Luận văn Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc

pdf 90 trang ngocly 2210
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_van_de_dan_toc_va_doan_ket_cac_dan_toc.pdf

Nội dung text: Luận văn Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc

  1. LUẬN VĂN: Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc
  2. Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, theo thống kê hiện nay nước ta có 54 dân tộc, đa số là dân tộc Kinh chiếm 86,2% dân số, còn 53 dân tộc thiểu số chiếm 13,8% dân số. Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay luôn luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Đảng và Bác Hồ đã xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin. Bác Hồ đã nghiên cứu nghiêm túc và vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận của C. Mác và V.I. Lênin để đề ra những quan điểm đúng đắn giải quyết những vấn đề phát triển của các dân tộc thiểu số nước ta theo phương hướng là đoàn kết các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam trên nguyên tắc bình đẳng, thương yêu và giúp đỡ nhau để đấu tranh cho độc lập, tự do hạnh phúc chung. Tư tưởng bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ của các dân tộc được nêu từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930, đã được các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa, bổ sung và phát triển vì nguyện vọng tha thiết của tất cả nhân dân các dân tộc nước ta là thực hiện độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về chính sách dân tộc đã thu được những thành tựu quan trọng. Trong 15 năm đổi mới (1986 - 2000), kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc đã phát triển tương đối nhanh, toàn diện. Những thành tựu đó góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị xã hội của đất nước. Kế thừa truyền thống quí báu của dân tộc, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
  3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc [29, tr. 127-128]. Ninh Thuận là một tỉnh có đông dân tộc thiểu số cùng sinh sống - có 27 dân tộc anh em. Thực hiện tốt chính sách đối với các dân tộc thiểu số là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh. Từ sau ngày giải phóng, nhất là từ khi có Chỉ thị số 121-CT/TW ngày 26 tháng 10 năm 1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về công tác đối với đồng bào Chăm, Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị ngày 27 tháng 11 năm 1989 Về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX và các Nghị quyết của Đảng trong thời gian gần đây, Đảng bộ tỉnh Thuận Hải trước đây và Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận (1992) đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn của tỉnh.
  4. Quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở vùng dân tộc thiểu số là một việc làm cần thiết để trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, rút ra những kinh nghiệm làm căn cứ phát triển cho những năm tới. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ 1992 - 2000" để viết luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề dân tộc thiểu số cũng như văn hóa của các dân tộc thiểu số, chính sách dân tộc của Đảng từ trước đến nay đã có nhiều bài viết, nhiều công trình đề cập đến với nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Tiêu biểu là những công trình sau: Nguyễn Văn Diệu, Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp với: Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1997; Nông Quốc Chấn (cùng nhiều tác giả): Văn hóa và sự phát triển của các dân tộc ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1997; Phạm Văn Vang: Kinh tế miền núi và các dân tộc - Thực trạng, vấn đề, giải pháp, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 1996; Phan Văn Dốp: Tôn giáo của người Chăm Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, 1993. Gần đây nhất là công trình nghiên cứu về Lễ hội Chăm ở Ninh Thuận do Sở Văn hóa thông tin Ninh Thuận thực hiện.
  5. Còn rất nhiều bài trong các báo và các tạp chí khoa học đề cập đến chính sách dân tộc, văn hóa các dân tộc thiểu số như các Nghị quyết của Tỉnh ủy và Hội đồng nhân dân, các báo cáo tổng kết của ủy ban nhân dân tỉnh, của các ngành, các cơ quan. Nhưng chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về lĩnh vực khoa học lịch sử Đảng và quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo, thực hiện chính sách dân tộc. Các công trình nghiên cứu và một số tài liệu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài luận văn chúng tôi tiếp thu, kế thừa những kết quả đó trong quá trình nghiên cứu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới (1992 - 2000). Đây là một đề tài nghiên cứu dưới góc độ lịch sử Đảng nhằm tìm hiểu kết quả thực hiện đường lối phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số qua 15 năm đổi mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích - Làm rõ đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc của Đảng trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2000 và nhất là sự vận dụng vào thực tế ở tỉnh Ninh Thuận. - Thông qua thực tế phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số sẽ tạo ra niềm tin vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với các dân tộc. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau đây: - Trình bày có hệ thống quá trình vận dụng chính sách dân tộc của Đảng vào thực tế vùng dân tộc thiểu số ở tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 1992 - 2000.
  6. - Nêu rõ những thành tựu, thiếu sót và những kinh nghiệm chủ yếu từ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở vùng dân tộc thiểu số trong 15 năm đổi mới. 4. Giới hạn của luận văn - Luận văn làm rõ đường lối đổi mới về chính sách dân tộc của Đảng từ 1986 - 2000 từ đó tập trung nghiên cứu sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận vào thực tế vùng dân tộc thiểu số để phát triển kinh tế - xã hội. - Thời gian nghiên cứu của luận văn tập trung chỉ trong thời gian tái lập tỉnh (1992 - 2000), nhưng để làm cơ sở cho vấn đề chính, luận văn còn đề cập một cách khái quát tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số ở tỉnh Thuận Hải trước đó. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận - Cơ sở lý luận để nghiên cứu là dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc. - Quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc. 5.2. Nguồn tư liệu - Nguồn tư liệu được sử dụng chủ yếu trong luận văn là các Văn kiện của Đảng, đặc biệt là các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, những Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư
  7. của Trung ương Đảng và Chính phủ; các Nghị quyết của Tỉnh ủy, Quyết định, Chỉ thị của ủy ban nhân dân tỉnh cũng như các tài liệu của Sở, Ban, Ngành nói về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. - Những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta về dân tộc thiểu số và đoàn kết dân tộc. - Kế thừa có chọn lọc các bài viết, luận văn của các tác giả khác xung quanh chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. - Những kết quả thu được của quá trình nghiên cứu thực tế địa phương các huyện, thị có dân tộc thiểu số sinh sống ở tỉnh Ninh Thuận. - Khảo sát thực tiễn qua 15 năm đổi mới kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh Ninh Thuận. 5.3. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng tổng hợp tác phương pháp: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, trao đổi, phỏng vấn, thu thập và xử lý số liệu thống kê Trong đó đi sâu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu lịch sử như: phương pháp nghiên cứu tư liệu, phương pháp so sánh lịch sử, phương pháp liên ngành trong nghiên cứu lịch sử, phương pháp tổng kết thực tiễn. 6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn - Trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo, thực hiện chính sách dân tộc ở vùng dân tộc thiểu số trong thời kỳ 1992 - 2000.
  8. - Cung cấp thêm những tư liệu về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở vùng dân tộc thiểu số, giúp các cơ quan của tỉnh nghiên cứu, chỉ đạo việc hoạch định các chủ trương chính sách cho phù hợp. - Góp phần nghiên cứu, tổng kết lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 1992 - 2000. - Khái quát những thành tựu, thiếu sót từ đó rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những ý kiến về thực hiện chính sách dân tộc ở vùng dân tộc thiểu số trong những năm tiếp theo. - Luận văn góp phần vào nội dung và chương trình giảng dạy, đào tạo của Trường Chính trị tỉnh Ninh Thuận. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia làm 2 chương, 5 tiết.
  9. Chương 1 Vấn Đề DÂN Tộc Và Thực Hiện Chính Sách DÂN Tộc ở Tỉnh NINH Thuận Thời Kỳ 1992 - 1996 1.1. Tình hình dân tộc thiểu số của tỉnh Ninh Thuận 1.1.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội tỉnh Ninh Thuận Ninh Thuận là một tỉnh thuộc cực Nam Trung bộ, nằm ở vị trí địa lý từ 11018’14’’ đến 12009’15’’ độ vĩ Bắc và từ 108009’08’’ đến 109014’25’’ độ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng và phía Đông giáp biển Đông. Là một tỉnh nằm ở vị trí trung điểm giao thông dọc theo quốc lộ 1A, đường sắt Thống Nhất và quốc lộ 27 lên Tây Nguyên. Có diện tích tự nhiên 3.360,06 km2. Dân số theo điều tra 01/04/1999 là 505.327 người [8, tr. 23]. Địa hình tỉnh Ninh Thuận bao gồm ba mặt là núi, phía Bắc và phía Nam là hai dãy núi cao lan ra sát biển, phía Tây là vùng núi cao của tỉnh Lâm Đồng. Có ba dạng: miền núi, đồng bằng và miền ven biển. Vùng đồng bằng hình thành như một vùng trũng. Địa hình tương đối dốc và có hướng thấp dần từ Tây sang Đông, từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Đất sản xuất nông nghiệp đã sử dụng 60.372,7 ha. Ngoài đất sản xuất trồng được những giống lúa có năng suất cao, đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao như: nho, mía, thuốc lá, bông vải Cùng
  10. với đất trồng trọt, Ninh Thuận có 2.600 ha đầm, hồ thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Một trong những đầm lớn nhất là Đầm Nại với diện tích 650 ha đã và đang khai thác vào nuôi trồng thủy sản. Bờ biển Ninh Thuận dài 105 km có cửa biển Ninh Chữ, Đông Hải, Cà Ná thuận lợi cho du lịch, tắm biển, nghỉ điều dưỡng. Ninh Thuận còn có một ngư trường đánh bắt hải sản rộng gần 18.000 km2 với trữ lượng trên 120.000 tấn/năm. Có nhiều hải sản quí có giá trị kinh tế cao như tôm, mực, cá thu, cá mú Ngoài ngư nghiệp ra Ninh Thuận còn có ưu thế về sản xuất muối công nghiệp ở các vùng như: Cà Ná, Đầm Vua, Quán Thẻ Bên cạnh tài nguyên đất, rừng, biển Ninh Thuận là tỉnh có một ít tài nguyên khoáng sản nằm rải rác ở các địa phương trong tỉnh nên khó khai thác ở qui mô công nghiệp. Khí hậu Ninh Thuận mang tính nhiệt đới gió mùa, có đặc trưng khô nóng và gió nhiều. Về tổ chức hành chính từ năm 1693, phủ Ninh Thuận thuộc trấn Thuận Thành. Năm 1698 Chúa Nguyễn đổi trấn thành phủ và sau đó đổi thành dinh Bình Thuận. Từ năm 1832 Nhà Nguyễn đổi dinh Bình Thuận thành tỉnh có hai phủ: Hàm Thuận và Ninh Thuận. Phủ Ninh Thuận có hai huyện Yên Phước và Tuy Phong. Năm Đồng Khánh thứ III (1888) phủ Ninh Thuận thuộc tỉnh Khánh Hòa. Năm Thành Thái thứ XIII (1901) phủ Ninh Thuận tách khỏi Khánh Hòa lập thành tỉnh lấy tên là tỉnh Phan Rang. Đến năm 1913 triều Nguyễn bỏ tỉnh Phan Rang cắt phần đất phía bắc Ninh Thuận nhập vào Khánh Hòa, còn phần đất phía nam nhập vào Bình Thuận. Tháng 7/1922 phần đất nhập vào Khánh Hòa được tách ra thành lập Đạo có huyện An Phước Chàm, 5 tổng ở đồng bằng: Mỹ Tường, Đắc Nhơn, Vạn Phước, Phú Quí, Kinh Dinh và 2 tổng miền núi: é Lâm Hạ, é Lâm Thượng. Đứng đầu tỉnh là một viên Quản đạo (tỉnh nhỏ) của Nam Triều, dưới sự điều khiển của một công sứ người Pháp. Đến khi Nhật đảo chính Pháp lập chính phủ bù nhìn, Ninh Thuận là đơn vị hành chính cấp tỉnh. Sau Cách mạng tháng
