Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Phần 2)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
giao_trinh_phuong_phap_luan_nghien_cuu_khoa_hoc_phan_2.pdf
Nội dung text: Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Phần 2)
- Chương III TIẾP CẬN VÀ SÁNG TẠO KHOA HỌC I. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỚI TƯ CÁCH LÀ THẾ GIỚI KHÁCH QUAN Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người cả những hiểu biết về phương pháp nhận thức thế giới, ngày nay cùng với bản thân khoa học người ta chú ý tới phương pháp nhận thức khoa học. Nghiên cứu khoa học là hoạt động tìm tòi khám phá bản chất và các quy luật vận động của thế giới, quá trình này được tổ chức hết sức chặt chẽ, luôn phải chọn lọc và sử dụng các phương pháp nghiên cứu. Phương pháp gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Phương pháp là phạm trù phức tạp, có phạm vi bao quát rộng, với nhiều cấp độ và rất phong phú về nội dung và chủng loại. Phương pháp nghiên cứu khoa học có ba đặc trưng quan trọng: + Một là: Phương pháp luôn gắn với những tư tưởng cơ bản, có tính nguyên tắc, định hướng chỉ đạo hoạt động, đó chính là các quan điểm tiếp cận đối tượng, là thế giới quan của nhà nghiên cứu. + Hai là: Phương pháp là một hệ thống các phương thức hoạt động, bao gồm thủ pháp, các thao tác hoạt động có tính kỹ thuật. Đó là các phương pháp cụ thể. + Ba là: Phương pháp là hệ thống các quy trình hoạt động, là trình tự các bước đi, bao gồm logíc tiến trình và lôgíc nội dung của hoạt động. Phương pháp có tính quy trình. Như vậy, phương pháp nghiên cứu khoa học có liên quan tới ba vấn đề quan trọng. Phương pháp luận, phương pháp cụ thể và lôgíc tiến hành các công trình khoa học. Trong nghiên cứu khoa học phương pháp và phương pháp luận là hai khái niệm gần nhau nhưng không đồng nhất, Phương pháp luận là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ thể xác định con đường và phạm vi nghiên cứu. Phương pháp là cách thức, thủ đoạn hoạt động cụ thể của chủ thể. Cái thứ nhất 45
- thuần túy lý luận, cái thứ hai vừa lý luận vừa thực tiễn, cái thứ nhất chỉ đạo cái thứ hai, cái thứ hai xuất phát từ cái thứ nhất trong sự thống nhất chung. Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận cho nên thường mang màu sắc Tiết học, tuy nhiên nó kkhông đồng nhất với Triết học. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự vận dụng các quan điểm Triết học (như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức thế giới. Các quan điểm phương pháp luận là một hệ thống, tồn tại với ba cấp độ: + Có những quan điểm chung nhất chỉ dẫn hoạt động nhận thức đối với tất cả lĩnh vực khoa học, đó chính là các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, nó là nền tảng của mọi tư tưởng học thuật. Quan điểm duy vật biện chứng là cơ sở xuất phát cho các quan điểm Phương pháp luận chung và Phương pháp luận chuyên ngành. + Có những quan điểm phương pháp luận chung áp dụng cho một nhóm ngành hay một số lĩnh vực khoa học, thí dụ phương pháp luận nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp luận nghiên cứu khoa học Tự nhiên hay Kỹ thuật + Có những quan điểm riêng dùng cho bộ môn, một chuyên ngành cụ thể. Thí dụ: Phương pháp luận nghiên cứu Toán học, phương pháp luận nghiên cứu Kinh tế, phương pháp luận nghiên cứu Tâm lý học Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu các quan điểm phương pháp luận chung nhất cho các lĩnh vực khoa học. II. CÁC QUAN ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG NHẤT TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HọC. 1- Phép biện chứng duy vật là cơ sở chung của mọi nhận thức khoa học. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa phép duy vật và phép biện chứng trong nhìn nhận thế giới. Phép biện chứng duy vật là sự kết tinh của các thành tựu khoa học và các tư tưởng Triết học nhân loại. Phép duy vật là sự khẳng định vật chất là cái có trước quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não của con người. Phép biện chứng trình bày một cách hệ thống tính biện chứng của thế giới bằng các phạm trù và những quy luật chung của thế giới tự nhiên và rút ra những quan điểm, những quy tắc chỉ đạo hoạt động của con người. Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý, những cặp phạm trù và những quy luật cơ bản, chúng vừa là cơ sở lý luận và là phương pháp nhận thức thế giới. 46
- + Hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng là: - Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của thế giới chỉ ra cho các nhà nghiên cứu tính vô hạn của thế giới và tính hữu hạn của các sự kiện, hiện tượng cụ thể và các mối quan hệ phức tạp của chúng. Nguyên lý này đòi hỏi sự quán triệt tính hệ thống và toàn diện trong nghiên cứu các hiện tượng của thế giới. - Nguyên lý về tính phát triển của thế giới chỉ ra rằng mọi sự vật, hiện tượng đều vận động và biến đổi không ngừng và đều có xu hướng phát triển. Nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải xem xét các sự kiện trong trạng thái vận động phát triển và biến đổi không ngừng của chúng. + Các cặp phạm trù nội dung và hình thức, cái chung và cái riêng, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhầ và kết quả là cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu tính toàn diện, chính xác, sâu sắc về các hiện tượng của thế giới. + Ba quy luật: đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, quy luật chuyển hóa từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất, quy luật phủ định của phủ định chỉ đạo quá trình nghiên cứu theo quan điểm toàn diện, phát triển của lsịch sử để tìm ra nguồn gốc, động lực, con đường và xu hướng phát triển của thế giới. Các nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận cực kỳ quan trọng, chúng cần được vận dụng vào cả trong nhận thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và hoạt động thực tiễn. Các nhà khoa học chỉ có đứng trên lập trường duy vật biện chứng để nghiên cứu thế giới mới có thể đạt tới chân lý khách quan. 2 – Quan điểm hệ thống cấut trúc trong nghiên cứ khoa học. Quan điểm hệ thống cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương pháp luận nhận thức. Để hiểu rõ và vận dụng đúng đắn quan điểm này ta cần xem xét các khái niệm sau đây: + Hệ thống là tập hợp các thành tố tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, ổn định và vận động theo quy luật tổng hợp. Một hệ thống bao giờ cũng có một cấu trúc gồm nhiều thành tố, mỗi thành tó lại có những cấu trúc nhỏ hơn. Như vậy hệ thống nhỏ bao giờ cũng nằm trong một hệ thống lớn đó chính là môi trường, giữa hệ thống và môi trường có mối quan hệ tác động hai chiều. Mỗi thành tố của hệ thống là một bộ phận có vị trí độc lập, có chứng năng riêng và luận vận động theo quy luật của toàn hệ thống. Các thành tố của hệ 47
- thống có quan hệ biện chứng với nhau bằng quan hệ vật chất và quan hệ chức năng. Như vậy thành tố là một bộ phận của một hệ thống, có tính xác định về chất, có chứng năng riêng. Các thành tố có mối quan hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành một thể thống nhất. Tính chỉnh thể là tính chất cơ bản nhất của hệ thống bởi vì mỗi thành tố chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các thành tố khác trong hệ thống chung. Tính hệ thống là thuộc tính, quan trọng của thế giới và chính nó lại là một trong số quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của thế giới. Chính vì vậy, nghiên cứu khoa học có nhiệm vụ quan trọng là phát hiện tính hệ thống của các đối tượng. Tính hệ thống có khía cạnh phương pháp luận và khía cạnh ứng dụng. Nhận thức đầy đủ về chúng có ý nghía quan trọng đối với cả thực tiễn. Tính hệ thống trước hết là công cụ phương pháp luận, bởi vì việc nghiên cứu đầy đủ các thuộc tính và các quy luật có tính hệ thống là cơ sở để xã hội quy trình nhận thức cho mọi đối tượng phức tạp. Tính hệ thống giá trịn thực tiễn vì nó đem lại giá trịn thực sự, có thể vận dụng vào thực tiễn sản xuất, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và quản lý xã hội. Phương pháp hệ thống là con đường nghiên cứu các đối tượng phức tạp trên cơ sở phân tích đối tượng thành các bộ phận để nghiên cứu một cách sâu sắc, để tìm ra tính hệ thống, tính toàn diện của đối tượng. Phương pháp hệ thống là công cụ phương pháp luận, nó giúp ta nghiên cứu các đối tượng phức tạp và cho ta một sản phẩm khoa học có cấu trúc lôgíc chặt chẽ. Quan điểm hệ thống cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương pháp luận, nó yêu cầu phải xem xét các đối tượng một cách tonà diện nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, trong trạng thái vận động và phát triển, trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể để tìm ra bản chất và các quy luật vận động của đối tượng. Quan điểm này chỉ dẫn quá trình nghiên cứu các đối tượng phức tạp bằng phương pháp hệ thống để tìm ra cấu trúc, phát hiện ra tính hệ thống theo quy luật của cái toàn thể. Bản chất của quan điểm hệ thống, cấu trúc có thể tập trung ở mấy điểm: + Nghiên cứu các đối tượng phức tạp phải xem hữu cơ của các thành tố trong hệ thống để tìm ra quy luật phát triển nội tại của hệ thống. + Nghiên cứu đối tượng trong mối quan hệ với môi trường, thấy được mối quan hệ chi pohois giữa đối tượng và môi trường, thấy được tính quy định của 48
