Giáo trình Tâm lý học nhận thức (Phần 2)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tâm lý học nhận thức (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
giao_trinh_tam_ly_hoc_nhan_thuc_phan_2.pdf
Nội dung text: Giáo trình Tâm lý học nhận thức (Phần 2)
- Chương 3: TƯ DUY (Lý thuyết: 9; Thảo luận, thực hành: 2; KT: 1) Môc tiªu häc tËp 1. VÒ kiÕn thøc: Sau khi học xong SV trình bày được bản chất phản ánh của tư duy, các đặc điểm, vai trò của tư duy và chứng minh được tư duy là một quá trình có mở đầu, diễn biến, kết thúc một cách rõ ràng 2. Về kỹ năng: Áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn để rèn luyện, phát triển tư duy. 3. Về thái độ: Có trách nhiệm trong việc rèn luyện bản thân nhằm hình thành, phát triển tư duy cho học sinh trong quá trình dạy học, giáo dục. NỘI DUNG 3.1. Khái niệm chung về tư duy 3.1.1. Tư duy là gì ? Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan, mà trước đó ta chưa biết. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có vô số những thuộc tính và vô số những mối liên hệ, quan hệ. Trong đó có những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ bên ngoài; có những thuộc tính, những mối liên hệ, quan hệ bên trong, bản chất. - Ở mức độ nhận thức cảm tính con người mới chỉ phản ánh các thuộc tính bên ngoài (như hình dáng, màu sắc ) là những thuộc tính có thể thay đổi, và nhận thức được bằng các giác quan khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động. Nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính và vượt xa giới hạn của nhận thức cảm tính, tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất. + Đó là những thuộc tính (đặc điểm) cố hữu (vốn có) tương đối ổn định (có thể mất) gắn liền với sự vật hiện tượng, nhưng nếu mất sẽ không còn sự vật hiện tượng. + Đây là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác về phương diện bản chất. 24
- + Những thuộc tính bản chất không phải là bản thân vật chất bên trong mà nó là những thuộc tính tương đối trừu tượng chỉ có thể nhận thức được chủ yếu thông qua tư duy. + Những thuộc tính bản chất này tương đối ổn định, tiềm tàng ở bên trong, nhưng nó được bộc lộ ra bên ngoài. Tuy nhiên, cái bên trong, bản chất đó không bộc lộ hoàn toàn mà tùy theo từng điều kiện, từng hoàn cảnh, tức là cái bên ngoài chỉ là một mặt, một biểu hiện của cái bản chất. (nó nói lên một phần nào cái bản chất bên trong). + Những thuộc tính bản chất rất trừu tượng và cũng rất cụ thể tức là cái bên ngoài nói lên một phần nào cái bên trong. + Cái bản chất có tính chất độc lập tương đối, tức là nhiều khi sự vật, hiện tượng thay đổi nhưng về bản chất chưa thay đổi. Vậy: giữa bản chất và hiện tượng có mối quan hệ gắn bó với nhau có tính chất biện chứng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn (cái bên trong ổn định, khó mất mâu thuẫn với cái bên ngoài thường thay đổi). Các Mác: “Nếu hiện tượng và bản chất của sự vật trùng khớp nhau thì mọi thứ khoa học đều trở nên thừa”. (Tư bản quyển III - 1963 trang 281) Vì nếu bản chất bộc lộ ra toàn bộ bằng cái bên ngoài thì con người sẽ nhận biết được bằng các giác quan tức là con người không cần suy nghĩ, tìm tòi. + Một sự vật hiện tượng có vô số những thuộc tính bản chất (tuy rằng trong đó có những thuộc tính bản chất nhất) tùy theo góc độ mà ta phản ánh, tùy theo mức độ mà ta đi sâu. + Do phản ánh cái bản chất, cái bên trong mà tư duy giúp ta nhận thức sâu sắc, đúng đắn hơn nhiều so với nhận thức cảm tính. - Ở mức độ nhận thức cảm tính con người mới chỉ phản ánh được những mối liên hệ, quan hệ về mặt không gian, thời gian và trạng thái vận động - Đó là mối quan hệ bên ngoài trực quan, cảm tính nói lên sự tồn tại của vật trong không gian, thời gian, trạng thái vận động cụ thể. Nhưng đến tư duy đã phản ánh được những mối liên hệ, quan hệ bản chất, bên trong của hàng 25
- loạt những sự vật, hiện tượng, những mối quan hệ ấy mang tính quy luật. Đó là mối liên hệ bên trong và tất yếu giữa các hiện tượng, mối liên hệ có tính quy luật, rất trừu tượng chỉ có thể nhận thức được thông qua tư duy. - Ở mức độ nhận thức cảm tính, con người chỉ phản ánh những cái đang có trong hiện thực, trực tiếp tác động vào giác quan ta, đến tư duy con người hường vào việc tìm kiếm cái mới, cái bản chất, cái khái quát, những cái mà con người chưa biết. Đó là những thuộc tính bản chất, bên trong, những mối liên hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng, những cái mà bằng giác quan và phương thức nhận thức cảm tính con người chưa thể phản ánh được, con người cần phải tìm kiếm và nắm được để tiếp tục nhận thức, cải tạo và sáng tạo thế giới. Tóm lại: Tư duy là một quá trình tâm lý thuộc bậc thang nhận thức lý tính, cao hơn hẳn so với cảm giác, tri giác. 3.1.2. Bản chất xã hội của tư duy Mặc dù tư duy được tiến hành trong bộ óc của từng người cụ thể, được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức tích cực của bản thân mỗi người, nhưng tư duy bao giờ cũng có bản chất xã hội. Bản chất xã hội của tư duy được thể hiện ở những mặt sau: - Tư duy của con người nảy sinh từ tình huống có vấn đề được đặt ra do nhu cầu của cuộc sống, học tập và hoạt động xã hội. Nói cách khác, tư duy của con người bị quy định bởi nguyên nhân xã hội, do nhu cầu xã hội quy định. - Trong quá trình phát triển lịch sử xã hội, tư duy của con người không dừng lại ở trình độ tư duy bằng thao tác tay chân, bằng hình tượng mà con người còn đạt tới trình độ tư duy bằng ngôn ngữ, tư duy trừu tượng, tư duy khái quát - hình thức tư duy đặc biệt của con người. - Trong quá trình tư duy, con người sử dụng phương tiện ngôn ngữ, sản phẩm có tính xã hội cao để nhận thức tình huống có vấn đề, để tiến hành các thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa để đi đến những khái niệm, phán đoán, suy lý, những quy luật - những sản phẩm khái quát của tư duy. 26
- - Trong quá trình phát triển của mình, con người không chỉ tư duy nhằm giải quyết các vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra mà con người còn tiến hành tư duy nhằm lĩnh hội nền văn hóa xã hội để hình thành và phát triển nhân cách của mình, trên cơ sở đó đóng góp những kết quả hoạt động của mình vào kho tàng văn hóa của loài người. - Trong điều kiện phát triển cao của xã hội loài người, hoạt động tư duy của con người mang tính tập thể cao hơn, tức là tư duy phải sử dụng các tài liệu thu được trong các lĩnh vực tri thức liên quan nếu không sẽ không giải quyết được các nhiệm vụ đặt ra. Tư duy của tập thể, tư duy của nhiều nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội cùng góp phần đem lại những thành tựu vĩ đại, góp phần cải tạo thế giới, phục vụ cuộc sống con người. 3.1.3. Đặc điểm của tư duy Thuộc bậc thang nhận thức cao - nhận thức lý tính, tư duy có những đặc điểm mới về chất so với cảm giác, tri giác. Tư duy có những đặc điểm cơ bản sau: a) Tính có vấn đề của tư duy Đây là đặc điểm rất quan trọng nói lên nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng về tư duy. Quan niệm duy tâm: Tư duy là do ý thức bản ngã, do cái tôi quyết định. Do vậy tư duy không xuất phát từ thực tế khách quan. Quan niệm duy vật: Tư duy dù có trừu tượng, cao siêu đến đâu cũng xuất phát từ thực tiễn khách quan (xuất phát từ đòi hỏi của lao động sản xuất, nhu cầu xã hội ). Theo Lê Nin: “Thực ra thì mục đích hoạt động của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra, lấy thế giới khách quan làm tiền đề”. (V.I. Lê nin - Bút ký triết học 209 - 210) Song không phải hoàn cảnh nào cũng gây được tư duy của con người. Muốn kích thích được tư duy, phải đồng thời có hai điều kiện: - Trước hết phải gặp hoàn cảnh (hay tình huống) có vấn đề. + Vấn đề: Là một câu hỏi, một thắc mắc nào đó về mặt lý thuyết hoặc về mặt thực tiễn, một điều ta chưa hiểu, hay một nhiệm vụ mà ta cần giải quyết, nó chứa đựng những dữ kiện và những điều cần tìm. 27
- + Tình huống có vấn đề: Là một tình huống chưa có đáp số nhưng đáp số đã tiềm tàng ở bên trong. Nghĩa là, đã chứa đựng những cái chưa biết từ những cái đã biết. Con người có nhu cầu cần nhận biết những cái chưa biết. + Tình huống có vấn đề xuất hiện khi con người cảm thấy không có khả năng giải thích bản chất vấn đề, hoặc không có khả năng giải quyết vấn đề bằng vốn hiểu biết cũ, bằng phương thức hành động cũ, lúc đó buộc con người phải có nhu cầu tìm phương thức hành động mới, tìm cách giải quyết mới. Trạng thái đó dẫn đến tình huống có vấn đề nảy sinh trong đầu ta. Vậy: Tình huống có vấn đề đó là tình huống (hoàn cảnh) có chứa đựng một mục đích mới, một vấn đề mới, một cách thức giải quyết mới, mà bằng vốn hiểu biết cũ, những phương tiện cũ, phương pháp hoạt động cũ đã có (mặc dù vẫn cần thiết) nhưng không đủ sức giải quyết vấn đề mới đó, để đạt mục đích mới đó. Con người phải tìm cách giải quyết mới tức là phải tư duy. - Thứ hai: Hoàn cảnh có vấn đề đó phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ của cá nhân. Tức là, cá nhân phải xác định được cái gì (dữ kiện) đã biết, đã cho và cái gì chưa biết (phải tìm) đồng thời phải có nhu cầu (động cơ) tìm kiếm nó và phải có tri thức cần thiết để giải quyết (trên cơ sở đó tư duy nảy sinh). Những điều kiện quen thuộc hoặc nằm ngoài tầm hiểu biết của cá nhân thì tư duy không xuất hiện. Như vậy: Tư duy chỉ nảy sinh khi đứng trước tình huống (hoàn cảnh) có vấn đề. b) Tính gián tiếp của tư duy Chức năng của tư duy là đi vào cái bản chất và quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tượng, những cái mà trước đó bằng các giác quan, bằng nhận thức cảm tính chưa phản ánh được (cái không trực tiếp tác động vào các giác quan). Do vậy, buộc tư duy phải phản ánh gián tiếp. Tính gián tiếp của tư duy thể hiện: + Tư duy phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan thông qua ngôn ngữ. Ở con người đến tư duy là phản ánh bằng ngôn ngữ, tư duy phản ánh thế giới bằng ngôn ngữ là chủ yếu, hay lấy ngôn ngữ làm phương tiện. Tư duy 28
- ngôn ngữ là phương thức hoạt động gián tiếp. Tức là, nhờ có ngôn ngữ tư duy dựa vào mối quan hệ giữa đối tượng này và đối tượng khác, dựa vào mối quan hệ giữa các thuộc tính, các mặt của đối tượng để phản ánh. + Tư duy phản ánh gián tiếp khi ta không có mặt hoặc chưa có mặt ở nơi sự vật, hiện tượng xảy ra. Có được như vậy là do nắm được cái chung của nhiều đối tượng nên lúc nào đó chỉ cần gặp một dấu hiệu, hoặc quan hệ nào đấy là ta có thể phản ánh được trọn vẹn về một hoặc một số đối tượng. + Tư duy phát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng và quy luật giữa chúng nhờ sử dụng công cụ, phương tiện (đồng hồ, nhiệt kế, máy móc ) và các kết quả nhận thức (như quy tắc, công thức, quy luật ) của loài người và kinh nghiệm cá nhân mình. + Nhờ đặc điểm gián tiếp này mà tư duy mở rộng không giới hạn những khả năng nhận thức của con người. Tức là nhờ khả năng phản ánh gián tiếp mà tư duy phản ánh được cả quá khứ, hiện tại và tương lai. c) Tính trừu tượng và khái quát của tư duy Khác với nhận thức cảm tính, tư duy có khả năng đi sâu vào nhiều sự vật, hiện tượng nhằm vạch ra những thuộc tính chung, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật giữa chúng. Hay nói khác, tư duy có khả năng phản ánh những thuộc tính chung nhất, bản chất nhất của một loạt đối tượng cùng loại - Tư duy phản ánh khái quát hiện thực khách quan. Tư duy phản ánh khái quát nghĩa là phản ánh những nguyên tắc, nguyên lý, phản ánh bằng khái niệm, bằng quy luật - phản ánh tính phổ biến, phản ánh cái chung. Song, không phải mọi cái chung đều là cái bản chất vì cái chung (thuộc tính chung) có cái chung giống nhau, cái chung bản chất. ở đây tư duy chỉ khái quát cái chung bản chất. Quá trình đi đến khái quát hóa hiện thực khách quan, tư duy phải trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cụ thể, cá biệt xét về một phương diện nào đó - tức là trừu tượng để chỉ giữ lại 29
- những thuộc tính bản chất chung cho nhiều sự vật, hiện tượng rồi trên cơ sở đó mà khái quát. Tóm lại: Tư duy phản ánh cái bản chất chung cho nhiều sự vật hợp thành một nhóm, một loại, một phạm trù, đồng thời trừu xuất khỏi những sự vật đó những cái cụ thể, cá biệt. Vì vậy, tư duy đồng thời vừa mang tính trừu tượng, vừa mang tính khái quát. d) Tư duy liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ Khi nói mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ có nhiều quan điểm khác nhau. * Có quan điểm tách biệt tư duy và ngôn ngữ, cho rằng: Tư duy và ngôn ngữ không có quan hệ với nhau, nếu có là do ta gắn cho nó. Họ cho rằng tư duy như là mắc áo, ngôn ngữ là cái áo, khi cái áo khoác lên mắc thì lúc đó tư duy và ngôn ngữ có quan hệ với nhau, còn bình thường thì không có quan hệ với nhau. * Có quan điểm đồng nhất tư duy và ngôn ngữ: Cho rằng: Ngôn ngữ chẳng qua là tư duy phát ngôn ra thành tiếng, hay tư duy là một chuỗi kỹ xảo của những ngôn ngữ. Tức là nghĩ giỏi thì nói giỏi. Quan niệm này có phần đúng là nêu được mối quan hệ gắn bó, nhưng sai là đã nhập cục tư duy và ngôn ngữ. * Quan điểm duy vật biện chứng: Cho rằng: Tư duy trừu tượng, gián tiếp, khái quát không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ, nó phải dùng ngôn ngữ làm phương tiện. Nếu không có ngôn ngữ thì bản thân quá trình tư duy không diễn ra được, đồng thời các sản phẩm tư duy cũng không được chủ thể và người khác tiếp nhận. Ngôn ngữ cố định lại các kết quả của tư duy. Ở mức độ nhận thức cảm tính có thể chưa cần đến ngôn ngữ vẫn có hình ảnh trên não. Còn đến tư duy nhất thiết phải sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện.Vì: - Nhờ quá trình ngôn ngữ trong đầu ta mới ý thức được, nhận thức được tình huống có vấn đề. 30
- - Tiếp theo, trong sự diễn biến của quá trình tư duy, con người phải sử dụng ngôn ngữ để tiến hành các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa - Ngôn ngữ tham gia vào chính quá trình tư duy. - Ngôn ngữ còn biểu đạt kết quả của quá trình tư duy. Sản phẩm mà tư duy đem lại là những khái niệm, ngôn ngữ sẽ làm khách quan hóa, vật chất hóa ra khỏi đầu ta để ta nhận thức nó bằng tìm tòi những từ, những mệnh đề biểu đạt cái đó. Như vậy: Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, ngôn ngữ không phải là tư duy mà ngôn ngữ chỉ là phương tiện của tư duy. Giữa ngôn ngữ và tư duy khác nhau: + Ở chức năng: Tư duy là phản ánh thế giới (nhận thức thế giới) và cho sản phẩm là khái niệm - tư duy là nội dung. Còn ngôn ngữ thì không phản ánh mà biểu đạt, thông báo - ngôn ngữ là hình thức, là phương tiện. + Ở sản phẩm: Tư duy đi đến mặt nội dung là khái niệm, phán đoán, suy lý Còn ngôn ngữ là những từ, những câu, những tín hiệu, kí hiệu - ngôn ngữ là cái vỏ vật chất. + Một khái niệm có thể biểu đạt bằng nhiều từ, nhiều câu tùy theo mức độ nhận thức. Ngược lại, một từ có thể biểu đạt nhiều khái niệm tùy theo phương diện, mục đích phản ánh. e) Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính Mặc dù tư duy và nhận thức cảm tính thuộc hai mức độ nhận thức khác nhau. Song, giữa tư duy và nhận thức cảm tính có quan hệ chặt chẽ, bổ sung, chi phối lẫn nhau trong hoạt động thống nhất và biện chứng. Thể hiện: - Tư duy bao giờ cũng bắt nguồn từ nhận thức cảm tính (từ trực quan sinh động) nhờ nó làm nảy sinh tình huống có vấn đề là nguồn kích thích để nảy sinh tư duy. Tiếp theo, trong quá trình diễn biến của mình, tư duy nhất thiết phải sử dụng nguồn tài liệu phong phú do nhận thức cảm tính đem lại để tư duy nhằm giải quyết vấn đề. - Ngược lại, tư duy và những kết quả của nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng phản ánh của cảm giác và tri giác (đến nhận thức cảm tính) làm 31
- cho năng lực cảm giác tinh vi, nhạy bén hơn, làm cho tri giác mang tính lựa chọn, ý nghĩa, ổn định. Đồng thời, còn bổ sung, điều chỉnh và khắc phục những sai lầm của nhận thức cảm tính. Những đặc điểm tư duy trên đây có ý nghĩa rất to lớn đối với công tác giáo dục và dạy học. 3.1.4. Sản phẩm của tư duy Bản thân quá trình tư duy đi đến sản phẩm là những ý nghĩ, những ý nghĩ đó khác nhau về mức độ. Đó là những khái niệm, phán đoán, suy lý a. Khái niệm Là những tri thức bản chất, những qui luật cơ bản, chung nhất của hàng loạt sự vật, hiện tượng. Là sản phẩm cao nhất của nhận thức. Có quan hệ chặt chẽ với từ ngữ biểu đạt khái niệm, khái niệm là nội dung, từ ngữ là vỏ vật chất, là hình thức biểu đạt. b. Phán đoán Là tư tưởng phủ định hoặc khẳng định về một điều gì đấy hoặc có tính chất giả thuyết. Nội dung của phán đoán là kết của các quá trình phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa. - Căn cứ vào tính chất, người ta chia phán đoán thành 3 loại: + Phán đoán phủ định. Ví dụ: Động vật không có ý thức. + Phán đoán khẳng định. Ví dụ: Chỉ có ở người mới có ý thức. + Phán đoán có tính chất giả thuyết. Ví dụ: Có lẽ, ngoài trái đất, trên các hành tinh khác cũng có sự sống. - Căn cứ vào khối lượng, người ta chia phán đoán thành 2 loại: + Phán đoán toàn thể: Là phán đoán có lượng toàn thể. Khi những đối tượng của phán đoán phản ánh chiếm toàn bộ lớp đối tượng mà người ta đề cập tới thì lượng của phán đoán gọi là toàn thể. Khi những đối tượng được phán đoán phản ánh chỉ chiếm một bộ phận trong lớp đối tượng mà người ta đề cập tới thì lượng của phán đoán là lượng bộ phận. 32
- c. Suy lý - Là một hình thức của tư duy đi từ phán đoán này đến phán đoán khác để chúng ta nhận thức đầy đủ thế giới. Ví dụ: Mọi thầy giáo đều phải học lý luận dạy học và chúng ta là thầy giáo nên chúng ta phải học lý luận dạy học. - Suy lý có hai loại: Quy nạp và diễn dịch. + Quy nạp: Là suy lý đi từ cái riêng đến cái chung. Do đó, là yếu tố cấu trúc của tri thức khái quát, của việc hình thành khái niệm, định luật và quy tắc. Ví dụ: Vàng - là kim loại - dẫn điện. Đồng - là kim loại - dẫn điện. Mọi kim loại đều dẫn điện. Sắt - là kim loại - dẫn điện. Nhôm - là kim loại - dẫn điện. + Diễn dịch: Là suy lý đi từ cái chung đến cái riêng, rút ra kết luận về các sự vật đơn nhất bằng cách giải thích chúng dựa vào các định luật hoặc quy tắc tương ứng đã biết. Ví dụ: Mọi kim loại đều dẫn điện - Sắt là kim loại - Sắt dẫn điện. Hai hình thức quy nạp và diễn dịch gắn bó chặt chẽ với nhau. Ngoài ra, còn có hình thức suy lý tương tự. Đó là suy lý từ những trường hợp riêng biệt này đến trường hợp riêng biệt khác. 3.1.5. Vai trò của tư duy Tư duy có vai trò rất to lớn đối với đời sống và hoạt động nhận thức của con người. Cụ thể: - Tư duy mở rộng giới hạn của nhận thức, tạo ra khả năng vượt ra ngoài những giới hạn của kinh nghiệm cảm tính trực tiếp do cảm giác, tri giác mang lại để đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng tìm ra những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật giữa chúng với nhau. - Tư duy không chỉ giải quyết nhiệm vụ trước mắt, ngày hôm nay mà còn có khả năng giải quyết trước cả những nhiệm vụ của ngày mai, trong tương lai do nắm được bản chất và quy luật vận động của tự nhiên, xã hội, con người. 33
- - Tư duy cải tạo lại thông tin của nhận thức cảm tính làm cho chúng có ý nghĩa hơn cho hoạt động của con người. Tư duy vận dụng những cái đã biết để đề ra giải pháp giải quyết những cái tương tự, nhưng chưa biết. Do đó làm tiết kiệm công sức của con người. Nhờ tư duy con người hiểu biết sâu sắc và vững chắc về thực tiễn hơn, hành động có kết quả hơn. 3.2. Các giai đoạn của tư duy Tư duy là một hành động. Mỗi hành động tư duy là quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó nảy sinh trong quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Quá trình tư duy từ khi gặp phải tình huống có vấn đề và nhận thức được vấn đề cho đến khi vấn đề được giải quyết bao gồm nhiều giai đoạn (khâu) kế tiếp nhau. Các giai đoạn đó là: 3.2.1. Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề Đây là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình tư duy. Vì hoàn cảnh có vấn đề là một điều kiện quan trọng của tư duy. Tư duy chỉ nảy sinh khi con người nhận thức được hoàn cảnh có vấn đề (tức là xác định được nhiệm vụ tư duy) và biểu đạt được nó. Khi gặp một tình huống có vấn đề, chủ thể tư duy phải ý thức được đó là tình huống có vấn đề đối với bản thân mình. Tức là, đặt ra vấn đề cần giải quyết, phát hiện ra mâu thuẫn chứa đựng trong tình huống có vấn đề, mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái phải tìm, phải tạo ra nhu cầu cần giải quyết. Con người càng có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nào đó càng dễ dàng nhìn ra và nhìn đầy đủ những mâu thuẫn đó - Tức là càng xác định rõ những vấn đề đòi hỏi họ giải quyết. Chính việc xác định vấn đề và việc biểu đạt vấn đề dưới dạng nhiệm vụ sẽ quyết định toàn bộ các khâu sau đó của quá trình tư duy và chiến lược tư duy. 3.2.2. Huy động các tri thức kinh nghiệm Khâu này làm xuất hiện trong đầu những tri thức, kinh nghiệm, những liên tưởng nhất định có liên quan đến vấn đề đã được xác định và biểu đạt. Việc làm xuất hiện những tri thức, kinh nghiệm, những liên tưởng này hoàn toàn tùy thuộc vào nhiệm vụ đã xác định (đúng hướng hay lạc hướng là do nhiệm vụ đặt ra chính xác hay không). 34
- 3.2.3. Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết Các tri thức, kinh nghiệm, liên tưởng xuất hiện đầu tiên còn mang tính chất rộng rãi, bao trùm. Do vậy cần được sàng lọc cho phù hợp nhiệm vụ đề ra. Trên cơ sở này sẽ hình thành giả thuyết, tức cách giải quyết có thể có đối với nhiệm vụ tư duy. 3.2.4. Kiểm tra giả thuyết Việc kiểm tra giả thuyết có thể diễn ra trong đầu hay trong hoạt động thực tiễn. Kết quả kiểm tra sẽ dẫn đến khẳng định, phủ định hay chính xác hóa giả thuyết đã nêu. Trong quá trình kiểm tra này có thể phát hiện ra những nhiệm vụ mới, do đó bắt đầu một quá trình tư duy mới. 3.2.5. Giải quyết vấn đề Khi giả thuyết được kiểm tra và khẳng đinh thì nó sẽ được thực hiện, tức là đi đến câu trả lời cho vấn đề được đặt ra. Quá trình tư duy giải quyết nhiệm vụ thường có nhiều khó khăn, do ba nguyên nhân thường gặp là: - Chủ thể không nhận thấy một số dữ kiện của bài toán (nhiệm vụ). - Chủ thể đưa vào bài toán một điều kiện thừa. - Tính chất khuôn sáo, cứng nhắc của tư duy. Nhà tâm lý học Xô Viết K.K.Platônốp đã tóm tắt các giai đoạn của một hành động (quá trình) tư duy bằng sơ đồ sau: NhËn thøc vÊn ®Ò XuÊt hiÖn c¸c liªn tëng Sµng läc c¸c liªn tëng vµ h×nh thµnh gi¶ thuyÕt KiÓm tra gi¶ thuyÕt ChÝnh x¸c hãa Kh¼ng ®Þnh Phñ ®Þnh Gi¶i quyÕt vÊn ®Ò Hµnh ®éng t duy míi 35
- Chú ý: Một quá trình tư duy nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các giai đoạn trên và theo đúng trình tự xác định. Song, tính giai đoạn của tư duy mới chỉ phản ánh được cấu trúc bề mặt của tư duy, còn nội dung bên trong là một quá trình phức tạp diễn ra trên cơ sở những thao tác tư duy đặc biệt (thao tác trí tuệ hay thao tác trí óc). 3.3. Các thao tác tư duy Xét về bản chất thì tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác trí tuệ nhất định để giải quyết vấn đề hay nhiệm vụ được đặt ra. Cá nhân có tư duy hay không chính là ở chỗ họ có tiến hành các thao tác này ở trong đầu mình hay không. Cho nên, các thao tác này còn gọi là quy luật bên trong (quy luật nội tại) của tư duy. Thao tác tư duy là thao tác trí tuệ nằm trong hành động tư duy trong đó con người phải sử dụng một năng lượng thần kinh (não) nhằm giải quyết vấn đề để đi đến đáp số không phải là sản phẩm vật chất mà là sản phẩm tinh thần như phán đoán, suy lý 3.3.1. Phân tích - tổng hợp a) Phân tích: Là quá trình dùng trí óc để phân chia đối tượng thành các bộ phận, các thành phần, các thuộc tính, các liên hệ, quan hệ giữa chúng để nhận thức đối tượng sâu sắc hơn. b) Tổng hợp: Là quá trình dùng trí óc để hợp nhất các thành phần đã được tách ra nhờ sự phân tích, thành một chỉnh thể giúp ta nhận thức đối tượng bao quát hơn. Phân tích và tổng hợp có quan hệ mật thiết với nhau, bổ xung cho nhau trong một quá trình thống nhất. Phân tích là cơ sở của tổng hợp, sự tổng hợp diễn ra trên cơ sở phân tích. 3.3.2. So sánh Là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các đối tượng nhận thức (sự vật, hiện tượng). So sánh có quan hệ chặt chẽ và dựa trên cơ sở phân tích - tổng hợp. 36
- 3.3.3. Trừu tượng hóa và khái quát hóa a) Trừu tượng hóa: Là quá trình dùng trí óc để gạt bỏ những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ thứ yếu không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy. b) Khái quát hóa: Là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, liên hệ, quan hệ chung nhất định. Những thuộc tính chung gồm hai loại: + Những thuộc tính chung giống nhau. + Những thuộc tính chung bản chất. Đây là hai thao tác tư duy đặc trưng, cơ bản của tư duy con người. Chúng quan hệ qua lại với nhau giống như phân tích - tổng hợp nhưng ở mức cao hơn. Chú ý: - Các thao tác tư duy đều có quan hệ mật thiết với nhau thống nhất theo một hướng nhất định, do nhiệm vụ tư duy quy định. - Trong thực tế tư duy, các thao tác đó đan chéo nhau chứ không theo trình tự máy móc nêu trên. - Tùy theo nhiệm vụ và điều kiện tư duy, không nhất thiết trong hành động tư duy nào cũng phải thực hiện tất cả các thao tác trên. Như vậy, kết quả của quá trình thực hiện các thao tác phân tích - tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa sẽ cho ta một khái niệm. Do đó, những khái niệm khoa học đều là những mô hình của hiện thực. Tư duy nếu chỉ dừng lại ở khái quát hóa thì con người mới chỉ lĩnh hội được những khái niệm hoặc quy luật trừu tượng, chung chung. Nhưng hoạt động của con người có ý nghĩa hơn cả là cải tạo thế giới. Bởi thế, những tri thức khái quát chỉ trở thành chân lý khi nó được vận dụng vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn nghĩa là cái trừu tượng tổng quát phải được cụ thể hóa trong thực tế. Vì vậy, ngoài những thao tác trên tư duy còn có thao tác cụ thể hoá. 37
- Cụ thể hóa: Là sự vận dụng những khái niệm, định luật hoặc quy tắc khái quát trừu tượng đã lĩnh hội được vào hoạt động thực tiễn nhằm giải quyết những nhiệm vụ cụ thể. 3.4. Các loại tư duy 3.4.1. Theo lịch sử hình thành (chủng loại và cá thể) và mức độ phát triển của tư duy , người ta chia tư duy làm 3 loại a. Tư duy trực quan - hành động Là loại tư duy có cả ở người và ở một số loài vật cao cấp (tất nhiên là ở con người khác xa về chất). Đó là loại tư duy bằng các thao tác chân tay cụ thể hướng vào việc giải quyết một số tình huống cụ thể trực quan (có thể quan sát được) Ví dụ: Tư duy bằng cách xếp hình; Trẻ làm toán bằng cách dùng tay di chuyển các vật thật, hay dùng vật thay thế như que tính b. Tư duy trực quan - hình ảnh Chỉ có ở người, là loại tư duy mà việc giải quyết vấn đề dựa vào các hình ảnh của sự vật hiện tượng. Ví dụ: Trẻ làm toán bằng cách dùng mắt quan sát các vật thật hay vật thay thế tương ứng. Sở dĩ như vậy là vì tư duy của các em phụ thuộc vào hình ảnh của đối tượng đang tri giác. c. Tư duy trừu tượng (tư duy từ ngữ - lô gíc) Là loại tư duy phát triển ở mức cao nhất, cũng chỉ có ở người. Đó là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ phải dựa trên các khái niệm, các mối quan hệ lôgíc và gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ là phương tiện. Ví dụ: Học sinh làm toán bằng cách chỉ dùng ngôn ngữ làm phương tiện. Các loại tư duy trên tạo thành các giai đoạn phát triển tư duy về phương diện chủng loại. 38
- 3.4.2. Theo hình thức biểu hiện và phương thức giải quyết nhiệm vụ tư duy, người ta chia tư duy làm 3 loại a. Tư duy thực hành Là loại tư duy mà nhiệm vụ đề ra một cách trực quan, dưới hình thức cụ thể, phương thức giải quyết là những hành động thực hành. Ví dụ: Giáo viên lên lớp bằng việc sử dụng những phương pháp dạy học khác nhau sau đó đối chiếu, so sánh để tìm ra phương pháp tối ưu nhất cho việc truyền đạt tri thức (Đây là kiểu cứ làm rồi sẽ rõ). b. Tư duy hình ảnh cụ thể Là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới hình thức hình ảnh cụ thể và việc giải quyết nhiệm vụ cũng được dựa trên những hình ảnh trực quan đã có. Ví dụ: Sau khi đã đi dự giờ, quan sát lớp học, các giáo viên họp nhau lại, tìm ra phương pháp dạy học tốt nhất. c. Tư duy lý luận Là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra và việc giải quyết nhiệm vụ đó đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những tri thức lý luận. Ví dụ: Tư duy của học sinh khi nghe giảng. Tư duy của giáo viên khi soạn bài Trong thực tế, để giải quyết một nhiệm vụ, người trưởng thành rất ít khi sử dụng thuần túy một loại tư duy mà thường sử dụng phối hợp nhiều loại tư duy với nhau, trong đó có một loại giữ vai trò chủ yếu. Ví dụ: - Người công nhân sử dụng tư duy thực hành là chính nhưng vẫn có cả tư duy hình ảnh và tư duy lý luận. - Người nghệ sỹ thiên về tư duy hình ảnh, nhưng để xây dựng hình ảnh mới họ cũng sử dụng tư duy lý luận. - Nhà bác học thường tư duy lý luận, nhưng nhiều khi vẫn sử dụng tư duy trực quan hình ảnh. 39
- TÀI LIỆU HỌC TẬP [1]. Bùi Văn Huệ, Giáo trình tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [2]. Hội đồng bộ môn tâm lý - giáo dục học, Đề cương bài giảng tâm lý học đại cương, tài liệu dùng trong các trường Đại học sư phạm, Hà Nội 1975. [3]. Nguyễn Xuân Thức (chủ biên) Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại học sư phạm. [4]. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) Tâm lý học đại cương, dùng cho các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm, Hà Nội 1995. [5]. Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Tâm lý học đại cương, giáo trình đào tạo giáo viên THCS có trình độ cao đẳng sư phạm, Hà Nội 2003. [6]. GS Phạm Tất Dong, PGS. PTS. Nguyễn Hải Khoát, PGS. PTS. Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lý học đại cương, Bộ GDĐT, Viện Đại học mở Hà Nội, Hà Nội 1995. [7]. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Tâm lý học, Tập 1, Sách dùng cho các trường ĐHSP, NXB Giáo dục 1988. [8]. Trần Trọng Thủy (chủ biên), Bài tập thực hành Tâm lý học, NXB GD 1990. TRANG THIẾT BỊ PHỤC VỤ GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP Phấn, bảng, máy tính và máy chiếu PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ Kiểm tra 45 phút kiến thức thuộc chương 3. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 1. Nội dung tri thức 1.Tư duy là gì? 2. Trình bày các đặc điểm tư duy và rút ra những kết luận sư phạm cần thiết. 3.Trình bày các sản phẩm của tư duy. 4.Vẽ sơ đồ tóm tắt các giai đoạn của một quá trình tư duy và phân tích sơ đồ đó. 5.Trình bày các thao tác tư duy. 2. Bài tập thực hành Các bài tập từ 172 - 204 (trang 137 - 154) Bài tập thực hành Tâm lý học - Trần Trọng Thuỷ chủ biên - NXBGD 1990. 3. Câu hỏi thảo luận Tại sao tư duy lại được xếp vào mức độ nhận thức lý tính? 40
- Chương 4: TƯỞNG TƯỢNG (Lý thuyết: 3; Thảo luận, thực hành: 2; KT: 1) Môc tiªu häc tËp 1. VÒ kiÕn thøc: Sau khi học xong SV trình bày được tưởng tượng là gì? Các đặc điểm của tưởng tượng, vai trò của tưởng tượng và các cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng. Phân biệt được tưởng tượng với tư duy. 2. Về kỹ năng: Áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn để rèn luyện, phát triển trí tưởng tượng. 3. Về thái độ: Có trách nhiệm trong việc rèn luyện bản thân nhằm hình thành, phát triển trí tưởng tượng cho học sinh trong quá trình dạy học, giáo dục. NỘI DUNG 4.1. Khái niệm chung về tưởng tượng. 4.1.1. Tưởng tượng là gì ? Thực tiễn luôn đặt ra cho con người nhiệm vụ nhận thức, cải tạo và sáng tạo thế giới, một trong những phương thức đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn là tư duy. Song, không phải trong bất cứ trường hợp nào các vấn đề do thực tiễn đặt ra đều được giải quyết bằng tư duy. Có nhiều trường hợp khi gặp hoàn cảnh có vấn đề, con người khó có thể dùng tư duy để giải quyết nó mà phải dùng một phương thức hoạt động nhận thức khác - nhận thức bằng tưởng tượng . Sở dĩ có những hoạt động đó là do cá nhân có những kinh nghiệm và nhờ có ngôn ngữ con người đã nhào nặn những kinh nghiệm của mình thành những sản phẩm mới. Tâm lý học gọi hoạt động này là hoạt động tưởng tượng. Vậy: Tưởng tượng là một quá trình tâm lý, phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có. Phân tích bản chất của tưởng tượng ta thấy: 41
- - Về nội dung phản ánh: Tưởng tượng là một quá trình tâm lý thuộc nhận thức lý tính, chỉ phản ánh cái mới, chưa từng có trong kinh nghiệm cá nhân hoặc xã hội. Cái mới của tưởng tượng được tạo ra dưới hình thức biểu tượng mới bằng cách chủ thể sáng tạo ra nó, xây dựng nên nó trên cơ sở những biểu tượng đã biết. Như vậy, tưởng tượng thực chất là phản ánh cái mới, cái chưa biết – tưởng tượng mang bản chất sáng tạo. - Về phương thức phản ánh (khác với tư duy): Tư duy là quá trình vạch ra những thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng, những liên hệ, quan hệ có tính quy luật, những cái mà con người chưa biết, phải trải qua quá trình phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa mới phát hiện ra được. Tưởng tượng tạo hình ảnh mới (biểu tượng mới - biểu tượng của tưởng tượng) trên cơ sở những biểu tượng đã biết nhờ các phương thức hành động: chắp ghép, liên hợp , nhấn mạnh Như vậy, tưởng tượng phản ánh chủ yếu bằng cách cá nhận tự xây dựng những hình ảnh, những biểu tượng, những mô hình Tưởng tượng xây dựng chủ yếu bằng cách cá nhân tự hình dung cho nên tưởng tượng đòi hỏi cá nhân phải có quá trình liên kết, phối hợp những hình ảnh cũ ở trong đầu, hình ảnh của tưởng tượng mang tính chất tự do, bay bổng. - Sản phẩm phản ánh của tưởng tượng: Là các biểu tượng của tưởng tượng, là một hình ảnh mới do con người tạo ra trên cơ sở những biểu tượng của trí nhớ. Biểu tượng của tưởng tượng là hình ảnh mới, khái quát hơn do con người tự sáng tạo ra trên cơ sở biểu tượng của trí nhớ, nó không là hình ảnh của chính sự vật hiện tượng mà là kết quả của quá trình chắp ghép, chế biến, liên kết những biểu tượng của trí nhớ, hay nói khác nó là hình ảnh mới, được chế biến, sáp nhập, chắp ghép từ nhiều hình ảnh của nhiều sự vật, hiện tượng để đi đến hình ảnh mới, khái quát hơn. 4.1.2. Đặc điểm của tưởng tượng - Tưởng tượng chỉ nảy sinh trước hoàn cảnh có vấn đề. 42
- Tức là trước những đòi hỏi mới, thực tiễn chưa từng gặp, trước những nhu cầu khám phá, phát hiện làm sáng tỏ cái mới nhưng chỉ khi tính bất định của hoàn cảnh quá lớn (không xác định rõ ràng) thì phải giải quyết bằng tưởng tượng (bằng cách hình dung ra kết quả cuối cùng). Giá trị của tưởng tượng là ở chỗ tìm được lối thoát trong hoàn cảnh có vấn đề, ngay cả khi không đủ điều kiện để tư duy. Nó cho phép “nhảy cóc” qua một vài giai đoạn nào đó của tư duy mà vẫn hình dung ra kết quả cuối cùng. Song đây cũng chính là điểm yếu trong giải quyết vấn đề của tưởng tượng vì kết quả có thể không có sự chuẩn xác và chặt chẽ. - Tưởng tượng là một quá trình nhận thức được bắt đầu và thực hiện chủ yếu bằng hình ảnh, nhưng vẫn mang tính gián tiếp và khái quát cao so với trí nhớ. Biểu tượng của tưởng tượng là một hình ảnh mới được xây dựng từ những biểu tượng của trí nhớ, nó là biểu tượng của biểu tượng. Biểu tượng của trí nhớ là hình ảnh của sự vật hiện tượng mà ta đã tri giác trước đây, còn biểu tượng của tưởng tượng là hình ảnh mới, hình ảnh mới của tưởng tượng là sự kết hợp độc đáo của các yếu tố nằm trong sự vật, hiện tượng có thật. Đó là quá trình xây dựng biểu tượng mới từ những biểu tượng đã có (biểu tượng của trí nhớ). Cho nên, hình ảnh của tưởng tượng mang tính gián tiếp, khái quát cao. + Tính gián tiếp: Tưởng tượng không phải là phản ánh trực tiếp các đối tượng của thế giới mà nó hướng vào các biểu tượng đã có trước đây để mà nhào nặn và chế biến. + Tính khái quát biểu hiện: Sản phẩm của tưởng tượng là kết quả của hoạt động chế biến, sáp nhập, chắp ghép từ nhiều hình ảnh của nhiều sự vật hiện tượng để đi đến hình ảnh mới, hình ảnh mới là sự khái quát từ nhiều hình ảnh. - Tưởng tượng liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính, nó sử dụng biểu tượng của trí nhớ do nhận thức cảm tính thu lượm, cung cấp. 4.1.3. Vai trò của tưởng tượng Tưởng tượng có vai trò rất lớn trong đời sống, lao động, học tập của con người 43
- - Tưởng tượng cần thiết cho bất kì hoạt động nào của con người. Cho phép con người hình dung được kết quả trung gian và kết quả cuối cùng của lao động, giúp con người lập chương trình hành động để đi đến sản phẩm. Đây là điểm khác giữa con người và con vật. - Tưởng tượng tạo nên những hình ảnh mẫu mực, tươi sáng hoàn hảo mà con người mong đợi và vươn tới (lý tưởng), nó nâng con người lên trên hiện thực, làm giảm bớt những nặng nhọc khó khăn của cuộc sống, hướng con người đến tương lai, kích thích con người hành động để đạt những kết quả lớn lao. - Với khoa học kĩ thuật: + Tưởng tượng giúp chúng ta xây dựng những giả thuyết khoa học, những tiên đoán, những dự đoán. + Giúp ta xây dựng chương trình khoa học, quan sát khách quan, thực nghiệm hay thí nghiệm để khẳng định hay phủ định, để đi đến kết luận. - Với nghệ thuật: Tưởng tượng là cái khuấy động ban đầu của nghệ thuật, nó là “mặt trời vĩnh cửu” của nghệ thuật, là thần tượng của nghệ thuật, là hoàn cảnh đẹp đẽ nhất cho sự phồn vinh của ý sáng tác. - Tưởng tượng có ảnh hưởng tới việc học tập của học sinh, việc tiếp thu và thể hiện các tri thức mới. - Tưởng tượng ảnh hưởng tới việc giáo dục đạo đức, cũng như tới việc phát triển nhân cách nói chung của họ. Vì muốn giáo dục được thì bản thân nhà giáo dục phải hình dung ra cái mô hình hoặc mẫu người tương lai mà nhà giáo dục vươn tới, nhà giáo dục phải hình dung ra phương thức hoạt động để cả phía người giáo dục và được giáo dục đạt tới mẫu người cần đạt. 4.2. Các loại tưởng tượng Căn cứ vào tính tích cực và tính hiệu lực của tưởng tượng, người ta chia tưởng tượng thành 2 loại: 4.2.1. Tưởng tượng tích cực và tưởng tượng tiêu cực a. Tưởng tượng tiêu cực: Là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh không được thể hiện trong cuộc sống, vạch ra những chương trình hành vi 44
- không được thực hiện, tưởng tượng chỉ để mà tưởng tượng, để thay thế cho hành động. Có thể xảy ra theo hai hướng: - Hướng thứ nhất: Xảy ra có chủ định nhưng không gắn liền với ý chí, thể hiện hình ảnh tưởng tượng trong đời sống, gọi là mộng (về cái gì đó vui sướng, dễ chịu, hấp dẫn). Đây là hiện tượng vốn có ở con người. Nhưng nếu trở thành chủ yếu sẽ dẫn đến thiếu sót của sự phát triển nhân cách. - Hướng thứ hai: Xảy ra không chủ định: như hiện tượng ngủ - chiêm bao, ảo giác, hoang tưởng. b. Tưởng tượng tích cực: Là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp ứng những nhu cầu, kích thích tính tích cực thực tế của con người. Gồm hai loại: tái tạo và sáng tạo. + Tưởng tượng tái tạo. Là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh chỉ là mới đối với cá nhân người tưởng tượng và dựa trên sự mô tả của người khác. Ví dụ: Tưởng tượng của học sinh về những điều được mô tả trong SGK hoặc sự giới thiệu của người khác (trong các môn địa, sử, văn ). + Tưởng tượng sáng tạo: Là quá trình xây dựng hình ảnh mới, độc lập với cả cá nhân lẫn xã hội, được hiện thực hóa trong các sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị. Đây là một mặt không thể thiếu của mọi loại lao động sáng tạo (sáng tạo kỹ thuật, sáng tạo nghệ thuật). 4.2.2. Ước mơ và lý tưởng Đây là loại tưởng tượng được hướng về tương lai, biểu hiện những mong muốn ước ao của con người. - Ước mơ: Giống tưởng tượng sáng tạo ở chỗ nó cũng là quá trình độc lập, còn khác ở chỗ nó không hướng vào hành động hiện tại. Có hai loại ước mơ: 45
- + Ước mơ có lợi: Có tác dụng thúc đấy cá nhân hành động, biến ước mơ thành hiện thực + Ước mơ có hại: Là loại ước mơ không dựa vào khả năng thực tế, gọi là mơ mộng, có thể làm cá nhân thất vọng, chán nản. - Lý tưởng: Có tính tích cực và hiện thực cao hơn so với ước mơ. Lý tưởng là một hình ảnh chói lọi, rực sáng, cụ thể, hấp dẫn của cái tương lai mong muốn. Nó là một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy con người vươn tới giành tương lai. 4.3. Các cách sáng tạo mới trong tưởng tượng Hình ảnh của tưởng tượng được tạo ra bằng nhiều cách (thủ thuật) khác nhau. Dưới đây là những cách cơ bản nhất: 4.3.1. Thay đổi kích thước, độ lớn, số lượng của sự vật hay các thành phần của sự vật nhằm làm thay đổi hình dáng của nó so với hiện thực. Ví dụ: Hình tượng người khổng lồ, người tí hon, Phật bà trăm mắt, trăm tay. 4.3.2. Nhấn mạnh: các chi tiết, thành phần, thuộc tính của sự vật Đây là cách tạo ra hình ảnh mới bằng việc nhấn mạnh đặc biệt hoặc đưa lên hàng đầu một phẩm chất hay một quan hệ nào đó của sự vật, hiện tượng với các sự vật, hiện tượng khác. Một biến dạng của phương pháp này là cường điệu. Ví dụ: Như hình ảnh của tranh biếm họa 4.3.3. Chắp ghép (kết dính) Là phương pháp ghép các bộ phận của nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau lại để tạo ra hình ảnh mới, các bộ phận ở đây không bị cải biến đi mà chỉ ghép nối, kết dính một cách đơn giản. Ví dụ: Hình ảnh con rồng, hình ảnh nữ thần đầu người mình cá 4.3.4. Liên hợp Đây là cách tạo ra hình ảnh mới bằng việc liên hợp các bộ phận của nhiều sự vật với nhau. Nhưng ở đây các bộ phận bị cải biến đi và sắp xếp lại trong những tương quan mới, cho nên liên hợp là một sự tổng hợp sáng tạo thật sự. 46
- Ví dụ: Xe điện bánh hơi, thủy phi cơ 4.3.5. Điển hình hóa Là cách tạo hình ảnh mới phức tạp, trong đó xây dựng những thuộc tính, đặc điểm điển hình của nhân cách đại diện cho một giai cấp hay một tầng lớp xã hội nhất định Đây là một sự tổng hợp sáng tạo mang tính chất khái quát những thuộc tính và đặc điểm cá biệt, điển hình của nhân cách. Ví dụ: Xây dựng những nét điển hình của một loại nhân vật trong văn học nghệ thuật, hội họa 4.3.6. Loại suy (tương tự) Đây là cách tạo ra những hình ảnh mới trên cơ sở mô phỏng, bắt chước những chi tiết, những bộ phận, những sự vật có thực. Ví dụ: Từ những thao tác lao động của đôi bàn tay mà con người chế tạo ra các công cụ lao động như cái cào, cái bát hay từ quan sát đôi bàn chân con vịt người ta mô phỏng, chế tạo ra bộ phận “chân vịt” của tàu thủy. Tóm lại: Trên đây là một số cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng. Thực tế cho thấy trong quá trình tưởng tượng các cách sáng tạo nói trên kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau làm cho phương thức hoạt động tưởng tượng vô cùng phong phú và độc đáo. 47
- TÀI LIỆU HỌC TẬP [1]. Bùi Văn Huệ, Giáo trình tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [2]. Hội đồng bộ môn tâm lý - giáo dục học, Đề cương bài giảng tâm lý học đại cương, tài liệu dùng trong các trường Đại học sư phạm, Hà Nội 1975. [3]. Nguyễn Xuân Thức (chủ biên) Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại học sư phạm. [4]. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) Tâm lý học đại cương, dùng cho các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm, Hà Nội 1995. [5]. Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Tâm lý học đại cương, giáo trình đào tạo giáo viên THCS có trình độ cao đẳng sư phạm, Hà Nội 2003. [6]. GS Phạm Tất Dong, PGS. PTS. Nguyễn Hải Khoát, PGS. PTS. Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lý học đại cương, Bộ GDĐT, Viện Đại học mở Hà Nội, Hà Nội 1995. [7]. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Tâm lý học, Tập 1, Sách dùng cho các trường ĐHSP, NXB Giáo dục 1988. [8]. Trần Trọng Thủy (chủ biên), Bài tập thực hành Tâm lý học, NXB GD 1990. TRANG THIẾT BỊ PHỤC VỤ GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP Phấn, bảng, máy tính và máy chiếu HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 1. Nội dung tri thức 1. Tưởng tượng là gì? Nêu các đặc điểm của của tưởng tượng. 2. Trình bày các loại tưởng tượng. 3. Trình bày các cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng. 2. Bài tập thực hành Các bài tập từ 205 - 217 (trang 158 - 166) Bài tập thực hành Tâm lý học - Trần Trọng Thuỷ chủ biên - NXBGD 1990 3. Câu hỏi thảo luận 1. So sánh tư duy với tưởng tượng. 2. So sánh nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính và nêu mối quan hệ giữa chúng. 48
- Chương 5: TRÍ NHỚ (Lý thuyết: 6; Thảo luận, thực hành: 2; KT: 1) Môc tiªu häc tËp 1. VÒ kiÕn thøc: Sau khi học xong SV trình bày được trí nhớ là gì? Vai trò của trí nhớ; các quá trình trí nhớ và các loại trí nhớ. 2. Về kỹ năng: Áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn để rèn luyện, phát triển trí nhớ. 3. Về thái độ: Có trách nhiệm trong việc rèn luyện bản thân nhằm hình thành, phát triển trí nhớ cho học sinh trong quá trình dạy học, giáo dục. NỘI DUNG 5.1. Khái niệm chung về trí nhớ 5.1.1. Trí nhớ là gì ? Trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo sau đó ở trong óc những cái mà con người đã cảm giác, tri giác, rung động, hành động hay suy nghĩ trước đây. Từ định nghĩa cho thấy: - Nội dung phản ánh của trí nhớ. Là một quá trình tâm lý, trí nhớ phản ánh các sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây mà không cần có sự tác động trực tiếp của bản thân chúng trong hiện tại. Hay nói cách khác trí nhớ phản ánh vốn kinh nghiệm của con người. Vốn kinh nghiệm đó có thể là những hình ảnh cụ thể, có thể là những rung động, những trải nghiệm, có thể là những ý nghĩ, tư tưởng Song trí nhớ không phản ánh kinh nghiệm một cách nguyên si mà có sự chọn lọc, cải biên phụ thuộc vào hứng thú, nhu cầu, niềm tin, vốn tri thức, vốn hiểu biết - Sản phẩm được tạo ra trong quá trình trí nhớ là các biểu tượng. Biểu tượng là hình ảnh của sự vật, hiện tượng nảy sinh ở trong óc của chúng ta khi không có sự tác động của chúng vào các giác quan của ta. 49
- Biểu tượng khác với hình ảnh (hay hình tượng) của tri giác ở chỗ biểu tượng vừa mang tính trực quan, vừa mang tính khái quát. Hay nói cách khác, biểu tượng là khâu trung gian chuyển tiếp giữa hình tượng và khái niệm. Tính chuyển tiếp đó biểu hiện ở chỗ biểu tượng vừa mang tính trực quan của hình tượng, vừa mang tính khái quát của khái niệm. + Biểu tượng mang tính trực quan vì: Biểu tượng là bước tiếp nối của hình tượng, là kết quả của sự chế biến và tổng hợp các hình tượng do tri giác tạo ra. Biểu tượng giống sự lưu ảnh của tri giác là chúng đều phản ánh thực tế khách quan dưới hình thức những hình ảnh cụ thể. + Biểu tượng mang tính khái quát: Bên cạnh tính trực quan biểu tượng còn mang tính khái quát, tính phản ánh chung của hàng loạt đối tượng cùng loại. Ở biểu tượng đã khái quát được cái chung, nét độc đáo của đối tượng, song những cái đó chỉ là cái khái quát bề ngoài, nó khác cái khái quát bản chất. Tóm lại: Trong biểu tượng có sự sáp nhập tính trực quan của hình tượng với tính khái quát của khái niệm. Nó giống hình ảnh của cảm giác, tri giác ở tính trực quan nhưng nó cao hơn ở tính khái quát. 5.1.2. Các quan điểm tâm lý học về sự hình thành trí nhớ Trên bình diện tâm lý học có nhiều quan điểm khác nhau về sự hình thành trí nhớ: Quan điểm của thuyết liên tưởng; Quan điểm tâm lý học Ghestan; Quan điểm tâm lý học hiện đại. a. Quan điểm của thuyết liên tưởng về trí nhớ: Thuyết liên tưởng coi sự liên tưởng là nguyên tắc quan trọng nhất của sự hình thành trí nhớ (và của sự hình thành tất cả các hiện tượng tâm lý khác). “Khi chúng ta ghi nhớ là lúc chúng ta thành lập mối liên tưởng, còn khi nhận lại và nhớ lại là khi chúng ta khôi phục lại những mối liên tưởng đã có.” Theo quan điểm này sự xuất hiện của một hình ảnh tâm lý trong vỏ não bao giờ cũng diễn ra đồng thời hoặc kế tiếp trong thời gian với một hiện tượng tâm lý khác theo quy luật liên tưởng. Có 4 loại liên tưởng chủ yếu: 50
- + Liên tưởng gần nhau về không gian - thời gian. Bản thân sự vật, hiện tượng nằm trong không gian là nằm trong mối liên hệ giữa cái này với cái khác, mối liên tưởng này xuất hiện khi các đối tượng và hiện tượng có sự gần nhau về không gian, thời gian. Do vậy khi nhớ tới sự vật này dẫn đến nhớ sự vật khác. Nguyên nhân: Là do sự trùng lặp của nhiều kích thích giống nhau tác động lên ta để lại cho ta mối liên tưởng với nhau giữa các kích thích, về sau khi ta gặp một kích thích nào đó ta có khả năng làm sống lại những kích thích có liên quan. + Liên tưởng giống nhau: (về nội dung và hình thức). Khi đối tượng và hiện tượng này có những đặc điểm giống những đối tượng khác về nội dung và hình thức, sẽ làm ta nhớ sự vật hiện tượng này dẫn đến nhớ sự vật hiện tượng khác. Nguyên nhân: Là do kích thích giống nhau dẫn tới hưng phấn như nhau ở một số vùng trên não, và do ức chế phân biệt không đủ mạnh làm cho ta thấy vật này giống vật kia. Vì vậy khi gặp sự vật, hiện tượng này ta nhớ tới sự vật, hiện tượng kia giống với nó. + Liên tưởng trái ngược. Liên tưởng này xuất hiện khi hai đối tượng có những điểm trái ngược nhau. Nguyên nhân: Là do hoạt động của quy luật cảm ứng nối tiếp. + Liên tưởng nhân quả. Liên tưởng này xuất hiện khi sự vật, hiện tượng này là nguyên nhân, hay kết quả của sự vật, hiện tượng kia. Nguyên nhân: Là do phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa nguyên nhân và kết quả của bản thân thế giới. Tóm lại: Bốn loại liên tưởng trên gắn bó, bổ xung cho nhau giúp cho trí nhớ diễn ra thuận lợi và trở thành đa dạng dễ dàng hơn. Những liên tưởng này không có sẵn mà do hoạt động của con người tạo nên. Chúng ta công nhận liên tưởng có vai trò rất quan trọng trong trí nhớ và là một cơ chế của trí nhớ. 51
- Song bản thân nó có hạn chế khá cơ bản: Nó chỉ dựa vào mối liên hệ bên ngoài là chủ yếu, do vậy chất lượng trí nhớ không cao. Chỉ dựa vào mối liên hệ bên ngoài, nên đúng nhưng chưa đủ bởi nó còn phụ thuộc vào vai trò hoạt động của chủ thể như nhu cầu, hứng thú Bằng những cơ chế liên tưởng thì sẽ không giải thích được hiện tượng sực nhớ hay hiện tượng quên, không thể giải thích được tại sao quên ? (quên ở đây không phải là mất mối liên tưởng) Như vậy, thuyết liên tưởng mới chỉ nhìn thấy và mô tả các sự kiện chứ chưa lý giải được chúng một cách khoa học. b. Tâm lý học Ghestal về trí nhớ: Theo quan điểm của tâm lý học Ghestal thì mỗi đối tượng có một cấu trúc thống nhất các yếu tố cấu thành (chứ không phải là tổng số những bộ phận riêng lẻ như quan niệm của thuyết liên tưởng). Cấu trúc này là cơ sở để tạo nên trong bán cầu đại não một cấu trúc tương tự của những dấu vết, do đó trí nhớ được hình thành. Tâm lý học Ghestal coi nguyên tắc tính trọn vẹn của những hình ảnh như là một quy luật (gọi là quy luật Ghestal). Sai lầm của tâm lý học Ghestal là đã tách tính trọn vẹn của hình ảnh ra khỏi hoạt động của con người. c. Tâm lý học hiện đại về trí nhớ: Tâm lý học hiện đại coi hoạt động của cá nhân quyết định sự hình thành trí nhớ (và cả mọi quá trình tâm lý khác). Theo quan điểm này thì sự ghi lại, giữ gìn và tái hiện được quy định bởi vị trí của tài liệu đối với hoạt động của cá nhân; những quá trình đó có hiệu quả nhất khi tài liệu trở thành mục đích của hành động. Như vậy, sự hình thành những mối quan hệ giữa những biểu tượng riêng lẻ không quy định bởi bản thân tính chất của tài liệu cần được ghi nhớ, mà trước hết phụ thuộc vào chỗ cá nhân làm gì với tài liệu ấy. 5.1.3. Cơ sở sinh lý của trí nhớ Nền tảng lý luận sinh học của trí nhớ là những quy luật hoạt động thần kinh cao cấp được I.P. Páp Lốp phát hiện, cụ thể là lý luận về sự hình thành 52
- những đường liên hệ thần kinh tạm thời được coi như lý luận về cơ chế hình thành trí nhớ cá nhân. Phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lý của sự ghi nhớ. Sự củng cố, bảo vệ đường liên hệ thần kinh tạm thời được thành lập là cơ sở sinh lý của sự giữ gìn và tái hiện. Tất cả những quá trình này gắn chặt và phụ thuộc vào mục đích của hành động. Thuộc vào lý thuyết sinh học của trí nhớ còn có quan điểm vật lý. Coi những kích thích để lại những dấu vết mang tính chất vật lý (như những thay đổi về điện và về cơ trên các Xináp - tức là nơi nối liền giữa hai tế bào thần kinh), do đó sự diễn biến có tính chất lặp lại của kích thích được thực hiện dễ dàng trên con đường đã vạch ra. Những cơ chế của sự giữ gìn tài liệu trong trí nhớ ngày nay được nghiên cứu sâu hơn, trước hết trong những thay đổi phân tử ở các nơron (tế bào thần kinh). Người ta thấy rằng những kích thích xuất phát từ những nơron hoặc được dẫn vào những nhánh của nơron hoặc quay trở lại thân nơron. Bằng cách đó những nơron này thu thêm năng lượng. Một số nhà khoa học coi đây là cơ chế sinh lý của sự tích luỹ những dấu vết và là bước trung gian từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn 5.1.4. Vai trò của trí nhớ Trí nhớ có vai trò rất quan trọng trong dời sống và hoạt động của con người. + Thông qua trí nhớ được giữ gìn mà ta có khả năng tiếp thu, tích lũy toàn bộ vốn kinh nghiệm xã hội - lịch sử do loài người xây dựng nên nhờ đó mà có hoạt động và nhân cách được hình thành. Vì vậy I.M. Xêtrênốp đã viết: “Nếu không có trí nhớ thì con người mãi mãi ở tình trạng của một đứa trẻ sơ sinh”. + Nhờ có việc nhận lại và nhớ lại mà ta đem vốn kinh nghiệm của lịch sử, vốn tri thức đã tích lũy được vận dụng vào cuộc sống. “Mọi hoạt động của trí tuệ đều bắt nguồn từ trí nhớ” “Trí nhớ làm cơ sở cho sự phát minh và sáng tạo” Theo V.I. Lê Nin: “Người ta chỉ trở thành người cộng sản chân chính sau khi làm giàu trí nhớ của mình bằng toàn bộ kho tàng tri thức có từ lâu của nhân loại”. V.I. Lê Nin toàn tập, tập 41 trang 305) 53
- Ở những người bị hỏng trí nhớ, cuộc sống hàng ngày của họ bị rối loạn, không bình thường, họ không nhớ tên, tuổi của bản thân mình, không biết mình đang ở đâu, đang làm gì Từ đó không có kinh nghiệm, dẫn đến cuộc sống con người bị rối loạn, con người không còn là một nhân cách nữa. Vậy nhờ có trí nhớ ta có khả năng thích nghi với môi trường, từ đó cải tạo cuộc sống. + Trí nhớ liên quan chặt chẽ với toàn bộ đời sống tâm lý của con người. Trí nhớ lưu giữ các kết quả của các quá trình nhận thức. Trí nhớ lưu giữ những dấu vết xúc cảm, tình cảm và chúng sẽ được xuất hiện lại khi cần thiết. + Không có trí nhớ con người sẽ không có quá khứ, không có tương lai mà chỉ có hiện tại. Tóm lại: Không có trí nhớ sẽ không học tập được, không tư duy được, không có hiểu biết, không có khả năng tự ý thức, không tích lũy được kinh nghiệm, không có bất kỳ hoạt động nào và không có nhân cách. 5.2. Các quá trình trí nhớ Trí nhớ là một hoạt động tâm lý phức tạp có nhiều khâu, nhiều quá trình, nhiều hành động đó là các quá trình: ghi nhớ (tạo vết), giữ gìn (củng cố vết), tái hiện (làm sống lại vết) và quá trình quên (không làm sống lại được vết). 5.2.1. Sự ghi nhớ Là một quá trình trí nhớ đưa tài liệu nào đó vào ý thức, gắn tài liệu đó với những kiến thức hiện có; làm cơ sở cho quá trình giữ gìn về sau đó. Hay nói khác: Ghi nhớ là quá trình hình thành dấu vết, ấn tượng của tài liệu cần ghi nhớ trên vỏ não, đồng thời cũng là quá trình hình thành mối liên hệ giữa những tài liệu mới với tài liệu cũ đã có, cũng như mối liên hệ giữa các bộ phận của bản thân tài liệu mới với nhau. Vậy ghi nhớ là một hành động trong hoạt động trí nhớ. Sự ghi nhớ được quyết định bởi hành động, nói cách khác động cơ, mục đích và phương tiện đạt mục đích đó quy định chất lượng của sự ghi nhớ. Những kết quả nghiên cứu mối quan hệ của ghi nhớ với hoạt động đã khẳng định rằng sự ghi nhớ một tài liệu nào đó là kết quả của hành động với tài liệu 54
- đó, đồng thời nó là điều kiện, phương tiện để thực hiện những hành động tiếp theo của hoạt động. Ghi nhớ rất cần thiết để tiếp thu, tích lũy kinh nghiệm. Căn cứ vào tính tự giác, sự ghi nhớ thường diễn ra theo hai hướng: Ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định. a. Ghi nhớ không chủ định Là loại ghi nhớ không có mục đích đặt ra từ trước, không đòi hỏi có sự nỗ lực ý chí. Loại ghi nhớ này được thực hiện trong những trường hợp nội dung của tài liệu trở thành mục đích chính của hành động, hoặc hành động lặp đi lặp lại nhiều lần và khi nội dung tài liệu tạo khả năng tập trung chú ý, tạo xúc cảm mạnh. Ghi nhớ không chủ định có ý nghĩa to lớn trong đời sống, nó mở rộng và làm phong phú vốn kinh nghiệm sống mà không đòi hỏi sự nỗ lực đặc biệt nào. b. Ghi nhớ có chủ định Là loại ghi nhớ có mục đích tự giác, đòi hỏi sự nỗ lực ý chí nhất định, đồng thời có tìm kiếm những biện pháp mang tính chất kỹ thuật để đạt mục đích ghi nhớ. Kết quả của sự ghi nhớ này phụ thuộc vào động cơ, mục đích ghi nhớ, vào việc sử dụng các biện pháp ghi nhớ và ý chí, nghị lực của người ghi nhớ. Có hai cách ghi nhớ có chủ định: là ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa. * Ghi nhớ máy móc: Là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi, lặp lại tài liệu nhiều lần một cách giản đơn, tự tạo ra các mối liên hệ bề ngoài giữa các phần của tài liệu mà không hiểu nội dung của nó. Thường tìm mọi cách đưa vào trí nhớ tất cả những gì có trong tài liệu một cách chính xác và chi tiết. Học theo cách ghi nhớ này gọi là “học vẹt”. Ghi nhớ máy móc xảy ra trong những trường hợp sau: + Không thể hiểu hoặc lười hiểu theo ý nghĩa của tài liệu. + Các phần của tài liệu rời rạc không quan hệ lôgic nhau. 55
- + Giáo viên thường xuyên yêu cầu trả lời đúng từng câu, từng chữ trong sách giáo khoa. Song nó có tác dụng trong những trường hợp phải ghi nhớ những tài liệu không có nội dung khái quát. Ví dụ: Số điện thoại, số tài khoản, ngày tháng năm sinh * Ghi nhớ ý nghĩa (còn gọi là ghi nhớ lôgic). Là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung tài liệu, nắm được bản chất của nó trên sự nhận thức được những mối liên hệ lôgic giữa các bộ phận của tài liệu đó. - Loại ghi nhớ này gắn liền quá trình tư duy. - Hình thức điển hình là ghi nhớ theo điểm tựa. - Là loại ghi nhớ chủ yếu giúp học sinh lĩnh hội tri thức một cách sâu sắc, bền vững và nếu quên thì dễ nhớ. - Tốn ít thời gian nhưng tiêu hao năng lượng thần kinh hơn. - Giúp hiểu nội dung tài liệu, gắn nó vào vốn tri thức kinh nghiệm đã có. Trong quá trình học tập đôi khi ghi nhớ máy móc cũng cần thiết, song ghi nhớ ý nghĩa là quan trọng hơn cả. Vì vậy, để ghi nhớ ý nghĩa mang lại hiệu quả cần thực hiện các biện pháp sau: - Biện pháp quan trọng của ghi nhớ lôgic trong học tập của học sinh là lập dàn bài cho tài liệu học tập, tức là phát hiện ra những đơn vị lôgic cấu tạo nên tài liệu đó. Muốn vậy cần phải làm những việc sau: + Phân chia tài liệu thành từng đoạn. + Đặt cho mỗi đoạn một tên phù hợp với nội dung của nó. + Nối liền các đoạn thành một tổng thể phức tạp bằng một tên gọi thích hợp nhất. - Những biện pháp quan trọng khác để tiến hành ghi nhớ lôgic là: Phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại và hệ thống hóa tài liệu. Học sinh cần sử dụng thành thạo những biện pháp này. - Biện pháp tái hiện tài liệu dưới hình thức nói thầm (nói cho mình) cũng quan trọng để ghi nhớ lôgic. Biện pháp này được dùng sau khi đã làm 56
- những việc ở trên, nên nói thầm 2 - 3 lần và ghi chép những điều tái hiện được dưới hình thức này ra giấy. Bằng cách này sự ghi nhớ diễn ra nhanh hơn, đồng thời còn có thể tự kiểm tra được nội dung ghi nhớ. Khi dùng biện pháp này có thể tiến hành theo các trình tự sau: + Cố gắng tái hiện toàn bộ tài liệu một lần. + Tiếp đó tái hiện từng phần, đặc biệt những phần khó. + Lại tái hiện toàn bộ tài liệu. - Ôn tập cũng là một biện pháp quan trọng để ghi nhớ một cách vững chắc và lâu dài. Cách ôn tập tốt nhất là gắn tài liệu ghi nhớ vào hoạt động thích hợp để có thể phát hiện ra bản chất của tài liệu dưới những hình thức và vật liệu khác, tức là cần luyện tập tài liệu đã ghi nhớ. Trong học tập học sinh cần sử dụng hiệu quả tất cả các biện pháp ghi nhớ trên. 5.2.2. Sự gìn giữ Là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã hình thành được trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Có hai hình thức gìn giữ: - Gìn giữ tiêu cực: là gìn giữ được dựa trên sự tri giác đi, tri giác lại nhiều lần đối với tài liệu một cách đơn giản. - Gìn giữ tích cực: được thực hiện bằng cách nhớ lại (tái hiện) trong óc tài liệu đã ghi nhớ mà không phải tri giác lại tài liệu đó. Trong hoạt động học tập của học sinh, quá trình gìn giữ được gọi là ôn tập. Kinh nghiệm “đi truy, về trao” của học sinh là cách ôn tập tích cực. 5.2.3. Sự tái hiện Là một quá trình trí nhớ làm sống lại những nội dung đã ghi lại trên đây. Quá trình này có thể diễn ra dễ dàng (như tự động) hoặc khó khăn (phải nỗ lực nhiều). Thường phân làm 3 loại: a. Nhận lại Là hình thức tái hiện khi sự tri giác đối tượng được lặp lại. 57
- Nhận lại được diễn ra là do cái được tri giác trong lúc này giống cái đã tri giác trước đây. Khi tri giác lại cái đã tri giác trước đây, ở ta sẽ xuất hiện một cảm giác “quen thuộc” đặc biệt. Chính cảm giác này là cơ sở của sự nhận lại. Sự nhận lại cũng có thể không đầy đủ và do đó không xác định. Có thể nhận lại sai: khi đối tượng thay đổi quá nhiều, khi vốn hiểu biết của ta về đối tượng quá ít hoặc thiếu chính xác. Vì vậy không nên căn cứ vào nhận lại để đánh giá trí nhớ. Song nhận lại có ý nghĩa quan trong đời sống mỗi người. Nó giúp con người định hướng trong hiện thực tốt hơn và đúng hơn. b. Nhớ lại Là hình thức tái hiện không diễn ra sự tri giác lại đối tượng. Đây là giai đoạn quan trọng nhất, nó đánh giá chất lượng của trí nhớ vì nó giúp ta vận dụng được những kinh nghiệm đã tích lũy vào cuộc sống. Có nhiều mức độ nhớ lại: Có nhớ lại trực tiếp và nhớ lại gián tiếp. Nhớ lại (nhận lại) đều có thể không chủ định hoặc có chủ định. + Nhớ lại không chủ định gọi là sực nhớ. + Nhớ lại có chủ định gọi là sự hồi tưởng. c. Hồi tưởng Là hình thức tái hiện phải có sự cố gắng rất nhiều của trí tuệ. Đây là sự nhớ lại có mục đích, có kế hoạch, có ý thức đòi hỏi phải có sự chọn lọc, cải biên, chế biến và có sự sắp xếp lại, phải khắc phục khó khăn, nỗ lực ý chí. Hồi tưởng là đứng ở một mức độ nhất định để nhìn lại quá khứ. Vì vậy có sự tham gia của kinh nghiệm. Hồi tưởng chỉ có ở con người vì trong hồi tưởng có sự thạm gia của ngôn ngữ, tư duy, tưởng tượng. Do vậy, đây là hành động trí tuệ phức tạp mà kết quả của nó phụ thuộc vào chỗ cá nhân ý thức rõ ràng, chính xác đến mức độ nào đó nội dung của nhiệm vụ tái hiện. Trong hồi tưởng những ấn tượng trước đây không được tái hiện máy móc, mà thường được sắp xếp khác đi, gắn với những sự kiện mới. 58
- Ngoài ra: Khi sự nhớ lại các hình ảnh cũ được khu trú trong không gian và thời gian thì gọi là hồi ức. Trong hồi ức chúng ta không chỉ nhớ lại các đối tượng đã qua mà còn đặt chúng vào một thời gian và địa điểm nhất định. 5.2.4. Sự quên Không phải dấu vết, ấn tượng nào trong não chúng ta cũng được giữ gìn và làm sống lại một cách như nhau. Vì thế trong trí nhớ có hiện tượng quên. Quên là không tái hiện lại được nội dung đã ghi nhớ trước đây vào thời điểm cần thiết. Song không có quên hoàn toàn tuyệt đối. Vì dù ta không bao giờ nhận lại và nhớ lại được một điều gì đó đã gặp trước đây, thì nó vẫn để lại dấu vết trên não, chỉ có điều không làm cho chúng sống lại khi cần thiết mà thôi. Có những điều, trong thời gian dài không thể nhớ được nhưng một lúc nào đó đột nhiên nhớ lại được - đó là hiện tượng “sực nhớ ”. * Sự quên có nhiều mức độ: - Quên hoàn toàn: Không nhớ lại cũng không nhận lại được. - Quên cục bộ: Không nhớ lại được nhưng nhận lại được. * Quên có nhiều nguyên nhân: - Có thể do quá trình ghi nhớ. - Có thể do quy luật ức chế của hoạt động thần kinh trong quá trình ghi nhớ. - Do không gắn được tài liệu vào cuộc sống hàng ngày. - Do tài liệu ít có ý nghĩa thực tiễn đối với cá nhân. * Sự quên diễn ra theo các quy luật sau: - Người ta thường quên những cái gì không hoặc ít liên quan đến đời sống, những cái gì không sử dụng thường xuyên trong hoạt động hàng ngày, những cái gì không phù hợp với nhu cầu, hứng thú, sở thích của cá nhân. - Người ta hay quên khi gặp kích thích mới lạ hay kích thích mạnh. - Sự quên diễn ra theo một trình tự xác định, quên cái tiểu tiết, vụn vặt trước; quên cái chính yếu, đại thể sau. - Sự quên diễn ra với tốc độ không đồng đều, ở giai đoạn đầu tốc độ quên khá lớn về sau tốc độ quên giảm dần (quy luật E bingao). 59
- * Một số biện pháp đối với dạy học để hạn chế và chống lại sự quên: - Cần phải gắn tài liệu cần ghi nhớ vào tài liệu học tập của học sinh và làm cho nội dung đó trở thành mục đích của hành động, hình thành nhu cầu, hứng thú của học sinh đối với tài liệu đó. - Phải tổ chức hoạt động dạy học một cách khoa học như: Cho học sinh giải lao khi chuyển từ tài liệu này sang tài liệu khác, không nên dạy học kế tiếp nhau hai bộ môn có nội dung tương tự. - Cần tổ chức cho học sinh ôn tập, tái hiện tài liệu và làm bài tập ứng dụng ngay sau khi ghi nhớ tài liệu. - Cần hướng dẫn học sinh huy động phối hợp nhiều giác quan trong quá trình ôn tập như: Mắt nhìn, miệng đọc, tay ghi Tóm lại: Mỗi quá trình (mỗi khâu) của trí nhớ thực hiện một chức năng riêng, hướng vào mục đích riêng nhưng không đối lập nhau mà nằm trong mối liên hệ thống nhất, quan hệ chặt chẽ bổ xung cho nhau làm cho trí nhớ trở thành một hoạt động hoàn chỉnh. (Cụ thể: ghi nhớ, giữ gìn tốt thì tái hiện tốt, khi tái hiện cũng chính là để giữ gìn, muốn tái hiện tài liệu nào đó cho hành động thì phải có khả năng quên đi những tài liệu khác ). Cho nên khi đánh giá một trí nhớ của một người không nên chỉ dừng ở chỗ ghi nhớ như thế nào? nhiều, nhanh, chính xác mà chủ yếu là xem anh ta nhớ lại cái gì ? và nhớ lại như thế nào ? 5.3. Các loại trí nhớ Trí nhớ được hình thành bằng hoạt động và do hoạt động quyết định. Hoạt động rất phong phú và do vậy trí nhớ có nhiều dạng, nhiều loại. 5.3.1. Căn cứ vào nội dung phản ánh trong trí nhớ, có thể phân chia trí nhớ thành các loại sau a. Trí nhớ vận động Là loại trí nhớ phản ánh những cử động và những hệ cử động mà ta đã tiến hành trước đây. Loại trí nhớ này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành những kỹ xảo thực hành và lao động chân tay như đi đứng, viết lách “sự 60
- khéo chân khéo tay”, “những bàn tay vàng” là dấu hiệu của một trí nhớ vận động tốt. b. Trí nhớ cảm xúc Là loại trí nhớ phản ánh những rung cảm, những trải nghiệm đã qua của con người. Trí nhớ cảm xúc giúp con người nhận được những giá trị thẩm mỹ trong hành vi, cử chỉ, lời nói và trong nghệ thuật. Ví dụ: Khả năng đồng cảm với người khác, với các nhân vật trong sách được dựa trên cơ sở của trí nhớ cảm xúc. c. Trí nhớ hình ảnh Là loại trí nhớ phản ánh những biểu tượng thị giác, thính giác, khứu giác của các sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây. Hay nói khác là trí nhớ đối với một ấn tượng mạnh thuộc về một cơ quan cảm giác. Ví dụ: Nhớ đến một phong cảnh đẹp, một giai điệu hay Nó đặc biệt phát triển ở những người làm nghề nghiệp nghệ thuật (cần cho người nghệ sỹ). d. Trí nhớ từ ngữ - lôgic Là loại trí nhớ phản ánh những ý nghĩ, tư tưởng đã qua của con người. ý nghĩ, tư tưởng không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ được. Vì vậy người ta gọi loại trí nhớ nhớ này là trí nhớ từ ngữ - lôgic. Trí nhớ này chỉ có ở người, là loại trí nhớ chủ đạo đóng vai trò chính trong sự lĩnh hội tri thức của học sinh trong quá trình dạy học. 5.3.2. Căn cứ vào tính mục đích của trí nhớ, có thể phân chia trí nhớ thành 2 loại a. Trí nhớ không chủ định Là loại trí nhớ mà trong đó việc ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện một tài liệu nào đó được thực hiện không theo mục đích định trước. b. Trí nhớ có chủ định 61
- Là trí nhớ có mục đích khi ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện một tài liệu nào đó. Ở đây con người thường dùng các biện pháp kỹ thuật để ghi nhớ. 5.3.3. Căn cứ vào thời gian củng cố và giữ gìn tài liệu, có thể phân chia trí nhớ thành 3 loại sau a. Trí nhớ ngắn hạn. (còn gọi là trí nhớ tức thời) Là trí nhớ mà biểu tượng của nó chỉ lưu lại trong não với khoảng thời gian rất ngắn, ngay sau giai đoạn vừa ghi nhớ. Lúc đó người ta thường nói “tôi còn đang nhìn thấy nó trước mắt tôi” hay “nó còn đang vang lên trong tai tôi” (như là đang tri giác chúng). Quá trình này còn chưa ổn định nhưng có ý nghĩa lớn trong tiếp thu kinh nghiệm. Đây là một sự đặc biệt của sự ghi nhớ, của tích luỹ, tái hiện thông tin và là cơ sở của trí nhớ dài hạn. b. Trí nhớ dài hạn Là loại trí nhớ mà những biểu tượng của sự vật, hiện tượng được lưu giữ lâu dài trong trí óc. Trí nhớ dài hạn có vai trò quan trọng trong tích lũy tri thức. c. Trí nhớ thao tác Trí nhớ ngắn hạn đôi khi gọi là trí nhớ thao tác. Vì trí nhớ ngắn hạn được con người sử dụng trong trường hợp phải thực hiện những hành động, những thao tác cấp bách, nhất thời. Sau khi hành động hay thao tác được thực hiện thì trí nhớ trở nên không cần thiết nữa. Ví dụ: Trí nhớ của phi công trong sử dụng máy bay. Song trong tâm lý học, phân biệt trí nhớ thao tác như sau: - Về thời gian: Sau giai đoạn trí nhớ ngắn, trước trí nhớ dài. - Về mặt bản chất: Là trí nhớ làm việc. 5.3.4. Căn cứ vào phương thức nhớ, có thể chia 2 loại sau a. Trí nhớ trực tiếp Là nhớ những tài liệu cụ thể một cách trực tiếp không thông qua các ký tín hiệu và ngôn ngữ. b. Trí nhớ gián tiếp Là loại trí nhớ đặc trưng ở người, thông qua ngôn ngữ, ký tín hiệu 62
- 5.4. Sự khác biệt cá nhân về trí nhớ Khi nói đến trí nhớ là trí nhớ của một con người cụ thể chịu sự chi phối bởi nhân cách, hứng thú, nguyện vọng, ước mơ của con người. Trí nhớ phụ thuộc vào đặc điểm của kiểu hoạt động thần kinh cao cấp, điều kiện sống, giáo dục và hoạt động Do vậy có sự khác biệt cá nhân về trí nhớ, như sau: 5.4.1. Sự khác biệt cá nhân trong các quá trình trí nhớ Sự khác biệt cá nhân về trí nhớ thể hiện: - Ở đặc điểm của các quá trình trí nhớ như: tốc độ, độ chính xác, độ bền vững của sự ghi nhớ và tái hiện tài liệu. - Ở đặc điểm của nội dung trí nhớ, tức là con người ghi nhớ như thế nào và tái hiện được những gì? Chính sự thay đổi của các đặc điểm này tạo nên chất lượng trí nhớ của mỗi người. Sự khác biệt cá nhân về trí nhớ nêu trên có liên quan đến các đặc điểm của kiểu hoạt động thần kinh cấp cao (đặc biệt là các đặc điểm về cường độ và tính linh hoạt của các quá trình hưng phấn và ức chế), điều kiện sống và giáo dục, cách thức ghi nhớ tài liệu, tính hệ thống trong việc tiếp thu và củng cố tri thức của mỗi người. 5.4.2. Sự khác biệt cá nhân ở kiểu trí nhớ Sự khác biệt cá nhân vê trí nhớ còn được thể hiện ở kiểu trí nhớ. Tùy thuộc vào tính chất của tài liệu ghi nhớ, các cá nhân thường có các kiểu trí nhớ khác nhau. Có thể kể đến 3 kiểu trí nhớ cơ bản sau: + Kiểu trí nhớ trực quan - hình ảnh: dễ ghi nhớ tài liệu giàu hình ảnh như tranh ảnh, hình vẽ + Kiểu trí nhớ từ ngữ - trừu tượng: dễ ghi nhớ tài liệu ngôn ngữ như khái niệm, tư tưởng, quan hệ + Kiểu trí nhớ trung gian giữa hai kiểu nêu trên. Các kiểu trí nhớ trên phụ thuộc vào mối quan hệ qua lại giữa hai hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai của hoạt động thần kinh cấp cao của con người. Việc cá nhân thiên về kiểu trí nhớ nào là do điều kiện sống và hoạt động quyết định. 63
- Thông thường: Trí nhớ trực quan - hình ảnh: có ở họa sỹ. Trí nhớ từ ngữ - trừu tượng: có ở nhà bác học, nhà lý thuyết. Trí nhớ trung gian: thường có chung ở mọi người. Từ đó cho thấy, trong dạy học và giáo dục: - Cần chú ý sự khác biệt cá nhân về trí nhớ. - Cần phát triển tất cả các kiểu loại trí nhớ cho học sinh. - Cần chuẩn bị tài liệu học tập thật đa dạng, phù hợp kiểu trí nhớ. TÀI LIỆU HỌC TẬP [1]. Bùi Văn Huệ, Giáo trình tâm lý học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [2]. Hội đồng bộ môn tâm lý - giáo dục học, Đề cương bài giảng tâm lý học đại cương, tài liệu dùng trong các trường Đại học sư phạm, Hà Nội 1975. [3]. Nguyễn Xuân Thức (chủ biên) Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại học sư phạm. [4]. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) Tâm lý học đại cương, dùng cho các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm, Hà Nội 1995. [5]. Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Tâm lý học đại cương, giáo trình đào tạo giáo viên THCS có trình độ cao đẳng sư phạm, Hà Nội 2003. [6]. GS Phạm Tất Dong, PGS. PTS. Nguyễn Hải Khoát, PGS. PTS. Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lý học đại cương, Bộ GDĐT, Viện Đại học mở Hà Nội, Hà Nội 1995. [7]. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Tâm lý học, Tập 1, Sách dùng cho các trường ĐHSP, NXB Giáo dục 1988. [8]. Trần Trọng Thủy (chủ biên), Bài tập thực hành Tâm lý học, NXB GD 1990. 64
- PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ Kiểm tra 45 phút kiến thức thuộc chương 4 và 5 HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 1. Nội dung tri thức 1.Trí nhớ là gì? 2.Trình bày vai trò của trí nhớ. 3.Trình bày các quá trình trí nhớ. 4.Trí nhớ được chia ra thành những loại nào? 2. Bài tập thực hành Các bài tập từ 139 - 171 (trang 116 - 136) Bài tập thực hành Tâm lý học - Trần Trọng Thuỷ chủ biên - NXBGD 1990 3. Câu hỏi thảo luận Các quá trình trí nhớ. 65
- MỤC LỤC HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC 1 Chương 1: CẢM GIÁC 3 1.1. Khái niệm chung về cảm giác 3 1.1.1. Định nghĩa cảm giác 3 1.1.2. Đặc điểm của cảm giác 3 1.1.3. Bản chất xã hội của cảm giác 4 1.1.4. Cơ sở sinh lý của cảm giác 4 1.1.5. Vai trò của cảm giác 5 1.2. Phân loại cảm giác 6 1.2.1. Những cảm giác bên ngoài 6 1.2.2. Những cảm giác bên trong 7 1.3. Các quy luật cơ bản của cảm giác 9 1.3.1 Quy luật ngưỡng cảm giác 9 1.3.2. Quy luật thích ứng của cảm giác 10 1.3.3. Quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác 11 TÀI LIỆU HỌC TẬP 12 TRANG THIẾT BỊ PHỤC VỤ GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP 13 HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 13 Chương 2: TRI GIÁC 14 2.1. Khái niệm chung về tri giác 14 2.1.1. Định nghĩa tri giác 14 2.1.2. Đặc điểm của tri giác 14 2.1.3. Cơ sở sinh lý của tri giác 15 2.1.4 Vai trò của tri giác 16 2.2. Phân loại tri giác 16 2.2.1. Tri giác không gian 17 2.2.2. Tri giác thời gian 17 2.2.3. Tri giác vận động 18 2.2.4. Tri giác con người 18 66
- 2.3. Quan sát và năng lực quan sát 18 2.3.1. Quan sát 18 2.3.2. Năng lực quan sát 18 2.4. Các quy luật cơ bản của tri giác 19 2.4.1. Quy luật về tính đối tượng của tri giác 19 2.4.2. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác 20 2.4.3. Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác 20 2.4.4. Quy luật về tính ổn định của tri giác 21 2.4.5. Quy luật tổng giác 21 2.4.6. Quy luật ảo giác 22 TÀI LIỆU HỌC TẬP 22 TRANG THIẾT BỊ PHỤC VỤ GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP 23 PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ 23 HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 23 Chương 3: TƯ DUY 24 3.1. Khái niệm chung về tư duy 24 3.1.1. Tư duy là gì ? 24 3.1.2. Bản chất xã hội của tư duy 26 3.1.3. Đặc điểm của tư duy 27 3.1.4. Sản phẩm của tư duy 32 3.1.5. Vai trò của tư duy 33 3.2. Các giai đoạn của tư duy 34 3.2.1. Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề 34 3.2.2. Huy động các tri thức kinh nghiệm 34 3.2.3. Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết 35 3.2.4. Kiểm tra giả thuyết 35 3.2.5. Giải quyết vấn đề 35 3.3. Các thao tác tư duy 36 3.3.1. Phân tích - tổng hợp 36 3.3.2. So sánh 36 67
- 3.3.3. Trừu tượng hóa và khái quát hóa 37 3.4. Các loại tư duy 38 TÀI LIỆU HỌC TẬP 40 PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ 40 HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 40 Chương 4: TƯỞNG TƯỢNG 41 4.1. Khái niệm chung về tưởng tượng. 41 4.1.1. Tưởng tượng là gì 41 4.1.2. Đặc điểm của tưởng tượng 42 4.1.3. Vai trò của tưởng tượng 43 4.2. Các loại tưởng tượng 44 4.2.1. Tưởng tượng tích cực và tưởng tượng tiêu cực 44 4.2.2. Ước mơ và lý tưởng 45 4.3. Các cách sáng tạo mới trong tưởng tượng 46 4.3.1. Thay đổi kích thước, độ lớn, số lượng 46 4.3.2. Nhấn mạnh 46 4.3.3. Chắp ghép (kết dính) 46 4.3.4. Liên hợp 46 4.3.5. Điển hình hóa 47 4.3.6. Loại suy (tương tự) 47 TÀI LIỆU HỌC TẬP 48 TRANG THIẾT BỊ PHỤC VỤ GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP 48 HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 48 Chương 5: TRÍ NHỚ 49 5.1. Khái niệm chung về trí nhớ 49 5.1.1. Trí nhớ là gì ? 49 5.1.2. Các quan điểm tâm lý học về sự hình thành trí nhớ 50 5.1.3. Cơ sở sinh lý của trí nhớ 52 5.1.4. Vai trò của trí nhớ 53 5.2. Các quá trình trí nhớ 54 68
- 5.2.1. Sự ghi nhớ 54 5.2.2. Sự gìn giữ 57 5.2.3. Sự tái hiện 57 5.2.4. Sự quên 59 5.3. Các loại trí nhớ 60 5.4. Sự khác biệt cá nhân về trí nhớ 63 5.4.1. Sự khác biệt cá nhân trong các quá trình trí nhớ 63 5.4.2. Sự khác biệt cá nhân ở kiểu trí nhớ 63 TÀI LIỆU HỌC TẬP 64 PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ 65 HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 65 69