  11. Tám 1945 ta chia Ninh Thuận thành ba huyện: Ninh Hải Hạ, Ninh Hải Thượng và Ninh Sơn. Đến tháng 06/1946 thành lập 6 khu hành chính ở đồng bằng và đến tháng 02/1947 đổi thành 6 vùng, đối với vùng núi và vùng đồng bào Chăm sinh sống lập Phòng quốc dân thiểu số (có năm phân phòng) đến tháng 08/1948 giao vùng sáu (Cam Ranh) cho Khánh Hòa và sáp nhập các vùng thành các huyện Thuận Nam, Thuận Bắc và An Phước. Đầu năm 1950 giải tán huyện Thuận Nam, Thuận Bắc thành lập các xã lớn trực thuộc tỉnh. Đồng thời năm 1950 thành lập khu căn cứ Bác ái, đến năm 1951 đổi thành huyện và năm 1953 thành lập huyện Anh Dũng. Khi chuyển sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, các xã lớn trước đây được tổ chức thành 5 vùng. Riêng thị xã Phan Rang cùng huyện Bác ái, Anh Dũng vẫn giữ nguyên. Đến cuối năm 1960 liên tỉnh ba sáp nhập Bác ái với hai huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) thành khu căn cứ 50 (tức căn cứ ái Vĩnh Sơn). Đến tháng 08/1961 khu ủy 6 được thành lập và đến cuối năm khu 6 giải tán, khu căn cứ 50 giao Bác ái lại cho Ninh Thuận, lúc bấy giờ khu căn cứ Bác ái tách thành hai huyện: Bác ái Đông và Bác ái Tây. Sau ngày 30/04/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất Ninh Thuận được sáp nhập với Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng thành tỉnh Thuận Lâm. Đầu năm 1976 tỉnh Thuận Lâm được tách ra thành hai tỉnh Lâm Đồng và Thuận Hải. Thực hiện chủ trương của Quốc hội khóa VIII tháng 04/1992 tỉnh Thuận Hải được tách ra thành hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Tỉnh Ninh Thuận tính đến cuối năm 2000 có ba huyện: Ninh Phước, Ninh Sơn, Ninh Hải và Thị xã Phan Rang - Tháp Chàm. Kinh tế - xã hội Ninh Thuận chậm phát triển, ở nông thôn và miền núi còn lạc hậu, đói nghèo chiếm tỷ lệ khá cao. Ninh Thuận có 18 xã trên tổng số 56 xã, phường thuộc diện đặc biệt khó khăn. Thói làm ăn manh mún, dựa vào kinh nghiệm là chính, trông chờ vào may rủi của kinh tế tiểu nông, tâm lý ỷ lại vào Nhà nước của thời bao cấp còn nặng nề. 1.1.2. Đặc điểm tình hình dân tộc thiểu số của tỉnh Ninh Thuận
  12. Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình Ninh Thuận đã hội tụ trong lòng mình các dân tộc Kinh, Chăm, RagLai, Chu, K’Ho Có tất cả 27 dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong đó đông nhất là người Kinh 394.018 người - chiếm 78%; tiếp đến là người Chăm 58.770 người - chiếm 11,6%; rồi đến người RagLai 45.137 người - chiếm 8,93%; các dân tộc còn lại 7.402 người - chiếm 1,47%. Trong luận văn này chúng tôi tập trung phân tích đặc điểm của dân tộc Chăm và RagLai. Người Chăm là một trong 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, hiện có 99.000 người, thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo, cư trú tập trung ở các tỉnh Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận ngoài ra còn có ở các tỉnh Bình Định, tỉnh Phú Yên, tỉnh Đồng Nai, tỉnh An Giang và Thành phố Hồ Chí Minh [45, tr. 34-35]. Riêng ở Ninh Thuận hiện có 58.770 người, chiếm 59,36% so với tổng số người Chăm trong cả nước. Người Chăm ở Ninh Thuận cư trú xen kẽ với các dân tộc anh em ở 22 thôn thuộc 12 xã của 4 huyện, thị trong tỉnh, nhưng tập trung ở huyện Ninh Phước có đến 18 thôn của 8 xã. Hình thái cư trú của người Chăm phổ biến là ở đồng bằng tập trung lại thành từng khu vực riêng biệt gọi là Plây Chăm (làng Chăm) thông thường mỗi Plây Chăm là một cộng đồng người Chăm cùng theo một tôn giáo. Về kinh tế: Người Chăm chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, họ thành thạo các kỹ thuật làm ruộng lúa nước mà tiêu biểu là trình độ thủy lợi, đắp đập chứa dẫn nước vào ruộng khá hoàn chỉnh, là một trong những dân tộc có nghề trồng lúa nước phát triển nhất và xa xưa nhất ở Việt Nam. Hiện nay ở Ninh Thuận vẫn còn những đập nước cổ của người Chăm như đập Nha Trinh trên sông Cái, đập Lâm Cấm trên sông Dinh vẫn tiếp tục tưới cho các cánh đồng lúa của người Chăm lẫn người Kinh ở các huyện Ninh Hải, Ninh Sơn và Thị xã Phan Rang - Tháp Chàm. Ngoài ra còn có các hệ thống thủy
  13. lợi được làm mới trên nền các đập nước cổ của người Chăm như hệ thống đập Sông Pha, hệ thống Sông Lu 1, Sông Lu 2 Ngoài ra còn trồng cây ăn quả và cây công nghiệp như cây điều, cây nho, cây mía, cây bông vải và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Chỉ có hai thôn làm nghề thủ công, làm gốm ở thôn Vĩnh Thuận và dệt thổ cẩm ở thôn Mỹ Nghiệp đều thuộc Thị trấn Phước Dân huyện Ninh Phước. Về văn hóa: Dân tộc Chăm là một thành phần trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam có nền văn hóa phát triển rực rỡ, tiêu biểu là nền văn hóa Sa Huỳnh. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, dân tộc Chăm đã xây dựng cho mình một nền văn hóa có sắc thái riêng biệt, độc đáo và đa dạng. Kho tàng văn học dân gian Chăm rất phong phú với nhiều thể loại khác nhau như thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ đặc biệt là truyện thơ (Ariya) là loại hình ngâm - kể chuyện đặc sắc của người Chăm. Trong sinh hoạt văn nghệ các loại nhạc cụ Chăm cũng rất phong phú và độc đáo như các loại trống có Ghi-năng, Paranưng, kèn Sa-ra- nai, các điệu múa Chăm, dân ca Chăm Lễ hội của người Chăm lớn nhất hàng năm là lễ hội Katê của đồng bào theo Bà la môn giáo và lễ hội Ramadan của đồng bào theo Hồi giáo. Người Chăm theo đạo Bà la môn đã để lại những tháp Chăm rất độc đáo. Điển hình là thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Hiện nay ở tỉnh Ninh Thuận còn lại ba quần thể tháp Chăm: tháp PoKlông Gia Rai, tháp Pô lô mê và tháp Hòa Lai đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa.
  14. Về tôn giáo: Qua lịch sử phát triển của Vương quốc Chăm Pa chúng ta nhận thấy, ngay từ những ngày lập quốc, các vương triều Chăm Pa cổ đã gắn chặt với một số tín ngưỡng tôn giáo và các tín ngưỡng tôn giáo ấy đã tác động mạnh mẽ chi phối công việc triều chính cũng như các sinh hoạt thường ngày của người dân Chăm Pa. Từ thế kỷ I đến thế kỷ II, khi Phạm Thệ - một vị vua của người Chăm đã thống nhất hai tiểu quốc đầu tiên của người Chăm là Nam Chăm và Bắc Chăm (tức là bộ lạc Cau-pi-nang và bộ lạc Dừa-li-u trước đây) thành một nhà nước độc lập đầu tiên của người Chăm vào năm 192 mở đầu cho vương triều Lâm ấp tồn tại đến giữa thế kỷ thứ VII. Trải qua chín đời vua của Vương triều này, hầu như đất nước Chăm Ơa cổ đã chịu ảnh hưởng rất lớn nền văn hóa ấn Độ và ấn độ giáo (Bà la môn giáo, Hin đu giáo). Bà la môn giáo trở thành tôn giáo chính thống đóng một vai trò rất quan trọng và chi phối mạnh mẽ đời sống xã hội của cộng đồng người Chăm. Vị trí chính thống của Bà la môn giáo dù có những lúc thịnh, lúc suy nhưng vẫn được tiếp tục duy trì cho đến vương triều Vijaga (Si-Pi-Nừi) từ 1036 - 1400. Trải qua hàng chục thế kỷ, Bà la môn giáo đã có những ảnh hưởng sâu đậm và toàn diện đối với đời sống người Chăm. Tuy nhiên, khi du nhập vào cộng đồng người Chăm - một dân tộc có bề dày văn hóa đặc sắc, Bà la môn giáo đã không còn giữ nguyên vẹn những đặc điểm nguyên thủy mà được "Chăm hóa" để phù hợp với điều kiện tự nhiên, nhu cầu tín ngưỡng của người Chăm. Nhưng dẫu sao Bà la môn giáo cũng đã để lại những dấu ấn đậm nét trong đời sống xã hội của người Chăm. Đặc biệt là trên lĩnh vực đời sống văn hóa tinh thần thông qua những công trình kiến trúc (tháp Chăm), âm nhạc, điêu khắc cũng như những phong tục, tập quán của người Chăm. Bên cạnh Bà la môn giáo, Phật giáo cũng đã từng bước du nhập vào cộng đồng người Chăm và có một thời kỳ từ cuối thế kỷ IX đến đầu thế kỷ X thuộc Vương triều Đồng Dương (Indrapura) Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Nó thực sự chiếm ưu thế tuyệt đối trong vương quyền. Đồng thời cũng lan rộng và chi phối hầu hết các lĩnh vực hoạt động xã hội của vương quốc Chăm Pa. Trong đó Indravarman II là một vị vua người Chăm rất sùng bái Phật giáo, chính ông là người đã cho xây Phật viện (Vihara) rất lớn tại Đồng Dương vào năm 875. Song Phật giáo với
  15. triết lý khổ hạnh và cao siêu đã không đáp ứng được nhu cầu đời sống tâm linh cũng như đời sống vật chất trong cuộc sống hiện thực của đông đảo quần chúng nhân dân nên nó dần dần suy yếu và nhường lại vai trò cho Bà la môn giáo đã có từ trước đó và Hồi giáo ở những giai đoạn sau. Hồi giáo là một tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới (900.000.000 người có mặt ở hơn 50 nước khắp các châu lục) nhưng ở Việt Nam đạo Hồi không lớn chỉ có vài vạn tín đồ mà chủ yếu là người Chăm và một số rất ít người Kinh. Hồi giáo do Môhamet (573 - 632) sinh tại Mecca người bộ lạc Carét sáng lập ra. Đạo Hồi được truyền bá vào người Chăm khoảng từ thế kỷ XIII - XV bằng con đường hòa bình cùng với sự tan rã của quốc gia Chiêm Thành (Chăm Pa) và sự suy giảm dần của đạo Hin Đu (Bà la môn) tôn giáo chính thống của người Chăm. Đạo Hồi khi du nhập vào người Chăm đã phải nhượng bộ và tiếp thu một số yếu tố của tín ngưỡng dân gian Chăm và của Bà la môn giáo, tạo nên nét riêng biệt của đạo Hồi trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận. Có những điểm khác nhau rất cơ bản đối với Hồi giáo chính thống. Chẳng hạn về giáo luật qui định có năm cốt đạo, cốt đạo thứ ba qui định: "Ăn chay tháng Ramadan, một năm phải ăn chay trong tháng này (tháng 9 Hồi lịch) ban ngày nhịn chay, chờ đến đêm mới được ăn (trừ trẻ nhỏ, người già, người ốm)". Nhưng người Chăm theo Hồi giáo ở Ninh Thuận đến tháng Ramadan chỉ những người có chức sắc trong tôn giáo mới phải ăn chay, còn lại họ vẫn ăn uống bình thường. Quá trình ảnh hưởng của Hồi giáo đối với dân tộc Chăm có những thay đổi. Do những biến cố của lịch sử một bộ phận người Chăm đến định cư ở vùng Châu Đốc (An Giang), số người Chăm di cư đến nơi sinh sống mới có điều kiện tiếp xúc gần gũi với người Mã Lai Hồi giáo, tạo thành một cộng đồng Hồi giáo có nhiều yếu tố gần gũi với Hồi giáo chính thống nên được gọi là Hồi giáo Islam (Hồi giáo mới). Người Chăm Hồi giáo ở lại vùng Ninh Thuận, Bình Thuận được gọi là Hồi giáo cũ (hay gọi là Chăm Bà ni để phân biệt với Chăm Bà la môn). Bà ni là cách gọi xuất phát từ tiếng ả rập là "Be Ni" có nghĩa là "con trai của đấng tiên tri". Không phải như tác giả Bùi Thiết gọi Hồi giáo cũ là Hồi Ba Li [45, tr. 36].
  16. Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận theo đạo Bà la môn có 34.637 người (58,93%), Hồi giáo Bà ni là 21.798 người (37,09%), Hồi giáo Islam 1.735 người (2,98%), còn lại theo một số đạo khác như Tin Lành, Công giáo khoảng 700 người (1,1%). Giữa Bà la môn giáo và Hồi giáo có những điểm khác nhau cơ bản. Bà la môn giáo thờ đa thần mà chủ yếu là thờ giáo chủ Bramaha và thần Siva. Trong ăn uống họ kiêng ăn thịt bò, khi chết tiến hành hỏa táng. Ăn tết Katê hàng năm vào tháng 7 Chăm lịch (khoảng tháng 9 âm lịch). Hồi giáo thờ độc thần là thánh Allah. Trong ăn uống họ kiêng ăn thịt lợn, khi chết tiến hành địa táng. Ăn tết hàng năm vào tháng Ramadan. Tuy vậy giữa người Chăm Bà la môn và người Chăm Hồi giáo vẫn có quan hệ khăng khít với nhau trên cơ sở cùng một cộng đồng dân tộc có chung tiếng nói, chữ viết, cùng có những phong tục tập quán tín ngưỡng bản địa của dân tộc Chăm có từ ngàn xưa. Chẳng hạn, người Chăm vẫn lưu giữ nhiều lễ hội dân gian Chăm từ những lễ nghi của cư dân trồng lúa nước như lễ liên quan đến thủy lợi (lễ PLaoSah, lễ Ông cai đập, Ông cai mương) đến lễ dựng chòi, lễ mừng lúa mới đến những lễ hội lớn như Ramadan, Katê. Người Chăm đến nay vẫn theo quan hệ mẫu hệ, con gái lấy họ mẹ, con trai theo họ cha. Trong hôn nhân bao giờ cũng do đàng gái chủ động trong lễ hỏi, lễ cưới. Người con trai được người con gái cưới về nhà mình. Chính xuất phát từ điểm này trong dân tộc Chăm bao giờ con trai cũng được học hành chu đáo, học lên các lớp cao hơn con gái vì người Chăm cho rằng phải cho con trai mình học hành chu đáo để khi về "làm dâu" nhà gái không bị coi thường. Trong hôn nhân vẫn có phân biệt giữa hai tôn giáo, vẫn có sự cấm kỵ, nhưng trong thực tế thì trai, gái hai tôn giáo vẫn có sự kết hôn với nhau.
