy gỉ sắt". Khác với cách xử lý truyền thống các chất phế thải từ trước đến nay ở nước ta: Từ các chất phế thải độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất, xử lý thành các chất ít độc hại hơn rồi thải ra môi trường, các nhà khoa học lại chọn cách đi khác với ý tưởng độc đáo: Chủ động xử lý, biến hóa chất phế thải thành nguyên liệu để sản xuất ra các sản phẩm khác phục vụ công nghiệp và đời sống, tức là tìm ra công nghệ xử lý chất thải bằng phương pháp không thải hoặc ít thải. Các tác giả đã sử dụng dung dịch tẩy gỉ sắt phế thải làm nguyên liệu để sản xuất ra chất keo tụ hiệu quả cao có gốc nhôm ở dạng Ala(OH)b Clx(SO4)y thay cho chất keo tụ PAC nhập từ nước ngoài. Sau gần một năm nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, đối chiếu, so sánh với thực tế ngoài hiện trường, các nhà khoa học trẻ tuổi Trường đại học Bách khoa Hà Nội, đã thành công trong việc tìm ra quy trình công nghệ, xây dựng được dây chuyền sản xuất chất keo tụ hiệu quả cao từ dung dịch tẩy gỉ sắt, có công thức tổng quát Ala(OH)b Clx(SO4)y sử dụng vào việc xử lý nước cấp và nước thải. Sản phẩm chất lượng tốt, ban đầu có thể tiêu thụ trên thị trường. Hiện nay, dây chuyền xử lý được toàn bộ dịch tẩy gỉ sắt do Winesco sản ra với công suất 1,5 tấn PAC khô/ngày, hoặc ba tấn dịch PAC/ngày; đồng thời thu hồi được 200 kg sắt kim loại. Cùng một lúc đề tài khoa học trên đạt được ba mục đích: Tiết kiệm, tận dụng phế liệu đem lại hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường. Ðề tài mang tính xã hội sâu sắc và có ý nghĩa lớn trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở nước ta. Hiện nay, các nhà khoa học Trường đại học Bách khoa Hà Nội đang bước vào giai đoạn tiếp theo của đề tài: Xây dựng dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh với thiết bị hiện đại đủ sức cung cấp chất keo tụ hiệu quả cao cho công nghiệp và sinh hoạt từ dung dịch tẩy gỉ sắt ở các nhà máy mạ trong nước, hình thành thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định. Nguồn: Nhân dân, 21/9/2004 Ứng dụng công nghệ để cắt giảm một nửa phát tán khí thải của xe cộ
- Trung tâm tương lai không khí sạch thuộc các bang vùng đông bắc Hoa Kỳ (NESCCAF), tổ chức không khí sạch phi lợi nhuận đã công bố một nghiên cứu tổng hợp “Giảm phát tán khí nhà kính của các loại xe động cơ nhẹ” cho thấy: việc kết hợp các công nghệ tiên tiến hiện nay có thể cắt giảm được một nửa lượng phát tán khí nhà kính của các xe chở khách, đồng thời tiết kiệm tiền cho các hành khách. Cũng theo nghiên cứu, trong vòng 5-10 năm tới, có thể giảm hơn 47% lượng phát tán khí nhà kính của các xe có động cơ nhờ việc kết hợp các công nghệ hiện đang được sản xuất hoặc đang triển khai trên toàn thế giới. Điều quan trọng là các hành khách thực sự có thể tiết kiệm tiền do các công nghệ này sử dụng ít nhiên liệu hơn. Ken Colburn, Giám đốc điều hành NESCCAF cho biết: Đây là biện pháp làm sạch với chi phí thấp. Những kết quả nghiên cứu chứng tỏ nhờ sử dụng các công nghệ hiện nay cũng như các công nghệ sẽ được áp dụng, có thể cắt giảm một nửa các phát tán khí nhà kính từ các xe chở khách trong thập kỷ tới, đồng thời các xe chở khách sẽ sử dụng ít xăng