- môi trường và phát triển những điều kiện cần thiết cho sự phát triển thuận lợi của đối tượng. + Kết quả nghiên cứu phải được trình bày rõ ràng khúc triết, tạo thành một hệ thống chặt chẽ, có tính logíc cao. Như vậy nghiên cứu khoa học theo quan điểm hệ thống – cấu trúc cho ta tri thức đầy đủ toàn diện, khách quan về đối tượng, thấy được mối quan hệ của hệ thống với các hiện tượng khác, từ đó mà thấy được cái triệt để, khách quan của tri thức khoa học. 3- Quan điểm lịch sử lôgíc trong nghiên cứu khoa học Quan điểm lịch sử lôgíc trong nghiên cứu khoa học là một luận điểm quan trọng của phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Thực hiện quan điểm này một mặt cho phép ta nhìn thấy toàn bộ sự pott của đối tượng nghiên cứu; sự xuất hiện quá trình diễn biến, phát triển và kết thúc sự kiện. Giúp ta phát hiện các quy luật phát triển tất yếu của đối tượng, điềm mà bất cứ hoạt động khoa học nào cũng hướng tới như một mục đích quan trọng nhất. Lịch sử là sự vận động có thực của các đối tượng trong thế giới khách quan. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng phức tạp, quanh co và đầy mâu thuẫn, trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhất định. Lịch sử có những diễn biến thành công và có cả những thất bại. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng xuất phát từ những nguyên nhân, từ nguyên nhân dẫn đến hệ quả. Điều kiện lịch sử thuận lợi thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của các sự kiện. Sự phát triển của lịch sử là sự diễn biến khách quan. Lôgíc là sự phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn lịch sử vào ý thức của con người. Lôgíc là cái tất yếu, là trật tự diễn biến, là con đường ngắn nhất của sự phát triển lịch sử. Lôgíc là kết quả nhận thức của con người về sự diễn biến có quy luật của đối tượng. Nghiên cứu khoa học về bản chất là những cố gắng nhằm phát hiện ra cái lôgíc tất yếu ấy của hiện thực. Quan điểm lịch sử - lôgic trong nghiên cứu khoa học yêu cầu phải nghiên cứu đối tượng bằng phương pháp lịch sử. Phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá trình diễn biến của đối tượng trong những thời gian. Phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá trình diễn biến của đối tượng trong những thời gian, không gian với những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. 49
- Lịch sử và lôgic tuy là hai phạm trù nhưng thống nhất với nhau. Ngiên cứu khoa học đi từ cái lịch sử để phát hiện cái tất yếu của lịch sử, đó là cái lôgic khách uqna của sự phát triển lịch sử đó. Bảo đảm sự thống nhất giữa tính lịch sử và tính lôgic trong nghiên cứu khoa học chính là tôn trọng lịch sử khách quan, là hiểu triệt để những điều kiện có thật của mọi sự diễn biến của đối tượng nghiên cứu. Phải phát hiện ra các quy luật phát triển chung của sự thật lịch sử. Điều đó nói lên ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của quan điểm lịch sử và lôgíc. 4 – Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học Quan điểm thực tiễn là luận điểm quan trọng của phương pháp luận, nó yêu cầu nghiên cứu khoa học phải bám sát sự phát triển của thực tế sinh động. Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính chất lịch sử - xã hội của con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội. Diễn biến của hiện thực là diễn biến khách quan, với những sự kiện đa dạng, phức tạp, phát triển nhiều khuynh hướng, có những thực tiễn tiên tiến, có những thực tiễn yếu kém và có những mâu thuẫn, những xu hướng chống đối nhau cần giải quyết, khắc phục. Các sự kiện của thực tiễn là những gợi ý rất quan trọng cho những ý tưởng của các đề tài khoa học. Nhu cầu giải quyết những mâu thuẫn của thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình triển khai mọi hoạt động nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học thực chất là hướng vào khám phá các sự kiện, phát hiện các quy luật phát triển của hiện thực. Những tri thức này có ý nghĩa to lớn bởi vì nó hướng tới phục vụ trực tiếp cho cuộc sống của con người. Chính vì thế mà mọi đề tài nghiên cứu khoa học phải có tính cấp thiết xuất phát từ thực tiễn và phải có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn. Mục đích của nghiên cứu khoa học suy cho cùng về thực chất là tìm ra phương pháp tốt nhất để cải tạo thực tiễn phục vụ cho cuộc sống của con người. Nghiên cứu khoa học luôn bám sát thực tiễn, coi thực tiễn là tiêu chuẩn để đánh giá các sản phẩm khoa học. Khoa học là chân lý chỉ khi nào nó phù hợp với thực tiến và có giá trị cải tạo thực tiến. Như vậy, thực tiễn vừa là nguồn gốc, vừa là động lực, vừa là mục tiêu, vừa là tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm nghiên cứu khoa học. Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học có ý nghĩa to lớn, quán triệt quan điểm thực tiễn vừa có lợi cho khoa học, vừa có lợi cho thực tiễn. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra cho khoa học rất nhiều 50
- vấn đề để nghiên cứu và ngược lại nghiên cứu khoa học phải nhằm vào giải quyết những vấn đề của thực tiễn, phục vụ cho sự phát triển của nước ta. III – CƠ CHẾ SÁNG TẠO KHOA HỌC (MECHANISM) Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, thường bắt đầu từ việc xuất hiện những ý tưởng về chủ đề, tiếp đến là những diễn biến đặc biệt trong tư duy và cuối cùng dẫn đến phát minh. Một vấn đề quan trọng được đặt ra là cơ chế sáng tạo khoa học nảy sinh và phát triển như thế nào trong hoạt động tư duy của các nhà khoa học? Phân tích quá trình phát minh của các nhà khoa học có tên tuổi trong lịch sử khoa học thế giới và tổng kết các quá trình nghiên cứu sáng tạo trong thực tiễn hiện đại, ta thấy có ba loại cơ chế sáng tạo sau đây: 1 – Cơ chế trực giác (Intuition) Trong nghiên cứu khoa học, với các nhà bác học tài năng nhiều khi có các ý tưởng độc đáo xuất hiện hết sức đột ngột, bỏ qua tất cả các bước, các thao tác tư duy theo lôgíc thông thường và ngay tức khắc họ nhìn thấy rõ mọi điều cần thiết. Trong trường hợp này bản thân các nhà khoa học không giải thích được vì sao và từ đâu nó tới. Họ chỉ biết rằng ở thời điểm ấy ý tưởng xuất hiện như một “tia chớp” họ rơi vào thời điểm “bừng sáng” nhìn rõ chân lý. Việc “bất ngờ” xuất hiện một ý tưởng khoa học, một cách giải quyết vấn đề, mà các nhà khoa học phải vật lộn nhiều năm chưa ra, đó là cái nhảy vọt của tư duy được gọi là trực giác (hay còn gại là trực cảm). Trong lịch sử phát minh khoa học có rất nhiều trường hợp như thế. Nhờ trực giác, con người khám phá nhiều điều kỳ diệu, với những phát minh vĩ đại. Niutơn phát hiện ra Định luật vạn vật hấp dẫn nhờ quan sát hiện tượng quả táo rơi. Acsimet ngay trong bồn tắm phát hiện ra quy tắc tính lực đẩy của nước đối với một vận nhấn chìm trong đó. Gaoxơ nhà toán học nổi tiếng tự thuật: “Việc giải một bài toán mà toi loay hoay vài năm không xong, bỗng cuối cùng nó đã đến nhưng không phải bằng sự cố gắng vất vả cách giải quyết bất ngờ như một tia chớp ” (xem: Khái lực về lịch sử và lý luận phát triển khoa học. NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội 1975 tr.128). Giải thích và đánh giá hiện tượng trực giác này có nhiều cách khác nhau. Những người theo chủ nghĩa duy tâm, tuyệt đối hóa trực giác, họ khoa họcẳng định tất cả các phát minh khoa học đều nhờ trực giác. Họ cho rằng trực giác là gì đó phi lý tính, ngoài lôgíc, đó là sự thành công của cảm hứng, một món quà của “Thượng đế”. 51
- Các nhà khoa học duy vật cho rằng “món quà” này chính là kết quả lao động không mệt mỏi của bản thân con người, là bước nhảy vọt của tư duy, đã giải phóng sự kìm hãm của phương pháp cũ, xuất hiện năng lực trí tuyệ đặc biệt và dẫn đến phát minh. Trực giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và kiến thức, là sự “bùng nổ” dựa trên nhiều thao tác tư duy đã phát triển ở nhiều trình độ khác nhau. Trực giác là sản phẩm của tài năng, là kết quả của sự tích lũy kiến thức, đồng thời là kết quả của sự say mê, sự kiên trì lao động sáng tạo. Không có một phát minh nào lại ngẫu nhiên nằm ngoài tâm hoạt động kiên trì với một định hướng khoa học nghiêm túc. 2 – Cơ chế Algôrit (Algorithm) Trong quá trình nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong sáng tạo kỹ thuật, có thể đạt tới kết quả, khi tư duy của các nhà nghiên cứu tuân thủ các bước đi với một nguyên tắc, một trật tự tạo thành chuỗi thao tác lôgíc hợp lý. Bản ghi chính xác trật tự các bước đi để giải bài toán sáng tạo như thế được gọi là một Algôrit sáng tạo (hay còn gọi là thuật toán). Theo quan điểm này thì các phát minh khoa học Tự nhiên và kỹ thuật về thực chất là phát hiện ra các algôrit sáng tạo. Khi ý thức được một bản ghi chính xác các bước đi lôgíc của một loại công việc, thì cũng có nghĩa là sẽ thực hiện thành công loại công việc đó. Tư tưởng cơ bản của algôrit sáng tạo là: các hệ kỹ thuật hình thành và phát triển không phải ngẫu nhiên, mà theo những quy tắc nhất định, ta có thể nhận thức được các quy tắc ấy và sử dụng chúng một cách có ý thức, sẽ tránh được những phép thử - sai một cách vô ích. Cơ sở để giải quyết một bài toán sáng tạo ly quy luật biện chứng về sự phát triển của các hệ kỹ thuật. Bài toán sáng tạo được giải bằng cách phân tích một khối lượng lớn, có khi hàng nghìn các thông tin (Patent) về một giải pháp. Algôrit giải các bài toán sáng tạo với hệ thống các quy tắc (các thuật chuẩn) là các cơ chế chủ yếu để hoàn thiện các hệ kỹ thuật. Điều quan trọng là khó thông tin luôn được bổ sung và chỉnh lý thường xuyên. Việc giải quyết các bài toán sáng tạo được tiến hành không thể bằng các phép thử - sai mà phải được tiến hành có kế hoạch. Người ta áp dụng các thuật toán với những biến đổi đặc biệt bằng các thủ thuật chuyên môn để phá vớ sức ì tâm lý của lối tư duy truyền thống và tạo nên quá trình tưởng tượng mới có tính sáng tạo. 52
- Nắm vững các quy tắc phát triển của các hệ kỹ thuật cho phép ta không chỉ giải thích được các bài toán có sẵn, mà còn dự đoán được các khoa họcả năng xuất hiện các bài toán mới. Các dự đoán này chính xác hơn nhiều so với những dự đoán nhờ các phương pháp chủ quan. Giải các bài toán sáng tạo gắn liền với sự phát triển của các hệ kỹ thuật. Như vậy, các alôrit sáng tạo được chuyển thành lý thuyết phát triển của các hệ kỹ thuật. Algôrit các công nghệ sáng tạo, một công nghệ quan trọng nhất trong các công nghệ hiện đại. 3 – Cơ chế Ơristie (Heuristies) Thông thường nghiên cứu khoa học bắt đầu từ việc phát hiện đề tài. Đề tài là một vấn đề khoa học được hình thành do phát hiện các mâu thuẫn, các mặt thiếu sót của lý thuyết hay thực tiễn nào đó. Các mâu thuẫn này không thể giải quyết được bằng những điều đã biết, đặt các nhà khoa học vào một tình huống phải nghiên cứu tìm tòi. Trên cơ sở phân tích nhiều hiện tượng, sự kiện tương tự với hiện tượng mới phát hiệu, người ta tìm thấy những điều giống nhau và những khác nhau của chúng. Bằng những tri thức và kinh nghiệm đã có, bằng phép tương tự (Anology) và trí tưởng tượng mà phỏng đoán bản chất hiện tượng, sự kiện vừa phát hiện, tức là hình thành một giả thuyết khoa học (Hypothesis) Từ giả thuyết khoa học, như là một dự báo định hướng, giúp ta tìm cách chứng minh để khẳng định chính điều phỏng đoán ban đầu ấy. Vậy là quá trình nghiên cứu khoa học được thực hiện bằng con đường đề xuất và chứng minh một giả thuyết khoa học về một sự kiện, hiện tượng mới. Con đường sáng tạo như thế được gọi là sáng tạo theo cơ chế Ơristic. Vấn đề trung tam của cơ chế sáng tạo Ơristic là đề xuất giả thuyết khoa học. Giả thuyết khoa học là một giả định, một dự đoán hết sức độc đáo về bản chất đối tượng nghiên cứu. Để đề xuất một giả thuyết, nhà khoa học phải có chuyên môn vững chắc, phải có kinh nghiệm hoạt động sáng tạo phong phú và đặc biệt và phải có năng lực dự đoán. IV. KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bất cứ hoạt động nào, chủ thể hoạt động cũng phải là người thạo việc, nghiên cứu khoa học là lao động đặc biệt lại càng đòi hỏi sự thành thạo ở mức độ cao hơn. Sự thành thạo trong nghiên cứu khoa học chính là sự nắm vững các kỹ năng nghiên cứu. 53
- Nghiên cứu khoa học ngoài việc đòi hỏi các nhà khoa học phải có một năng lực đặc biệt, một uyên bác về kiến trúc, sắc sảo và nhậy cảm trong tư duy, còn đòi hỏi các nhà phải có một quan điểm tiếp cận đối tượng, có một chiến lược nv đúng đắn, nắm vững các quy trình lôgic khách quan và sự thành thạo trong sử dụng các phương tiện kỹ thuật để thu thập, xử lý thông tin và các trình bày các kết quả nghiên cứu, nghĩa là phải có kỹ năng nghiên cứu. Kỹ năng nghiên cứu khoa học là khả năng thực hiện thành công các công trình khoa học trên cơ sở nắm vững các quan điểm phương pháp luận, sử dụng thành thạo phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu. Kỹ thuật nghiên cứu khoa học bao gồm một tổ chức các cách thức các con đường nghiên cứu, với nhiều mức độ phức tạp, mà nhà khoa học phải thực hiện thành thạo. Hệ thống kỹ năng này có thể phân thành ba nhóm sau đây: Nhóm thứ nhất: Nhóm kỹ năng nắm vững lý luận khoa học và phương pháp luận nghiên cứu. Ở nhóm này các kỹ năng các kỹ thuật nghiên cứu thể hiện bắt đầu từ phát hiện đề tài, xây dựng chiến lược và chiến thuật nghiên cứu. Xác định các cách tiếp cận đối tượng, các quan điểm giải quyết vấn đề, lập đề cương, xây dựng giả thuyết, tìm lôgic mới, tạo hệ thống mới. Nhóm thứ hai: Nhóm kỹ thuật sử dụng thành thạo các phương tiện nghiên cứu cụ thể. Các nhà khoa học phải nắm vững các phương pháp nghiên cứu trong phạm vi chuyển môn và biết sử dụng chúng một cách hợp lý vào đề tài của mình. Phương pháp nghiên cứu khoa học là phạm trù phức tạp, nó gao gồm nhiều thao tác, đơn giản nhất như tìm tư liệu, đến những phương pháp phức tạp hơn là tác động vào đối tượng thực. Nhóm thứ ba: Nhóm kỹ năng sử dụng kỹ thuật nghiên cứu, đó là việc các nhà khoa học phải thành thạo trong việc sử dụng các phương tiện, công cụ kỹ thuật để thu thập, xử lý và trình bày thông tin khoa học. Việc thu thập thông tin có thể bằng kỹ thuật quan sát, điều tra, bằng sử dụng các thiết bị máy móc hay tra cứu các tài liệu lưu trữ Xử lý thông tin có thể bằng thống kê toán học, có thể bằng máy vi tính trình bày thông tin phải đảm bảo đúng các yêu cầu kỹ thuật, các sơ đồ, biểu đồ chính xác Nghĩa là trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật cũng cần phải thành thạo. Tóm lại: kỹ năng nghiên cứu là một hệ thống phức tạp, nhiều thành phần. Các kỹ năng là điều kiện thiết yếu để thực hiện thành công các công trình nghiên cứu khoa học. 54
- Chương IV NỘI DUNG CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Dù nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực nào (khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn,v.v ), thì suy cho cùng trong nghiên cứu khoa học cũng đều phải thực hiện một trình tự thao tác sau: thiết lập và quan sát sự kiện, phát hiện vấn đề nghiên cứu, xây dựng khái niệm, đặt giả thuyết nghiên cứu và kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu. I. THIẾT LẬP SỰ KIỆN Vai trò của sự kiện trong nghiên cứu khoa học rất quan trọng. Sự kiện tồn tại ngay trong tự nhiên và trong đời sống xã hội. Người nghiên cứu thu thập sự kiện nhừ quan sát, trong hàng loạt trường hợp, người nghiên cứu phải chủ động là để quan sát. Quan sát đóng một vai trò để xây dựng khái niệm; quan sát để đặt giả thuyết, và quan sát để kiểm chứng giả thuyết. II. PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Vấn đề nghiên cứu là những điều chưa biết, hoặc chưa biết thấu đáo về bản chất sự vật hoặc hiện tượng, cần được là sáng rõ trong quá trình nghiên cứu. Khi nói đến nghiên cứu khoa học là sự tìn tòi nhằm khám phá quy luật bản chất của sự vật hoặc hiện tượng, hoặc sáng tạo những giải pháp mới cho mục đích cải tạo thế goới, thì cũng có nghĩa, nghiên cứu khoa học, trong mọi trường hợp đều nhằm vào những điều chưa biết (một quy luật chưa biết được khám phá, một giải pháp chưa được sáng tạo, một hình mẫu chưa được kiểm chứng). Vì vậy, vấn đề nghiên cứu là một câu hỏi cần được giải đáp trong nghiên cứu. Khi phát hiện được vấn đề ở người nghiên cứu tất yếu sẽ nảy sinh hàng loạt ý tưởng giải quyết. Ý tưởng đó được gọi là ý tưởng nghiên cứu, hoặc còn gọi là ý tưởng khoa học. Đây chính là cơ sở ban đầu đi đến những giả thuyết nghiên cứu. Con đường hình thành ý tưởng nghiên cứu: Cuối cùng, vấn đề được đặt ra về mặt phương pháp luận là làm thế nào phát hiện được những vấn đề nghiên cứu để đến được ý tưởng nghiên cứu? Đối với người nghiên cứu đã có một bề dày kinh nghiệm, thì rất có thể luôn có những ý tửng nv thường trực trong đầu. Tuy nhiên, đối với những người nghiên cứu mới bước chân vào con đường nghiên cứu, thì cách thức hình thành ý tưởng nghiên cứu là một vấn đề đáng được quan tâm. Đại thể có thể có những con con đường dau đây dẫn đến ý tưởng nghiên cứu: 55
- + Phát hiện những kẻ hở trong khoa học: Loại ý tưởng này xuất hiện khi người nghiên cứu bất chợt nhận ra chỗ yếu hoặc những nội dung chưa được giải quyết trọn vẹn về mặt khoa học trong các tài liệu khoa học trong quá trình viết nhận xét phản biên cho một công trình khoa học của đồng nghiệp. + Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học: Loại ý tưởng này xuất hiện trong khi tham dự những hội nghị khoa học. Do sự vận động của bộ não mà trong đầu người nghiên cứu nảy ra những suy luận liên tục trước những ý kiến tranh luận, những nhận xét phản biện, dẫn đến những ý tưởng hoàn toàn mới lạ mang bản sắc riêng biệt của mình. + Nghĩ ngược lại những quan điểm thông thường: Loại ý tưởng này xuất hiện tương tự như khi hình thành khách ngồi trên xe chạy với tốc độ nhanh có cảm giác như mọi vật đều chạy ngược lại hướng xe chuyển động. Về mặt logic học, đây là sự tìm kiếm môt khái niệm đối lập với khái niệm đang tồn tại, nghĩa là, đi tìm kiếm một cách phân đôi khái niệm. Dự hình thành nàyvề mọi sự vật dẫn đến những ý tưởng nghiên cứu thường rất độc đáo cả trong khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và trong khoa học xã hội. + Sự nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động kinh tế: Nhiều khó khăn nảy sinh trong hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội, không thể sử dụng những biện pháo thông thường để xử lý. Thực tế này đã đặt trước người nghiên cứu những câu hổi phải trả lời (xuất hiện vấn đề nghiên cứu), đòi hỏi người nghiên cứu phải đề xuất những giải pháp mới xuất phát từ việc nghiên cứu tận gốc rễ những quy luật của sự vật hiện tượng. + Sự kêu ca phàn nàn của người không am hiểu: Đôi khi nhiều ý tưởng nghiên cứu được xuất hiện nhờ sự bắt gặp những lời phàn nàn của những những người không am hiểu trong lĩnh vực mà người nghiên cứu quan tâm. Khi người nghiên cứu đã thai nghén những ý tưởng sáng tạo khác nhau, sự bắt gặp nguồn này đôi khi đưa đến những ý tưởng nghiên cứu sáng tạo bất ngờ. + Những ý tưởng khoa học bất chợt xuất hiện: Đây là những ý tưởng khoa học xuất hiện một cách ngẫu nhiên trong đầu người nghiên cứu không phục thuộc bất cứ lý do, thời gian hoặc không gian nào. Điều này cuối cùng đối với người nghiên cứu là: 1) Các ý tưởng khoa học thường xuyên xuất hiện rất nhanh, đôi khi chỉ như một ý nghĩ thoảng qua trong tư duy về một vấn đề khác. Vì vậy, người nghiên cứu cần ghi lại ngay vì bộ nhớ sinh học sẽ xóa nhòa đi rất nhanh mọi thông tin quý giá đó nếu như nó không được giao nhiệm vụ tiếp tục xử lý. 56
- 2) Ý tưởng nghiên cứu như mang một ý nghĩa thực tế đối với khoa học. Nó phải được người nghiên cứu tiếp tục phát triển tư duy để nâng lên đến một trình độ cao hơn. Đó là giả thuyết nghiên cứu. III- XÂY DỰNG KHÁI NIỆM Xây dựng khái niệm là công việc đầu tiên của người nghiên cứu, bởi vì không có sự thống nhất khái niệm thì không thể có ngôn ngữ chung trong tranh luận khoa học. Trong bất cứ nghiên cứu nào, người nghiên cứu cũng cần phải chuẩn hóa nhỡng khái niệm vốn đã được sử dụng trong các lĩnh vực khác, thống nhất hóa những khái niệm được hiểu biết khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau và phải xây dựng những khái niệm hòan toàn mới để đáp ứng cho sự đòi hỏi của nhiệm vụ nghiên cứu mới. 1. Khái niệm là gì ? Khái niệm là một hình thức tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất và chúng của một nhóm sự vật trong thế giới quan. Khái niệm là kết quả của quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa một nhóm vật trong thế thời khách quan. Trừu tượng hóa là một phương pháp của tư duy, trong đó chúng ta tách một mặt riêng lẻ của sự vật ra khỏi những mặt khác, nhằm nhận thức sâu sắc từng mặt riêng lẻ, trên cơ sở đó tư duy của chúng ta phân tích, so sánh, lựa chọn để phát hiện ra được mặt của bản chất sự vật hiện tượng. Nhưng tư duy của con người không dừng lại ở trừu tượng hóa. Sau khi phát hiện ra được những thuộc tính bản chất của sự vật, tư duy con người có xu hướng nhìn ra xung quanh xem còn có những sự vật nào nữa cũng có những thuộc tính bản chất mà ta phát hiện được ở sự vật có chung thuộc tính bản chất. Đó là sự khái quát của quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa đợpc ghi lại dưới hình thức khái niệm. Như vậy, khái niệm là sự phản ánh trong nhận thức cái chung và cái bản chất của một nhóm sự vật mà ta nhận được sau khi trừu tượng hóa và khái quát hòa tài liệu do thực tiễn cung cấp. Chính vì vậy, khái niệm là sản phẩm cao nhất của bộ óc con người. 2- Khái niệm và từ Mỗi khái niệm được biểu hiện dưới ngôn ngữ bằng một cụm từ (tên gọi). Cần chú ý rằng tên gọi là cái chủ quan và người ta quy ước với nhau. Còn nội dung của khái niệm là cái khách quan. Nội dung đó của sự vật khách quan quy định. Nội dung đó không phụ thuộc vào ý muốn của chủ quan. Đó là nội dung 57
- khách quan vốn có của sự vật.Chính vì vậy, tên gọi có thể thay đổi, nhưng không vì thế mà nội dung của khái niệm phải thay đổi theo. 3- Nội hàm và ngoại diên của khái niệm. Khái niệm gồm 2 bộ phận chính là: Nội hàm và ngoại diên. Nội hàm: Nội hàm của khái niệm là những hiểu biết về toàn thể thuộc tính bản chất của sự vật được phản ánh trong khái niệm. Ngoại diên: Ngoại diên của khái niệm là toàn thể những sự vật có chứa các thuộc tính bản chất được phản ánh trong khái niệm. Giữa nội hàm và ngoại diên có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi mở rộng ngoại diên của khái niệm thì những dấu hiệu đặc trưng trong nội hàm của khái niệm bị thu hẹp và ngược lại, khi thu hẹp ngoại diên của khái niệm thì nội hàm khái niệm được mở rộng ra. Thí dụ, khi mở rộng ngoại diện của khái niệm la “bông hoa” ta có hoa hồng, hoa huệ, hoa lan,v.v Nhưng nếu ta thu hẹp ngoại diên của khái niệm chỉ là “hoa hồng” thì ta có hồng nhung, hồng bạch, hồng vàng 4- Phương pháp định nghĩa một khái niệm: Công việc của nghiên cứu khoa học buộc người nghiên cứu phải định nghĩa các kinh nghiệm. Có nhiều hình thức định nghĩa khái niệm khoa học: 1- Lôgíc hình thức đặc biệt chú ý đến phương pháp định nghĩa một khái niệm bằng cách quy vào một khái niệm có ngoai diên rộng hơn. Ví dụ, trong định nghĩa “triết học khoa học về quy luật chung nhất của thế giới và sự nhận thức thế giới” ta có thể thấy: “triết học” – sự vật cần định nghĩa; “khoa học” – sự vật gắn bó và có ngoại diên rộng hơn; : quy luật chung nhất” – nội hàm của sự vật cần định nghĩa. Tuy nhiên, phương pháp này là vạn năng, bời vì, phương pháp này không thể sử dụng được khi ta định nghĩa những khái niệm mà không có các khái niệm khác có ngoại diên rộng hơn. Thí dụ khi định nghĩa các khái niệm phạm trù. Chẳng hạn như khi ta định nghĩa khái niệm về phạm trù vật chất. Phương pháp định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin là một đóng góp cho khoa học lôgic. 2- Định nghĩa phát sinh là loại định nghĩa trình bày nguồn gốc hình thành đối tượng. Thí dụ: “Đường tròn là đường cong khép kín được tạo nên bởi điểm A quay quanh điểm O với khoảng cách không đổi”. 58
- 3- Định nghĩa mô tả là loại hình định nghĩa làm rõ đối tượng bằng cách liệt kê các ngoại diên của khái niệm. Thí dụ: “Người thừa kế là những người có quan hệ hôn nhân hay huyết thống với chủ tài sản, như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em ruột ” Tài sử dụng, phương pháp định nghĩa khái niệm trên, cần chú ý đến các quy tắc sau đây: Quy tắc 1: Định nghĩa phải cân đối. Điều đó có nghĩa là ngoại dien của khái niệm được định nghĩa phải cân đối với ngoại diên của khái niệm để dùng định nghĩa. Quy tắc 2: Trong định nghĩa không được nói vòng quanh. Quy tắc 3: Trong định nghĩa phải chỉ ra những thuộc tính bản chất của đối tượng dưới hình thức khẳng đinhk. Thí dụ: Nếu ta định nghĩa: “Lôgic học là khoa học về tư duy”. Đây là một định nghĩa không cân đối, quá rộng. bởi vị ngoại diên của khái niệm “khoa học về tư duy” quá rộng so với khái niệm lôgic học. Nếu ta định nghĩa: “Lôgic học là khoa học về từ duy đúng đắn”, thì một câu hỏi đặt ra là : “Tư duy đúng đắn là gì?”. Nếu câu trả lời là: “Tư duy đúng đắn là sự tư duy tuân theo những quy tắ của logic học”. Thì đây là một định nghĩa nói vòng quanh, ở đây không làm rõ được nội hàm của khái niệm cần được định nghĩa. ĐẶT GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU I- Khái niệm về giả thuyết nghiên cứu Cũng như việc xây dựng khái niệm, đặt giả thuyết và kiểm chứng giả thuyết là công việc thiết yếu số một của nghiên cứu khoa học. Thiết những thao tsac lôgic này thì không co nghiên cứu khoa học. “Giả thuyết là khởi điểm của mọi nv khoa học, không có khoa học nào mà lại không có giả thuyết”*. Một giả thuyết có thể được đặt ra phù hợp với quy luật vận động của sự vật hoặc hiện tượng, song rất có khả năng là giả thuyết được đặt ra không phù hợp và bị bác bỏ hoàn toàn sau một quá trình nghiên cứu, nhưng đối với nghiên cứu khoa học, “có một giả thuyết sai còn hơn không có một giả thuyết nào cả” . II- Đặc trưng khoa học các giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết nghiên cứu là một kết luận giả định về bản chất của sự vật hiện tượng mang tính chất định hướng, cần được tiếp tục kiểm chứng. Giả thuyết không phải chỉ là một mềnh đề đơn giản, mà đồng thời còn là một chân lý, một 59
- luận điểm – chân lý được kiểm chứng các sự kiện và luận cứ, và như vậy, giả thuyết sẽ phải được kiểm chứng”. Tuy nhiên, một giả thuyết nghiên cứu chỉ có thể mang tính khoa học khi hội đủ những điều kiện sau: + Giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở các sự kiện được quan sát. Nói như Claude Berarde, giả thuyết phải có điểm tựa trong tự nhiên. + Giả thuyết không được trái với những lý thuyết đã được xác nhận tính đúng đắn về mặt khoa học. Đương nhiên điều này đôi khi lại có thể trở thành một bi kịch cho khoa học nếu có những quan niệm bị ngộ nhận là đã được xác nhận về mặt khoa học. Không có cách nào khắc phục khó khăn này tốt hơn là sự nhẫn nại, tập trung mọi nỗ lực nghiên cứu đế chứng minh giả thuyết một cách đầy đủ luận cứ khoa học. + Giả thuyết được kiểm chứng bằng lý thuyết hay bằng thực nghiệm. Tuy nhiên không phải giả thuyết nào cũng có thể chứng minh hoặc bị bác bỏ ngay trong thời đại của nó. III- Quan hệ giả thuyết nghiên cứu và phán đoán và suy luận lôgic Về mặt lôgic học, giả thuyết được trình bày dưới dạng một phán đoán khoa học. Vì vậy, để có thể đạt được giả thuyết một cách đúng đắn, người nghiên cứu cần nắm vững những kiến thức lôgic học phán đoán. Phán đoán là một thao tác lôgic nhờ đó người ta nối liền các khái niệm khẳng định khái niệm này là hoặc không phải là khái niệm kia. 3.1- Phán đoán a) Phán đoán đơn Phán đoán là một hình thức của tư duy nhằm khẳng định hay phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật hay hiện tượng trong thế giới khách quan. Lôgic hình thức phân chia phán đoán đơn thành 4 loại sau: + Phán đoán khẳng định toàn thể, có hình thức lôgic là: Mọi S và P. + Phán đoán khẳng định một bộ phận, có hình thức lôgic là: Một số S là P. + Phán đoán phủ định toàn thể, có hình thức lôgic là: Không S nào là P. + Phán đoán phủ định một bộ phận, có hình thức lôgic là : Một số D không là P. 60
- Người ta quy ước lấy chữ cái A và I để chỉ các phán đoán khẳng định toàn thể và khẳng định bộ phận, lấy chữ cái E và O để chỉ các phán đoán phủ định toàn thể và phủ định bộ phận: A = mọi S là P; I = Một số S là P; E = Không S nào là P; O = Một số S không là P. Mối quan hệ các phán đoán trên được biểu diễn trên hình như sau: Từ sơ đồ trên ta thấy quan hệ giữa A với I (cũng như E với O) như sau: A đ s s I đ ? s Tương tự ta suy ra các quan hệ khác giữa A và E; I và O; A và O; E và I. b) Phán đoán phức Trong phần này ta nghiên cứu việc kết hợp các phán đoán đờn thành phán đoán phức. Ta ký hiệu các phán đoán bằng các chữ cái A,B,C, Mỗi phán đoán đơn này có giá trị lôgic hoặc là đúng, hoặc lài sai. Các phán đoán phức có giá trị lôgic đúng hay sai phụ thuộc vào các giá trị của các phán đoán thành phần. Lôgic hình thức nghiên cứu các phán đoán sau: a) A ∧ B (đọc là : A và B) được định nghĩa như hình (hình 1): b) A ∨ B (đọc là: A hoặc B) được định nghĩa như sau (hình 2): A B A ∧ B A B A ∨ B đ đ đ đ đ đ đ s s đ s đ s đ s s đ đ s s s s s s Hình 1 Hình 2 c) A ∨ B (đọc là: A hoặc B) được định nghĩa như sau (Hình 3): d) A → B (đọc là: nếu A thì B) được định nghĩa như sau (Hình 4): A B A ∨ B A B A → B đ đ s đ đ đ đ s đ đ s s s đ đ s đ s s s s s s đ e) Điều kiện cần và đủ: Chúng ta nghiên cứu một số định nghĩa sau: 61
- - Định nghĩa 1: A gọi là Điều kiện cần của B Có định nghĩa là, nếu không có A thì không có B ( AB→ ). - Định nghĩa 2: A gọi là Điều kiện đủ của B, có nghĩa là nếu có A thì tất yếu của B (A → B). - Định nghĩa 3: A gọi là Điều kiện cần nhưng không đủ của B, có nghĩa là, nếu không có A thì không có B, những nếu có A thì chưa hẳn đã có B. Thí dụ: Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. A B A → B B → A A → B A (B → A) đ đ đ đ đ đ s s đ s s đ đ s s s s đ đ đ Biểu thức (A → B) A (B → A) được ký hiệu là A⇔B, cho nên ta có bảng định nghĩa sau: A B A⇔B Chú ý: A⇔B có thể đọc là: đ đ đ + A là điều kiện cần và đủ của B đ s s + B là điều kiện cần và đủ của A s đ s + Có A khi và chỉ khi có B s s đ + Có B khi và chỉ khi có A Trong thực tế, điều kiện cần và đủ của một hiện tượng A nào đó thường tập hợp của một số điều kiện : A ⇔ (B1, B2, B3, Bn) Trong đó mỗi điều kiện B1, B2, B3, Bn chỉ mới là điều kiện cần nhưng không đủ của A. Nghiên cứu định nghĩa trên nhằm đáp ứng tư duy phân biệt được trong thực tế, cáci nào là điều kiện cần và đủ; cái nào mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ ; hay đủ nhưng không cần. Điều đó giúp tư duy được chính xác, chặt chẽ, góp phần giúp tư duy nhận thức chân lý. c) Các quy luật lôgic 62
- Để đảm bảo tính chính xác của các suy luận ta còn phải tuân thủ các quy luật tư duy sau đây: + Luật đồng nhất: Trong suốt quá trình tư duy không được tự ý thay đổi nội hàm và ngoại diên của khái niệm, nói cách khác không được tự ý thay đổi đối tượng tư duy. Trong một công trình khoa học đối tượng nghiên cứu phải nắm vững trong suốt quá trình, vi phạm điều này làm cho đề tài sẽ trở thành hỗn loạn, phức tạp không bao giờ đạt tới mục đích đã đề ra. + Luật mưu thuẩn: Nếu có hai phán đoán mưu thuẩn nhau thì không thể cả hai điều đúng. Luật này liên quan tới hai cặp phán đoán: A-E và O-I. + Luật bài trung: Nếu hai phán đoán phủ định nhau thì nhất thiết có một trong hai phán đoán đó là đúng, phán đoán còn lại là sai, không thể có trường hợp thứ ba nào khác. Luật này có liên quan tới hai cặp phán đoán : O-A và E-I. + Luật lý do đầy đủ: Để rút ra kết luận khoa học, quá trình suy luận phải dựa vào các căn cứ xác đáng, với số lượng cần và đủ. Nói cách khác suy luận khoa học không được kết luận vội vàng thiếu các lý do xác thực. Nghiên cứu khoa học là quá trình tư duy các quy tắc và quy luật của tư suy lôgic. Không nắm vững quy tắc mà dẫn đến các kết luận sai lầm đó là ngộ nhận, cố tình vi phạm các quy tắc suy luận sẽ trở thành ngụy biện khoa học. Cả hai đều rất có hại cho khoa học, vì điều đó không bao giờ đưa khoa học tới chân lý. 3.2- Suy luận Suy luận là một hình thức tư duy nhằm rút ra một phán đoán mới (gọi là kết luận) từ những phán đoán đã so (gọi là những tiền đề). Có thể chia suy luận ra thành nhiều loại: Suy luận diễn dịch (gọi tắt là suy diễn) và suy luận quy nạp (gọi tắt là quy nạp). 1. Suy diễn: Người ta thường hiểu suy diễn là loại suy lý đi từ những tri thức về cái chung đến những tri thức về cái riêng. Đặc trưng của suy diễn là ở chỗ: Trong suy diễn cái chúng ta dựa vào những quy tắc lôgic, mà ta gọi những quy tắc suy diễn. Ở đây, tư suy tuân theo các quy tắc suy diễn, và nếu như tất cả các tiền đề đều là những phán đoán chân thực thì kết luận được rút ra nhất đinh là chân thực. Như vậy, muốn cho kết luận chân thực thì phải đảm bảo hai điều kiện. Thứ nhất là các tiền đề phải chân thực. Thứ hai là phải tuân theo các quy tắc suy diễn. Hai đk đó là hai điều kiện cần và đủ cho kết luận của suy diễn là chân thực. 63
- Lôgic là hình thức nghiên cứu một hệ thống những quy tắc suy diễn, mà tư duy cần phải tuân theo. Đó là: + Quy tắc kết luận: A → B A → B A (1) B (2) B A Ở đay A gọi là cơ sở; B gọi là hệ quả. Tư duy chỉ chính xác khi: - Đi từ khẳng định cơ sở đến khẳng định hệ quả. - Đi từ phủ định hệ quả đến phủ định cơ sở. Các quy tắc (1) và (2) ở trên là những tất yếu lôgic. Trong thực tế, tư duy thường mắc phải những sai lầm sau đây: A → B A → B B A A B + Quy tắc bán cầu: A → B B → C A → C + Quy tắc lựa chọn: AVB AVB A A B B Tương tự ta có thể mở rộng: A V B V C A A B C Ở đây cần chú ý rằng: A V B không phải là tất yếu của lôgic. B Nhưng A V B lại là một tất yếu của lôgic. B 64
- + Một nội dung rất quan trọng của suy diễn mà lôgic hình thức nghiên cứu, đó là Tam đoạn luận. Nội dung của nguyên tắc này như sau: Mọi M là P Mọi S là M Mọi S là P Trong đó S,M,P là 3 thuật ngữ; M là thuật ngữ trung gian. Đây là một sơ đồ lôgic, một quy tắc lôgic được biểu diễn như sau: Thí dụ: Mọi kim loại đều dẫn điện. P Vật này là kim loại. M Vật này dẫn điện. S Nhưng nếu ta lập luận: Mọi kim loại dẫn điện. Vật này dẫn điện. Vật này là kim loại. Thì lại không logic và có thể dẫn đến kết luận sai lầm. Bởi vì, ta đã lập luận theo sơ đồ: Mọi P là M S là M S là P Mà sơ đồ này không phải là tất yếu logic. Ta có thể minh họa lập luận trên bằng hình vẽ sau: M M P P S S 2. Quy nạp Quy nạp là lọai suy lý từ những tri thức về các hiện tượng đơn lẻ, từ những kinh nghiệm riêng lẻ, đến sự khái quát những nguyên lý chung. 65
- Có thể chia quy nạp thành: Quy nạp không hoàn toàn và Quy nạp hoàn toàn. a) Quy nạp hoàn toàn a có t. a* b có t. * c có t. b S c* d có t. d* Mọi S có t Đây là loại quy nạp mà trong các tiêu đề người ta đã nêu được tri thức về tất cả các đối tượng riêng lẻ của lớp đối tượng mà người ta đang xem xét. Tập hợp S có các phần tử a,b,c,d. Người ta đã phát hiện ra rằng, mỗi phần tử của tập hợp S đều có thuộc tính t. Từ đó người ta đã khái quát thành nguyên lý chung. Với phương pháp tư duy này, kết luận của quy nạp là hoàn toàn đáng tin cậy. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng của loại quy nạp này là rất hạn chế. Nó chỉ được áp dụng với những nhóm sự vật hay hiện tượng mà số lượng đối tượng là có hạn. Trong khi đó thực tế đã đặt ra yêu cầu phải nhận thức, phải khái quát những lớp hiện tượng mà số hiện tượng lại nhiều vô kể, khiến người ta không thể áp dụng phương pháp quy nạp hoàn toàn, mà phải áp dụng phương pháp quy nạp không hoàn toàn. b) Quy nạp không hoàn toàn. a có t. b có t. a* c có t. b* d có t. S c* d* Mọi S có t Trong đó, tập hợp S có vô số các hiện tượng riêng lẻ a,b,c,d, Qua nghiên cứu chúng ta thấy rằng, một số đối tượng của lớp S có được thuộc tính t và ta cũng chưa thấy và chưa phát hiện ra được một đối tượng nào của lớp S lại không có thuộc tính t. Từ đó ta đưa ra kết luận khái quát: mọi S có t. 66
- Rõ ràng kết luận ở đây chưa đảm bảo chắc chắn. Bởi vì, chỉ cần phát hiện ra một đối tượng của lớp S không mang thuộc tính t thì kết luận sẽ bị bác bỏ. Kết luận càng đáng tin cậy khi số đối tượng của lớp S được nghiên cứu tăng. Chính vì vậy, kết luận đó chưa thể có giá trị khoa học. Nó chỉ mới gợi mở cho ta hướng phát hiện ra cái chung. Suy diễn và quy nạp là 2 phương pháp khác nhau, nhưng lại gắn liền với nhau và quy định lẫn cho nhau trong quá trình nhận thức. Thử hỏi cái chung mà suy diễn dùng làm điểm xuất phát, lấy ở đâu ra? Rõ ràng cái chung đó là kết quả của quá trình quy nạp. Điều đó có nghĩa là suy diễn phải dựa vào quy nạp. Tuy nhiên, như ta đã biết, quy nạp có trường hợp không thể tự chứng minh được kết luận của mình. Chúng ta không thể dừng lại ở kết luận của quy nạp, mà phải giải thích kết luận đó để vạch ra được tính quy nạp của kết luận đó. Chính suy diễn đã tham gia vào giải thích kết luận của quy nạp. 3.3. Chứng minh và bác bỏ giả thuyết: Trong thực tế, để giải thích một sự kiện mới, người ta đưa ra không phải chỉ có một, mà có thể đưa ra nhiều giả thuyết. Những giả thuyết này về sau hoặc là được bác bỏ, hoặc là được xác nhận, được chứng minh và trở thành những tri thức mới. Giả thuyết là một khâu tất yếu trong quá trình tìm tòi tri thức mới. Một giả thuyết nghiên cứu cần phải được kiểm chứng bằng lý thuyết, quan sát hoặc thực nghiệm. Nội dung kiểm chứng bao giờ cũng dẫn đến một trong hai trường hợp sau: + Chứng minh tính chân xác, tính đúng đắn của giả thuyết, hoặc + bác bỏ tính phi chân xác của một giả thuyết. Về mặt logic học, chứng minh hoặc bác bỏ là những hình thức của suy luận. a) Bác bỏ giả thuyết. Sự bác bỏ giả thuyết được thực hiện bằng cách phát hiện ra các sự kiện mâu thuẫn với hệ quả rút ra từ giả thuyết. Nếu thực tế bác bỏ hệ quả của giả thuyết, thì điều đó cũng có nghĩa là giả thuyết bị bác bỏ. G → h. ở đây G là giả thuyết. h H là hệ quả của giả thuyết G b) Chứng minh giả thuyết. 67
- Việc chứng minh giả thuyết thường được diễn ra rất phức tạp. Nếu như hệ quả của giả thuyết được xác nhận, được chứng minh, thì điều đó chưa có nghĩa là giả thuyết được chứng minh. Bởi vì, sơ đồ: G → h. h G Không là tất yếu logic Như vậy, nếu như mối quan hệ giữa giả thuyết G và hệ quả h của nó mới chỉ là G → h; thì việc h được xác nhận, chưa đủ để xác nhận G. Giả thuyết G chỉ được xác nhận, chỉ được chứng minh khi mối quan hệ giữa G và h được xác lập là G ⇔ h (h là điều kiện cần và đủ của G), và h đã được thực tế xác nhận. Bởi vì sơ đồ: G ⇔ h h G là tất yếu logic Trong thực tế, việc xác nhận G diễn ra rất phức tạp. Để chứng minh giả thuyết G, người ta thường tìm cách rút ra từ giả thuyết G, không phải chỉ là một hệ quả, mà là một số hệ quả, trong đó tập hợp các hệ quả này là điều kiện cần và đủ của giả thuyết G. G ⇔ (h1,h2,h3, ). Và nếu tất cả các hệ quả h1,h2,h3, đã được xác nhận, thì điều đó cũng có nghĩa là giả thuyết G được chứng minh, Bởi vì: G ⇔ (h1,h2,h3, ) (h1,h2,h3, ) là tất yếu logic G Tuy vậy, từ việc nghiên cứu trên, chúng ta có thể rút ra mấy đặc điểm nổi bật nhất, cơ bản nhất của logic hình thức trong quá trình chứng minh hay bác bỏ một giả thuyết là: - Đặc điểm thứ 1: Những quy luật của logic hình thức mới chỉ phản ánh được sự vật trong tính ổn định tương đối về chất, mà chưa phản ánh được sự biến đổi và phát triền của sự vật và hiện tượng. - Đặc điểm thứ 2: Logic hình thức mới chỉ quan tâm đến tính chính xác về mặt hình thức logic của các tư tưởng, mà chưa quan tâm đến nội dung cụ thể của các tư tưởng. Chính vì vậy, để chứng minh hay bác bỏ một giả thuyết, ngoài việc vận dụng lý luận của logic hình thức ta còn phải dựa vào logic biện chứng. 68
- Toàn bộ quá trình nghiên cứu khoa học là quá trình thu thập và xử lý thông tin để chứng minh hoặc bác bỏ các giả thuyết, nghiên cứu. Khi một giả thuyết nghiên cứu được chứng minh, thì quá trình nghiên cứu kết thúc. Ngược lại, khi một giả thuyết nghiên cứu bị bác bỏ, thì người nghiên cứu phải tiếp tục thu thập và xử lý thông tin để chứng minh giả thuyết, hoặc phải xem xét lại giả thuyết và thậm chí, phải đặt lại một giả thuyết khác. 69
- CHƯƠNG V PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC I. Khái niệm về phương pháp nghiên cứu kho 1. Khái niệm và đặc điểm Phương pháp là phạm trù trung tâm của phương pháp luận nghiên cứu khoa học, phương pháp không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, bởi vì chính phương pháp góp phần quyết định thành công của mọi quá trình nghiên cứu khoa học. Chúng ta sẽ tìm hiểu bản chất của phương pháp và các đặc điểm của nó. Bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử dụng một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương tiện để khám phá chính đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu là con đường dẫn nhà khoa học đạt tới mục đích sang tạo. Phân tích sâu sắc cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cho ta thấy những đặc điểm sau: a) Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể nhằm vào các đối tượng cụ thể, ở đây có hai điều chú ý là: Chủ thể và đối tượng. + Phương pháp là cách làm việc của chủ thể, cho nên nó gắn chặt với chủ thể và như vậy phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp chính là năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng chúng để khám phá chính đối tượng. + Phương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng và như vậy phương pháp có mặt khách quan. Mặt khách quan quy định việc chọn cách này hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng chỉ dẫn cách chọn phương pháp làm việc. Trong nghiên cứu khoa học cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan. Các quy luật khách quan tự chúng chưa phải là phương pháp nhưng nhờ có chúng mà ta phát hiện ra phương pháp. Ý thức về sự sang tạo của con người phải tiếp cận được các quy luật khách quan của thế giới. b) Phương pháp có tính mục đích vì mọi hoạt động của con người đều có mục đích, mục đích nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa chọn được phương 70
- pháp chính xác phù hợp thì sẽ làm cho mục đích nghiên cứu đạt tới nhanh hơn và đôi khi vượt qua các yêu cầu mà mục đích đã dự kiến ban đầu. c) phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung công việc quy định phương pháp làm việc. Trong mỗi đề tài khoa học có phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ phương pháp đặc trưng. d) Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt, đó là một hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự thành công nhanh chóng hay không của một hoạt động nghiên cứu chính là phát hiện được hay không logic tối ưu của các thao tác hoạt động và sử dụng nó một cách có ý thức. Chương trình hoạt động tối ưu đó chính là một Algorithm để giải bài toán sang tạo. Tìm ra được Algorithm cho một dạng hoạt động nào đó chính là đạt tới sự hoàn hảo về phương pháp trong dạng hoạt động đó. e) Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ cần có các phương tiện kĩ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và phương pháp là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau căn cứ vào đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp mà ta chọn các phương tiện phù hợp và nhiều khi phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu một đối tượng cụ thể nào đó. Chính các phương tiện kĩ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao. 2. Phân loại phương pháp Phương pháp nghiên cứu khoa học là một hệ thống phong phú. Chính vì sự phong phú ấy của phương pháp và cũng để tiện sử dụng, người ta tìm cách phân loại chúng. Trong thực tế có nhiều cách phân loại phương pháp: + Dựa vào phạm vi sử dụng người ta chia phương pháp thành: Những phương pháp chung nhất dùng cho tất cả các lĩnh vực khoa học, những phương pháp chung dùng cho một số ngành và những phương pháp đặc thù chỉ dùng cho một lĩnh vực cụ thể. + Dựa theo lý thuyết thông tin về quy trình nghiên cứu một để tài khoa học và người ta chia phương pháp thành ba nhóm: nhóm phương pháp thu thập thông tin, nhóm phương pháp sử lý thông tin và nhóm phương pháp trình bày thông tin. 71
- + Dựa theo tính chất và trình độ nghiên cứu của đối tượng người ta chia phương pháp thành: nhóm phương pháp mô tả, nhóm phương pháp giải thích và nhóm phương pháp phát hiện. + Dựa theo trình độ nhận thức khoa học chung của loài người, người ta chia phương pháp thành hai nhóm: nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn (còn gọi là phương pháp kinh nghiệm- Empirical Method) và phương pháp nghiên cứu lý thuyết (Theoretical Method). + Ngày nay toán học đã thâm nhập vào mọi khoa học đem lại sức sống mới cho khoa học, chính vì thế bên cạnh hai nhóm phương pháp nhận thức thực tiễn và lý thuyết, người ta có thêm một nhóm phương pháp mới: nhóm phương pháp Toán học. Do vậy nghiên cứu khoa học có ba nhóm phương pháp: nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn, nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nhóm phương pháp sử dụng Toán học. Trong thực tế tùy theo mục đích và đặc điểm chuyên ngành người ta sử dụng phối hợp nhiều phương pháp để hỗ trợ và kiểm tra lẫn nhau nhằm khẳng định các kết quả nghiên cứu. Trong một lĩnh vực khoa học có một sốcác phương pháp đặc trưng. Trong một đề tài người ta có thể sử dụng một hệ thống nhiều phương pháp phối hợp, được gọi là phương pháp hệ (Methodica). Sau đây chúng ta nghiên cứu hệ thống các phương pháp chung nhất theo trình độ nhận thức khoa học. II. Hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học chung nhất. 1. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn đó là nhóm các phương pháp trực tiếp tác động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và các quy luật vận động của các đối tượng ấy. Nhóm này có các phương pháp cụ thể sau đây: a. Phương pháp quan sát kho Quan sát khoa học là phương pháp tri giác đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin về đối tượng. Đây là một hình thức quan trọng của nhận thức kngh thông tin, nhờ quan sát mà ta có thông tin về đối tượng, trên cơ sở đó mà tiến hành các bước tìm tòi và khám phá tiếp theo. Quan sát khoa học được tiến hành trong thời gian dài hay ngắn, không gian rộng hay hẹp, đối tượng nhiều hay ít tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của các 72
- đề tài. Các tài liệu quan sát qua xử lý đặc biệt cho ta những kết luận đầy đủ, chính xác về đối tượng. Có hai loại quan sát khoa học: quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp. - Quan sát trực tiếp là quan sát trực diện đối tượng đang diễn biến trong thực tế bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kĩ thuật như: máy quan trắc, kính thiên văn, kính hiển vi để thu thập thông tin một cách trực tiếp. - Quan sát gián tiếp là quan sát diễn biến hiệu quả của các tác động tương tác giữa đối tượng cần quan sát với các đối tượng khác, mà bản thân đối tượng không thể quan sát trực tiếp được, thí dụ: Nghiên cứu các phương pháp nguyên tử, hóa học lượng tử Các đối tượng nghiên cứu khoa học có thể là đơn lẻ, có thể là số đông. Các đối tượng đó có thể đang vận động trong môi trường tự nhiên hay trong môi trường nhân tạo. Người quan sát có thể là nhà khoa học hay các cộng tác viên. Quan sát khoa học có ba chức năng: + Chức năng thu thập thông tin thực tiễn, đây là chức năng quan trọng nhất. Các tài liệu này qua xử lý cho ra những thông tin có giá trị về đối tượng. + Cn kiểm chứng các giả thuyết hay các lý thuyết đã có. Trong nghiên cứu khoa học khi cần xác minh tính đúng đắn của các lý thuyết hay giả thuyết nào đó, các nhà khoa học cần phải thu thập các tài liệu từ thực tiễn để kiểm chứng. Qua thực tiễn kiểm nghiệm mới khẳng định được độ tin cậy của lý thuyết. + Chức năng đối chiếu các kết quả nghiên cứu lý thuyết với thực tiễn để tìm ra sự sai lệch của chúng, mà tìm cách bổ khuyết, hoàn thiện lý thuyết. Quá trình quan sát được tiến hành như sau: + Xác định đối tượng quan sát trên cơ sở mục đích của đề tài đồng thời xác định cả các phương diện cụ thể của đối tượng cần phải quan sát. + Lập kế hoạch quan sát: thời gian, địa điểm, số lượng đối tượng, người quan sát, phương diện cụ thể của đối tượng cần phải quan sát. + Lựa chọn phương thức quan sát: quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp, quan sát bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kĩ thuật, quan sát một lần hay nhiều lần, số người quan sát, địa điểm, thời điểm và khoa họcảng cách thời gian cho mỗi lần quan sát + Tiến hành quan sát đối tượng hết sức thận trọng, phải theo dõi từng diễn biến dù là nhỏ nhất kể cả ảnh hưởng của những tác động khác từ bên ngoài tới đối tượng. 73