  17. Về chính trị: Trong lịch sử người Việt và người Chăm đã có truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm: như cuộc chiến đấu chống xâm lược nhà Hán từ những năm đầu công nguyên, cuộc chiến đấu đánh đuổi quân Java vào thế kỷ thứ VIII, chống quân Mông Nguyên vào thế kỷ XIII. Tháng 12 năm 1282 quân Mông Nguyên xâm lược Chăm Pa, nhân dân Chăm Pa anh dũng kháng chiến và phối hợp với cuộc kháng chiến của nhân dân Đại Việt. Cuộc kháng chiến thắng lợi của Đại Việt vào năm 1285 đã góp phần giải phóng hoàn toàn Chăm Pa [46, tr. 86]. Cùng sát cánh bên nhau dưới ngọn cờ khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn chống lại tập đoàn phong kiến Nhà Nguyễn vào cuối thế kỷ XVIII. Đến khi vương triều cuối cùng của vương quốc Chăm Pa tan rã, dân tộc Chăm trở thành một bộ phận của gia đình các dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trải qua các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, tiêu biểu nhất là hai thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dân tộc Chăm luôn đoàn kết với các dân tộc anh em trong tỉnh, đã đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Nhiều cơ sở cách mạng đã hình thành và phát triển trong các thôn xóm người Chăm như thôn Hậu Sanh (xã Phước Hữu), thôn Như Bình (xã Phước Thái), thôn Vĩnh Thuận (thị trấn Phước Dân). Nhiều gương sáng tiêu biểu: có anh hùng liệt sĩ Đổng Dậu, liệt sĩ Phú Như Lập, Tài Đại Thông, Từ Hậu, Lưu Đặng và nhiều tên tuổi khác. Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng, dân tộc và tôn giáo luôn luôn là những vấn đề phức tạp và hết sức nhạy cảm của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trước giải phóng (30/04/1975) chế độ Mỹ - Ngụy đã áp dụng
  18. một số biện pháp để lôi kéo người Chăm như chúng thành lập "Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam" vào ngày 10/10/1961; Mặt trận giải phóng các dân tộc thiểu số gọi tắt là Fulrô. Sử dụng đội ngũ trí thức Chăm vào trong bộ máy cai trị từ thượng viện, hạ viện xuống trưởng ti sắc tộc, quận trưởng, quận phó Chế độ Mỹ - Ngụy còn tạo điều kiện cho linh mục người Pháp là Moussay sử dụng tiền tài trợ của tổ chức thiên chúa giáo ở Pháp xây dựng Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm tại Phan Rang, trường Trung học PôKlông (1971) để thu hút tập hợp trí thức Chăm, tiến hành giáo dục, đào tạo thanh niên Chăm. Trong nội dung giảng dạy của Trường có đề cập văn hóa Chăm, lịch sử dân tộc Chăm nhưng đã bị bóp méo sai sự thật nhằm kích động, nuôi dưỡng tư tưởng kỳ thị dân tộc Tháng 04/1975 khi ta tiến hành giải phóng miền Nam bọn cầm đầu Fulrô Chăm như Huỳnh Ngọc Sắng, Vạn Thanh Bình, Đổng Thẹo tự xưng là lực lượng thứ ba đòi đứng ra tiếp quản các vùng Chăm. Không được ta tiếp nhận chúng đã tiến hành xuyên tạc cách mạng trong dân tộc Chăm, gây hoang mang dao động trong các tầng lớp nhân dân - nhất là những gia đình có con em tham gia chính quyền cũ, đánh vào tâm lý hoài nghi của những trí thức cũ được Mỹ - Ngụy đào tạo Đồng thời lôi kéo kêu gọi thanh niên trí thức Chăm mang súng ra rừng gia nhập Fulrô và phát động chiến dịch "Chế Bồng Nga" để đánh phá cách mạng. Nhưng âm mưu gây rối và phá hoại của chúng bị ta phát hiện và tiêu diệt. Đến năm 1977, lực lượng Fulrô đã hoàn toàn tan rã. Một số chạy về đầu thú làm ăn lương thiện, một số trốn sang lưu vong ở nước ngoài nhưng vẫn tìm cách móc nối liên lạc với những người Chăm ở trong nước. Những người này đã lôi kéo một số trí thức, chức sắc trong các tôn giáo thường xuyên liên lạc thư từ với các trí thức cũ người Chăm ở nước ngoài, bày tỏ tâm trạng bất mãn với chế độ, viết tin bài nói xấu chế độ ta, vu cáo Nhà nước ta phân biệt đối xử với dân tộc Chăm hoặc nhờ những trí thức cũ người Chăm ở nước ngoài can thiệp với nước sở tại và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo lãnh cho họ ra nước ngoài sinh sống hoặc yêu cầu viện trợ kinh phí để xây dựng,
  19. sửa chữa những thánh thất. Những trí thức cũ người Chăm còn tổ chức, gợi ý cho những trí thức trẻ trong dân tộc mình thành lập những đội, nhóm "bình thơ" để công khai tụ tập với nhau, trao đổi thông tin, thảo luận tình hình, thời cuộc, khơi dậy tinh thần dân tộc cực đoan, nhắc lại quá khứ đau buồn của dân tộc mình gây ra tâm lý hoang mang hoài nghi chế độ và tiền đồ tương lai của chính họ trong tầng lớp sinh viên, thanh niên dân tộc Chăm. Tỉnh Ninh Thuận có 29 xã miền núi, vùng cao, chia thành ba khu vực: Khu vực I có 4 xã; khu vực II có 10 xã và khu vực III có 15 xã. Trong đó có 18 xã đặc biệt khó khăn được đầu tư theo chương trình 135 của Chính phủ. Tổng diện tích tự nhiên 257.844 ha (đất nông nghiệp 31.790 ha). Có 29.834 hộ, 160.953 nhân khẩu, đông nhất là dân tộc RagLai. RagLai: Là một trong 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện có 70.000 người, thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo, sinh sống tập trung ở phía Nam tỉnh Khánh Hòa và tỉnh Ninh Thuận với nhiều tên gọi khác nhau như RagLai, Rai (hay Krai), Noang, Na oang, Orang, Glai [45, tr. 160]. Riêng ở Ninh Thuận có 45.137 người chiếm 64,5% so với tổng số người RagLai trong cả nước. Vùng cư trú của người RagLai Ninh Thuận trước đây gọi là é Lâm, giữa é Lâm có thung lũng bằng phẳng chạy từ Nam sang Đông Bắc chia đôi é Lâm thành é Lâm Hạ và é Lâm Thượng. é Lâm dựa vào vùng núi cao của tỉnh Lâm Đồng và nối liền với miền núi phía Tây tỉnh Khánh Hòa (thuộc hai huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh). Khu vực này có địa hình hiểm trở bởi có nhiều núi cao, vực sâu, bị nhiều sông suối chia cắt nên rất khó khăn trong phát triển kinh tế nhưng thuận lợi cho ta làm căn cứ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như trong công cuộc phòng thủ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bản làng cư trú của người RagLai gọi là Palây, nằm trên những khu đất cao, bằng phẳng và gần nguồn nước. Mỗi Palây có từ 20 - 30 nhà sàn, nhà có cấu trúc đơn
  20. sơ, mỗi nhà thường gồm cha mẹ và con cái chưa lập gia đình, đứng đầu Palây là một Popalây (trưởng làng) thường là người có công lập làng, chịu trách nhiệm làm lễ cúng trời mỗi khi có dịch hạn. Trong cộng đồng dân tộc RagLai còn có đội ngũ thầy cúng (Bojan) mỗi Palây có thể có nhiều thầy cúng. Ngoài cúng lễ thầy cúng còn kiêm luôn chức năng chữa bệnh. Người RagLai quan niệm thầy cúng là nhân vật trung gian giao tiếp giữa người với thần linh, với Giàng. Xã hội cổ truyền của người RagLai có sự biến đổi khi chính quyền nhà Nguyễn thiết lập sự thống trị và đặc biệt là khi thực dân Pháp bình định xong các tỉnh phía Nam nước ta. Tổ chức hành chính được thành lập gồm có: Sách, Lý, Tổng nhằm quản lý dân cư, thu thuế và thực hiện các biện pháp bóc lột khác. Sách là đơn vị cơ sở, nhiều Palây ghép lại thành một Sách. Lý là cấp trung gian quản lý, người đứng đầu gọi là Lý trưởng và trên nữa là Tổng, người đứng đầu gọi là Chánh tổng. Những người đứng đầu các Sách, Lý, Tổng tham gia đắc lực vào bộ máy chính quyền phong kiến trở nên giàu có và dựa vào quyền lực để bóc lột hà hiếp nhân dân nên bị nhân dân gọi là "đầu lớn" chứ không gọi là người đứng đầu theo phong tục. Hôn nhân và gia đình: Gia đình (BokSang) của người RagLai là những gia đình lớn mẫu hệ. Trong gia đình lớn mẫu hệ đứng đầu gia đình là một người phụ nữ lớn tuổi nhất (gọi là Posang hay Mú Sang). Posang quyết định mọi vấn đề trong gia đình như: giữ lại hoặc cho sử dụng tài sản chung, quyết định việc phân chia và thừa kế tài sản, hôn nhân, thờ cúng, phân xử các thắc mắc trong gia đình Hôn nhân theo chế độ mẫu hệ, con theo họ mẹ, phụ nữ là chủ nhà, thường thì con gái đi tìm hiểu con trai, ưng thì cưới về làm chồng và ở bên nhà vợ, ông Cậu có vai trò quan trọng trong việc cháu gái lấy chồng. Người RagLai không có những ràng buộc khắt khe trong hôn nhân, khi người vợ chết người chồng có thể về nhà mẹ đẻ và đi lấy
  21. vợ khác hoặc vẫn ở nhà vợ nhưng phải lấy em hoặc chị vợ. Khi người chồng chết, người vợ có thể lấy chồng khác và có thể lấy anh hoặc em trai người chồng cũ. Hoạt động kinh tế đã tồn tại từ lâu đời được người RagLai ở Ninh Thuận áp dụng trên nhiều vùng đất đai khác nhau là phát rừng làm rẫy dưới hình thức du canh du cư, chuyển đổi đất canh tác theo tập quán sản xuất cổ truyền lạc hậu. Người RagLai phát rừng làm rẫy, trỉa hạt, trồng bắp, trồng lúa tùy thuộc vào đất rẫy xấu hay tốt, sau 3 - 5 năm dời đi nơi khác và 15 - 20 năm sau mới quay trở lại. Ngô là cây lương thực chính. Chăn nuôi chủ yếu là gia cầm như gà, vịt, gia súc không nhiều chủ yếu là trâu và dê, chăn nuôi thả rông quanh nhà. Nghề thủ công của người RagLai nhìn chung đơn sơ, chủ yếu tiến hành trong các gia đình như đan lát, rèn, gốm. Sản phẩm chủ yếu là công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt. Người RagLai không biết dệt vải. Kinh tế dân tộc RagLai chủ yếu là kinh tế tự cung tự cấp. Đời sống tín ngưỡng của người RagLai: Giàng (ông Trời) được coi là vị thần tối cao của thế giới thần linh, bao gồm cả thần thiện và thần ác, con người sau khi chết vẫn tồn tại linh hồn. Về văn hóa: Người RagLai có một kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian phong phú với nhiều trường ca, truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết lịch sử, sinh hoạt văn nghệ, ca hát đối đáp, nhạc cụ có mả la (chiêng, cồng), đàn đá (đã phát hiện ra đàn đá Bác ái, đàn đá Khánh Sơn), kèn môi, đàn Chapi (đàn làm bằng ống tre). Lễ hội lớn nhất hàng năm để tạ ơn Giàng được tổ chức trọng thể sau mùa thu hoạch. Nét nổi bật ở người RagLai là truyền thống đoàn kết, cộng đồng, dân chủ, quan tâm, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, tính cách thật thà, chất phác, dũng cảm.