hơn. Tiết kiệm nhiên liệu có thể sẽ bù đắp nhiều hơn cho giá mua xe ban đầu cao do được trang bị công nghệ sạch”. Nghiên cứu của NESCCAF đã kiểm tra 35 công nghệ, trong đó có 32 công nghệ hiện đang được bán trên thị trường toàn cầu. Hai phần ba số công nghệ hiện có này đã được ứng dụng sản xuất trên quy mô lớn. Susan Tierney, trong nhóm phân tích của Công ty, kiêm Phó chủ tịch NESCCAF và nguyên là Thứ trưởng Bộ Năng lượng Hoa Kỳ cho biết: “Nghiên cứu này của NESCCAF chứng tỏ, một khi các xe có động cơ sạch hơn được đưa vào sử dụng thì các hành khách sẽ có thể cùng góp phần giải quyết nóng lên toàn cầu và tiết kiệm được tiền”. Ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, các ô tô con hiện phát thải gần 1/4 tổng lượng phát tán khí nhà kính. Sự gia tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển đang làm biến đổi khí hậu tự nhiên của Trái đất. Theo nghiên cứu của NESCCAF, thì các công nghệ đang được áp dụng và sẽ được triển khai có thể cắt giảm các khí nhà kính, đồng thời tiết kiệm được các chi phí cho hành khách của mọi loại xe bao gồm các xe ô tô con, ô tô cỡ lớn, xe mini, ô tô tải nhỏ, ô tô tải to. Các hành khách có thể tiết kiệm được tiền do các chi phí nhiên liệu giảm, nhờ giảm 47% phát tán khí nhà kính. Có thể giảm khí nhà kính và tạo ra các lợi ích từ việc tiết kiệm chi phí do sử dụng các công nghệ trong các hộp truyền động tự động 6 tốc độ cũng như các công nghệ tiên tiến hơn, như bộ truyền động điện lai và phun xăng trực tiếp.
- Steve Suttle, Phó chủ tịch kiêm tổng giám đốc Ban Công nghệ môi trường, Công ty Coring, Chủ tịch NESCCAF cho biết: “Giảm phát tán khí nhà kính của các xe cộ là một nội dung quan trọng của chiến lược khí hậu toàn diện phải có sự tham gia của tất cả các ngành công nghiệp. Nghiên cứu này cung cấp cho các nhà quản lý, các nhà ra quyết định những thông tin quan trọng về cách thức để có thể kiểm soát được chi phí hiệu quả của xe phát tán khí nhà kính”. Nghiên cứu đã dựa trên phần mềm mô phỏng của máy tính hiện đại để đánh giá những tác động phát tán của các công nghệ khác nhau. Phần mềm máy tính này cho phép NESCCAF đánh giá sự kết hợp các công nghệ trên phạm vi rộng và cho phép định lượng các mức giảm phát tán của các công nghệ đó. Năm 2001, Thống đốc bang New England và Đông Canada đã phối hợp xây dựng Kế hoạch hành động biến đổi khí hậu với mục đích ổn định các mức phát tán khí nhà kính vào năm 2010 bằng các mức của năm 1990 và đến năm 2020 sẽ giảm các phát tán khí nhà kính thấp hơn 10% so với mức năm 1990. Ngoài California, nhiều bang của Hoa Kỳ cũng đã thông qua các tiêu chuẩn về xe có động cơ sạch hơn. Nguồn: Earthvision, 9/2004 Thiết bị mới sản xuất điện năng và xử lý được nước thải Theo các nhà khoa học, Đại học quốc gia Pennsylviania, Hoa Kỳ, công nghệ mới đang được triển khai có thể biến nước thải thành điện năng. Thiết bị này còn gọi là pin nhiên liệu vi khuẩn, không chỉ xử lý được nước thải mà còn cung cấp nguồn năng lượng sạch với chi phí thấp. Mặc dù công suất còn tương đối thấp, song các nhà khoa học cho biết: công nghệ này đang được cải tiến nhanh chóng và có thể được sử dụng để vận hành nhà máy xử lý nước thải quy mô nhỏ, điều