- + Xử lý tài liệu: Các tài liệu do các cá nhân quan sát được là tài liệu cảm tính, mang tính chủ quan, chưa phải là tài liệu khoa học. Các tài liệu này cần phải được xử lý thận trọng bằng cách phân loại, hệ thống hóa, bằng thống kê toán học, bằng máy tính mới đáng tin cậy, các tài liệu qua xử lý cho ta thông tin cô đọng và khái quát về đối tượng. + Để kiểm tra các kết quả quan sát khách quan, người ta thường sử dụng một loại các biện pháp hỗ trợ khác như: trao đổi trực tiếp với nhân chứng, lặp lại quan sát nhiều lần, sử dụng người có trình độ cao hơn để quan sát lại Bất cứ một quan sát nào cũng đều do con người thực hiện, cho nên phải tính đến các đặc điểm của quá trình quan sát. Để tránh những sai sót có thể xảy ra cần lưu ý một số điểm sau đây: - Một là: Chủ thể quan sát là các nhà khoa học hay các cộng tác viên. Đã là con người đều bị các quy luật tâm lý chi phối. Mỗi cá nhân đều có tính chủ quan. Chủ quan ở trình độ kinh nghiệm, ở thế giới quan, ở cảm xúc. Quan sát bao giờ cũng thông qua lăng kính chủ quan, có “cái tôi” trong sản phẩm. Ngay cả khi sử dụng máy quay phim “vô tri” người cầm máy cũng vẫn quay theo góc độ mà họ muốn. Các chủ quan có thể là nguồn gốc của mọi sự sai lệch, thậm chí có thể “xuyên tạc” sự thật. - Hai là: Phải chú ý tới các quy luật của cảm giác, tri giác như quy luật lựa chọn, quy luật thích ứng với các ảo giác - Ba là: Đối tượng quan sát là thế giới phức tạp. Sự chính xác của quan sát một mặt do trình độ của con người, mặt khác do sự bộc lộ của chính đối tượng. Đối tượng nằm trong một hệ thống có mối quan hệ phức tạp với đối tượng phức tạp khác, nó lại luôn vận động, phát triền và biến đổi. Cho nên việc xác định đúng các chỉ số trọng tâm về đối tượng cần quan sát là điều rất quan trọng. Tóm lại, quan sát là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng tuy nhiên chúng chưa đạt tới trình độ nhận thức bản chất bên trong của đối tượng, càn phải sử dụng phối hợp quan sát với các phương pháp khác để đạt tới kết quả bản chất và khách quan. b) Phương pháp điều tra Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng nhằm phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát triền những đặc điểm về mặt định tính và định hướng của các đối tượng cần nghiên cứu. 74
- Các tài liệu điều tra được sẽ là những thông tin quan trọng về đối tượng cần cho các quá trình nghiên cứu và là căn cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp khoa học hay giải pháp thực tiễn. Có hai loại điều tra: điều tra cơ bản và điều tra xã hội học: + Điều tra cơ bản là khảo sát sự có mặt của các đối tượng trên một diện rộng, để nghiên cứu các quy luật phân bố cũng như các đặc điểm về mặt định tính và định hướng. Thí dụ: Điều tra địa hình, địa chất, điều tra dân số, trình độ văn hóa, điều tra chỉ số thông minh (IQ) của trẻ em, điều tra khả năng tiêu thụ hàng hóa + Điều tra xã hội là điều tra quan điểm, thái độ của quần chúng về motọ sự kiện chính trị, xã hội hiện tượng văn hóa, thị hiếu Thí dụ: Điều tra nguyện vọng nghề nghiệp của thanh niên, điều tra hay trưng cầu dân ý về bản hiến pháp mới Điều tra là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, một hoạt động có mục đích, có kế hoạch, được tiến hành một cách thận trọng. c) Phương pháp thực nghiệm khoa học Thực nghiệm khoa học (Experiment) là phương pháp đặc biệt quan trọng của nghiên cứu thực tiễn, trong đó các nhà khoa học chủ động tác động vào đối tượng và quá trình diễn biến sự kiện mà đối tượng tham gia, để hướng dẫn sự phát triền của chúng theo mục tiêu dự kiến của mình. Thực nghiệm thành công sẽ cho ta các kết quả khách quan và như vậy là mục đích khám phá khoa học được thực hiện một cách hoàn toàn chủ động. Thực nghiệm là phương pháp được coi là quan trọng nhất, một phương pháp thủ công trong nghiên cứu khoa học hiện đại. Trong lịch sử nhiều thế kỷ của mình, thực nghiệm tỏ ra có sức sống. Ngay từ khi xuất hiện, thực nghiệm đã có ý nghĩa như là một cuộc cách mạng tronog nghiên cứu khoa học, làm đảol ộn tư duy khoa học kiểu cũ và nó được sử dụng triệt để trong nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là các khoa học tự nhiên. Thực nghiệm đã làm đẩy nhanh quá trình nghiên cứu khoa học và tạo khả năng vận dụng nhanh chóng các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn sản xuất. Chính vì vậy, một số bộ môn khoa học tự nhiên được mệnh danh là khoa học thực nghiệm. Hiệu quả của phương pháp thực nghiệm làm tăng trình độ kĩ thuật thực hành nghiên cứu đạt tới mức tinh vi và làm phát triền cả khả năng tư duy lý thuyết. Thực nghiệm đã tạo ra một hướng nghiên cứu mới, phương pháp hoàn toàn chủ động trong sáng tạo khoa học. Ngày nay thực nghiệm đã được sử dụng 75
- cả trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và đem lại những kết quả quan trọng. Phương pháp thực nghiệm có những đặc điểm sau đây: + Thực nghiệm được tiến hành xuất phát từ một giả thuyết hay phỏng đoán về sự diễn biến tốt hơn của đối tượng nếu ta chú ý đến một số biến số quan trọng và bỏ một số biến số thứ yếu. Nghĩa là thực nghiệm được tiến hành để khẳng định tính chân thực của phỏng đoán hay giả thuyết đã nêu. Thực nghiệm thành công sẽ góp phần tạo nên một lý thuyết mới. + Thực nghiệm được tiến hành có kế hoạch như là thực hiện một chương trình khoa học cần hết sức chi tiết và chính xác. Kế hoạch thực nghiệm đòi hỏi phải miêu tả hệ thống các biến số theo một chương trình. Có hai loại biến số: biến số độc lập và biến số phụ thuộc. Biến số độc lập là những nhân tố thực nghiệm có thể điều khiển được và kiểm tra được, nhờ có chúng mà sự kiện sẽ diễn ra khác thường. Biến số phụ thuộc là những diễn biến của sự kiện khác với thông thường do các biến số độc lập quy định và đó chính là kết quả sau tác động thực nghiệm. + Với mục đích kiểm tra giả thuyết, các nghiệm thể (đối tượng thực nghiệm) được chia thành hai nhóm: nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng (còn gọi là nhóm kiểm chứng). Hai nhóm này được lựa chọn ngẫu nhiên, có số lượng và trình độ phát triền ngang nhau, điều đó được khẳng định bằng kiểm tra chất lượg ban đầu. Nhóm thực nghiệm bị tác động bằng những biến số độc lập (nhân tố thực nghiệm) để xem xét sự diễn biến có đúng với giả thuyết ban đầu hay không? Nhóm đối chứng cho diễn biến phát triền hoàn toàn tự nhiên không làm thay đổi bất cứ điều gì khác thường, đó là cơ sở để kiểm tra những kết quả thay đổi của nhóm thực nghiệm. Nhờ những khác biệt của hai nhóm mà ta có thể khẳng định hay phủ định giả thuyết của thực nghiệm. Vì những đặc điểm trên cho nên việc tổ chức thực nghiệm được tiến hành như sau: + Xây dựng giả thuyết thực nghiệm trên cơ sở phân tích kỹ các biến số độc lập. + Để đảm bảo tính phổ biến của kết quả thực nghiệm, cần chọn các đối tượng thực nghiệm tiêu biểu cho cả lớp đối tượng nghiên cứu. Các đối tượng này chia thành hai nhóm: nhóm thực nghiệm và đối chứng tương đương nhau về số lượng và chất lượng. Tổ chức kiểm tra ban đầu để khẳng định tính tương đương đó. 76
- + Tiến hành các bước thực nghiệm thận trọng đối với mục tiêu mà giả thuyết đã đề ra. Phải theo dõi sát sao tất cả những diễn biến một cách khách quan của hai nhóm trong từng giai đoạn. + Các kết quả thực nghiệm được sử lý thận trọng bằng việc phân tích, phân loại, bằng thống kê toán học hay bằng máy tính để khẳng định mối liên hệ của các biến số trong nghiên cứu không phải ngẫu nhiên mà là mối liên hệ nhân quả xét theo bản chất của chúng. + Kết quả thực nghiệm cho ta cơ sở để khẳng định giả thuyết, từ đó đề xuất những khả năng ứng dụng vào thực tiễn. Trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và kĩ thuật người ta còn sử dụng phương pháp thí nghiệm. Thí nghiệm được tiến hành trong các la bộ (laboratory) với những thủ đoạn kĩ thuật nhằm phát hiện đặc điểm và các quy luật phát triền của đối tượng nghiên cứu. Thí nghiệm thực hiện trên cơ sở thay đổi dần các dữ kiện hay các chỉ số định tính và định lượng của những thành phần tham gia sự kiện và lặp lại nhiều lần nhằm xác định tính ổn định của đối tượng nghiên cứu. Thí dụ: thí nghiệm trong Vật lý, Hóa học hay thí nghiệm Kĩ thuật Thí nghiệm, có thể là một bước, một bộ phận của các thực nghiệm khoa học. Từ kết quả của những thí nghiệm có thể chuyển dần thành lý thuyết thực nghiệm. Thực nghiệm và thí nghiệm về bản chất cũng là để tìm tòi hay chứng minh cho một ý tưởng, một giả thuyết khoa học nào đó. d) Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm là phương pháp nghiên cứu xem xét lại những thành quả của hoạt động thực tiễn trong quá khứ để rút ra những kết luận bổ ích cho thực tiễn và cho khoa học. Tổng kết kinh nghiệm thường hướng vào nghiên cứu diễn biến và nguyên nhân của các sự kiện và nghiên cứu các giải pháp thực tiễn đã áp dụng trong sản xuất hay trong hoạt động xã hội để tỉm ra các giải pháp hoàn hảo nhất. Tổng kết kinh nghiệm cũng còn nhằm phát hiện logic các bước đi để giải một bài toán sáng tạo trên cơ sở phân tích một loạt các thông tin về một giải pháp, thí dụ giải pháp kĩ thuật. Đây chính là con đường sáng tạo theo quy chế algorithm. e) Phương pháp chuyên gia Phương pháp chuyên gia là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có trình độ cao của một chuyên ngành để xem xét, nhận định bản 77
- chất một sự kiện khoa học hay thực tiễn phức tạp, để tìm ra giải pháp tối ưu cho các sự kiện đó hay phân tích, đánh giá một sản phẩm khoa học. Ý kiến của từng chuyên gia bổ sung cho nhau, kiểm tra lẫn nhau và các ý kiến giống nhau của đa số chuyên gia về một nhận định hay một giải pháp thì được coi là kết quả nghiên cứu. Phương pháp chuyên gia là phương pháp rất kinh tế, nó làm tiết kiệm về thời gian, sức lực và tài chính để triển khai nghiên cứu. Tuy nhiên nó chủ yếu dựa trên cơ sở trực cảm hay kinh nghiệm của chuyên gia, vì vậy chỉ nên sử dụng khi các phương pháp khác không có điều kiện thực hiện hay không thể thực hiện được. 2. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phương pháp nghiên cứu lý thuyết là nhóm các phương pháp thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duy logic để rút ra các kết luận khoa học cần thiết. Nhóm phương pháp lý thuyết gồm các phương pháp cụ thể sau đây: a. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết. Phương pháp phân tích lý thuyết là phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài liệu lý luận khác nhau về một chủ thể bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận, từng mặt theo lịch sử thời gian, để hiểu chúng một cách đầy đủ toàn diện. Phân tích lý thuyết còn nhằm phát hiện ra những xu hướng, những trường phái nghiên cứu của từng tác giả và từ đó chọn lọc những thông tin quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình. Phương pháp tổng hợp lý thuyết là những phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được để được tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. Tổng hợp lý thuyết được thực hiện khi ta đã thu thập được nhiều tài liệu phong phú về một đối tượng. Tổng hợp cho chúng ta tài liệu toàn diện và khái quát hơn các tài liệu đã có. Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp có chiều hướng đối lập nhau song chúng lại thống nhất biện chứng với nhau. Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp và tổng hợp lại giúp cho phân tích càng sâu sắc hơn. Nghiên cứu lý thuyết thường bắt đầu từ phân tích các tài liệu đã tìm ra cấu trúc các lý thuyết, các trường phái, các xu hướng phát triền của lý thuyết. Từ 78
- phân tích người ta lại tổng hợp chúng lại để xây dựng thành một hệ thống khái niệm, phạm trù, tiến tới tạo thành các lý thuyết khoa học mới b. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết. Phân loại là phương pháp sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triền. Phân loại làm cho khoa học từ chỗ có kết cấu phức tạp trong nội dung thành cái dễ nhận thấy, dễ sử dụng theo mục đích nghiên cứu của các đề tài. Phân loại còn giúp phát hiện các quy luật phát triền của khách thể, cũng như sự phát triền của kiến thức khoa học, để từ đó mà dự đoán được các xu hướng phát triền mới của khoa học và thực tiễn. Phương pháp hệ thống hóa là phương pháp sắp xếp tri thức khoa học thành hệ thống trên cơ sở một mô hình lý thuyết làm cho sự hiểu biết của ta về đối tượng được đầy đủ và sâu sắc. Hệ thống hóa là phương pháp tuân theo quan điểm hệ thống- cấu trúc trong nghiên cứu khoa học. Những thông tin đa dạng thu thập từ các nguồn, các tài liệu khác nhau, nhờ phương pháp hệ thống hóa mà ta có được một chính thể với một kết cấu chặt chẽ để từ đó mà ta xây dựng một lý thuyết mới hoàn chỉnh. Phân loại và hệ thống hóa là hai phương pháp đi liền với nhau, trong phân loại đã có yếu tố hệ thống hóa, hệ thống hóa phải dựa trên cơ sở của phân loại và hệ thống hóa làm cho phân loại được đầy đủ và chính xác hơn. Phân loại và hệ thống hóa là hai bước tiến để tạo ra những kiến thức mới sâu sắc và toàn diện. c. Mô hình hóa: Mô hình hóa là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng khoa học bằng xây dựng gần giống với đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở tái hiện lại những mối liên hệ cơ cấu- chức năng, mối liên hệ nhân quả của các yếu tố trong đối tượng. Đặc tính quan trọng của mô hình là sự tương ứng của nó với nguyên bản, mô hình thay thế đối tượng và bản thân nó lại trở thành đối tượng để nghiên cứu, chính mô hình là phương tiện để thu nhận thông tin mới. Mô hình là sự tái hiện đối tượng nghiên cứu dưới dạng trực quan. Tri thức thu được từ nghiên cứu các mô hình là cơ sở để chuyển sang nghiên cứu nguyên bản sinh động, phong phú và phức tạp hơn. Mô hình lý thuyết có nhiệm vụ xây dựng cấu trúc cái mới chưa có trong hiện thực tức là mô hình hóa cái chưa biết để nghiên cứu chúng. Như vậy mô 79
- hình vẫn là cái giả định, vì thế mà nó còn được gọi là mô hình giả thuyết. Mô hình hóa được coi là một hình thức thử nghiệm tư duy, một cố gắng để tìm ra bản chất của sự kiện cần nghiên cứu. Tóm lại, mô hình hóa là phương thức chuyển cái trừu tượng thành cái cụ thể, dùng cái cụ thể để nghiên cứu cái trừu tượng, đó là một phương pháp nhận thức quan trọng. d. Phương pháp giả thuyết Phương pháp giả thuyết là phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách dự đoán bản chất của đối tượng và tìm cách chứng minh các dự đoán đó. Như vậy phương pháp giả thuyết có hai chức năng: chức năng dự đoán và chức năng chỉ đường, trên cơ sở dự đoán mà tìm bản chất của sự kiện. Với hai chức năng đó giả thuyết đóng vai trò là một phương pháp nhận thức. Trong nghiên cứu khoa học khi phát hiện ra các hiện tượng lạ mà với kiến thức đã có, không thể giải thích được, người ta thường tiến hành bằng so sánh hiện tượng chưa biết với các hiện tượng đã biết, tri thức cũ với trí tưởng tượng sáng tạo mà hình dung cái cần tìm. Đó chính là thao tác xây dựng giả thuyết. Trong giả thuyết, dự đoán được lập luận theo lối giả định- suy diễn, có tính xác suất, cho nên cần phải chứng minh. Chứng minh giả thuyết được thực hiện bằng hai cách: chứng minh trực tiếp và chứng minh gián tiếp. Chứng minh trực tiếp là phép chứng minh dựa vào các luận chứng chân thực và bằng các quy tắc suy luận để rút ra luận đề. Chứng minh gián tiếp là phép chứng minh khẳng định rằng phản luận đề là gian dối và từ đó rút ra luận đề chân thực. Với tư cách là phương pháp biện luận, giả thuyết được sử dụng như là một thí nghiệm của tư duy, thử nghiệm thiết kế các hành động lý thuyết. Suy diễn để rút ra các kết luận chân thực từ giả thuyết là thao tác logic quan trọng của quá trình nghiên cứu khoa học. e. Phương pháp lịch sử Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu bằng đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triền và biến hóa của đối tượng, để phát hiện bản chất và quy luật của đối tượng. Mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử của mình, tức là có nguồn gốc phát sinh, có vận động phát triền và tiêu vong. Quy trình phát triền lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của nó, với mọi sự thay đổi, những bước quanh co, những cái ngẫu nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, muôn hình, muôn vẻ, trong các hoàn cảnh khác nhau và theo một trật tự thời gian nhất 80
- định. Đi theo dấu vết của lịch sử chúng ta sẽ có bức tranh trung thực về bản thân đối tượng nghiên cứu. 3. Nhóm phương pháp toán học trong nghiên cứu khoa học. Sự phát triền mạnh mẽ của khoa học hiện đại đã dẫn đến hai xu hướng phát triền trong nghiên cứu khoa học. + Một là, khoa học sử dụng các thiết bị kĩ thuật hiện đại để tiến hành các hoạt động nghiên cứu. Các thiết bị kĩ thuật là công cụ hỗ trợ đắc lực trong quan sát, thực nghiệm và xử lý các tài liệu thu thập được. Hai là, khoa học đã sử dụng các lý thuyết toán học vào việc tìm ra các lý thuyết chuyên ngành. Xu hướng “toán học hóa” mở ra con đường mới giúp khoa học đạt tới độ chính xác, sâu sắc để từ đó khám phá bản chất và các quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Khoa học hiện đại sử dụng toán học với hai mục đích: + Một là: sử dụng Toán học thống kê như một công cụ xử lý các tài liệu đã thu thập được từ các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: quan sát, điều tra hay thực nghiệm làm cho các kết quả nhu cầu trở nên chính xác, đảm bảo độ tin cậy. + Hai là: sử dụng các lý thuyết Toán học và phương pháp logic Toán học để xây dựng các lý thuyết chuyên ngành. Nhiều công thức toán học đặc biệt được dùng để tính toán các thông số có liên quan tới đối tượng, từ đó tìm ra được các quy luật của đối tượng. Trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, Toán học thật sự là một công cụ đắc lực. Khoa học tự nhiên và Toán học đi liền như hình với bóng, thiếu vắng phương pháp Toán học không thể tiến hành nghiên cứu khoa học tự nhiên. Trong nghiên cứu khoa học xã hội, từ sự xác định, chọn mẫu nghiên cứu, Toán học đã tham gia một cách tích cực và khi xử lý tài liệu Toán học đã làm tăng tính chính xác khách quan của các kết quả nghiên cứu và nhờ đó các kết luận của các công trình nghiên cứu có tính thuyết phục cao. 81



