Giáo trình Nghiệp vụ văn thư lưu trữ

pdf 85 trang ngocly 1380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Nghiệp vụ văn thư lưu trữ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nghiep_vu_van_thu_luu_tru.pdf

Nội dung text: Giáo trình Nghiệp vụ văn thư lưu trữ

  1. Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC VĂN THƯ I. Khái niệm, nội dung và yêu cầu của công tác văn thư. 1. Khái niệm Văn thư là từ gốc Hán, dùng để chỉ các loại văn bản, giấy tờ. “Văn” có nghĩa là văn tự, “thư” có nghĩa là thư tịch. Theo quan niệm của các triều đại phong kiến trước đây thì làm công tác văn thư tức là làm những công việc có liên quan đến văn tự, thư tịch. Ngày nay, khái niệm văn thư không còn xa lạ trong các cơ quan, tổ chức bởi tất cả các cơ quan đều sử dụng văn bản, giấy tờ làm phương tiện giao tiếp chính thức với nhau. Làm các công việc như soạn thảo văn bản, quản lý văn bản tức là làm công tác văn thư. Như vậy có thể định nghĩa công tác văn thư như sau: Công tác văn thư là hoạt động bảo đảm thông tin bằng văn bản phục vụ cho việc lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành công việc của các cơ quan Đảng, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức Chính trị - Xã hội, các đơn vị Vũ trang Nhân dân (dưới đây gọi chung là các cơ quan, tổ chức). Từ khái niệm trên ta có thể thấy rằng công tác văn thư có mặt ở hầu hết các cơ quan, đơn vị. Hoạt động này trở thành hoạt động thường xuyên ở cơ quan, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng quản lý của cơ quan và trong một chừng mực nhất định nó quyết định hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. 2. Nội dung Công tác văn thư bao gồm những nội dung dưới đây: 2.1. Soạn thảo và ban hành văn bản: - Thảo văn bản. - Duyệt văn bản. - Đánh máy, in ấn, sao chụp văn bản. - Ký văn bản.
  2. 2.2. Quản lý văn bản và các tài liệu khác hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức. - Quản lý văn bản đi. - Quản lý và giải quyết văn bản đến. - Lập hồ sơ và giao nộp hồ sơ, tài liệu vào lưu trữ cơ quan. 2.3. Quản lý và sử dụng con dấu. - Các loại con dấu. - Bảo quản con dấu. - Sử dụng con dấu. 3. Yêu cầu công tác văn thư Trong quá trình thực hiện các nội dung công việc, công tác văn thư ở các cơ quan phải bảo đảm các yêu cầu dưới đây: 3.1. Nhanh chóng Quá trình giải quyết công việc của cơ quan phụ thuộc nhiều vào việc xây dựng văn bản và tổ chức quản lý, giải quyết văn bản. Do đó, xây dựng văn bản nhanh chóng, giải quyết văn bản kịp thời sẽ góp phần vào việc giải quyết nhanh chóng mọi công việc của cơ quan. Giải quyết văn bản chậm sẽ làm giảm tiến độ giải quyết công việc của mọi cơ quan, giảm ý nghĩa của sự việc được đề cập trong văn bản. Đồng thời gây tốn kém tiền của, công sức và thời gian của cơ quan. 3.2. Chính xác - Chính xác về nội dung của văn bản: + Nội dung văn bản phải tuyệt đối chính xác về mặt pháp lý, tức là phải phù hợp với Hiến pháp, Pháp luật và các văn bản quy định của các cơ quan nhà nước cấp trên. + Dẫn chứng hoặc trích dẫn ở văn bản phải hoàn toàn chính xác, phù hợp thực tế, không thêm bớt, bịa đặt, không che dấu sự thật + Số liệu phải đầy đủ, chứng cứ phải rõ ràng. - Chính xác về thể thức văn bản: + Văn bản ban hành phải có đầy đủ các thành phần do Nhà nước quy
  3. định: Quốc hiệu; Tác giả; Số, ký hiệu văn bản; Địa danh, ngày tháng năm ban hành; Tên loại trích yếu nội dung văn bản; Nội dung; Thể thức đề ký, chữ ký, con dấu của cơ quan; Nơi nhận văn bản. Các yếu tố thông tin nêu trên phải được trình bày đúng vị trí, phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ. + Mẫu trình bày phải đúng tiêu chuẩn Nhà nước ban hành. - Chính xác về khâu kỹ thuật nghiệp vụ: + Yêu cầu chính xác phải được quán triệt một cách đầy đủ trong tất cả các khâu nghiệp vụ như đánh máy văn bản, đăng ký văn bản, chuyển giao văn bản + Yêu cầu chính xác còn phải được thể hiện trong thực hiện đúng với các chế độ quy định của Nhà nước về công tác văn thư. 3.3. Bí mật Trong nội dung văn bản đến, văn bản đi của cơ quan có nhiều vấn đề thuộc phạm vi bí mật của cơ quan, của Nhà nước. Vì vậy, từ việc xây dựng văn bản và tổ chức quản lý, giải quyết văn bản, bố trí phòng làm việc của cán bộ văn thư đến việc lựa chọn cán bộ văn thư của cơ quan đều phải bảo đảm yêu cầu đã được quy định trong Pháp lệnh bảo vệ bí mật Quốc gia của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. 3.4. Hiện đại Việc thực hiện những nội dung cụ thể của công tác văn thư gắn liền với việc sử dụng các phương tiện và kỹ thuật văn phòng hiện đại. Vì vậy, yêu cầu hiện đại hoá công tác văn thư đã trở thành một trong những tiền đề bảo đảm cho công tác quản lý Nhà nước nói chung và của mỗi cơ quan nói riêng và có năng suất, chất lượng cao. Hiện đại hoá công tác văn thư ngày nay tuy đã trở thành một nhu cầu cấp bách, nhưng phải tiến hành từng bước, phù hợp với trình độ khoa học công nghệ chung của đất nước cũng như điều kiện cụ thể của mỗi cơ quan. Cần tránh những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, coi thường việc áp dụng các phương tiện hiện đại, các phát minh sáng chế có liên quan đến việc nâng cao hiệu quả của công tác văn thư. II. Vị trí, ý nghĩa của công tác văn thư. 1. Vị trí của công tác văn thư Công tác văn thư được xác định là một mặt hoạt động của bộ máy quản lý nói chung. Trong Văn phòng, công tác văn thư không thể thiếu được và là nội dung quan trọng, chiếm một phần rất lớn trong nội dung hoạt động của
  4. Văn phòng. Như vậy, công tác văn thư gắn liền với hoạt động của các cơ quan được xem như một mặt hoạt động quản lý Nhà nước, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng quản lý Nhà nước. 2. Ý nghĩa của công tác văn thư. a. Công tác văn thư bảo đảm cung cấp kịp thời đầy đủ, chính xác những thông tin cần thiết phục vụ nhiệm vụ quản lý Nhà nước của mỗi cơ quan, đơn vị nói chung. Công tác quản lý Nhà nước đòi hỏi phải có đủ thông tin cần thiết. Thông tin phục vụ quản lý được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó nguồn thông tin chủ yếu nhất, chính xác nhất là thông tin bằng văn bản. Về mặt nội dung công việc có thể sắp xếp công tác văn thư vào hoạt động bảo đảm thông tin cho công tác quản lý Nhà nước mà văn bản chính là phương tiện chứa đựng, truyền đạt, phổ biến những thông tin mang tính pháp lý. b. Làm tốt công tác văn thư sẽ góp phần giải quyết công việc của cơ quan được nhanh chóng, chính xác, năng suất, chất lượng, đúng chính sách, đúng chế độ, giữ gìn được bí mật của Đảng và Nhà nước; hạn chế được bệnh quan liêu giấy tờ, giảm bớt giấy tờ vô dụng và việc lợi dụng văn bản của Nhà nước để làm những việc trái pháp luật. c- Công tác văn thư bảo đảm giữ lại đầy đủ chứng cứ về mọi hoạt động của cơ quan cũng như hoạt động của các cá nhân giữ các trách nhiệm khác nhau trong cơ quan. Nếu trong quá trình hoạt động của cơ quan, các văn bản giữ lại đầy đủ, nội dung văn bản chính xác, phản ánh chân thực các hoạt động của cơ quan thì khi cần thiết, các văn bản sẽ là bằng chứng pháp lý chứng minh cho hoạt động của cơ quan một cách chân thực. d- Công tác văn thư bảo đảm giữ gìn đầy đủ hồ sơ, tài liệu, tạo điều kiện làm tốt công tác lưu trữ. Nguồn bổ sung chủ yếu, thường xuyên cho tài liệu lưu trữ quốc gia là các hồ sơ, tài liệu có giá trị trong hoạt động của các cơ quan được giao nộp vào lưu trữ cơ quan. Trong quá trình hoạt động của mình, các cơ quan cần tổ chức tốt việc lập hồ sơ và nộp hồ sơ tài liệu vào lưu trữ. Hồ sơ lập càng hoàn chỉnh, văn bản giữ càng đầy đủ bao nhiêu thì chất lượng tài liệu lưu trữ càng được tăng lên bấy nhiêu; đồng thời, công tác lưu trữ có điều kiện thuận lợi để triển khai các mặt nghiệp vụ. Ngược lại, nếu chất lượng hồ sơ lập không tốt, văn bản giữ lại không đầy đủ thì chất lượng hồ sơ tài liệu nộp vào lưu trữ không đảm bảo, gây khó khăn cho lưu trữ trong việc tiến hành các hoạt động nghiệp vụ, làm cho tài liệu phòng Lưu trữ Quốc gia không được hoàn chỉnh. III- Những yêu cầu đối với cán bộ văn thư cơ quan.
  5. Tính chất, nội dung công việc và quan hệ tiếp xúc hàng ngày đòi hỏi người cán bộ văn thư cơ quan phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản trên các lĩnh vực như: - Yêu cầu về phẩm chất chính trị - Yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ - Những yêu cầu khác. 1. Yêu cầu về phẩm chất chính trị. Người cán bộ văn thư cơ quan hằng ngày tiếp xúc với văn bản, có thể nắm được những hoạt động quan trọng của cơ quan, trong đó có cả những vấn đề có tính chất bí mật. Vì vậy, đòi hỏi đầu tiên với người cán bộ văn thư là yêu cầu về phẩm chất chính trị. Nói chung người cán bộ văn thư phải có phẩm chất chính trị tốt. Cụ thể là: - Người cán bộ văn thư phải có lòng trung thành. Lòng trung thành ấy phải được thể hiện bằng sự trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa, và trung thành với các cơ quan và trung thành với chính bản thân mình; - Người cán bộ văn thư phải tuyệt đối tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, giữ vững lập trường của giai cấp vô sản trong bất cứ tình huống nào. - Người cán bộ văn thư phải luôn luôn có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, coi việc chấp hành luật pháp là nghĩa vụ của mình. - Người cán bộ văn thư phải luôn luôn rèn luyện bản thân, coi việc học tập chính trị, nâng cao trình độ hiểu biết về Đảng, về Nhà nước, về giai cấp vô sản là nhiệm vụ thường xuyên. 2. Yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ. Yêu cầu về nghề nghiệp chuyên môn của cán bộ văn thư phải được thể hiện trên hai mặt: Lý luận nghiệp vụ và kỹ năng thực hành. - Về lý luận nghiệp vụ: Người cán bộ văn thư phải nắm vững lý luận nghiệp vụ công tác văn thư, trong đó biểu hiện nội dung nghiệp vụ, cơ sở khoa học và điều kiện thực tiễn để tiến hành đối với nghiệp vụ đó. Bên cạnh sự hiểu biết về nghiệp vụ chuyên môn phải có sự hiểu biết một số nghiệp vụ cơ bản khác để hỗ trợ cho nghiệp vụ chuyên môn của mình. Điều quan trọng
  6. đặt ra là không những chỉ học tập về lý luận nghiệp vụ ở trường mà còn phải có ý thức luôn luôn học tập nâng cao trình độ lý luận nghiệp vụ trong suốt quá trình công tác; từng bước hoàn thiện bản thân mình cùng với sự hoàn thiện lý luận nghiệp vụ. Về kỹ năng thực hành: Người cán bộ văn thư không chỉ nắm vững lý luận nghiệp vụ mà phải có kỹ năng thực hành. Chính kỹ năng thực hành sẽ là thước đo năng lực thực tế của người cán bộ văn thư. Không thể nói: người cán bộ văn thư giỏi mà không thực hành các nghiệp vụ công tác văn thư một cách thành thạo, có chất lượng và năng suất cao. Qúa trình thực hành các nhiệm vụ cụ thể của công tác văn thư không những giúp cán bộ văn thư từng bước nâng cao tay nghề mà còn giúp vào việc nâng cao trình độ lý luận nghiệp vụ. 3. Những yêu cầu khác. Tính chất nội dung công việc đòi hỏi người cán bộ văn thư của cơ quan không những phải có các yêu cầu cơ bản của bất cư lao động nào như tính trung thực thẳng thắn, chân thành, nhanh nhẹn, kịp thời, bền bỉ, cởi mở, kỷ luật, kiên quyết, công bằng mà còn đòi hỏi phải có những yêu cầu dưới đây: 3.1. Tính bí mật Tính bí mật ở người cán bộ văn thư phải được thể hiện cụ thể: - Có sự kín đáo. - Có ý thức giữ gìn bí mật - Bất cứ trong trường hợp nào khi ra khỏi phòng làm việc không được để văn bản, tài liệu trên bàn; những ghi chép có nội dung quan trọng không được vứt vào sọt rác. - Luôn luôn cảnh giác, không để kẻ gian lợi dụng sơ hở để nắm bí mật của Nhà nước, bí mật của cơ quan. 3.2. Tính tỉ mỉ. Nội dung công việc hằng ngày đòi hỏi phải cụ thể đến từng chi tiết. Vì vậy cán bộ văn thư phải có tính tỉ mỉ. Tính tỉ mỉ phải được thể hiện trên các nội dung: - Bất cứ công việc nào đều phải thực hiện hoàn chỉnh đến từng chi tiết nhỏ, không được bỏ qua bất cứ một chi tiết nào dù là nhỏ nhất, đặc biệt đối với việc thống kê và kiểm tra các nhiệm vụ, ghi chép và chuyển những lời nhắn v.v
  7. - Không được bỏ sót bất cứ công việc nào trong nhiệm vụ thường ngày cũng như đối với công việc đột xuất mới nảy sinh. 3.3. Tính thận trọng. Trước khi làm một việc gì hoặc đề xuất một việc gì đều phải suy xét một cách thận trọng. Đặc biệt đối với việc phát hiện những sai sót của cán bộ trong cơ quan về công tác văn thư; những trường hợp nghi ngờ văn bản giấy tờ giả mạo, những nghi vấn về việc sử dụng con dấu không đúng quy định hoặc có những đề xuất mới trong tổ chức cải tiến công việc. Tính thận trọng sẽ giúp cán bộ văn thư có được những ý kiến chắc chắn, tránh phạm phải sai lầm. 3.4. Tính ngăn nắp, gọn gàng. Sự ngăn nắp gọn gàng phải luôn luôn thường trực đối với người cán bộ văn thư. Người cán bộ văn thư luôn tiếp xúc với văn bản giấy tờ, nội dung công việc lại phức tạp, nếu không gọn gàng ngăn nắp thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến công việc. Mặt khác, phòng làm việc của văn thư không chỉ một mình người văn thư làm việc mà còn là nơi có nhiều người đến liên hệ công việc như xin giấy giới thiệu, tra tìm văn bản, xin đóng dấu giấy tờ v.v Nếu không trật tự ngăn nắp sẽ gây ấn tượng không tốt đối với cán bộ văn thư. 3.5. Tính tin cậy. Cán bộ văn thư là người tiếp xúc với văn bản, nắm được nội dung hoạt động của cơ quan. Vì vậy người văn thư luôn luôn phải thể hiện tính tin cậy. Do có nhiều công việc nên lãnh đạo không thể quan tâm và kiểm tra mọi công việc của văn thư. Phần lớn các thủ trưởng đều tin tưởng ở văn thư. Vì vậy cán bộ văn thư phải giữ vững sự tin tưởng đó để Thủ trưởng có thể yên tâm làm việc. Mặt khác người cán bộ văn thư phải được đào tạo về nghiệp vụ chuyên môn và luôn luôn bảo đảm nghiệp vụ không sai sót. Điều đó làm cho cán bộ lãnh đạo yên tâm. 3.6. Tính nguyên tắc. Nội dung nghiệp vụ văn thư phải được thực hiện theo chế độ quy định của Nhà nước và của cơ quan, trước hết là các quy định của cơ quan như chế độ bảo vệ bí mật, quy định về công tác văn thư, lưu trữ v.v Dù bất cứ lúc nào và hoàn cảnh nào người cán bộ văn thư phải giữ đúng chế độ đã
  8. được quy định không được phép thay đổi quy định. Đặc biệt người cán bộ văn thư phải có ý thức được rằng không có bất cứ một ngoại lệ nào trong các quy định. Trong trường hợp các vấn đề đặt ra có những chi tiết khác với quy định của Nhà nước và của cơ quan, tốt nhất phải xin ý kiến người phụ trách có thẩm quyền, không được tự ý giải quyết bất cứ việc gì ngoài quy định. 3.7. Tính tế nhị. Công việc của người cán bộ văn thư tạo ra môi trường tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau. Vì vậy người cán bộ văn thư phải luôn luôn thể hiện sự lễ độ, thân mật với người khác, đồng thời phải chiến thắng tâm trạng không hài lòng, sự phân tán thiếu kiên trì, sự mệt mỏi, quá xúc cảm, kể cả thái độ suồng sả kiểu bạn bè đối với đồng nghiệp và những người quen biết. Đặc biệt phải tránh nóng vội khi có việc khẩn cấp hoặc phải trả lời những yêu cầu của người khác hoặc khi nghi ngờ một điều gì đó trong công việc. Tính tế nhị sẽ giúp cho cán bộ văn thư ngày càng chiếm được lòng tin và sự yêu mến của bạn bè đồng nghiệp và mọi người trong cơ quan. Điều đó giúp cho người cán bộ văn thư tạo được bầu không khí thoải mái trong phòng làm việc của mình. Đó cũng là một trong những điều kiện để nâng cao hiệu quả trong công việc.
