Luận văn Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay

pdf 94 trang ngocly 2460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_giao_duc_phap_luat_cho_dong_bao_nguoi_cham_o_tinh_n.pdf

Nội dung text: Luận văn Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, công tác phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và công tác phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người nói riêng giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Mỗi cán bộ, mỗi người dân có nắm vững kiến thức pháp luật thì mới phát huy được tinh thần làm chủ của bản thân, góp phần quản lý xã hội bằng pháp luật. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay, Đảng ta đã liên tục khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Quan điểm coi trọng công tác giáo dục pháp luật được thể hiện nhất quán và ngày càng rõ nét. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật, huy động các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia vào đợt vận động thiết lập trật tự kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan nhà nước và trong xã hội [16, tr. 241]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải đi đôi với công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật đó là: "Đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng luật, ban hành và thực thi pháp luật, trong đó chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật một cách nghiêm minh" [17, tr. 239]. Thể chế hóa quan điểm do Đảng đề ra, nhiều văn bản pháp luật về giáo dục pháp luật đã được Nhà nước ban hành. Ngày 17/1/2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến,
  3. giáo dục pháp luật từ 2003 đến 2007. Ngày 16/12/2004 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 214/2004/QĐ-TTg phê duyệt chương trình hành động quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ nhân dân ở xã phường thị trấn từ năm 2005 đến 2010 Trên cơ sở đó, thời gian qua công tác giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người nói riêng đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lý trong nhân dân, bước đầu tạo dựng ổn định trong lối sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật ở các đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, so với nhu cầu thực tiễn, công tác giáo dục pháp luật vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế, nhất là giáo dục pháp luật cho các đối tượng ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người (trong đó có vùng đồng bào người Chăm ở Ninh Thuận). Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đời sống vật chất cũng như ý thức pháp luật của đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người nói chung, vùng đồng bào người Chăm ở Ninh Thuận nói riêng được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, là dân tộc thiểu số với đặc điểm khá đặc biệt xét trên phương diện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội và tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc Chăm ở Ninh Thuận (chủ yếu sống ở vùng nông thôn) còn nghèo, họ quan tâm đến nhu cầu tìm kiếm cơm ăn, áo mặc hơn nhu cầu tiếp xúc các tri thức văn hóa, chuẩn mực xã hội trong đó có pháp luật. Mặt khác, phong tục, tập quán nói chung và luật tục nói riêng trong cộng đồng người Chăm rất đa dạng, pháp luật trong một số lĩnh vực hầu như "vắng bóng" trong cộng đồng người Chăm. Luật tục ảnh hưởng sâu sắc, trong đó có những luật tục tốt mang ý nghĩa tích cực cần được phát huy và cả những hủ tục lạc hậu, nặng nề cần được loại bỏ để phù hợp với đời sống hiện nay. Bởi vậy, quan tâm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Chăm ở Ninh Thuận nói riêng là vấn đề vô cùng quan trọng.
  4. Với những lý do trên, việc nghiên cứu " Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay " là vấn đề cần thiết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. 2. Tình hình và phạm vi nghiên cứu của luận văn 2.1. Tình hình nghiên cứu Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục pháp luật là vấn đề hết sức quan trọng. Việc nghiên cứu về giáo dục pháp luật dưới góc độ khoa học pháp lý được các nhà khoa học Việt Nam rất quan tâm. Cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật của tập thể, cá nhân đã được công bố. Tìm hiểu các công trình đã được công bố trong nước và nước ngoài cho thấy, mặc dù giáo dục pháp luật được đề cập dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, song về cơ bản bao gồm các nhóm vấn đề sau: Nhóm 1: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, gồm khái niệm, mục đích, đối tượng, nội dung, hình thức của giáo dục pháp luật. Điều này được minh chứng qua các công trình khoa học: Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới, Phùng Văn Tửu, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4/1985. Giáo dục ý thức pháp luật, Nguyễn Trọng Bích, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4/1989. Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật, Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KX.07-17, Viện Nhà nước và pháp luật - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn chủ trì. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98-223-ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp.
  5. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1994, mã số 92-98-223-ĐT, của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. Bàn về giáo dục pháp luật, Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới, Hồ Việt Hiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000. Nhóm 2: Nghiên cứu giáo dục pháp luật đối với các đối tượng cụ thể nhằm lý giải những đặc thù và tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho từng đối tượng. Được thể hiện qua các công trình sau: Giáo dục pháp luật cho nhân dân, Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983. Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ của Lê Đình Khiên, 1993. Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, 1995. Giáo dục pháp luật trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân Thảo, 1996. Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai, 1996. Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khơme Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Văn Bền, 1998. Bộ đội Biên phòng với việc giáo dục pháp luật cho đồng bào khu vực biên giới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Văn Trưởng, 1998.
  6. Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Trung Nghĩa, 2000. Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học của Đặng Ngọc Hoàng, 2000. Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đắk Lắk - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Hàn Lâm, 2001. Nhóm 3: Nghiên cứu giáo dục pháp luật trong mối quan hệ với các nội dung khác. ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Luật học của Nguyễn Đình Lộc, 1987. Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Luận án phó tiến sĩ Luật học của Trần Ngọc Đường, 1988. Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể, cá nhân, các bài viết của các tác giả từ trước đến nay về giáo dục pháp luật đã đóng góp rất nhiều các vấn đề cơ bản cả về vấn đề lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau về giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Chăm nói chung và giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc chăm ở Ninh Thuận nói riêng. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống vấn đề giáo dục pháp luật cho đồng bào Chăm trên địa bàn Ninh Thuận. 2.2. Phạm vi nghiên cứu
  7. - Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào Chăm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. - Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ 1999 đến nay. Tức là từ khi có Nghị quyết liên tịch số 01/1999/NQLT/TP-VHTT-NNPTNT-DTMN-ND ngày 07/9/1999 về phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở Ninh Thuận, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào Chăm ở Ninh Thuận hiện nay. 3.2 Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, luận văn phân tích rõ đặc điểm và vai trò giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân thực trạng của công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào Chăm ở Ninh thuận. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào Chăm ở Ninh Thuận hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về giáo dục pháp luật nói chung và cho đối tượng là dân tộc thiểu số nói riêng.
  8. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp: lịch sử - cụ thể, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: thống kê, so sánh, điều tra xã hội học 5. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện về giáo dục pháp luật cho đồng bào Chăm ở Ninh Thuận, nêu được khái niệm và đặc trưng giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm. Vì vậy, luận văn có những đóng góp khoa học cụ thể sau: Luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản để tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đối tượng đặc thù là đồng bào Chăm ở Ninh Thuận. 6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về giáo dục pháp luật, làm rõ tính đặc thù của công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào Chăm sinh sống ở Việt Nam. - Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo tổ chức hoạt động thực tiễn của các cơ quan đảng và nhà nước trong việc giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung ở Ninh Thuận và đồng bào dân tộc Chăm ở Ninh Thuận nói riêng. Đồng thời là tài liệu cho việc hoạch định chính sách đối với đồng bào dân tộc Chăm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  9. Chương 1 Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật Cho đồng bào người chăm 1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào người chăm 1.1.1. Khái niệm và mục đích của giáo dục pháp luật 1.1.1.1. Khái niệm Khi pháp luật ra đời thì đồng thời cũng phát sinh nhu cầu về giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp luật với tư cách là một hoạt động xã hội xuất hiện sớm và đã có từ lâu. Nhưng ở nước ta cho đến nay những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật nói chung và khái niệm về giáo dục pháp luật nói riêng vẫn còn có các quan điểm khác nhau. Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy, để tìm hiểu khái niệm giáo dục pháp luật cần tiếp cận từ khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm với nghĩa rộng và hẹp khác nhau. Tuy nhiên, tiếp cận từ nghĩa rộng hay nghĩa hẹp của giáo dục thì giáo dục pháp luật trước hết cũng là một hoạt động mang đầy đủ những tính chất chung của giáo dục nhưng nó có đặc điểm riêng biệt về mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp, chủ thể. Hiện nay các nhà khoa học pháp lý quan niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm; khái niệm giáo dục pháp luật được hiểu như sau: Giáo dục pháp luật là hoạt động có tổ chức, có mục đích có tính định hướng tác động lên các đối tượng giáo dục nhằm làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm đối với pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành. 1.1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
  10. Bất kỳ một hoạt động giáo dục nào cũng đều nhằm đạt đến một mục đích nhất định, giáo dục pháp luật có mục đích là: - Nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng Pháp luật của Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng bản chất pháp luật của Nhà nước ta là rất tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Những qui định pháp luật đó dù tốt đẹp bao nhiêu chăng nữa mà không được nhân dân biết đến thì vẫn chỉ là những trang giấy mà thôi. Pháp luật của Nhà nước có thể được một số người tìm hiểu, quan tâm và nắm bắt xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu cầu sản xuất kinh doanh của họ. Những người này luôn theo sát những qui định pháp luật mới được ban hành để phục vụ trực tiếp cho công việc của mình, nhưng số lượng đối tượng này không phải là nhiều. Trong điều kiện trình độ dân trí còn chưa cao, đời sống kinh tế của đa số nhân dân còn gặp nhiều khó khăn cho nên các đối tượng nằm trong sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật, nghĩa là số đông nhân dân lao động trong xã hội chưa có điều kiện tiếp cận với pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật chính là phương tiện truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các qui định pháp luật đến với người dân, giúp cho người dân hiểu biết nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tìm hiểu tự học tập. Đó chính là phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân. - Hình thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin tưởng vào những qui định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng là để bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội. Khi nào
  11. người dân nhận thức đầy đủ được như vậy thì pháp luật không cần một biện pháp cưỡng chế nào mà mọi người vẫn tự giác thực hiện. Tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người và cả cộng đồng đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng là phổ biến giáo dục pháp luật để mọi người hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, tuyên truyền về những mặt thuận lợi và khó khăn phức tạp của việc thực hiện và áp dụng pháp luật, những mặt ưu điểm và hạn chế của quá trình điều chỉnh pháp luật. Pháp luật cũng như mọi hiện tượng khác bao giờ cũng có hai mặt, không phải lúc nào nó cũng thỏa mãn hết, phản ánh được đầy đủ nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội. Quá trình điều chỉnh pháp luật sẽ lấy lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội làm tiêu chí, thước đo, do đó sẽ có một số ít không thỏa mãn được. Chính các yếu tố hạn chế và mặt trái của các qui định pháp luật càng tạo nên sự cần thiết của công tác phổ biến giáo dục pháp luật để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng tình ủng hộ pháp luật. Có như vậy mới hình thành lòng tin vào pháp luật của đông đảo nhân dân trong xã hội. - Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố, đó là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật. Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích lũy kiến thức của hoạt động thực tiễn và công tác Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật. ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ có thể được nâng cao khi công tác phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân dược tiến hành thường xuyên, kịp thời và có tính
  12. thuyết phục. Phổ biến, giáo dục pháp luật không đơn thuần là tuyên truyền các văn bản pháp luật đang có hiệu lực mà còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực hiện đúng pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý đồng tình với hành vi hợp pháp, lên án các hành vi phi pháp. Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của con người với pháp luật, đồng thời ngày càng nâng cao sự hiểu biết của con người đối với các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp luật trong đời sống, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm 1.1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm Từ khái niệm chung về giáo dục pháp luật có thể hiểu: Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm là sự tác động có định hướng của chủ thể giáo dục lên đối tượng giáo dục là người Chăm nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tạo niềm tin vào pháp luật để họ có đầy đủ khả năng tham gia vào các quan hệ xã hội phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. 1.1.2.2. Đặc điểm về giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm là hình thức giáo dục đặc thù, ngoài những đặc điểm chung của giáo dục pháp luật, còn có những đặc điểm riêng, đặc điểm riêng đó được phản ánh qua đặc điểm chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức phương pháp giáo dục pháp luật. * Đặc điểm về đối tượng và chủ thể Quá trình giáo dục pháp luật thực chất là quan hệ xã hội, giữa một bên là người giáo dục pháp luật (chủ thể giáo dục pháp luật) và một bên là người được giáo dục pháp luật (đối tượng giáo dục pháp luật). Mối quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau, giữa các bên tham gia. Việc xác định chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và
  13. thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật. trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật tạo cho chủ thể xác định được các nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp để tiếp cận với đối tượng giáo dục pháp luật một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, điều quan trọng là các chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật phải biết vị trí của mình trong từng giai đoạn lịch sử hoặc trong từng loại công việc: khi là chủ thể, khi là đối tượng giáo dục pháp luật bởi quy luật của tự nhiên và xã hội liên tục được vận động và phát triển. Vì vậy, C. Mác viết: "Người đi giáo dục cần phải được giáo dục". - Đặc điểm về đối tượng giáo dục pháp luật. Dưới góc độ giáo dục học thì đối tượng giáo dục là những cá nhân hoặc tập thể học sinh, người học. Trong lĩnh vực giáo dục pháp luật, đối tượng giáo dục pháp luật là các cá nhân công dân hay các nhóm, cộng đồng công dân tiếp nhận trực tiếp hoặc gián tiếp tác động của các hoạt động giáo dục pháp luật do các chủ thể giáo dục tiến hành nhằm đạt được các mục đích đặt ra. Mỗi nhóm đối tượng giáo dục pháp luật được chủ thể tác động bằng hình thức phương pháp khác nhau, điều này phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, nhu cầu và khả năng nhận thức của từng loại đối tượng. Trong giai đoạn hiện nay, ngoài đối tượng chung là mọi công dân cần ưu tiên nghiên cứu một số đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, học sinh, sinh viên, các tầng lớp nhân dân lao động đặc biệt là nhân dân các dân tộc ít người, vùng sâu vùng xa ở nước ta, một quốc gia đa dân tộc với 54 thành phần dân tộc anh em trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, dân tộc Chăm là một dân tộc khá đặc biệt xét trên phương diện lịch sử, kinh tế văn hóa, xã hội và tín ngưỡng tôn giáo. Từ nhiều năm qua cùng với đồng bào dân tộc thiểu số khác, đồng bào người Chăm cũng là một trong những đối tượng cần được quan tâm phổ biến giáo dục pháp luật.