này sẽ thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nước đang phát triển. Ngoài ra, công nghệ còn được dùng để xử lý chất thải từ các trại chăn nuôi, các nhà máy chế biến thực phẩm và thậm chí là cho các đoàn nghiên cứu trong vũ trụ. Cũng giống như pin nhiên liệu hydro, pin nhiên liệu vi khuẩn giữ lại các electron do vi khuẩn thải ra một cách tự nhiên khi chúng tiêu hoá chất hữu cơ và sau đó chuyển các electron thành dòng điện. Bruce Logan, Tiến sỹ về kỹ thuật môi trường, Đại học quốc gia Pennsylviania cho biết: các nhà khoa học đã phát điện với công suất 72W/m=, lớn gấp 2,8 lần công suất của một thiết bị đã được đưa vào vận hành vào đầu năm 2004. Mặc dù công suất phát điện vẫn tương đối nhỏ, nhưng các nhà nghiên cứu đã sử dụng những loại thiết bị phát điện này để chạy các loại quạt công suất nhỏ. Dự kiến các nhà nghiên cứu sẽ phát điện với công suất lên tới khoảng 500 -1000
- W/m2. Công nghệ này sẽ được ứng dụng phổ biến nhất trong các nhà máy xử lý nước thải, đặc biệt các nhà máy xử lý nước thải có thể tự cung cấp điện khi vận hành. Công nghệ này đặc biệt có lợi cho các nước đang phát triển. Logan cho rằng: do công nghệ tạo ra sản lượng điện không lớn, nên có thể duy trì vận hành nhà máy ngoài mục đích xử lý nước thải. Theo tính toán của David Bagley, nhà khoa học thuộc Đại học Toronto, Canađa, thì tiềm năng năng lượng của nước thải lớn hơn 10 lần chi phí để xử lý nó. Logan cho rằng: Chỉ cần thu được 1/20 nguồn năng lượng này là có thể “hoà vốn”. Trong hệ thống công nghệ, hai điện cực được ngăn cách bằng một màng trao đổi proton (PEM), giống như trong pin nhiên liệu hydro thông thường. Màng này mở ra để sử dụng khí hydro dựa theo các công nghệ “ngăn xếp” sử dụng vi khuẩn trong nước. Trong một thời gian ngắn, các nhà khoa học không thể sản xuất thành công pin nhiên liệu hydro và sử dụng để xử lý nước thải, song các nguyên lý thiết kế pin vi khuẩn và pin nhiên liệu hydrô cũng rất giống nhau. Nước thải chảy ở vách bên này pin và không khí thoát ra ở vách bên kia, phát điện liên tục đồng thời còn loại bỏ được chất hữu cơ trong nước. Ngoài ra, thiết bị còn được dùng để xử lý chất thải của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm cũng như của các nông trại, đặc biệt là các trại nuôi lợn. Các nhà khoa học NASA đang triển khai một công nghệ tương tự để sử dụng trong nghiên cứu trong không gian vũ trụ, chuyển chất thải của các nhà du hành vũ trụ thành nguồn năng lượng đặc biệt. Nguồn: Sciencedaily, 10/2004 Biện pháp xử lý nước ô nhiễm Asen Nước có hàm lượng asen cao đang đe doạ sức khỏe của 10 triệu người, chủ yếu sống ở Bănglađét và ở bang Bengal miền tây Ấn Độ. Nguyên nhân là do một số vi khuẩn thải asen từ trái đất vào trong nước ngầm. Việc bổ sung thêm khoáng chất tự nhiên vào nước bị ô nhiễm asen có thể là biện pháp nhanh và rẻ để loại bỏ hoá chất độc hại này. Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Illinois, Hoa Kỳ cho rằng: việc thay đổi thành phần hoá học của nước có thể hạn chế các loại vi khuẩn khác nhau và làm ngừng quá trình thải asen. Các nhà nghiên cứu cũng đã phân tích 21 giếng nước ở miền trung Illinois nơi có các mức asen không giống nhau do hoạt động băng giá. Họ đã ngạc nhiên khi phát hiện thấy các mức asen thay đổi từ giếng này sang giếng khác. Thậm chí các mức asen trong các giếng nước ở ngay cạnh nhau cũng
- khác nhau nhiều, tới mức mà ở giếng nước này có các mức asen nguy hiểm trong khi giếng nước ngay cạnh lại không phát hiện thấy asen. Khi các mức asen thấp, thì ngược lại các mức khoáng sunfat ở các giếng lại cao. Điều này có thể xác định các giếng nước bị nhiễm asen nhanh và dễ dàng hơn. Bethke, nhà nghiên cứu thuộc Đại học Illinois, cho biết: “không giống với việc phát hiện asen thường cần tới phân tích trong phòng thí nghiệm, việc thử asen nhờ sunfat thật đơn giản và dễ thực hiện”. Hơn nữa, khi các mức sunfat cao, vi khuẩn tiêu thụ sunfat tạo ra sản phẩm phụ là sunfit. Sunfit làm cho bất kỳ lượng asen nào, dù chỉ là một lượng nhỏ trong dung môi cũng có thể tạo thành chất rắn. Điều này có nghĩa là việc bổ sung sunfat vào các giếng nước ô nhiễm có thể giúp làm sạch asen bằng cách làm kết tủa chất độc này để tách ra khỏi nước. Ông Bethke còn cho biết: nếu chúng ta biết chính xác các vi khuẩn này kiểm soát được các mức asen và nếu tăng thêm lượng sunfat có thể kích thích các vi khuẩn, như vậy đây là biện pháp xử lý với chi phí rẻ, song tất nhiên các yêu cầu này cần phải được chứng minh ở hiện trường. Muối sunfat như thạch cao, canxi sunfat, hoà tan dễ dàng trong nước, có sẵn và rẻ, giá chưa đến 1USD/10kg. Giá này sẽ tạo điều kiện cho các nhà chức trách ở những nước bị ảnh hưởng asen ra quyết định dễ dàng . Phần lớn các nguồn nước ngầm ở Bănglađét nghèo sunfat, tuy nhiên các nguồn nước ngầm nghèo sunfat thì lại có ít asen, song vấn đề đáng ngờ là asen ở đây lại trở nên phổ biến trong khi có ít sunfat. Nghiên cứu mới đây đã đề xuất sắp xếp toàn bộ hệ gen vi khuẩn để huy động asen, đây là biện pháp mới để khử asen trong nước. Ông Bethke cho biết: Nghiên cứu về bộ gen vi khuẩn dù chi phí tốn kém, song thực chất lại có giá trị khoa học to lớn. Hệ gen của vi khuẩn có thể làm thay đổi đặc tính của asen trong các tầng nước ngầm khác nhau, song có lẽ trong các tầng nước ngầm có tính axít, khác biệt với ở tầng nước ngầm khi nghiên cứu là nước kiềm, do vậy, cần có các phương pháp tinh vi như sắp xếp lại toàn bộ hệ gen vi khuẩn để nghiên cứu vấn đề này. Sử dụng các kỹ thuật chi phí thấp để nghiên cứu các chất hoá học trong nước có thể chứng minh ý nghĩa thực tiễn trước mắt hơn là các kỹ thuật gen, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Việc bổ sung sunfat vào nước uống không gây ra mối nguy hiểm nào tới sức khoẻ. Các hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới về nước uống cho thấy các mức sunfat an toàn trong nước là 400mg/lít, nhưng hầu hết nồng độ sunfat trong nghiên cứu ở Illinois là chưa đến 50mg/l. Nếu như biện pháp xử lý asen bằng phương
- pháp này có hiệu quả, thì có thể việc chuẩn bị dung môi canxi sunfat và bơm nó xuống tầng nước ngầm là vấn đề phức tạp. Trong trường hợp này sẽ không cần tới công nghệ tiên tiến hoặc một thiết bị đắt tiền. Ưu điểm nữa của phương pháp này là do asen sẽ được cố định trong tầng nước ngầm, nên sẽ không phải xử lý chất thải có liên quan tới asen. Nguồn: Sci.Dev, 29/10/2004