  9. Chương VI QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG CON DẤU (Nghị Định số 58/2001/NĐ-CP Ngày 24-8-2001 của Chính phủ về quản lý và sử dụng con dấu; Thông tư liên tịch số: 07/2002/TTLT- BCA-TCCP, ngày 06 – 5 năm 2002 của liên bộ Công an và ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ). I. Khái niệm và tầm quan trọng của con dấu. 1. Khái niệm: Con dấu là thành phần thể thức thể hiện giá trị pháp lý của văn bản và vị tí của cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà nước. 2. Tầm quan trong của con dấu. Như đã trình bày ở trên, con dấu là thành phần khẳng định giá trị pháp lý của văn bản, văn bản không có con dấu là những văn bản không có giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành Con dấu là thành phần biểu thị vị trí của cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà nước, là một trong những yếu tố quan trong giúp cơ quan tự nhân danh mình thực hiẹn các hoạt động giao dịch, trao đổi với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Con dấu còn là thành phần quan trọng giúp các cơ quan, tổ chức tránh được tình trạng giải mạo giấy tờ. II. Các loại con dấu. 1. Các cơ quan, tổ chức sử dụng con dấu có hình Quốc huy. Theo quy định tại Điều 3, Nghị định số: 58/2001/NĐ-CP, ngày 24 tháng 8 năm 2001 của Chính phủ thì các cơ quan, tổ chức và các chức danh nhà nước sau đây được phép sử dụng con dấu có hình Quốc huy: - Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, đoàn Đại biểu Quốc hội các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương. - Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ. - Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ. - Văn phòng Chủ tịch nước. - Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, các Viện Kiểm sát Nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát Quân sự. - Tòa án Nhân dân Tối cao, các Tòa án Nhân dân địa phương, các Tòa
  10. án Quân sự và các Tòa án khác do luật định. - Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân các cấp. - Cơ quan thi hành án dân sự. - Phòng Công chứng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Cơ quan đại diện nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, gồm: Cơ quan đại diện ngoại giao, phái đoàn đại diện thường trực tổ chức quốc tế liên Chính phủ và Cơ quan lãnh sự (kể cả lãnh sự danh dự), Cơ quan đại diện thực hiện chức năng đại diện cho Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với các nước, tổ chức quốc tế tiếp nhận trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn do luật pháp quy định. - Các cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao: Cục Lãnh sự, Vụ Lễ tân, Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài và Sở Ngoại vụ thành phố Hồ Chí Minh. - Một số tổ chức khác do Thủ tướng Chính phủ cho phép. 2. Các cơ quan, tổ chức được sử dụng con dấu không có hình Quốc huy. Theo Điều 4 của Nghị định Số: 58/2001/NĐ-CP, ngày 24/8/2001 thì Các cơ quan, tổ chức dưới đây được sử dụng con dấu không có hình Quốc huy: - Các cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân thuộc cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. - Các cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân thuộc cơ cấu tổ chức của Viện Kiểm sát nhân dân, Viện Kiểm sát Quân sự, Tòa án Nhân dân, Tòa án Quân sự các cấp. - Các cơ quan chuyên môn và tổ chức sự nghiệp trực thuộc Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. - Tổ chức chính trị, các tổ chức Chính trị - Xã hội, các tổ chức Xã hội - Nghề nghiệp, các Hội Hữu nghị, các tổ chức hoạt động Nhân đạo, Hội bảo trợ xã hội, Qũy xã hội, Qũy từ thiện; các tổ chức Phi chính phủ khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hay cấp giấy phép hoạt động. - Các tổ chức tôn giáo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoạt động. - Các tổ chức kinh tế được quy định theo Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Hợp tác xã và các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật; các đơn vị trực thuộc, chi nhánh, văn phòng đại diện của các tổ chức kinh tế này.
  11. - Một số tổ chức khác được cơ quan có thẩm quyền thành lập cho phép sử dụng con dấu. - Các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. III. Những quy định về quản lý và sử dụng con dấu. Các chức danh nhà nước, Thủ trưởng hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quản lý, kiểm tra việc bảo quản và sử dụng con dấu của cơ quan, tổ chức mình theo đúng chức năng và thẩm quyền được pháp luật quy định. Việc quản lý và sử dụng con dấu phải tuân theo các quy định sau đây: - Mỗi cơ quan, tổ chức và các chức danh Nhà nước chỉ được sử dụng một con dấu. Trong trường hợp cần có thêm con dấu cùng nội dung như con dấu thứ nhất thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền thành lập và phải có ký hiệu riêng để phân biệt với con dấu thứ nhất; - Các cơ quan, tổ chức có chức năng cấp Văn bằng, Chứng chỉ, Thẻ Chứng minh Nhân dân, Thị thực Visa có dán ảnh thì được khắc thêm dấu nổi, dấu thu nhỏ để phục vụ cho công tác nghiệp vụ nhưng phải được cấp có thẩm quyền cho phép và nội dung con dấu phải giống như con dấu ướt mà cơ quan, tổ chức đó được phép sử dụng. - Con dấu khắc xong phải được đăng ký mẫu tại cơ quan công an, phải nộp lệ phí do Bộ Tài chính quy định và chỉ được sử dụng sau khi đã được cấp “Giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu”. Cơ quan, tổ chức khi bắt đầu sử dụng con dấu mới phải thông báo giới thiệu mẫu con dấu mới. - Việc đóng dấu vào các loại văn bản, giấy tờ phải theo đúng quy định của pháp luật. - Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm quản lý, sử dụng con dấu của cơ quan; tổ chức mình. Con dấu phải được để tại trụ sở cơ quan, tổ chức và phải được quản lý chặt chẽ. Trường hợp thật cần thiết để giải quyết công việc ở xa trụ sở cơ quan thì Thủ trưởng cơ quan, tổ chức đó có thể mang con dấu đi theo và phải chịu trách nhiệm về việc mang con dấu ra khỏi cơ quan. - Mực in dấu thống nhất dùng màu đỏ. - Trong trường hợp bị mất con dấu, cơ quan, tổ chức phải báo ngay cho cơ quan công an gần nhất và cơ quan công an đã cấp giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu đồng thời phải thông báo hủy bỏ con dấu bị mất. - Con dấu đang sử dụng bị mòn, hỏng hoặc có sự chuyển đổi về tổ chức thay đổi tên tổ chức thì phải làm thủ tục khắc lại con dấu mới và nộp lại
  12. con dấu cũ. - Cơ quan, tổ chức sử dụng con dấu phải tạo điều kiện để các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý và sử dụng con dấu. - Cơ quan, tổ chức khi có quyết định chia tách, sáp nhập, giải thể, kết thúc nhiệm vụ có hiệu lực thi hành thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải thu hồi con dấu và nộp lại con dấu cho cơ quan công an đã cấp giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu. Trong trường hợp tạm đình chỉ sử dụng con dấu, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định thành lập và cho phép sử dụng con dấu phải thu hồi con dấu và phải thông báo cho cơ quan công an cấp giấy phép khắc dấu và các cơ quan liên quan biết. IV. Thẩm quyền quy định mẫu dấu, Thủ tục khắc dấu, cấp phép khắc dấu và đăng ký mẫu dấu. Bộ Công an quy định thống nhất mẫu các loại con dấu và việc khắc biểu tượng trong con dấu hoặc chữ nước ngoài trong con dấu, cấp giấy phép khắc dấu, lưu chiểu mẫu dấu và cấp giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu, quản lý hoạt động khắc dấu, kiểm tra việc quản lý sử dụng con dấu và thực hiện các công việc khác theo quy định. Thẩm quyền cấp giấy phép khắc dấu, đăng ký mẫu con dấu, cấp giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu và đăng ký lưu chiểu mẫu dấu quy định như sau: - Tổng cục Cảnh sát Bộ Công an cấp giấy phép khắc dấu, đăng ký mẫu con dấu, cấp giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu cho các chức danh nhà nước, các cơ quan, tổ chức thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp giấy phép khắc dấu cho các cơ quan đại diện ngoại giao, các cơ quan đại diện bên cạnh các tổ chức Quốc tế liên Chính phủ của nước ngoài tại Việt Nam, cấp giấy phép mang con dấu vào Việt Nam sử dụng cho các cơ quan, tổ chức nước ngoài khác không có chức năng ngoại giao hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Thủ tục và hồ sơ khắc dấu được quy định như sau : 1. Các chức danh nhà nước, các cơ quan, tổ chức được sử dụng con dấu có hình Quốc huy, các cơ quan chuyên môn, tổ chức sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức phi Chính phủ. a. Đối với các cơ quan, tổ chức và chức danh nhà nước, các cơ quan chuyên môn, tổ chức sự nghiệp: Phải có quyết định về thành lập tổ chức theo quy định đối với từng loại cơ quan, tổ chức. Trong trường hợp quyết định
  13. chưa quy định cho phép cơ quan, tổ chức được dùng con dấu thì cơ quan, tổ chức đó văn bản riêng cho phép dùng con dấu của cơ quan thẩm quyền thành lập ra tổ chức đó. b. Các tổ chức Chính trị, tổ chức Chính trị - Xã hội; tổ chức Phi Chính phủ, tổ chức Tôn giáo, Hội quần chúng; Hội nghề nghiệp: Phải có “Điều lệ về tổ chức và hoạt động” đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, các tổ chức khoa học phải có “Giấy chứng nhận đằng ký họat động”. 2. Các tổ chức kinh tế: a. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, giấy phép đầu tư; giấy phép đặt chi nhánh, giấy phép thầu, giấy phép đặt Văn phòng đại diện tại Việt Nam (đối với tổ chức kinh tế liên doanh, đầu tư nước ngoài). b. Các tổ chức kinh tế là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, ngoài các giấy tờ quy định tại điểm a khoản 2 Điều này còn phải có quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền. 3. Trường hợp các cơ quan, tổ chức hay các chức danh nhà nước muốn khắc lại con dấu bị mất hoặc dấu bị mòn, hỏng thì phải có văn bản nêu rõ lý do và đề nghị cơ quan công an khắc lại con dấu mới mà không cần phải có thêm các loại văn bản nào khác. 4. Trong thời gian không qúa 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của cơ quan, tổ chức theo quy định, cơ quan công an cấp giấy phép khắc dấu và giới thiệu đến cơ sở khắc dấu theo quy định. Các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của các tổ chức quốc tế liên Chính phủ tại Việt Nam; các bộ phận lãnh sự, bộ phận tùy viên quân sự và các bộ phận khác trực thuộc cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam khi sử dụng con dấu của cơ quan mình phải thông báo và đăng lý mẫu dấu tại Bộ ngoại giao Việt Nam. Các cơ quan nước ngoài khác và các tổ chức quốc tế phi Chính phủ có đại diện tại Việt Nam muốn mang con dấu từ nước ngoài vào Việt Nam để sử dụng phải làm thủ tục đăng ký mẫu con dấu tại Bộ Công an Việt Nam. Các cơ quan, tổ chức nước ngoài không phải cơ quan đại diện ngoại giao mang con dấu từ nước ngoài vào Việt Nam sử dụng cần có văn bản gửi Bộ Công an Việt Nam nói rõ lý do, phạm vi sử dụng con dấu kèm theo mẫu con dấu, giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, đồng thời phải đăng ký mẫu dấu trước khi sử dụng. V. Bảo quản con dấu và nguyên tắc đóng dấu. 1. Bảo quản con dấu.
  14. Con dấu phải được bảo quản cẩn thận tại trụ sở làm việc của cơ quan, không được phép mang con dấu ra khỏi cơ quan khi chưa có sự đồng ý của người có thẩm quyền. Con dấu phải được treo trên giá, cất vào tủ có khoá cẩn thận, không được để con dấu trên bàn khi không có mặt ở phòng làm việc. Khi con dấu bị bẩn, không được dùng vật nhọn để cậy chất bụi, bẩn bám trên con dấu, Có thể dùng xăng và bàn chải lông mềm để cọ rửa con dấu. 2. Nguyên tắc đóng dấu. - Con dấu được đóng trùm từ ¼ đến 1/3 bên trái của chữ ký. - Không được đóng dấu vào các văn bản chữ có chữ ký của người có thẩm quyền, không đóng vào giấy trắng, giấy nháp. - Dấu phải được đóng khi văn bản đã có chữ ký của người có thẩm quyền, không được đóng trước khi ký. - Dấu đóng phải ngay ngắn, rõ ràng, không được đóng chồng lên nhau, không nhoè mực. Trong trường hợp đóng dẫu sai thì phải huỷ bỏ văn bản và lmà lại văn bản mới. - Trong trường hợp đóng dấu sai thì phải hủy văn bản để làm lại văn bản mới.