  14. Đối tượng giáo dục pháp luật là đồng bào người Chăm - họ là nông dân, công nhân, trí thức, học sinh người Chăm. Ngoài những đặc điểm nói chung về nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính Đối tượng giáo dục pháp luật là đồng bào người Chăm còn có những đặc điểm đặc thù khác đó là: - Theo tôn giáo thì cộng đồng người Chăm chia thành những nhóm tộc người riêng biệt: Chăm Bà La Môn; Chăm Bà Ni và Chăm Islam. Cũng như các dân tộc thiểu số khác, đồng bào dân tộc Chăm có tâm lý rất dễ tin, nhưng niềm tin đó cũng dễ dàng bị thay đổi, bởi vậy hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm không chỉ là việc làm cho họ hiểu đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước quy định như thế nào mà quan trọng hơn là việc đường lối đó, pháp luật đó có được minh chứng đúng đắn bằng thực tiễn hay không. Và điều rất quan trọng là chủ thể giáo dục pháp luật phải là người gương mẫu. - Đồng bào người Chăm cư trú tương đối tập trung tạo nên những "cụm Chăm" riêng biệt mà ngày nay là đơn vị hành chính lãnh thổ (như các huyện Ninh Phước, Ninh Thuận có 37.800 người Chăm chiếm 30% dân số của huyện, phân bố 8/13 xã trong huyện, huyện Bắc Bình, Bình Thuận có khoảng 15.287 người Chăm chiếm 13% dân số trong huyện. Có làng Chăm với 80% dân số của xã như xã Phước Nam, chiếm 50% dân số của xã như xã Phước Hải, Phước Thái, Phước Hậu của huyện Ninh phước [3, tr. 13]. - Nhìn chung, so với một số dân tộc thiểu số khác thì người Chăm có trình độ văn hóa khá cao, hầu hết các thôn làng đều có học sinh, sinh viên người Chăm theo học tại các trường đại học, cao đẳng, đội ngũ giáo viên y bác sĩ, cán bộ có trình độ đại học chiếm một tỷ lệ đáng kể. Có thể nói trong cộng đồng người Chăm đã và đang hình thành một đội ngũ trí thức khá rõ nét. - Tuy nhiên so với mặt bằng chung, đồng bào người Chăm còn chịu nhiều thiệt thòi, ít có điều kiện tiếp xúc, tìm hiểu pháp luật và sử dụng phương tiện, công cụ pháp luật để tự bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
  15. Điều đó đòi hỏi phải có những hình thức, biện pháp phù hợp và hiệu quả hơn để hỗ trợ một cách thiết thực cho những đối tượng này có được hiểu biết các quyền và nghĩa vụ của mình, được tạo điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp. Đó chính là cách thể hiện đường lối của Đảng về xóa đói, giảm nghèo trong lĩnh vực pháp luật. Đồng bào người Chăm là dân tộc thiểu số duy nhất ở nước ta đã đạt đến một trình độ phát triển cao, xây dựng được quốc gia dân tộc độc lập, tồn tại hàng ngàn năm. Sau hơn 300 năm tồn tại và phát triển cùng cộng đồng dân tộc Việt Nam, tuyệt đại đa số đồng bào người Chăm đều coi dân tộc mình là một bộ phận cấu thành không thể tách rời cộng đồng quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, ý thức về cội nguồn dân tộc, đặc biệt là ý thức sâu sắc về việc bảo tồn chính sự tồn tại của dân tộc mình, luôn tiềm ẩn trong cư dân nhất là trong giới trí thức, nhân sĩ Chăm [40, tr. 17]. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm cần đặc biệt lưu ý trong việc lựa chọn chủ thể, hình thức, phương pháp tuyên truyền giáo dục pháp luật. - Đặc điểm về chủ thể giáo dục pháp luật Chủ thể giáo dục pháp luật có thể hiểu là tất cả những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục đích giáo dục pháp luật. Các nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định có hai loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp. Chủ thể chuyên nghiệp được hiểu là người có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp, thường xuyên thực hiện nhiệm vụ giáo dục pháp luật. Đó là các giáo viên giảng dạy pháp luật trong các nhà trường, các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, các biên tập viên, phát thanh viên, ban biên tập các tạp chí, sách báo có liên quan đến giáo dục pháp luật, các cá nhân, tổ chức quản lý về
  16. công tác giáo dục pháp luật, các cá nhân, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ pháp luật, tổ chức trợ giúp pháp lý cán bộ làm công tác nghiên cứu, chỉ đạo hoạt động giáo dục pháp luật chủ thể chuyên nghiệp, là lực lượng nòng cốt trong công tác giáo dục pháp luật. Chủ thể không chuyên nghiệp là những người mà tuy chức năng chính không phải là giáo dục pháp luật nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là bằng hoặc thông qua các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện các mục đích giáo dục pháp luật. Họ làm việc ở nhiều lĩnh vực, cơ quan khác nhau như các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, các cán bộ cơ quan hành pháp, tư pháp, các luật gia, luật sư, công chứng viên chủ thể không chuyên nghiệp tuy không giữ vị trí nòng cốt nhưng có vai trò rất quan trọng. Nhờ những chủ thể không chuyên nghiệp nên công tác giáo dục pháp luật được triển khai rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân, mọi đối tượng. Điều đó tạo được sức mạnh tổng hợp và đồng bộ cho công tác giáo dục pháp luật. ở Việt Nam, trong những năm qua cũng đã hình thành một đội ngũ đông đảo những chủ thể chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp tham gia vào công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Các chủ thể này đã có cố gắng rất nhiều để đóng góp vào việc thực hiện các nội dung, mục đích giáo dục pháp luật trong từng thời kì. Tuy nhiên, để công tác giáo dục pháp luật đạt hiệu quả thì đòi hỏi chủ thể giáo dục pháp luật phải là người có kiến thức pháp luật, nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, có phẩm chất chính trị vững vàng, tư cách đạo đức tốt có tinh thần trách nhiệm và khả năng hoàn thành công việc được giao. Với đối tượng giáo dục pháp luật là đồng bào người Chăm, một đối tượng có đặc điểm đặc thù (như đã phân tích ở trên), thì để công tác giáo dục pháp luật đạt hiệu quả, ngoài nội dung, hình thức phương pháp phù hợp, việc lựa chọn chủ thể giáo dục pháp luật cũng hết sức quan trọng. Chủ thể giáo dục pháp luật cho đồng bào người chăm ngoài những tiêu chuẩn cần có của chủ thể giáo dục pháp luật thì phải là người có sự nhiệt tình tâm huyết, có hiểu biết về phong tục tập quán người Chăm, am hiểu tâm lý người Chăm và biết tiếng Chăm.
  17. Thực tiễn cho thấy, trong cộng đồng người Chăm, có những cá nhân có vị trí uy tín lớn, tiếng nói của họ có ảnh hưởng rất sâu rộng trong cộng đồng và gần như mang tính quyết định trước nhiều vấn đề xảy ra. Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng đúng hướng và đạt hiệu quả hay không phụ thuộc khá nhiều vào những người này. Họ là sư cả, trưởng họ, trưởng thôn, những người có uy tín, có khả năng giác ngộ, tập hợp những người khác trong cộng đồng, những người "cầm cân nảy mực" trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh hàng ngày của cộng đồng, những mối bất hòa, những tranh chấp Vì vậy, ngoài chủ thể chuyên nghiệp, cần thu hút đội ngũ sư cả, trưởng họ, trưởng thôn, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của họ trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật là rất cần thiết có hiệu quả. Nếu các thành phần này nắm chắc pháp luật, sẽ thúc đẩy hiệu quả việc phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, loại trừ những hủ tục lạc hậu, thông qua họ tác động tới trình độ nhận thức pháp luật của từng người dân, dẫn dắt họ, giúp họ hiểu và từng bước thực hiện pháp luật, thực hiện các qui ước của làng xã, xây dựng đời sống văn hóa mới Như vậy, với lợi thế là uy tín của đội ngũ sư cả, trưởng họ, trưởng thôn với cộng đồng người Chăm, họ có thể là các cộng tác viên rất hiệu quả trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật. Để có thể thu hút được đội ngũ này vào việc tuyên truyền giáo dục pháp luật thì đòi hỏi các cơ quan chức năng cần có những chính sách, chế độ và biện pháp nâng cao năng lực cho họ - đó là: Tổ chức bồi dưỡng, trang bị kiến thức pháp luật cần thiết, tạo điều kiện cho đội ngũ sư cả, trưởng họ, trưởng thôn tiếp cận, cập nhật những văn bản, những thông tin pháp lý cần thiết như: Sử dụng tủ sách pháp luật ở cơ sở, tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo ngắn hạn để có thể nâng cao hiểu biết của họ về pháp luật, có chế độ, chính sách quan tâm ưu đãi, coi trọng và sử dụng đội ngũ sư cả, trưởng họ, trưởng thôn, phát huy vai trò của họ, những người tiêu biểu có uy tín lớn trong cộng đồng như Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Động viên phát huy vai trò của những người tiêu biểu có uy tín trong dân tộc ở địa phương" [17, tr. 128].
