Khóa luận Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên

doc 77 trang ngocly 1500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • dockhoa_luan_van_hoa_truyen_thong_cua_nguoi_e_de_xa_eabar_huyen.doc

Nội dung text: Khóa luận Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên

  1. ii TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT KHOA NGỮ VĂN & VĂN HÓA HỌC NGÀNH VĂN HÓA HỌC   VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC K.33 GVHD : ThS. VÕ THỊ THÙY DUNG SVTH : TRẦN XUÂN HẠNH Đà Lạt, 2013 ii
  2. iii LỜI CẢM ƠN  Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến quý Thầy, Cô trong Khoa Ngữ Văn & Văn Hóa Học-Trường Đại học Đà Lạt đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Thạc sỹ Võ Thị Thùy Dung, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ, truyền đạt kiến thức, hướng dẫn cho tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp Đại học. Đồng thời, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến các cô, các chú trong Ủy Ban Nhân Dân xã Eabar và những người dân tại địa phương đã cung cấp những tài liệu, những hiểu biết và giúp đỡ nhiệt tình cho tôi trong suốt thời gian điền dã tại địa phương. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn sâu nặng tới gia đình, bạn bè những người thân, đã luôn quan tâm ủng hộ và giúp đỡ trong suốt năm học vừa qua cũng như trong suốt quá trình thực hiện khóa luận của mình. Đà Lạt, tháng 5, năm 2013 Tác giả Trần Xuân Hạnh iii
  3. iv LỜI CAM ĐOAN  Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Nội dung, kết quả nghiên cứu và các số liệu trong khóa luận chưa được công bố dưới bất cứ hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm với những quy chế của nhà trường với sự cam đoan này. Đà Lạt, tháng 5 năm 2013 Tác giả Trần Xuân Hạnh iv
  4. iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU v CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1 1.1. Tổng quan về xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên 1 1.1.1. Vị trí địa lý 1 1.1.3. Tình hình xã hội 3 1.2. Khái quát về dân tộc Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên 5 1.2.1. Địa bàn cư trú 5 1.2.2. Tên gọi và thành phần tộc người 5 1.2.3.Truyền thống đoàn kết đấu tranh 6 1.2.4. Hoạt động kinh tế 7 1.2.5. Nghề thủ công truyền thống 11 CHƯƠNG 2. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ TẠI XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH TỈNH PHÚ YÊN 14 2.1. Văn hóa vật chất 14 2.1.1. Ẩm thực 14 2.1.2. Trang phục 15 2.1.3. Nhà cửa 18 2.2. Văn hóa xã hội 21 2.3. Văn hóa tinh thần 25 2.3.1. Yang trong quan niệm của người Ê-đê 25 2.3.2. Tín ngưỡng và nghi lễ cúng theo vòng đời 26 2.3.2.2. Lễ cúng sau khi chết 30 3.3.3. Nghi lễ cầu cúng theo vòng cây trồng 32
  5. iv CHƯƠNG 3. BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN 35 3.1. Biến đổi văn hóa truyền thống của người Ê- đê ở Eabar 35 3.1.1. Biến đổi về văn hóa vật chất 35 3.1.2. Biến đổi về văn hóa tinh thần 39 3.1.3. Biến đổi về văn hóa xã hội 40 3.1.4. Ưu-nhược điểm của vấn đề biến đổi văn hóa truyền thống 41 3.2. Tác nhân biến đổi văn hóa truyền thống 42 3.2.1. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới 42 3.2.2. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống 43 3.2.3. Sự tăng cường giao lưu hội nhập giữa các nền văn hóa 43 3.3. Vấn đề bảo tồn văn hóa truyền thống người Ê-đê ở Eabar 44 3.3.1. Giải pháp về kinh tế - xã hội 44 3.3.3. Giải pháp về tín ngưỡng - tôn giáo 47 3.3.3.Giải pháp đặc thù về văn hóa 47 KẾT LUẬN 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO 51 PHỤ LỤC HÌNH ẢNH 54
  6. v MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và sự phát triển của xã hội. Con người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng từ văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Bản sắc dân tộc có vai trò định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của con người. Vai trò của văn hóa đã được Đại hội VIII khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và là động lực thúc đẩy sự phát triển cuả xã hội”. Với lời khẳng định ấy, có thể thấy văn hóa đã kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi, đặc sắc và có tính trường tồn trong lịch sử dân tộc. Và dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa Việt Nam ngày càng hoàn thiện, góp phần hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau nên đã hình thành các vùng văn hóa khác nhau. Từ đó, văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt mang tính đặc thù. Một trong các vùng văn hóa ấy là vùng văn hóa Trung Bộ (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận). Đây là vùng văn hóa rộng lớn gồm nhiều dân tộc sinh sống, có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa Chăm. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những nét văn hóa, độc đáo của mình. Nhờ đó, đã có nhiều đóng góp lớn lao với cộng đồng dân tộc trên mọi lĩnh vực văn hóa, xã hội. Dân tộc Ê-đê là dân tộc có nền văn hóa truyền thống đặc sắc trong 54 dân tộc thiểu số ở nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Ê-đê ở Phú Yên đã sớm hình thành giá trị văn hóa mang màu sắc riêng. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng cá nhân trong cộng đồng người Ê-đê, góp phần làm tăng thêm giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc vùng Trung Bộ Việt Nam.
  7. iv Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài cơn lốc ấy. Đặc biệt, kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Ê-đê ở Phú Yên. Trước tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người Ê-đê nói chung, và người Ê-đê ở Phú Yên nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng. Đó là điều rất đáng quan tâm. Vì thế, chúng tôi thấy, cần phải có thêm nhiều tài liệu giúp cho mọi người đặc biệt là lớp trẻ được tiếp cận với kho tàng truyền thống của dân tộc mình, để hiểu và để tạo nên niềm tự hào về quê hương, dân tộc. Là một người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này hơn 20 năm, từng chứng kiến sự đổi thay về văn hóa, con người, kinh tế, chính trị, chúng tôi không khỏi có những trăn trở và suy tư. Do đó, góp một tiếng nói tri ân-tình cảm, một góc nhìn từ góc độ người làm văn hóa nhằm góp phần bảo tồn vùng đất, con người và tìm hiểu một cách hệ thống hơn nét đẹp văn hóa truyền thống của những con người nơi mảnh đất Eabar là điều chúng tôi thật sự mong muốn. Và đề tài “Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên” là cơ hội quý giá để chúng tôi thực hiện những mong muốn của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài khảo sát thực địa tại địa phương, cụ thể là xã Eabar để tìm hiểu đời sống văn hóa của đồng bào nơi đây. Đồng thời, tìm hiểu điều kiện tự nhiên, lịch sử đã chi phối như thế nào đến đời sống văn hóa của người dân. Thông qua tìm hiểu đời sống văn hóa truyền thống, phong tục tập quán làm ăn sinh sống của đồng bào, người nghiên cứu cũng chỉ ra những tác nhân tạo nên văn hóa truyền thống của văn hóa đồng Ê-đê nơi đây. Từ đó, có cơ sở để đề xuất phương hướng bảo tồn cũng như phát triển văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê tại xã Eabar nói riêng và người Ê-đê ở các địa phương khác nói chung nhằm tạo sợi tơ lung linh sắc màu trong tấm thảm muôn màu được dệt thành bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
  8. v Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là hết sức khó khăn, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa như hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu văn hóa truyền thống người Ê-đê ở xã Eabar là việc làm hết sức cấp bách, cần tiến hành nhanh chóng và cần có sự phối hợp của các ban ngành đoàn thể. Nếu không, những nét văn hóa truyền thống sẽ bị rơi vào quên lãng, thậm chí sẽ bị mất đi dưới tác động của cơ chế thị trường. Nhất là, khi mà những đòi hỏi về đời sống vật chất đang ngày càng tác động làm thay đổi cuộc sống bà con, thì việc nghiên cứu tìm hiểu, bảo tồn và phát huy là điều vô cùng khó khăn. Vì vậy, qua đề tài này chúng tôi muốn cho người đọc một cái nhìn cụ thể và toàn diện hơn về dân tộc Ê-đê ở xã Eabar trên phương diện văn hóa truyền thống. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Ê-đê tại xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Đề tài chúng tôi chọn để tiến hành nghiên cứu là “Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên”, nhưng trong phạm vi một khóa luận, để đưa đến một cái nhìn toàn diện và cảm nhận sâu sắc về văn hóa truyền thống của một dân tộc là điều không dễ. Làm được điều đó cần có thời gian nghiên cứu một cách cụ thể, rõ ràng. Chính vì vậy, tránh việc dàn trải tràn lan nên chúng tôi tập trung nghiên cứu vào vấn đề văn hóa hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Qua đó, đem ra so sánh người Ê- đê ở xã Eabar với các nhóm Ê-đê ở các địa phương khác. Các yếu tố văn hóa truyền thống khác chúng tôi sẽ sử dụng để làm cơ sở để so sánh và chứng minh cho vấn đề trên. 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Người Ê-đê đã có mặt rất sớm ở xã Eabar, chủ yếu là cư dân phần lớn di cư và chuyển từ các tỉnh Tây Nguyên qua Phú Yên. Dấu vết của dân tộc Ê-đê tại xã Eabar đã phản ánh đậm nét trong các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê-đê vẫn còn là xã hội mang dấu ấn mẫu hệ đậm nét ở nước ta, có giá trị đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, từ lâu đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu tìm hiểu và nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về người Ê-đê ở Phú Yên hiện nay không nhiều. Có thể kể lên đây một vài công trình nghiên cứu về văn hóa người Ê-
  9. vi đê tại Phú Yên như La province de Phu Yen của A.Laborde xuất bản năm 1929 có nhắc đến nhóm cư dân sinh sống ở vùng cao Phú Yên. Công trình của ông đã đặt cột mốc và tạo cơ sở bước đầu để các học giả tiếp tục nghiên cứu về người Ê-đê ở Phú Yên nói chung và xã Eabar nói riêng. Những năm sau 1980, các nhà dân tộc học Việt Nam tiến hành nhiều đợt khảo sát ở vùng văn hóa Tây Nguyên bao gồm khu vực có người Ê-đê cư trú, theo đó nhiều công trình được xuất bản như: Đại cương về dân tộc Ê-đê, M’nông ở Đăk Lăk (1982) của Bế Viết Đẳng, Chu Thái Sơn, Vũ Thị Hồng, Vũ Đình Lợi. Công trình này đã trình bày những vấn đề chung nhất về đời sống của hai dân tộc Ê-đê, M’nông trên các phương diện: thiên nhiên và dân cư (đặc điểm địa lý, sự phân bố dân cư và thành phần dân tộc, vài nét về truyền thống văn hóa, nguồn gốc lịch sử, những đặc điểm nhân chủng của các dân tộc Ê-đê, M’nông) kinh tế và xã hội. Đặc biệt, ở phần thứ 3 (chương 1) của công trình, tác giả Chu Thái Sơn đã đề cập đến văn hóa vật chất của người Ê-đê. Và ở chương 3, tác giả Vũ Đình Lợi cũng đã đề cập đến những lễ nghi-phong tục trong chu kỳ đời sống của người Ê-đê nhưng chỉ bó hẹp trong phạm vi 8 trang (157-164). Nên những gì mà tác giả trình bày còn ở mức độ sơ lược, chỉ mang tính gợi mở, nhưng lại là cơ sở để người nghiên cứu kế thừa và phát triển. Người Ê-đê, một xã hội mẫu quyền của bà Anne De Hauteloque xuất bản năm 2004 là kết quả của 14 tháng sống cùng, sinh hoạt cùng, hòa nhập vào cuộc sống của cư dân tại buôn Põk, Đăk Lăk của bà. Anne De Hauteloque đã đề cập đến vị trí của người đàn ông và người phụ nữ trong xã hội Ê-đê. Đồng thời, đi sâu nghiên cứu và giới thiệu về cơ cấu tổ chức, các quan hệ xã hội của dân tộc Ê-đê, nhấn mạnh khẳng định xã hội Ê-đê là xã hội mẫu quyền điển hình nhất ở Tây Nguyên. Đặc biệt khi nói đến công trình nghiên cứu về người Ê-đê ở Phú Yên nếu không nói đến công trình Người Ê-đê M’dhur ở Phú Yên của Lê Thế Vịnh, Nguyễn Thị Hòa, Y-Điêng do Sở Khoa học Công nghệ Phú Yên xuất bản tháng 12 năm 2005 quả là một thiếu sót. Bởi lẽ, đây là công trình đã nêu cụ thể về văn hóa tộc người Ê-đê trên cả hai phương diện văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tiếc là công trình này chưa thật sự đi sâu sát vào văn hóa truyền thống cụ thể của từng địa bàn, chưa cập nhật đầy đủ các thông tin và số liệu cần thiết ở mỗi địa bàn cụ thể.
  10. vii Bên cạnh đó, khá nhiều công trình nghiên cứu về người Ê-đê đăng trên các tạp chí như: 1. Một số đặc điểm xã hội của các dân tộc Trường Sơn-Tây Nguyên, tạp chí Dân tộc học số 1, 1954. 2. Bàn về lịch sử tộc người và đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa cư dân Tây Nguyên của Chu Thái Sơn, tạp chí Dân tộc học số 2-1979. 3. Mấy nhận xét về hôn nhân và gia đình của người Ê-đê của Nông Hoàng Cư, tạp chí Dân tộc học số 3-1980. 4. Tổ chức làng cổ truyền của các dân tộc Tây Nguyên của Phan Xuân Biên, tạp chí Dân tộc học số 3-1985. 5. Những thay đổi trong tập quán sử dụng nước của người Ê-đê của tác giả Nguyễn Trường Giang, tạp chí Dân tộc học số 3-2001. 6. Dấu vết bào tộc của người Ê-đê của tác giả Phan Hữu Dật, tạp chí Dân tộc học số 5-2002. v.v.v Tuy nhiên, có thể thấy rằng, các học giả chỉ nghiên cứu ở những địa bàn lớn, riêng nghiên cứu về văn hóa truyền thống ở xã Eabar thì hiện chưa có công trình nào. Nhất là, qua thời gian, khi mà nhà nước can thiệp vào cuộc sống của người Ê- đê như xây dựng nông thôn mới, bê tông hóa các công trình rồi yếu tố cơm, áo, gạo, tiền đòi hỏi người Ê-đê phải chạy theo kinh tế, để mưu sinh, lo toan cho cuộc sống, thì những yếu tố văn hóa truyền thống có gì biến đổi vẫn chưa được quan tâm. Vì vậy đó là những cơ sở để người nghiên cứu có thể mạnh dạn lựa chọn “Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên” để làm đề tài khóa luận nhằm đem lại cái nhìn rõ nét và toàn diện nhất về văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở Phú Yên. 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng phương pháp liên ngành dân tộc học - văn hóa học. Thông qua quá trình điền dã, thu thập thông tin, quan sát cuộc sống của người Ê-đê ở địa bàn xã Eabar, chúng tôi sẽ đưa đến cho người đọc một cái nhìn cụ thể, thực tế về người Ê-đê trên 3 phương diện: văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần. Phương pháp so sánh cũng là phương pháp được chú trọng để rút ra những
  11. viii điểm chung và những nét khác biệt so với các tộc người Ê-đê ở các địa phương khác. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp định tính, định lượng, phương pháp tổng hợp và phân tích khi cần thiết, nhằm thu thập, đưa ra các lý giải rõ hơn về văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. 6. Đóng góp của khóa luận Mặc dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tộc người Ê-đê, nhưng đến nay vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể nào mang tính hệ thống, khái quát cụ thể về một tộc người Ê-đê cư trú tại xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Nên với công trình nhỏ này, chúng tôi mong muốn tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê một cách toàn diện và đầy đủ nhất. Khóa luận góp phần giúp độc giả hình dung, nhìn nhận, đánh giá về văn hóa truyền thống của dân tộc Ê-đê xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Đồng thời, giúp cư dân, đặc biệt là giới trẻ nhận thấy được giá trị văn hóa truyền thống của tộc người mình và đánh giá thực trạng của vấn đề để có phương hướng phục dựng và bảo tồn các giá trị văn hóa tốt đẹp của đồng bào. Thông qua việc tìm hiểu văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở một không gian hẹp, chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm tư liệu cho những người đam mê nghiên cứu về văn hóa tộc người Ê-đê ở Việt Nam nói chung và người Ê-đê ở xã Eabar nói riêng. Cuối cùng, với việc nghiên cứu về văn hóa truyền thống của người Ê-đê xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, hy vọng đề tài của chúng tôi sẽ đóng góp một phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu và bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc người một cách khoa học nhất. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Phụ lục, khóa luận được chia thành ba chương như sau: Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tổng quan về xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên 1.2. Khái quát về đồng bào dân tộc Ê-đê xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên
  12. ix Chương 2. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN 2.1. Văn hóa vật chất 2.2. Văn hóa xã hội 2.3. Văn hóa tinh thần Chương 3. BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN 3.1. Biến đổi văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở Eabar 3.2. Tác nhân biến đổi văn hóa truyền thống 3.3. Vấn đề bảo tồn văn hóa truyền thống
  13. 1 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tổng quan về xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên 1.1.1. Vị trí địa lý Phú Yên là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ, diện tích tự nhiên là 5.060 km2, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía nam giáp tỉnh Khánh Hòa, phía tây giáp tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk, phía đông giáp biển Đông. Phú Yên có vị trí địa lý và giao thông tương đối thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh có 09 đơn vị hành chính gồm các huyện: Đồng Xuân, Đông Hòa, Sông Hinh, Sơn Hòa, Phú Hòa, Tây Hòa, Tuy An, thị xã Sông Cầu và thành phố Tuy Hòa (là trung tâm tỉnh lỵ). Huyện Sông Hinh là huyện miền núi được thành lập từ ngày 25/02/1985 trên cơ sở chia cách huyện Tây Sơn thành hai huyện Sơn Hòa và Sông Hinh. Huyện Sông Hinh nằm ở phía tây nam Phú Yên, phía tây nam giáp tỉnh Đăk Lăk, tây bắc giáp tỉnh Gia Lai. Diện tích tự nhiên 886 km 2, tổng dân số 45.860 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 46% dân số. Dân cư tập trung ở khu vực thành thị 10.639 người, nông thôn 35.221 người trên địa bàn 10 xã (Sơn Giang, Đức Bình Đông, Đức Bình Tây, Eabia, Eabá, Eabar, Eatrol, Sông Hinh, Ealâm, Ealy) và một thị trấn (Hai Riêng). Xã Eabar là xã miền núi thuộc huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên được tách ra từ xã EaBá vào ngày 15 tháng 11 năm 1991 và đó được coi như là ngày thành lập xã. Xã có diện tích tự nhiên là 10.185 ha, nằm trên đường quốc lộ DT645, cách thị trấn Hai Riêng chừng 15km. Phía tây giáp với xã Ealy, phía đông giáp huyện Sông Hinh, phía bắc giáp xã Ea Lâm, phía nam giáp với huyện M’Drak, tỉnh Đăk Lăk. Trên địa bàn xã có các tuyến giao thông quan trọng nối với các khu vực trong và ngoài tỉnh, là cầu nối các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ với các tỉnh Tây nguyên, tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi hàng hóa (đặc biệt là giao lưu, buôn bán cà phê và mủ cao su với các tỉnh Tây Nguyên, trao đổi, buôn bán nguyên liệu làm giấy với tỉnh Khánh Hòa, vì nơi đây có diện tích trồng cây keo, tràm nằm rải rác khắp địa bàn xã) tạo liên kết hợp tác phát triển kinh tế - xã hội thông qua quốc lộ DT 645. Trong tương lai khi tuyến đường Đông Trường Sơn đi qua xã hoàn thành thì khả năng trao đổi hàng hóa càng thuận lợi hơn.
  14. 2 Xã Eabar là xã vừa có vị trí quan trọng về quốc phòng, vừa là vùng giao lưu văn hóa giữa các tỉnh duyên hải miền Trung với địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Với các dân tộc cùng sinh sống như: Ê-đê, Bana, Kinh, Tày, Nùng, Dao, Thái nên đời sống văn hóa hết sức phong phú và đa dạng. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc xã Eabar từng bước được chú trọng đầu tư. Một số lễ hội văn hoá và văn nghệ dân gian của đồng bào dân tộc Ê-đê (dân tộc bản địa) đã được phục dựng và bảo tồn như: lễ hội cồng ching 1, lễ bỏ mả, lễ cầu mưa, lễ mừng nhà mới, lễ cúng vòng đời Các loại nhạc cụ như: sáo đất, đàn Goong cũng được các nghệ nhân quan tâm và gìn giữ. Là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, giàu truyền thống hào hùng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên Cùng nằm ở rìa phía Đông của dãy Trường Sơn và tiếp giáp với Tây Nguyên nên khí hậu huyện Sông Hinh, trong đó có xã Eabar có đặc điểm chung là vừa chịu ảnh hưởng khí hậu vùng Tây Nguyên, vừa ảnh hưởng khí hậu vùng duyên hải miền Trung. Nơi đây, mỗi năm có 2 mùa: mùa nắng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, đôi khi có gió Tây Nam khô nóng hoạt động khá mạnh, mùa mưa rơi vào tháng 9 và tháng 10 đôi khi kéo dài đến tháng 1 năm sau. Nhiệt độ trung bình 24,90C. * Sông ngòi Là một xã có ít hệ thống sông ngòi nên từ khi thành lập xã đã triển khai đắp đê làm hồ chứa nước. Hiện toàn xã có 6 hồ chứa nước lớn, chưa kể các hồ chứa nước nhỏ do các hộ gia đình khai phá để phục vụ cho việc tưới tiêu sản xuất của bà con trên địa bàn. * Về đất đai Tổng diện tích tự nhiên trên toàn xã là 10.185 ha. Trong đó diện tích đất nông nghiệp là 7.258,17 ha, đất lâm nghiệp 2.262,8 ha, đất chuyên dùng là 253,72 ha, đất nông thôn 295 ha, đất chưa sử dụng 869,68 ha, đất mặt nước chuyên dùng là 242,8 ha. Ở xã Eabar đất đỏ và đất pha cát chiếm phần lớn diện tích. * Về rừng Theo số liệu từ Ủy Ban Nhân Dân xã thì đất lâm nghiệp là 2.262,8 ha, chủ yếu là rừng trung bình, nhưng đây là nơi bao bọc, tập trung nhiều loại động thực 1 Những người Ê-đê cao tuổi ở xã Eabar quen gọi Cồng chiêng là “đồng la” hoặc Cồng ching. Nên trong khóa luận này chúng tôi thống nhất tên gọi là cồng ching.
  15. 3 vật, người dân quen gọi là “Hòn đen” 2. Nơi đây có nhiều loại gỗ, cây thuốc quý như cẩm lai, trắc, mun, hà thủ ô, chò chỉ động vật có khỉ, hươu, vooc, vượn, trâu rừng. 1.1.3. Tình hình xã hội Xã Eabar là một xã nghèo thuộc diện đầu tư của chương trình 134 và 135 của chính phủ. Toàn xã có 8 thôn trong đó 4 thôn người Việt: thôn Eadin, thôn Ea Mkeng, thôn Chư Blôi, thôn Tân An và 4 thôn buôn đồng bào dân tộc Ê-đê: buôn Chung, buôn Thứ, buôn Trinh, buôn Quen. Đồng bào các dân tộc thiểu số xã Eabar sống theo dòng họ hình thành nên các buôn làng và có sự đan xen với người Việt trong địa bàn các thôn buôn. Tổng dân số toàn xã là 5.486 người. Trong đó dân tộc Ê-đê là 1.866 người, dân tộc Tày, Nùng 302 người, còn lại là người Việt. Xã Eabar được thành lập năm 1991. Là một xã vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nên nền kinh tế ở đây còn rất khó khăn, đồng bào chủ yếu làm nông nghiệp và chăn nuôi phụ thuộc vào thiên nhiên. Trình độ dân trí thấp nên việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chăn nuôi còn nhiều hạn chế nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Thêm vào đó, thời tiết diễn biến phức tạp làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, dịch bệnh và chuột phá hoại mùa màng nên tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao. Theo điều tra, rà soát hộ nghèo năm 2012 là 1.021 hộ chiếm tỷ lệ 79,5%. Những năm qua, từ khi đất nước chuyển sang đổi mới và xây dựng nông thôn mới, nhờ có chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, sự quản lý và điều hành sâu sát kịp thời của chính quyền địa phương, tổng thu ngân sách địa phương 85 triệu, thu nhập bình quân đầu người là 7,6 triệu. Đồng bào nơi đây đã phát huy ý chí tự lực tự cường, truyền thống cần cù lao động sáng tạo, tinh thần đoàn kết nên cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trên một số lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Đời sống vật chất ngày càng tiến bộ, chuyển biến theo hướng đi lên, nhu cầu về đời sống văn hóa tinh thần ngày càng được đáp ứng tốt hơn. Quốc phòng, an ninh ngày càng được giữ vững hơn. 2 Hòn đen là tên gọi quen thuộc của những người Ê-đê xã Eabar. Đó là một dãy núi bao bọc xã Eabar, nằm ở phía tây nam của xã.
  16. 4 Vấn đề giáo dục được xã tập trung chỉ đạo, tuyên truyền, vận động nên năm 2012 xã tiếp tục giữ vững phổ cập trung học cơ sở, phổ cập tiểu học và mẫu giáo đúng độ tuổi, công tác giáo dục - đào tạo được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Trong năm 2011-2012 các đơn vị thường xuyên tổ chức các hoạt động chuyên môn liên tục trong suốt năm học, tạo khí thế thi đua sôi nổi cho toàn ngành. Điều đáng chú ý là tỷ lệ học sinh là đồng bào Ê-đê chiếm tỷ lệ khá cao, cho thấy đồng bào Ê-đê đã quan tâm đến việc học của con em mình, nhiều người trong số đó đã thành đạt nắm nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Công tác y tế, dân số gia đình và trẻ em được quan tâm và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, chỉ tính trong năm 2012, toàn xã đã có tổng số lượt khám bệnh là 4338/5556 lượt đạt 0,78 lượt/người/năm. Khi có bệnh tật thì người Ê-đê đến các trạm Y tế để khám và điều trị, không còn trường hợp chữa bệnh bằng “thầy cúng”. Rõ ràng nhận thức về xã hội trong cộng đồng người Ê-đê đã được nâng cao đáng kể. Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao những năm qua xã đã tiếp tục tuyên truyền rộng rãi cuộc vận động “Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh”, tiếp-phát đầy đủ chương trình truyền thanh, đảm bảo tuyên truyền đầy đủ chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến từng người dân. Hiện nay UBND cũng đã triển khai tu sửa các loa đài của Đài truyền thanh xã đảm bảo thông tin kịp thời về tin tức thời sự - kinh tế - văn hóa xã hội - an ninh quốc phòng . Đăng ký tổ chức giải thể dục thể thao các dân tộc thiểu số 2012, tham gia hội thi đẽo tượng gỗ và chế tác nhạc cụ dân tộc do Trung tâm văn hóa thông tin (VHTT) huyện Sông Hinh tổ chức. Tính đến năm 2012 trong xã có 3 thôn buôn được công nhận là thôn buôn văn hóa (thôn Tân An, thôn Ea Din và thôn Ea Mkeng) công nhận 826 hộ gia đình văn hóa. Hiện tại mỗi thôn đã có nhà văn hóa và sinh hoạt cộng đồng. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được chú trọng. Việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết được quan tâm, đã tổ chức các lớp dạy tiếng Ê-đê cho cán bộ chủ chốt của huyện và một số lễ hội được phục dựng để lưu giữ. Phong trào đoàn kết toàn thôn buôn xây dựng đời sống văn hóa được triển khai rộng khắp, đánh dấu một bước quan trọng trong đời sống văn hóa của đồng bào.[4]
  17. 5 1.2. Khái quát về dân tộc Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên 1.2.1. Địa bàn cư trú Người Ê-đê ở Phú Yên cư trú trong một không gian tương đối rộng từ Sơn Hòa đến Sông Hinh. Vì cư trú ở rìa phía đông dãy Trường Sơn, cách xa khu vực tập trung của người Ê-đê (Đăk Lăk) và có số lượng dân cư không nhiều, nên người Ê- đê ở Phú Yên ít được các học giả quan tâm nghiên cứu. Địa điểm tụ cư của họ thường nằm theo các triền suối, sông nhỏ hay những chỗ đất cao và bằng phẳng, xa tít là những dãy núi chập chùng, xanh ngắt một màu. Người Ê-đê có dân số khoảng 12.759 người, cư trú tai các địa phương như xã Eabia, Eatrol, Eabar, Eabá, Ealâm Trong đó xã Eabar người Ê-đê tập trung ở 4 thôn trên tổng số 8 thôn đó là buôn Chung, buôn Thứ, buôn Quen và buôn Trinh. Theo số liệu điều tra dân số năm 2012 (bộ phận công tác Dân số và kế hoạch hóa gia đình thuộc Ủy Ban Nhân Dân xã Eabar) thì tổng dân số đồng bào Ê-đê là 1.866 người, trong đó buôn Chung là 156 hộ, 800 khẩu; buôn Thứ là 86 hộ, 379 khẩu; buôn Quen là 86 hộ, 363 khẩu; buôn Trinh là 71 khẩu, 324 khẩu.3 Người Ê-đê quần cư theo buôn, họ không quen sống xen kẽ với các dân tộc khác. Vì thế cư trú với mật độ khá tập trung, chỉ tính riêng tại xã Eabar qua các buôn thì người Ê-đê chiếm khoảng 99% dân số. Mỗi buôn có một bến nước chính, nếu dựng buôn gần sông, suối thì đoạn suối chảy qua chính là ranh giới. Ngày xưa chủ yếu lấy nước ở các con sông, suối. Ngày nay, các giếng tập thể mọi người cùng múc nước và đem về dùng. Mỗi buôn có một khu vực để sản xuất, chăn thả, buôn này không được xâm lấn buôn kia, nhà này không được xâm phạm đất đai của nhà khác, quy định về tính cộng đồng của người Ê-đê được thể chế hóa bằng hệ thống luật tục. Đứng đầu là già làng, người giữ quyền lực về thể chế trong thôn buôn. 1.2.2. Tên gọi và thành phần tộc người Người Ê-đê là một trong những tộc người có khá nhiều nhóm địa phương. Những nhóm đại phương có số dân đông là Kpă, Adham, Krung, Ktul, Hwing, Epan, Bil và M’Dhur. 3 Số liệu thống kê dân số-dân tộc trên địa bàn xã Eabar năm 2012.
  18. 6 Các cuộc điều tra và khảo sát thực địa nơi có người Ê-đê sinh sống tại Phú Yên cụ thể là xã Eabar cho thấy người Ê-đê ở xã Eabar thuộc nhóm Ê-đê M’dhur. Ngoài số dân cư trú tại chỗ, còn có một nhóm Ê-đê chuyển từ nơi khác đến. Trong quá trình cư trú có khuynh hướng giao tiếp văn hóa với người Djarai và người Chăm, nên trong ngôn ngữ và văn hóa có những yếu tố khác biệt so với cộng đồng người Ê-đê ở Đăk Lăk. Bên cạnh tộc danh Ê-đê hoặc Anak Đê một số học giả người Pháp thường nhắc đến dân tộc này với tên gọi Rhadé (Rađê). Tuy nhiên trong quá trình tồn tại và phát triển. Cũng như các nhóm Ê-đê khác có xu hướng xích lại gần nhau hơn trên cơ sở tộc danh chung Ê-đê. Chỉ tính riêng trên địa bàn xã Eabar thì họ của người Ê-đê có các họ Ksor, Nay, Huynh, LêMô, Kpá, Lê, Bon Trong số các họ trên thì họ Ksor, Nay và LêMô là những họ chiếm phần lớn trong cộng đồng dân tộc ở địa bàn. Trong giao tiếp thường ngày, cũng như người Việt họ chỉ gọi tên, ví dụ như một người có tên là Ksor Y Nuôi thì lúc gọi tên trong giao tiếp gọi là: “Y Nuôi” còn đối với người già, nếu là người thân trong nhà thì đàn ông gọi là “Oi”, nếu là phụ nữ thì gọi là“ Tun” hoặc “Adôn”. Điều đó thể hiện sự lịch thiệp trong quan hệ xã hội, cộng đồng, thể hiện tình cảm thiêng liêng gắn chặt quan hệ gia đình, bạn bè hàng xóm. 1.2.3.Truyền thống đoàn kết đấu tranh Trước đây, khu vực người Ê-đê Phú Yên đang sinh sống là địa bàn thuộc huyện M’Drak, tỉnh Đăk Lăk, cư dân vùng này vừa có quan hệ gốc tích, vừa có quan hệ lãnh thổ với người Ê-đê ở Đăk Lăk. Do vậy những biến động về kinh tế chính trị, kinh tế văn hóa của vùng đất Tây Nguyên đều tác động đến người Ê-đê ở Phú Yên. Mùa hè năm 1947, địch lập đồn ở Hai-Riêng, Cà Lúi, Bà-Lá, Ma phu, đưa quân chiếm các xã Eabá, Eabia, Suối Trai, Krông-Pa. Ngày 5 tháng 1 năm 1948, từ Cheo Reo, Ai Nu, địch mở rộng cuộc hành quân đánh xuống Củng Sơn, bị ta chặn đánh quyết liệt buộc phải rút về Cà Lúi. “Đầu năm 1948, bọn giặc Pháp mở cuộc hành quân dọc theo sông H’Năng và sông Ba càn qua sông Ba rồi chúng nó lên dốc M’hăm tại buôn Bầu, trung đoàn 84 Nơ-Trang-Lơng phục kích đánh địch trên đồi M’hăm, thu được một đoàn voi tiếp tế của địch” 4. 4 Theo lời kể của Ông Ma Not ( sinh năm 1920, ở buôn Chung, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên).
  19. 7 Với âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, Mỹ nhanh chân nhảy vào thay thế thực dân Pháp và ngang nhiên xóa bỏ hiệp định ngừng chiến ở Việt Nam, Mỹ-Ngụy đưa quân đóng đồn Hai Riêng, Tân Vinh, Cà Lúi, mở các cuộc hành quân đốt nhà, phá rẫy, dồn dân. Trước tình hình đó tỉnh ủy Phú Yên, huyện ủy Sơn Hòa đã có những chủ trương và biện pháp chống trả kẻ thù. Mùa hè năm 1963 lực lượng vũ trang ở các xã Eabá, Eatrol, Eabia, Đức Bình, buôn Thung đánh tan các cuộc càn quét quy mô lớn của địch từ Buôn Ma Thuột kéo xuống. Để chuẩn bị giải phóng Phú Yên đồng bào Ê-đê ở các xã Eabar, Eabia, Eatrol, Suối Trai, Cà Lúi và buôn Bầu, đã không quản gian khổ hy sinh, ngày đêm bám trụ làm đường, chặt tre, đan mê lót đường, làm cầu để xe chở hàng hóa, đạn dược, thuốc men chi viện cho chiến trường Phú Yên. Qua hai cuộc kháng chiến đã có 213 người con của dân tộc Ê-đê hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đây là những trang sử hào hùng trong truyền thống đánh giặc ngoại xâm của đồng bào Ê-đê ở xã Eabar nói riêng và Phú Yên nói chung.[9] 1.2.4. Hoạt động kinh tế Cư trú trong môi trường phần lớn phụ thuộc vào thiên nhiên, vì vậy kinh tế nông nghiệp trong đó rẫy chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống bà con. Đất rẫy thích hợp là loại đất rừng già có nhiều cây lớn, có thảm thực vật dày. Khi tiến hành khai phá, đồng bào luôn quan tâm bảo vệ rừng, tránh hủy diệt giun đất và hủy diệt tràn lan, biến đất đai thành đồi trọc. Lúc chọn được đám rẫy, đồng bào không chặt phá hết mà để lại những khoảnh rừng lớn để chống xói mòn, đồng thời lấy cây làm nhà, và chỉ sau một vài năm khi đất canh tác đã bạc màu họ mới phát tiếp và cứ sau vài năm họ lại quay về chỗ cũ canh tác. Do điều kiện tự nhiên, nơi cư trú của người Ê-đê xã Eabar, về đất đai chủ yếu là đất pha cát nghèo chất dinh dưỡng nên người Ê-đê phải đi xa vào các sườn núi, chủ yếu ở phía đông nam để khai phá đất đai, do đó từ lâu người Ê-đê ở đây đã có kiểu cư trú ngoài buôn 5 và cư trú trong buôn, kiểu cư trú này thích nghi với sản xuất nông nghiệp, tiện lợi canh tác. * Một số nông cụ truyền thống: 5 Là hình thức cư trú khá phổ biến của người Ê-đê xã Eabar, họ dựng các ngôi nhà nhỏ “chòi”, có sàn cao gần nơi canh tác, thường là dưới các chân đồi, có các vật dụng và đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt và sản xuất. Họ ở đó trong suốt quá trình chăm sóc cho đến khi thu hoạch, rồi họ lại quay về ngôi nhà chính của mình ở trong buôn.
  20. 8 Trong sản xuất kinh tế người Ê-đê xã Eabar sử dụng một số công cụ như xà gạc, wăng-briêng, wăng wit, gùi lớn để thu hoạch, hwar Rìu là công cụ để chặt, đốn cây lớn dùng trong quá trình phát dọn nương rẫy. Đồng thời, rìu cũng dùng để chẻ những cây gỗ lớn để đốn củi phục vụ cho sinh hoạt nấu nướng thường ngày. Xà gạc là một lưỡi dao có mỏ cặp, cán bằng tre hoặc gỗ được tra (cố định) vào phía đầu cong của cán, lưỡi và cán là hai đường song song. Người đàn ông Ê-đê khi đi ra ngoài thường có thói quen đem theo xà gạc trên vai để phát dọn nương rẫy đồng thời đó cũng là vũ khí khi gặp thú dữ. Wăng-briêng là chiếc cuốc nhỏ để làm cỏ ở những vùng có cây cỏ nhỏ mọc và xới đất gồm một lưỡi sắt nhỏ giống như lưỡi liềm. Wăng wit là loại cuốc nhỏ dùng để làm cỏ lúa, bắp, so với wăng briêng thì lưỡi nhỏ và dài hơn, phần đầu lưỡi nhọn dần, được uốn cong và lắp vào cán, nó gần giống như lưỡi dao bẻ cong lại, mặt lưỡi không vuông góc với cán mà hơi nghiêng. Gùi (pung guj) là phương tiện vận chuyển chủ yếu và phổ biến của người Ê-đê xã Eabar. Gùi thường được đan bằng tre hoặc mây, phần đáy bằng gỗ được được đẽo thành 4 mặt khá vuông góc. Gùi thường được đan thành hình khối trụ tròn, có mặt vành to và nhỏ dần ở phần đáy, có hai quai được bện bằng dây rừng thường là mây, hoặc cây cổ rùa một đầu buộc vào vành gùi, đầu kia buộc vào đáy gùi. (xem phụ lục hình ảnh, hình 10). Trong các dụng cụ thì cày và bừa là hai loại dụng cụ hỗ trợ tốt trong việc cày và xới đất, có thể được đẽo bằng gỗ hoặc lấy cây tre già ghép lại, cày của người Ê- đê giống của người Việt, chỉ khác một điều là vì cày và bừa của họ được thiết kế cho hai con bò kéo một lần. Những người Ê-đê ở đây cho rằng nếu cái cày mà dùng 1 con bò kéo thì nó sẽ kéo yếu hơn, cày sẽ không sâu và lúc trồng lúa sẽ không năng suất. Mặt khác, họ rất yêu những con vật nuôi, nên họ không muốn vật nuôi làm nặng nhọc. Chính vì điều đó, người Ê-đê xã Eabar không có một phương tiện vận chuyển nào dựa vào sức của động vật như cộ bò, kiên an 6 như người Việt, điều đó ảnh hưởng sâu đậm trong văn hóa người Ê-đê. 6 Cộ bò, kiên an là phương tiện vận chuyển được người dân xã Eabar hay dùng, đó là một khung hình chữ nhật, được gắn kết với nhau bằng gỗ, ở phần đáy có lắp 2 bánh theo chiều ngang song song với nhau, ở hai bên khung có 2 thanh cây dài được thiết kế sao cho con bò có thể kéo xe di chuyển. Cộ bò là phương tiện vận chuyển lúa, cà phê vào nhưng năm 1990-2000.
  21. 9 Ngay từ khi định cư sinh sống ở đây, đồng bào Ê-đê đã canh tác lúa nước và lúa rẫy rải rác dưới những quả núi. Hình thức canh tác nương rẫy, người Ê-đê ở xã Eabar cũng giống với Ê-đê ở Đăk Lăk đó là “Việc sử dụng nương theo chế độ luân khoảnh gắn liền với việc sử dụng giống lúa gieo trồng trên các loại nương cũ, mới khác nhau. Nương mới khai phá năm đầu, Enah thường trồng các giống lúa mdie Wiet, mdie Ana, mdie Blá. Nương đã sử dụng 3, 4 năm, Kpuh trồng mdie Săn, mdie Kê, còn nương rẫy đã sử dụng lâu năm người ta trồng mdie Gêrang, lúa Halan, Sikar khi lúa trên những nương đã sử dụng lâu năm đem lại năng suất kém thì bỏ hóa, nương đó gọi là Ksor ”[2; 46] Khắp các thôn, buôn xã Eabar đều có ruộng nước của người Ê-đê, và ở men các cánh đồng rải rác những chòi 7, túp lều của người Ê-đê ở để thuận lợi cho việc trông coi, chăm sóc. Gần đây, được sự chỉ đạo của ban khuyến nông và lãnh đạo xã, bà con chủ yếu trồng các cây công nghiệp như cà phê, sắn mì, mía, xen lẫn ngô. Ở những chỗ bằng phẳng hơn chủ yếu trồng ngô, đậu. Kể từ năm 2009 người Ê-đê trồng cây cao su trên những quả đồi nhỏ, dần thay thế cây cà phê đem lại thu nhập ổn định cho bà con. Do cuộc sống hầu như phụ thuộc vào tự nhiên và dựa trên điều kiện tự nhiên sẵn có, nên chăn nuôi chiếm phần quan trọng trong đời sống. Ở xã Eabar hộ gia đình nào cũng chăn nuôi bò nhưng mang tính tự nhiên, chăn thả rông, họ ít làm chuồng bò. Gia súc chủ yếu ngủ dưới sàn nhà, vì là hình thức chăn thả rông nên mất mát khá nhiều và đôi khi vào phá trong các cánh đồng người Việt. Vì thế, gần đây khi nhận thức ngày càng cao, khoảng đất trống không còn nhiều, người Ê-đê đã chuyển sang hình thức chăn thả có người trông coi, và đã có chuồng trại để cho bò. Đây là một thay đổi đáng mừng trong sinh hoạt của người Ê-đê. Việc làm này không những nâng cao chất lượng đàn bò mà còn cải thiện môi trường sống. Heo cũng là vật nuôi chiếm phần quan trọng trong mỗi thôn buôn, đồng bào chủ yếu nuôi heo mọi, có màu đen, sức đề kháng với môi trường tự nhiên cao, chủ yếu là chăn thả rông, heo thường đi kiếm ăn, ủi đất ăn giun, rau, cỏ. Khắp các buôn, chủ yếu nuôi heo nái và heo thịt, heo đực thì được giữ lại để cúng trong các buổi lễ cúng 7 Chòi của người Ê-đê là những ngôi nhà nhỏ, thường là mái tranh, vách nứa, có sàn cao trên 1m, trong chòi có các vật dụng và đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt và canh tác. Được dựng gần các cánh đồng, nương rẫy để thuận tiện cho việc chăm sóc và bảo vệ cây trồng. Đây cũng là hình thức cư trú ngoài buôn của người Ê-đê xã Eabar.
  22. 10 Yang, cúng rượu 3, rượu 5 Thức ăn cho heo chủ yếu là loại “môn” (là loại cây thân mềm thường mọc ở nơi ẩm ướt người Ê-đê khi đi làm ruộng về cắt nhỏ nấu chín mềm, trộn lẫn với cám gạo) xác bã rượu cần, cám, thóc giã nát. Hiện nay khi số lượng bò ngày càng ít và giá bò ngày càng cao thì heo gần như được đem thay thế cho các lễ cúng. Ngoài heo, người Ê-đê còn nuôi gà, vừa là nguồn cung cấp thịt cũng vừa là vật cúng trong các buổi lễ. Chuồng gà của người Ê-đê cột trụ được thiết kế rất cao (xem phụ lục ảnh, hình 11). Đây có lẽ là để cho đàn gà phù hợp với tập tính của nó, và cũng là dư âm của lối sống khi mà xưa kia người Ê-đê sống gần các quả đồi để tránh thú dữ ăn thịt. Cùng với hoạt động sản xuất, việc tìm kiếm nguồn thức ăn trong rừng, trên sông suối cũng là một trong những hình thức mưu sinh của người Ê-đê xã Eabar nhằm khai thác nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ để cải thiện, duy trì đời sống và bảo đảm sự sinh tồn. Khi đi rừng người Ê-đê hái măng, rau. Đặc biệt có một loại rau tên gọi là rau giún rất ngon, có hình tương tự như vòi con voi chỉ mọc ở trong rừng sâu, gần chỗ ẩm ướt, rất được người Ê-đê ưa chuộng. Bên cạnh đó, người đồng bào còn hái sa nhân. “Ngày xưa xã Eabar còn chưa tách khỏi xã Eabá thì vùng đất này rất nhiều mật ong, ở tít trong “Hòn đen” cứ vào khoảng tháng 4 đến tháng 7 hằng năm, mình cùng trai làng rủ nhau vào rừng lấy mật ong. Vào những lúc rảnh rỗi hay lúc sắp đến mùa gặt lúa là đồng bào mình thường vào rừng săn bắn đem theo chó, bẫy tự chế, cung tên, và một vài khẩu súng còn sót lại sau chiến tranh vào rừng săn bắn, chủ yếu là heo rừng, nai mình đi liên tiếp cả tuần, có khi lên tới cả tháng, nếu săn được con gì, thì tiến hành sơ chế (nghĩa là mổ xẻ), chia thành từng mảnh và gánh về buôn làng sau đó chia từng phần cho nhưng người tham gia”8. Ngoài săn bắn còn có hoạt động đánh cá rất kỳ thú, men theo các con suối nhỏ, hay các chỗ sông chia nhánh, người Ê-đê xếp đá, đan thành các thành lũy chặn các con sông suối lại và để một lỗ nhỏ và đặt một “cái đó” 9 để cá vào và hàng tuần họ đến lấy cá một lần. Những người phụ nữ trong làng thì vào rừng hái sa nhân, phong lan tím, đôi khi có tắc kè, rắn nhỏ, về bán cho các hiệu buôn người Việt để đổi lấy vật phẩm cần 8 Theo lời kể của ông Oi Núc (tức Doun Y Don, buôn Chung, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên). 9 “Đó” là một dụng cụ đánh cá thường được người Ê-đê xã Eabar sử dụng, “đó” được đan bởi những cây trẻ chẻ thành từng lát mỏng và đan thành hình giống như cánh quạt và uốn cong như ống nước chẻ làm đôi, đầu miệng loe to ra và gần tới đáy thì càng nhỏ gần lại, được đặt ở chỗ đã được định hình trước, thường là chỗ có nhánh sông, suối nhỏ. Khi cá, lươn bơi qua thì chúng vô tình bơi vào “cái đó” và không đi ra được.
  23. 11 thiết như rổ, chén, bát v.v.v. Những lúc đi rừng, làm rẫy người Ê-đê luôn gùi thêm gùi củi đem về nhà sắp xếp ngay ngắn, để dưới sàn nhà để nấu ăn và phòng mùa mưa không có củi sinh hoạt. 1.2.5. Nghề thủ công truyền thống Không giống như người Ê-đê ở Tây Nguyên, người Ê-đê ở Phú Yên chưa biết rèn công cụ lao động bằng sắt, họ chủ yếu trao đổi với người Việt trên địa bàn. Do vậy nghề thủ công truyền thống của người Ê-đê nơi đây là đan lát nhà cửa và các công cụ sinh hoạt trong gia đình như: thúng, gùi, mẹt, rổ. Thúng có nhiều loại, có loại to tròn như chiếc gùi đựng bắp, có loại miệng rộng, có loại miệng loe chủ yếu để đựng ngô, lúa dùng khi hót lúa, ngô vào bao cất vào kho. Gùi là loại dụng cụ được đan lát bằng tre hoặc nứa dùng để gùi lúa, nước, củi, và đựng các vật quý trong nhà. Ngoài những chiếc gùi lớn, người Ê-đê còn đan những chiếc gùi nhỏ, có trang trí hoa văn rất thẩm mỹ, những đường nét được tạo bởi những thẻ tre, nứa, được gọt, đẽo và xếp thành hình (thường là những đường carô) hoàn toàn không dùng sơn, cho trẻ em gùi nước, hái rau, bẻ măng, dùng để đưa cơm khi đi rẫy. Các vật phẩm đan lát xong thì gác trên bếp để hun khói cho đen nhằm chống mọt và tăng độ bền, dẻo dai cho dụng cụ. Mẹt, rổ cũng có nhiều loại, nhưng chiếc mẹt tiêu biểu của người Ê-đê ở đây là chiếc mẹt hình trái tim, ở mui trái tim có một khe nhỏ để lúc sàng lúa, hạt lúa sẽ theo khe nhỏ đó chạy vào bao lúa tránh rơi vãi ra ngoài. Ngày xưa, vùng đất Eabar này rất nhiều tre nứa nhưng dụng cụ khai thác gỗ còn quá sơ sài nên lượng gỗ chặt về để làm nhà còn ít. Vì thế, chỉ chặt được những cây nhỏ và cây tre, nứa dùng để đan mê làm tường nhà. Những cây nứa, cây tre được chẻ đôi và dùng cây đập ra từng mảnh và cố kết lại thành từng mảng lớn để làm tường cho ngôi nhà. Chỉ có cột nhà và đòn tay mới dùng gỗ còn lại chủ yếu là tre, nứa. Bây giờ khi đặt chân về những buôn làng trên địa bàn xã Eabar rất hiếm thấy những kiểu nhà như vậy, các lũy tre xanh bao bọc quanh buôn làng, nhưng rất ít sử dụng tre để đan lát làm tường nhà nữa mà chủ yếu để lấy măng, làm hàng rào, phục vụ cho việc đan lát và các dụng cụ phục vụ cho sản xuất. Nhìn vào trang phục, chúng ta có thể phân biệt được người đó thuộc chủng tộc nào thông qua trang phục, bởi vì nghề dệt vải thủ công là một yếu tố cốt lõi, xác định sắc màu tộc người. Ở xã Eabar nghề dệt vải khá phát triển. Cứ vào thứ bảy, chủ nhật và những lúc rảnh rỗi là người phụ nữ trong buôn bắt đầu dệt vải. Họ
  24. 12 không dệt trên khung cửi mà giăng thành một đường vòng rồi lấy hai đoạn cây căng thẳng dây, sao cho đường sợi tơ trải ra hai mặt song song kề nhau, móc nối với nhau bằng một chiếc go. Khi dệt, người dệt lấy một đoạn dây chằng qua lưng và đầu kia buộc vào cây cột để cho toàn bộ sợi dây căng đều, tạo thành một cái khung dệt, họ cũng không dùng thoi mà cầm suốt chỉ để luồn, để hai tầng sợi đan vào nhau thành tấm vải, việc dệt như vậy rất công phu. Khi dệt hoa văn, người Ê-đê xếp các sợi chỉ màu, cùng với sợi chỉ đen thành một tấm thảm dọc và theo một kiểu trang trí hoa văn được định hình trước, hoa văn trang trí chủ yếu là quang cảnh thiên nhiên, là các ô carô, những ô vuông nhỏ được chồng lên nhau, là những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống đồng bào như con chim, con cá. Từ sợi chỉ trắng để tạo ra sợi chỉ màu người Ê-đê tiến hành nhuộm chỉ, công thức nhuộm chỉ dựa vào kinh nghiệm ngàn đời được đúc kết qua bao thế hệ. Như để có màu đen chàm dùng cây chàm, để có màu vàng người Ê-đê dùng cây nhàu, hoặc củ nghệ, để có màu nâu thì dùng vỏ cây dẻ. Để dệt một chiếc áo, váy, khố, ngưởi phụ nữ Ê-đê phải mất từ 3 đến 4 tháng. Thời gian bỏ ra lâu như vậy cho nên người Ê-đê rất coi trọng, và trị giá của nó cũng rất cao. Vải dệt còn là vật phẩm để bắt chồng, quà cho cha mẹ, anh em họ hàng trong lễ cưới hỏi. Nhưng hiện nay nghề dệt này ít được đồng bào đây chú trọng vì váy dệt kiểu này rất nóng, trong khi đó váy ngoài thị trường cung cấp đầy đủ cho nhu cầu của họ. Một nghề thủ công không thể thiếu trong đời sống của người Ê-đê xã Eabar là nghề chế biến rượu cần. Rượu cần đi vào các buổi lễ cúng Yang, đi vào văn hóa truyền thống của người Ê-đê. Trong các công đoạn chế biến rượu cần thì công đoạn làm men là quan trọng nhất, việc đầu tiên là phải nấu cơm. Gạo ở đây không phải là gạo bóc trắng mà là loại gạo bóc lần một trong quy trình xay lúa, người Ê-đê lấy gạo đó đem nấu thành cơm, sau đó bốc ra mẹt, hoặc nia để hơi nguội rồi trộn đều men và bỏ vào ché, sau đó dùng lá chuối bịt kín miệng ché lại. Về phần men rượu người Ê-đê thường dùng rễ cây dong riềng rửa sạch, phơi khô, tán nhỏ rồi trộn thêm bột củ riềng, hoặc gừng, bột gạo nắn thành từng nắm nhỏ và đem phơi khô. Ché rượu cần thường đặt ở phía đông của ngôi nhà, khoảng vài tháng là đem ra uống, vì thời gian càng lâu thì độ của rượu càng mạnh. Rượu cần là một lễ vật không thể thiếu trong các buổi lễ, bất cứ là lễ gì, lớn hay nhỏ đều có rượu cần, ví dụ như cúng rượu 3 thì gồm có 3 ché rượu và 1 con gà, cúng rượu 5 thì năm ché rượu và 1 con
  25. 13 gà, heo thiến. Thứ tự các ché rượu được đặt theo hình tam giác đứng, nghĩa là ché cao, to đặt ở giữa, ché nhỏ hơn đặt liền kề và được cố định bằng dây thừng níu với cột nhà, vì theo qua niệm của người Ê-đê nếu ché rượu mà đổ bể thì đó là một điềm báo không tốt. Người Ê-đê xã Eabar có thói quen hút thuốc lá, trong các mảnh vườn nhỏ, gần nơi cư trú những người già trong nhà trồng các cây thuốc lá, sau đó phơi khô và thái nhuyễn đem cất vào bao. Họ chủ yếu hút thuốc lá bằng tẩu (xem phụ lục hình ảnh, hình 17). Vì thế, tẩu thuốc được chế tác khá nhiều kiểu. Có loại bằng tre, nứa, gỗ, được gọt đẽo rất công phu và được quấn đồng, nhôm hoặc bạc xung quanh tẩu thuốc, nhưng thông dụng nhất vẫn là tẩu thuốc được quấn bằng lá chuối. Người Ê- đê bỏ thuốc vào 1 mảnh lá chuối và quấn theo hình xoắn con ốc. Có thể thấy, cuộc sống của người Ê-đê tách ra khỏi các dân tộc khác nên còn lưu giữ được những văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc riêng của dân tộc mình. Dù có những thay đổi về phương thức sinh hoạt do bước tiến của xã hội, nhưng nét văn hóa truyền thống giàu bản sắc dân tộc vẫn còn sống mãi với bà con nơi mảnh đất Phú Yên này.
  26. 14 CHƯƠNG 2 MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ TẠI XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH TỈNH PHÚ YÊN 2.1. Văn hóa vật chất 2.1.1. Ẩm thực Xưa kia, mặc dù sống trong những điều kiện kinh tế, xã hội thấp, nhưng vì nhu cầu của cuộc sống người Ê-đê luôn sáng tạo để thích nghi với môi trường. Sống dựa vào thiên nhiên nên người Ê-đê đã lợi dụng và biến đổi để hòa hợp sao cho phục vụ cho đời sống của mình. Cũng như bao dân tộc khác, nguồn lương thực chính của người Ê-đê là gạo tẻ, chỉ những lúc mất mùa bà con mới dùng khoai, ngô, sắn nấu độn với gạo và ăn qua ngày. Hầu hết người Ê-đê ăn hai bữa chính trong ngày, bữa sáng và bữa chiều, chỉ những lúc đi làm xa thì họ mới đem theo cơm vắt, muối ớt ăn phụ vào buổi trưa. Rau, củ, quả và thịt thú rừng là nguồn thực phẩm chính dùng trong bữa ăn chính của người Ê-đê. Rau, củ, quả chủ yếu là bà con lúc đi nương rẫy hái về, một số ít trong số đó là tự trồng lấy rau ở xung quanh vườn nhưng thường rất hiếm. Bởi vì, đa phần họ chăn nuôi bò, heo theo hình thức chăn thả rông nên bò, heo phá vườn của họ, chỉ rất ít hộ gia đình rào thật kỹ mới trồng được rau, củ. Thịt thú rừng, thủy sản ở sông, suối, ao, hồ hoặc thịt các con vật giết mổ thường để cúng tế. Cách chế biến món ăn của người Ê-đê khá đơn giản, trong tâm thức suy nghĩ của họ là phải làm sao khi nấu ăn hạn chế thấp nhất việc làm mất mùi vị của đồ ăn. Nghĩa là, đối với loại thực phẩm là rau, củ, quả, đồng bào thường chế biến thành món canh, món luộc, hoặc nấu mặn với cá hoặc thịt. Trong bữa ăn không thể thiếu chén muối ớt. Đối với loại thực phẩm từ động vật, người Ê-đê chủ yếu nấu cho chín và chấm với muối ớt. Nướng thịt, nấu mặn với rau, củ là những cách chế biến món ăn được họ quan tâm nhất. Ngoài ra còn có khá nhiều món chế biến từ động vật như lòng heo nấu với quả chuối xanh và tiêu, món thịt thái nhỏ, trộn đều với muối ớt và nướng gọi là “knut”, món thịt nấu với các loại rau quả gọi là “tukdjam”. Người Ê-đê rất thích ăn món gié. Nguyên liệu để chế biến món gié là ruột non, da,
  27. 15 xương của các con vật được giết mổ, đem băm nhỏ, trộn đều với muối, bỏ vào tô ướp từ 4 đến 5 ngày là có thể lấy ra ăn được. Một món ăn cũng được rất nhiều người chế biến đó là món thịt chuột nướng. Đây là món thường chỉ dành cho những người lớn tuổi. Chuột được bắt ở ngoài đồng, đem về lột da và hun khói trên bếp lửa để giành lúc mưa bão không kiếm được nguồn thức ăn. Người Ê-đê thích ăn cay nên các món ăn đều được bỏ rất nhiều ớt, dù là món canh, món xào, ăn sống đều có ớt rất cay vì theo họ ăn mà cay xé lưỡi thì mới ngon, mới đậm đà hương vị. Người Ê-đê ở xã Eabar có thói quen ăn bốc, khi ăn cơm, người đàn bà chủ gia đình cho cơm vào rổ, nia, rá, hoặc tô đất, tô đồng để cho mọi người cùng bốc. Đối với thức ăn thịt họ chia đều ra thành chén nhỏ, có khi để nguyên trong nồi. Tuy vậy, người già, trẻ em và phụ nữ mang thai có quyền ăn nhiều hơn, nhưng không có sự cách biệt đáng kể. Người Ê-đê ở đây quen uống nước lã, đó có thể là nước được lấy từ ngoài sông, suối hoặc những cái giếng làng. Chỉ khi sinh đẻ, bệnh tật thì họ mới uống nước đun sôi. Các buổi lễ cúng hay họp mặt họ uống rượu cần, chứ không dùng thêm bất cứ loại rượu nào. Trong tập tục sinh hoạt cư dân cũng đặt ra nhiều kiêng cữ để bảo vệ nguồn nước, hằng năm trong buôn thường tổ chức các buổi lễ cúng bến nước, họ không cho bất cứ ai làm bẩn nguồn nước đầu nguồn, cấm phóng uế, vứt động vật chết xuống sông suối. 2.1.2. Trang phục Phụ nữ Ê-đê mặc áo, váy chàm có thêu những hoạ tiết sặc sỡ, áo thường trùm xuống mông cho ra ngoài váy. Cổ áo, vai áo xuống cánh tay, gấu áo được thêu những đường viền, trang trí bằng những dải hoa văn sáng màu đỏ, vàng và trắng, là những màu sắc gần gũi với màu hoa của núi rừng. Váy của phụ nữ Ê-đê là váy mở quấn quanh thân mình. Trên nền chàm mềm mại được thêu những đường chỉ đỏ sọc ngang ở trên, giữa và gấu dưới. Căn cứ vào dải hoa văn mà người Ê-đê đặt tên cho váy M’yêng, váy Đếch, M’yêng - drai Trong đó loại váy Đếch có giá trị cao nhất, tiếp đến là M’Yêng - drai và sau cùng là Kđêch – piêk. Đây là những chiếc váy mặc trong lễ hội, đám cưới, thăm viếng họ hàng. Váy có giá trị thấp nhất là “váy bơng” để người già, người nghèo mặc trong lúc lao động, làm rẫy. Thế nhưng loại váy này lại là trang phục thường ngày của hầu hết người Ê-đê ở đây, có lẽ vì váy có kết cấu
  28. 16 đơn giản, lại có thể co giãn thích hợp mọi công việc và điều kiện tự nhiên nên đó là màu sắc chủ yếu khi ai đó đặt chân đến buôn làng. Có loại váy thường mặc khi lên nương rẫy, có váy mặc ở nhà và những váy được trang trí công phu, nhiều màu sắc sặc sỡ dành cho những ngày hội ngày lễ, tết. Ngày nay thiếu nữ Ê-đê thường mặc váy kín. Phụ nữ Ê-đê cũng như phụ nữ nhiều dân tộc khác, họ chú trọng nhiều đến trang sức, chuộng các đồ bằng bạc hay đồng làm vòng đeo cổ, đeo tay. Về áo, áo tiêu biểu của người Ê-đê xã Eabar quen gọi là “Ao đếch kvich grư”. Loại áo này có tay dài, cổ kéo dài ngang vai, thân và tay áo đều hẹp, mặt trước và mặt sau bằng nhau áo mở ở hai vai, đôi khi có đính một hàng cúc trước ngực để khi mặc áo chui đầu, lúc đi lao động họ thường mặc áo và váy đơn giản đó là loại áo và váy trơn đơn giản không trang trí hoa văn có tên gọi là “Ao-băl”. Vào lúc thời tiết nóng những người phụ nữ lớn tuổi thường chỉ mặc váy và ở trần. Vào những ngày lạnh họ thường mặc nhiều áo và đôi khi có khoác một tấm chăn mỏng bên ngoài. Ngoài ra, phụ nữ Ê-đê có thói quen bới tóc sau gáy rồi cài trâm bằng đồng hoặc bằng ngà voi, thỉnh thoảng bằng bạc. Đối với những người phụ nữ lớn tuổi có những vòng đồng lớn, vòng bạc đeo ở cổ, cổ tay, cổ chân, và đeo các khuyên tai bằng bạc, đồng, gỗ, xương thú. Đối với người Ê-đê ở Đăk Lăk cụ thể là người Ê-đê Kpă cũng có những điểm giống nhau với người Ê-đê ở xã Eabar về màu sắc và kích cỡ, kiểu dáng. Nhưng đối với người Ê-đê ở Đăk Lăk có những điểm khác thể hiện ở phần cổ áo và phần trang trí trên ngực áo, cổ áo nam của người Ê-đê ở Đăk Lăk có cổ tròn xẻ thẳng xuống ngực, xung quanh cổ và đường xẻ có kết những khuy bằng vải nhỏ để cài nút, hai bên đường xẻ là môt hình thang cân, hai phần của hình thang tượng trưng cho đôi cánh của chim đại bàng, là biểu tượng sức mạnh của người đàn ông. Đặc biệt ở phần ngực áo, người ta đính kèm sát vào nhau những dây sợi đỏ để làm chân khuyết và chân khuy áo, tạo thành một mảng trang trí hình thang cân, đáy nhỏ nằm ở trên, đáy lớn nằm ở dưới. Dọc theo giữa lớp dãy chỉ đỏ này là trên dưới 15 cái khuy, được đính thành một hàng khuy đồng màu vàng10. Trang phục nam truyền thống của người Ê-đê xã Eabar là“Đàn ông Ê-đê thường mặc khố (Kpin). Khố Ê-đê nhuộm màu chàm và thường có những dải hoa văn dệt dọc hai bên mép theo chiều dài của khố, đôi khi ở hai đầu khố được trang 10 Xem thêm Đại cương về người Ê-đê, M’nông ở Đăk Lăk, sđd từ trang 99-103.
  29. 17 trí hoa văn nằm ngang. Căn cứ vào dải hoa văn của các hoa văn ngang dọc này, đồng bào đặt tên cho các loại khố và tính giá trị của nó.”[9; 80] Trong các loai khố như Kdrêch-piêk, khố Pơng, Kteh, khố Miang, khố Ktêh là loại khố đắt giá nhất, tiếp đến là khố Drai (xem phụ lục hình ảnh, hình 14). Đó là những loại khố thường được người đàn ông mặc trong các lễ hội, buổi tiệc, ma chay. Về áo, chiếc áo truyền thống của người họ là loại áo lửng, tay áo dài và hẹp, cổ áo thấp, trước ngực có hàng khuy có thể là bằng sừng trâu hoặc đồng, đôi khi làm bằng gỗ. Hoa văn trang trí trên áo nam thường nằm ở hai nách áo và mép cuối của áo và cổ tay. Áo có giá trị nhất là áo mà người Ê-đê nơi đây quen gọi là “Đêch kvưh grư”. Loại áo này chỉ dành cho những người có quyền lực trong buôn vào các dịp lễ hội lớn của buôn. Thường ngày, họ ít đem ra mà bảo quản rất cẩn thận. Vì thế kiểu áo này được dệt và trang trí rất công phu, các hoa văn được trang trí ở hai bên nách, ở phần trước ngực áo được dệt bởi những sợi dây màu đỏ tạo thành một mảng trang trí rất bắt mắt. Theo quan niệm của người Ê-đê nếu màu đỏ trước ngực mà lớn, và sặc sỡ thì người đàn ông đó càng có quyền lực và giàu có. Tuy nhiên, biến tấu về trang trí hoa văn cũng có nhiều thay đổi, các trang trí hoa văn không đặc sắc như người Ê-đê ở Tây Nguyên. Áo dùng trong lao động là loại áo không được trang trí hoa văn, không có sợ chỉ đỏ trước ngực. Vào mùa hè đàn ông Ê-đê thường đóng khố và cởi trần, về mùa lạnh họ thường khoác thêm tấm đắp mà gọi là “abăn”. Ngày xưa, khi hay có chiến tranh giữa các nhóm tộc người thì người đàn ông Ê-đê khi ra trận thường quấn thêm mình chiếc áo khoác chân đi dép da trâu gọi là “klit jua”. Thầy cúng thường quấn khăn nhiều vòng trên đầu, đóng khố. Áo dài trùm mông, xẻ nách và trang trí hoa văn ở hai bên nách thường là màu vàng, trắng, hồng. Trước ngực, hai cánh tay áo được trang trí bằng những đường vuông hoặc đường viền theo hình lưỡi cưa. Vải màu đỏ hoặc vàng ở trước ngực khiến cho chiếc áo trông vừa mạnh mẽ, lại đẹp phóng khoáng đúng với phong cách người Ê-đê. Nếu ở Đăk Lăk, người thầy cúng quấn khăn màu đỏ nhiều vòng trên đầu thì người Ê-đê ở xã Eabar lại quấn bằng khăn màu đen. Bởi lẽ, người Ê-đê xã Eabar luôn chọn cho mình những mà áo màu tối, như vậy thần linh sẽ giúp đỡ cho mình và dân làng nhiều hơn.
  30. 18 Điều đặc biệt là mỗi khi đi làm, hay đi ra khỏi nhà là người đàn ông đứng tuổi luôn ngậm tẩu thuốc lá làm bằng đồng, tre. Bình thường hơn là những điếu thuốc được quấn bằng lá chuối, trên vai vác chiếc rựa, cung tên và họ hay dẫn chó đi cùng. Phụ nữ đi theo sau và luôn mang theo gùi để đựng các dụng cụ cần thiết. 2.1.3. Nhà cửa Người Ê-đê xã Eabar có tập quán sống chung hai hoặc ba thế hệ trong một ngôi nhà lớn. Họ rất ít khi làm nhà mới thay cho nhà cũ, nếu có thêm người thì nối phần sau nhà dài thêm. Cũng bởi lẽ đó nên trong dân gian còn có tên gọi là nhà sàn dài. Nhà sàn dài chính là sự phản ánh tiêu biểu cho chế độ mẫu hệ của người Ê-đê. Nó còn là biểu tượng cho sự gắn bó giữa con người với cộng đồng, giữa con người với thiên nhiên. Thành phần gia đình trong một ngôi nhà gồm có những cặp vợ chồng, trong đó vợ con đều cùng một dòng họ phía mẹ và những người đàn ông đến làm rể. Nhà sàn dài của người Ê-đê xã Eabar và các nhóm địa phương khác như khác ở Đăk Lăk đều có những điểm tương đồng đó là nhà sàn khung cột, nhà có chiều ngang thì hẹp, chạy dài theo chiều dài của nhà, những ngôi nhà truyền thống đều được lơp bằng mái tranh, những bộ phận của nhà đều có thể tháo lắp ra được, nội thất của ngôi nhà chia làm hai phần chính đó là gian khách (gah) và gian ngủ (ôk). Cụ thể là nhà sàn dài được dựng lên từ những cột gỗ to, sàn cách mặt đất trên 1 mét, các nhà sàn dài của người Ê-đê ở Đăk Lăk thì chân cột thường xấp xỉ bằng hoặc thấp hơn, có thể do yếu tố địa hình ở Đăk Lăk. Phía dưới làm chỗ ở cho bò, heo và để họ chứa củi, và các đồ dùng trong sản xuất, canh tác. Nhà đa số có 2 mái. Vật liệu để dựng nên một ngôi nhà dài phải là những nguyên vật liệu đơn giản dễ tìm kiếm, nên nhà dài Ê-đê ở được làm bằng các vật liệu kiếm trong rừng, chủ yếu là gỗ, tre nứa, các loại dây buộc, cỏ tranh (hoặc một số loại lá rừng khác để lợp nhà). Tận dụng nguồn tre nứa tại địa phương, người Ê-đê đã sáng tạo, thích nghi với môi trường sống, họ làm những ngôi nhà sàn dài để thích hợp với khí hậu vào mùa nóng thì mát, mùa đông thì ấm. Chính vì vậy, cột để dựng nhà là những cây gỗ chắc chắn được đẽo thành hình tròn hoặc hình vuông và cố kết thành cái khung hình chữ nhật mô phỏng hình thuyền, còn lại vách, tường của ngôi nhà được đan lát bằng tre, nứa. Mái nhà được lợp bằng cây cỏ tranh được lấy từ trên rừng về đem phơi héo đi và dùng tre nứa đan, xếp thành từng mảnh, cố định lại bằng những mái lợp bằng tranh để che mưa, nắng.
  31. 19 Điều đặc biệt khi dựng nhà lớn họ không dùng một cái đinh nào. Các cột và kèo được nối với nhau bằng lỗ đục và dây mây cố kết lại nhưng vẫn đảm bảo được tính bền vững và chịu lực theo thời gian. Để dựng được một ngôi nhà sàn dài như vậy người Ê-đê phải chuẩn bị rất lâu thường phải mất đến vài năm. Do những người đàn ông trong nhà phải lên rừng lẫy gỗ, người phụ nữ lấy cỏ tranh đem về. Họ không lấy liền một lần cho đủ lợp nhà mà họ kiếm từng ngày dài, kiếm những vùng có cỏ tranh tốt, già họ mới cắt chọn lọc mang về, với cách chọn lọc như vậy nên mái nhà rất ít bị dột do thời tiết. Thông thường một mái nhà tranh như vậy có tuổi thọ từ 5 đến 6 năm mới bị mục nát. Ngày nay ta rất hiếm gặp kiểu nhà như thế, thay vào đó là những ngôi nhà sàn dài bằng gỗ, mái ngói và cố kết với nhau bằng đinh, và một số ngôi nhà đã được xây hẳn theo nhà trệt của người Việt. Người Ê-đê xây dựng ngôi nhà của mình phù hợp với nếp sống du canh du cư, đó là những ngôi nhà lấy vật liệu có sẵn trong thiên nhiên. Như vậy, nhà sàn dài của người Ê-đê không những vững chắc mà còn có thể tháo lắp được, thể hiện ở chỗ toàn bộ khung ngôi nhà có thể tháo lắp ra được, vách, sàn và hiên cũng có thể tháo ra, khung nhà, mái, khung cột là 2 bộ phận tách rời nhau. Đặc điểm kiến trúc này giúp đồng bào di chuyển ngôi nhà từ nơi này đến nơi khác, đồng thời giúp họ thay thế một số thành phần ngôi nhà, tận dụng các đồ còn dùng được để xây ngôi nhà mới. Nét đặc sắc của ngôi nhà dài Ê-đê kiểu cổ truyền là tính mẫu hệ nổi lên rất rõ. Ngay từ chiếc cầu thang ván “đơn giản là một khúc gỗ có nhiều nấc, đặt dựa vào cửa hay sàn nhà .ở những nhà trung lưu gọi là “ê nhan pla đang”, là một tấm ván đưuọc đẽo cong để phần đầu uốn về phía trước, có khắc hai đầu núm vú (k’sâu). Thang được đặt ghếch lên chiếc sàn phía trước nhà, có nhà có khi đặt ba, bốn chiếc ở ba phía vì coi đó là biểu tượng cho sự giàu có, sung túc của gia đình, phía trên đôi núm vú có khi còn khắc hình trăng lưỡi liềm, có người cho là biể tượng đôi sừng trâu, một mô tip giống các cửa sổ của người Thái đen”.[19; 292] Mỗi nhà sàn dài của người Ê-đê thường có 2 cầu thang, cầu thang chính ở đầu nhà là dành cho khách và những người đàn ông và một cầu thang đặt ở cuối nhà thường là gần gian bếp dành cho đàn bà. Các bậc thang cũng có những quy ước riêng thường chỉ là số lẻ ví dụ như 5, 7, 9, vì người Ê-đê cho rằng “nếu mình làm
  32. 20 cầu thang mà đẽo các bậc thang là những số chẵn thì Yang xấu nó vô nhà mình nó phá nhà mình, không được đẽo bằng số chẵn đâu”11 Ở Đăk Lăk thì ngôi nhà thường được trang trí, chạm khắc rất công phu, chiều dài ngôi nhà trung bình là 50 mét. Những hình ảnh mang đậm dấu ấn truyền thống, hình thức trang trí nghệ thuật ở ngôi nhà dài Ê-đê ở Đăk Lăk là những hình khắc gỗ trên thân cột, cầu thang ván, phản ánh tính chất mẫu hệ của xã hội thường. Được bắt nguồn từ những công việc hàng ngày trong lao động sản xuất, trong săn bắt, qua tiếp xúc với môi trường thiên nhiên, hay qua tình cảm, tâm niệm của mình, người Ê-đê ở Đăk Lăk đã đưa vào trong không gian sống những hình ảnh quen thuộc được khắc, cham trỗ trên những cột nhà, kèo . Có thể thấy trên xà ngang của ngôi nhà có hình những con voi đang bước, những con thằn lằn, rùa. Hình tượng cặp sừng, bầu sữa của người phụ nữ, hay trăng khuyết tất cả đều là biểu tượng đặc sắc và rõ nét của sinh hoạt văn hóa cư dân mẫu hệ 12. Còn nhà sàn dài ở xã Eabar, hình thức trang trí ngôi nhà thường đơn điệu hơn, chiều dài ngôi nhà cũng ngắn hơn, nếu có chạm khắc thì đó cũng chỉ là những hình ảnh bình thường, dễ bắt gặp nhất là những hình ảnh về những con vật, những ô carô Cũng như các nhóm địa phương khác, nhà sàn dài người Ê-đê xã Eabar được chia làm ba phần: sân sàn, ngăn khách và ngăn ở. Sân sàn trước (dring gah) có một hoặc hai cầu thang, thường rộng rãi, là nơi phơi áo quần, nơi giã gạo mỗi sáng, nơi ngồi chơi hóng mát mỗi chiều. Sân sàn sau (dring ôk) chỉ có một cầu thang và dành riêng cho người trong gia đình nhỏ hơn, thường là nơi rửa ráy, nấu ăn. Từ sân sàn trước bước vào khoảng không gian quan trọng nhất là nơi tiếp khách và sinh hoạt chung của cả gia đình, cũng là nơi có thể chiêm ngưỡng những đồ quý giá và linh thiêng của người Ê-đê như trống, chiêng, ché rượu, các bộ sừng trâu, hươu nai Nối tiếp ngăn khách là ngăn ở (ôk) được chia thành từng ngăn nhỏ cho các tiểu gia đình dọc lối đi suốt tới sân sàn sau. Đây là điểm nổi bật mà ít ngôi nhà nào của các dân tộc khác có được, bởi mọi sinh hoạt lễ nghi đều được diễn ra ở tại phòng khách này từ cưới xin, ma chay, cúng lễ. Mọi vật dụng trong nhà cũng đều được làm bằng những nguyên vật liệu sẵn có trong thiên nhiên. Những chiếc ghế dài được làm ra từ nguyên một cây gỗ trong rừng, chiếc trống đánh trong ngày hội được làm từ da voi. Mọi thứ từ vật bé nhất, 11 Theo lời ông Duon Y Don (buôn Chung xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên). 12 Xem thêm Người Ê-đê M’dhur ở Phú Yên, sđd, trang 263-264.
  33. 21 đến lớn nhất đều được người Ê-đê làm ra từ mọi nguyên liệu sẵn có trên mảnh đất Eabar này. Ngôi nhà sàn dài của người Ê-đê xã Eabar chính là biểu tượng cho sự gắn bó của con người với cộng đồng, với sông núi. 2.2. Văn hóa xã hội Văn hóa xã hội là những gì con người đã thiết lập và duy trì để tồn tại và phát triển ở phương diện xã hội. Văn hóa xã hội được thể hiện ở các định chế, các quy ước như một công cụ để con người có thể sống với nhau một cách có trật tự. Trong xã hội Ê-đê thì các định chế, quy ước được thể hiện rõ như GS. TS. Trần Văn Bính nhận định “thế mạnh của văn hóa truyền thống Ê-đê là quan hệ phân phối và hưởng thụ văn hóa có tính cộng đồng, ở đó thể hiện tinh thần dân chủ cao và ngược lại quan hệ văn hóa đã góp phần thúc đẩy quan hệ dân chủ, bình đẳng và yêu thương nhau của xã hội”. [31; 343-345] Sinh sống trong môi trường nằm ở phía tây Phú Yên, người Ê-đê xã Eabar chủ yếu là nền kinh tế nương rẫy, chịu những tác động khách quan của các điều kiện địa lý, hoàn cảnh lịch sử, xã hội Ê-đê tiến hóa chậm chạp và bảo lưu nhiều tàn dư của các xã hội tiền giai cấp. Buôn làng cổ truyền Ê-đê vẫn là một điểm tụ cư, gồm vài chục tới vài trăm nóc nhà, có khuôn viên cư trú và khai thác riêng, được cả buôn cùng các buôn khác thừa nhận, tôn trọng. Mọi hoạt động xã hội, phong tục mang tính chất cộng đồng đều tuân thủ những luật lệ chung do một “bộ máy” tổ chức mang tính tự quản điều hành, đứng đầu là già làng, người chủ bến nước-cũng là chủ buôn. Ở xã Eabar, tên gọi của các buôn thường được căn cứ theo vị già làng đầu tiên thiết lập ra buôn và căn cứ theo địa danh thiên nhiên núi, sông hiện có ở khu vực hình thành buôn. Già làng là người có thế lực trong phạm vi một buôn, ông định ngày phát rẫy, định ngày trỉa lúa, định ngày đi săn và khơi màn cho các luật lệ trong buôn. Những năm đầu thế kỷ XX trở đi, do sự can thiệp của nhà nước quyền hành của các già làng ngày càng bị thu hẹp, chỉ còn nhiệm vụ trông coi việc cúng bên nước và các nghi lễ chung khác do hình thành các thôn trưởng. Xã hội Êđê cổ truyền tôn trọng những tục lễ và trong mỗi buôn đều có người xử kiện đứng ra trông coi công việc này. Trong xử kiện, ngoài việc dựa vào những chuẩn mực của xã hội cổ truyền để luận tội, bên cạnh đó cũng sử dụng các biện pháp của nghi thức tín ngưỡng cổ
  34. 22 truyền. Khi mỗi bên nguyên, bên bị đã được xét xử xong, bao giờ cũng kèm theo một nghi lễ nhằm chấm dứt những oán thù giữa các bên với sự chứng giám của thần linh và dân chúng. Trong sinh hoạt chung của toàn buôn, các hoạt động tín ngưỡng chiếm vị trí rất quan trọng, trong đó, vai trò của những Pô Riu Yang (người khấn thần), thầy cúng để trị bệnh luôn luôn được kính nể. Ngoài ra còn có những nghệ nhân dân gian như Pô khan (người kể khan). Hợp thành buôn Ê-đê là những gia đình, thường là những đại gia đình mẫu hệ, sinh sống trong những ngôi nhà sàn dài. Ngày này, quy mô của các đại gia đình đều thu nhỏ lại, thường bao gồm từ 3 đến 4 gia đình nhỏ sống dưới một nóc nhà dài, nhưng đã làm ăn riêng, tách dần ra thành những gia đình hạt nhân chỉ gồm vợ chồng và con cái họ, sinh sống trong một ngôi nhà ngắn, có thể là nhà sàn dài hay nhà trệt. Mọi của cải trong gia đình là của chung và thừa kế theo dòng nữ. Khi vợ chết, người chồng được tái hôn với một người nòi (nuê) theo truyền thống mẫu hệ. Trong trường hợp không tục huyền hoặc ly hôn thì sau đó, phải trở về nhà mẹ đẻ hầu như với hai bàn tay không, ngoại trừ những tư trang (gồm: cái rìu, cây chà gạc, chiếc gùi và áo khố của cá nhân) mang về nhà vợ trong ngày cưới. Toàn bộ tài sản và con cái đã sinh dưỡng, dù lớn hay nhỏ đều phải để lại gia đình vợ. Trong một số gia đình giàu có trước kia, ngoài những thành viên tính theo huyết thống dòng mẹ, còn có những nô lệ và tôi tớ, có nhà có tới hàng trăm nô lệ. Đó là biểu hiện sự giàu có và thế lực của gia đình. Nô lệ gia đình ở đây thường là những tù binh trong chiến tranh giữa các làng, người góa bụa, nghèo khó không nơi nương tựa, người mắc tội không có của nộp phạt, hoặc những người nợ nần không thanh toán được. Họ cùng những thành viên khác trong gia đình làm nương rẫy, các công việc trong nhà, ít khi bị đánh đập hay phân biệt đối xử. Những nô lệ này cũng thường có vợ chồng, con cái, và bếp riêng dưới mái nhà dài. Nếu tốt, sau một thời gian, họ có thể trở thành những cư dân tự do. Trong xã hội Ê-đê truyền thống, dòng họ (djuê) đóng vai trò quan trọng. Trong một buôn cũng như trong mỗi vùng đều có nhiều dòng họ khác nhau như Ksor, Lê Mô, Nay nhưng trong quan niệm thì tất cả các dòng họ nói trên đều xuất phát từ một trong hai dòng (họ gốc, họ mẹ) đó là Nay và Lê Mô (họ con bò), ở Đăk Lăk người Ê-đê gọi họ Lê Mô là Mlô hay Êmô.
  35. 23 Sau đây là bảng so sánh về điểm bất đồng trong ngôn ngữ giữa người Ê-đê ở xã Eabar và các nhóm địa phương khác. Bảng 1. So sánh về “từ” giữa người Ê-đê xã Eabar và các nhóm Ê-đê khác 13 STT Kinh Ê-đê M’dhur KPă Adham Krung (xã Eabar) 1 Bà Adôn, tun Aduôn Aduôn Aduôn 2 Ông Oi Aê Aê Aê 3 Tôi Kâo Kâo Ko Kiă 4 Có Mâo Mâo Mo Mâo 5 Heo rừng Mbui Hlô un Hlô un Hlô un 6 Con bò Lê mô Ê mô M lô 7 Con rể Han Mtâo 8 Số 7 Bảy lơ ma Bảy Êma Những người tuy mang tên họ khác nhau, nhưng nếu cùng thuộc về một gốc Nay (hay Lê Mô chẳng hạn) thì không thể kết hôn với nhau được. Trai gái trong cùng một họ gốc có quan hệ luyến ái là mắc trọng tội: tội loạn luân (agăm) với quan niệm trời không dung, đất không tha, các thần linh sẽ nổi giận, tai họa sẽ giáng xuống buôn làng, ruộng rẫy, uy hiếp cuộc sống của cộng đồng. Cũng theo quan niệm xưa, các họ trong hai dòng Nay và Lê Mô có nghĩa vụ kết hợp với nhau để nuôi nhau, để sinh con đẻ cái, có như vậy mới bảo đảm sự hòa thuận. Trong tập quán hôn nhân, tồn tại quan hệ hôn nhân chị em vợ và hôn nhân anh em chồng mà người Ê-đê gọi là tục nối nòi (chuê nuê), theo kiểu quy định của luật tục: khi các cây rầm nhà đã yếu thì phải củng cố lại; khi cái giát sàn đã nát thì phải thay đi, khi người này chết thì phải thay thế bằng người khác. Theo đó, khi chồng chết, người đàn bà có quyền đòi hỏi nhà chồng một em trai chồng để nói nòi. Ngược lại, nếu người vợ chết, chồng bà ta có thể lấy em gái vợ để nối nòi. Thực ra chuê nuê – tục nối nòi trong truyền thống Ê-đê vượt ra ngoài cả phạm vị hôn nhân chị em vợ và hôn nhân anh em chồng: “Khi người cậu (amiêt) chết, người cháu (amuôn) sẽ thay 13 Xem them Người Ê-đê M’dhur ở Phú Yên, sđd trang 559-261
  36. 24 thế; khi người bà (aduôn) chết. người cháu (cháu gái của bà) sẽ thay ” 14. Đó là những quan hệ hôn nhân hợp phong tục xưa với quan niệm sẽ mang lại may mắn, tốt đẹp. Trong luật tục hôn nhân và chế độ gia đình, người Ê-đê theo chế độ mẫu hệ. Người đàn bà và người cậu có quyền trong gia đình nhiều hơn cả. Con trai không có quyền thừa kế. Chế độ hôn nhân là cư trú bên vợ, trước khi đi đến hôn nhân thì đôi trai gái đã qua giai đoạn tìm hiểu và yêu nhau, vào lúc trước con gái có tục bắt chồng nghĩa là người con gái đến tuổi trưởng thành thích một anh chàng trong buôn làng, người con gái liền bàn với mẹ “tuoj cheng ka young ay, mj knha vre nac ay” 15 nghĩa là: “con thích người ấy, mẹ cưới hỏi giùm con” và đêm hôm đó chuẩn bị sính lễ. Vào lúc đó bên nhà trai thách bên nhà gái là bao nhiêu con bò và bao nhiêu tiền, thường thì một con bò và mười lăm triệu đồng, nhưng vấn đề này có thể thương lượng, lễ hỏi gồm 1 ché rượu cần, đôi trai gái ngồi trên một tấm ván với tư thế ngồi xổm (hai chân khép lại đồng thời các khớp khép vào nhau tạo thư thế ngồi thấp xuống) và hai tay cầm ly rượu cần mà ông thầy cúng trao cho uống giao môi với cách gọi của người Việt, ông thầy cúng trao cho đôi trai gái một đôi còng bằng đồng với ý nghĩa là gái đã có chồng và ý nghĩa không tác rời nhau, nếu một trong hai mà ly dị thì bên đó tháo còng bằng đồng ra, nếu bên nào đòi ly dị thì phải bồi thường về tiền bạc hoặc trâu bò, nếu đã có con rồi thì bên đề nghị ly dị phải bồi thường nhiều hơn để nuôi con cái. Và tối hôm đi hỏi như vậy qua ngày mai là anh em bên nhà trai qua bên nhà gái ở rể luôn không cần xem ngày tốt hay xấu, của hồi môn gồm có nồi bằng đồng, tô bằng đồng, bộ đồ dệt thủ công cho ông bác và ông cậu bên nhà trai. Trong xã hội Ê-đê cổ truyền, đời sống hiện thực của con người gắn chặt với tín ngưỡng và lễ thức như hình với bóng. Các thần linh ở ba tầng: Trời, mặt đất và trong lòng đất, các Yang, hồn, hầu như ở trong mọi vật bao bọc lấy thế giới con người. Đó là những lực lượng siêu nhiên chi phối đời sống hiện thực của con người. Con người muốn được các thàn linh phù trợ về sức khỏe, về cây trồng, vật nuôi và các hoạt động khác thì phải thành kính, cầu xin bằng những hình thức tổ chức lễ hiến sinh lớn, nhỏ, tùy theo mục đích của người chủ tế. Tín ngưỡng gọi là thờ cúng tổ tiên ở người Ê-đê cũng giới hạn trong phạm vi các thế hệ cha mẹ, ông bà và chủ 14 Theo lời bà Tun Núc( tức bà H’Lum, buôn Chung xã Eabar-huyện Sông Hinh-tỉnh Phú Yên). 15 Theo lời H’Nhinh buôn Trinh, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên.
  37. 25 yếu là trong thời gian trước lễ bỏ mả. Sau đó, vong linh của những người đã khuất đều được coi là các thần linh (Yang) nói chung. Ở trình độ tư duy thần bí, với niềm tin vào hệ thống các thần linh, các hồn và hàng hoạt những lễ thức cầu xin sự trợ giúp của lực lượng siêu nhiên như vậy, người Ê-đê cũng như ở nhiều dân tộc trình độ xã hội tương tự có những quan niệm về điềm báo, những hình thức bói toán cần thiết và những kiêng kỵ rất phát triển. Điềm báo là hiện tượng được quan niệm vẫn thường xuyên diễn ra hằng ngày và luôn luôn ứng với hành vi của từng con người cụ thể, nhất là lúc người ta sắp làm một việc gì đó hệ trọng thì xem bói toán là công việc của một số người có khả năng đặc biệt, họ biết kết hợp giữa bói toán và chữa bệnh. 2.3. Văn hóa tinh thần 2.3.1. Yang trong quan niệm của người Ê-đê Trên mỗi chặng đường lịch sử của dân tộc, mỗi tộc người đều có những khuynh hướng sùng bái vật tổ, vật thiêng, những thuyết vạn vật hữu linh, đa thần, mỗi dân tộc đều có những vị thần và những bí ẩn có ảnh hưởng đến những tục lệ, những điều kiêng cữ, bói toán, thờ cúng, ta nhận thấy được bước tiến của từng dân tộc cùng với những sắc thái riêng. Theo GS. TS. Trần Văn Bính: “ một quan niệm phổ biến và sâu sắc nữa của đồng bào Ê-đê là vạn vật có cuộc sống bên trong, có hồn vía. Trong quan niệm cổ truyền, người Ê-đê cho rằng vạn vật đều có hồn vía, kể cả vật vô sinh đều có Yang. Yang không chỉ là một hiện tượng thần thánh xa xôi mà kể cả các vật bình thường đều có Yang. Yang có loại tốt có loại xấu. Yang có thể giúp đỡ người cũng có thể làm hại người. Vật có Yang nên có thể vui buồn, bằng lòng hoặc bất bình. Trong các Yang của vật có thể có Yang mạnh, Yang yếu có thể hòa hợp với nhau, khi xung khắc có thể tác đông vào vật thể gây ra sự hư hỏng đổ vỡ, gẫy nát Con người có thể nghe tiếng nói của vật, có thể hỏi ý kiến của chúng, thường thông qua giấc mơ ”[31; 338]. Quan niệm vạn vật có hồn vía tác động mạnh đến đời sống tinh thần, tâm linh của đồng bào Ê-đê. Nó tạo nên sức giao cảm rất tinh tế giữa người và vật một tình thương nào đó của con người đối với vật. Có thể gọi đó như là một thứ nhân văn. Nó đem đến cho người Ê-đê có cảm xúc, sức tưởng tượng. Đứng trước vũ trụ bao la họ tin vào các thế lực giúp họ hoàn thành công việc của mình.
  38. 26 Mặc dù cuộc sống còn khó khăn, nhưng sự hình thành tín ngưỡng của người Ê-đê đã phản ánh nhu cầu khách quan là cần quản lý, phối hợp và điều chỉnh những mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng để duy trì sự tồn tại và phát triển. Trong quá trình đó, tín ngưỡng đã dần dần được hình thành từ những kinh nghiệm được chắt lọc qua cuộc sống của nhiều thế hệ, góp phần tạo nên các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc, cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức, pháp lý. Theo quan niệm của người Ê-đê xã Eabar thì có 2 tín ngưỡng và nghi lễ quan trọng nhất đó là tín ngưỡng-nghi lễ theo vòng đời và theo vòng cây trồng. 2.3.2. Tín ngưỡng và nghi lễ cúng theo vòng đời “Cũng như các dân tộc sinh sống dọc theo dãy Trường Sơn và Tây Nguyên, người Ê-đê tỉnh Phú Yên tin rằng mọi vật đều có thần linh ngự trị, và sự tồn tại của con người luôn được các thần linh phù trợ, do đó suốt một vòng đời sống của con người, họ tổ chức nhiều lễ cúng Yang để cầu mong sức khỏe và tuổi thọ”.[9; 180]. Với quan niệm như vậy, ngay từ sớm đồng bào Ê-đê xã Eabar đã sớm hình thành những tín ngưỡng, lễ nghi đi xuyên suốt văn hóa tộc người mình. 2.3.2.1. Lễ cúng trước khi sinh nở Đời sống văn hóa của người Ê-đê nói chung và Ê-đê ở xã Eabar nói riêng luôn coi trọng việc duy trì và phát triển giống nòi của mình. Là tộc người có chế độ mẫu hệ thể hiện rõ nét, in đậm trong văn hóa truyền thống, vì vậy người phụ nữ Ê- đê được có những quyền đặc hữu trong đời sống, đặc biệt là lúc mang thai. Điều đó thể hiện ngay trong bữa ăn, khi người phụ nữ mang thai khoảng 3 tháng trở lên, người chồng và những người thân trong gia đình luôn dành những thức ăn ngon nhất và khuyên nhủ ăn nhiều hơn. Khi đó người Ê-đê tiến hành lễ cúng cầu mong sức khỏe cho người phụ nữ có thai, họ giết 1 con gà, 1 ché rượu cúng, ý mong sức khỏe cho người phụ nữ và thai nhi khỏe mạnh. 2.3.2.2. Lễ cúng sau sinh nở * Lễ cúng đặt tên-thổi tai Diện mạo văn hóa của mỗi vùng, mỗi dân tộc thường được biểu hiện một cách tập trung nhất, sinh động nhất ở các buổi lễ, mỗi khi có các lễ hội, buổi cúng lễ của người Ê-đê thì đó là nơi ta có thể nhìn thấy bản sắc văn hóa một cách sâu đậm. Bởi lẽ lúc đó là nơi hội tụ của trang phục đậm nét nhất, cồng ching được đánh rộn ràng nhất Tất cả đều được bộc lộ, đầy đủ và tự do để đặt tên cho một con người
  39. 27 mới chào đời. Người Ê-đê quan niệm mỗi con người đều có linh hồn. Một đứa bé vừa ra đời, các linh hồn sẽ nhập vào đứa bé và cất tiếng khóc chào đời. Em bé sau khi sinh được 1 tháng người Ê-đê sẽ tổ chức lễ cúng đặt tên cho đứa trẻ, lễ vật cúng gồm 3 ché rượu và 3 con gà. Trước khi tiến hành buổi lễ đặt tên cho đứa trẻ, người bố hoặc có thể là người thân trong gia đình phải thức dậy sớm, lấy lá chuối hoặc bát đồng hứng những giọt sương sớm nhất của ban mai để giọt sương nhỏ vào miệng đứa trẻ. Người Ê-đê ở xã Eabar nghĩ rằng hạt sương là biểu hiện của linh hồn của những người đã khuất của dòng họ mẹ, sau khi thoát ra khỏi thân người chết sẽ trở thành con diều hâu bay xung quanh nhà và tạo nên những hạt sương. Với quan niệm như vậy khi đặt tên cho con phải đưa hạt sương vào miệng đứa trẻ với ngụ ý đưa linh hồn của tổ tiên dòng họ mẹ vào cuộc sống của mỗi thành viên trong cộng đồng. Lúc này người nhà tiến hành nghi lễ đặt tên-thổi tai cho đứa bé theo phong tục của người Ê-đê, lễ này không đánh ching. Lễ đặt tên được làm trước. Người cúng tức bà mụ (ở đây chỉ người đỡ đẻ) đặt các lễ vật trong cái thúng bên cạnh đứa bé và cầu nguyện để đặt tên. Bà mụ sẽ gọi tên của những người đã khuất trong gia đình họ mẹ để chọn và đặt tên cho đứa bé, nếu đọc đến tên của một người nào đó mà đứa bé khóc to thì họ hiểu rằng linh hồn người chết không chịu lấy tên mình để đặt cho đứa trẻ, người cúng tiếp tục đọc đến khi nào đứa trẻ im lặng hoặc cười thì chứng tỏ đã có sự đồng ý giữa linh hồn và đứa trẻ với cái tên đã đặt. Ở trước sân và dưới sàn nhà, người cha và người cậu đứng hai bên. Trong tay cầm những chiếc chày giã gạo hoặc cũng có thể là hạt thóc, hạt gạo ném qua ném lại và nói to những lời cầu chúc sức khỏe cho đứa trẻ và đuổi Yang ác, Yang xấu đi không được quấy nhiễu đứa trẻ. Cùng ngày hôm đó họ cúng luôn lễ thổi tai cho đứa trẻ với lễ vật là 7 ché rượu, 7 con gà nhưng điều này tùy thuộc điều kiện của từng gia đình, người Ê- đê có thể cúng lễ thổi tai sau đó vài tháng hoặc khi nào gia đình có điều kiện. Trong tín ngưỡng của người Ê-đê người thầy cúng bắt buộc phải là người cùng họ với người được cúng, nghĩa là đứa bé đó họ Ksor thì người thầy cúng đó cũng phải là họ Ksor. Nếu trong buôn không có thì phải mời người cúng từ buôn khác đến. Hầu hết trong các lễ cúng lễ vật luôn được chia 1 phần còn tươi sống cho người cúng mang về nhà, phần còn lại để phục vụ khách trong buổi lễ. “Trong lúc
  40. 28 ăn uống nếu ai đó làm rơi vãi ra thì không được dùng chổi để quét nhà mà phải dùng khăn lau cho sạch vì nếu dùng chổi ví như là xua đuổi thần linh”16. *Lễ cúng cầu mong sức khỏe và mong ông bà phù hộ sức khỏe Khi đứa trẻ được khoảng 3 đến 5 tuổi, người Ê-đê sẽ tiến hành lễ cúng cầu mong sức khỏe và mong ông bà phù hộ sức khỏe cho bé đồng thời mong cho đứa bé sau này ăn nên làm ra, làm cho dòng họ ngày càng thịnh vượng. Điều này in đậm trong tâm thức của người Ê-đê, đánh dấu một bước tiến trong chu kỳ vòng đời của con người. Lễ vật ở các buổi cúng này không quan trọng về số lượng ché rượu hay bao nhiêu gà, bao nhiêu heo mà tùy thuộc vào điều kiện gia đình có thể 1 hoặc 3 ché rượu, và 1 hoặc 3 con gà để dâng lên thần linh với tất cả lòng thành kính. 2.3.2.2. Lễ cúng ở tuổi trưởng thành Ở xã Eabar bất cứ chàng trai Ê-đê nào bước vào độ tuổi từ 15 đến 20 tuổi đều phải có lễ cúng lễ trưởng thành kết hợp với lễ cúng sức khỏe. Lễ cúng này là nghi lễ vô cùng quan trọng không thể thiếu trong cuộc đời của mỗi con người. Những nghi lễ sẽ được tổ chức vào thời điểm có đủ lễ vật. Nếu trong một đời người mà không thực hiện được các nghi lễ này thì bản thân người đó và cả dòng họ anh em, họ hàng người đó sẽ mắc nợ thần linh, dù người đó chết đi thì người thân gia đình vẫn phải cúng để tạ thần linh. Lễ được tổ chức to hay nhỏ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình, nhưng theo thông lệ thì tất cả mọi người trong buôn sẽ cùng tới chia vui cùng với gia đình. Đối với con trai thì cúng 3 lần nghĩa là cúng rượu 3, rượu 5 và rượu 7, còn đối với con gái thường được dừng lại ở lễ cúng rượu 3. Vào thời điểm này cha mẹ sẽ tổ chức một nghi lễ cầu cúng ông bà, tổ tiên, nhằm cầu mong cho đứa trẻ dồi dào sức khỏe, làm nương rẫy, gùi củi và dệt vải giỏi dang (chỉ người con gái). Lễ bắt đầu bằng nghi thức rửa mặt của chàng trai ngoài bến nước của buôn. Từ sáng sớm, người được cúng lễ trưởng thành phải đi ra bến nước của buôn mình với trang phục truyền thống. Khi đến bến nước chàng trai (hoặc cô gái) rửa mặt trước sự chứng giám của trời đất và thần bến nước cùng sự hiện diện của bà con trong buôn. Khi đã gội đầu xong, chàng trai hứng nước đầy 16 Theo lời anh Ksor Y Van buôn Chung-xã Eabar-huyện Sông Hinh-tỉnh Phú Yên.
  41. 29 vào quả “bầu eo” 17 (xem phụ lục hình ảnh, hình 16) mang về làm lễ cúng Yang. Việc làm này có ý nghĩa là tẩy chay, rửa sạch tội trong quá khứ. Người Ê-đê ở xã Eabar coi lễ cúng rượu 3 là lễ cúng trưởng thành, còn lễ cúng rượu 5 (năm lơ má” và rượu 7 (bảy lơ má) là lễ cúng sức khỏe gọi là “Yang- met awa”. Ở đây chúng tôi xin trình bày toàn cảnh một buổi lễ cúng rượu 5 của Ma Ka (tức Y Dung ở Buôn Chung). Lễ vật gồm có 5 ché rượu, 1 con gà, 1 đầu heo, 1 phần trong bộ lòng của con heo thường là bong bóng heo được treo trên những cây nẹp ché rượu và 1 bình nước lã. Những người có mặt trong buổi lễ cúng là những người thân trong gia đình và tất cả những bà con trong buôn cùng đến tham dự. Khi tiếng cồng ching vang lên là báo hiệu cho buổi lễ bắt đầu. Những ché rượu được đặt chính giữa nhà, có dây và kèo buộc chặt, cố định các ché lại với nhau, các ché rượu được đặt theo hình tam giác đứng, nghĩa là ché to nhất được đặt ở chính giữa các ché nhỏ hơn được đặt ở hai bên. Anh Y Dung trong trang phục truyền thống ngồi ở phía nam của ngôi nhà, ở hai bên anh Y Dung có hai người phụ nữ đứng rót rượu, bốc đồ ăn. Việc làm này thể hiện cho sự sung túc, cuộc sống thảnh thơi, nhàn hạ và đó cũng là lễ nghi trong tín ngưỡng của đồng bào, thầy cúng ngồi hướng về phía đông, tay phải cầm ché rượu, tay trái cầm vòi và bắt đầu bài cúng. Xong bài cúng thứ nhất (kể về cuộc đời của người được cúng), rồi lấy 1 ly nước lã cho chủ nhà rót đầy lên 5 ché, thầy cúng tiếp tục múc 1 ly nước nữa đổ đều lên các ché và cúng bài thứ 2 (xin thần linh phù hộ, ban sức khỏe). Những người đánh cồng ching ngồi một hàng dài trên ghế Kpan 18 (xem phụ lục hình ảnh, hình 8). Âm vang của bài cúng cộng hưởng với âm thanh của cồng ching càng làm thêm cho buổi lễ thêm phần rộn ràng, ấm cúng và tạo tình đoàn kết trong buôn. Dứt lời, thầy cúng lấy 5 còng đồng đeo cho anh Y Dung. Khi vào bữa tiệc những người thân trong gia đình được phép ăn trước, dùng tay bốc mỗi thứ một ít ăn theo vòng. Người Ê-đê xã Eabar không có thói quen phụ nữ và đàn ông ngồi ăn chung mà được phân ra rất rõ rệt, những người than trong gia đình và người lớn tuổi, người đánh cồng ching được ngồi ở gian khách (dring gah), còn những người phụ nữ thường ngồi ăn ở phía gian thứ hai (dring ôk) của ngôi nhà. Đầu tiên người cầm cần là thầy cúng cho người trong gia 17 Bầu eo là một loại cây ăn trái (nhỏ ở phần cuống và to dần ở phần đáy của quả) thường được người Ê-đê xã Eabar trồng xung quanh vườn hoặc nương rẫy. nó còn là dụng cụ chứa nước rất hiệu quả khi bà con đi lấy nước ở các con sông suối và đưa nước khi đi làm nương rẫy. 18 Là một loại ghế dài, được đẽo từ một cây gỗ lớn tạo thành mặt phẳng dùng cho khách đến chơi nhà và chủ yếu là được dùng cho người đánh cồng ching trong các buổi lễ cúng của gia chủ.
  42. 30 đình uống trước, sau đó người chủ nhà cầm cần cho tất cả những người trong buổi lễ. Và cứ thế họ ăn và uống rượu cần cùng nhảy múa, ca hát suốt buổi chiều hôm đó. Đến tối, chủ nhà chuẩn bị thêm 2 đến 5 ché nữa để phục vụ cho thanh niên trong làng, những người phụ giúp trong ngày hôm đó và cho cả những người đến sau cùng chung vui, buổi lễ thường kéo dài đến 2 giờ sáng. Xong xuôi ai về nhà nấy và lại tiếp tục một ngày mới với những công việc thường ngày. Qua ngày hôm sau, chủ nhà chuẩn bị 3 ché nữa. Hôm nay anh Y Dung phải tháo vòng đồng ra, đồng thời đem lễ vật là 1 ché rượu với 1 con gà sang nhà vợ tiếp tục cúng, buổi lễ kéo dài đến khi mặt trời tắt hẳn. Với tục cúng vòng đời này thì việc cúng cho con trai lớn hơn cúng cho con gái, khi đến chừng khoảng 20-40 tuổi là cúng lớn nhất, người đồng bào gọi đây là lễ cúng 7 ché, lễ này được kéo dài đến 7 ngày, ngày thứ nhất là 7 ché, ngày thứ hai là năm ché, sang ngày thứ ba là 3 ché. Vào ngày này người cha, hay những người chủ gia đình mời hết bà con trong buôn, và mời bà con, anh em thân thuộc từ các buôn khác đến. Các con số như 3, 5 ,7 đó gần như là luật tục, nằm trong quy ước của người Ê-đê. Có thể nói lễ cúng vòng đời là lễ cúng lớn nhất kéo dài gần một tuần lễ trong không khí linh thiêng của đất trời xã Eabar. 2.3.2.2. Lễ cúng sau khi chết Khi trong nhà có người chết, người thân trong gia đình giết 1 con gà, 1 ché rượu đặt trên đầu người chết. Ngày xưa có thể giết bò hoặc heo để cúng người chết, những người trong buôn mang đến những ché rượu, cơm, gà coi như là chia sẻ nỗi buồn cho gia chủ và để làm cơm đãi khách. Họ không xem giờ hay ngày tốt mà thi thể thường được để trong nhà khoảng 2 ngày mới đi chôn. Nếu gia đình nào có điều kiện thì tiến hành lễ bỏ mả ngay sau khi người chết được 2 ngày. “Trong lễ này có nghi thức là giải phóng cho con người sống, nghĩa là những người chồng hoặc vợ của người đã khuất chỉ được chải tóc, ăn mặc đẹp, vui chơi, kết hôn sau nghi lễ bỏ mả”. [9; 188-189]. Người Ê-đê tiến hành tập tục chuê-nuê để nối kết vợ chồng cho những người góa trong lúc tiến hành lễ bỏ mả. Người thay thế người chồng hoặc người vợ người đã khuất sẽ do họ hàng phía người đã khuất chỉ định. Nếu người được lựa chọn đồng ý thì phải báo tin cho người đã khuất biết rằng vợ hoặc chồng đã có người chăm lo. Thông thường tục chuê-nuê của người Ê-đê xã Eabar thường được thể hiện
  43. 31 như sau: Nếu người vợ chết đi người chồng có thể lấy em gái hoặc chị gái của dòng họ đằng gái làm vợ, nếu không đồng ý thì phải dâng lễ vật vì đã không làm theo luật tục. Tùy theo người chết là nam hay nữ mà phần của cải được chia cho phù hợp và chôn ở nhà mồ. Nhà mồ của người Ê-đê xã Eabar thường cách ngôi nhà cuối cùng trong buôn là khoảng trên 50m kể từ nóc nhà cuối cùng. Những vật dụng hằng ngày được bẻ gãy để chia cho người chết vì người Ê-đê tin rằng những đồ dùng ở dưới âm phủ sẽ dùng ngược với những thứ trên trần gian. Trước khi tiến hành lễ bỏ mả, những người thân hoặc thanh niên trong buôn đẽo tượng nhà mồ theo cách truyền thống của dân tộc. Thông thường những nghệ nhân nghề mộc trong buôn sẽ đẽo 4 cây cột dựng 4 góc nhà mồ, điêu khắc cột klao19 dựng trước nhà mồ. Ngôi nhà mồ thông thường chia làm 3 phần chính, ở giữa là phần mộ để đặt quan tài người chết, 2 đầu nhà mồ được dựng sàn để cho người thân ngồi than khóc, mái nhà thường được lợp bằng mái tranh. Nghi thức chính của buổi lễ bỏ mả là lễ đâm trâu 20, hoặc heo và nhảy múa, đánh cồng ching và múa hát trong nhà mồ. Nhà giàu thì thịt nhiều bò heo và rượu cần, nhà nghèo thì cũng phải làm sao cho đủ thịt và rượu cho mọi người trong buôn đến chia buồn. Lễ vật như rượu ché, đồ tễ lễ luôn được đặt quay về phía đông. Khi thịt các con vật tế lễ được nấu chín, gia chủ dùng lá chuối trải trên mặt đất chia ra từng mâm để những người dân trong buôn làng cùng ăn lần cuối với người chết. Những người trong buôn sẽ ngồi ở hai đầu nhà mồ để khóc lóc, kể về những chuyện đã qua trong cuộc sống, xong họ cúi đầu lặng lẽ đi về không quay đầu hay ngoái đầu lại vì họ sợ hồn ma sẽ tiếc nuối và đi theo họ về buôn. Một người đi sau cùng sẽ đập vỡ và đốt tất cả các vật dụng mà gia chủ đã chia cho người đã khuất. Từ đây nhà mồ sẽ bị bỏ hoang mặc cho cây cối, mục nát. Trường hợp nếu người chết do tự sát hay do tai nạn thì không được xây nhà mồ, không tiến hành các nghi lễ như người chết bình thường mà quấn chiếu hoặc mua hòm và chôn trong ngày, và phần mộ của họ thường được đặt ở phía dưới của nghĩa địa không được đặt gần phần mộ của những người chết bình thường vì người 19 Cột klao là những cây cột nhà mồ được các nghệ nhân đẽo thành những hình thù chân dung tượng trưng của các vi thần, đôi khi còn được dựng cách điệu cao lên, dùng trong lễ dâm trâu trong lễ bỏ mả. 20 Người Ê-đê quen gọi là lễ đâm trâu, nhưng thực tế rất hiếm, chủ yếu họ thay trâu bằng bò, hoặc nếu có thì họ phải mua trâu ở đia phương khác vì người Ê-đê xã Eabar ít, có thể nói là không có hộ gia đình nào nuôi trâu. ở đây chúng tôi thống nhất gọi lễ đâm trâu để phù hợp với văn hóa truyền thống.
  44. 32 Ê-đê cho rằng nếu họ không làm như vậy sẽ khiến người thân trong gia đình chết theo. 3.3.3. Nghi lễ cầu cúng theo vòng cây trồng 3.3.3.1. Lễ cúng lúa mọc (Mdie) Khi đã gieo lúa xuống rẫy (thường là ở ruộng), người Ê-đê tiến hành lễ cúng cho lúa mọc đều mau lớn, không bị sâu phá hoại. Người chủ của đám rẫy là người tiến hành buổi lễ, lễ vật gồm có 1 ché rượu và 1 con gà đặt lên một ngôi nhà sàn dài nhỏ được dựng lên gần đám rẫy và bắt đầu nghi thức cúng. Xong xuôi gia chủ cùng anh em họ hàng uống và ăn hết rồi mới trở về nhà hứa hẹn một mùa màng bội thu. 3.3.3.2. Lễ cúng lúa trổ bông Là cư dân bản địa sinh sống lâu đời ở xã Eabar. Định cư trong môi trường đất pha cát nghèo chất dinh dưỡng, nên ruộng lúa nước hầu hết thường rất rất xa nhà. Đó là nơi gần những con suối, triền núi, nơi có lượng phù sa bồi đắp nhiều. Khi cây lúa đã xanh tươi tốt và chuẩn bị trổ bông, người chủ đám ruộng đem một ché rượu và 1 con gà đến đám ruộng mình canh tác và cúng, ý mong cho lúa trổ đều, không có hạt lép, chim muông không đến phá hoại để nhà có đủ lương thực cho gia đình. 3.3.3.3. Lễ cúng mừng lúa mới (T’h mđiê rou) Lễ cúng mừng lúa mới là một trong những nghi lễ không thể thiếu trong những nghi lễ cúng theo vòng đời cây trồng, sau khi thu hoạch lúa và đem về kho. Thông thường lễ mừng lúa mới chia làm 2 phần cơ bản: Phần lễ “lễ cúng thần” và phần hội “ăn cơm mới”. Quy mô, thời gian của lễ hội tùy thuộc vào điều kiện, năng suất thu hoạch sau mùa vụ của từng gia đình, bà con trong buôn. Nét độc đáo là lễ ăn cơm mới được tổ chức theo từng hộ gia đình. Theo đó, gia đình nào được mùa, điều kiện khá giả thì lễ mừng lúa mới được tổ chức lớn, kéo dài thâu đêm suốt sáng. Khi gia đình nào cúng mừng lúa mới thì mời bà con trong buôn đến dự lễ, ăn uống, chung vui. Lễ cúng cơm mới ở buôn có đông người thì kéo dài cả tháng như tết của Việt, buôn có ít hộ hơn thì kéo dài 2-3 tuần. Theo già làng A Nhới (buôn Trinh, xã Eabar) trước kia mỗi năm người đồng bào Ê-đê tổ chức lễ ăn cơm mới 2 lần, lần đầu vào khoảng tháng 8-tháng 9 sau khi thu hoạch giống lúa râu ngắn ngày; lần thứ 2 vào khoảng tháng 11, tháng 12 sau khi thu hoạch giống lúa râu dài ngày. Khi đến gần ngày cúng mừng lúa mới, không khí
  45. 33 chuẩn bị rộn ràng đầu buôn đến cuối buôn. Quãng thời gian này, tại các buôn làng người đồng bào Ê-đê tiếng chày giã gạo dập dìu từ khi ông mặt trời mọc cho đến khi khuất sau núi. Từ công việc chuẩn bị rượu cần, mổ heo, giết gà cho đến gánh nước, vào rừng chặt củi, mời khách. Người phụ nữ thường được “ưu ái” hơn, chỉ tập trung cho việc sửa soạn váy áo hoa rực rỡ chuẩn bị cho lễ hội. Đám trẻ trong buôn thì háo hức chờ đợi, vui chơi. Lễ vật khi cúng mừng lúa mới thông thường gồm: thịt heo, rượu cần, cơm mới, bầu nước lã, bếp đựng than, các nông cụ (1 cây cuốc, 1 cây rựa, 1 cây rìu) Sau khi lễ vật được bày biện xong, gia chủ sẽ mời thầy cúng giàu kinh nghiệm, được mọi người kính nể tiến hành làm lễ cúng cho Yang (thần). Trong bộ lễ phục chỉnh tề, thầy cúng đại diện cho chủ gia đình đọc lời khấn bày tỏ sự cảm ơn đối với các thần đã cho một mùa vụ no đủ, sung túc, cầu Yang cho mùa vụ năm tới thóc lúa, ngô bắp lại chất đầy kho, đầy nhà, cuộc sống tươm tất, ấm no hơn. Ngay khi kết thúc lời khấn, thầy cúng đi lấy rượu ở bếp lửa, dàn ching, kho lúa để chúc phúc. Khi phần nghi lễ khép lại cũng là lúc bắt đầu cuộc vui rộn ràng, thâu đêm suốt sáng. Nữ gia chủ được mời hút cần rượu đầu tiên, sau đó đến những người nữ lớn tuổi nhất, tiếp theo là các bậc cao niên, người bà con lớn tuổi trong dòng họ trước, người trong buôn làng sau. Mọi người trong buôn sẽ tề tựu ăn uống no say, thoải mái cho đến khi ai không muốn vui chơi nữa mới nghỉ. Khi lễ hội đi vào thời khắc đêm khuya, một số người sẽ đánh ching biểu diễn cho mọi người nghe. Tiếng hát cũng được vang lên. Khi đêm xuống, một nghệ nhân hoặc già làng trong buôn kể khan bên bếp lửa bập bùng. Cuộc vui cứ thế kéo dài cho đến sáng hôm sau. “Lễ cúng cơm mới sẽ tổ chức theo từng nhà. Bà con trong buôn ăn hết nhà này rồi đến nhà kia! Uống nhà này rồi đến nhà kia! Chúc mừng hết nhà này rồi đến nhà kia! có lúc trong buôn một ngày 3-4 nhà cùng ăn cơm mới vì những gia đình này có cùng giống lúa. Nếu gia chủ khá giả thì ăn cơm mới to lắm! Kéo dài thâu đêm suốt sáng, đãi mọi người cho đến khi say nghiêng ngả thì thôi”21. 3.3.3.4. Lễ cúng cầu mưa (H’uh gian) Lễ cầu mưa mang một ý nghĩa tâm linh, cầu mong cho thần linh, ông Trời, bà Trời và các thần lớn nhỏ mang mưa về, để cho buôn làng được mùa nương rẫy, lúa, bắp đầy chòi, cây cỏ xanh tươi, đàn trâu, đàn bò sinh sôi; cầu mưa cho khí hậu 21 Theo già làng A Nhới Buôn Trinh xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên.
  46. 34 trong lành, con người nhiều sức khỏe, mong cho cuộc sống luôn được ấm no, hạnh phúc. Để làm lễ cầu mưa, dân làng chuẩn bị đồ lễ gồm 1 con trâu, nhưng thường là bò, 7 ché rượu cần. Sau đó các thầy cúng khấn thần linh để trồng cây gạo, cột trâu để giết làm đồ tế. Lễ cúng bắt đầu với đồ tế gồm 7 ché rượu, thịt, lòng bò đựng trong 7 chén, 7 tô rượu, 7 tô cơm đặt lên sàn. Các thầy cúng bắt đầu khấn mời ông Trời, bà Trời, các thần sông thần sấm, sét cùng về hưởng và đem hạt mưa về giúp cái nương, cái rẫy luôn xanh tươi, được mùa, mang lại cuộc sống ấm no cho bà con. Ching, trống, cồng ching vang lên cùng với lời khấn lúc trầm lúc bổng của các thầy cúng như thúc giục, mời gọi thần linh về. 3.3.3.5. Lễ cúng bến nước (Tun pin e) Để thực hiện nghi thức đặc biệt quan trọng trong đời sống của cộng đồng, người Ê-đê xã Eabar chọn ra những người đàn ông tài giỏi của buôn làng dựng cây nêu tránh súc vật chạy qua, cây nêu sẽ được chọn dựng ở vị trí cao ráo trước nhà sàn dài. Một số người khác sẽ phải đi lên đầu nguồn nước để kiểm tra, đảm bảo nguồn nước trong lành sẽ chảy về làng. Trước khi tiến hành nghi lễ, từ sáng sớm, già làng sẽ đánh những hồi ching dài báo cho buôn làng biết là sắp tổ chức lễ cúng bến nước. Bến nước hôm đó được trang hoàng với cổng chào bằng lá cây, cỏ lá dài, treo đồ vật trang trí. Theo giải thích của bà H’Lum (83 tuổi, buôn Chung, xã Eabar) thì lễ cúng có 3 phần. Phần thứ nhất là cúng tại bến nước để cầu cho thần nước mang lại sức khỏe cho buôn làng, tiếp đó là cúng tại hàng rào trước khi mang nước vào nhà và cuối cùng là cúng tại nhà của chủ bến nước. Sau khi làm thủ tục cúng xong ở bến nước, người ta sẽ lấy nước vào các vật đựng nước, thường là các quả bầu khô, bỏ vào gùi và gùi về nhà lấy phước. Trong khi đó, một đoàn người sẽ theo người chủ lễ đi đến cầu thang từng nhà, hát cầu cúng và rưới tiết vào chân cầu thang để cầu may cho nhà chủ Kết thúc nghi lễ, cả buôn làng tập trung về nhà dài để ăn tiệc, uống rượu cần và nhảy múa trong không khí của lễ hội với âm vang cồng ching rộn rã. Những tiếng cồng, tiếng ching, những điệu nhảy tưng bừng đưa mọi người xích gần nhau hơn, trong tiếng hát ca dưới mái nhà chung của dân tộc. Lễ cúng bến nước là nghi lễ chung của toàn buôn, sau lễ cúng chính, mỗi gia đình đều tổ chức cúng tại nhà.
  47. 35 CHƯƠNG 3 BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN 3.1. Biến đổi văn hóa truyền thống của người Ê- đê ở Eabar 3.1.1. Biến đổi về văn hóa vật chất Trước kia, ở xã Eabar môi trường tự nhiên rất phong phú và đa dạng, người Ê-đê có thể tận dụng để ăn uống và giữ gìn sức khỏe, tạo ra các vật dụng hằng ngày. Nguồn thực phẩm chủ yếu từ săn bắt và chăn nuôi. Do đó, bữa ăn của họ khá đơn giản và đạm bạc. Mỗi khi có tiệc tùng hay lễ hội, bữa ăn có thêm các món ăn phong phú hơn, họ vừa ăn vừa uống rượu cần. Từ trẻ em đến cụ già, từ nam tới nữ đều biết uống rượu cần và coi đó là thú vui, thuốc lá là đồ hút cho cả nam lẫn nữ. Nhưng nay tiến bộ hơn, các bài thuốc hái từ cây, lá rừng ít người sử dụng, người ta đi khám bệnh xin thuốc, mua thuốc tại các trạm xá bệnh viện. Người ta ăn chín uống sôi, hợp vệ sinh, thức ăn mua từ chợ phong phú đạm bạc hơn, nhiều người có nhu cầu ăn ngon, uống nhiều thức uống ngon bổ, sử dụng nguồn nước sạch,v.v Qua khảo sát 50 hộ người Ê-đê xã Eabar, chúng tôi nhận thấy 37 hộ đã ăn bằng chén. Rõ ràng, đã có nhiều thay đổi trong cách ăn uống của bà con nếu như lúc trước là đa phần họ ăn bốc thì bây giờ với sự giao lưu và tiếp xúc với văn hóa người Việt, các cư dân ở đây chuyển sang ăn bằng chén đũa như người Việt (xem phụ lục hình ảnh, hình 24). Thông thường một số hộ gia đình vẫn ăn bốc nhưng khi có khách là người Việt thì khi mời ăn hay uống họ đều kèm theo chén đũa, muỗng Điều đó cho thấy có sự ảnh hưởng rất lớn trong giao lưu và tiếp biến văn hóa. Ngay trong buổi lễ cúng thần linh. Ở đây, chúng tôi may mắn được chứng kiến buổi lễ cúng rượu 5 của anh Y Dung, họ cũng chỉ ăn bốc trong quá trình làm lễ. Khi bài cũng đã xong, đãi khách họ lại ăn bằng chén, đũa như người Việt, thêm vào đó họ còn dùng thêm bia, nước ngọt sau khi đã làm lễ xong. Trang phục truyền thống chủ yếu chỉ còn ở người cao tuổi trong buôn. Thanh niên không mặc áo quần truyền thống, họ ưa chuộng quần jean, áo thun theo phong
  48. 36 cách người Việt, bị “Việt hóa” họ chỉ mặc trang phục truyền thống trong các buổi lễ mà thôi. Trang phục phổ biến nhất của người Ê-đê xưa kia là nam đóng khố nữ mặc váy. Trong những ngày lễ hội hoặc đi chơi, phụ nữ thường mặc váy mảnh theo kiểu quấn quanh thân, có hoa văn ở cạp và gấu. Áo có thêu hoa văn ở vai, dọc theo nách, cổ tay và gấu áo. Trong khi đó áo của nam giới mặc dài quá mông, cánh tay áo rộng, cũng thêu hoa văn như áo phụ nữ. Trang sức của người Ê-đê khá phong phú. Đến tuổi trưởng thành, họ đều cưa những chiếc răng cửa. Trẻ em một hai tuổi đã phải xâu lỗ tai. Con trai, con gái đều đeo hoa tai và vòng đồng ở cổ tay. Con gái thường đeo hoa tai được tiện bằng ngà voi khá to, ngược lại con trai đeo những chiếc khuyên tròn bằng đồng ở cổ. Ngày nay, nhu cầu mặc đẹp thường theo kiểu lịch sự, hiện đại như người Việt, các trang sức cũng đã thay đổi nhiều, bằng vàng hoặc bằng đá quý Ngày nay khi đặt chân đến các buôn trên địa bàn xã Eabar rất khó tìm được ngôi nhà sàn dài truyền thống bằng mái tranh, phên nứa mà thay vào đó là những nhà xây theo kiến trúc của người Việt, đa phần các ngôi nhà được làm hoàn toàn bằng gỗ thiên nhiên, các bậc thang được bê tông hóa, không còn biểu trưng cho chế độ mẫu hệ là cầu thang được trang hoàng bằng những bầu vú cách điệu, là những bậc được đẽo kỳ công đậm chất văn hóa. Nhà rông truyền thống đã không còn hiện hữu trong tâm trí bà con nữa mà thay vào đó là sự can thiệp của nhà nước là hàng loạt các nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng được xây dựng. Ở xã Eabar có nhiều rừng, lớn nhất là “Hòn đen” có nhiều loại gỗ quý và họ đã có thói quen tận dụng nó để phục cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt hàng ngày. Từ cái củi, cán niết, xà gạc, cán cuốc, cái chày đến cái nhà dài, nhà mồ họ đều tận dụng vốn có sẵn trong thiên nhiên. Nghệ thuật tạo hình của người Ê-đê xã Eabar khá độc đáo, thể hiện ở điêu khắc, chạm trổ, trang trí hoa văn trên vật dụng hằng ngày, nhà cửa, tượng nhà mồ phong phú, đa dạng có nhiều ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống. Nhưng nay, những yếu tố truyền thống độc đáo ấy không còn nữa mà văn hóa chạm trổ, điêu khắc, trang trí đều ảnh hưởng sâu sắc nét văn hóa hiện đại. Khi xã hội tiến bộ hơn người ta không còn nhu cầu làm nhà sàn dài mà là nhà xây cho sáng sủa, lịch sự, ngăn nắp hơn, các trang thiết bị dụng cụ sử dụng trong gia đình được mua về hợp với thời đại.