  15. Chương V LẬP HỒ SƠ VÀ GIAO NỘP HỒ SƠ VÀO LƯU TRỮ CƠ QUAN A. LẬP HỒ SƠ. I. Khái niệm về hồ sơ. Văn bản hình thành trong hoạt động của cơ quan bao gồm văn bản do cơ quan ban hành và văn bản của các cơ quan khác hoặc cá nhân khác gửi tới, sau khi đã giải quyết xong cần được lập thành hồ sơ để tiếp tục sử dụng trong hoạt động quản lý của cơ quan và phục vụ các yêu cầu nghiên cứu khác. Hồ sơ là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong công tác hành chính văn phòng và công tác lưu trữ. Thuật ngữ này được giải thích như sau: Hồ sơ là một hoặc một tập văn bản có liên quan với nhau về một sự việc, vấn đề (hay một người) hình thành trong quá trình giải quyết sự việc, vấn đề đó. Ví dụ: Hồ sơ về một vụ án hình sự, hồ sơ về một vụ tranh chấp nhà đất, hồ sơ về một kỳ họp của Quốc hội Hồ sơ còn có thể là một tập văn bản được kết hợp lại do có những điểm giống nhau khác, như cùng một loại văn bản, cùng một tác giả, cùng thời gian ban hành Ví dụ: - Tập thông báo của Chính phủ và các Bộ (Các văn bản trong hồ sơ này là đều cùng một loại: Thông báo). - Tập Quyết định của Ủy ban Nhân dân Huyện X (Các văn bản trong hồ sơ có cùng tên gọi: Quyết định). - Tập Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. (các văn bản trong hồ sơ này là đều của cùng một tác giả: Thủ tướng Chính phủ). - Kế hoạch, báo cáo của Sở Thương mại và Sở Tài chính năm 1994. (Các văn bản trong hồ sơ trên đều được ban hành trong năm 1994). Hồ sơ là một khái niệm về phân loại, dùng để phân loại các văn bản hình thành trong hoạt động của các cơ quan, cá nhân hoặc các phông lưu trữ theo các vấn đề, sự việc Từ khái niệm về hồ sơ, chúng ta có thể định nghĩa về lập hồ sơ như sau: Lập hồ sơ là tập hợp những văn bản hình thành trong quá trình giải quyết công việc thành từng vấn đề, sự việc hoặc theo các đặc trưng
  16. khác của văn bản, đồng thời sắp xếp và biên mục chúng theo một phương pháp khoa học. Lập hồ sơ là công việc cuối cùng trong công tác văn thư cơ quan, được thực hiện trong suốt quá trình giải quyết công việc, tức là công việc giải quyết đến đâu, cán bộ phụ trách công việc đó phải tiến hành sưu tầm, tập hợp các văn bản liên quan đến việc đó để lập hồ sơ. Trong thực tế, việc lập hồ sơ cũng được tiến hành một cách phổ biến trong các lưu trữ cơ quan và lưu trữ Nhà nước, do việc lập hồ sơ ở văn thư cơ quan làm chưa tốt. II. Mục đích, ý nghĩa của lập hồ sơ. Lập hồ sơ hiện hành là khái niệm dùng để chỉ việc lập hồ sơ đối với các văn bản vừa giải quyết xong của cơ quan và do cán bộ viên chức hoặc văn thư cơ quan lập. Nếu trong một cơ quan công tác lập hồ sơ hiện hành được thực hiện tốt sẽ có tác dụng sau đây: 1. Nâng cao hiệu suất và chất lượng công tác của cán bộ, nhân viên. Trong một cơ quan, nếu công văn giấy tờ trong quá trình giải quyết và sau khi giải quyết xong được sắp xếp và phân loại một cách khoa học theo từng vấn đề, sự việc phản ánh chức năng nhiệm vụ của cơ quan và từng đơn vị tổ chức, từng bộ phận, sẽ giúp cho các cán bộ và thủ trưởng cơ quan tìm kiếm tài liệu được nhanh chóng, đầy đủ, nghiên cứu vấn đề được hoàn chỉnh, đề xuất ý kiến và giải quyết công việc có căn cứ xác đáng và kịp thời. Do đó, góp phần nâng cao được hiệu suất và chất lượng công tác của từng cán bộ nói riêng, của cơ quan nói chung. 2. Giúp cơ quan, đơn vị quản lý tài liệu được chặt chẽ. Mỗi khi văn bản được lập thành hồ sơ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thủ trưởng cơ quan, các đơn vị tổ chức và cán bộ văn thư theo dõi và nắm chắc thành phần, nội dung và khối lượng văn bản của cơ quan, đơn vị mình, biết được những hồ sơ tài liệu nào cần phải bảo quản chu đáo, nắm, phát hiện được những văn bản bị phân tán, thất lạc hoặc mất mát do cho mượn tuỳ tiện, giữ gìn được bí mật của cơ quan và Nhà nước. 3. Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lưu trữ. Công tác lập hồ sơ ở cơ quan hiện hành nếu làm được tốt tức là đã bước đầu phân loại và xác định được giá trị của văn bản. Trên cơ sở đó, cán bộ văn thư dễ dàng lựa chọn những văn bản có giá trị thực tiễn và giá trị lịch sử để giao nộp vào lưu trữ cơ quan được hoàn chỉnh. Nếu hồ sơ được lập ở văn thư, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ lưu trữ làm tốt công tác chỉnh lý
  17. và các nghiệp vụ chuyên môn khác, tránh được những khó khăn, phức tạp trong việc lập hồ sơ, phân loại, xác định giá trị tài liệu , do đó mà nâng cao được hiệu suất và chất lượng công tác lưu trữ. Theo quy định, lập hồ sơ là trách nhiệm của cán bộ, nhân viên làm công tác công văn, giấy tờ trong các cơ quan, tổ chức, phần việc thuộc trách nhiệm giải quyết của người nào thì trong qúa trình giải quyết, người đó phải lập hồ sơ. III. Nội dung và yêu cầu của lập hồ sơ. 1. Nội dung của lập hồ sơ. Điều 21, Nghị định số: 110/2004/NĐ-CP, ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư quy định nội dung và yêu cầu của lập hồ sơ như sau: - Mở hồ sơ; - Thu thập, cập nhật văn bản, tài liệu hình thành trong quá trình theo dõi, giải quyết công việc vào hồ sơ. - Kết thúc và biên mục hồ sơ. 2. Yêu cầu của lập hồ sơ. Hồ sơ được lập cần đảm bảo những yêu cầu sau đây: 2.1. Phản ánh đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị tổ chức hình thành hồ sơ. Chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị là cơ sở cho những hoạt động của cơ quan, đơn vị đó. Mỗi cơ quan, đơn vị đều có chức năng nhiệm vụ nhất định do Nhà nước hoặc cơ quan cấp trên giao. Do đó, văn bản hình thành trong quá trình hoạt động của mỗi cơ quan, đơn vị tất yếu phải phản ánh chức năng và nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị đó. Nói cách khác, chúng phản ánh hoạt động của cơ quan, đơn vị trên từng mặt công tác, từng vấn đề, sự việc cụ thể. Chính vì vậy, thành phần và nội dung văn bản trong mỗi hồ sơ thường lệ thuộc bởi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan, đơn vị. Ví dụ: Hồ sơ về cơn bão số 3 (2003) lập ở Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa bao gồm những văn bản chỉ đạo về phòng chống cơn bão số 3 của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo của các sở, các ngành, Uỷ ban nhân dân các huyện về tình hình phòng, chống bão và những thiệt hại do cơn bão gây ra Còn hồ sơ về cơn bão số 3 do Uỷ ban nhân dân các huyện của Thanh Hóa lập thì lại gồm những tài liệu về chỉ đạo phòng, chống bão lụt của UBND tỉnh, UBND huyện và huyện uỷ của huyện đó, báo cáo về tình hình phòng chống và thiệt hại do cơn bão số 3 gây ra của UBND huyện, các ngành, các địa phương trong huyện Hồ sơ về cơn bão số 3 năm 2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa
  18. phản ánh chức năng nhiệm vụ của Uỷ ban nhân dân tỉnh trong công tác phòng chống bão. Còn hồ sơ về cơn bão số 3 (2003) do Uỷ ban nhân dân các huyện lập thì phản ánh chức năng nhiệm vụ của UBND huyện về mặt này. Lập hồ sơ đảm bảo yêu cầu này có nghĩa là toàn bộ hồ sơ lập ra phải phản ánh đúng đắn chức năng nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, từng hồ sơ phải thể hiện được chức năng nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị trong việc giải quyết vấn đề, sự việc được đề cập ở hồ sơ. Do đó, đối với những văn bản không phản ánh chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị tổ chức hình thành hồ sơ đó thì không lập hồ sơ (hoặc không đưa vào hồ sơ). 2.2. Văn bản, giấy tờ được thu thập vào hồ sơ phải có sự liên quan chặt chẽ với nhau và phải phản ánh được trình tự giải quyết công việc hoặc trình tự diễn biến của sự việc. Nhìn chung mọi sự việc, vấn đề do cơ quan giải quyết đều phải trải qua một quá trình hoặc ngắn, hoặc dài. Nói cách khác, đều có khởi đầu và kết thúc. Văn bản hình thành trong quá trình giải quyết công việc có mối liên quan chặt chẽ với nhau, đó là khách quan chứ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Hồ sơ lập ra có đảm bảo mối liên hệ khách quan của văn bản thì mới phản ánh các vấn đề, sự việc được trọn vẹn, giữ được mối liên hệ bên trong của chúng. Do đó giúp cán bộ cơ quan nghiên cứu, sử dụng tài liệu được dễ dàng và hoàn chỉnh. Thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi người lập phải biết phân định hồ sơ cho phù hợp, không xé lẻ những văn bản có liên quan về một sự việc, vấn đề để lập thành những hồ sơ khác nhau. Yêu cầu này sẽ không thể thực hiện khi lập hồ sơ theo các đặc trưng về hình thức của văn bản. Ví dụ: Hồ sơ “Tập thông báo của Chính phủ năm 1995” (Trong hồ sơ này gồm nhiều bản thông báo có nội dung khác nhau, không liên quan hoặc ít liên quan với nhau). 2.3. Văn bản, tài liệu được thu thập vào hồ sơ phải có giá trị bảo quản tương đối đồng đều. Trong thực tế hoạt động của các cơ quan, văn bản phản ánh về một vấn đề, sự việc thường hình thành khá nhiều, trong đó có những văn bản có ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa thực tiễn lâu dài, có những văn bản chỉ có ý nghĩa thực tiễn trong thời gian ngắn, thậm chí không còn ý nghĩa gì sau khi công việc đã được giải quyết. Các loại văn bản nói trên do giá trị khác nhau, yêu cầu nghiên cứu, sử dụng không giống nhau nên thời hạn bảo quản chúng cũng sẽ khác nhau. Chẳng hạn, văn bản có ý nghĩa lịch sử sẽ phải giao nộp cho lưu trữ Nhà nước tức các trung tâm (kho) lưu trữ quốc gia, văn bản có ý nghĩa thực tiễn lâu dài sẽ bảo quản lâu dài ở lưu trữ cơ quan, còn văn bản có ý nghĩa thực tiễn trong thời gian ngắn thì có thể giữ lại ở các đơn vị tổ chức
  19. trong cơ quan một thời gian nhất định, rồi tiêu huỷ theo sự hướng dẫn của lưu trữ cơ quan, đối với những văn bản không còn ý nghĩa thì có thể loại huỷ. Do đó, khi lập hồ sơ, cần chú ý phân biệt giá trị của các văn bản, sao cho các văn bản trong một hồ sơ có giá trị đồng đều. Nếu đảm bảo được yêu cầu này, sẽ làm tăng thêm chất lượng văn bản được bảo quản, phục vụ nghiên cứu được tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bảo quản, cán bộ lưu trữ sẽ khỏi mất công điều chỉnh hoặc lập lại hồ sơ. Ví dụ1: Ở Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, các văn bản phản ánh tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 2000 của thành phố được lập thành những hồ sơ sau: - Báo cáo của Uỷ ban nhân dân thành phố về tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 2000. - Báo cáo của Uỷ ban nhân dân thành phố về tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước hàng quý, 6 tháng đầu năm 2000. Trong hai hồ sơ trên thì hồ sơ đầu cần bảo quản vĩnh viễn, còn hồ sơ thứ hai chỉ bảo quản trong thời gian nhất định. Rất dễ nhận thấy, nếu người lập hồ sơ không chú ý đến yêu cầu đảm bảo cho các văn bản trong hồ sơ có giá trị đồng đều thì hai hồ sơ trên có thể nhập làm một. Ví dụ 2: Các Quyết định và công văn của cơ quan thì không thể sưu tầm để đưa vào cùng một hồ sơ vì giá trị pháp lý của loại văn bản này khác nhau. Ví dụ 3: Trong quá trình hoạt động của cơ quan thường có các loại Kế hoạch, Báo cáo của cơ quan và của các đơn vị trực thuộc. Khi lập hồ sơ ta không thể sưu tầm Báo cáo tổng kết của cơ quan và của đơn vị trực thuộc vào một hồ sơ. Vì Báo cáo tổng kết của cơ quan bao giờ cũng có giá trị cao hơn Báo cáo của các đơn vị trực thuộc. Tuy nhiên, không nên hiểu yêu cầu này một cách cứng nhắc, bao giờ cũng tách rời từng văn bản trong hồ sơ để xét giá trị của chúng. Vì trong thực tế, có những hồ sơ gồm các văn bản có liên quan mật thiết với nhau, toàn bộ văn bản hợp thành mới tạo nên giá trị của hồ sơ đó. Trong trường hợp này, phải xem xét giá trị của chúng trong mối liên quan với các văn bản khác của hồ sơ, ví dụ như hồ sơ về một vụ án, hồ sơ về thanh tra, kiểm tra, hồ sơ cán bộ. 4. Văn bản trong hồ sơ phải đảm bảo đúng thể thức văn bản. Muốn cho hồ sơ lập ra có giá trị nghiên cứu và có thể dùng làm bằng chứng pháp lý, thì đòi hỏi các văn bản trong hồ sơ phải đúng thể thức văn bản do Nhà nước quy định, nghĩa là phải có Quốc hiệu, tên cơ quan, số ký hiệu
  20. văn bản, ngày tháng năm ban hành văn bản, chữ ký của người có thẩm quyền, dấu của cơ quan Nếu văn bản do cơ quan Nhà nước ban hành mà thiếu những yếu tố trên, sẽ không có giá trị pháp lý. Xét về lâu dài, những văn bản như vậy sẽ không thể trở thành sử liệu đáng tin cậy. Do vậy, khi lập hồ sơ, cần coi trọng đúng mức yêu cầu này, chú ý thu thập và lựa chọn những tài liệu đảm bảo thể thức để đưa vào hồ sơ. 5. Hồ sơ cần được biên mục đầy đủ và chính xác. Khi lập hồ sơ, cần phải làm tốt công tác biên mục bên trong và bên ngoài bìa hồ sơ nhằm giới thiệu thành phần và nội dung văn bản trong hồ sơ để tra tìm, nghiên cứu được nhanh chóng và thuận lợi IV. Phương pháp lập hồ sơ. 1. Lập hồ sơ theo Danh mục hồ sơ 1.1. Khái niệm, tác dụng của Danh mục hồ sơ. 1.1.1- Khái niệm: Danh mục hồ sơ là bản kê những hồ sơ mà cơ quan, đơn vị cần phải lập trong một thời gian nhất định (thường là một năm). 1.1.2 - Tác dụng: + Danh mục hồ sơ giúp cho việc phân loại, sắp xếp tài liệu và lập hồ sơ trong cơ quan, đơn vị được chủ động, hợp lý, khoa học, thuận tiện. + Giúp cho cán bộ trong cơ quan lập được hồ sơ đầy đủ, chính xác; là căn cứ cho cán bộ lưu trữ kiểm tra, đôn đốc việc lập hồ sơ của cán bộ chuyên môn. Giúp cho cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị nắm được toàn bộ công việc của cơ quan và công việc của từng cán bộ thừa hành. + Nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, nhân viên trong cơ quan, đơn vị đối với việc lập hồ sơ và là cơ sở cho việc nộp lưu hồ sơ vào lưu trữ cơ quan. 1.2. Phương pháp lập Danh mục hồ sơ. Có 2 phương pháp lập danh mục hồ sơ. + Cách thứ nhất: Cán bộ văn thư, lưu trữ của cơ quan dự kiến danh mục hồ sơ của từng đơn vị tổ chức (tổ, phòng, ban) trong cơ quan. Sau đó đưa cho cán bộ phụ trách và cán bộ nhân viên của các đơn vị tham gia ý kiến, rồi tổng hợp, bổ sung, hoàn chỉnh lại thành danh mục hồ sơ của cơ quan, trình thủ trưởng cơ quan xem xét và ký duyệt. Cách làm này sẽ nhanh hơn nhưng khó làm vì nó đòi hỏi cán bộ văn thư, lưu trữ phải nắm chắc chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và nhiệm vụ của từng cán bộ, nhân viên cũng như yêu cầu nghiên cứu của cán bộ thì mới lập được danh mục hồ sơ chính xác, phù hợp. Phương pháp này