  18. * Đặc điểm về nội dung, hình thức phương pháp - Đặc điểm về nội dung Nội dung giáo dục pháp luật là yếu tố quan trọng của quá trình giáo dục pháp luật. Xác định đúng nội dung giáo dục pháp luật là đảm bảo cần thiết để giáo dục pháp luật có hiệu quả. Nội dung giáo dục pháp luật được xác định dựa trên cơ sở mục đích của giáo dục pháp luật là hình thành ở đối tượng giáo dục hệ thống tri thức pháp luật, tình cảm, lòng tin và thói quen hành động phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Do đó, nội dung của giáo dục pháp luật nói chung bao gồm việc cung cấp một cách thường xuyên, có hệ thống các loại thông tin về pháp luật và thực tiễn thi hành, bảo vệ pháp luật. Đó là một phạm vi rộng bao gồm các kiến thức pháp luật cơ bản như lý luận khoa học về pháp luật, các ngành luật, các văn bản pháp luật thực định, các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về điều tra, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân như thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, các quy định và thủ tục để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân. Tuy nhiên, mức độ về nội dung giáo dục pháp luật phải được xác định cho từng nhóm đối tượng cụ thể thì mới có hiệu quả thiết thực trong việc giáo dục pháp luật + Mức độ tối thiểu về nội dung giáo dục pháp luật cho mọi công dân Các nội dung tối thiểu có thể là những thông tin về một số quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của công dân và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Bởi lẽ, sống trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì mỗi công dân phải có những hiểu biết tối thiểu về pháp luật và có kỹ năng tối thiểu để sử dụng pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. + Mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề.
  19. Trong xã hội có rất nhiều ngành nghề khác nhau ở các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã hội khác nhau. Ngoài kiến thức pháp luật cơ bản thường gặp trong thực tiễn, nội dung giáo dục pháp luật theo ngành nghề còn bao gồm một số luật thực định liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động cụ thể. Bởi vậy, những người hoạt động trong các lĩnh vực đó cần phải có hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức cao hơn, mang tính định hướng nghề nghiệp rõ hơn + Mức độ giáo dục pháp luật chuyên ngành cho những người hành nghề pháp luật. Đây là mức độ cao nhất của nội dung giáo dục pháp luật nhằm mục đích đào tạo những người, những tổ chức chuyên hành nghề pháp luật. Như vậy, từ việc xác định phạm vi và mức độ về nội dung giáo dục pháp luật đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu đặc điểm đặc thù của từng loại đối tượng cụ thể, áp dụng hợp lý các hình thức, phương pháp giáo dục của các chủ thể khác nhau để đảm bảo được toàn bộ nội dung giáo dục với phạm vi cấp độ khác nhau, với từng loại đối tượng khác nhau. Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm với những đặc điểm đặc thù về đối tượng, vì vậy nội dung giáo dục pháp luật cũng có những nét đặc thù riêng. Thứ nhất: Nội dung giáo dục pháp luật phải thiết thực dựa trên nhu cầu, điều kiện, đặc điểm của đối tượng giáo dục. Trên phương diện lý luận nói chung, nội dung giáo dục pháp luật phát sinh từ nhu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, từ yêu cầu của việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chính trị, kinh tế - xã hội, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, nội dung của giáo dục pháp luật có phù hợp hay không phù hợp còn phải căn cứ vào trạng thái ý thức pháp luật của công dân, vào điều kiện khả năng tiếp thu và nhu cầu của họ: Họ đang thiếu cái gì, cần cái gì. Đối với đồng bào người Chăm- một dân tộc thiểu số, nếu so với một số dân tộc thiểu số
  20. khác thì có trình độ văn hóa cao hơn nhưng so với mặt bằng chung thì trình độ học vấn vẫn còn thấp, các điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội còn nhiều khó khăn, lạc hậu, phong tục tập quán còn ảnh hưởng nặng nề, bởi vậy nội dung giáo dục pháp luật cho họ phải thiết thực, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ phù hợp với trình độ nhận thức của người dân. Nội dung thiết thực có nghĩa là không phải mọi văn bản pháp luật đều phổ biến giáo dục cho đồng bào hoặc phổ biến nguyên văn một văn bản pháp luật mà đòi hỏi chủ thể giáo dục phải biết lựa chọn từng vấn đề, những vấn đề yêu cầu phải phổ biến giáo dục, những vấn đề bức xúc đặt ra từ cơ sở, những vấn đề đồng bào quan tâm Theo tác giả luận văn, với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào người Chăm nói riêng cần phổ biến giáo dục các nội dung về: - Quyền và nghĩa vụ công dân: + Nghĩa vụ công dân trong việc cùng với toàn dân đấu tranh phòng và chống các vi phạm pháp luật để pháp luật được thực hiện công bằng. + Nghĩa vụ công dân trong việc thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để và đúng đắn pháp luật của Nhà nước cũng như các quy tắc sinh hoạt trong cộng đồng dân cư. + Quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và trình tự thủ tục tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi có tranh chấp. Phổ biến, giải thích các văn bản pháp luật hiện hành, đặc biệt là những văn bản liên quan trực tiếp, thiết thân đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình, pháp luật về hộ tịch, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, ưu đãi người có công với cách mạng, chính sách đối với đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số Ngoài ra, nội dung pháp luật nên được lồng ghép trong chương trình xóa đói giảm nghèo, dân số, khuyến nông, khuyến lâm
  21. Thứ hai: Bên cạnh phổ biến giáo dục nội dung đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần hướng dẫn cho nhân dân thực hiện, phát huy các tập quán sinh hoạt tốt đẹp, luật tục phù hợp với pháp luật của Nhà nước, đồng thời phải chỉ ra cho họ thấy được những hủ tục lạc hậu, nặng nề trái với lợi ích cộng đồng, trái với pháp luật của Nhà nước cần phải loại bỏ trong điều kiện đổi mới hiện nay. - Về hình thức phương pháp giáo dục pháp luật Hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc vào nội dung mà còn phụ thuộc vào hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật. Bởi vì, để chuyển tải được nội dung giáo dục pháp luật đến đối tượng giáo dục, đòi hỏi phải có cách thức và biện pháp tác động phù hợp với khả năng tiếp nhận của đối tượng. Là hệ thống các qui tắc xử sự chung trong xã hội, pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng lớn và có đối tượng tác động phong phú, phức tạp do vậy đòi hỏi việc phổ biến, giáo dục pháp luật phải có nhiều hình thức và phương pháp đa dạng phù hợp với từng loại đối tượng khác nhau và tùy thuộc tình hình cụ thể trong mỗi giai đoạn. Đặc biệt, trong điều kiện nước ta hiện nay, một nước đi từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở kinh tế và tư tưởng chưa thuần nhất, bên cạnh những nhân tố mới, điều kiện mới đã xuất hiện thì những khó khăn về kinh tế, những hạn chế trong nhận thức cũng như ảnh hưởng của những tập tục lạc hậu còn tồn tại thì yêu cầu này cần phải được chú trọng. Vấn đề đặt ra là hiểu như thế nào về hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật. Tác giả luận văn đồng ý với quan điểm: "Hình thức giáo dục pháp luật là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình giáo dục pháp luật, để thể hiện nội dung giáo dục pháp luật" [21, tr. 75]; "phương pháp giáo dục pháp luật là hệ thống các cách thức sử dụng để tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật [21, tr. 75]. ở nước ta hiện nay, thực chất chưa có các hình thức giáo dục pháp luật được xác định ổn định về mặt lý luận mà vẫn đang trong giai đoạn tìm tòi, thử
  22. nghiệm. Tuy nhiên, trong thực tiễn có rất nhiều hình thức phổ biến giáo dục pháp luật khác nhau như: Trực tiếp truyền đạt nội dung pháp luật cho người nghe (tuyên truyền miệng), sử dụng báo chí và hệ thống truyền thanh cơ sở, biên soạn và phát hành các loại tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật; truyền đạt nội dung pháp luật thông qua các phương pháp sư phạm (giáo dục pháp luật trong nhà trường); tổ chức các hình thức thi tìm hiểu pháp luật; tổ chức các câu lạc bộ pháp luật, xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý; hòa giải cơ sở; thông qua các hình thức văn hóa, văn nghệ, đặc biệt là các loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống. Căn cứ vào đối tượng phổ biến giáo dục pháp luật, họ là ai, trình độ nhận thức đến đâu, điều kiện, hoàn cảnh sống của họ như thế nào, mức độ quan tâm đến pháp luật, các vấn đề quan tâm và ưu tiên quan tâm của họ như thế nào. Sự hiểu biết và nhận thức của các tầng lớp nhân dân về văn hóa và pháp luật trong xã hội là hết sức đa dạng và khác nhau. Do đó, việc lựa chọn hình thức phổ biến giáo dục pháp luật phải chú ý đến yêu cầu phổ biến của chính văn bản đến nhóm dân cư nhất định, từ trình độ văn hóa và nhận thức của đối tượng. Xuất phát từ điều kiện kinh tế, địa lý và hoàn cảnh để quyết định một hình thức giáo dục cụ thể hay kết hợp các hình thức với nhau. Ngoài ra, gắn việc phổ biến giáo dục pháp luật với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong địa bàn cũng rất quan trọng. Điều đó, một mặt phát huy tác dụng của phổ biến giáo dục pháp luật, mặt khác cũng làm tăng hiệu quả của công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Đối với đồng bào dân tộc Chăm, có những nét rất đặc thù về đối tượng, nội dung giáo dục pháp luật thì hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật cũng có những điểm khác biệt. Có thể nói, thông tin pháp luật đến với nhân dân, đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào dân tộc Chăm nói riêng về thực chất là công tác vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do đó, một trong những hình thức phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả phù
  23. hợp với đặc thù đối tượng nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số là hình thức là hình thức truyền đạt trực tiếp (tuyên truyền miệng) thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Một hình thức khác cũng được sử dụng thường xuyên là biên soạn các tài liệu pháp luật phổ thông như: Sách giới thiệu văn bản, sách hỏi đáp về pháp luật, tờ gấp, tờ rơi việc dịch một số văn bản sang tiếng dân tộc Chăm để phổ biến cho đồng bào Chăm là hình thức rất phù hợp có hiệu quả. Các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật khác như:Thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở, tủ sách pháp luật, trên các phương tiện thông tin đại chúng truyền thanh cơ sở, lồng ghép trong các sinh hoạt truyền thống, lễ hội của đồng bào dân tộc, trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở, qui ước của làng xã cũng được chú trọng. Đặc biệt xuất phát từ đặc điểm phong tục, tập quán sinh hoạt của cộng đồng dân tộc Chăm thì việc huy động, vận động cán bộ chính quyền, đoàn thể ở cơ sở, các sư cả, trưởng họ, trưởng thôn tham gia công tác phổ biến giáo dục pháp luật được coi là một trong những hình thức, biện pháp phù hợp với đồng bào dân tộc Chăm. Từ năm 1997, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách đã được thành lập ở các tỉnh. Thông qua phương thức trợ giúp các vụ việc cụ thể, nhất là trong những đợt trợ giúp pháp lý lưu động tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, vùng đồng bào Chăm sinh sống nói riêng, hiệu quả giáo dục pháp luật rất cao, hoạt động này góp phần thông tin về các vấn đề pháp luật mang tính thời sự, gần gũi với đời sống của bà con, được nhân dân đồng tình ủng hộ. 1.1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm Pháp luật là một trong những phương tiện hàng đầu để Nhà nước quản lý xã hội, là công cụ để công dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp cũng như nghĩa vụ của mình. Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống để cho tất cả các cơ
  24. quan, tổ chức, đoàn thể xã hội và công dân biết và sử dụng một cách có hiệu quả công cụ, phương tiện đó. Đây là một quá trình tác động thường xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng đến công tác giáo dục pháp luật, nhiều nghị quyết quan trọng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội V, VI, VII, VIII, IX của Đảng đều xác định vị trí vai trò của công tác giáo dục pháp luật và trách nhiệm của các cơ quan đảng, nhà nước và các đoàn thể, tổ chức xã hội trong việc phổ biến giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác phổ biến giáo dục pháp luật cần được tăng cường thường xuyên liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật [18]. Vai trò của giáo dục pháp luật bắt nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Nếu như pháp luật là phương tiện hàng đầu để Nhà nước quản lý xã hội và là phương tiện để công dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì giáo dục pháp luật giúp cho các cơ quan nhân viên nhà nước và công dân biết sử dụng phương tiện đó trong công việc và đời sống hàng ngày. Với nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, giáo dục pháp luật có vai trò rất to lớn. Thứ nhất: Giáo dục pháp luật tác động vào ý thức đối tượng, góp phần hình thành và nâng cao ý thức pháp luật của công dân. ý thức pháp luật của một cá nhân thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong
  25. hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Giáo dục pháp luật là một trong những biện pháp có vai trò quan trọng tác động đến đối tượng giáo dục pháp luật góp phần hình thành và nâng cao ý thức pháp luật của cá nhân nói riêng và của xã hội nói chung. Trước hết, giáo dục pháp luật tác động đến ý thức của đối tượng hình thành chu trình: Không để ý đến pháp luật - để ý - biết - hiểu - chấp hành - thực hiện. Từ chỗ người được giáo dục pháp luật không có ý thức về sự tồn tại của pháp luật đến việc bắt đầu dành sự quan tâm của mình đối với pháp luật rồi từ sự quan tâm đến pháp luật là sự tiếp cận, tìm hiểu và hành động, nhờ đó không chỉ nâng cao về hiểu biết pháp luật mà còn định hướng hành vi xử sự đúng yêu cầu và quy định của pháp luật nâng cao ý thức pháp luật. Giáo sư, tiến sĩ Đào Trí úc khẳng định: "Sự hiểu biết pháp luật của nhân dân là yếu tố đầu tiên để hình thành ý thức pháp luật. Pháp luật trải qua nhiều hình thức khác nhau mới đến được với người dân và trở thành sự hiểu biết về pháp luật, ý thức pháp luật" [42, tr. 30-31]. Một vai trò hết sức quan trọng của giáo dục pháp luật là hình thành niềm tin của đối tượng được phổ biến nói riêng, của người dân nói chung đối với pháp luật. Rõ ràng, việc pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh không chỉ phụ thuộc vào sự đe dọa, cưỡng chế mà còn phụ thuộc vào sự giáo dục, phụ thuộc vào sự nhận thức về vị trí vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. Bằng việc giáo dục pháp luật, người dân nhận thức được vai trò và sự cần thiết của pháp luật đối với đời sống xã hội, tạo ra niềm tin vào pháp luật như là lẽ phải, là sự công bằng trong cuộc sống và đó là lúc người dân không chỉ quan tâm đến pháp luật mà còn tin tưởng vào pháp luật - một phương tiện để bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, trong đó bao gồm cả quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, từ đó tạo ra được ý thức, động cơ đúng đắn trong việc thực hiện pháp luật và đấu tranh tích cực với các hành vi vi phạm pháp luật.