  22. Trải qua các cuộc đấu tranh chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người RagLai theo Đảng và Bác Hồ tham gia vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc Việt Nam và đã viết nên những trang sử vẻ vang về truyền thống cách mạng của dân tộc mình. Với vị trí của vùng rừng núi Ninh Thuận, dựa vào lòng dân RagLai Đảng ta đã xây dựng căn cứ kháng chiến ở đây. Các cán bộ, chiến sĩ người Kinh, Chăm đã sát cánh cùng đồng bào RagLai xây dựng Bác ái, Anh Dũng thành căn cứ kháng chiến vững mạnh toàn diện, trở thành trung tâm của hai cuộc kháng chiến ở tỉnh Ninh Thuận và cực Nam Trung Bộ. Người RagLai đánh giặc giỏi, gan dạ, sáng tạo ra nhiều loại vũ khí (trong đó nổi tiếng với bẫy đá Pi Năng Tắc), thành thạo trong tác chiến ở vùng rừng núi, đã gây cho địch nhiều nỗi kinh hoàng. Dân tộc RagLai là một dân tộc trung kiên và thủy chung với cách mạng. Dân tộc RagLai đã chiến đấu không tiếc máu xương cho công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho huyện Bác ái, xã Phước Kháng, Phước Chiến, Phương Hải (huyện Ninh Hải), xã Phước Hà, xã Nhị Hà (huyện Ninh Phước), các anh hùng lực lượng vũ trang như Pi Năng Tắc, Pi Năng Thạnh, Cha Ma Léa Châu Và nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng. Giữa dân tộc Chăm và dân tộc RagLai có mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị. Đúng như Lênin đã viết: "Trong chừng mực mà các dân tộc khác nhau còn chung sống trong một quốc gia, thì họ gắn bó với nhau bằng hàng ức, hàng triệu mối quan hệ kinh tế, pháp luật và tập quán" [34, tr. 221]. Trong lễ hội Katê có lễ đón rước y phục của Nữ thần Pônưga, vị thần dạy nghề trồng lúa, trồng bông dệt vải. Trong không khí vừa trang nghiêm, vừa rộn ràng, réo rắt của tiếng trống Ghi-năng và tiếng kèn Sa-ra-nai hòa cùng những điệu múa uyển chuyển của các thiếu nữ Chăm, mọi người chứng kiến cuộc đón rước và trao báu vật của nữ thần giữa người RagLai và người Chăm.
  23. Ngày nay chúng ta bắt gặp khá nhiều di chỉ văn hóa Chăm ở khu vực miền núi như Tháp Yang Prang ở EaSúp (Đắc Lắc), Yang Mun ở AjunPa (Gia Lai), Tháp Chăm ở Kon tum, Lâm Đồng không phải là những cố đô Chăm Pa, mà có lẽ như nhà nghiên cứu Condominas đã viết: "Các vua Chăm cuối cùng đã giao cho những người miền núi trung thành này canh gác các kho tàng của họ trước khi những kẻ mạnh chiến thắng ". Ngoài hai dân tộc Chăm và RagLai đã nêu các dân tộc thiểu số còn lại ở Ninh Thuận rất ít như người Hoa chỉ chiếm 0,49%; người Nùng 0,11%; người Tày 0,02%; người Mường 0,01% sống xen kẽ với người Kinh và các dân tộc khác. 1.2. Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận cụ thể hóa và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng 1.2.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta 1.2.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập một cách toàn diện vấn đề dân tộc và đề ra những giải pháp triệt để giải quyết vấn đề dân tộc Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau, khẳng định sự áp bức bóc lột của giai cấp này với giai cấp khác là nguồn gốc áp bức của dân tộc này đối với dân tộc khác. C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu lên luận điểm nổi tiếng: "Một dân tộc đi áp bức dân tộc khác thì dân tộc ấy không thể có tự do" [37, tr. 625]. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi chủ nghĩa đế quốc bóc lột và nô dịch nhân dân toàn thế giới, vấn đề dân tộc càng trở nên quan trọng và cấp thiết, mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản và cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức chống đế quốc ngày càng trở nên chặt chẽ. V.I. Lênin và Quốc tế cộng sản đã phát triển học thuyết của C.Mác và PĂngghenen về vấn đề dân tộc và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đề ra khẩu hiện: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại".
  24. Ngày nay, sau khi Liên Xô tan rã, cục diện đối đầu hai cực trên thế giới không còn, vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trên thế giới đang trở thành một vấn đề chính trị - xã hội phức tạp, là nguy cơ gây mất ổn định, làm bùng nổ những xung đột ở nhiều nơi. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực đen tối cũng đang triệt để lợi dụng những mâu thuẫn dân tộc để thực hiện âm mưu bành trướng, bá quyền, áp đặt chế độ chính trị, mở rộng phạm vi ảnh hưởng và khống chế các dân tộc trên thế giới, dưới chiêu bài "nhân quyền cao hơn chủ quyền" để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Vì vậy, vấn đề dân tộc vẫn luôn luôn là vấn đề thường trực và chính sách dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhiều quốc gia. Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin vẫn tiếp tục soi sáng cho các Đảng Cộng sản giải quyết đúng đắn các vấn đề dân tộc. Cương lĩnh về vấn đề dân tộc của V.I. Lênin bao gồm ba nội dung cơ bản: - Các dân tộc có quyền bình đẳng: Bình đẳng dân tộc là quyền của mọi dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ kinh tế, văn hóa cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da Quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh vực trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đây cũng là cơ sở pháp lý chung giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong các khu vực hay trong một quốc gia. Theo V.I. Lênin: "Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với việc bảo đảm quyền lợi của các dân tộc thiểu số bất cứ một thứ đặc quyền nào giành riêng cho một dân tộc và bất cứ một sự vi phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc thiểu số, đều bị bác bỏ" [34, tr. 179]. - Các dân tộc có quyền tự quyết: Cương lĩnh về vấn đề dân tộc rất chú trọng đến vấn đề tự quyết dân tộc. Quyền tự quyết của các dân tộc chính là quyền tự chủ đối với vận mệnh và con đường phát triển của các dân tộc, bao gồm quyền tự quyết định về thể chế chính trị kể cả quyền phân lập về mặt chính trị (vì mục đích chung của dân tộc - quốc gia và dân tộc - tộc người) hoặc quyền tự nguyện liên hiệp lại thành khối liên minh các dân tộc đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động các dân tộc và vì mục tiêu phát triển hòa bình, phồn thịnh, hữu nghị giữa các dân tộc.
  25. - Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Để thực hiện tốt quyền bình đẳng và quyền tự quyết, cần phải đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc, các quốc gia. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc chính là đoàn kết gắn bó lực lượng nòng cốt của phong trào đấu tranh cho tiến bộ, hòa bình và phát triển. Với bản chất quốc tế và những ưu điểm vốn có, giai cấp công nhân các dân tộc vừa đại diện cho lợi ích nguyện vọng của giai cấp công nhân nói chung vừa đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích các dân tộc. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc cũng chính là kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế cao cả của giai cấp công nhân các nước là lực lượng trung tâm của phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc cho hòa bình, tiến bộ và phồn vinh của nhân loại. Thực hiện Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin là một nguyên tắc nhất quán, lâu dài trong chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản. Làm trái những nguyên tắc đó sẽ dẫn đến những sai lầm trong chính sách dân tộc, xuất hiện nguy cơ xung đột dân tộc, ly khai, ly tâm, tan rã đối với nhiều quốc gia, kéo lùi sự tiến hóa lịch sử. Ngày nay, vấn đề dân tộc đang diễn biến vô cùng phức tạp. Những xung đột dân tộc, tộc người, những mưu đồ đồng hóa dân tộc vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thái tinh vi. Việc giải quyết những tranh chấp hay mâu thuẫn liên quan đến dân tộc, tôn giáo, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và vận dụng một cách sáng suốt, cụ thể những nội dung Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin. Vấn đề quan trọng không chỉ trong giải quyết các quan hệ dân tộc, quốc gia mà còn là yêu cầu cần thiết cho việc vạch ra và thực hiện đúng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong một quốc gia đa dân tộc. 1.2.1.2. Những quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển của các dân tộc thiểu số và miền núi Hồ Chí Minh là người đảng viên Đảng Cộng sản đầu tiên của nhân dân các dân tộc nước ta xem xét và giải quyết các vấn đề dân tộc trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nghiêm túc và vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận của
  26. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin để đề ra những quan điểm đúng đắn giải quyết vấn đề phát triển của các dân tộc thiểu số và miền núi nước ta theo phương hướng là đoàn kết các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam trên nguyên tắc bình đẳng, thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau để đấu tranh cho độc lập, tự do và hạnh phúc chung. Tư tưởng bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc được nêu từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930. Tư tưởng của Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề phát triển các dân tộc thiểu số và miền núi của nước ta được thể hiện trên mấy nội dung cơ bản sau: Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tất cả các dân tộc. Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt với nhau trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau lao động và đấu tranh để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp. Đại đoàn kết dân tộc là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta và là một nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần quyết định thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ở mọi thời kỳ. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý thức xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết các dân tộc. Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống của dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh luôn luôn đánh giá cao vai trò của nhân dân. Không có lực lượng nào mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Muốn thực hiện đại đoàn kết lâu dài thì luôn luôn lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh viết: Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự
  27. phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa [38, tr. 110]. Người khẳng định: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay ÊĐê, XêĐăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau" [38, tr. 217]. Các dân tộc anh em sinh sống trên đất nước Việt Nam phải đoàn kết với nhau: "Đã gọi là đoàn kết thì phải giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong nhà. Dân tộc nhiều người phải giúp đỡ dân tộc ít người, dân tộc ít người cần cố gắng làm ruộng. Hai bên phải giúp đỡ lẫn nhau" [39, tr. 227]. Hai là, Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong sự nghiệp cách mạng của cả nước. Theo Hồ Chí Minh: "Miền núi nước ta chiếm một vị trí quan trọng đối với quốc phòng, đối với kinh tế" [40, tr. 134]. Và là một khu vực rất quan trọng cả về công nghiệp và nông nghiệp, về bảo vệ môi trường sinh thái và khai thác tài nguyên. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Miền núi có tài nguyên rất phong phú, có nhiều khả năng để mở mang nông nghiệp và công nghiệp. Những điểm đó nói rõ rằng miền núi có một địa vị cực kỳ quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phòng của cả nước ta" [39, tr. 608]. Vùng núi là nơi sinh sống của phần lớn đồng bào các dân tộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ và đồng bào các dân tộc cả nước phải coi trọng vấn đề dân tộc và nhìn nhận đó là bộ phận quan trọng có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam, liên quan trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của đất nước. Ba là, Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng việc đề ra các biện pháp và những bước đi thích hợp là có ý nghĩa vô cùng to lớn để xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Theo Hồ Chí Minh điều quan trọng trước hết cần
  28. hiểu mỗi dân tộc có bản sắc riêng rất phong phú rất đa dạng cho nên trong công tác chỉ đạo, tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc thiểu số phải đặc biệt lưu ý tính đặc thù dân tộc, hiểu biết đầy đủ những khác biệt cụ thể của từng vùng, từng dân tộc mà bổ khuyết chính sách, tránh những biểu hiện chủ quan, áp đặt. Hồ Chí Minh nhắc nhở: "Một tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo thì tuyên truyền huấn luyện đối với đồng bào Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp. Bởi vì đời sống, trình độ của đồng bào Mèo và Thái khác nhau, cho nên tuyên truyền huấn luyện phải khác" [40, tr. 128]. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải gắn bó thật sự với đồng bào, nắm vững và phân tích đúng tình hình, hiểu rõ phong tục tập quán mọi nơi và làm cho đồng bào tin yêu mà tiến hành công tác vận động đồng bào miền núi cụ thể, thiết thực, phù hợp, dễ hiểu để đồng bào làm được. Các chủ trương, chính sách, biện pháp phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi đòi hỏi phải thực hiện khẩn trương, nhưng không thể nóng vội, rập khuôn máy móc mà phải thận trọng, vững chắc, toàn diện, hiệu quả, đem lại lợi ích cho đồng bào ta. Bốn là, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm khẳng định kịp thời những thành công đã đạt được của đồng bào các dân tộc về kinh tế, văn hóa, giữ gìn an ninh quốc gia và động viên đồng bào các dân tộc miền núi tiếp tục phấn đấu vươn lên. Hồ Chí Minh rất vui mừng khi thấy: "Đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi đã có nhiều tiến bộ, về cả hai mặt vật chất và tinh thần" [40, tr. 132]. Hồ Chí Minh biểu dương từng thành tựu của đồng bào các dân tộc thiểu số và tin tưởng vào thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền núi. Theo Hồ Chí Minh việc gì khả năng điều kiện cho phép thì địa phương miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số phải tự giải quyết, tự vươn lên, ví như công trình thủy lợi nhỏ, các đường giao thông nhỏ. Trung ương có trách nhiệm xây dựng, trang bị những công trình lớn. Hồ Chí Minh nhắc nhở đồng bào các dân tộc thiểu số "cũng phải khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc, người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo. Cán bộ địa phương, nhân dân địa phương lại dễ cho mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti, cái gì cũng cho là mình không làm được rồi không cố gắng" [40, tr. 136]. Hồ Chí Minh đặt một niềm tin sâu sắc và nêu rõ: "Đồng bào các