  21. thường được vận dụng để lập Danh mục cho những cơ quan có cơ cấu tổ chức đơn giản. + Cách làm thứ hai: từng cán bộ, nhân viên căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch công tác trong năm tới và nhiệm vụ cụ thể của mình để dự kiến những hồ sơ mình cần lập, đưa cho cán bộ phụ trách đơn vị tham gia ý kiến. Cán bộ phụ trách đơn vị tập hợp các bản dự kiến của từng cá nhân trong đơn vị, bỏ những hồ sơ trùng hoặc không cần lập, bổ sung những hồ sơ còn thiếu thành bản danh mục hồ sơ của đơn vị. Cán bộ văn thư, lưu trữ giúp Văn phòng hoặc phòng Hành chính tổng hợp danh mục hồ sơ của từng đơn vị thành danh mục hồ sơ của cơ quan, trình thủ trưởng xem xét, ký duyệt. Cách làm này sẽ dự kiến được danh mục hồ sơ chính xác hơn nhưng thời gian thường bị kéo dài. Để làm tốt đòi hỏi cán bộ văn thư, lưu trữ cần phải kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn nghiệp vụ và phương pháp lập danh mục hồ sơ. Phương pháp này thường được áp dụng khi cơ quan có cơ cấu tổ chức phức tạp, khối lượng công việc nhiều. 1.3. Một số điểm cần chú ý khi lập danh mục hồ sơ. + Áp dụng cách làm nào là tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của cơ quan, đơn vị. Điều cơ bản là làm thế nào cho mỗi cán bộ, nhân viên làm công tác công văn, tài liệu thấy được tác dụng của việc lập danh mục hồ sơ để tích cực tham gia ý kiến hoặc tham gia xây dựng và thực hiện nghiêm túc việc lập hồ sơ theo danh mục hồ sơ. + Danh mục hồ sơ mỗi năm làm một lần vào tháng cuối năm để sử dụng cho năm sau. Đối với những cơ quan có tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ công tác ổn định hoặc ít thay đổi thì tập trung xây dựng một lần đầu, những năm sau chỉ cần bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với chương trình kế hoạch mới và tiếp tục sử dụng. + Muốn lập được danh mục hồ sơ chính xác, phù hợp cần nghiên cứu để nắm vững các điểm sau: - Nắm được chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và công việc của từng cán bộ, nhân viên trong cơ quan. - Nắm vững Kế hoạch hoạt động của cơ quan, các chế độ hội họp, chế độ báo cáo, tổ chức công tác văn thư, quan hệ giữa cơ quan, đơn vị mình với cơ quan, đơn vị khác; chương trình, kế hoạch của cơ quan, đơn vị - Nắm được các loại văn bản, tài liệu của cơ quan làm ra và văn bản, tài liệu của các cơ quan khác gửi đến, các loại hồ sơ đã lập trong năm trước. - Nắm được các nguyên tắc, tiêu chuẩn xác định giá trị tài liệu, bảng thời hạn bảo quản mẫu (nếu có), kinh nghiệm xác định giá trị tài liệu của
  22. những năm trước. - Việc xây dựng danh mục hồ sơ cần làm dần từng bước, sau mỗi năm cần rút kinh nghiệm để danh mục hồ sơ ngày càng hoàn chỉnh hơn, sát với thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lập hồ sơ trong cơ quan, đơn vị. Mẫu danh mục hồ sơ: Tên cơ quan chủ quản CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Tên cơ quan (đơn vị) Độc lập - Tự do - Hạnh phúc DANH MỤC HỒ SƠ CỦA NĂM Số và ký hiệu Thời hạn Tiêu đề hồ sơ Người lập Ghi chú hồ sơ bảo quản 2 3 4 5 6 Danh mục hồ sơ này có hồ sơ bao gồm: hồ sơ có thời hạn bảo quản vĩnh viễn. hồ sơ có thời hạn bảo quản lâu dài. hồ sơ có thời hạn bảo quản tạm thời. Địa danh, ngày tháng năm
  23. (THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN) (Ký - đóng dấu) * Hướng dẫn cách ghi các cột: Cột 1: Ghi số thứ tự hồ sơ: số đánh liên tục cho toàn bản danh mục hồ sơ, bắt đầu từ số 01 cho đến số n (n là số của hồ sơ cuối cùng trong danh mục). Cột 2: Số và ký hiệu hồ sơ: số hồ sơ đánh cho từng đơn vị tổ chức. Ký hiệu là chữ viết tắt của tên đơn vị tổ chức hình thành hồ sơ. Cuối mỗi đơn vị tổ chức cần để dự phòng một số hồ sơ, khi có việc mới phát sinh sẽ bổ sung vào. Ví dụ: Số 01 - TH Số 01 - HC Số 01 - TCCB Cột 3: Ghi tên đơn vị tổ chức và tên hồ sơ: thứ tự các đơn vị tổ chức ghi thành các mục I, II: tên đơn vị tổ chức ghi bằng chữ to giữa dòng. Ví dụ: I. PHÒNG TỔNG HỢP II. PHÒNG TỔ CHỨC - HÀNH CHÍNH. Cột 4: Ghi thời hạn bảo quản của hồ sơ: vĩnh viễn, lâu dài, tạm thời. Thời hạn bảo quản được xác định dựa trên cơ sở bảng thời hạn bảo quản mẫu và vận dụng vào thực tế tài liệu của cơ quan. Trong một hồ sơ có nhiều văn bản, tài liệu có giá trị khác nhau thì thời hạn bảo quản của hồ sơ được xác định bằng giá trị của văn bản, tài liệu có giá trị cao nhất. Cột 5: Ghi họ tên người lập hồ sơ (ai phụ trách việc gì phải có trách nhiệm lập hồ sơ của phần việc đó. Trong trường hợp này phải ghi tên của người chịu trách nhiệm lập hồ sơ). Cột 6: Ghi chú: hồ sơ mật, hồ sơ chuyển từ năm trước sang, chuyển sang năm sau (nếu hồ sơ chưa giải quyết xong) hoặc mới bổ sung 1.4. Hướng dẫn lập hồ sơ theo danh mục. Để danh mục hồ sơ phát huy được tác dụng đối với việc lập hồ sơ, thì công tác hướng dẫn lập hồ sơ theo danh mục hồ sơ cần phải được chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên. Về nghiệp vụ lập hồ sơ phải được hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ. Mặt khác cần tuyên truyền, vận động để mỗi cán bộ, nhân viên xác định
  24. được trách nhiệm, thực hiện nghiêm chỉnh chế độ lập hồ sơ do Nhà nước quy định. Việc lập hồ sơ theo danh mục hồ sơ cần tiến hành như sau: - Danh mục hồ sơ sau khi đã được Thủ trưởng cơ quan ký duyệt thì sao thành nhiều bản, cán bộ văn thư giữ một bản, Thủ trưởng cơ quan, Chánh Văn phòng (hoặc Trưởng phòng Hành chính) mỗi người giữ một bản để theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc lập hồ sơ trong cơ quan, đơn vị và để lập những hồ sơ thuộc trách nhiệm của Thủ trưởng, của Chánh Văn phòng (Trưởng phòng Hành chính). - Mỗi đơn vị tổ chức giữ một bản hoặc phần danh mục hồ sơ của đơn vị mình để làm căn cứ lập những hồ sơ thuộc trách nhiệm của đơn vị. - Cán bộ, nhân viên làm công tác công văn giấy tờ trong cơ quan căn cứ vào danh mục hồ sơ, xem mình cần phải lập những hồ sơ gì thì chuẩn bị bìa hồ sơ, trong quá trình giải quyết công việc chú ý thu thập đầy đủ văn bản, tài liệu đưa vào hồ sơ. Cuối năm, cá nhân đơn vị căn cứ vào danh mục hồ sơ để tổng hợp hồ sơ đã lập, sắp xếp hoàn chỉnh lại và chuẩn bị nộp lưu vào phòng (tổ, bộ phận) Lưu trữ cơ quan. Những hồ sơ mà cán bộ thừa hành còn phải nghiên cứu, tham khảo hoặc còn phải tiếp tục giải quyết sang năm sau thì cần ghi chú vào danh mục hồ sơ. - Danh mục hồ sơ là bản dự kiến trước có thể chưa sát với thực tế. Vì vậy trong quá trình giải quyết cần theo dõi, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tế giải quyết công việc của cơ quan, đơn vị. Nếu có việc mới phát sinh cần bổ sung vào danh mục hồ sơ, những việc đã dự kiến nhưng thực tế không thực hiện được thì ghi rõ vào cột ghi chú của danh mục hồ sơ: “Không hình thành hồ sơ”. Việc hướng dẫn lập hồ sơ theo danh mục tổ chức thực hiện tốt thì từng cán bộ nhân viên sẽ thấy được tác dụng thiết thực của việc lập hồ sơ, dần dần mọi người sẽ tự giác lập hồ sơ về những công việc của mình, từ đó sẽ trở thành một chế độ làm việc bắt buộc, thường xuyên và nề nếp trong cơ quan. 2. Lập hồ sơ trong trường hợp không có Danh mục hồ sơ. Lập hồ sơ theo sự hướng dẫn của bản danh mục hồ sơ tuy có nhiều thuận lợi cho cán bộ cơ quan, nhưng trong thực tế, hầu hết các cơ quan Nhà nước đã không lập được bản danh mục này, văn bản hình thành trong hoạt động của cơ quan đã không được chú ý phân loại khoa học ngay từ khi các vấn đề, sự việc vừa được giải quyết xong. Do đó các văn bản thường bị phân tán, lẫn lộn giữa vấn đề này với vấn đề khác. Trong trường hợp này, việc lập hồ sơ sẽ trở nên khó khăn hơn và được tiến hành theo trình tự sau :
  25. - Phân định hồ sơ. - Sắp xếp văn bản trong hồ sơ. - Đánh số tờ. - Viết Mục lục văn bản. - Viết chứng từ kết thúc. - Viết bìa hồ sơ. 2.1. Phân định hồ sơ: Phân định hồ sơ là căn cứ vào nội dung và các đặc trưng khác của văn bản (những điểm giống nhau của văn bản) để chia chúng thành các hồ sơ cụ thể, phù hợp với khái niệm hồ sơ và đảm bảo các yêu cầu về lập hồ sơ. Đây là khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng hồ sơ được lập. Hồ sơ được phân định hợp lý thì về cơ bản đã đảm bảo được bốn trong năm yêu cầu lập hồ sơ. Lập hồ sơ là một khái niệm về phân loại nên khi phân định hồ sơ phải căn cứ vào các đặc trưng phổ biến của văn bản, như các đặc trưng vấn đề, tên gọi, tác giả, cơ quan giao dịch, thời gian, địa dư. Trong đó phải lấy một đặc trưng làm căn cứ chủ yếu. Sau đây là cách vận dụng các đặc trưng của văn bản để lập hồ sơ. a. Đặc trưng vấn đề. Khi phân định hồ sơ, chủ yếu phải lấy vấn đề mà nội dung văn bản đề cập làm cơ sở để sưu tầm và tập hợp văn bản. Tất cả những văn bản có nội dung liên quan với nhau về một vấn đề (một sự việc, một công việc, một đối tượng) sẽ được tập hợp thành một hồ sơ. Hồ sơ lập theo đặc trưng này sẽ phù hợp với khái niệm về hồ sơ và đảm bảo đầy đủ nhất các yêu cầu về lập hồ sơ. Trong thực tế, người ta thường nghiên cứu văn bản theo từng vấn đề, sự việc, do đó, nếu hồ sơ lập theo đặc trưng vấn đề sẽ giúp cho người nghiên cứu tra tìm văn bản được nhanh chóng, nghiên cứu vấn đề được hoàn chỉnh. Điều quan trọng nhất khi phân định hồ sơ theo đặc trưng này là phải xác định phạm vi vấn đề (sự việc) cho hợp lý. Nói chung, văn bản trong một hồ sơ phải cùng phản ánh một vấn đề cụ thể. Phạm vi vấn đề rộng hay hẹp chủ yếu là tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị tổ chức hình thành nên văn bản. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quy định thành phần, nội dung và khối lượng văn bản hình thành. Đối với những cơ quan nhỏ, một nhiệm vụ cụ thể có thể phân thành một hồ sơ nhưng đối với những cơ quan lớn, một vấn đề có thể phân định thành nhiều hồ sơ. Ví dụ: Ở Uỷ ban nhân dân xã hàng năm có thể hình thành các hồ sơ về sản xuất nông nghiệp, công tác an ninh, trật tự, công tác văn hóa Đây là
  26. những nhiệm vụ cụ thể mà Uỷ ban nhân dân xã phải quản lý, khối lượng tài liệu hình thành về từng mặt công tác không nhiều, do đó tài liệu phản ánh về mỗi nhiệm vụ công tác nói trên có thể xem là một vấn đề và lập thành một hồ sơ. Ngược lại, đối với những cơ quan lớn, có chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động và quyền hạn lớn, văn bản phản ánh về một nhiệm vụ công tác nhiều thì có thể lập thành nhiều hồ sơ, mỗi hồ sơ là một sự việc cụ thể. Ví dụ: Văn bản về sản xuất nông nghiệp ở Uỷ ban nhân dân tỉnh không thể chỉ lập một hồ sơ như ở Uỷ ban nhân dân xã, mà phải phân định thành hàng chục hồ sơ, gồm các vấn đề cụ thể như: - Kế hoạch sản xuất nông nghiệp toàn năm. - Chỉ đạo sản xuất nông nghiệp. - Kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất nông nghiệp toàn năm. - Kế hoạch sản xuất nông nghiệp từng vụ. - Phòng trừ sâu bệnh. - Các biện pháp kỹ thuật - sản xuất nông nghiệp. - Chăn nuôi gia cầm Khi lập hồ sơ, ta phải lấy đặc trưng này làm đặc trưng chủ yếu, Khi các văn bản còn lại là những văn bản đề cập đến những nội dung khác nhau, ta sẽ vận dụng các đặc trưng khác. b. Đặc trưng tên gọi. Đối với những loại văn bản có nội dung đề cập đến nhiều sự việc khác nhau, như Biên bản các cuộc họp thường kỳ của lãnh đạo cơ quan, các Nghị quyết hàng tháng của Ban chấp hành một đoàn thể quần chúng thì không thể phân định hồ sơ theo đặc trưng vấn đề, mà lập theo đặc trưng tên gọi là hợp lý nhất. Phân định hồ sơ theo đặc trưng này tức là quá trình sưu tầm, tập hợp những văn bản, tài liệu có cùng một tên gọi với nhau. Ví dụ: - Biên bản các cuộc họp thường kỳ của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam. - Tập Thông báo của Chính phủ năm 2003. Đặc trưng tên gọi thường được vận dụng để lập hồ sơ một số loại văn bản như Chỉ thị, Nghị quyết, Biên bản, Chương trình, Kế hoạch công tác, Thông báo, Báo cáo. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại văn bản nói trên đều lập hồ sơ theo đặc trưng này, mà thông thường chỉ vận dụng đối với những văn bản có nội dung đề cập đến nhiều vấn đề, còn đối với các loại có nội dung phản ánh một vấn đề, sự việc cụ thể thì nên lập theo đặc trưng vấn đề.
  27. c. Đặc trưng tác giả. Tác giả là cơ quan hoặc cá nhân lập ra văn bản. Vận dụng đặc trưng này ta phải lấy tên cơ quan, cá nhân hình thành văn bản để phân định hồ sơ. Các văn bản, tài liệu trong hồ sơ phải có cùng một tác giả với nhau. (những văn bản đó có thể khác nhau về nội dung, về thể loại). Ví dụ: - Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ năm 2002, 2003. - Quyết định, Chỉ thị của UBND Quận X năm 2000. 2001. Lập hồ sơ theo đặc trưng tác giả thường làm cho văn bản phản ánh về một vấn đề, sự việc bị xé lẻ, không giữ được mối liên hệ khách quan, gây khó khăn cho việc tra tìm và sử dụng tài liệu. Do vậy, trong thực tế đặc trưng này rất ít được vận dụng làm đặc trưng chính để lập hồ sơ. d. Đặc trưng thời gian. Lập hồ sơ theo đặc trưng thời gian tức là căn cứ vào thời gian lập ra văn bản để phân định hồ sơ. Các văn bản được lập ra trong cùng thời gian dù cho nội dung, tên gọi, tác giả của chúng có khác nhau cũng có thể lập thành một hồ sơ, Ví dụ: Các Nghị quyết, Chỉ thị của Thành uỷ Đà Nẵng ban hành năm 2003 có thể lập thành một hồ sơ có tiêu đề: Nghị quyết, Chỉ thị của Thành uỷ Đà Nẵng năm 2003. Thông thường người ta căn cứ vào năm ban hành văn bản để phân định hồ sơ. Nếu chỉ dựa vào thời gian ban hành văn bản để lập hồ sơ thì sẽ làm cho tài liệu phản ánh các hoạt động của cơ quan xé lẻ, gây khó khăn cho việc tra tìm và nghiên cứu. Do đó, đặc trưng này tuy được vận dụng phổ biến nhưng thường là đặc trưng phụ, được kết hợp với các đặc trưng khác nhau đặc trưng vấn đề, đặc trưng tên gọi. Ví dụ: Ở Văn phòng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các Nghị quyết, Quyết định, Thông tư của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành năm 2004 về công tác thuỷ, nông được phân định thành một hồ sơ có tiêu đề: Nghị quyết, Quyết định, Thông tư, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN & PTNT về công tác thuỷ nông năm 2004. Hồ sơ trên được lập theo đặc trưng vấn đề kết hợp với đặc trưng thời gian. Trên thực tế khi phân định hồ sơ, ta thường kết hợp các đặc trưng Tác giả, Tên gọi và Thời gian với nhau. Ví dụ: - Tập Nghị quyết của Chính phủ năm 2004 - Tập Quyết định của Uỷ ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng
  28. năm 2004. e. Đặc trưng cơ quan giao dịch. Cơ quan giao dịch tức là cơ quan có công văn, giấy tờ trao đổi trong quá trình giải quyết các công việc cụ thể có liên quan. Nếu vấn dụng đặc trưng này thì văn bản trao đổi giữa hai cơ quan sẽ được lập một hồ sơ cho dù nội dung của chúng đề cập đến các vấn đề khác nhau. Tuy nhiên lập như vậy sẽ không thuận lợi cho việc tra tìm, nghiên cứu tài liệu. Do vậy đặc trưng này thường được vận dụng kết hợp với đặc trưng vấn đề và được xem là một đặc trưng phụ. Ví dụ: Giữa Đại học Khoa học Huế với Trường THCN CKN Đông Á hàng năm trao đổi nhiều công văn có nội dung đề cập đến nhiều vấn đề, sự việc như vấn đề đào tạo Đại học tại chức Luật, vấn đề thực hiện quy chế giảng dạy và học tập, vấn đề hợp đồng giáo viên Nếu tất cả công văn này lập thành một hồ sơ theo đặc trưng cơ quan giao dịch (công văn trao đổi với trường THCN CKN Đông Á), thì sẽ không hợp lý mà phải phân định thành nhiều hồ sơ lấy vấn đề làm đặc trưng chính kết hợp với đặc trưng cơ quan giao dịch: - Công văn, giấy tờ trao đổi với Bộ Giáo dục và Đào tạo về vấn đề Tuyển sinh Đại học tại chức Luật. - Công văn, giấy tờ trao đổi với Bộ Giáo dục và Đào tạo về vấn đề Hiợp đồng giáo viên giảng dạy. - Công văn, giấy tờ trao đổi với Bộ Giáo dục và Đào tạo về vấn đề thực hiện quy chế giảng dạy và học tập f. Đặc trưng địa dư. Trong lập hồ sơ, có khi người ta còn đem những văn bản của các tác giả cùng trong một khu vực hoặc văn bản có nội dung liên quan đến một khu vực lập thành một hồ sơ. Tuy nhiên đặc trưng địa dư thường chỉ là đặc trưng phụ. Ví dụ: - Báo cáo của các Sở Nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long về tình hình sản xuất nông nghiệp năm 2003. - Báo cáo tình hình công tác phòng chống cháy rừng của sở Lâm nghiệp các tỉnh Miền Trung, Tây nguyên năm 2004. Hai hồ sơ trên đã được lập theo đặc trưng vấn đề kết hợp với đặc trưng địa dư. Chỉ trong trường hợp văn bản không nhiều, nội dung lại tản mạn thì mới nên chọn đặc trưng địa dư phân định hồ sơ. Tóm lại, phân định hồ sơ là khâu quan trọng nhất của lập hồ sơ. Việc phân định hồ sơ phải dựa trên cơ sở các đặc trưng của văn bản (còn gọi là các đặc trưng lập hồ sơ), trong đó đặc trưng vấn đề là đặc trưng chủ yếu,
  29. được vận dụng nhiều nhất. Còn các đặc trưng khác thường được vận dụng kết hợp. 2.2. Sắp xếp văn bản trong hồ sơ. Các văn bản trong hồ sơ cần sắp xếp theo một trình tự hợp lý để tra tìm và nghiên cứu các văn bản được nhanh chóng và thuận lợi. Tuỳ theo nội dung và các đặc điểm khác của văn bản trong hồ sơ để chọn một trong những cách sắp xếp dưới đây: a. Sắp xếp theo trình tự thời gian. Bằng cách sắp xếp này, văn bản có ngày tháng ban hành sớm sẽ được xếp lên trên, các văn bản có ngày tháng ban hành muộn hơn sẽ lần lượt được xếp dưới.Cách sắp xếp này thường áp dụng đối với hồ sơ phản ánh sự việc, vấn đề theo trình tự thời gian và hồ sơ lập theo đặc trưng tên gọi văn bản, đặc trưng tác giả. Lưu ý: - Đối với các loại Kế hoạch nhiều năm, ta phải xếp vào năm đầu của Kế hoạch. - Đối với các loại Báo cáo nhiều năm, ta phải xếp vào năm cuối của Báo cáo. b. Sắp xếp theo số thứ tự của văn bản kết hợp với thời gian. Bằng cách sắp xếp này, văn bản nào có số nhỏ hơn sẽ được xếp trên, văn bản có số lớn hơn sẽ được xếp dưới. Cách sắp xếp này thường áp dụng đối với hồ sơ lập theo đặc trưng tác giả. Khi chọn cách sắp xếp này phải chú ý kết hợp với cách sắp xếp theo trình tự thời gian ban hành. c. Sắp xếp theo trình tự giải quyết công việc. Cách sắp xếp này sẽ theo trình tự mà các văn bản hình thành trong quá trình giải quyết công việc. Theo cách sắp xếp này, các văn được sắp xếp theo trình tự sau: - Văn bản khởi đầu công việc, - Văn bản giải quyết công việc, - Văn bản bản kết thúc công việc. Ví dụ: Hồ sơ Hội nghị tổng kết có các văn bản sau: - Báo cáo tổng kết. - Kế hoạch hoạt động năm. - Kế hoạch tổ chức Hội nghị. - Diễn văn khai mạc.
  30. - Bài phát biểu của lãnh đạo cơ quan. - Bài phát biểu của lánh đạo cấp trên. - Biên bản của Hội nghị Theo cách sắp xếp này thì các văn bản trong hồ sơ nêu trên lần lượt được sắp xếp như sau: - Kế hoạch tổ chức Hội nghị. - Diễn văn khai mạc. - Báo cáo tổng kết, phương hướng kế hoạch. - Bài phát biểu của lãnh đạo cơ quan. - Bài phát biểu của cấp trên. - Biên bản Hội nghị d. Sắp xếp theo giá trị pháp lý của văn bản. Theo cách sắp xếp này, văn bản nào có giá trị pháp lý cao hơn, văn bản được xếp trên, văn bản nào có giá trị pháp lý thấp hơn sẽ được xếp dưới. Ví dụ: Trong hồ sơ có các văn bản sau: - Quyết định. - Thông tư. - Chỉ thị. - Nghị quyết Theo cách sắp xếp này thì các văn bản trong hồ sơ trên được xếp như sau: - Nghị quyết. - Quyết định. - Chỉ thị. - Thông tư. e. Sắp xếp theo vị trí của cơ quan ban hành. Theo cách sắp xếp này, văn bản do cơ quan có vị trí cao hơn ban hành sẽ được xếp trên. Văn bản do có quan có vị trí thấp hơn ban hành lần lượt được xếp dưới. Ví dụ: Trong một hồ sơ có các văn bản của các cơ quan sau: - Sở Giáo dục - Đào tạo. - Hội đồng Nhân dân thành phố. - Bộ Giáo dục - Đào tạo. - Uỷ ban Nhân dân thành phố
  31. Theo cách sắp xếp này, các văn bản trong hồ sơ trên được xếp như sau: - Bộ Giáo dục và đào tạo. - Hội đồng Nhân dân thành phố. - Uỷ ban Nhân dân thành phố. - Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố. f. Sắp xếp theo vần chữ cái. Thường dùng trong sắp xếp các hồ sơ về nhân sự, các Quyết định có liên quan đến nhân sự như: Quyết định nâng lương, Quyết điinhj bổ nhiệm cán bộ . Ví dụ: Trong hồ sơ: “Quyết định về nâng bậc lương cho cán bộ, viên chức năm 2004 của Trường THCN CKN Đông Á”, các văn bản được sắp xếp theo thứ tự từ trên xuống dưới như sau: - Quyết định nâng bậc lương cho ông Lê Văn An. - Quyết định nâng bậc lương cho ông Hà Trọng Ân - Quyết định nâng bậc lương cho bà Hoàng Thu Ba - Quyết định nâng bậc lương cho ông Nguyễn Thiện Bàn - Quyết định nâng bậc lương cho bà Phan Ngọc Châu 2.3. Đánh số tờ. Theo quy định chung, mỗi tờ văn bản trong hồ sơ được đánh một số theo thứ tự từ trên xuống dưới để cố định vị trí sắp xếp và tra tìm văn bản được nhanh chóng. Vị trí đánh số là góc phải phía trên của tờ văn bản. Đánh số bằng bút chì và không đánh vào những tờ giấy trắng. Khi đánh số tờ cần chú ý một số điểm sau đây: - Nếu đánh sót số thì phải thêm các ký hiệu a, b, c vào sau các số sót. - Nếu đánh nhảy số, phải ghi chú vào Mục lục văn bản. - Nếu văn bản có ảnh đi kèm để minh hoạ cho nội dung tài liệu, ta phải cho ảnh vào phong bì và đính kèm với văn bản. - Nếu một văn bản có khổ giấy to gấp đôi khổ giấy của các văn bản còn lại thì khi đánh số tờ ta phải đánh cho văn bản hai số thứ tự khác nhau. 2.4. Viết mục lục văn bản. Mục lục văn bản là bản thống kê tất cả các tài liệu trong một hồ sơ. Mục lục văn bản trong hồ sơ có tác dụng giới thiệu một cách có hệ thống thành phần, nội dung của từng văn bản và vị trí sắp xếp của chúng
  32. trong hồ sơ để tra cứu được thuận lợi. Ngoài ra còn nhằm mục đích thống kê và cố định thứ tự sắp xếp văn bản của hồ sơ nhằm bảo quản được tốt. Mục lục văn bản trong hồ sơ được in sẵn ở trang 02 hoặc trang 03 của bìa hồ sơ hoặc viết thành tờ riêng và xếp trước các văn bản của hồ sơ. Thông thường, chỉ những hồ sơ có giá trị và những hồ sơ có từ hai văn bản trở lên thì mới cần lập mục lục này. Mục lục văn bản trong hồ sơ có cấu tạo như sau MỤC LỤC VĂN BẢN Hồ sơ số: Số, ký Ngày Tác giả Tên loại và trích yếu nội Tờ Ghi TT hiệu văn tháng văn văn bản dung văn bản số chú bản bản 1 2 3 4 5 6 7 Hướng dẫn cách ghi các cột: Cột số 1: Ghi số thư tự của văn bản được đăng ký vào Mục lục. Cột số 2: Ghi số, ký hiệu văn bản. Cột số 3: Ghi ngày tháng văn bản Cột số 4: Ghi tên cơ quan hoặc cá nhân ban hành văn bản. Cột số 5: Ghi tên loại và trích yếu nội dung văn bản. Cột số 6: Ghi tờ số của văn bản (Mỗi tờ văn bản đã được đánh một số thứ tự riêng, Cần ghi rõ văn bản được đăng ký vào Mục lục có soó tờ từ số mấy đến số mấy?) Cột số 7: Ghi các thông tin cần thiết khác (bản sao, văn bản Mật ) Lưu Ý: Nếu Mục lục văn bản có nhiều trang thì phải đánh số trang cho mục lục nhằm tạo điều kiện cho việc theo dõi, quản lý. Khi viết mục lục văn bản trong hồ sơ, các yếu tố thông tin phải được thể hiện chính xác, đúng theo văn bản, không được tuỳ tiện thêm bớt hoặc sửa đổi. Những yếu tố thông tin nào mà văn bản không có thì để trống, nếu một yếu tố thông tin nào đó ở văn bản không có, nhưng người biên mục xác minh được thì có thể ghi vào nhưng phải chú thích.
  33. Ví dụ: Trong văn bản không đề ngày tháng ban hành nhưng người biên mục đã xác minh được ngày tháng ban hành văn bản thì ghi vào cột 3, nhưng phải chú thích rõ đó là ngày tháng xác minh ở cột 7. 2.5. Viết chứng từ kết thúc. Chứng từ kết thúc là bản ghi chép những thông tin cần thiết về hồ sơ để phục vụ cho việc bảo quản hồ sơ đó. Các thông tin cần đưa vào chứng từ kết thúc gồm: số lượng tờ văn bản của hồ sơ, số lượng tờ mục lục văn bản, trạng thái các văn bản của hồ sơ, ngày tháng năm lập hồ sơ, người lập hồ sơ (xem mẫu). TỜ KẾT THÚC Hồ sơ số: . (Đơn vị bảo quản số: .) (1) 1. Hồ sơ này có: . tờ (2) (Viết bằng chữ: tờ). 2. Mục lục văn bản có: tờ (3). (Viết bằng chữ: tờ). 3. Tình trang của tài liệu: (4) , ngày tháng năm NGƯỜI LẬP Hướng dẫn cách ghi: (1): Ghi số của hồ sơ hoặc đơn vị bảo quản. (2): Ghi tổng số tờ tài liệu có trong hồ sơ. (3): Ghi tổng số tờ Mục lục văn bản có trong hồ sơ. (4): Ghi một số đặc điểm tình hình tài liệu như: Ngôn ngữ, Vật liệu cấu thành, Mức độ hư hại Ví dụ: Tờ số 135 rách góc phải; Tờ số 157 - tiếng Anh có bản dịch. Chứng từ kết thúc được viết trên một tờ giấy riêng và xếp sau các văn bản của hồ sơ, hoặc viết lên trang 3 của tờ bìa hồ sơ.
  34. 2.6. Viết bìa hồ sơ. Là việc giới thiệu lên bìa hồ sơ các thông tin cần thiết về hồ sơ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và tra tìm. Viết bìa hồ sơ là một việc làm thường xuyên của văn thư cơ quan cũng như của lưu trữ cơ quan. Việc làm này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và tra tìm hồ sơ. Bìa hồ sơ được cấu thành bởi các thành phần sau đây: - Tên cơ quan, - Tên đơn vị tổ chức, - Tiêu đề hồ sơ, - Thời gian bắt đầu và kết thúc, - Số lượng tờ, - Thời hạn bảo quản, - Số lưu trữ. Mẫu trang đầu của bìa hồ sơ như sau: - Thông số kích thước: PHẦN GẤP CẠNH PHẦN GẤP GÁY 560mm 330mm TỜ SAU TỜ ĐẦU
  35. 50mm 235mm 40mm 235m Tờ bìa Ký hiệu thông tin: Số: .VT
  36. HỒ SƠ Từ ngày: đến ngày: Gồm: . tờ. Phông số: THỜI HẠN BẢO QUẢN Mục lục số: . Hồ sơ số: Khi viết bìa hồ sơ, không những phải thể hiện chính xác các thông tin trên bìa hồ sơ nói mà còn phải chú ý về kỹ thuật trình bày, sao cho rõ ràng, sáng sủa và làm nổi bật được những yếu tố thông tin chủ yếu. Dưới đây sẽ lần lượt trình bày về cách thể hiện các thành phần nói trên. a. Tên cơ quan. Tên cơ quan là tên đơn vị hình thành phông đã hình thành hồ sơ đó (không phải tên cơ quan chủ quản). Do vậy tên cơ quan cũng chính là tên phông mà hồ sơ đó lệ thuộc. Cần viết tên gọi chính thức của cơ quan và phải biết hoàn chỉnh, chỉ được viết tắt đối với những tên cơ quan đã được dùng phổ biến. Trong trường hợp cần thiết, tên gọi tắt có thể viết trong ngoặc đơn,
  37. sau khi đã nêu tên chính thức của cơ quan đó. Ví dụ: Công ty xuất nhập khẩu Chợ Lớn (CHOLIMEX). Nếu trong quá trình hình thành văn bản của hồ sơ mà tên cơ quan có thay đổi, thì ở bìa hồ sơ sẽ viết tên gọi cuối cùng của cơ quan đó. Chẳng hạn, trước tháng 7 năm 1976, cơ quan quản lý hành chính các cấp mang tên gọi là Uỷ ban hành chính, sau kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa VI, được đổi thành Uỷ ban nhân dân. Như vậy, tên cơ quan viết ở bìa hồ sơ hình thành trong năm 1976 của cơ quan quản lý hành chính các cấp (gồm văn bản hình thành trước và sau tháng 7/1976) sẽ là Uỷ ban nhân dân, chứ không phải Uỷ ban hành chính. Đối với hồ sơ khởi đầu ở một cơ quan này, nhưng lại kết thúc ở một cơ quan khác thì ngoài bìa sẽ ghi tên cơ quan cuối. Vì đó chính là tên phông mà hồ sơ sẽ đưa vào. b. Tên đơn vị tổ chức. Tên đơn vị tổ chức là tên đơn vị trực thuộc cơ quan đã trực tiếp hình thành hồ sơ đó. Đơn vị tổ chức ở đây có thể là vụ, ban, đối với cơ quan cấp Bộ như Vụ Kế hoạch, Vụ Tài vụ, Ban Thanh tra, Văn phòng hoặc phòng đối với một cơ quan cấp Cục, Sở, Tổng công ty, như Phòng Tổng hợp, Phòng Kế hoạch, Phòng Tổ chức - cán bộ Tên đơn vị tổ chức được viết dưới tên cơ quan, nhằm mục đích phân loại hồ sơ được nhanh chóng và chính xác. Trường hợp tên đơn vị tổ chức thay đổi cũng sẽ xử lý như trường hợp thay đổi tên cơ quan. Ví dụ: SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG PHÒNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH TỔNG HỢP c. Tiêu đề hồ sơ. c.1. Khái niệm. Tiêu đề hồ sơ là một câu ngắn gọn khái quát được toàn bộ nội dung của hồ sơ. c.2. Thuật ngữ viết tiêu đề hồ sơ. Khi viết tiêu đề hồ sơ, ta thường sử dụng các thuật ngữ sau đây để bắt đầu cho một Tiêu đề. - “V/v” (Về việc): Thuật ngữ này thường được dùng để viết tiêu đề cho các hồ sơ lập theo đặc trưng vấn đề. - “Tập”: Thuật ngữ này thường được dùng để viết tiêu đề cho các hồ sơ lập theo các đặc trưng: Tên gọi, Tác giả, Thời gian, Địa dư. Ví dụ: Tập Quyết định của
  38. - “Công văn trao đổi”: Thuật ngữ này thường được dùng để viết tiêu đề cho các hồ sơ lập theo đặc trưng cơ quan giao dịch. Ví dụ: Công văn trao đổi giữa Đối với các hồ sơ công trình, hồ sơ vụ án, hồ sơ cán bộ, ta thường sử dụng các thuật ngãu sau để viết Tiêu đề hồ sơ: Ví dụ: Hồ sơ Công trình Hồ sơ Vụ án . Hồ sơ của ông (bà) Công tác tại: c.3. Yêu cầu về viết tiêu đề hồ sơ. Viết tiêu đề hồ sơ tức là giới thiệu khái quát thành phần, nội dung các văn bản trong hồ sơ lên bìa hồ sơ. Đây là phần việc quan trọng và khó nhất trong biên mục hồ sơ. Vì vậy khi viết Tiêu đề hồ sơ phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Tiêu đề hồ sơ phải viết ngắn gọn, khái quát được nội dung bên trong với ngôn ngữ hiện đại và bảo đảm quan điểm chính trị đúng đắn. Ngắn gọn là một yêu cầu nghiêm khắc được đặt ra khi viết tiêu đề. Một mặt do khuôn khổ bìa hồ sơ có hạn, không cho phép viết dài. Mặt khác, nếu viết theo lối liệt kê từng tài liệu, thì sẽ không tóm lược được nội dung cơ bản của hồ sơ, như vậy không giúp ích được nhiều trong việc tra tìm tài liệu. Bất cứ tài liệu hình thành trong thời đại nào, khi viết tiêu đề hồ sơ cũng phải trình bày bằng ngôn ngữ hiện đại, viết đúng ngữ pháp, lời văn trong sáng, dễ hiểu, không được sao chép một cách máy móc những từ cổ xưa, những câu văn tối nghĩa được phản ánh trong tài liệu của hồ sơ. Tuy nhiên, đối với những từ ngữ phản ánh đặc điểm của các thời kỳ lịch sử như tên người, tên cơ quan, tên địa điểm, dân cư, tên gọi chức vụ, thuật ngữ về luật pháp v.v thì cần phản ánh trung thực, không được thay thế bằng những ngôn từ hiện đại làm mất tính lịch sử của tài liệu. Ví dụ: Khi biên mục hồ sơ thời phong kiến, không được thay đổi tên gọi của các loại văn bản như sắc, chiếu bằng quyền định, chỉ thị Cũng không thể gọi thành phố Sài Gòn là thành phố Hồ Chính Minh, hay đô trưởng Sài Gòn là chủ tịch Thành phố Sài Gòn khi biên mục hồ sơ tài liệu của Ngụy quyền Sài Gòn, tay sai Đế quốc Mỹ trước đây. - Phải làm cho các sự kiện, hiện tượng phản ánh trong hồ sơ được thể hiện đúng đắn và được đánh giá theo quan điểm của Đảng. Không được dùng những từ ngữ mà bọn Đế quốc, Thực dân và bè lũ tay sai của chúng sử dụng để xuyên tạc sự thật, vu khống, nói xấu Cách mạng và nhân dân ta, như gọi các cuộc đấu tranh của nhân dân ta là bạo loạn, nổi loạn, gọi những chiến sĩ cách mạng là giặc, là quân phiến loạn
  39. Ví dụ: Đối với những tài liệu về cuộc khởi nghĩa chống Thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX của Nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, nếu biên mục theo quan điểm Thực dân thì sẽ viết: - Tài liệu về cuộc nổi loạn của phiến quân Hoàng Hoa Thám. Nhưng nếu đứng trên quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, tiêu đề hồ sơ này phải được thể hiện như sau: - Tài liệu về cuộc khởi nghĩa chống Thực dân Pháp của Nghĩa quân Hoàng Hoa Thám. Vấn đề này cần được đặc biệt chú ý khi biên mục các phông của Ngụy quyền Sài Gòn, các cơ quan của Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. - Tiêu đề hồ sơ cần phải phản ánh được các đặc trưng đã chọn để lập hồ sơ đó. Việc phản ánh các đặc trưng lập hồ sơ vào tiêu đề là điều kiện quan trọng để thể hiện chính xác thành phần và nội dung văn bản trong hồ sơ. Nếu tiêu đề của hồ sơ lập ở văn thư viết chưa đạt yêu cầu, thì khi biên mục hồ sơ trong các lưu trữ cần sửa lại cho chính xác và hoàn chỉnh. c.4. Các yếu tố thông tin của tiêu đề hồ sơ. Tiêu đề hồ sơ thường gồm các yếu tố thông tin sau đây: Tên loại văn bản, tác giả văn bản, cơ quan giao dịch, nội dung văn bản, thời gian, địa điểm. Cách thể hiện các yếu tố này như sau: Tên loại văn bản: Tên loại văn bản nêu ở tiêu đề nhằm giới thịêu trong hồ sơ đó có những loại văn bản gì - Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư hay Báo cáo, Thông báo Trên một chừng mực nhất định, loại văn bản nêu ở tiêu đề còn có tác dụng phản ánh tính chất và mức độ quan trọng của hồ sơ. Do đó, tên loại văn bản là một yếu tố thông tin cần được thể hiện chính xác ở tiêu đề và không được tuỳ tiện thay đổi tên gọi của chúng. + Nếu trong trường hợp hồ sơ gồm nhiều loại văn bản cùng đề cập đến một vấn đề, nhưng không liên quan chặt chẽ về trình tự giải quyết văn thư, thì ở tiêu đề hồ sơ cần phải nêu tên các loại văn bản đó. Ví dụ: Tập Nghị quyết, Quyềt định, Thông tư, Chỉ thị, Kế hoạch của Chính phủ, Bộ Lao động và Thương binh - xã hội, Bộ Tài chính về vấn đề trợ cấp khó khăn cho cán bộ, viên chức. Trong trường hợp nếu kê hết các loại văn bản sẽ làm cho tiêu đề dài dòng thì có thể chỉ nêu tên một vài loại văn bản chủ yếu, các loại văn bản còn lại có thể thay bằng thuật ngữ “tài liệu”. Ví dụ: Tiêu đề hồ sơ trên có thể viết như sau:
  40. Tập Nghị quyết, Quyết định và các tài liệu khác của Chính phủ, Bộ Lao động và Thương binh xã hội, Bộ Tài chính về vấn đề trợ cấp khó khăn cho cán bộ, công nhân viên. + Nếu tất cả các văn bản trong hồ sơ đều có cùng tên gọi thi ở tiêu đề chỉ cần nêu tên gọi chung của tất cả các văn bản đó. Ví dụ: Tập Quyết định của Sở Công nghiệp tỉnh Quảng Nam năm 2003 Trong viết tiêu đề hồ sơ, có khi còn dùng thuật ngữ “Hồ sơ” để thay thế cho các loại văn bản cụ thể. Đó là trường hợp các loại văn bản trong hồ sơ có liên quan chặt chẽ với nhau về trình tự giải quyết văn thư. Ví dụ: Hồ sơ về công tác tuyển quân đợt I năm 2003 của UBND Quận Hải Châu. Thuật ngữ “Hồ sơ” còn được dùng để viết tiêu đề hồ sơ các vụ án và hồ sơ nhân sự. Ví dụ: - Hồ sơ xét xử vụ Nguyễn Văn T, can tội trấn lột tài sản của công dân Thuật ngữ “Công văn trao đổi” hoặc “Công văn giấy tờ trao đổi” được dùng khi viết tiêu đề hồ sơ gồm những văn bản trao đổi về một vấn đề nào đó giữa đơn vị hình thành phông với các cơ quan hoặc cá nhân khác. Ví dụ: Công văn trao đổi giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với một số cơ quan về việc mở các lớp đại học tại chức. Tác giả văn bản: Tác giả văn bản nêu ở tiêu đề nhằm giúp cho người đọc biết được các văn bản trong hồ sơ là do những cơ quan hoặc cá nhân nào lập ra, đồng thời qua đó có thể nắm hiểu được phần nào mực độ quan trọng và sự hoàn chỉnh của hồ sơ. Do vậy ở tiêu đề hồ sơ, tác giả văn bản cần được giới thiệu đầy đủ và chính xác. Tên tác giả phải viết đầy đủ, không được viết tắt hoặc viết theo tên gọi tắt, nếu cách viết tắt hoặc tên gọi tắt đó chưa được chính thức thừa nhận. Nếu tác giả là cá nhân, thì phải nêu đầy đủ họ, tên, cấp bậc, chức vụ, nghề nghiệp để người đọc có khái niệm đầy đủ và chính xác về người đó. Ví dụ: - Thư của Chủ tịch nước Trần Đức Lương gửi các cháu thiếu nhi và nhi đồng nhân ngày Thiếu nhi quốc tế (1 tháng 6 năm 2004).
  41. Trong các trường hợp sau đây có thể không nêu hoặc không cần nêu đầy đủ tên tác giả của các văn bản trong hồ sơ. * Trường hợp hồ sơ bao gồm văn bản của nhiều tác giả không cùng cơ quan, nếu giới thiệu đầy đủ thì tiêu đề sẽ rất dài. Trong trường hợp này, chỉ cần nêu tác giả của một số văn bản chủ yếu, còn các tác giả khác có thể không nêu lên hoặc nêu dưới dạng khái quát như “Các cơ quan khác”, “Một số cơ quan” . Ví dụ: - Tập Báo cáo của Sở Công nghiệp, Sở Xây dựng thành phố Đà Nẵng và một số cơ quan về tình hình quản lý vật tư năm 2004. - Tập Báo cáo thống kê của Sở Văn hóa Thông tin thành phố Đà Nẵng và các cơ quan trực thuộc về tình hình thiệt hại của cơn bão số 5 * Trường hợp hồ sơ gồm văn bản của nhiều tác giả cùng loại cơ quan, nếu hồ sơ hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh thì ở tiêu đề cần nêu tên chung của các cơ quan đó. Ví dụ: -Tập Báo cáo tổng kết năm học 2004 - 2005 của các trường Trung học Chuyên nghiệp tại thành phố Đà Nẵng. Cơ quan giao dịch: Cơ quan giao dịch tức là cơ quan (hoặc cá nhân) có công văn hoặc giấy tờ trao đổi. Đối với hồ sơ lập theo đặc trưng cơ quan giao dịch, thì tên các cơ quan hoặc cá nhân có công văn trao đổi với nhau phải được nêu ở tiêu đề. Nó cho ta biết về những cơ quan hoặc cá nhân có liên quan đến hoạt động của đơn vị mình thành phông. Ví dụ: Tập Công văn trao đổi giữa Đại học Khoa học Huế và Trường THCN CKN Đông Á về việc Tuyển sinh Đại hcọ tại chức Luật năm 2005. Trong trường hợp này có thể viết ngắn gọn hơn bằng cách không nêu tên tác giả là đơn vị hình thành phông. Chẳng hạn, tiêu đề hồ sơ trên có thể viết: Tập Công và trao đổi với Trường Đại học Khoa học Huế về thực hiện quy chế giảng dạy và học tập các lớp Đại học Tại chức Luật. Nội dung của các văn bản. Yếu tố thông tin này cung cấp cho người đọc thông tin khái quát về các sự kiện, hiện tượng được phản ánh trong các văn bản của hồ sơ. Đây là thành phần quan trọng nhất của tiêu đề hồ sơ, là đối tượng tra tìm chủ yếu đối với người nghiên cứu và sử dụng tài liệu.
  42. Vì vậy, yêu cầu cơ bản của viết tiêu đề hồ sơ là phải khái quát được nội dung các văn bản trong hồ sơ một cách chính xác. Mức độ khái quát và cách thể hiện yếu tố thông tin này ở tiêu đề phụ thuộc bởi nội dung của các văn bản trong hồ sơ. Ví dụ: Trong tiêu đề hồ sơ “Quyết định, thông tư và các tài liệu khác của Bộ Y tế về trồng dược liệu, kinh doanh và phân phối dược phẩm”, thì “Trồng dược liệu” là khái quát nội dung nhóm tài liệu đề cập đến việc trồng các cây thuốc; “Kinh doanh và phân phối dược phẩm” là tổng hợp nội dung nhóm tài liệu nói về kinh doanh và phân phối các loại thuốc. Còn trong hồ sơ có tiêu đề: “Quyết định, chỉ thị, thông tư của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về công tác lương thực” thì “công tác lương thực” là khái quát nội dung của tất cả văn bản trong hồ sơ, gồm các vấn đề về thu mua, điều phối, chế biến và bảo quản lương thực. Cần tránh khái quát nội dung văn bản trong hồ sơ một cách tuỳ tiện, không phản ánh đúng đắn thực chất của hồ sơ. Chẳng hạn, nếu một số hồ sơ gồm các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đề cập đến các vấn đề về đắp đê, xây kè cống mà tiêu đề hồ sơ viết: Nghị quyết, chỉ thị, thông tư của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về công tác thuỷ lợi, thì không hợp lý. Bởi vì công tác đắp đê, xây kè, cống chống lụt chỉ là một bộ phận của công tác thuỷ lợi. Công tác thuỷ lợi còn bao gồm nhiều mặt như xây dựng các công trình tưới và tiêu để chống úng, chống hạn, xả lũ Tuy nội dung văn bản là yếu tố thông tin cơ bản nhất của tiêu đề hồ sơ, nhưng trong một số trường hợp sau đây thì không cần phải thể hiện: - Trường hợp giới thiệu loại hồ sơ, nhưng đồng thời cũng cho khái niệm về nội dung hồ sơ đó. Ví dụ: “Sổ cái”, “Thẻ kho”. - Trường hợp hồ sơ gồm các văn bản cùng loại (Chỉ thị, Nghị quyết, Biên bản ) nhưng nội dung đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau. Ví dụ: Tập Thông báo của Chính phủ. Tập Biên bản các cuộc họp của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Địa điểm: Yếu tố thông tin địa điểm nêu ở tiêu đề có thể là nơi xảy ra sự kiện,
  43. hiện tượng mà các văn bản trong hồ sơ đề cập đến. Ví dụ: Tập Báo cáo, thông báo của Tổng cục Khí tượng và Thuỷ văn về tình hình lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng năm 2004. Có trường hợp, địa điểm nêu ở tiêu đề cho ta biết rõ nơi cư trú, phạm vi hoạt động của tác giả trong hồ sơ. Ví dụ: - Đơn của ngoại kiều ở Đà Nẵng xin cấp giấy xuất cảnh. - Thư quyết tâm của các đơn vị bộ đội Đảo Trường Sa gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, yếu tố địa điểm có lúc còn cho ta biết địa chỉ của người nhận hoặc trao đổi công văn. Ví dụ: Thư của thành uỷ và Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội gửi đồng bào Thủ đô đi xây dựng Khu kinh tế mới Lâm Đồng. Trong tiêu đề, địa danh cần viết theo đúng tên được nêu trong các văn bản của hồ sơ. Trường hợp nếu ghi theo địa danh không cung cấp được khái niệm đầy đủ về địa điểm đó, thì cần ghi thêm đơn vị hành chính mà nó thực thuộc. Ví dụ: Hồ sơ về cải tạo đất bạc màu ở xã Hoà Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Đối với hồ sơ mà nội dung các văn bản đề cập đến nhiều địa điểm thuộc cùng một khu vực hoặc cùng một đơn vị hành chính, thì ở tiêu đề hồ sơ, thành phần này có thể nêu khái quát theo tên của khu vực, đơn vị hành chính đó. Ví dụ: Báo cáo công tác Phòng chống cháy rừng mùa khô năm 2003 – 2004 của các tỉnh Mièn Trung và Tây Nguyên. Thời gian: Khi viết tiêu đề hồ sơ, cần phân biệt hai loại thời gian liên quan đến hồ sơ: thời gian giới hạn năm tháng của các sự kiện, hiện tượng được đề cập trong các văn bản của hồ sơ và thời gian ban hành văn bản. Loại thời gian đầu liên quan chặt chẽ với nội dung văn bản, thiếu nó thì nội dung văn bản sẽ không được làm sáng tỏ. Bởi vậy, loại thời gian này cần được thể hiện lên tiêu đề hồ sơ.
  44. Ví dụ: Tập Báo cáo tổng kết tình hình xây dựng cơ bản năm 2003 của Sở Xây dựng thành phố Đà Nẵng Thời gian ban hành văn bản có trong tất cả các loại văn bản vì nó là một bộ phận cấu thành của văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành. Khi biên mục hồ sơ, loại thời gian này được thể hiện ở thành phần “Thời gian bắt đầu và kết thúc”, do đó chỉ giới thiệu ở tiêu đề hồ sơ trong các trường hợp sau đây: - Trường hợp hồ sơ chỉ có một văn bản và là văn bản quan trọng. Ví dụ: Thông tư liên tịch số: 07/2002/TTLT-BCA-BTCCBCP, ngày 06 tháng 5 năm 2002 của Liên tịch Bộ Công an và Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủhướng dẫn thực hiện một số quy định tại Nghị định số:58/2001/NĐ- CP ngày 24/8/2001 về quản lý và sử dụng con dấu. - Trường hợp hồ sơ lập theo đặc trưng chủ yếu là thời gian. Ví dụ: Tập Nghị quyết, Chỉ thị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng năm 2003. c.5. Thứ tự của các yếu tố thông tin trong tiêu đề hồ sơ. Khi viết tiêu đề hồ sơ, cần phải chú ý đến kết cấu của nó, tức là phải sắp xếp các yếu tố thông tin trong tiêu đề theo một trình tự nhất định. Thứ tự sắp xếp hợp lý sẽ góp phần thể hiện chính xác thành phần và nội dung các văn bản trong hồ sơ. Nhìn một cách tổng quát, các yếu tố thông tin trong tiêu đề hồ sơ thường được sắp xếp theo trình tự: tên loại văn bản - tác giả văn bản - cơ quan giao dịch - nội dung văn bản - địa điểm và thời gian mà nội dung văn bản đề cập đến. Tuy nhiên, trật tự sắp xếp này có thể thay đổi tuỳ theo đặc điểm của từng hồ sơ cụ thể. Mặt khác, không phải hồ sơ nào cũng có đầy đủ các yếu tố thông tin đó. Nếu hồ sơ gồm các văn bản có liên quan với nhau về quá trình giải quyết văn thư thì ở tiêu đề, yếu tố thông tin đầu tiên là “hồ sơ” tiếp đến là nội dung - địa điểm - thời gian (nếu có). Ví dụ: - Hồ sơ Hội nghị tổng kết công tác xuất bản năm 1995. Đối với hồ sơ mà các văn bản bên trong không có quá trình giải quyết văn thư liên tục, thì các yếu tố thông tin trong tiêu đề hồ sơ đó sẽ theo trình tự: Tên loại văn bản - Tác giả - Nội dung - Địa điểm - Thời gian (nếu có). Ví dụ:
  45. Tập Báo cáo của Sở Công an thành phố Hồ Chí Minh về tình hình trật tự trị an ở các quận nội thành năm 2002. Trường hợp hồ sơ gồm các công văn trao đổi thì sau tên loại văn bản (tức công văn trao đổi) là cơ quan giao dịch - nội dung - địa điểm - thời gian (nếu có). Đối với những hồ sơ được lập thành bởi các loại văn bản như Chương trình, Kế hoạch, Báo cáo sơ kết, Báo cáo tổng kết thì tác giả được đặt ở vị trí cuối cùng của tiêu đề. Ví dụ: Chương trình công tác năm 2004 của Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng. Tập Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch năm 2002 của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông V. Trong các trường hợp trên, đặt tác giả ở cuối tiêu đề sẽ phù hợp với cách nói và viết của tiếng Việt hơn là đặt nó ở vị trí thứ hai, sau tên loại văn bản. c.6. Tiêu đề mẫu. Trong một phông lưu trữ, thường gặp những hồ sơ được lập theo một số đặc trưng giống nhau. Để tiêu chuẩn hóa cách biên mục đối với từng loại hồ sơ, người ta nghiên cứu đặt tiêu đề mẫu cho những loại hồ sơ đó. Khi nghiên cứu để xây dựng các tiêu đề mẫu, cần phải nắm vững chức năng, nhiệm vụ của cơ quan (đơn vị hình thành phông), tính chất và đặc điểm của văn bản trong cơ quan. Trên cơ sở này xác định được các loại hồ sơ sẽ hình thành và đặt tiêu đề mẫu cho chúng. Chẳng hạn, ở cơ quan Bộ Công nghiệp sẽ hình thành các loại hồ sơ như kế hoạch của toàn ngành, kế hoạch của nhà máy, báo cáo tổng kết toàn ngành, báo cáo tổng kết của các nhà máy, quyết định tiếp nhận, điều động thuyên chuyển cán bộ, quyết định cho về hưu, nghỉ mất sức Ở tiêu đề mẫu, cần nêu đầy đủ các yếu tố thông tin có trong nhóm hồ sơ cùng loại, sao cho gần sát với tình hình thực tế. Các yếu tố thông tin đó có thể là loại văn bản cùng với tác giả. Ví dụ: Tập Thông báo của Bộ Công nghiệp. Cũng có thể gồm các yếu tố thông tin: tên loại văn bản, tác giả và nội dung của hồ sơ. Ví dụ: Tập Nghị quyết, chỉ thị của Chính phủ về công tác quản lý thị
  46. trường. Trong tiêu đề mẫu có trường hợp cần nêu cả địa điểm và thời gian. Ví dụ: Tập Chương trình, kế hoạch đi thực tập và khảo sát ở các nước ASEAN năm 2003 của Bộ Thương mại. Tập Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch năm 2003 của các Sở Văn hóa - Thông tin. Tuy vậy, cần phải thấy rằng, khi áp dụng vào thực tế không phải mọi tiêu đề hồ sơ đều phải theo đúng như tiêu đề mẫu thuộc nhóm hồ sơ đó, mà bên cạnh phần mẫu cần phải đưa vào những yếu tố chỉ có trong hồ sơ đó. Ví dụ: Tiêu đề mẫu “chương trình kế hoạch đi thực tập và khảo sát ở các nước ASEAN năm 1994 của Bộ Thương mại” đã nêu trên, khi biên mục hồ sơ cụ thể có thể là: Tập Chương trình, kế hoạch thực tập khảo sát ở Thái Lan, Philipin trong năm 2003 của Bộ Thương mại. Việc áp dụng tiêu đề mẫu đối với các nhóm hồ sơ cùng loại sẽ đảm bảo cho tiêu đề hồ sơ ngắn gọn, chính xác và thống nhất, đồng thời nâng cao được hiệu suất công tác biên mục. Đây là một phương pháp biên mục cần được chú ý vận dụng. c.7. Giới thiệu bản chính, bản sao, mức độ hoàn chỉnh và những đặc điểm bề ngoài của hồ sơ. Khi viết tiêu đề những hồ sơ có giá trị, cần phải chỉ rõ mức độ chính xác (bản chính, bản sao), mức độ hoàn chỉnh và các đặc điểm bề ngoài của hồ sơ. Việc thể hiện ở tiêu đề những thông tin này sẽ làm tăng thêm độ tin cậy và hiệu lực pháp lý của các văn bản trong hồ sơ. Nếu văn bản trong hồ sơ đều là bản chính (hoặc đều là bản sao) thì việc chỉ dẫn này được ghi ngay sau dấu chấm hết của tiêu đề. Ví dụ: Chỉ thị, thông tư của Thủ tướng Chính phủ và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ về công tác cán bộ. (Bản chính). Nếu trong hồ sơ vừa có cả bản chính và bản sao, thì việc chỉ dẫn bản chính được ghi trong ngoặc đơn và đặt sau tên loại hoặc sau nội dung của văn bản đó, tuỳ thuộc vào cách diễn đạt của tiêu đề. Ví dụ: Nghị quyết (bản chính), Thông tư của Chính phủ, Bộ Lao động và Thương binh xã hội về vấn đề Bảo hiểm xã hội. Khi trong hồ sơ có những văn bản có giá trị nhưng không trọn vẹn thì
  47. tình trạng đó cần được chỉ rõ ở cuối tiêu đề và đặt trong ngoặc đơn với những từ ngữ như “không có dấu, chữ ký, không có kết thúc” v.v Đối với những hồ sơ có giá trị thì cần chỉ rõ ở tiêu đề phương pháp làm ra các văn bản có giá trị đặc biệt trong hồ sơ (chép tay, bản thảo, bản đánh máy ) Gặp trường hợp hồ sơ có những đặc điểm bề ngoài khác nhau với phần lớn các hồ sơ khác thì cũng cần chỉ ra ở tiêu đề. Những đặc điểm bề ngoài của văn bản thường thể hiện ở giấy viết (da, lụa) phương pháp viết và in văn bản (viết tay, in thạch ) ngôn ngữ của văn bản (Hán văn, Pháp văn ). Việc chỉ dẫn những đặc điểm bề ngoài của hồ sơ có thể để ở cuối tiêu đề và đặt trong dấu ngoặc đơn. d. Ngày tháng bắt đầu và kết thúc hồ sơ. Ngày tháng bắt đầu và kết thúc hồ sơ, được ghi ngay dưới tiêu đề hồ sơ để tra tìm văn bản được nhanh, hệ thống hóa tài liệu được thuận lợi. Ngày tháng bắt đầu là ngày tháng của văn bản lập sớm nhất, còn ngày tháng kết thúc là ngày tháng của văn bản ban hành muộn nhất trong hồ sơ đó. Thông thường đó là giới hạn thời gian hình thành và kết thúc quá trình giải quyết vấn đề, sự việc được phản ánh trong hồ sơ. Ngày tháng bắt đầu và kết thúc phải ghi chính xác, nếu ghi sai sẽ gây nên hậu quả là phân loại thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến việc tra tìm và sử dụng tài liệu. Việc ghi ngày tháng bắt đầu và kết thúc phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của hồ sơ. Đối với hồ sơ mà văn bản bên trong có quá trình giải quyết văn thư liên tục thì cần ghi đầy đủ ngày, tháng, năm bắt đầu và kết thúc của hồ sơ đó. Còn các loại hồ sơ khác thì chỉ cần ghi năm là đủ. Trong trường hợp hồ sơ gồm nhiều tập, thì ở mỗi tập phải ghi rõ ngày tháng bắt đầu và kết thúc của băn bản trong tập đó. Đối với hồ sơ gồm văn bản kế hoạch, báo cáo, thống kê đã nêu năm tháng ở tiêu đề thì không cần thiết phải ghi thêm mục này. Khi không thể xác định được chính xác ngày tháng, thì ngày tháng xác định đó cần được đặt trong ngoặc đơn. Ví dụ: (không sớm hơn năm 1970), hoặc (không muộn hơn năm 1974). Nếu xác định được chính xác năm, còn ngày tháng chỉ xác định gần đúng thì năm sẽ đề ngoài dấu ngoặc, còn ngày tháng đưa vào trong ngoặc đơn. Ví dụ: Năm 1986 (không muộn hơn ngày 27 tháng 6). Trong trường hợp không thể xác định được ngày tháng thì sẽ ghi
  48. (không có ngày tháng). e. Số tờ. Số tờ tức là số lượng tờ văn bản của hồ sơ, được viết ở góc trái phía dưới bìa hồ sơ. Ghi số tờ ở bìa hồ sơ chủ yếu là để kiểm tra và bảo quản văn bản trong hồ sơ được thuận lợi. Căn cứ vào chứng từ kết thúc của hồ sơ để ghi số tờ ở bìa hồ sơ. f. Thời hạn bảo quản. Thời hạn bảo quản của hồ sơ được ghi ở góc phải phía dưới của hồ sơ nhằm phục vụ cho việc thống kê và bảo quản hồ sơ. Thời hạn bảo quản của hồ sơ có 03 loại: Vĩnh viễn; Lâu dài và Tạm thời. g. Số lưu trữ. Số lưu trữ của hồ sơ bao gồm số của phông mà hồ sơ đó được đưa vào, số mục lục và số thứ tự của đơn vị bảo quản hoặc hồ sơ đó trong mục lục. Số lưu trữ dùng để tra tìm tài liệu và chú dẫn văn bản khi sử dụng chúng. Trong các lưu trữ, khi cấp phát các bản chứng thực, sao lục, trích lục lưu trữ và cả trong trường hợp loại huỷ những hồ sơ không cần bảo quản, đều phải chú dẫn số lưu trữ của hồ sơ. Ví dụ: Phông số 3 mục đích hồ sơ số 1, đơn vị bảo quản số 15. Số lưu trữ chỉ áp dụng đối với hồ sơ lập ở lưu trữ, còn hồ sơ hiện hành thì không cần ghi. 3. Lập hồ sơ nguyên tắc. 3.1. Khái niệm: Hồ sơ nguyên tắc là một tập bản sao các văn bản Quy phạm pháp luật có nội dung đề cập đến một hoạt động cụ thể nào đó. Ví dụ: - Tập bản sao các văn bản Quy phạm pháp luật đề cập đến chế độ tiền lương. Tập bản sao các văn bản Quy phạm pháp luật có nội dung đề cập đến công tác Bảo hiểm Xã hội. 3.2. Tác dụng của hồ sơ nguyên tắc. Hồ sơ nguyên tắc là những căn cứ pháp lý quan trọng phục vụ đắc lực cho hoạt động của cơ quan. Chúng luôn luôn cung cấp một cách đầy đủ các thông tin pháp lý phục vụ công tác soạn thảo văn bản của cơ quan, giúp cho văn bản của cơ quan ban hành phù hợp với Pháp luật, không chồng chéo với các văn bản khác 3.3. Phương pháp lập hồ sơ nguyên tắc. Cán bộ, nhân viên trong quá trình thực hiện các công việc được giao nên sưu tầm tập hợp các văn bản Quy phạm pháp luật liên quan đến từng
  49. lĩnh vực công tác để lập thành hồ sơ. Sau khi lập thành hồ sơ, chỉ cần Viết bìa, không nhất thiết phải viết Mục lục văn bản. Ví dụ: - Cán bộ phụ trách công tác lao động tiền lương thì trong quá trình thực hiện các công việc hàng ngày phải tiến hành sưu tầm tập hợp các văn bản Quy phạm pháp luật đề cập đến tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thành hồ sơ. - Cán bộ làm công tác văn thư thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nên sưu tầm các văn bản Quy phạm pháp luật về công tác văn thư – lưu trữ để lập hồ sơ nguyên tắc. Hồ sơ nguyên tắc không cần giao nộp vào lưu trữ cơ quan. Tóm lại, lập hồ sơ hiện hành là một công việc quan trọng trong công tác công văn, giấy tờ của các cơ quan; mỗi một cán bộ làm công việc này đều có nhiệm vụ lập hồ sơ về sự việc, vấn đề do mình phụ trách theo dõi hoặc giải quyết. Việc lập hồ sơ cũng được tiến hành ở các lưu trữ cơ quan và các lưu trữ Nhà nước. Để hồ sơ lập ra có chất lượng, đảm bảo được các yêu cầu, người lập cần có hiểu biết nhất định về phương pháp lập hồ sơ; nếu lập ở văn thư cơ quan, cần có sự hướng dẫn của cán bộ văn thư hoặc lưu trữ chuyên trách của cơ quan. B. GIAO NỘP HỒ SƠ VÀO LƯU TRỮ CƠ QUAN Điều 14, Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia số: 34/2001/PL-UBTVQH10 ; Điều 22, Nghị định số: 110/2004/NĐ-CP, ngày 08 – 4 – 2004 của Chính phủ về Công tác văn thư; Điều 5, Nghị định số: 111/2004/NĐ-CP, ngày 08 – 4 – 2004 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia. I. Mục đích, ý nghĩa. Giao nộp hồ sơ vào lưu trữ cơ quan là một việc làm bắt buộc đối với các đơn vị, cá nhân trong cơ quan. Hồ sơ được giao nộp được đầy đủ sẽ góp phần giữ gìn an toàn toàn bộ tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan và cũng là để góp phần bảo vệ an toàn tài liệu phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam, phục vụ nhu cầu tra cứu, sử dụng trước mắt cũng như lâu dài. Nếu không tiến hành giao nộp hồ sơ vào lưu trữ cơ quan thì hồ sơ, tài liệu sẽ dễ bị thất lạc, mất mác và khi có nhu cầu nghiên cứu, sử dụng sẽ gặp khó khăn trong việc tra tìm. II. Trách nhiệm của các đơn vị và cá nhân trong cơ quan, tổ chức. - Hàng năm, các đơn vị, cá nhân trong cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
  50. lập “Mục lục hồ sơ, tài liệu nộp lưu”, thống kê tất cả các hồ sơ của đơn vị mình hoặc những hồ sơ hình thành trong quá trình giải quyết công việc của mình và giao nộp những hồ sơ, tài liệu đó vào lưu trữ hiện hành của cơ quan. Mẫu mục lục hồ sơ như sau: TÊN CƠ QUAN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÊN ĐƠN VỊ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc , ngày tháng năm MỤC LỤC HỒ SƠ, TÀI LIỆU NỘP LƯU ĐƠN VỊ: Ngày tháng Số, ký hiệu Số lượng Ghi TT Tiêu đề hồ sơ bắt đầu và hồ sơ tờ chú kết thúc 1 2 3 4 5 6 Bản Mục lục này có: . Hồ sơ, trong đó: 1. hồ sơ bảo quảnVĩnh viễn. 2. hồ sơ bảo quản lâu dài. 3. hồ sơ bảo quản tạm thời.
  51. ĐẠI DIỆN BÊN GIAO ĐẠI DIỆN BÊN NHẬN - Trong trường hợp các đơn vị, cá nhân cần giữ lại những hồ sơ, tài liệu đã đến hạn nộp lưu thì phải lập danh mục các hồ sơ, tài liệu đó gửi cho lưu trữ hiện hành của cơ quan, tổ chức nhưng thời hạn giữ lại không được quá hai năm. - Mọi cán bộ, công chức, viên chức trước khi nghỉ hưu, thôi việc hay chuyển công tác đều phải bàn giao lại hồ sơ tài liệu cho đơn vị hay người kế nhiệm. III. Thời hạn nộp lưu: Thời hạn nộp lưu tài liệu được quy định như sau: + Tài liệu hành chính: Sau một năm kể từ năm công việc kết thúc. + Tài liệu nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học công nghệ: Sau một năm kể từ năm công trình được nghiệm thu chính thức. + Tài liệu xây dựng cơ bản: Sau 03 tháng kể từ khi công trình được quyết toán. + Tài liệu ảnh, phim điện ảnh; Mcrôphim; tài liệu ghi âm, ghi hình và tài liệu khác: Sau 03 tháng kể từ khi công việc kết thúc. IV. Thủ tục giao nộp tài liệu. Khi giao nộp tài liệu phải lập hai bản “Mục lục hồ sơ, tài liệu nộp lưu” và hai bản “Biên bản giao nhận tài liệu”, Đơn vị, cá nhân nộp và lưu trữ hiện hành mỗi bên giữ một bản.
  52. Chương IV TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ GIẢI QUYẾT VĂN BẢN ĐẾN (Theo hướng dẫn tại Công văn số:425/VTLTNN-NVTW, ngày 18 tháng 7 năm 2005 của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước V/v hướng dẫn quản lý văn bản đi, văn bản đến). Văn bản đến cùng với văn bản đi do các cơ quan hình thành ra tạo nên một phương tiện, một loại công cụ rất đặc biệt trong hoạt động điều hành, quản lý của các cơ quan. Để văn bản có thể phát huy được tối đa ý nghĩa, tác dụng thì vấn đề tổ chức quản lý giải quyết tốt loại văn bản này có tầm quan trọng không thể xem nhẹ. Bởi vì hiệu quả của công việc quản lý, điều hành của từng cơ quan lệ thuộc vào việc có xử lý, phân tích, đánh giá các thông tin ở trong các văn bản đến kịp thời, triệt để hay không. I- Khái niệm và nguyên tắc chung. 1. Khái niệm văn bản đến. Tất cả các loại văn bản, bao gồm văn bản Quy phạm Pháp luật, văn bản hành chính và văn bản chuyên ngành (kể cả Fax, văn bản chuyển qua mạng và văn bản mật), đơn, thư từ cơ quan, cá nhân khác gửi đến bằng con đường trực tiếp hay những tài liệu quan trọng do cá nhân mang từ hội nghị về hoặc qua con đường bưu điện được gọi chung là văn bản đến. Nói cách khác: Văn bản đến là những văn bản do các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác gửi đến cơ quan mình để yêu cầu, đề nghị giải quyết những vấn đề mang tính chất công. Như vậy, về nội dung thể loại và tác giả của văn bản đến rất đa dạng và phức tạp. Mỗi cơ quan hay mỗi tổ chức chính trị - xã hội đều nằm trong một hệ thống, theo một thứ bậc nhất định và trong hoạt động hằng ngày sẽ tiếp nhận được các loại văn bản đến từ cấp trên mang nội dung chỉ đạo, hướng dẫn, giao nhiệm vụ kế hoạch, kiểm tra đôn đốc Ví dụ: UBND cấp Tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương nhận được các văn bản đến như Nghị định, Nghị quyết của Thủ tướng; Chỉ thị, Quyết định của Thủ tướng, Chỉ thị, Quyết định, Thông tư và các văn bản khác của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ Đồng thời, cũng có thể nhận được các văn bản đến từ các cơ quan, đơn vị cấp dưới hoặc đồng cấp như của của cấp Tỉnh, Thành phố bạn v.v Văn bản đến còn phải kể tới những văn bản của một số cơ quan, tổ chức và cá nhân ngoài hệ thống gửi đến vì những lý do, những yêu cầu và nguyện vọng khác nhau mà bản thân cơ quan cần xem xét, xử lý và giải
  53. quyết. Như vậy, văn bản đến đối với cơ quan là hết sức phong phú cần phải được tổ chức quản lý và giải quyết một cách khoa học, hợp lý. Căn cứ vào thành phần và nội dung, ta có thể chia văn bản đến thành 04 nhóm sau: - Nhóm văn bản của cơ quan cấp trên, - Nhóm văn bản của cơ quan ngang cấp, - Nhóm văn bản của cơ quan cấp dưới gửi lên, - Nhóm Thư công: Là các loại đơn thư do cá nhân trong cơ quan viết để gửi đến các cơ quan, tổ chức có liên quan để giải quyết việc công. 2. Nguyên tắc chung đối với việc tổ chức quản lý và giải quyết văn bản đến. - Văn bản đến dù dưới bất kỳ dạng nào đều phải được xử lý theo nguyên tắc kịp thời, chính xác và thống nhất. Như chúng ta đều biết, văn bản là phương tiện, là công cụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý điều hành của các cơ quan. Do vậy, khi nhận được văn bản của bất kỳ đối tượng nào gửi đến đều phải xem xét phân loại, đăng ký, giải quyết kịp thời chính xác và thống nhất theo quy định hiện hành của Đảng và Nhà nước. Những công văn đóng dấu “Hỏa tốc”, dấu “Thượng khẩn” phải được gửi đi hoặc phân phối ngay lúc nhận được. Việc gửi, nhận, phân phối công văn “Mật”, “Tối mật”, Tuyệt mật” phải theo đúng chế độ giữ gìn bí mật của Nhà nước. - Mọi văn bản đến cơ quan phải tập trung thống nhất tại bộ phận văn thư để làm các thủ tục cần thiết trước khi chuyển giao đến các đối tượng có liên quan. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho văn bản đến được tập trung quản lý thống nhất, tránh tình trạng thất lạc, mất mác tài liệu. II. Nội dung và nghiệp vụ tổ chức quản lý văn bản đến. 1. Tiếp nhận đăng ký văn bản đến. 1.1. Tiếp nhận văn bản đến. Như phần trên đã trình bày, văn bản đến không chỉ đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung mà còn đòi hỏi xử lý nhanh chóng về mặt thời gian đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, điều hành của cơ quan. Về nguyên tắc, tất cả các loại văn bản đến đều phải tập trung vào bộ phận Văn thư thuộc Văn phòng hoặc Phòng Hành chính của cơ quan (Điều 13, Nghị định số: 110/2004/NĐ-CP, ngày 08/4/2004). Theo nhiệm vụ được giao, Văn thư cơ quan tiếp nhận tất cả những văn bản do các nơi gửi đến (kể cả văn bản gửi theo đường bưu điện, do cán bộ đi dự Hội nghị hoặc đi họp trực tiếp mang về, văn bản nhận qua Fax, mạng máy tính ). Ngoài những
  54. văn bản chính thức do các đối tượng có liên quan gửi đến, Văn thư cơ quan còn có thể nhận được một số Văn bản như đơn từ, khiếu nại, khiếu tố của cá nhân hoặc tập thể khác. Khi tiếp nhận văn bản, văn thư phải kiểm tra kỹ số lượng, tình trạng bì, nơi nhận, dấu niêm phong (nếu có) Nếu phát hiện thiếu hoặc mất bì, tình trạng bì không còn nguyên vẹn hoặc văn bản được chuyển muộn hơn thời gian ghi trên bì (Đối với văn bản có dấu hoả tốc, hẹn giờ), phải báo cáo ngay cho người được giao trách nhiệm quản lý công tác văn thư biết. Trong trường hợp cần thiết có thể lập Biên bản với người giao văn bản. Trường hợp văn bản gửi đến có kèm theo Phiếu gửi thì sau khi nhận phải ký nhận và đóng dấu vào Phiếu gửi và chuyển trả lại cho cơ quan gửi để theo dõi, xử lý kịp thời những “sự cố” trên đường vận chuyển có thể xảy ra (nhận được quá chậm so với thời gian gửi, bì bị rách nát, nhầm lẫn địa chỉ gửi ). Đối với những văn bản đến được chuyển phát qua Fax hoặc qua mạng cũng phải kiểm tra về số lượng văn bản, số lượng trang của mỗi văn bản Nếu phát hiện sai sót phải báo ngay cho nơi gửi văn bản hoặc người được giao trách nhiệm xem xét, giải quyết. 1.2. Phân loại sơ bộ, bóc bì văn bản đến. Sau khi tiếp nhận, các bì văn bản được phân loại sơ bộ và xử lý như sau: Trước hết chia văn bản đến thành 02 loại: + Loại phải đăng ký bao gồm các văn bản gửi cho các đơn vị, cá nhân trong cơ quan. + Loại không đăng ký bao gồm các sách, báo, tư liệu tham khảo Loại phải đăng ký thì được chia thành hai loại: - Loại không bóc bì: bao gồm các bì văn bản gửi cho các tổ chức Đảng, các đoàn thể trong cơ quan và các bì văn bản gửi đích danh người nhận. Đối với những bì văn bản gửi đích danh người nhận, nếu là văn bản có liên quan đến công việc chung của cơ quan thì cá nhân nhận văn bản có trách nhiệm chuyển cho văn thư để đăng ký. - Loại do cán bộ văn thư bóc bì: Bao gồm tất cả các loại bì còn lại, trừ những bì văn bản có đóng dấu mức độ “Mật”. - Đối với bì văn bản mật: Theo hướng dẫn tại Thông tư số: 12/2002/TT-BCA (A11), ngày 19/9/2002 của Bộ Công an thì việc bóc bì văn bản mật được tiến hành như sau:
  55. Trường hợp văn bản bản đến có đóng dấu “Chỉ người có tên mới được bóc bì” thì văn thư chỉ được phép vào sổ số ghi ngoài bì và chuyển ngay đến người có tên trên bì. Nếu người có tên trên bì đi vắng thì chuyển ngay đến người có trách nhiệm giải quyết. Văn thư không được bóc bì. Bóc bì văn bản cần chú ý mấy điểm sau đây: + Những bì văn bản có dấu “KHẨN”, “THƯỢNG KHẨN”, “HOẢ TỐC” phải được ưu tiên bóc trước để trình lãnh đạo giải quyết kịp thời. + Không được làm rách, mất chữ của tài liệu. Địa chỉ nơi gửi, dấu của bưu điện phải giữ lại để tiện kiểm tra khi cần thiết. + Đối với đơn, thư khiếu nại, tố cáo và những văn bản cần được kiểm tra, xác minh một sự việc nào đó hoặc những văn bản có ngày nhận cách quá xa ngày ban hành thì cần phải giữ lại bì và đính kèm với văn bản để đối chiếu khi cần thiết. 1.3. Đóng dấu “Đến”, Ghi số đến, ngày đến. Văn bản đến của cơ quan, tổ chức phải được đăng ký tập trung tại văn thư trừ những văn bản được đăng ký riêng theo quy định của pháp luật và quy định của cơ quan (Hoá đơn, Chứng từ kế toán ). Tất cả các văn bản đến thuộc dạng phải đăng ký tại văn thư đều phải được đóng đấu “Đến”, ghi số đến và ngày đến (Có thể ghi cả giờ đến trong trường hợp cần thiết). Đối với bản Fax thì cần chụp lại trước khi đóng dấu “Đến”; Văn bản đến qua mạng, trong trường hợp cần thiết có thể in và đóng dấu “Đến”. Đối với những văn bản đến không thuộc diện đăng ký tại văn thư thì không cần đóng dấu “Đến”, các văn bản này được chuyển cho các cơ quan, đơn vị có liên quan theo dõi, giải quyết. Dấu đến phải đóng rõ ràng bằng mực dấu đỏ ở phần giấy trống dưới số, ký hiệu văn bản (Đối với những văn bản có tên loại) hoặc dưới trích yếu nội dung văn bản (Đối với Công văn) hoặc vào khoảng giấy trống dưới ngày tháng năm của văn bản. Mẫu dấu đến được quy định như sau: TÊN CƠ QUAN, TỔ CHỨC Số: . ĐẾN Ngày: Chuyển: Kích thước: dài 50 mm; rộng 30 mm