  26. Thứ hai: Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật. Bằng việc ban hành pháp luật và bảo đảm cho chúng được thực hiện trong thực tế, Nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ cho lợi ích của Nhà nước và của xã hội. Sự khẳng định vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, gắn liền với quá trình không ngừng nâng cao ý thức và tính tích cực tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Chúng ta biết rằng, việc chấp hành pháp luật trong thực tế không phải lúc nào cũng trở thành tự nguyện bởi lẽ bản thân mỗi người luôn có xu hướng làm những gì mà họ thích hơn là những gì mà họ phải làm bởi các quy định của pháp luật, bởi sự đe dọa phải gánh chịu những hậu quả bất lợi. Giáo dục pháp luật là mang đến cho người dân biết được những quy định của pháp luật, giúp cho người dân nhận thức được tính công bằng, sự cần thiết phải hành động và xử sự theo đúng quy định của pháp luật vì lợi ích của cộng đồng và lợi ích của bản thân, từ đó có thái độ tôn trọng pháp luật và biết vận dụng pháp luật trong cuộc sống một cách đúng đắn. Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của chủ thể. Thực hiện pháp luật bao gồm những cấp độ khác nhau, từ việc tuân thủ đến việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà pháp luật quy định (sử dụng pháp luật) và cao nhất là việc áp dụng pháp luật. Dù ở cấp độ nào thì để thực hiện pháp luật đòi hỏi mỗi người dân phải có một trình độ văn hóa pháp lý nhất định, trước tiên là phải biết pháp luật quy định như thế nào, trong những trường hợp nhất định được xử sự ra sao và hành động như thế nào để vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, đồng thời không xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Giáo dục pháp luật giữ vai trò cung cấp cho người dân biết quyền và nghĩa vụ của mình, về những việc mà pháp luật quy định được phép làm và những việc mà
  27. pháp luật không cho phép làm hoặc nghiêm cấm, về cách thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng mở rộng và phát huy dân chủ. Yêu cầu của một nền dân chủ thực sự là phải làm cho người dân có thể tham gia một cách tích cực, chủ động và có ý thức vào quá trình quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hành quyền giám sát của mình đối với hoạt động của các cơ quan công quyền và giáo dục pháp luật góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của tính tích cực đó, bảo đảm hành trang kiến thức pháp lý cần thiết cho sự tham gia vào các hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào dân tộc Chăm nói riêng, với những đặc điểm đặc thù về đối tượng thì giáo dục pháp luật càng có vai trò quan trọng. Như đã phân tích, pháp luật của Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng bản chất pháp luật của Nhà nước ta là rất tốt đẹp nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội, những quy định pháp luật đó dù tốt đẹp bao nhiêu đi chăng nữa mà không được nhân dân biết đến thì cũng chỉ như những trang giấy. Pháp luật của Nhà nước có thể được một số người tìm hiểu, quan tâm và nắm bắt xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu cầu sản xuất kinh doanh của họ, nhưng số lượng đối tượng này không nhiều. Trong điều kiện dân trí còn chưa cao, đời sống kinh tế của đa số nhân dân nói chung, của đồng bào người Chăm nói riêng còn gặp nhiều khó khăn. Hơn ai hết, đối tượng này là công dân chịu nhiều thiệt thòi, khó có điều kiện tiếp xúc, tìm hiểu pháp luật và sử dụng những phương tiện công cụ pháp luật để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, bởi vậy giáo dục pháp luật chính là phương tiện truyền tải những thông
  28. tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định của pháp luật đến với người dân giúp cho người dân hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Giáo dục pháp luật đó chính là sự hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân giúp họ nhận thức được những giá trị cao đẹp của pháp luật và biết sử dụng hữu hiệu công cụ đó trong cuộc sống. Với đồng bào người Chăm, một dân tộc thiểu số mang đậm tính cộng đồng, phong tục tập quán chi phối mạnh mẽ đến đời sống người dân, có thể nói trong một số lĩnh vực như hôn nhân, thừa kế hầu như đều được giải quyết bằng luật tục thì việc tạo lập niềm tin vào pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người dân và cả cộng đồng người Chăm đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Một trong các yếu tố đóng vai trò quan trọng là phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người hiểu biết về pháp luật. Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ hiểu, tin tưởng vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng là để bảo vệ quyền và lợp ích của nhân dân, đảm bảo lợi ích chung cho cả cộng đồng, đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội. Chỉ khi nào người dân nhận thức đầy đủ được như vậy thì pháp luật mới được mọi người tự giác thực hiện và đồng thời sẽ hạn chế và tiến tới loại bỏ những hủ tục lạc hậu, nặng nề. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, khu vực miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số (có vùng đồng bào dân tộc Chăm) nói riêng, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có vị trí rất quan trọng. Không thể phát triển kinh tế - xã hội, không thể hạn chế, đẩy lùi những hủ tục lạc hậu ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số nếu không gắn với việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ hiểu biết kiến thức pháp luật cho nhân dân. Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch có nhiều âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề lịch sử, dân tộc, tôn giáo để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết người Chăm, người Kinh nhằm phá hoại các chủ trương, đường lối,
  29. chính sách của Đảng và Nhà nước ta thì giáo dục pháp luật với nhiều hình thức sâu rộng, có hiệu quả sẽ giúp cho đồng bào người Chăm hiểu rõ quyền và nghĩa vụ công dân của mình, hiểu rõ dân tộc Chăm là một thành phần dân tộc không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ như các dân tộc khác đang sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hiểu rõ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách đại đoàn kết dân tộc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng. 1.2. Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm là yêu cầu cấp bách hiện nay 1.2.1. Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới Sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã có được những thành tựu quan trọng tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kì phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn đổi mới đất nước đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng rằng: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi tất yếu phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân mà mục đích hướng đến là làm cho "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh". Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật, đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Để có được một Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân đòi hỏi đặt ra nhiều yêu cầu, trong đó có yêu cầu nâng cao hơn nữa hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Xây dựng Nhà nước pháp quyền, người dân trong xã hội ấy không thể không hiểu biết luật và ý thức tuân thủ pháp luật. Điều dễ nhận thấy là việc người dân thiếu hiểu biết pháp luật sẽ hạn chế nhiều trong việc đấu
  30. tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tệ nạn, hủ tục lạc hậu trong đời sống xã hội, cũng như không thể hình thành các quan hệ xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong một xã hội công bằng dân chủ văn minh. Bởi vậy, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho công dân là vấn đề vô cùng quan trọng. Là dân tộc thiểu số, dân tộc Chăm là một thành phần dân tộc không thể tách rời trong cộng đồng dân tộc Việt Nam có quyền và nghĩa vụ như các dân tộc khác đang sống trên lãnh thổ Việt Nam, trong những năm của thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển của đất nước, vùng dân tộc thiểu số nói chung và vùng đồng bào dân tộc Chăm nói riêng đã có bước phát triển đáng kể về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Tuy nhiên, những chuyển biến đó mới là bước đầu, những tốn tại khó khăn trở ngại còn rất lớn, sự hiểu biết pháp luật của nhân dân còn thấp, hủ tục lạc hậu còn tồn tại chi phối nhiều đến đời sống người dân. Việc khắc phục khó khăn tạo tiền đề và điều kiện để phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở vùng dân tộc thiểu số nói chung và vùng dân tộc Chăm nói riêng là yêu cầu khách quan, là một quá trình phấn đấu lâu dài đòi hỏi sự quyết tâm, cố gắng nỗ lực của tất cả các cấp các ngành và của mọi người dân trong việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết dân tộc trong cả nước, đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Điều không thể phủ nhận là không thể phát triển kinh tế - xã hội, không thể hạn chế đẩy lùi hủ tục lạc hậu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, vùng đồng bào dân tộc Chăm nói riêng nếu không gắn liền với việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ hiểu biết kiến thức pháp luật cho nhân dân. 1.2.2. Xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc
  31. Nước ta là nước có nhiều dân tộc, cả nước có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Vấn đề dân tộc là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn và nhất quán, do đó đã thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ và giành nhiều thành tưu quan trọng trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ VIII của Đảng xác định: Trong tiến trình đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc có ý nghĩa to lớn. Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, ở tất cả các cấp các ngành. Đến Đại hội IX Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng" [17, tr. 127]. Trong thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển của đất nước, vùng dân tộc thiểu số có những bước phát triển đáng kể về mọi mặt. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung thì vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số vẫn còn những tồn tại, khó khăn rất lớn: Kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ mù chữ còn cao, ý thức pháp luật còn hạn chế, hủ tục còn lạc hậu, nặng nề. Bởi vậy, trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm chú trọng đến vấn đề giáo dục nói chung cũng như giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Điều 36 Hiến pháp 1992 xác định: " Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên, bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn". Giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số là một trong những vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho các đồng bào dân tộc thiểu số phải được tiến hành đồng thời với việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn miền núi, vùng dân tộc thiểu