  29. dân tộc rất thật thà và rất tốt. Nếu nói đúng thì đồng bào nghe, đồng bào làm và làm được" [40, tr. 138]. Năm là, Hồ Chí Minh xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, nhiệm vụ quản lý của Nhà nước, của cơ quan Trung ương và sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là một yếu tố rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi nước ta. Là một lãnh tụ đã nhiều năm sống trong lòng nhân dân các dân tộc thiểu số và miền núi, Hồ Chí Minh hiểu rõ tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của đồng bào, thông cảm sâu sắc và kêu gọi đồng bào các dân tộc giúp đỡ nhau làm hết sức mình để vươn lên, đặc biệt trong việc vận động định canh định cư, phải đoàn kết đồng bào các dân tộc, làm cho đồng bào vùng thấp biết giúp đồng bào trên rẻo cao như ruột thịt của mình. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu "Trung ương Đảng và Chính phủ mà trực tiếp là các cấp ủy đảng, các ủy ban địa phương, các cô, các chú phải làm sao nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc" [40, tr. 134-135]; phải có kế hoạch đẩy mạnh phong trào miền núi lên, về kinh tế cũng như về văn hóa, tất cả các mặt" [40, tr. 137]. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước kiên trì đấu tranh với các quan điểm sai trái và đề ra những chính sách thiết thực xây dựng mối quan hệ bình đẳng, tin tưởng, tôn trọng, học tập lẫn nhau tránh ban ơn, làm thay, để đoàn kết dân tộc và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc. Sáu là, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số và coi đây là nhân tố có tính quyết định để thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng ta, là một yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam. Vấn đề cán bộ vốn đã có vị trí đặc biệt quan trọng, đối với miền núi và vùng dân tộc thiểu số càng quan trọng hơn nhiều vì ở vùng núi dân trí thấp, ít người biết tiếng phổ thông và chữ phổ thông, việc tuyên truyền phổ biến chủ trương chính sách của chúng ta lại ít dùng tiếng dân tộc cho nên khả năng tiếp thu của đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế. ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, vai trò của cán bộ địa phương có ý nghĩa quyết định trực tiếp. Nhân dân các dân tộc hiểu biết, tin tưởng vào Đảng và Nhà nước thông qua những cán bộ đảng viên tận tâm, gắn bó với dân. Hồ Chí Minh coi cán bộ là
  30. cái gốc của mọi công việc, cho nên cần đặc biệt chú trọng đến đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường đoàn kết giữa cán bộ tại chỗ và cán bộ ở nơi khác đến, làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Hồ Chí Minh coi cán bộ là những người đem chính sách của Đảng và Nhà nước giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của nhân dân báo cho Đảng và Nhà nước hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. 1.2.1.3. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta Thuật ngữ "chính sách dân tộc" cần được phân biệt với chính sách xã hội, chính sách miền núi và chính sách dân vận của Đảng. Chính sách dân tộc giải quyết mối quan hệ trong cộng đồng dân cư đa dân tộc của một quốc gia theo quan điểm của giai cấp nắm chính quyền. Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản là một hệ thống chủ trương, giải pháp lớn, nhằm thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có sự quan tâm đến các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế thấp. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta đảm bảo phát huy sức mạnh của cả dân tộc và bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc, giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc đoàn kết bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Từ sự phân tích trên có thể rút ra khái niệm chính sách dân tộc là bao gồm những chính sách tác động trực tiếp đến dân tộc và quan hệ dân tộc nhằm mục đích phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng ở các vùng dân tộc thiểu số; xây dựng khối đại đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính sách xã hội là chính sách về con người, chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Trên ý nghĩa đó, chính sách dân tộc nằm trong chính sách xã hội nhưng không đồng nhất với chính sách xã hội. Đảng ta xác định chính sách dân tộc là vấn đề chiến lược lớn của cách mạng. Đồng nhất chính sách dân tộc với chính sách xã
  31. hội sẽ không quán triệt đầy đủ tính chất, đặc điểm, tầm quan trọng của lĩnh vực công tác này, hạn chế thậm chí mắc sai lầm trong thực tiễn công tác. Chính sách dân tộc cũng không thể đồng nhất với chính sách miền núi. Miền núi có địa hình phức tạp, xa các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa. Điều kiện để phát triển kinh tế xã hội ở miền núi thường gặp khó khăn. Đồng bào các dân tộc thiểu số thường sống ở miền núi. Vì vậy thực hiện chính sách miền núi có nội dung quan trọng là thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, số lượng người Kinh sống ở miền núi đã tăng lên đáng kể. Trong số các dân tộc thiểu số, có dân tộc sống cả ở đồng bằng, đồng bào dân tộc Chăm sống ở vùng đồng bằng và miền núi của Ninh Thuận, Bình Thuận, đồng bào Khmer sống ở đồng bằng sông Cửu Long, còn người Hoa chủ yếu sống ở các thành thị. Do vậy, chính sách miền núi quan tâm đến điều kiện cụ thể của dân cư sống ở miền núi, không hoàn toàn đồng nhất với chính sách dân tộc quan tâm đến các điều kiện đặc thù của các dân tộc thiểu số. Quan niệm chính sách dân tộc với chính sách dân vận đồng nhất với nhau cũng không đầy đủ. Chính sách dân vận hiểu theo nghĩa hẹp có đối tượng là các tầng lớp dân cư theo đặc điểm của lứa tuổi, giới tính, tôn giáo, nghề nghiệp, địa bàn cư trú trong các dân tộc đều có các đối tượng trên thuộc phạm vi của công tác dân vận. Nhưng chính sách dân tộc chú ý đến đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán, tâm lý, điều kiện phát triển của mỗi dân tộc, nên không hoàn toàn đồng nhất với chính sách dân vận. Vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và giải quyết các mối quan hệ dân tộc. Xuất phát từ đặc điểm tình hình các dân tộc và phát triển quan hệ dân tộc đáp ứng những nhiệm vụ chính trị cụ thể trong từng thời kỳ, từ khi thành lập đến nay và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đề ra chính sách dân tộc đúng đắn trong hệ thống các chủ trương, chính sách chung. Do đó đã góp phần thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân
  32. tộc dân chủ nhân dân và đã giành nhiều thành tựu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta có nội dung xuyên suốt là đoàn kết, bình đẳng tương trợ để các dân tộc thiểu số tiến kịp với trình độ chung của đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951) đã viết: "Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để kháng chiến và kiến quốc" [28, tr. 440]. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chính sách dân tộc đã được xác định: Làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp các dân tộc đa số, giúp các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình. Trong cán bộ cũng như nhân dân cần khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và tư tưởng dân tộc hẹp hòi đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội [15, tr. 112]. Bình đẳng giữa các dân tộc xuất phát từ quyền cơ bản của con người: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng" được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam năm 1946 ghi rõ: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp miền xuôi" [32, tr. 5]. Các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều long trọng công bố quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ các dân tộc đều bị nghiêm cấm.
  33. Tại Điều 6 Hiến pháp 1946 ghi: "Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa". Đến Hiến pháp 1959 khẳng định lại một lần nữa quyền của các dân tộc. Điều 3 Hiến pháp 1959 chỉ rõ: "Các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ". Hai bản Hiến pháp sau đó vẫn khẳng định lại quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Bản Hiến pháp năm 1980 tuyên bố các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ (Điều 5). Và bản Hiến pháp năm 1992 nhấn mạnh: "Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc" (Điều 5). Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau là một tất yếu khách quan trong quan hệ giữa các dân tộc. Tuyên bố quyền bình đẳng về mặt pháp lý và việc thực hiện quyền bình đẳng trên thực tế còn có một khoảng cách bởi điều kiện và trình độ phát triển kinh tế xã hội của các dân tộc không đồng đều. Sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc bao hàm cả việc các dân tộc đa số có trình độ phát triển cao hơn giúp đỡ các dân tộc thiểu số chậm phát triển. Sự giúp đỡ của Nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng vì là sự đầu tư tập trung tạo điều kiện về con người, phương tiện để các dân tộc thiểu số vươn lên, phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa tiến kịp trình độ chung của cả nước. Ngay từ khi ra đời trong Cương lĩnh đầu tiên Đảng ta đã khẳng định những nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc mácxít. Trong Nghị quyết về các dân tộc thiểu số của Đại hội Đảng lần thứ nhất tháng 03/1935 đã khẳng định: "Đảng Cộng sản thừa nhận cho các dân tộc được quyền tự do hoàn toàn. Đảng chống chế độ thuộc địa, chống hết các hình thức trực tiếp đem dân tộc này vào đàn áp, bóc lột dân tộc khác". Khẩu hiệu của Đảng là: "Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận quyền dân tộc tự quyết". Vấn đề dân tộc ở nước ta còn là vấn đề nông dân, giải quyết ruộng đất cho nông dân. Đảng đã rất quan tâm vận động nông dân trong các cuộc vận động dân chủ, vận động quần chúng trở thành phong trào rộng lớn, lôi kéo được đông đảo quần chúng
  34. nhân dân lao động trong các dân tộc tham gia vì mục tiêu người cày có ruộng, gắn với mục tiêu độc lập dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã đề ra những chính sách cụ thể giải quyết vấn đề dân tộc. Tháng 8 năm 1952 Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã ra Nghị quyết về vấn đề dân tộc. Ngày 22 tháng 06 năm 1953 Chính phủ đã ban hành chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam, qui định các mặt công tác chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tinh thần cơ bản của chính sách đó là: "Đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng tương trợ để kháng chiến kiến quốc, giúp nhau tiến bộ về mọi mặt". Nhờ có chính sách đoàn kết dân tộc đúng đắn mà các dân tộc thiểu số ở vùng núi đã tích cực tham gia kháng chiến chống Pháp, cùng cả nước làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi. Sau ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, việc giải quyết vấn đề dân tộc gắn liền với việc tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: cải cách dân chủ, cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, định canh định cư ở miền Nam giải quyết vấn đề dân tộc gắn liền với sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai. Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trong cả nước đã góp phần làm nên một đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, chính sách dân tộc của Đảng được thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước. Trong những năm đổi mới Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc hoạch định hệ thống chính sách đồng bộ trong đó có chính sách dân tộc. Các văn bản có tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn lớn đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta đó là Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (27/11/1989) Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, đã nêu quan điểm chỉ đạo rất quan trọng
  35. Phát triển kinh tế - xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Một mặt các địa phương miền núi có trách nhiệm góp phần thực hiện những chủ trương chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Mặt khác việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ trương chính sách chung ở miền núi phải tính đầy đủ những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, phong tục tập quán của miền núi nói chung và của riêng từng vùng từng dân tộc, trong việc này cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò năng động sáng tạo của địa phương và cơ sở [20, tr. 3]. Các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII và các Nghị quyết của Đảng trong thời gian gần đây. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua tại Đại hội VII (1991) đã xác định 6 đặc trưng của xã hội - xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, trong đó có nêu đặc trưng về quan hệ dân tộc ở Việt Nam là: "Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ" [23, tr. 9]. Đối với dân tộc Chăm, Ban Bí thư Trung ương Đảng có ra Chỉ thị 121 CT/TW ngày 26 tháng 10 năm 1981 nêu rõ: Đảng và Nhà nước ta cần chăm lo tạo điều kiện cho đồng bào Chăm phấn đấu đạt được những yêu cầu mà Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra. Xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc. Trước mắt, các cấp ủy Đảng cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với vùng dân tộc Chăm, làm tốt công tác chính trị tư tưởng, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kết hợp vừa tranh thủ vừa phân hóa tầng lớp trí thức và chức sắc các tôn giáo tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần phấn khởi trong đồng bào Chăm, động viên và tổ chức quần chúng ra sức phấn đấu đạt sự chuyển biến rõ rệt về các mặt kinh tế, văn
  36. hóa, giáo dục, an ninh chính trị, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân [17, tr. 3]. Để thực hiện chủ trương trên, Chỉ thị nêu ra 6 nhiệm vụ cụ thể: Một là, tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng. Tổ chức cho đảng viên từ tỉnh đến cơ sở, sau đó cho các lực lượng vũ trang, cán bộ nhân viên ngoài Đảng, các đoàn thể và nhân dân học tập chính sách dân tộc, phải thấy rõ dân tộc Chăm là một thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các dân tộc anh em sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng, cùng nhau làm chủ, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần nhận thức đúng đắn mối quan hệ lịch sử giữa hai dân tộc Chăm và Việt trước đây, xóa bỏ thành kiến kỳ thị dân tộc, khắc phục tư tưởng tự ti, hẹp hòi, bi quan, tiêu cực và những băn khoăn nghi ngờ việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trong một số đồng bào Chăm đồng thời khắc phục những biểu hiện tư tưởng dân tộc lớn trong một số cán bộ và đồng bào người Việt, tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ dân tộc Chăm, người Việt và các dân tộc anh em khác. Trong việc thực hiện mọi nhiệm vụ ở vùng đồng bào Chăm phải biết kết hợp tuyên truyền giáo dục chính sách dân tộc, coi đó là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài. Hai là, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Tích cực giải quyết việc cung cấp vật tư, giúp đỡ nông dân xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp, xây dựng công trình thủy lợi thích hợp với từng vùng, khôi phục và phát triển những nghề truyền thống như trồng bông, kéo sợi, dệt vải, trồng dâu nuôi tằm, làm đồ gốm, chăn nuôi gia súc đi đôi với việc phát triển các hình thức kinh tế phụ gia đình để tăng thu nhập.
  37. Ba là, phát triển văn hóa, giáo dục y tế và xã hội. Coi trọng các di sản văn hóa dân tộc, sưu tầm khai thác, chọn lọc và nâng cao vốn văn hóa dân tộc Chăm. Đáp ứng yêu cầu tình cảm của đồng bào Chăm và làm phong phú kho tàng văn hóa Việt Nam. Tiếp tục phát triển hệ thống giáo dục phổ thông ở vùng dân tộc Chăm, củng cố và phát triển trường bổ túc văn hóa cho thanh niên Chăm ở Thuận Hải, bổ sung chế độ chính sách đối với học sinh Chăm. Thực hiện chủ trương dạy xen kẽ chữ dân tộc với chữ phổ thông ở những nơi đồng bào có yêu cầu. Củng cố, tăng cường và tạo điều kiện để các trạm y tế hộ sinh ở các xã ấp có đồng bào Chăm hoạt động tốt. Bốn là, củng cố và xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng. Chú trọng phát triển mạnh đội ngũ trung kiên cốt cán ở cơ sở để từ đó phát triển Đảng. Thu hút nhân dân lao động Chăm vào các tổ chức quần chúng để có điều kiện động viên, giáo dục và nâng cao ý thức làm chủ tập thể. Năm là, tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người Chăm. Sáu là, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội vùng đồng bào Chăm [17, tr. 4-6].
  38. Sau 10 năm triển khai thực hiện, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã mở Hội nghị tổng kết đánh giá kinh tế - xã hội ở vùng Chăm trong cả nước tại Phan Thiết (Thuận Hải). Từ Hội nghị tổng kết đó để tạo điều kiện hơn nữa cho đồng bào Chăm phát triển phù hợp với tình hình mới. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Thông tri số 03 TT/TW ngày 17/10/1991 về công tác đối với đồng bào Chăm có một số nội dung sau: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Chăm cần được xây dựng trong kế hoạch chung phát triển kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh có đồng bào Chăm và của cả nước. Cần chú ý đến đặc điểm kinh tế và tập quán của từng vùng để bố trí cơ cấu kinh tế cho phù hợp, xác định cụ thể cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ngành nghề theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, làm cho sản xuất, đời sống đồng bào Chăm có bước tiến bộ rõ rệt trong những năm tới. Phải tiếp tục phát huy tinh thần tự lực tự cường, khai thác đến mức cao nhất mọi tiềm năng của nhân dân, kết hợp với sự đầu tư thích đáng của từng địa phương và sự hỗ trợ của Trung ương. Coi trọng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện, trọng tâm là sản xuất lương thực với biện pháp hàng đầu là phát triển thủy lợi gắn với phát triển ngành nghề chăn nuôi, thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến nhất là các nghề truyền thống, từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng nông thôn mới. Giải quyết hợp lý hợp tình vấn đề tranh chấp đất đai để đồng bào có đất ổn định sản xuất, củng cố đoàn kết dân tộc, xử lý phù hợp phong tục, tập quán vấn đề ruộng "cút" của đồng bào theo đạo Bà la môn, ruộng thánh đường của đồng bào theo đạo Hồi [21, tr. 3]. Từ đường lối chủ trương chính sách của Đảng nội dung chính sách dân tộc được thể chế thành các văn bản Luật và dưới Luật của nhà nước. Thống kê bước đầu
  39. cho thấy vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc được đề cập trong Hiến pháp năm 1992 có 5 điều khoản (đó là các điều: Điều 5, Điều 36, Điều 39, Điều 94, Điều 133); Có 45 điều qui định trong các Luật và Bộ Luật và 3 điều qui định trong các Pháp lệnh. Đó là: Quyết định 72 (18/03/1990) của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cụ thể hóa Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị; Quyết định 327 (1992) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng, bãi bờ ven biển và mặt nước; Nghị quyết 64/CP (1993) ban hành bản qui chế về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; Quyết định 02/CP của Chính phủ (1994) ban hành qui định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp Nhiều thông tư, chỉ thị, qui chế của các cơ quan, ban ngành chức năng cũng đã được ban hành nhằm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Thông qua các hệ thống văn bản từ Văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản của Chính phủ, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta ngày càng được quan tâm cả trong phương diện hoạch định chính sách đến việc thể chế hóa và thực hiện trong đời sống. Văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam" [24, tr. 63]. 1.2.2. Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận thực hiện chính sách dân tộc Ngày 01 tháng 4 năm 1992 tỉnh Ninh Thuận được tái lập. Trên cơ sở những thành quả của tỉnh Thuận Hải (1976 - 1991) để lại trong đó có việc thực hiện chính sách dân tộc. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh Thuận Hải lần thứ I (03/1977) đã xác định.
  40. Công tác dân tộc ở tỉnh ta có vị trí rất quan trọng để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, vấn đề mấu chốt là ra sức đẩy mạnh tốc độ xây dựng, phát triển và cải tạo kinh tế và văn hóa ở các vùng dân tộc, kết hợp sản xuất nông nghiệp với lâm nghiệp, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhanh chóng xây dựng và ổn định các khu định canh định cư ở miền núi [11, tr. 5]. Đối với dân tộc RagLai đã đạt được một số thành tựu: Định canh định cư được 38 điểm trên 66 điểm phải định canh định cư. Đã làm được 91 km đường giao thông miền núi, mùa khô ô tô đi đến được trung tâm một số xã. Đã có một số xã miền núi có điện thắp sáng và có điện thoại. Đã đầu tư xây dựng một số công trình thủy lợi nhỏ, xây dựng được 25 trường học, 16 trạm xá. Thành tựu nổi bật về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội là đồng bào RagLai vẫn phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần cảnh giác nên đã tích cực đấu tranh chống lại những âm mưu tuyên truyền và hoạt động phản cách mạng của bọn Fulrô. Nhận thức rõ vị trí và tầm quan trọng của miền núi, chúng ta đã xây dựng được lực lượng dân quân tại chỗ, mỗi xã đều có một đại đội cơ động. Lực lượng công an xã, thôn cùng với lực lượng dân quân xã tích cực tuần tra truy quét bọn phá rừng, số bầu dầu (thầy cúng) Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đã quan tâm xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng ở các xã miền núi. Đối với đồng bào Chăm: Thực hiện chỉ thị 121 CT/TW, về kinh tế tiến hành chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ngoài việc thâm canh tăng năng suất cây lúa nước, những vùng không có đủ nước tưới cho chuyển sang trồng cây nho, cây thuốc lá đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Phát triển chăn nuôi trâu, bò, dê, lợn, gà Xây dựng cơ sở hạ tầng: Tất cả các làng Chăm đường ô tô đi đến tận nơi, đã đưa điện về các làng Chăm. Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã tập trung vận động giáo dục, thuyết phục những
  41. phần tử theo Fulrô ra đầu thú trở về làm ăn lương thiện. Riêng đối với những tên cầm đầu ngoan cố thì cương quyết tiêu diệt. Đến cuối những năm 70 đã giải quyết xong nạn Fulrô. Về giáo dục, phát triển việc dạy chữ Chăm ở bậc tiểu học cho các thôn Chăm. Năm 1978 Ban biên soạn sách chữ Chăm được thành lập và tiến hành biên soạn sách giáo khoa, tập huấn cho giáo viên người Chăm để tiến hành dạy chữ Chăm. Năm 1976 thành lập trường Bổ túc văn hóa giành cho con em người Chăm đến học (địa điểm tại trường PôKlông nay là trường Dân tộc nội trú của tỉnh). Công tác xây dựng Đảng và chính quyền, mặt trận và các đoàn thể ở các vùng Chăm được quan tâm. Tuy vậy, do điều kiện khó khăn về kinh tế xã hội chung của cả đất nước ta trong giai đoạn này nên việc thực hiện chính sách dân tộc của tỉnh còn nhiều thiếu sót. Thời kỳ mới giải phóng thì tập trung sức để giải quyết nạn Fulrô, sau khi giải quyết nạn Fulrô xong mới tập trung giải quyết các vấn đề về kinh tế xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế Nên trong thời gian từ 1976 - 1991 kinh tế miền núi chuyển biến rất chậm, tỷ lệ nghèo đói gần 80%, hàng năm nạn đói giáp hạt vẫn xảy ra, tỉnh vẫn phải cứu đói cho nhân dân. Sản lượng lương thực đầu người năm 1991 chỉ đạt 150 kg. Nạn phá rừng làm rẫy, khai thác lâm sản bừa bãi xảy ra thường xuyên. Về giáo dục, y tế, vùng đồng bào RagLai có tới 70% số người mù chữ, trẻ em trong độ tuổi đến trường chỉ đạt 40 - 50%. Tỷ lệ người mắc bệnh sốt rét cao, tỷ lệ sinh đẻ cao, bình quân phụ nữ RagLai sinh 6,4 người con. Công tác đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số chưa được quan tâm đúng mức (xem phụ lục III). Đối với dân tộc Chăm thì đời sống của đồng bào có cao hơn dân tộc miền núi nhưng trong chính sách cũng có những lúc ta thực hiện chưa tốt như ồ ạt đưa nông dân vào hợp tác xã. Đến những năm 80 tất cả các thôn Chăm đều đã thành lập các hợp tác xã nông nghiệp trong đó có một số hợp tác xã phát huy được tác dụng như ở Hữu Đức (Phước Hữu), Như Ngọc (Phước Thái) Còn lại đại đa số không phát huy tác dụng.
  42. Trong dân tộc Chăm tình trạng mâu thuẫn giữa các tôn giáo vẫn xảy ra, tình trạng tranh chấp đất đai (điển hình là nông dân xã Phước Nam, xã Xuân Hải tranh chấp với các nông trường trồng bông vải, nông trường Quán Thẻ, nông trường Thành Sơn). Sau khi chia tách tỉnh mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, Tỉnh ủy lâm thời đã sớm có Thông báo số 13 chỉ đạo khảo sát lại thực trạng tình hình miền núi. Trong Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ VIII (10/1992) đã xác định công tác miền núi và dân tộc thiểu số có vị trí quan trọng, đã đề ra một số phương hướng nhiệm vụ, giải pháp chính để toàn Đảng bộ tập trung chỉ đạo trong cả nhiệm kỳ. Tháng 4/1993 Tỉnh ủy đã tổ chức tổng kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị đã rút ra nhận xét chung: Qua 3 năm thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng, tình hình kinh tế xã hội miền núi có phát triển sản xuất nông nghiệp một số vùng có tăng. Tổng sản lượng lương thực miền núi tăng 513 tấn so với năm 1990, diện tích canh tác được mở rộng, chăn nuôi được phát triển đã có 65% số hộ có trâu bò. Đường sá cầu cống có được đầu tư xây dựng, sửa chữa, đi lại dễ dàng hơn trước, ăn ở có được cải thiện một bước, có gia đình biết làm ăn kinh tế thu nhập khá hơn, diện thiếu đói được thu hẹp dần. Các công trình phúc lợi như trạm xá, trường học được xây dựng, các công trình thủy lợi phục vụ cho sản xuất được quan tâm đầu tư hơn trước. Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể từng bước được củng cố, trình độ văn hóa một bộ phận được nâng lên. Tuy có đạt được một số kết quả nêu trên nhưng nhìn chung tình hình các mặt của miền núi chuyển biến chậm, không đều, có vùng còn gặp nhiều khó khăn. Sản xuất còn bấp bênh, chưa vững chắc, năng suất và sản lượng thấp, hạn hán thường xảy ra nên thiếu đói, cơ cấu sản xuất chưa xác định rõ
  43. cho từng vùng. Trình độ văn hóa thấp, số người tái mù và mù chữ còn nhiều, số trẻ em trong độ tuổi huy động đến lớp còn ít, số đến trường đi học thất thường. Hưởng thụ văn hóa còn thấp. Việc đầu tư chưa đúng mức, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn có nơi chưa phát huy bị hư hao kém hiệu quả. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể chậm củng cố, phát triển đảng viên ít. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ kế cận chưa có qui hoạch và chưa có chính sách khuyến khích đối với cán bộ tại chỗ và cán bộ từ miền xuôi lên miền núi công tác [2, tr. 8]. Từ đó báo cáo nêu ra phương hướng chung: Phải tập trung phát triển kinh tế miền núi, chuyển dần tập quán sản xuất tự cấp tự túc, từng bước hướng dần sản xuất hàng hóa theo đặc điểm và lợi thế của từng vùng. Xác định cơ cấu kinh tế miền núi là lâm - nông nghiệp kết hợp, phát triển tiểu thủ công nghiệp, gắn với thương nghiệp dịch vụ lưu thông phân phối. Tập trung nâng cao trình độ dân trí ra sức đào tạo cán bộ, xây dựng xã hội miền núi có nếp sống ăn ở gọn gàng, sạch sẽ. Giữ vững an ninh trật tự xã hội chống mọi xâm nhập, phá hoại. Xây dựng các Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở đủ sức quản lý, lãnh đạo địa phương, thực hiện xây dựng miền núi ngày càng chuyển biến rõ nét [2, tr. 9].
  44. Chương 2 Đảng Bộ Tỉnh NINH Thuận Lãnh Đạo Phát Triển KINH Tế - Xã Hội Vùng DÂN Tộc Thiểu Số 1996 - 2000 2.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Chính sách dân tộc ngày càng đặt đúng với tầm chiến lược như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ. Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện "bình đẳng, đoàn kết, tương trợ" giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Xây dựng Luật dân tộc. Từ nay đến năm 2000, bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc thực hiện cho được ba mục tiêu chủ yếu: Xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù chữ, nâng cao dân trí tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch và vững mạnh [25, tr. 125- 126]. Chính sách dân tộc không chỉ nêu lên những nội dung xuyên suốt, bao trùm cả một thời kỳ dài - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước mà còn được xác định rõ những nhiệm vụ cụ thể, những mục tiêu cụ thể trong từng thời kỳ.
  45. - Căn cứ vào các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước có thể rút ra những nội dung cơ bản của chính sách dân tộc hiện nay là: 1. Phát triển kinh tế ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. 2. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế văn hóa miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là sự nghiệp chung của nhân dân cả nước, của nhân dân các dân tộc, cả đa số và thiểu số trong vùng vì lợi ích trực tiếp của nhân dân các dân tộc thiểu số, đồng thời vì lợi ích chung của cả nước Phương châm chung là: Trung ương và địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm Nhà nước cần bố trí vốn đầu tư thích đáng hơn cho địa bàn quan trọng này, trước mắt tập trung đầu tư cho phát triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện và nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt của dân cư, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế nhằm xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. 3. Nắm vững chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. 4. Phát triển miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số toàn diện, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó phát triển kinh tế - xã hội gắn với việc thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, quan tâm đúng mức đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân được coi là nhiệm vụ trọng tâm. - Một số chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với dân tộc thiểu số.
  46. a) Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phù hợp với đặc điểm điều kiện từng vùng, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần gắn với việc xây dựng nông thôn mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm và điều kiện từng nơi là phương hướng đúng đắn nhân tố quyết định thúc đẩy sự tiến bộ của các vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Tất nhiên phải đặt sự phát triển của các vùng dân tộc thiểu số trong mối quan hệ hữu cơ với cơ cấu kinh tế từng vùng và các tổ hợp kinh tế lãnh thổ như là một yêu cầu khách quan để khai thác có hiệu quả các tiềm năng thế mạnh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, đa dạng hóa các hình thức sản xuất kinh doanh, mở rộng các mối liên kết, hợp tác trong và ngoài nước. Theo phương hướng đó, giải pháp cơ bản để thực hiện là: Xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai gắn với môi trường sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, khắc phục về căn bản tình trạng tranh chấp ruộng đất và di cư tự do ở các vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý. Đồng thời, Nhà nước tôn trọng quyền lợi của hộ nông dân đã sử dụng lâu dài hoặc khai phá đất hoang hóa một cách hợp pháp thành đất màu mỡ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VII đã nêu rõ yêu cầu xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai gắn với môi trường sống của đồng bào. Nhà nước giao đất giao rừng cho nhân dân sử dụng ổn định lâu dài "thực hiện giao, khoán đất, rừng đến tận hộ nông dân, kết hợp việc giải quyết có lý, có tình những tranh chấp đất đai". Điều chỉnh hợp lý, giao lại cho nông dân sử dụng những đất đai mà các nông lâm trường quốc doanh có nhiều nhưng không có điều kiện kinh doanh hoặc kinh doanh không có hiệu quả. Chủ động chuyển dân đến những nơi có điều kiện sản xuất ổn định, kiên quyết khắc phục tình trạng để nhân dân di cư tự do như hiện nay. Việc định canh định cư đối với đồng bào dân tộc phải gắn với việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội. Các dự án giao đất giao rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc. Đầu tư đồng bộ tập trung nhằm huy động các nguồn vốn, tạo điều kiện cho đồng
  47. bào còn du canh du cư chuyển sang làm nghề rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lương thực, chăn nuôi, làm kinh tế vườn - đồi theo hướng nông lâm kết hợp, gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa. Các tổ chức kinh tế của Nhà nước và của tập thể trên cơ sở đổi mới phải làm tốt các dịch vụ sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc biệt về vốn, miễn giảm thuế về cung ứng vật tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến và tiêu thụ sản phẩm, kể cả xuất khẩu. Đảm bảo lương thực cho các vùng vận tải khó khăn, thiếu thốn lương thực, tạo điều kiện để đồng bào không quay lại cuộc sống du canh, du cư, phát nương làm rẫy. Đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, tập trung sức để phát triển những cây con có ưu thế thành hàng hóa với bước đi, qui mô phù hợp gắn với chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát huy lợi thế của từng nơi, tập trung phát triển những cây con có lợi thế của từng vùng với qui mô phù hợp, gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm là một trong những hướng cơ bản thúc đẩy phát triển sản xuất không những ở vùng đồng bào dân tộc mà cả trong phạm vi toàn quốc. Vấn đề ở đây là cần xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, đặc điểm kinh tế của từng vùng và tiểu vùng để xác định cho thích hợp. Đến nay, nước ta đã giải quyết được về cơ bản vấn đề lương thực. Việc sử dụng quỹ đất đồi đất rừng ở các vùng đồng bào thiểu số sinh sống sang trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, bảo vệ rừng đã có cơ sở hiện thực. Vấn đề đặt ra là cần cân đối giữa trồng rừng, trồng cây công nghiệp và bảo vệ rừng tự nhiên thế nào cho hợp lý. Các cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng, các doanh nghiệp khác đóng trên địa bàn miền núi phải thực sự trở thành những trung tâm kinh tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong vùng, thúc đẩy tiến bộ xã hội (giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế địa phương). Thương nghiệp phải gắn với các ngành kinh tế khác, hình thành nên các tụ điểm công nghiệp - thương mại - dịch vụ với các loại hình, qui mô khác nhau, tạo thành động
  48. lực kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa trong vùng phát triển thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Đổi mới cơ chế quản lý thích hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nói chung và đối với miền núi nói riêng, thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa, làm chuyển biến cục diện kinh tế - xã hội các vùng dân tộc thiểu số cư trú. Có chính sách đầu tư đồng bộ và có trọng điểm theo các chương trình và dự án vào các lĩnh vực và vùng quan trọng để xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng dân tộc và miền núi, trước hết là giao thông, thông tin liên lạc, năng lượng và các công trình thủy lợi (bao gồm cả nước sinh hoạt) phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện cụ thể từng nơi, gắn với quá trình phát triển kinh tế, ổn định và cải thiện đời sống, giữ vững an ninh quốc phòng ở các vùng dân tộc thiểu số. Chương trình trợ giúp cho số xã đặc biệt khó khăn cần được thực hiện tập trung và có hiệu quả. Đồng thời với sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước áp dụng các cơ chế khuyến khích thích hợp nhằm phát huy ý thức tự lực tự cường, năng lực sáng tạo của đồng bào các dân tộc, khai thác mọi tiềm năng và thế mạnh của miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng quê hương giàu đẹp và bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc. b) Có chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số Trước hết cần tập trung vào việc nâng cao dân trí. Thực hiện có hiệu quả việc xóa mù chữ cho thanh niên và cán bộ cơ sở, phổ cập giáo dục tiểu học cho đối tượng này. Có qui hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lại các loại cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển mọi mặt của từng vùng, từng dân tộc.
  49. Tăng cường vốn đầu tư cho các trường học. Xây dựng các loại trường lớp nội trú, đảm bảo đủ giáo viên và chỗ học cho con em các dân tộc thiểu số. Mở rộng hệ đào tạo cán bộ dân tộc trong hệ thống trường chính trị, trường đoàn thể và lực lượng vũ trang theo chương trình đổi mới. Thực hiện tốt chính sách chế độ khuyến khích đối với các cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở miền núi, nhất là các vùng sâu, vung xa, vùng cao và thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp phát triển miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Có chế độ chính sách ưu đãi động viên về tinh thần và vật chất với các già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong các dân tộc (kể cả một số chức sắc tôn giáo) trong sự nghiệp đoàn kết các dân tộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. c) Kế thừa, phát triển những giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật là nhằm không ngừng đưa các thành tựu văn hóa mới đến với nhân dân, bảo tồn những giá trị văn hóa của từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa chung của đất nước, của nhân loại để phát triển văn hóa dân tộc mình, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam ngang tầm với thời đại. Trong lĩnh vực văn hóa, nhân dân các dân tộc thiểu số cần được thông tin về thời sự, chính sách, những thành tựu văn hóa tiên tiến, đảm bảo có sách báo, tiến tới có đủ phương tiện nghe, nhìn. Tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng bảo vệ, kế thừa, phát
  50. huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, cản trở sự tiến bộ của các dân tộc. Có chính sách đầu tư thích đáng cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, cho các nghệ sĩ sáng tác các đề tài về miền núi và về các dân tộc thiểu số. Điều quan trọng trước hết vẫn là nâng cao đời sống kinh tế để nhân dân các dân tộc có điều kiện hưởng thụ các thành tựu văn hóa, nâng cao dân trí. d) Có chính sách quan tâm đặc biệt đến các vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số. Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, đồng thời thực hiện các chương trình chăm sóc đời sống và sức khỏe của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng căn cứ kháng chiến. Thực hiện tốt các chương trình quốc gia về chống sốt rét, chống bướu cổ, xóa bỏ các ổ dịch bệnh gây tử vong cao, làm suy giảm giống nòi ở một số dân tộc. Thực hiện chính sách ưu đãi những mặt hàng thiết yếu như gạo, muối, dầu thắp sáng, giấy viết, thuốc chữa bệnh, dịch vụ văn hóa văn nghệ đối với vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Giải quyết nhanh chóng nhu cầu nước sinh hoạt cho đồng bào vùng cao. Xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa. Thực hiện mạnh mẽ chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình bằng các giải pháp hữu hiệu để đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng cao hạn chế sinh đẻ nhờ đó chăm sóc và nuôi dạy con cái, nâng cao trình độ dân trí và xây dựng đời sống văn minh
  51. Giải quyết những vấn đề này phải trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực tự cường, khai thác cao nhất mọi tiềm năng trong nhân dân, kết hợp với đầu tư thích đáng của Nhà nước và sử dụng có hiệu quả các hoạt động từ thiện và dự án đầu tư của nước ngoài vào các vùng dân tộc thiểu số. Trong qua trình thực hiện, cần chú ý chống kẻ địch lợi dụng những khó khăn, rủi ro trong đời sống của đồng bào để kích động, chia rẽ, gây mất ổn định ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thực hiện các chiến lược lâu dài nhằm tiến hành "Diễn biến hòa bình" ở các vùng này. Quán triệt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận đã đánh giá: Kinh tế xã hội vùng dân tộc và miền núi chuyển biến chậm và còn nhiều khó khăn. Từ đó đề ra nhiệm vụ trọng tâm là thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng động viên tất cả các tầng lớp nhân dân, phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Chú trọng đặc biệt đến phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi, thực hiện mục tiêu xóa nạn đói giáp hạt ở miền núi. Sau Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết 22/BCT và Quyết định 72/ HĐBT năm 1993. Đến 1998 đã thành lập Ban chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế xã hội miền núi và tổng kết 5 năm thực hiện. Sau Hội nghị tổng kết năm 1998, Tỉnh ủy có Nghị quyết số 16 và các cấp ủy Đảng, Ban cán sự Đảng, Đoàn cũng đã xây dựng chương trình hành động để chỉ đạo triển khai và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội miền núi. Đối với dân tộc Chăm, Tỉnh ủy đẩy mạnh việc thực hiện Thông tri 03 TT/TW và xác định Ninh Thuận là tỉnh có đồng bào Chăm sinh sống đông nhất trong cả nước. Việc thực hiện tốt những chính sách đối với đồng bào Chăm của tỉnh là góp phần chứng minh cho sự đúng đắn của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Từ những việc làm trên đã tạo sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ, đảng viên đối với miền núi và vùng dân tộc, coi sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng dân tộc là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển kinh tế -
  52. xã hội của tỉnh nhà. Nhờ đó các ngành, các địa phương đã có những nỗ lực thiết thực tạo bước chuyển biến mới trong hoạt động đối với miền núi và vùng dân tộc, làm cho tình hình kinh tế xã hội miền núi và vùng dân tộc Ninh Thuận đạt được những kết quả đáng phấn khởi. Sản xuất đã có bước phát triển, đa số đồng bào đã định canh định cư, đời sống vật chất và tinh thần từng bước ổn định, nạn đói được thu hẹp, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Nhiều hạng mục công trình kết cấu hạ tầng được xây dựng để phục vụ cho sản xuất, y tế văn hóa giáo dục. Hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố. 2.2. Những thành quả và thiếu sót về thực hiện chính sách dân tộc của tỉnh Ninh Thuận 2.2.1. Những thành quả bước đầu trong việc thực hiện chính sách dân tộc. Tỉnh Ninh Thuận từ ngày tái lập (01-04-1992) trên lĩnh vực thực hiện chính sách dân tộc đã đạt được những thành quả bước đầu. Đối với vùng miền núi và dân tộc thiểu số. Trong 9 năm qua nhờ sự quan tâm đầu tư liên tục của các ngành, các cấp trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là xây dựng các công trình thủy lợi, khai hoang, phục hóa Diện tích trồng trọt ngày càng tăng lên. Đồng bào đã ứng dụng được những tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong trồng trọt và chăn nuôi, bước đầu sản xuất nông- lâm nghiệp đã phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Tổng diện tích gieo trồng ở các xã miền núi đến cuối năm 2000 là 41.530 ha. Trong đó cây lương thực là 17.192 ha, diện tích lúa 13.084 ha, năng suất đạt 3,5 tấn/ha, bình quân lương thực đầu người đạt 300 kg/năm, ở khu vực II đạt 269 kg/năm. Diện tích trồng mía 1.240 ha, thuốc lá 1.419 ha, đậu các loại 3.039 ha, cây điều 2.876 ha (tăng 6 lần so với năm 1992), cây bắp lai trước 1993 chưa trồng đến nay đã phát triển trên 1.300 ha, sản lượng trên 5.000 tấn bằng 50,9% sản
  53. lượng bắp lai cả tỉnh. Ngoài việc trồng cây lương thực và cây công nghiệp, đồng bào còn trồng thêm các loại cây ăn quả (1.400 ha) góp phần cải thiện đời sống. Chăn nuôi gia súc, gia cầm được phát triển ở các vùng núi. Tổng số đàn bò trên 15.000 con (trong đó bằng nhiều nguồn vốn đã đầu tư gần 5 tỷ đồng cho hơn 2.000 hộ) trên 5.200 con dê, cừu (tăng gấp hai lần năm 1992). Triển khai chương trình sind hóa đàn bò với số bê lai tạo trên 6.000 con. Đã bước đầu hình thành trang trại chăn nuôi gia súc kết hợp với vườn rừng (có 104 trang trại) chăn nuôi lợn, gà, vịt ở các xã miền núi cũng phát triển khá mạnh, tổng số đàn lợn trên 3.000 con. Việc bảo vệ rừng, trồng mới, chăm sóc rừng đạt kết quả, công tác giao rừng khoán quản, nhân dân nhận bảo vệ trên 59.000 ha rừng. Tổ chức khoanh nuôi rừng tự nhiên 13.891 ha, chăm sóc rừng 3.458 ha, trồng mới trên 5.691 ha. Đầu tư cho lâm nghiệp trong những năm qua gần 28 tỷ đồng. Bộ mặt miền núi của tỉnh có bước phát triển mới, có nhiều chuyển biến tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng phát triển hàng hóa góp phần vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc miền núi. Bằng nhiều nguồn vốn của Trung ương và của địa phương đã đầu tư xây dựng hơn 40 công trình thủy lợi vừa và nhỏ, với tổng số vốn 35 tỷ đồng, đặc biệt trong các năm 1999, 2000 đã đầu tư hơn 160 tỷ đồng trong đó có hồ Tân Giang 100 tỷ đồng, kênh Tây Sông Pha tiêu lũ ở Ninh Phước, các công trình thủy lợi nhỏ ở miền núi, vùng cao năng lực tưới tăng thêm 4.500 ha, tưới chủ động 2- 3 vụ cho hơn 100 ha. Chương trình nước sinh hoạt, tính đến năm 2000 tổng số các công trình đầu tư cho các xã miền núi là 23 công trình cấp nước tập trung, nâng tổng số dân được cấp nước sạch là 71.989 khẩu đạt 44,72%.
  54. Về giao thông với tổng số vốn gần 170,5 tỷ đồng đầu tư các tuyến đường từ trung tâm huyện đến các xã miền núi đều được sửa chữa nâng cấp với tổng số 255 km trong đó có 44 km đường nhựa, 148 km đường cấp phối. Hiện nay chỉ còn lại xã Phước Bình đường đi còn khó khăn. Đã có 100% số xã miền núi có lưới điện quốc gia, trạm y tế, trường học, bưu điện văn hóa Tổng số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản của chương trình 135 ở 18 xã miền núi đặc biệt khó khăn là 17,410 tỷ đồng gồm các công trình giao thông, thủy lợi, nước sinh hoạt, điện trung hạ thế, phòng học, trạm y tế trong đó vốn ngân sách chiếm 88,6%, vốn hỗ trợ của các doanh nghiệp chiếm 11,4%. Tổng vốn thực hiện 19,506 tỷ đồng đạt 112% kế hoạch. Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã được thực hiện từ năm 1998 với 7 trung tâm và 54 công trình được đầu tư ở Phước Đại, Phước Tân, Núi Tháp, Lợi Hải, Nhị Hà, Hòa Sơn và Công Hải. Tổng vốn thực hiện trong 3 năm 1998 - 2000 là 6,519 tỷ đồng đạt 74% kế hoạch. Chương trình 135 đã đầu tư đúng mục tiêu, đúng đối tượng, một số công trình phát huy hiệu quả, bộ mặt nông thôn những vùng này đã có sự thay đổi đáng kể. Tỉnh có 22 xã thuộc diện đầu tư định canh định cư. Đến năm 2000 đã hoàn thành công tác định canh định cư 12/22 xã đạt 54% với 6.683 hộ đạt 80,6% kế hoạch. Tổng số vốn đầu tư giai đoạn 1992 - 2000 đạt 19,788 tỷ đồng. Nhờ kết quả đầu tư của chương trình định canh định cư, đời sống của đồng bào tại các vùng định canh định cư đã được cải thiện: 4.057 hộ với 25.683 khẩu được hưởng lợi từ 19 dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng: giao thông, thủy lợi, nước sinh hoạt, bình quân mỗi hộ 4,87 triệu đồng. Sản xuất nông nghiệp ở các vùng định canh định cư có chuyển biến, một số cây trồng mới được đưa vào trồng như cây mía, điều, thuốc lá đã tạo ra giá trị hàng hóa cao, từng
  55. bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Năm 2000 mức bình quân lương thực ở các vùng định canh định cư đạt 280 kg/ người. Trong những năm qua, công tác dịch vụ đối với miền núi được quan tâm đúng mức. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với Trung tâm giống cây trồng đã tổ chức nhân rộng các loại giống cây trồng phù hợp với điều kiện miền núi, năng suất cao như giống lúa, bắp lai, sắn Đồng thời thực hiện chính sách trợ cước trợ giá, hỗ trợ kinh phí tiêm phòng cho gia súc ở những xã miền núi, nhất là các xã đặc biệt khó khăn. Đã thành lập được 20 câu lạc bộ khuyến nông ở 29 xã. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức trình diễn các mô hình sản xuất nông lâm kết hợp, tập huấn các kỹ thuật trồng rừng và bảo vệ rừng, tham quan các mô hình trồng rừng tiên tiến trong và ngoài tỉnh, thực hiện chương trình khuyến nông miền núi, xây dựng các chương trình ứng dụng khoa học công nghệ tập trung vào 18 xã đặc biệt khó khăn thông qua việc trình diễn trồng cây lúa nước, bắp lai, các loại cây ăn quả ở 29 xã miền núi, các xã thuộc khu vực I và khu vực II, dịch vụ buôn bán khá phát triển, phong phú, đa dạng như dịch vụ ăn uống, đại lý phân bón, thuốc tây, quầy tạp phẩm Các ngành nghề cũng phát triển ngày càng nhiều, tuy nhiên chỉ phục vụ một số nhu cầu tại chỗ như rèn, mộc, đan lát Dịch vụ chế biến nông sản ở hầu hết các xã miền núi đều có cơ sở xay xát. Việc phát triển của hệ thống dịch vụ tư nhân đã góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hóa, kích thích sản xuất phát triển, bước đầu hình thành dần nền kinh tế thị trường, từng bước đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân Đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi có được nâng lên nhờ các chương trình đầu tư trong các năm qua như xây dựng công trình thủy lợi, đường giao thông, đầu tư phát triển nông - lâm nghiệp, chương trình định canh định cư, chương trình xây dựng trung tâm cụm xã, chương trình hỗ trợ đồng bào đặc biệt khó khăn, chương trình 135 đã mang lại lợi ích thiết thực cho người dân miền núi. Qua khảo sát có 5,9% hộ khá, 31% hộ đủ ăn, 63,1% hộ nghèo. Về nhà ở có 1.491 nhà xây lợp ngói chiếm 24% còn lại là nhà lợp tôn, lợp lá vách đất 76%. Về các phương tiện sinh hoạt có 467 chiếc tivi, bình quân 13 hộ/chiếc, hầu hết các hộ đều có rađiô, 132 hộ có xe gắn máy.
  56. Công tác vận đồng đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa. Đã xây dựng 44 làng văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc, mở lớp tập huấn và quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, thông tin, tổ chức nhiều đợt sưu tầm văn hóa Chăm, RagLai, Churu Củng cố và phát triển các đội văn nghệ, bóng đá, bóng chuyền, thực hiện 85 buổi văn nghệ, 270 buổi chiếu phim phục vụ đồng bào miền núi, đưa vào sử dụng nhà truyền thống Bác ái. Phát động phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", xây dựng nếp sống văn minh, mở rộng diện được nghe đài phát thanh, xem truyền hình, đọc sách báo. Đến nay đã có 100% xã được phủ sóng chương trình phát thành, truyền hình quốc gia, thực hiện chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc (tiếng Chăm, tiếng RagLai). Đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc miền núi, đặc biệt là đồng bào dân tộc RagLai đã được nâng lên rõ rệt, nếp sống văn hóa mới đã biểu hiện rõ nét. Một số tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan không còn phù hợp với cuộc sống hiện tại đã được bà con bỏ dần như bầu dầu, cúng bái, bói toán. Hiện nay ở 29 xã miền núi đã có trạm y tế (trong đó có 25 trạm được xây mới). Mỗi trạm có từ 2- 3 y sĩ trực thường xuyên để khám và chữa bệnh ban đầu cho bà con. Trước năm 1992 có 11/29 xã miền núi chưa có nữ hộ sinh, 2/29 xã chưa có y sĩ đa khoa và 29 xã chưa có trạm y tế thôn, bản thì hiện nay ở 29 xã miền núi đều có y sĩ đa khoa, có nữ hộ sinh, nhân viên y tế thôn, bản. Có 5 bác sĩ về công tác tại các trạm xá trên miền núi, 27/29 xã được nhận trang thiết bị như tủ đầu giường, giường bệnh nhân, giường sản khoa, dụng cụ khám sản khoa, đa khoa. Chương trình tiêm chủng cho trẻ em hàng năm đạt trên 90%, tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ có thai đạt trên 80%, bệnh phong đang được loại trừ dần, bệnh nhân lao được đa hóa trị liệu và trên 80% được điều trị khỏi. Về phòng các dịch bệnh như sốt rét có 100% số dân được bảo vệ bằng hóa chất tẩm màn, phun thuốc, được điều trị và uống thuốc phòng, qua các năm sốt rét giảm từ 10 - 15%. Về phòng chống bướu cổ có 29 xã được cấp muối iốt, người dân bị bướu cổ được khám và điều trị không thu tiền. Về phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em năm 1999 số trẻ em suy dinh dưỡng là 75% đến nay còn 48%. Việc phòng chống tiêu chảy, nhiễm