  32. số theo tinh thần Nghị quyết số 22 ngày 27 tháng 11 năm 1989 của Bộ Chính trị về việc phát triển kinh tế xã hội miền núi vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nghị quyết liên tịch số 01/1999/NQLT/TP-VHTT-NNPTNT-DTMN-ND ngày 07 tháng 9 năm 1999 càng khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta về công tác phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân vùng sâu, vùng xa vùng dân tộc ít người. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta hiện nay vấn đề phổ biến giáo dục pháp luật ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số là nhiệm vụ rất quan trọng. Nếu không giáo dục pháp luật, nâng cao dân trí cho cán bộ nhân dân các dân tộc thiểu số thì không thể phát triển kinh tế - xã hội, không thể đấu tranh tiến tới xóa bỏ các tệ nạn xã hội: Nghiện hút, cờ bạc, tảo hôn, mê tín, các vi phạm pháp luật về đất đai, bảo vệ rừng Đây là vấn đề nóng bỏng hiện nay. Là dân tộc thiểu số, đồng bào dân tộc Chăm cũng luôn được Đảng Và Nhà nước quan tâm bằng những chính sách chung, đồng thời cũng có những chính sách riêng như Chỉ thị 121/CT-TW ngày 26 tháng 10 năm 1981 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác đối với đồng bào Chăm tạo điều kiện cho đồng bào Chăm phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Thông tri 03/TT/TW ngày 17 tháng 10 năm 1991 về công tác đối với đồng bào Chăm, Nghị định 69/CP/99, Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX Với đặc điểm khá đặc biệt xét trên phương diện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, luật tục người Chăm còn ảnh hưởng nặng nề đến đời sống cộng đồng, việc giáo dục pháp luật nâng cao ý thức pháp luật cho đồng bào người Chăm là vấn đề cần thiết có ý nghĩa quan trọng, thực hiện đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác dân tộc. 1.2.3. Xuất phát từ thực trạng và nhu cầu hiểu biết pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc Chăm nói riêng Hiến pháp nước ta đã ghi nhận nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, tình trạng tài sản. Tuy
  33. nhiên, ngay cả khi pháp luật đã ghi nhận nguyên tắc về sự bình đẳng ấy thì việc sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ để ghi nhận, bảo vệ và mưu cầu hạnh phúc của mỗi chủ thể cũng không giống nhau. Khả năng sử dụng công cụ pháp luật của mỗi chủ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố như địa vị chính trị, địa vị kinh tế, trình độ học vấn, kinh nghiệm sử dụng hệ thống pháp luật của chủ thể ấy Hiện nay, trong bộ phận dân cư của Việt Nam vẫn còn nhiều đối tượng bị thiệt thòi so với những đối tượng khác trong việc tiếp cận với hệ thống pháp luật. Đó là nhóm những người có mức sống thấp, có học vấn thấp, đặc biệt là cộng đồng dân cư ở miền núi vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Có nhiều nguyên nhân hạn chế tiếp cận pháp luật của đối tượng này, trong đó nguyên nhân kinh tế là nền tảng. Cũng như các dân tộc thiểu số khác trong công đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Chăm cũng là đối tượng mà điều kiện tiếp cận pháp luật còn hạn chế. Do điều kiện và trình độ phát triển kinh tế của các vùng người Chăm sinh sống còn phổ biến là sản xuất nhỏ, lạc hậu, tuy đời sống của người Chăm nói chung so với một số dân tộc thiểu số khác có khá hơn nhưng phổ biến vẫn là đói nghèo. Do kinh tế khó khăn, cuộc sống với những lo toan thường nhật về lao động sản xuất để nuôi sống bản thân và gia đình đã thu hút hết sự quan tâm và thời gian của họ. Người dân còn chưa hiểu biết rằng chính pháp luật là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ, là phương tiện giúp họ thực hiện các quyền tự do dân chủ của mình, tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và quan trọng hơn là pháp luật giúp họ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chương trình quốc gia với mục tiêu là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo, tạo điều kiện để các vùng nghèo mà chủ yếu là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số (trong đó có vùng người Chăm sinh sống) thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước. Để hỗ trợ cho các đối tượng trên tiếp cận với pháp luật, Nhà nước đã triển khai một số hoạt động
  34. như: Thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số; Xây dựng tủ sách pháp luật ở cấp xã Mặc dù vậy, trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt khác, trong đời sống sinh hoạt của người Chăm, luật tục còn chi phối nặng nề, có nhiều luật tục tốt có ý nghĩa tích cực cần phát huy, nhưng cũng còn nhiều những hủ tục lạc hậu ảnh hưởng không tốt đến đời sống cộng đồng nhưng chưa được xóa bỏ. Bởi vậy, tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm là vấn đề cấp bách có ý nghĩa quan trọng. 1.2.4. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế Đồng bào Chăm là một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc ở nước ta, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời. Trong kháng chiến, đồng bào Chăm đã có những đóng góp, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong xây dựng đất nước, đồng bào Chăm luôn thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc và các chiêu bài về "dân chủ", "nhân quyền", "tự do tôn giáo" trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đang gây ra không ít những phức tạp, bất ổn về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Hơn nữa "đã từ lâu vấn đề dân tộc Chăm luôn bị các thế lực thù địch tìm cách lợi dụng nhằm gây mất ổn định chính trị, một số đối tượng cực đoan trong các tổ chức người Chăm ở nước ngoài đã và đang tìm cách móc nối với đối tượng trong nước tuyên truyền, khơi dậy nguồn gốc lịch sử dân tộc, tinh thần phục quốc, kích động một số người Chăm nói xấu chế độ ta, đi ngược lại lợi ích của khối đại đoàn kết dân tộc, đòi phục hồi vương quốc Chămpa. Bên cạnh đó, gần đây trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề phức tạp, liên quan đến các nước hồi giáo cùng với sự tác động của các thế lực thù địch vào sự kiện Tây Nguyên cũng ảnh hưởng tới tình hình an ninh vùng đồng bào Chăm. ở trong nước, do nhiều yếu tố tác động nên có một số cán bộ, trí thức, chức sắc dân tộc Chăm vẫn
  35. còn tâm tư mặc cảm cho rằng chính quyền chưa tin dùng, bị phân biệt đối xử, các vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp giữa cá nhân người Chăm và người Kinh ở địa phương, cùng với các vấn đề khác như tôn giáo đang tranh giành ảnh hưởng phát triển tín đồ, tranh chấp đất đai, vấn đề cán bộ dân tộc vẫn đang diễn ra [43]. Bởi vậy, tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho đồng bào dân tộc Chăm, giúp họ hiểu được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, biết sử dụng công cụ pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, thực hiện nghĩa vụ xã hội là vấn đề cấp bách hiện nay. Kết luận chương 1 Qua việc phân tích khái niệm chung về giáo dục pháp luật và phân tích đặc điểm đặc thù về giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm cho thấy: - Giáo dục pháp luật là một hoạt động có định hướng, có mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Là một dạng của giáo dục nhưng giáo dục pháp luật có mục đích, đối tượng chủ thể, nội dung, hình thức phương pháp riêng. - Giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm nói riêng thực chất là công tác vận động quần chúng thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do đó, để công tác giáo dục pháp luật đạt hiệu quả phải nghiên cứu các đối tượng, tìm ra đặc điểm đặc thù để lựa chọn nội dung, áp dụng hình thức phương pháp phù hợp. - Giáo dục pháp luật nói chung giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm nói riêng là yêu cầu khách quan có ý nghĩa quan trọng và cấp bách xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, từ chủ trương, chính sách của Đảng, từ vai trò của giáo dục pháp luật và từ tình hình thực tiễn hiện nay.
  36. Chương 2 Thực trạng giáo dục pháp luật cho đồng bào Người chăm ở tỉnh ninh thuận hiện nay 2.1. khái quát các điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở Ninh Thuận 2.1.1. đặc điểm về địa lý, lịch sử chính trị và đặc điểm phân bố dân cư 2.1.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên Ninh thuận là tỉnh cực Nam Trung Bộ có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, nằm trên trục giao lưu chính giữa miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và cực Nam Trung Bộ. Phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận còn phía Đông giáp biển Đông. So với các tỉnh khác, Ninh Thuận là vùng đất khá đặc biệt của nước ta, có diện tích tự nhiên 3.427 km2 được chia làm ba vùng rõ rệt: Vùng ven biển, vùng đồng bằng, vùng miền núi cao, trong đó, địa bàn miền núi chiếm khoảng 2/3 diện tích. Là địa bàn có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, khô hạn nhất trong cả nước nhưng Ninh Thuận lại là nơi thích hợp với việc trồng nho, giàu tiềm năng thủy sản, dịch vụ du lịch Ninh Thuận có 29 xã miền núi, vùng cao với tổng diện tích tự nhiên 257.844 ha, trong đó đất nông nghiệp 31.790 ha được chia thành 3 khu vực có địa hình khác nhau: Khu vực I có 4 xã, khu vực II có 10 xã và khu vực III có 15 xã, trong đó có 18 xã đặc biệt khó khăn về kinh tế, văn hóa xã hội. Khu vực cư trú của người Chăm ở Ninh Thuận trong vùng nhiệt đới gió mùa, với mùa khô và mùa mưa rõ rệt. Mùa mưa trùng với mùa gió đông nam (gió nồm), kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, thời gian còn lại trong năm là
  37. mùa khô với nhiều đợt gió mùa đông bắc lạnh và khô. Nhiệt độ bình quân khoảng 270C, lượng mưa đạt 900 -1.000 mm/ năm. Số giờ nắng 2.600 - 2.700 giờ trong năm và độ ẩm tương đối 77 - 78% [11]. Với khí hậu khô hạn, địa hình dốc, núi đá trọc, Ninh Thuận chỉ có một con sông chảy qua là sông Dinh. Nước chỉ có vào mùa mưa và khô cạn vào mùa khô, khu vực đồng bào Chăm sinh sống chủ yếu là đất trống, cây bụi, đó là vùng đất cằn cỗi, khô hạn, nóng bức làm hạn chế rất nhiều đến việc canh tác và các hoạt động kinh tế của người Chăm. Chính điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt đã tác động rất lớn đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người chăm, tạo thành mối gắn kết cộng đồng cao, cùng đoàn kết, chung sức vượt qua điều kiện khó khăn để tồn tại. 2.1.1.2. Đặc điểm lịch sử chính trị Vấn đề lịch sử người Chăm tuy còn có ý kiến khác nhau nhưng đều thống nhất nhận định người Chăm là một bộ phận của nhóm tộc Ma lai - Đa đảo (MaLayo - Polynêsia) cư trú rải rác trên một địa bàn khá rộng ở các vùng đảo ven biển và Đông Nam châu á. Bộ phận này sinh sống từ sớm ở ven biển miền Trung Việt Nam và tên tộc người được được gọi theo tên nước từ khi lập nước. Lịch sử người Chăm có nhiều thăng trầm gắn với sự hình thành, phát triển và suy vong của vương quốc Chămpa. Theo các nhà sử học thì vương quốc Chămpa được hình thành từ sự thống nhất nhiều trung tâm, trong đó sử sách nhắc tới hai trung tâm chính tương ứng với địa bàn cư trú của hai bộ lạc Dừa (Narikelavansa) và Cau (Kramukavansa) mà dấu ấn của nó còn được để lại trong các truyện dân gian và bi ký. Từ hai bộ lạc đó, vào khoảng đầu công nguyên, vương quốc cổ Chămpa đã ra đời. Bộ lạc Cau còn được gọi là tiểu quốc Nam Chăm và có tên gọi riêng là panran (tên Chăm cổ) hay panduranga ở phía Nam đèo Cù Mông, nay là đất Nha Trang, Phú Yên, Phan Rang, Phan Thiết. Thời kỳ đầu, panduranga tồn tại một cách độc lập và giữ vai trò chuyển tiếp ảnh hưởng văn hóa ấn Độ vào Bắc Chăm.
  38. Bắc Chăm là vùng đất thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay. Trong thế kỷ I và II phải chịu ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc, lúc đó là huyện Tượng Lân. Cuối thế kỷ II, nhân dân Chăm ở Tượng Lân nổi dậy khởi nghĩa giành độc lập, thành lập Nhà nước riêng có tên là Lâm ấp, đặt thủ đô là Chămpapura (tức Trà Kiệu ngày nay). Trong quá trình phát triển của lịch sử, có lúc biên giới của Lâm ấp được mở rộng về phía Bắc ra tới tận Hoành Sơn (vùng Quảng Bình - năm 248). Theo các tài liệu của sử gia Trung Quốc thì đến cuối thế kỷ thứ IX Lâm ấp và tiểu quốc Panduranga thống nhất làm một lập ra vương quốc Chămpa, kinh đô được dời về Indrapupa (tức Đồng Dương thuộc Quảng Nam ngày nay). Kể từ thế kỷ thứ X trở đi, mối bang giao giữa Chămpa và các nước phong kiến Việt Nam đã bước sang một thời kỳ hoàn toàn khác. Lúc này Đại Việt đã là một quốc gia độc lập (Ngô Quyền - năm 938) tiếp đó là các triều đại Đinh, Tiền, Lê, Lý, Trần, Hậu lê Ngược lại, Nhà nước Chămpa ngày càng suy yếu do nội loạn, nạn soán đoạt ngôi và nhất là chiến tranh với Đại Việt.Ngoài 30 năm quật khởi dưới triều vua Chế Bồng Nga (1360 - 1390), nhiều lần đánh bại Đại Việt, xâm chiếm và tàn phá Thăng long, còn thì diễn tiến cuộc chiến cho thấy phần thắng thường thuộc về Đại Việt, dẫn đến Nhà nước Chămpa phải liên tiếp dời đô và bị diệt vong vào năm 1697. Tóm lại, đặc điểm lịch sử hình thành của người Chăm diễn ra lâu dài và phức tạp trong đó mối quan hệ phức tạp nhất là mối quan hệ giữa người Việt và người Chăm. Sau hơn 300 năm tồn tại và phát triển cùng cộng đồng dân tộc Việt Nam, tuyệt đại đa số đồng bào Chăm đều coi dân tộc mình là một bộ phận cấu thành không thể tách rời cộng đồng quốc gia dân tộc. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay, đồng bào Chăm đã có nhiều đóng góp, góp phần cùng nhân dân cả nước đạt được những thắng lợi to lớn trong gần một thế kỷ qua. Hơn nữa, nền văn hóa Chăm đã góp phần làm phong phú, đa dạng mà thống nhất của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
  39. Tuy nhiên, "quá khứ lịch sử còn để lại trong một bộ phận người Chăm một sự mặc cảm, kỳ thị khá nặng nề với người kinh. ý thức về cội nguồn dân tộc cùng tư tưởng hoài cổ phục quốc luôn tiềm ẩn trong một bộ phận dân cư, đặc biệt là trong giới trí thức, nhân sĩ Chăm" [3, tr. 23]. Đây là một đặc điểm mà các thế lực thù địch đặc biệt chú ý, lợi dụng để kích động chia rẽ dân tộc chống phá cách mạng. Bởi vậy, trong chính sách dân tộc cũng như trong công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm phải lưu ý đến các nhân tố trên để có hình thức phương pháp giáo dục pháp luật phù hợp. 2.1.1.3. Đặc điểm về phân bố dân cư Người Chăm được xem là cư dân bản địa của vùng đất Ninh Thuận. Họ là chủ nhân của các quốc gia cổ đại như Lâm ấp, Chămpa cổ đại hay Chiêm Thành. Do những biến thiên của lịch sử, từ sau khi vương quốc Chămpa cổ đại tan rã (cuối thế kỷ XVII), cộng đồng người Chăm đã trở thành một bộ phận trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Ngày nay, người Chăm là dân tộc thiểu số có tỷ lệ dân số đông nhất (sau người Kinh) ở Ninh Thuận. Theo kết quả điều tra dân số năm 1999, đồng bào Chăm ở Việt Nam có 132.870 người, sống rải rác từ các tỉnh dọc ven biển miền Trung như Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, đến các tỉnh Nam bộ như Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang và Tây Ninh. Trong đó, người Chăm ở Ninh Thuận có dân số đông nhất vào khoảng 63.300 người Chăm ở Việt Nam và chiếm 12,1% dân số trong toàn tỉnh. Người Chăm ở Ninh Thuận sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng, xen kẽ với các dân tộc anh em ở 22 thôn thuộc 12 xã của 5 huyện thị. Về hình thái cư trú, người Chăm thường sống tập trung ở những khu vực riêng gọi là các play Chăm (thôn hay làng) khá tách biệt, trong đó có những xã, những làng chiếm đến gần 100% dân số Chăm (như xã Phước nam - Ninh phước - Ninh thuận có 5 làng Chăm với gần 80% dân số, xã Phước Hải, Phước Hữu, Phước Thái, Phước Hậu có 3 đến 4 làng Chăm với khoảng trên 50% dân số của
  40. xã). Thông thường, mỗi play Chăm là một cộng đồng dân cư theo một tôn giáo nhất định. Nhưng đôi khi họ cũng sống xen ghép với các dân tộc khác hoặc trong cùng một làng Chăm có cư dân theo các tôn giáo khác nhau như Chăm Bàni, Chăm Bàlamôn với Chăm Islam. Đặc điểm cư trú này cùng với những yếu tố của tín ngưỡng, tôn giáo đã góp phần vào sự cố kết cộng đồng và bảo lưu các giá trị truyền thống của dân tộc. Điều ấy lý giải tại sao chịu sự tác động, chi phối của các luồng văn hóa khác, đặc biệt của người kinh nhưng người Chăm vẫn bảo lưu được những giá trị văn hóa độc đáo của mình. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Hoạt động kinh tế của đồng bào Chăm khá phong phú, đa dạng và phát triển với nghề chính là nông nghiệp và thủ công nghiệp. Ngoài ra còn có các hoạt động trao đổi buôn bán, đánh cá tùy theo địa bàn cư trú mà người Chăm có những hoạt động kinh tế thích hợp với điều kiện tự nhiên cũng như môi trường xã hội mỗi nơi. Là cư dân sống ở khu vực đồng bằng ven biển nên hình thái hoạt động kinh tế truyền thống chủ yếu của người Chăm ở Ninh Thuận là sản xuất nông nghiệp, trồng lúa nước. Có thể nói nền văn minh nông nghiệp lúa nước của người Chăm đã đạt đến một trình độ phát triển cao. Họ không chỉ tích lũy được một hệ thống kinh nghiệm trong sản xuất, trình độ canh tác, kỹ thuật cao mà họ còn có một hệ thống thủy nông được xây dựng khá hoàn chỉnh, nhiều công trình thủy lợi của người chăm như hệ thống đê điều, đập, hồ nước đến nay vẫn phát huy tác dụng. trong đó có những công trình lớn khá nổi tiếng như đập Nha Trinh, đập Lâm Cấm. Ngoài những công trình thủy lợi lớn, người Chăm ở Ninh Thuận còn xây dựng được hệ thống thủy nông nội đồng khá hoàn chỉnh. Chính nhờ hệ thống thủy nông đó mà họ đã chủ động được nguồn nước tưới tiêu, phát triển sản xuất nông nghiệp ở một địa bàn được coi là khô hạn nhất nước ta. Ngoài trồng lúa nước, người Chăm còn phát triển trồng các loại cây như bông, mía, điều, nho và nghề chăn nuôi của họ cũng khá phát triển. Nghề thủ công truyền thống, dệt thổ
  41. cẩm, gốm sứ phát triển với những mặt hàng khá nổi tiếng. Điển hình là ở làng Mỹ Nghiệp với hơn 95% gia đình người Chăm làm nghề dệt; làng gốm "Bầu Trúc" với 95% số hộ người Chăm trong làng làm gốm. Người Chăm ở Ninh Thuận có câu tục ngữ "thổ cẩm Mỹ Nghiệp, đồ gốm Trúc Bầu". Nhìn chung, hình thái hoạt động kinh tế truyền thống của người Chăm có nhiều điểm tương đồng với người Việt. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đời sống kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào Chăm ở Ninh Thuận đang có những bước chuyển biến khá tích cực, từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa, đời sống của đồng bào không ngừng được cải thiện. Tuy đời sống của người Chăm ở Ninh Thuận so với đời sống của các dân tộc thiểu số khác trong tỉnh có khá hơn, nhưng nhìn chung thì tình hình kinh tế của người chăm vẫn còn nhiều khó khăn. Nền sản xuất chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp nhỏ, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và mang tính tự cấp, tự túc. Nông sản và các sản phẩm khác chủ yếu để cung cấp cho hoạt động của làng và gia đình người Chăm. Mặc dù những năm gần đây, có sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự trao đổi hàng hóa của vùng nông thôn Chăm có phát triển nhưng kinh tế hàng hóa vẫn chưa phổ biến và chiếm vị trí đáng kể ở vùng nông thôn Chăm. Nhất là so với đời sống của người Kinh nói chung thì còn chênh lệch nhiều. Điều đó đã ảnh hưởng tiêu cực đối với việc thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc và niềm tin của đồng bào Chăm đối với Đảng và Nhà nước. Về văn hóa - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào Chăm. Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện cho đồng bào phát triển về mọi mặt nhất là quan tâm đến công tác giữ gìn, bảo tồn, phát huy và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào chăm. Tại Ninh Thuận đã có trung tâm chuyên nghiên cứu về văn hóa Chăm. Trung tâm đã sưu tầm và lưu giữ được nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của người Chăm. Nhờ đó đồng bào Chăm ở Ninh Thuận đã có điều kiện phát triển khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh trật tự Tuy nhiên, trong những năm gần đây do tác động của cơ chế
  42. thị trường, do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa, đặc biệt là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang tìm mọi cách lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc nhằm gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm xáo trộn cuộc sống của đồng bào. Bởi vậy, việc thực hiện chính sách dân tộc, thực hiện tuyên truyền giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm giúp họ hiểu rõ đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong tình hình hiện nay là hết sức quan trọng. 2.1.3. Đặc điểm về văn hóa Người Chăm có một nền văn hóa sớm phát triển phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc dân tộc. Về chữ viết: Người Chăm là một trong những dân tộc có chữ viết từ lâu đời. Theo những tài liệu lịch sử cũng như các bi ký để lại cho thấy người Chăm đã sử dụng chữ Phạn (sanscrit) từ rất sớm. Thế kỷ IX xuất hiện những bia dùng chữ phiên âm theo kiểu chữ ấn Độ, về sau chữ Chăm đã thay thế chữ Phạn trong các bia đá. Khi bộ phận người Chăm tiếp nhận Hồi giáo (Bàni) thì chữ ả rập cũng được sử dụng nhiều. Chữ Chăm hiện đang được dùng ở Ninh Thuận có nhiều thay đổi so với chữ Chăm cổ (dựa trên chữ phạn), được thấy trên một số bi ký, một số tháp, tài liệu lịch sử, các sử thi hoặc truyền thuyết do những tu sĩ lưu giữ được viết bằng chữ chăm này. Nền văn hóa của người Chăm có những đặc trưng: - Thứ nhất: Nền văn hóa của người Chăm ở Ninh Thuận là sự tổng hợp các yếu tố núi, đồng bằng, biển. Nền văn hóa của các cư dân vương quốc Chămpa cổ vẫn được bảo lưu rõ nét trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận. Đó là nền văn hóa của cư dân nông nghiệp lúa nước, khai thác vùng đồng bằng ven biển và các thung lũng chân núi. Nói cách khác. đặc trưng nổi bật của văn hóa Chăm là sự kết hợp giữa các yếu tố núi, đồng bằng, biển.
  43. Yếu tố đồng bằng thể hiện trình độ thâm canh cao, ở kỹ thuật xây dựng hệ thống thủy lợi, hệ thống thiên văn nông nghiệp, nông lịch. Yếu tố đồng bằng còn được thể hiện rõ nét trong hệ thống các nghi lễ nông nghiệp lúa nước. Yếu tố biển: Thể hiện trong truyền thống đánh bắt hải sản, trong tục thờ cúng tổ tiên theo dòng biển, trong tín ngưỡng thờ cúng cá voi, thờ thần biển, trong một số kiến trúc có mô típ hình thuyền. Yếu tố núi: Thể hiện ở kỹ thuật khai thác lâm thổ sản và ở tục canh tác các loại ruộng khô ở chân núi. - Thứ hai: Văn hóa Chăm ở Ninh Thuận là sự kế thừa trên nền tảng văn hóa Nam á. Tổ tiên người Chăm xưa kia là một trong những chủ nhân của nền văn hóa Nam á. Đặc điểm cơ bản trong nền văn hóa Nam á là yếu tố nông nghiệp lúa nước chịu ảnh hưởng của gió mùa. Những yếu tố của nền văn hóa Nam á còn tồn tại văn hóa Chăm như yếu tố nông nghiệp lúa nước, ăn mặn, mặc váy kiểu Xa Rông, nhuộm răng, ăn trầu và những dấu vết còn lại của nhà sàn - Thứ ba: Nền văn hóa Chăm ở Ninh Thuận chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa ấn Độ và văn minh Hồi giáo. Nhờ hướng ra biển giao lưu, buôn bán, người Chăm từ rất sớm đã giao tiếp với nhiều nền văn minh trên thế giới, trước hết là văn minh ấn Độ. Dấu ấn của nền văn minh ấn Độ trong nền văn hóa Chăm là đạo HinDu, đạo Phật, đạo Balamôn và chữ Sanscit cùng với văn minh ấn Độ, những yếu tố của văn minh hồi giáo cũng góp phần tạo nên những sắc thái riêng cho nền văn hóa Chăm với hai nhóm hồi giáo là Chăm Bàni và Chăm Islam. - Thứ tư: Văn hóa của người Chăm ở Ninh Thuận chịu ảnh hưởng của văn hóa người Việt trong sự giao lưu văn hóa Chăm - Việt. Điều này được phản ánh khá rõ trong tập quán sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, lối sống, tín ngưỡng, tôn giáo đa thần. Các yếu tố hợp thành văn hóa
  44. Chăm ở Ninh Thuận hòa quyện lẫn nhau trong hai thành phần văn hóa cơ bản. Văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Văn hóa vật thể trong nền văn hóa Chăm thể hiện qua lối kiến trúc nhà ở (loại nhà xây nhiều phòng, đa chức năng, có hàng rào bao quanh khuôn viên với cổng ra vào quay về hướng nam hoặc tây); qua trang phục, đặc biệt qua công trình kiến trúc đền tháp độc đáo và nổi tiếng (Tháp Hòa Lai; tháp PoKlong Girai; Porome). Ngày nay, nhiều loại hình văn hóa vật thể như nhà ở, y phục đã có sự thay đổi. Các loại y phục truyền thống (trừ các chức sắc) chỉ còn được sử dụng trong các lễ hội, cưới xin, tang lễ ; ngược lại, văn hóa phi vật thể của họ vẫn được bảo lưu khá đậm nét các yếu tố truyền thống qua phong tục, tập quán, lối sống, văn hóa nghệ thuật v.v Tóm lại: Người Chăm có một nền văn hóa lâu đời, gắn bó với lịch sử thăng trầm của dân tộc và có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tinh thần, tư tưởng của đồng bào Chăm. Đặc biệt, họ có ý thức sâu sắc về việc bảo tồn những di sản văn hóa truyền thống được coi như là bảo tồn chính sự tồn tại của dân tộc mình. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm cần đặc biệt lưu ý trong việc đề ra và thực hiện chính sách dân tộc cũng như là việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm. 2.1.4. Đặc điểm về tín ngưỡng, tôn giáo Người Chăm ở Ninh Thuận theo hai tôn giáo chính là ấn Độ giáo (Tức Bàlamôn giáo, chiếm gần 60%) và Hồi giáo (tức Bàni, chiếm khoảng gần 40%) và Islam chiếm khoảng 2%., đồng thời vẫn bảo lưu nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian và một hệ thống lễ hội phản ánh sinh hoạt cộng đồng của họ (lễ đập nước, lễ cúng ruộng, lễ cầu mưa ). Tín ngưỡng và lễ hội dân gian là một bộ phận của đời sống tinh thần của người Chăm có những ảnh hưởng và tác động nhất định đến hai tôn giáo kể trên.Tôn giáo đóng vai trò quan trọng và nổi bật
  45. trong văn hóa Chăm, thể hiện cả trong sinh hoạt tinh thần, đời sống xã hội lẫn trong văn hóa vật chất. Nó có tác động hai mặt trong sự vận động và phát triển của xã hội Chăm. Một mặt tôn giáo góp phần qui tụ, cố kết các thành viên của mỗi nhóm, mặt khác dẫn đến khả năng phát triển biệt lập cục bộ của từng nhóm, từng khu vực trong những hoàn cảnh nhất định. Tôn giáo ghi dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Chăm đã dẫn đến tình trạng lưu ý là sự giữ gìn bản sắc dân tộc trong nhiều trường hợp được thể hiện dưới hình thức gìn giữ bảo vệ tôn giáo. Điều này cho thấy ở người Chăm, vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng gắn liền với vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống của người Chăm ở Ninh Thuận đã bộc lộ nhiều hạn chế, thậm chí trở thành gánh nặng cho từng gia đình và cộng đồng. Những nghi thức tôn giáo nặng nề, phức tạp rườm rà, tốn kém tiền của công sức, thời gian cùng với một số luật tục khắt khe của người Chăm đã không còn phù hợp với đời sống của xã hội hiện đại. Một khi tín ngưỡng truyền thống đã bộc lộ những hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu tâm linh của đồng bào thì họ dễ tìm đến tôn giáo hợp thời hơn. Vì vậy, những năm gần đây, đạo công giáo, đạo tin lành và cả Islam đã và đang xâm nhập vào người Chăm ở Ninh Thuận. Sự du nhập của các tôn giáo này vào người Chăm, cũng đồng nghĩa với việc tín ngưỡng truyền thống của họ bị mai một, an ninh cộng đồng ít nhiều bị xáo trộn. Đó là vấn đề cần được quan tâm đối với công tác dân tộc và công tác tôn giáo ở vùng đồng bào Chăm ở Ninh Thuận. 2.2. Tình hình giáo dục pháp luật cho đồng bào Chăm ở Ninh Thuận - kết quả, hạn chế và nguyên nhân 2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác giáo dục pháp luật, ngay sau khi có Nghị quyết liên tịch số 01/1999/NQLT ngày 07/9/1999 về việc "phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn, vùng cao, vùng xa, vùng dân tộc ít người". Sở Tư pháp tỉnh Ninh thuận đã phối hợp với Sở Văn hóa thông tin, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban dân tộc, Hội
  46. nông dân tỉnh triển khai thực hiện nghị quyết, đồng thời ký kết ban hành Kế hoạch liên ngành số 404/KHLN/TP-VHTT- NNPTNT-DT-ND ngày 26/10/2000 về việc phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Tỉnh Ninh Thuận chưa có chương trình, nội dung giáo dục pháp luật riêng cho đồng bào người Chăm mà vẫn nằm chung trong chương trình giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, qua 5 năm thực hiện đã thu được những kết quả sau: 2.2.1.1. Về ban hành văn bản chỉ đạo và tổ chức chỉ đạo thực hiện Tính từ năm 1999 đến nay, Sở Tư pháp Ninh Thuận đã tham mưu cho Tnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở địa phương trong đó đặc biệt có các văn bản sau: - Chỉ thị số 25/CT- TU ngày 28/3/2000 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. - Chỉ thị 29/2000/CT-UB ngày 13/12/2000 của ủy ban nhân dân tỉnh về việc tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức và nhân dân - Kế hoạch liên ngành số 404/KHLN/TP-VHTT-NNPTNT-DTMN-ND ngày 26/10/2000 về việc phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người - Chỉ thị số 23/ CT-TU ngày 2/8/2002 của Tỉnh ủy Ninh Thuận về việc tăng cường lãnh đạo công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới. - Chỉ thị số 27/2002/CT-UB ngày 08/10/2002 của ủy ban nhân dân tỉnh về việc "tăng cường công tác trợ giúp pháp lý miễn phí".
  47. - Quyết định số 61/2003/QĐ-UB ngày 20/5/2003 của ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận về việc ban hành kế hoạch thực hiện chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến 2007. - Kế hoạch số 42/ KH-TU ngày 16/02/2004 chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 32/ CT-TW của Ban Bí thư về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ nhân dân". - Kế hoạch số 319/STP-KH ngày 30/7/2004 của Sở Tư pháp thực hiện Kế hoạch số 42/KH-TU ngày 16/2/2004 của Tỉnh ủy Ninh Thuận về việc thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TW. - Chỉ thị số 14/2005/CT-UB ngày 25/4/2005 của ủy ban nhân dân tỉnh về việc "tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở". Những văn bản trên đây đã từng bước thể chế hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai kịp thời, có hiệu quả các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong tỉnh. 2.2.1.2. Về đối tượng giáo dục pháp luật Cùng với đời sống ngày càng được cải thiện, người nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số ở Ninh Thuận nói chung, đồng bào Chăm ở Ninh Thuận nói riêng, trong những năm gần đây đã và đang quan tâm hơn đến việc tìm hiểu pháp luật, nhất là những quy định pháp luật cụ thể liên quan trực tiếp đến cuộc sống lao động, sản xuất của họ. Từ chỗ người dân bị ràng buộc bởi những tập tục lạc hậu, chỉ thụ động tiếp nhận thông tin pháp luật, cho đến nay (mặc dù chưa phải là phổ biến) họ đang từng bước quan tâm, trực tiếp nắm bắt thông tin pháp luật. Điều này có thể thấy rõ ở nhiều địa phương trong tỉnh (trong đó có địa phương cư trú của người Chăm) số người đến đọc sách pháp luật của tủ sách pháp luật, điểm bưu điện - văn hóa xã, tham dự các cuộc thi tìm hiểu pháp luật ngày một nhiều hơn. Người dân đã tham gia đóng góp ý kiến, phản ánh tâm
  48. tư nguyện vọng của mình trong việc thực hiện pháp luật, trong công tác quản lý nhà nước, đóng góp ý kiến xây dựng chủ trương chính sách lớn của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước, đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh quy chế hoạt động dân chủ ở cơ sở. Là dân tộc bản địa - đồng bào người Chăm ở Ninh Thuận chiếm số đông trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Ninh Thuận. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền từ tỉnh đến huyện - xã, sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, đoàn thể quần chúng và sự nỗ lực vươn lên của đồng bào người Chăm, đến nay tình hình kinh tế - xã hội đã có nhiều chuyển biến đáng kể, đời sống kinh tế nhiều vùng phát triển khá so với từng năm, tình hình an ninh chính trị tương đối ổn định, trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt, số học sinh, sinh viên Chăm ngày càng nhiều (hàng năm bình quân 03 người dân có 01 người đi học, 200 người có một người đại học) [1]. Bên cạnh đó phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới được triển khai rộng khắp, ý thức pháp luật của người dân ngày một nâng cao, tâm tư, tình cảm của đồng bào Chăm luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước và khẳng định: "Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới đem đến cho các dân tộc thiểu số quyền bình đẳng như ngày nay" [1]. 2.2.1.3. Về chủ thể giáo dục pháp luật Xác định công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có tầm quan trọng và vị trí đặc biệt quan trọng, các ngành các cấp trong tỉnh đã tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và mở rộng mạng lưới các cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Chấp hành Chỉ thị số 02/CT-TTg và Quyết định số 03/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác giáo dục pháp luật cũng như thực hiện sự chỉ đạo của hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật của Chính phủ, tỉnh Ninh Thuận đã triển khai xây dựng nội dung, chương trình và thành lập
  49. đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã ra Quyết định số 3769/QĐ-UB ngày 19/7/2001 thành lập đội ngũ báo cáo viên pháp luật của tỉnh gồm 110 người, trong đó có 03 người là dân tộc Chăm. Quyết định số 3853/QĐ-UB ngày 13/02/2001 thành lập đội ngũ báo cáo viên cấp huyện (tuyên truyền viên) gồm 641 người, trong đó có 42 người là dân tộc Chăm. Đây là đội ngũ báo cáo viên được ủy ban nhân dân tỉnh ra quyết định phê chuẩn và kèm theo đó là chế độ chính sách cho các báo cáo viên hoạt động. Đội ngũ báo cáo viên đa số có bằng cử nhân, nhiều đồng chí có bằng cử nhân luật. Đội ngũ này được cung cấp tài liệu tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, hàng năm được tập huấn kỹ năng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tổ chức các buổi tọa đàm về chuyên đề nhà nước pháp luật. Thông qua hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật đã góp phần từng bước nâng cao hiểu biết pháp luật và chấp hành pháp luật hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân trong tỉnh. Ngoài ra, tỉnh còn củng cố, mở rộng lực lượng tham gia tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật là các cộng tác viên trợ giúp pháp lý, đó là những người có uy tín trong cộng đồng, các phóng viên, biên tập viên chuyên mục pháp luật của Đài Phát thanh truyền hình tỉnh, chuyên trang pháp luật của Báo Ninh Thuận, giáo viên dạy môn giáo dục công dân, thành viên câu lạc bộ phòng chống tội phạm, thủ thư tủ sách pháp luật của các sở, ngành, đoàn thể, bưu điện và ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn. Đồng thời ủy ban nhân dân tỉnh thành lập hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh gồm 21 thành viên do Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh làm chủ tịch hội đồng. Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật là tổ chức phối hợp sự chỉ đạo của các cơ quan, tổ chức về công tác phổ biến giáo dục pháp luật, duy trì hoạt động phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội nghề nghiệp, hướng dẫn hỗ trợ các cơ quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Ngay sau khi thành lập hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật đã
  50. tích cực hoạt động trên cơ sở phối hợp giữa các ngành chức năng và các ngành có liên quan hoạt động theo quy chế và theo chương trình kế hoạch đã được xây dựng. 2.2.1.4. Về nội dung Một trong những đặc điểm của công tác giáo dục pháp luật là truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung các quy định pháp luật đến đối tượng giáo dục. Giáo dục pháp luật thông qua các hình thức, phương tiện, biện pháp thích hợp giúp cho đối tượng hiểu biết, nắm bắt thông tin, nội dung pháp luật mà không mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Về nội dung, do đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa- xã hội, ngoài nội dung pháp luật cần thiết phải thông tin, phổ biến giáo dục cho người dân nói chung như quyền bầu cử, ứng cử, quyền lao động, tự do kinh doanh, nghĩa vụ tuân thủ hiến pháp, pháp luật trong những năm qua đồng bào dân tộc thiểu số Ninh Thuận nói chung, đồng bào người Chăm ở Ninh Thuận nói riêng còn được quan tâm thông tin phổ biến các quy định pháp luật về quyền sử dụng đất, luật bảo vệ và phát triển rừng, phòng chống ma túy, hôn nhân gia đình, đăng ký hộ tịch, luật hình sự năm 1999, luật khiếu nại tố cáo, các giao lưu dân sự trong cuộc sống hàng ngày, pháp lệnh lao động công ích, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, chính sách phát triển kinh tế, chính sách dân tộc. Một điểm đáng lưu ý là trong cộng đồng người Chăm, một phương tiện đóng vai trò quan trọng điều chỉnh thiết chế cộng đồng là luật tục của đồng bào người Chăm và các bản quy ước do cộng đồng dân cư dựa trên quy định của pháp luật và các phong tục tập quán của cộng đồng xây dựng, nên có vai trò rất lớn trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội hàng ngày của người dân ở trong thôn xã. Tuy nhiên trong hệ thống luật tục của người Chăm thì bên cạnh những luật tục tiến bộ, có ý nghĩa tích cực cũng còn những hủ tục lạc hậu, nặng nề như tang ma, cưới xin Bởi vậy, trong các nội dung giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số Ninh Thuận nói chung, đồng bào người Chăm ở Ninh Thuận nói riêng, các cơ quan
  51. chức năng đã chú ý hướng đồng bào phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp, chống các hủ tục lạc hậu. Ngoài ra, nội dung pháp luật đã gắn với thực tế của địa phương, lồng ghép trong các chương trình xóa đói, giảm nghèo, dân số, khuyến nông khuyến lâm. 2.2.1.5. Về hình thức giáo dục pháp luật - Tuyên truyền miệng pháp luật Đây là hình thức thực hiện khá đều đặn ở tất cả các địa phương trong tỉnh, là hình thức theo đánh giá là có hiệu quả cao đối với nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa vùng dân tộc thiểu số (trong đó có vùng đồng bào Chăm). Hiện nay tỉnh Ninh Thuận có 110 báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, 641 báo cáo viên pháp luật cấp huyện. Định kỳ Sở Tư Pháp Ninh Thuận phối hợp với các ngành tổ chức tập huấn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật và giới thiệu các văn bản pháp luật mới ban hành, văn bản pháp luật quan trọng cho cán bộ chủ chốt của các cơ quan, các báo cáo viên, tuyên truyền viên, hòa giải viên ở cơ sở. Qua 5 năm (từ 1999 - 2004), thực hiện Nghị quyết liên tịch số 01về phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật, tỉnh Ninh Thuận đã phổ biến giáo dục pháp luật cho 3.649.000 lượt cán bộ chính quyền cơ sở và nhân dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Ngoài ra, hình thức tuyên truyền miệng pháp luật còn được sử dụng thông qua sinh hoạt của các nhóm xã hội ở các làng, xã như chi hội nông dân, tổ hội nông dân, phụ nữ đã tỏ ra có hiệu quả đối với hội viên nông dân và dân tộc thiểu số. - Phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng và loa truyền thanh ở cơ sở Các cơ quan ký kế hoạch liên tịch ở địa phương đã phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng xây dựng và thực hiện các chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân, đặc biệt là nông dân và dân
  52. tộc thiểu số ngày càng chặt chẽ và có hiệu quả hơn trước. Nội dung tuyên truyền giáo dục pháp luật đa dạng, hình thức truyền tải thông tin phong phú hơn. Báo của tỉnh Đảng bộ Ninh Thuận duy trì thường xuyên chuyên trang "Nhà nước và pháp luật", chuyên mục "tìm hiểu pháp luật", "trả lời đơn thư bạn xem truyền hình" Giải đáp thắc mắc của nhân dân về đường lối, chính sách, giải thích pháp luật, hướng dẫn nhân dân sử dụng pháp luật, đấu tranh khiếu kiện đòi quyền lợi hợp pháp cũng như thực hiện nghĩa vụ pháp luật v.v phát thường kỳ một tuần hai lần trên đài phát thanh và truyền hình tỉnh. Tỉnh Ninh Thuận đã xây dựng các buổi phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc Chăm có lồng ghép các nội dung pháp luật. Bản tin tư pháp là phương tiện tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả cho nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số. Bản tin tư pháp được phát hành thường xuyên một tháng một số, được cấp phát đến các cơ quan, đơn vị, tổ chức, đội ngũ báo cáo viên pháp luật từ tỉnh đến cơ sở và các cán bộ thôn trong tỉnh, góp phần thiết thực kịp thời tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là với nhân dân ở cơ sở. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật qua hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở là hình thức được địa phương sử dụng có hiệu quả. Sở Tư pháp Ninh Thuận đã chủ động biên soạn, biên dịch song ngữ bằng tiếng Việt - Chăm và thâu băng catset giới thiệu những chuyên đề pháp luật liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của người dân ở cơ sở, cấp phát cho các đài truyền thanh cấp huyện và hệ thống loa truyền thanh ở cấp xã để tuyên truyền trong nhân dân. Có thể nói, với ưu thế về tính nhanh nhạy, rộng khắp và tiện lợi, tuyên truyền giáo dục pháp luật qua đài phát thanh có nhiều điểm phù hợp với đặc điểm xã hội và trình độ kinh tế của đồng bào dân tộc ít người (trong đó có đồng bào dân tộc Chăm). Người ta có thể nghe đài ở mọi nơi, mọi lúc, vừa đi, vừa làm việc cũng có thể nghe được. Thông tin qua sóng phát thanh dễ đến và đến nhanh với công chúng nhất là ở nông thôn, vùng dân tộc ít người. Người dân thực tế là mua đài dễ hơn mua ti vi và có thể nghe đài thuận tiện hơn đọc báo.
  53. - Tuyên truyền giáo dục pháp luật thông qua các hội thi, cuộc thi Điểm nổi bật trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật là huy động được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và có tính xã hội cao. Các cuộc thi tìm hiểu pháp luật thực sự là hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật bổ ích, hấp dẫn thu hút đông đảo cán bộ, nhân dân và học sinh ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Do vậy, Sở Tư pháp Ninh Thuận phối hợp với các ban ngành đã lựa chọn hình thức thi tìm hiểu pháp luật - hình thức giáo dục pháp luật có hiệu quả và rất sôi động. Qua 5 năm (1999- 2004) các cơ quan tham gia thực hiện Nghị quyết liên tịch 01/1999/NQLT/TP-VHTT-NNPTNT-DTMN-ND đã phối hợp tổ chức nhiều cuộc thi tìm hiểu pháp luật, trong đó có những cuộc thi, đối tượng chủ yếu là nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số như hội thi "nhà nông đua tài, "hòa giải viên giỏi", "cán bộ chi hội giỏi", "tìm hiểu Bộ luật Hình sự 1999", "Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã với kiến thức pháp luật", "Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo" Các cuộc thi đã thu hút rất nhiều lượt người tham gia, dự xem trực tiếp và đài phát thanh, truyền hình phát sóng đến các tầng lớp nhân dân xem, phục vụ tuyên truyền giáo dục pháp luật. Đặc biệt, hội thi "tuyên truyền viên pháp luật giỏi ở huyện Ninh Phước" (nội dung phòng chống tội phạm) thu hút hơn 2.000 lượt người dự (Ninh Phước là huyện có nhiều dân tộc Chăm và thiểu số khác sinh sống). - Tuyên truyền giáo dục pháp luật qua điểm bưu điện, văn hóa xã Để phục vụ nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người thuận tiện trong việc tìm hiểu pháp luật, Sở Tư pháp Ninh Thuận đã phối hợp với bưu điện tỉnh tuyên truyền qua 25 điểm bưu điện văn hóa xã ở các xã hẻo lánh, xã có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Sở Tư pháp đã biên soạn, in ấn và cấp phát 3452 tài liệu gồm 260 đầu sách pháp luật, 312 bản tin tư pháp, 2.850 tờ gấp
  54. có nội dung tuyên truyền pháp luật đến các điểm bưu điện văn hóa xã thu hút đông đảo nhân dân đến đọc. - Biên soạn, phát hành tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật Đây là hình thức được Sở Tư pháp Ninh Thuận chú ý sử dụng để tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung tài liệu tập trung vào các vấn đề pháp luật liên quan trực tiếp, gần gũi với đời sống thường ngày của nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số. Tài liệu được biên soạn ngắn gọn, dễ hiểu, dưới dạng hỏi - đáp, tờ gấp, tờ rơi, bản tin tư pháp. Phát hành 109.053 tài liệu, trong đó đã phát hành đến nhân dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số là 50.300 tài liệu, 832 băng catset. Một số tài liệu đã chuyển thể theo loại truyện tranh nhằm giúp bà con dân tộc ít người dễ hiểu và nhận thức pháp luật qua tranh ảnh, một số tài liệu được biên soạn song ngữ Việt - Chăm. - Tủ sách pháp luật Đến nay 59/59 xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh Ninh Thuận đã có tủ sách pháp luật, bước đầu khai thác đạt hiệu quả, giúp chính quyền địa phương cơ sở có điều kiện nghiên cứu và điều hành công việc và cũng là công cụ hữu hiệu để phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ nhân dân nói chung và nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng về các lĩnh vực pháp luật thiết yếu với đời sống hàng ngày. Ngoài ra, Sở Tư pháp tỉnh còn trang bị túi sách pháp luật cho các trưởng thôn, tổ hòa giải khi thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở những vùng xa xôi, vùng sâu, vùng dân tộc ít người. - Giáo dục pháp luật thông qua công tác hòa giải ở cơ sở Công tác hòa giải đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết những mâu thuẫn tranh chấp nhỏ, trong quá trình hòa giải, kết hợp tuyên truyền giải thích chính sách pháp luật của Nhà nước góp phần hạn chế đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt