Giáo trình Chăn nuôi

pdf 209 trang ngocly 3150
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Chăn nuôi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_chan_nuoi.pdf

Nội dung text: Giáo trình Chăn nuôi

  1. GIÁO TRÌNH CHĂN NUÔI
  2. Chương I TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI ĐẾN NĂM 2010 1.1. Vai trò và vị trí của ngành chăn nuôi trong nền kinh tế quốc dân Chăn nuôi là một trong hai lĩnh vực kinh tế quan trọng trong nền nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt). Ðặc biệt nông nghiệp lại có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta khi có tới hơn 80% dân cư sống dựa vào nông nghiệp. Chăn nuôi đóng vai trò chủ yếu sau: - Chăn nuôi là nguồn cung cấp thực phẩm dinh dưỡng cao (thịt, trứng, sữa) cho đời sống con người. Khi kinh tế ngày càng phát triển, mức sống của con người ngày càng được nâng lên. Trong điều kiện lao động của nền kinh tế và trình độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cao đòi hỏi cường độ lao động và lao động trí óc ngày càng cao thì nhu cầu thực phẩm từ sản phẩm động vật sẽ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong bữa ăn hàng ngày của người dân. Chăn nuôi sẽ đáp ứng được yêu cầu đó. Một lợn nái một năm đẻ trung bình 2 lứa, mỗi lứa 10 lợn con cai sữa, nếu đưa vào nuôi thịt sau 6 tháng sẽ cho ra 2000 kg thịt lợn. Một con gà mái đàn bố, mẹ trung bình một năm đẻ 250 trứng, ấp nở ra 170 -180 gà con một ngày tuổi, đưa vào nuôi thịt sau 8 tuần thu được 370 - 400 kg thịt gà. Một con bê nuôi thịt sau 10 - 12 tháng cho 250 - 300 kg thịt hơi. Một bò sữa chuyên dụng mỗi năm cho 5000 - 6000 lít sữa là nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng cho con người. Các sản phẩm chăn nuôi đều là các sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, hàm lượng protein cao và giá trị sinh vật học của protein cao hơn các thức ăn có nguồn gốc thực vật. Vì vậy, thực phẩm từ chăn nuôi luôn là các sản phẩm quý trong dinh dưỡng con người. - Chăn nuôi là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp. Các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu dùng đều sử dụng nguyên liệu từ chăn nuôi. Thịt, sữa là sản phẩm đầu vào của các quá trình công nghiệp chế biến thịt, sữa, da, lông là nguyên liệu cho quá trình chế biến, sản xuất da dày, chăn, đệm, sản phẩm thời trang. Các loại mỹ phẩm, thuốc chữa bệnh, vaccine phòng nhiều loại bệnh đều có nguồn gốc từ sữa và trứng, nhung (từ hươu). Chăn nuôi cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến thức ăn cho gia súc - Chăn nuôi là nguồn cung cấp sức kéo. Chăn nuôi cung cấp sức kéo cho canh tác, khai thác lâm sản, đi lại, vận chuyển hàng hoá trên các vùng núi cao, đặc biệt hiểm trở nhiều dốc. Ngày nay tuy nhu cầu sức
  3. kéo trong cày kéo có giảm đi, nhưng việc cung cấp sức kéo cho lĩnh vực khai thác lâm sản tăng lên. Vận chuyển lâm sản ở vùng sâu, vùng cao nhờ sức kéo của trâu, bò, ngựa thồ, ngựa cưỡi phục vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biên giới, du lịch - Chăn nuôi là nguồn cung cấp phân bón cho trồng trọt, thức ăn cho nuôi trồng thuỷ sản. Trong sản xuất nông nghiệp hướng tới canh tác bền vững không thể không kể đến vai trò của phân bón hữu cơ nhận được từ chăn nuôi. Phân chuồng với tỷ lệ N.P.K cao và cân đối, biết chế biến và sử dụng hợp lý có ý nghĩa lớn trong cải tạo đất trồng trọt, nâng cao năng suất cây trồng. Mỗi năm từ một con bò cho 8 - 10 tấn phân hữu cơ, từ một con trâu 10 - 12 tấn (kể cả độn chuồng), trong đó 2 - 4 tấn phân nguyên chất. Phân trâu, bò, lợn sau khi sử lý có thể là thức ăn tốt cho cá và các đối tượng nuôi thuỷ sản khác. Bảng 1.1. Thành phần và số lượng phân nguyên chất của một số loại vật nuôi Sản Tổng Loại Nước NPK lượng lượng N (%) P (%) K (%) phân (%) (%) phân cả NPK (kg) năm (kg) (*) Trâu 82 0,313 0,162 0,129 1,604 3650 58,54 Bò 73,8 0,380 0,284 0,992 1,622 2190 36,59 Lợn 83 0,537 0,930 0,984 2,453 700 17,17 Gà 16 2,461 1,710 - - - - Vịt 17 1,528 1,030 - - - - (*) Trâu, bò chỉ tính lượng phân nhận được trong chuồng; Lợn tính cho một đời lợn thịt. - Chăn nuôi là một mắt xích quan trọng trong sản xuất nông nghiệp bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo. Ðể đạt được một nền sản xuất nông nghiệp bền vững và góp phần cho xoá đói giảm nghèo thì chăn nuôi luôn có vị trí quan trọng. Với lợi thế thời gian cho sản phẩm nhanh: lợn thịt 6 tháng/ lứa, gà thịt 8 tuần/ lứa, khả năng sinh sản cao: lợn nái 10 - 12 con/ lứa, 2 lứa/ năm; gà trứng cho 280 - 300 quả/ năm; sử dụng các phụ phẩm từ trồng trọt, chế biến giá trị dinh dưỡng thấp để tạo ra những sản phẩn có giá trị dinh dưỡng cao: thịt, trứng, sữa Vì vậy các đối tượng vật nuôi được xem là đối tượng quan tâm phát triển đáp ứng yêu cầu quay vòng vốn vay xoá đói, giảm nghèo. Chăn nuôi tận dụng phụ phẩm của trồng trọt, thuỷ sản tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp V.A.C (vườn, ao, chuồng) hoặc V.A.C.R (vườn, ao, chuồng, rừng) có hiệu quả kinh tế và bảo vệ được môi trường sống. Tận dụng nguồn lao động ở các vùng nông thôn, tham gia vào quá trình sản xuất chăn nuôi, tạo thêm sản phẩm cho xã hội, tăng nguồn thu và mức sống cho mỗi gia đình.
  4. Với vai trò quan trọng của ngành chăn nuôi và sự quan tâm đúng mức của Đảng, Nhà nước nên giá trị ngành chăn nuôi và tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp ngày càng tăng (bảng 1.2). Bảng 1.2. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi (tỷ đồng)(*) Năm Tổng số Gia súc Gia cầm 1990 10283.2 6568.2 1980.1 1991 10294.5 6481.8 1988.0 1992 11651.0 7344.0 2229.7 1993 12309.1 7854.0 2281.2 1994 12999.0 8499.2 2304.2 1995 13629.2 8848.5 2384.8 1996 14347.2 9301.2 2506.5 1997 15465.4 9922.6 2690.5 1998 16204.2 10467.0 2835.0 1999 17337.0 11181.9 3092.2 2000 18505.4 11919.7 3295.7 2001 19282.5 12298,3 3384.9 2002 21199.7 13319.1 3712.8 2003 22944.4 14422.2 4091.2 (*) Giá so sánh năm 1994 Trong những năm tới chăn nuôi sẽ được đẩy mạnh phát triển, nhất là chăn nuôi lợn có tỷ lệ nạc cao, chăn nuôi bò lấy sữa, lấy thịt, chăn nuôi gia cầm theo hướng công nghiệp thịt, trứng, nâng cao năng suất chăn nuôi và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm chăn nuôi. Dự kiến, năm 2005 tổng đàn trâu đạt 3,2 - 3,3 triệu con, đàn bò 4,5 - 5,2 triệu con, đàn lợn 25 - 26 triệu con, đàn gia cầm 250 - 300 triệu con. Sản phẩm thịt hơi 2,58 - 2,8 triệu tấn, sản lượng sữa đạt 120 nghìn tấn, sản lượng trứng 5 - 5,5 tỷ quả. Phát triển mạnh đàn bò sữa, hiện có 52 ngàn con, dự kiến 2005 có 80 - 100 nghìn con, sản lượng sữa tươi đạt 120 nghìn tấn. Nâng tỷ lệ tự túc sữa tươi trong nước từ 8 - 9% hiện nay lên 20% năm 2005. Hiện tại giá nhập sữa đã giảm từ 1500 - 1600 USD/tấn xuống còn 1350 USD/tấn. 1.2.Tình hình phát triển chăn nuôi thời gian qua 1.2.1. Tình hình chung Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, trải dài từ vĩ tuyến 805 đến 2305 với diện tích tự nhiên gần 331.000 km2, dân số gần 82 triệu người, được chia thành 7 vùng sinh thái, mỗi vùng có những đặc điểm riêng gắn với cơ cấu vật nuôi, cây trồng rất khác nhau và đa dạng. Tỷ lệ diện tích và dân số phân bổ theo các vùng sinh thái (bảng 1.3) Bảng 1.3. Diện tích và dân số theo các vùng sinh thái
  5. Diện tích (%) Dân số (%) Cả nước 100 100 1. Miền núi trung du phía Bắc 32,0 17,0 2. Đồng bằng sông Hồng 3,6 19,7 3. Khu 4 cũ 15,4 13,4 4. Duyên hải miền Trung 13,5 10,4 5. Tây Nguyên 16,5 4,5 6. Đông Nam Bộ 7,0 13,2 7. Đồng bằng sông Cửu Long 12,0 21,8 Đất nông nghiệp khoảng 7,4 triệu ha, trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,5 triệu ha (riêng lúa chiếm 4,2 triệu ha); đất trồng cỏ chăn nuôi 0,3 triệu ha; đất mặt nước dùng cho sản xuất nông nghiệp chỉ có 0,27 triệu ha. Đất lâm nghiệp có 9,6 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên 8,8 triệu ha, rừng trồng khoảng 0,8 triệu ha. Đất chưa sử dụng khoảng 14 triệu ha, trong đó có 9 triệu ha đất trống, đồi núi trọc. Sản lượng lương thực tăng nhanh trong thời gian gần đây đưa Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trong thập kỷ 80 trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 - 3 thế giới. Trong 16 năm xuất khẩu gạo (1989 - 2004) Việt Nam đã cung cấp cho thị trường thế giới hơn 45,14 triệu tấn gạo, thu về 10,77 tỷ USD. An ninh lương thực được đảm bảo và là điều kiện tốt để thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển. Năm 1995, tổng sản lượng lương thực qui thóc là 27 triệu tấn, trong đó 24 triệu tấn thóc, 3 triệu tấn màu (1,2 triệu tấn ngô, 1,8 triệu tấn khoai lang, sắn), bình quân lương thực trên đầu người là 364,8 kg, xuất khẩu trên 2 triệu tấn gạo. Năm 1999 đạt 32 triệu tấn lương thực. Năm 2004 mặc dù thời tiết không thuận lợi, sản xuất lúa gặp nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam vẫn đạt sản lượng 39,3 triệu tấn lương thực và xuất khẩu 4,55 triệu tấn gạo. Sản xuất lương thực đạt sản lượng cao đã tạo điều kiện tốt cho sự phát triển công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, gia cầm và đưa chăn nuôi phát triển nhanh và ổn định. Năm 1994, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP cả nước là 35,4% (công nghiệp 26,6%, dịch vụ 38%). Tỷ trọng chăn nuôi trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp chiếm 25,82%. Trong cơ cấu tổng thu về sản xuất kinh doanh Nông-Lâm-Thuỷ sản chiếm 75,6%, công nghiệp-xây dựng chiếm 10,6%, thu từ ngành nghề dịch vụ 13,8%. Năm 2003, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đã có sự chuyển dịch tích cực. Cơ cấu tổng thu từ ngành trồng trọt chiếm 68,5%, thu từ ngành chăn nuôi chiếm 29,5%, thu từ các hoạt động dịch vụ nông nghiệp chỉ 2%. Trong ngành trồng trọt, tỉ lệ thu từ cây hàng năm chiếm 77,8%, thu từ cây lâu năm 19,7%. 1.2.2.Tình hình phát triển chăn nuôi
  6. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới, ngành chăn nuôi đã đạt được những kết quả đáng kể. 1.2.2.1. Số lượng vật nuôi Thống kê đàn gia súc, gia cầm cả nước trong thời gian qua (Bảng 1.4) Bảng 1.4. Số lượng gia súc, gia cầm cả nước qua các năm Năm Trâu TS.Bò Bò sữa Lợn TS.Gia Gà (1000 Dê (1000 (1000 (con) (1000 cầm con) (con) con) con) con) (1000 con) 1980 2313,0 1664,2 4843 10001,2 61522 48391,0 173900 1981 2380,3 1771,7 10493,4 67001 53847,4 196500 1982 2445,1 1944,4 10784,9 73359 56861,3 224900 1983 2500,2 2173,5 11201,9 79165 60721,5 271800 1984 2549,2 2148,0 11759,9 85857 63472,2 354700 1985 2590,2 2597,6 5800 11807,5 87803 64816,7 402600 1986 2657,6 2783,6 11795,9 96129 69861,8 432400 1987 2752,7 2979,1 12050,8 95424 69098,4 413800 1988 2806,8 3126,6 11642,6 94063 72385,4 410700 1989 2871,3 3201,7 12217,3 100962 77064,7 386800 1990 2854,4 3120,8 11000 12260,5 103820 80184,0 372800 1991 2855,6 3151,0 12100 12183,2 105259 80578,2 312290 1992 2883,4 3193,8 13080 13888,7 117876 89704,9 312490 1993 2960,8 3333,0 15000 14873,9 126399 95087,2 353200 1994 2971,1 3466,7 16500 15569,4 131669 99627,1 422802 1995 2963,1 3638,7 18700 16037,4 140004 107958,4 550174 1996 2953,7 3800,3 22563 16921,4 151406 112788,7 512812 1997 2943,6 3904,8 24501 17639,7 160550 120567,0 51498 1998 2951,3 3984,2 26645 18132,1 167890 126361,0 514810 1999 2955,7 4063,5 29401 18885,7 179323 135760,0 516000 2000 2897,2 4127,9 34982 20193,7 198046 147050,0 543860 2001 2818,3 3899,1 41241 21765,9 216010 158037,0 569152 2002 2814,4 4062,9 55800 23210,0 233290 159450,0 621013 2003 2834,9 4397,3 80000 25461,1 254060 203650,0 780331 2004 2870,0 4910,0 95800 26140,0 218150 196363,5 1020200
  7. Số liệu trên bảng cho thấy: năm 1980, đàn trâu có hơn 2,3 triệu con; đàn bò gần 1,7 triệu con trong đó bò sữa 4.843 con; đàn lợn hơn 10 triệu con; đàn dê 173.900 con. Tổng đàn gia cầm 61,5 triệu con, trong đó đàn gà là 48,4 triệu con. Năm 1990, đàn trâu 2,85 triệu con; đàn bò 3,12 triệu con (bò sữa 11.000 con); đàn lợn 12,26 triệu con; đàn dê 372.800 con; tổng đàn gia cầm 103,8 triệu con. Năm 1999, đàn trâu 2,95 triệu con; bò 9,06 triệu con (bò sữa 29.400 con); lợn hơn 18,88 triệu con; gia cầm 179,32 triệu con; đàn dê 516.000 con. Năm 2003, đàn trâu có xu hướng giảm chỉ còn hơn 2,8 triệu con; các đối tượng gia súc, gia cầm khác tiếp tục tăng: đàn bò đạt 4,4 triệu con (bò sữa: 80.000 con); đàn lợn 25,5 triệu con; gia cầm 254 triệu con. Năm 2004, đàn gia súc các loại đều tăng, riêng đàn gia cầm giảm do ảnh hưởng của dịch cúm vào cuối năm 2003 đầu năm 2004 và còn ảnh hưởng đến các năm sau. Tốc độ tăng đàn gia súc, gia cầm trong 10 năm qua tính trung bình 3,0 - 6,0%, trong đó đàn lợn tăng 6,77%; bò tăng 4,1% (bò sữa tăng mạnh 48,06%); gia cầm tăng 6 - 9%/năm; riêng đàn trâu không tăng và ở một số vùng có xu hướng giảm (-0,04%). 1.2.2.2. Sản phẩm chăn nuôi Sản phẩm chăn nuôi nhận được từ đàn vật nuôi nói trên hàng năm đều tăng (Bảng 1.5). Năm 1980 là 448.400 tấn thịt hơi các loại (trong đó thịt lợn 287.000 tấn); trứng hơn 1 tỷ quả; sữa 3200 tấn. Năm 1990, thịt hơi các loại là 1.007.900 tấn (thịt lợn 729.000 tấn; gia cầm 167.900 tấn; trâu bò 111.900 tấn); trứng gần 1,9 tỷ quả; sữa 9300 tấn. Năm 2002 tương ứng là 2.146.300 tấn (lợn 1.653.600 tấn; thịt gia cầm 338.400 tấn; thịt trâu bò 154.200 tấn ); trứng 4,53 tỷ quả; sữa 95.000 tấn. Năm 2003, thịt hơi 2,3 triệu tấn (thịt lợn chiếm 77%, thịt gia cầm 15%, thịt trâu bò 8%); trứng 4,85 tỷ quả; sữa 96,600 nghìn tấn. Tốc độ tăng sản phẩm chăn nuôi hàng năm 4,4 - 17,3%. Bảng 1.5. Sản phẩm chăn nuôi cả nước qua các năm Năm Tổng số Thịt lợn Thịt Thịt Trứng Sữa (Tấn) gia trâu bò (1000 (Tấn) cầm (Tấn) quả) (Tấn) 1980 448400 287000 1103200 3200 1981 510900 345000 1155000
  8. 1982 643400 461400 1265600 1983 691900 510600 1335800 1984 715500 527000 1402500 4216 1985 748600 560300 1472000 4342 1986 833195 625576 1674100 1987 890328 665725 147246 77357 1720000 1988 886125 652846 153767 79512 1759700 1989 956984 714189 1807200 9000 1990 1007900 729000 167900 111900 1896400 9300 1991 1015200 715500 146380 123388 2016900 9352 1992 1078866 797156 154435 127275 2269086 13043 1993 1171538 878380 169878 123280 2346910 15073 1994 1235933 937730 186411 111792 2672108 16234 1995 1322097 1006918 197084 118064 2825025 20925 1996 1408320 1076004 212954 119362 3083777 27856 1997 1515004 1166215 226100 122653 3168646 30768 1998 1608476 1230621 250100 127755 3226666 32000 1999 1711724 1318196 261808 131720 3442863 39692 2000 1835923 1408961 286513 140449 3708605 52172 2001 1989291 1513279 322602 153410 4161844 64703 2002 2146300 1653600 338400 154200 4530000 95000 2003 2300000 1795400 372720 160600 4854000 96600 Mức sản xuất sản phẩm chăn nuôi/đầu người/năm tăng qua các giai đoạn (Bảng 1.6), nhưng đang còn mức rất thấp (chỉ bằng 1/2 - 1/3 lượng tiêu thụ bình quân của các nước đang phát triển). Bảng 1.6. Sản phẩm chăn nuôi sản xuất bình quân/đầu người/năm 1995 1997 2003 Năm Kg % Kg % Kg % Thịt hơi các loại 17,746 100 19,589 100 22,4 100 Trong đó: +Thịt lợn hơi 13,51 76,1 15,04 76,8 17,25 77,0 +Thịt gia cầm hơi 2,64 14,8 2,95 15,1 3,36 15,0 +Thịt trâu bò hơi 1,58 8,9 1,6 8,1 1,79 8,0 Trứng (quả) 37,9 41,3 45,0
  9. Sữa (ml) 280,8 407,6 500,0 1.2.2.3. Tình hình chăn nuôi lợn Lợn là loài vật nuôi có khả năng lợi dụng tốt các phụ phẩm công-nông nghiệp, khả năng sinh sản cao, quay vòng khá nhanh, cho phân bón nhiều và tốt.Vì vậy chăn nuôi lợn đã trở thành nghề truyền thống của nông dân và là ngành chăn nuôi chủ yếu ở nước ta. Lợn được nuôi phổ biến ở tất cả các vùng sinh thái nông nghiệp, đặc biệt tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông Hồng: 22,5% tổng số đầu con và 26% tổng sản phẩm, khu 4 cũ tương ứng 16,4% và 13%, đồng bằng sông Cửu Long: 15% và 22%. Như vậy, riêng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đàn lợn chiếm 37,5% đầu con và 48% sản lượng thịt lợn của cả nước. Đàn lợn vẫn được nuôi chủ yếu theo phương thức bán thâm canh trong nông hộ (90 - 95%) với quy mô nhỏ (3 - 5 con/hộ), số hộ nuôi quy mô lớn hơn từ 6 con trở lên chỉ chiếm 1,8%. Một tỷ lệ nhỏ đàn lợn (5 - 10%) được nuôi trong các trang trại (200 - 300 con) theo phương thức thâm canh (công nghiệp). Lợn vẫn là nguồn cung cấp thịt chính (77% tổng lượng thịt các loại), nhưng tiêu thụ trong nước là chủ yếu, mỗi năm chỉ xuất khẩu được 5000 - 10000 tấn thịt. Cơ cấu giống lợn hiện đang nuôi chủ yếu vẫn là các giống lợn nội. Ở phía Bắc đàn lợn nái gần 1,5 triệu con trong đó nái Móng Cái chiếm 40 - 45%, lợn nái lai 32 - 35%, các giống địa phương khác 10 - 15%, lợn nái ngoại hoặc nái lai nhiều máu ngoại chỉ 1 - 2%. Ở phía Nam 0,73 triệu con lợn nái thì lợn nái lai nhiều máu ngoại và lợn Ba Xuyên, Thuộc Nhiêu chiếm tỷ lệ cao (70 - 80%), lợn nái ngoại chiếm 10 - 15%, còn lại là các giống địa phương khác. Trong đàn lợn nuôi thịt, tỉ lệ lợn lai 50% máu ngoại (con lai F1) là 67%, lợn nội 30%, lợn ngoại và nhiều máu ngoại mới chiếm 3%. 1.2.2.4. Tình hình chăn nuôi gia cầm Gia cầm là loài vật nuôi có khả năng sinh sản nhanh nhất, vòng đời ngắn nhất, vốn đầu tư ít và quy mô chăn nuôi linh hoạt, vì vậy trong những năm gần đây gia cầm là đối tượng nuôi quan trọng trong các chương trình xoá đói giảm nghèo. Gia cầm được nuôi ở tất cả các vùng sinh thái nông nghiệp. Đàn gà 75% tập trung ở các tỉnh phía Bắc (từ khu 4 cũ trở ra), trong khi đàn vịt lại phân bố tập trung nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long (hơn 50% tổng đàn vịt cả nước). Phần lớn gia cầm (70 - 80%) được nuôi theo phương thức quảng canh, bán thâm canh trong các nông hộ, mỗi hộ 20 - 30 con, một số ít nuôi thâm canh (công nghiệp) trong các trang trại với quy mô 1000 - 2000 con. Thịt gia cầm sản xuất ra chiếm 15% lượng thịt các loại, chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước. Trứng gia cầm sản xuất ngày càng tăng nhưng còn ở mức độ thấp (dưới 50 quả/người/năm). Các giống gia cầm nuôi chủ yếu vẫn là các giống địa phương (80%) năng suất thấp, các giống cao sản nhập nội năng suất cao hãy còn ít (20%). Những năm gần đây xu hướng chăn nuôi các giống gà thả vườn, lông màu đang được quan tâm và phát triển với tốc độ nhanh. 1.2.2.5. Tình hình chăn nuôi trâu bò
  10. Trâu, bò là các loài vật nuôi ăn cỏ, có thể lợi dụng tốt đồng cỏ và các phụ phẩm nông - công nghiệp để tạo thành thịt, sữa, sức kéo. Đàn bò phân bố ở nhiều vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau nhưng tập trung ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (45,5% tổng đàn), 5 vùng sinh thái còn lại chiếm 54,5%, riêng Tây Nguyên đất đai rộng, điều kiện thuận lợi nhưng đàn bò chỉ chiếm 10,8%. Đàn trâu phân bố tập trung ở miền núi và trung du phía Bắc ( 52%), tiếp đó là khu 4 cũ ( 22%). Đàn trâu, bò phần lớn nuôi trong nông hộ (2 - 3 con/hộ) theo phương thức quảng canh, bán thâm canh. Bò sữa được quan tâm phát triển mạnh trong những năm gần đây chủ yếu ven các thành phố lớn: Hà Nội, Hồ Chí Minh và được nuôi thâm canh. Thịt trâu, bò chỉ chiếm 8% tổng lượng thịt các loại, lượng sữa sản xuất ra còn ít, mới chỉ chiếm 8,6% lượng sữa tiêu thụ ở Việt Nam. Một số vùng trâu, bò được dùng để cày, kéo nhưng nhu cầu cung cấp sức kéo (đặc biệt ở trâu) ngày càng giảm. Cơ cấu giống bò chủ yếu vẫn là bò nội (bò vàng Việt Nam) chiếm 85% tổng đàn với tầm vóc nhỏ, năng suất thịt sữa đều thấp. Khối lượng trưởng thành bò cái 180 - 200 kg/con, bò đực 210 - 250 kg/con, tỉ lệ thịt xẻ 40 - 45%, bò lai Zêbu chiếm 14,4%, các giống bò cao sản nhập nội mới chiếm 0,5% tổng đàn bò. 1.2.2.6.Tình hình chăn nuôi các đối tượng vật nuôi khác Trong những năm gần đây thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi hướng tới chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững, ngành chăn nuôi đã được quan tâm và phát triển đa dạng hơn. Ngoài các vật nuôi truyền thống: lợn, trâu bò, gà thì dê, cừu, ngan, vịt, chim cút, bồ câu, đà điểu cũng được chú ý đầu tư phát triển. Đồng thời với việc bảo tồn quỹ gen các gia súc, gia cầm địa phương, việc nhập nội các gia súc gia cầm cao sản phục vụ phát triển chăn nuôi thâm canh, sản xuất hàng hoá đã được triển khai thực hiện như: bò sữa cao sản từ Úc; lợn có tỷ lệ nạc cao từ Bỉ, Nhật; gà lông màu từ Trung Quốc; vịt cao sản thịt, trứng từ Anh, Thái Lan; ngan Pháp; bồ câu Pháp đã tạo nên sự đa dạng trong sản phẩm chăn nuôi ở nước ta, đang góp phần tích cực trong các chương trình xoá đói giảm nghèo vươn lên làm giàu từ chăn nuôi và đã mở ra bước phát triển mới của ngành chăn nuôi. 1.3. Định hướng phát triển chăn nuôi đến năm 2010 1.3.1. Mục tiêu sản xuất chăn nuôi đến năm 2010 + Mục tiêu chung của phát triển chăn nuôi là: - Đảm bảo nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và sản xuất được thực phẩm có chất lượng cao để xuất khẩu. - Cung cấp phân bón cho cây trồng và nguyên liệu khác cho công nghiệp. - Tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện thu nhập và điều kiện sống cho các vùng nông thôn. Khai thác hiệu quả diện tích bãi chăn và phụ phẩm nông-công nghiệp.
  11. - Góp phần xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp bền vững, bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường trên cơ sở công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành chăn nuôi. - Tăng dần giá trị ngành chăn nuôi so với tổng giá trị nông nghiệp lên 30% vào năm 2010, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. + Mục tiêu cụ thể Năm 2010, Việt Nam đặt mục tiêu tổng đàn lợn 30 triệu con, đàn trâu 3,5 triệu con, đàn bò 4,6 triệu con, đàn gia cầm 350 triệu con. Sản phẩm chăn nuôi tính theo đầu người (tính cho 90 triệu dân): thịt 42 kg, trứng 77 quả, sữa 2500ml. Trong quá trình phát triển chăn nuôi coi trọng năng suất, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế, an toàn (thực phẩm sạch) và khả năng cạnh tranh. 1.3.2. Định hướng phát triển chăn nuôi (2001-2010) Nghị quyết về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của Chính phủ ban hành ngày 15/6/2000 chỉ rõ: “Phát triển đàn lợn phù hợp với nhu cầu của thị trường tiêu dùng trong nước, một số vùng chăn nuôi lợn chất lượng cao để xuất khẩu. Phát triển chăn nuôi bò theo hướng thâm canh có năng suất cao, phấn đấu trong 10 năm tới có 200000 con bò sữa, trong đó 100000 con bò cái vắt sữa với sản lượng 300000 tấn sữa tươi/năm. Phát triển đàn gia cầm chủ yếu là gà vịt.” Từ định hướng phát triển chung nói trên, định hướng phát triển cụ thể các loài vật nuôi như sau: 1.3.2.1. Chăn nuôi lợn + Hướng phát triển Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi lợn ở tất cả các vùng để cung cấp thịt (2 - 6 triệu tấn/năm), cung cấp phân bón cho trồng trọt Thịt lợn dùng để tiêu thụ trong nước là chính (70 - 75%), đồng thời một phần thịt lợn cho xuất khẩu (25 - 30%). + Biện pháp - Cải tiến phương thức chăn nuôi lợn truyền thống và phát triển các trang trại chăn nuôi lợn theo phương thức công nghiệp tại các tỉnh vùng trung du Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Tìm kiếm thị trường xuất khẩu thịt lợn. - Tiếp tục nạc hoá đàn lợn bằng cách nuôi lợn ngoại và lợn lai nhiều máu ngoại, đưa đàn lợn có tỉ lệ nạc trên 50% lên 25 - 30% tổng đàn. Đồng thời lưu ý xử lý chất thải, phòng chống ô nhiễm môi trường với các cơ sở chăn nuôi lợn tập trung có quy mô lớn. 1.3.2.2.Chăn nuôi gia cầm + Hướng phát triển
  12. Phát triển chăn nuôi gà thả vườn, gà có chất lượng cao để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, đồng thời coi trọng phát triển chăn nuôi gà công nghiệp chuyên dụng thịt, trứng cung cấp cho nhu cầu trong nước. Lưu ý phát triển chăn nuôi gà ở vùng trung du, đồng bằng và ven đô thị. Phát triển chăn nuôi vịt tập trung ở đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh duyên hải để cung cấp thịt, trứng, lông cho thị trường trong và ngoài nước. + Biện pháp - Cải tiến phương thức chăn nuôi truyền thống ở các nông hộ, đồng thời xây dựng các cơ sở chăn nuôi gia cầm công nghiệp. - Gây tạo giống gà thả vườn, gà chất lượng cao về thịt, trứng. Tiếp tục nhập nội các giống gà công nghiệp có năng suất thịt, trứng cao. 1.3.2.3. Chăn nuôi trâu bò + Hướng phát triển Phát triển chăn nuôi trâu bò ở miền núi vùng Đông Bắc, Tây Bắc và các tỉnh Bắc Trung Bộ để lấy thịt, sức kéo và cung cấp phân bón cho trồng trọt. Chọn lọc nhân thuần đàn trâu nội. Phát triển chăn nuôi bò thịt ở các vùng có đồng cỏ và nhiều phụ phẩm nông-công nghiệp, đặc biệt vùng Trung Bộ và Tây Nguyên. Thịt bò phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước là chính nhưng cần tìm kiếm thị trường cho xuất khẩu. Phát triển chăn nuôi bò sữa ven các thành phố lớn và khu công nghiệp (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh ) và ở 2 cao nguyên Mộc Châu và Lâm Đồng để có thể tự túc 25% nhu cầu về sữa tiêu thụ trong nước. + Biện pháp - Cải tiến phương thức chăn nuôi truyền thống ở các nông hộ, đồng thời xây dựng các cơ sở chăn nuôi bò thịt, bò sữa hiện đại. - Tiếp tục Zêbu hoá đàn bò. Nhập một số giống bò chuyên dụng sữa, chuyên dụng thịt năng suất cao. Tiến hành lai tạo giữa bò chuyên dụng sữa, chuyên dụng thịt với bò đã được Zêbu hoá. Với các đối tượng vật nuôi khác tiếp tục quan tâm đẩy mạnh phát triển chăn nuôi ngựa ở vùng núi Đông Bắc, Tây Bắc để lấy sức kéo, thịt; dê để lấy thịt sữa; cừu lấy thịt, lông; ngan, ngỗng, các động vật quý hiếm khác như đà điểu, cá sấu ở những nơi có điều kiện và các vùng thích hợp.
  13. Chương II GIỐNG VÀ CÔNG TÁC GIỐNG VẬT NUÔI Trong chăn nuôi giống là tiền đề để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Làm tốt công tác giống cho phép tăng nhanh số lượng đàn gia súc, tạo những tiền đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao phẩm chất đàn gia súc, năng suất và chất lượng sản phẩm chăn nuôi. 2.1. Nguồn gốc và sự thuận hoá vật nuôi Gia súc, gia cầm là những vật nuôi thuộc lớp có vú, lớp chim được hình thành do quá trình lao động sáng tạo của con người và trên bản thân con vật có dấu vết của quá trình lao động sáng tạo đó. 2.1.1. Nguồn gốc vật nuôi Tất cả vật nuôi ngày này đều bắt nguồn từ thú hoang dã đã được thuần hóa nhờ sức lao động và trí thông minh sáng tạo của con người. Người ta cho rằng chó là con vật được thuần hóa đầu tiên, nhưng ý kiến này chưa thực xác đáng. Gần đây người ta cho rằng dê, cừu là những gia súc được thuần hóa sớm nhất mà nguồn gốc chúng là dê rừng. Bò nhà hiện nay có 2 nhóm: nhóm không có u có nguồn gốc từ bò rừng “Tua”, sống ở rừng châu Âu, châu Á, Bắc Phi. Các địa điểm thuần hóa bò này là Trung Á, Ấn Ðộ, Malaysia, Bắc Phi và Nam châu Âu. Nhóm bò có u hiện nay đang phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, nguồn gốc của nó có thể là một dạng đặc biệt hoặc do đột biến di truyền của bò rừng Tua. Bò rừng có lông mềm, dài, thẳng, trán có xoáy ốc, sắc lông đen hoặc nâu xám có sọc vàng dọc sống lưng, sừng dài, đen, cong như cánh cung, bò rừng rất khỏe và nhanh nhẹn, khá dữ tợn, con cái cao 150 - 170 cm, con đực cao 175 - 200 cm. Trâu nhà hiện nay có nguồn gốc từ trâu rừng Ấn Ðộ, từ đó trâu được thuần hóa lan theo 2 hướng: hướng Ðông Nam Á và hướng châu Phi, Trung cận đông, Nam châu Âu. Có thể chia trâu làm 2 nhóm: nhóm sừng ngắn, thường gặp ở Nhật, Bắc Trung Quốc, Ai Cập, Ý, Nam Liên Xô (cũ), nhóm sừng dài thường gặp ở Miến Ðiện, Nam Trung Quốc, Việt Nam. Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng châu Âu và lợn rừng châu Á, chúng được thuần hóa ở nhiều địa điểm khác nhau: Ấn Ðộ, Ban tích, Siberi, Anpơ, Ðông Nam Á trong đó có Việt Nam. Lợn rừng thường có da dày, lông cứng, màu xám đen hoặc sọc nâu sẫm, chân khỏe, chạy nhanh, mõm dài, khỏe, con đực có răng nanh dài. Gà nhà có nguồn gốc từ gà rừng, gà rừng thường bé nhỏ, đẻ theo mùa vụ, trứng nhỏ, gà rừng có thể bay cao và bay khá xa. Gà nhà được thuần hóa đầu tiên ở Ấn Ðộ. Các loại gia cầm khác như ngan được thuần hóa ở châu Phi, gà tây ở Mêhicô, ngỗng ở châu Á.
  14. Ngựa là con vật được thuần hóa muộn nhất: cuối thời kỳ đồ đá, bước sang thời kỳ đồ đồng trong khi các loại gia súc khác được thuần hóa vào đầu thời kỳ đồ đá. Sự thuần hóa có thể xảy ra cùng một lúc, lẻ tẻ ở nhiều nơi, kết quả là đã tạo được những nhóm gia súc xuất phát. Bán đảo Ðông Dương, trong đó có Việt Nam, là một nơi thuần hóa, là nơi xuất phát của nhiều nhóm gia súc kết quả của quá trình lao động sáng tạo của tổ tiên chúng ta. 2.1.2. Sự thuần hóa vật nuôi Thuần hóa vật nuôi thực chất là quá trình lao động sáng tạo của con người. Trong quá trình đó, con người có những tác động cơ bản đến thú hoang, tạo nên những thay đổi ở thú hoang, các tác động cơ bản bao gồm: - Con người thay đổi địa bàn hoạt động của thú hoang, hạn chế khả năng di động của chúng, làm đảo lộn tập quán sinh sống vốn đã bảo thủ của thú hoang. Tự tìm kiếm lấy thức ăn, sống thành bầy đàn chung đụng nhau, luôn ẩn náu, lẩn tránh kẻ thù thay đổi địa dư phân bố và điều kiện khí hậu sinh sống của thú hoang. - Con người tác động bằng điều kiện dinh dưỡng, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm không ngừng cải biến phẩm chất của thú hoang phù hợp với mong muốn của con người. - Con người không ngừng chọn lọc, nhân giống, bồi dưỡng những đặc tính có lợi, củng cố, nâng cao những đặc tính đó. Do những tác động làm lay động cải biến tính di truyền vốn có của thú hoang, kết hợp với những tác động bằng điều kiện ngoại cảnh được tiến hành trong một quá trình lâu dài, thú hoang dã có những biến đổi chủ yếu bao gồm: - Thay đổi về tầm vóc, tính tình. Tầm vóc ngoại hình thú hoang rất phù hợp với bản năng sống hoang dã của chúng, khỏe mạnh, hung tợn, di động nhanh, thích ứng cao với ngoại cảnh. Trong khi đó, gia súc ngay sau khi thuần hóa tầm vóc nhỏ đi, tính tình hiền lành, dễ sai khiến, di động chậm, thích ứng với điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng của con người. Về sau, do điều kiện nuôi dưỡng của con người ngày càng hoàn thiện, do tác động của chọn lọc mà tầm vóc của gia súc được tăng lên hoặc tầm vóc lớn, nhỏ theo định hướng chọn tạo giống của con người - Thay đổi về hình dáng, cấu tạo và chức năng các bộ phận: thú hoang thường có da dày, lông cứng, xương lớn nhưng gia súc thường có da mỏng, lông mịn, xương nhỏ hơn. Những bộ phận trực tiếp tạo nên sản phẩm càng có những biến đổi rõ rệt hơn. Chẳng hạn, bầu vú bò rừng kém phát triển, lượng sữa của chúng chỉ đủ nuôi con, trong khi bầu vú bò sữa rất lớn, có thể cho sữa gấp 5 - 6 lần nhu cầu của bê con. Vì vậy, hình dáng bò sữa thường có hình “nêm” do bầu vú rất phát triển, cơ thể phát triển mạnh ở phần sau. Lợn rừng có đầu và vai phát triển ngược lại lợn nhà, phần lưng, mông, đùi là phần thịt có giá trị nhất lại phát triển mạnh nhất.
  15. -Thay đổi về khả năng sản xuất: đây chính là mục tiêu và cũng là biểu hiện rõ rệt nhất của sự thuần hóa. So với thú hoang, sức sản xuất của gia súc tăng hơn rất nhiều: gà rừng đẻ 20 - 30 trứng/năm trong khi gà nhà đẻ 200 - 300 trứng/năm, lợn rừng đẻ 5 - 6 con/năm trong khi lợn nhà đẻ 10 - 12 con/lứa, một năm 1,8 - 2,5 lứa. - Hình thành nên các phẩm giống gia súc, gia cầm theo các hướng sản xuất khác nhau. Cho tới nay, từ 15 loài động vật có vú, 10 loài chim khởi đầu, con người đã thuần hóa, gây chọn được hàng nghìn phẩm giống mới rất đa dạng. Về bò: các loại bò sữa (Holstein Friesian, Jersey, Brown Swiss ), bò thịt (Aberdin Angus, Santa Gertrudis, Hereford ), bò kiêm dụng sữa thịt (Ximantan ), bò cày kéo Về lợn: lợn hướng nạc (Landrace, Yorkshire ), lợn hướng mỡ (Ỉ, Lincon ), lợn kiêm dụng. Về gà: có gà trứng (Leghorn), gà thịt (Cornish) gà kiêm dụng trứng thịt (Rhode Island, Newhampshine, Sussex ), các giống gà thả vườn 2.1.3. Khái niệm về giống vật nuôi 2.1.3.1. Ðịnh nghĩa Khái niệm về giống vật nuôi trong chăn nuôi khác với khái niệm giống trong phân loại sinh học. Khái niệm này dùng để biểu thị một nhóm vật nuôi có nguồn gốc gần nhau và có chung một số tính trạng nhất định. Theo quan điểm sinh học có thể định nghĩa: “Giống gia súc là một quần thể sai khác nhau, nhưng trong phần lớn các trường hợp về kiểu gen hoặc kiểu hình lại giống nhau hơn là so với các giống khác”. Trên quan điểm thực tiễn thì: động vật thuần giống có nghĩa là động vật mà về mặt nguồn gốc, ngoại hình, sức sản xuất chúng đáp ứng được những yêu cầu nhất định của một phương hướng nhân giống. Kết hợp cả 2 quan điểm đó có thể định nghĩa giống vật nuôi một cách đầy đủ như sau: “Giống vật nuôi là một nhóm vật nuôi hoàn chỉnh của một loài nào đó, chúng có chung một nguồn gốc, được hình thành bởi quá trình lao động sáng tạo của con người trong những điều kiện kinh tế và tự nhiên nhất định, chúng có số lượng nhất định, có giá trị kinh tế và giá trị làm giống, có những đặc tính về ngoại hình, sinh lý và đặc điểm kinh tế nhất định, có những yêu cầu nhất định về điều kiện sống. Những đặc tính và yêu cầu ấy có thể di truyền cho đời sau và cho phép ta phân biệt được giống này với giống khác”. Những tính trạng của giống có thể chia làm 2 loại: - Tính trạng chất lượng: gồm các tính trạng mà biểu hiện bên ngoài của chúng có thể phân biệt được với nhau rõ ràng, dứt khoát, có thể xác định bằng một tính từ như: màu sắc lông trắng (đen, vàng, ), hình dáng mào gà (mào cờ, mào sít ), tai lợn (cụp, đứng, ). các tính trạng này chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tính di truyền. Môi trường sống cũng ảnh hưởng tới tính trạng chất lượng nhưng không rõ nét bằng tính di truyền.
  16. - Tính trạng số lượng: gồm các đặc điểm mà biểu hiện ra bên ngoài không phân biệt với nhau được một cách rõ ràng, dứt khoát, thường phải biểu hiện ra qua nhiều trạng thái trung gian cho nên không thể dùng một tính từ để xác định mà phải dùng thống kê qua số liệu được cân, đong, đo, đếm và dùng phương pháp thống kê phân tích độ chính xác của số liệu. Các tính trạng số lượng bao gồm: khối lượng, chiều cao, chiều dài, sản lượng thịt, sữa, trứng, tốc độ sinh trưởng Giữa tính trạng số lượng và điều kiện sống có mối quan hệ chặt chẽ mặc dầu biến dị của các tính trạng này có cơ sở di truyền nhưng điều kiện sống giữ một vai trò hết sức quan trọng. Ranh giới giữa hai loại tính trạng số và chất lượng không thật rõ ràng, trong nhiều trường hợp chúng còn có mối liên quan với nhau một cách chặt chẽ. Trong chăn nuôi, phần lớn các tính trạng số lượng đều mang giá trị kinh tế của con giống. Ngoài ra tập tính (habit) và trạng thái thần kinh cũng là những đặc điểm của giống. 2.1.3.2. Phân loại giống Dựa vào mức độ tác động của con người trong quá trình thuần dưỡng gia súc, người ta phân chia giống thành 3 nhóm. 2.1.3.2.1. Giống nguyên thủy Nhóm giống này có các đặc điểm chính sau: - Tầm vóc nói chung nhỏ - Sức sản xuất thấp, thường mang tính kiêm dụng - Thành thục muộn - Thích hợp với điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc ở mức độ thấp. 2.1.3.2.2. Giống quá độ Nhóm giống này có đặc điểm sau: - Tầm vóc tương đối lớn do đã được chọn lọc, cải tiến - Sức sản xuất được nâng lên một bước, hướng kiêm dụng - Thành thục tương đối sớm. 2.1.3.2.3. Giống gây thành Nhóm này có các đặc điểm chính sau: - Tầm vóc lớn hoặc to, nhỏ theo định hướng của con người - Sức sản xuất cao, hướng chuyên dụng hoặc kiêm dụng - Thành thục sớm - Sức chịu đựng bệnh tật kém, dễ bị tác động bởi sự thay đổi của điều kiện sống. - Ðòi hỏi điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc ở mức độ cao. 2.2. Ngoại hình thể chất Ngoại hình thể chất là một trong ba chỉ tiêu đánh giá chọn lọc gia súc. Phương pháp đánh giá gia súc thông qua ngoại hình thể chất cho phép ta đánh giá hàng loạt gia súc,
  17. tiến hành đánh giá những tính trạng không thể cân, đo, đong, đếm, hoặc sử dụng các phương pháp phân tích sinh học khác. Tuy vậy, nếu chỉ đánh giá ngoại hình thể chất thôi thì không thể đánh giá đúng bản chất gia súc. Vì vậy, công tác chọn lọc cần kết hợp chỉ tiêu ngoại hình thể chất với các chỉ tiêu khác. 2.2.1. Ngoại hình 2.2.1.1. Khái niệm Từ thời kỳ tiền sử trong việc chọn lọc giống vật nuôi, con người đã chú ý đến ngoại hình. Trước công nguyên, người La Mã cho rằng gia súc có lông sẫm thì khỏe, sức chịu đựng cao hơn gia súc có màu lông nhạt. Khoảng thế kỷ thứ III, Bá Lạc (Trung Quốc) viết sách Tương Mã Kinh nói về ngoại hình của ngựa. Nhân dân ta từ xưa đã có nhiều ca dao, tục ngữ lưu truyền kinh nghiệm chọn giống thông qua đặc điểm ngoại hình: “Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua” “Gà trắng chân chì, mua chi giống ấy” (đối với gà) Ðối với trâu cày: “Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi” “Miệng gầu dai, tai lá mít, đít lồng bàn”; chọn con chân thon, móng tròn quản thắt, gân mặt, gối eo, thân mình trường nhiều, tiền treo hậu hạ, sừng cong cánh ná Lê Quý Ðôn trong “Vân Ðài Luân Ngữ” cũng viết: “Bạch xỉ, xơ mao, đoản vi, hồng bì” tức là: “ Răng trắng, lông thưa, đuôi ngắn, da hồng” là ngoại hình đẹp của lợn. Chúng ta có thể định nghĩa ngoại hình như sau: “Ngoại hình là hình dáng bên ngoài có liên quan đến thể chất, sức khỏe, hoạt động của các bộ phận trong cơ thể cũng như khả năng sản xuất và nó là hình dạng đặc trưng của một giống cho phép ta phân biệt dễ dàng giữa giống này với giống khác”. Con vật khỏe mạnh thì biểu hiện bên ngoài là: da, lông bóng mượt, mềm, đàn hồi, hồng hào, mắt tinh nhanh. Sức khỏe liên quan chặt chẽ tới thể chất, tới tính thích ứng với điều kiện bên ngoài, tới sự hoạt động bình thường của các cơ quan bộ phận trong cơ thể. Khả năng sản xuất của con vật có thể được đánh giá thông qua sức khỏe và một số bộ phận trong cơ thể, đặc biệt là các bộ phận có liên quan trực tiếp đến sản phẩm như: bầu vú của bò sữa; mông, vai, lườn của lợn thịt Mặt khác, đặc trưng của ngoại hình là đặc điểm dễ nhận biết, đặc điểm để phân biệt giúp ta phân biệt các giống vật nuôi. Chẳng hạn lợn Ỉ sắc lông đen, lợn Móng Cái lưng có loang đen hình yên ngựa; trâu Murrah sừng cong, da mỏng; gà Leghorn lông trắng. Tóm lại, ngoại hình dễ nhận biết khi đánh giá, cho phép ta suy đoán khả năng sinh trưởng phát dục, sức sản xuất của vật nuôi cũng như phân biệt các giống vật nuôi khác nhau. 2.2.1.2. Ðặc điểm ngoại hình của vật nuôi theo các hướng sản xuất Ngày nay, khi đánh giá gia súc giống theo ngoại hình không chỉ dừng lại ở màu sắc lông da, mà còn phải quan tâm đến kết cấu cơ thể gắn với hướng sản xuất. Đó chính là
  18. ngoại hình thể chất theo hướng sản xuất. Gia súc có hướng sản xuất khác nhau thì ngoại hình cũng khác nhau. Bò thịt có ngoại hình khác bò sữa, lợn hướng nạc khác lợn hướng mỡ, gà đẻ trứng khác gà thịt, ngựa cưỡi khác ngựa kéo, cừu lấy lông thô khác cừu lấy lông mịn. Ngoại hình bò sữa Ngoại hình bò thịt - Thân hình cái nêm, phần sau phát - Thân hình chữ nhật, toàn thân đầy triển hơn. đặn, sâu, rông. - Đầu dài, cổ dài, vai hẹp, ngực sâu - Đầu ngắn, cổ ngắn vai nở, ngực nhưng không rộng, lưng đùi dài, sâu rộng; lưng, hông thân rộng, đầy chân cao. thịt, đùi ngắn, nở, chân thấp. - Da mỏng, đàn hồi, lông dày, - Lớp mỡ dưới da dày, lông thưa, mượt. đầu vú phát triển, tĩnh mạch mịn. Bầu vú không phát triển. vú nổi rõ. Ngoại hình lợn hướng nạc Ngoại hình lợn hướng mỡ - Thân dài, hẹp, phần mông đùi - Thân ngắn, sâu rộng, toàn thân phát triển lớn. đầy đặn. - Đầu nhỏ, mặt gọn, mắt tinh, vai, - Đầu to, má sệ, mắt kém tinh lưng, hông đầy đặn, chắc, chân cao, nhanh, vai, lưng, hông đầy đặn, hơi bụng gọn. chảy sệ, chân thấp, bụng sệ. Ngoại hình gà hướng trứng Ngoại hình gà hướng thịt - Thân hình thon mảnh - Thân hình khối chữ nhật đầy đặn. - Đầu nhỏ, bụng to, chân thấp - Đầu to, cổ ngắn, thô, ngực, - Đầu to, ức, lườn, lưng, đùi phát lườn, đùi phát triển triển, chân cao, vạm vỡ. - Trầm tĩnh, chậm chạp. - Nhanh nhẹn, ưa vận động 2.2.2. Thể chất 2.2.2.1. Khái niệm Khi đánh giá vật nuôi ta chú ý đến ngoại hình tức là chú ý đến các biểu hiện bên ngoài, những biểu hiện đó phần nào phản ánh cấu tạo và chức năng của các bộ phận bên trong cơ thể. Nhưng thông qua ngoại hình ta không thể biết đầy đủ được sức sống, sức khỏe, sức đề kháng, tính thích ứng và khả năng sản xuất. Vì vậy, đánh giá ngoại hình cần được bổ sung bằng việc đánh giá thể chất.
  19. Thể chất chính là trạng thái sức khỏe, mức độ năng suất, sức chịu đựng, tính thích nghi, khả năng chống đỡ bệnh tật của vật nuôi. Vậy yếu tố gì quyết định thể chất con vật?. Cho tới nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Aristote đề ra học thuyết thể dịch cho rằng tỷ lệ khác nhau giữa các chất dịch trong cơ thể (máu đỏ, mật vàng, lách đen) quyết định thể chất gia súc. Wirohon cho rằng tổng số các cơ quan trong cơ thể quyết định thể chất. Culexop dựa vào tỷ lệ các phần của cơ thể phân loại thể chất. Paplốp dựa vào hoạt động của hệ thần kinh mà phân loại thể chất Hiện nay người ta đang đi sâu vào yếu tố nội tiết, phát hiện cường độ và kiểu trao đổi chất để đánh giá thể chất. 2.2.2.2. Phân loại thể chất Xuất phát từ những cơ sở khác nhau trong việc xác định bản chất của thể chất mà người ta có những phân loại thể chất khác nhau. Những phân loại có giá trị trong thực tiễn chọn lọc nhân giống gia súc hiện nay gồm có các hướng sau: 2.2.2.2.1. Phân loại dựa trên quan hệ giữa các phần trong cơ thể (Culexop) Dựa trên những thực nghiệm khảo sát tỷ lệ các bộ phận: thịt, da, xương, phủ tạng trong cơ thể, Culexop chia thể chất ra làm 4 loại sau: - Thể chất thô: là các gia súc có da, xương, cơ phát triển mạnh, ít mỡ. Chúng thường dùng để cày kéo, lấy lông thô - Thể chất thanh: là các gia súc có da mỏng, xương, chân nhỏ, đầu nhẹ, chúng thường là bò sữa cao sản, ngựa chạy. - Thể chất săn: là các gia súc có da thịt săn, rắn chắc, lớp mỡ ít phát triển, chúng thường là bò sữa không phải cao sản, ngựa cưỡi. - Thể chất sổi: là các gia súc có lớp mỡ dày, da thịt nhão, xương to nhưng không chắc, chúng thường là bò nuôi vỗ béo lấy thịt, lợn hướng mỡ. Trong thực tế, thể chất gia súc thường mang tính chất kết hợp thanh săn, thanh sổi, thô săn, thô sổi. - Thanh săn: là loại gia súc xương nhỏ nhưng chắc chắn, lớp mỡ dưới da mỏng, da đàn hồi, lông dày mượt, đầu thanh, chân đùi cứng cáp, mông nở, sức sống dồi dào, thần kinh nhạy cảm, tính tình linh hoạt. Ngựa cưỡi, bò sữa thuộc loại hình này. - Thanh sổi: là loại gia súc có lớp cơ mỡ rất phát triển, da mỏng, mịn nhưng nhão, lông mềm, đầu nhẹ. Thần kinh không nhạy cảm lắm, tính tình trầm tĩnh, dễ vỗ béo. Bò thịt, lợn hướng nạc thuộc loại thể chất này. - Thô săn: là loại gia súc có bộ xương to, to và chắc. Ðầu, chân to, dáng nặng nề, bắp cơ săn, rắn, dày, lông thô cứng, khả năng làm việc khỏe. Ngựa kéo nặng, trâu bò cày kéo thuộc nhóm này. - Thô sổi: là loại gia súc có bộ xương thô, to nhưng không chắc chắn, da dày, thịt nhão, thần kinh kém nhạy cảm, lười nhác, ít vận động. Khả năng làm
  20. việc, cho thịt đều kém. Loại gia súc này không thích hợp với hướng sản xuất nào cả, thường bị loại thải. 2.2.2.2.2. Phân loại dựa vào hình dáng lồng ngực của vật nuôi Cách phân loại này dựa vào khả năng trao đổi chất thông qua dung lượng hô hấp và đặc điểm hình dáng lồng ngực con vật, là căn cứ chủ yếu để phân loại. Theo cách phân loại này người ta chia ra: - Thể chất hô hấp: là gia súc có lồng ngực sâu, dài, hơi hẹp, xương sườn hơi xiên. Bộ xương chắc chắn, da săn nhưng đàn hồi, bộ máy hô hấp và tuần hoàn phát triển, khả năng trao đổi chất cao. Bò sữa cao sản, ngựa chạy thuộc nhóm thể chất này. - Thể chất tiêu hóa: là các gia súc có lồng ngực ngắn, rộng, xương sườn thẳng, da mỏng hơi nhão, lớp mỡ dưới da phát triển, cường độ trao đổi chất chậm, dễ vỗ béo. Gia súc nuôi lấy thịt, ngựa kéo, trâu bò cày kéo thuộc nhóm thể chất này. - Thể chất hỗn hợp: là loại hình trung gian giữa 2 loại thể chất trên. Gia súc có thể chất này thường thuộc loại có hướng sản xuất kiêm dụng. 2.2.2.2.3. Phân loại dựa vào hoạt động thần kinh cao cấp (Paplốp). Cơ sở của sự phân loại này là sức mạnh của các quá trình hoạt động thần kinh, sự cân bằng của các tốc độ chuyển dịch giữa 2 trạng thái hưng phấn và ức chế. Paplốp căn cứ vào 3 đặc điểm đó mà chia ra 4 loại thể chất sau: Sự cân bằng giữa Tốc độ Sức mạnh Loại thể chất hưng phấn và ức chế chuyển dịch Yếu Buồn bã Không thăng bằng Nóng nảy Mạnh Thăng bằng Nhanh Linh hoạt Chậm Bình thản Một điều đáng chú ý là thể chất luôn gắn liền với sức khỏe, gia súc có thể chất tốt sẽ có tính thích ứng cao, trái lại, thể chất xấu, tính thích ứng kém, khả năng sản xuất dễ bị giảm sút khi điều kiện môi trường thay đổi. Trong chăn nuôi công nghiệp hiện nay, chọn lọc thể thất có ý nghĩa quan trọng làm giảm thấp tỷ lệ loại thải do cách chăm sóc nuôi dưỡng theo từng đàn lớn. 2.2.3. Giám định ngoại hình thể chất của vật nuôi Giám định ngoại hình thể chất của vật nuôi là phương pháp đánh giá, chọn lọc hàng loạt, cần tiến hành thường kỳ hằng năm nhằm loại thải những gia súc xấu nâng cao phẩm chất của đàn về mặt kiểu hình. Có 3 phương pháp giám định sau đây: 2.2.3.1. Giám định bằng mắt Là phương pháp dùng mắt để quan sát và dùng tay sờ nắn, kiểm tra các bộ phận của con vật. Phương pháp này được sử dụng từ lâu. Là phương pháp đơn giản, nhanh
  21. chóng nhưng tương đối hoàn chỉnh, có thể đánh giá được chi tiết từng bộ phận cũng như tổng quát trên cơ thể con vật. Nhược điểm của phương pháp này là đòi hỏi người đánh giá phải có kinh nghiệm, quen tay, quen mắt, suy luận tổng hợp được giá trị chung của con vật. 2.2.3.2. Giám định bằng cách đo các chiều cơ thể Là phương pháp dùng các loại thước: gậy, dây, compa để đo các chiều trên cơ thể con vật. Số lượng các chiều đo tùy thuộc vào mục đích công tác giống, thông thường với bò đo 5 - 8 chiều, với lợn 3 - 4 chiều, trong các thí nghiệm có thể đo 13 - 18 chiều. Các chiều đo thông dụng bao gồm: Với bò: - Cao vây: khoảng từ mặt đất đến u vai (thước gậy, thước dây) - Sâu ngực: khoảng cách từ xương ức tới sống lưng, đo ở vị trí sau xương bả vai (thước gậy). Với lợn: - Cao vai: cách đo giống bò (thước gậy) - Dài thân: khoảng cách từ điểm nối giữa 2 tai đến khấu đuôi theo chiều cong của lưng (thước dây). - Vòng ngực: đo giống bò. Phương pháp đo các chiều có ưu điểm là khách quan, có số liệu lưu trữ, so sánh, nhưng đòi hỏi khi đo đạc, con vật phải đứng đúng tư thế mới có kết quả chính xác. Ngoài ra, thông qua các chiều đo, ta có thể nhận xét sự phát triển của bộ xương tức là một phần thể chất của con vật hoặc có thể dựa vào kết quả đo đạc xác định trọng lượng con vật, ứng dụng trong trường hợp không có điều kiện cân gia súc. Ðể có thể nhận xét, so sánh sự phát triển bộ xương thể chất con vật, sau khi đo xong ta có thể tính thành các chỉ số. Các chỉ số quan trọng bao gồm: - Chỉ số cao chân: (cao vây - sâu ngực) x 100 Chỉ số cao chân = Cao vây Gia súc non có chỉ số này cao, càng lớn càng giảm. Ngựa cưỡi, bò sữa có chỉ số này cao hơn bò thịt, ngựa kéo. - Chỉ số dài thân: Dài thân chéo x 100 Chỉ số dài thân = Cao vây Chỉ số này tăng theo tuổi, trâu bò cày kéo cao hơn trâu bò sinh sản. - Chỉ số sau cao: Cao khum x 100 Cao hông x100
  22. Sau cao = hoặc sau cao = Cao vây Cao vây Gia súc non cao hơn gia súc trưởng thành. - Chỉ số tròn mình: Vòng ngực x 100 Tròn mình = Dài thân chéo Chỉ số này ít biến đổi theo tuổi. Con vật càng gầy chỉ số này càng bé. Ở lợn người ta thường tính vòng ngực / dài thân. Lợn hướng nạc 1 - Chỉ số khối lượng hay to mình: Vòng ngực x 100 Chỉ số khối lượng = Cao vây Ngựa kéo, lợn hướng mỡ lớn hơn ngựa cưỡi, lợn hướng nạc Các công thức tính khối lượng (KL) vật nuôi - Ðối với trâu Việt Nam: KL = -708,087 + 3,753 x VN + 3,140 DTC (đo thước dây) KL = -654,599 + 3,239 x VN + 3,239 DTC (đo thước dây) Nếu trâu béo cộng thêm 5%, trâu gầy trừ 5% trọng lượng tính được. - Ðối với bò: (vòng ngực)P2 x dài thân chéo(cm) VN2 x DTC KL = = 10.800 10.800 - Ðối với lợn: (vòng ngực)2 x dài thân thẳng (cm) VN2 x DTT KL = = 14.400 14.400 Công thức tính khối lượng (KL) do Viện Chăn nuôi xây dựng (năm 1980) Trâu Việt Nam: KL (kg) = 88,4 x VN2 x DTC (m) Bò Việt Nam: KL(kg) = 89,8 x VN2 x DTC (m) 2.2.3.3. Giám định bằng phương pháp cho điểm Là phương pháp đối chiếu ngoại hình con vật cần đánh giá với một con vật mẫu (có ngoại hình thể chất lý tưởng của giống), tiến hành cho điểm từng bộ phận theo một thang điểm nhất định. Tuỳ theo tính chất quan trọng đối với hướng sản xuất mà thang điểm hoặc
  23. hệ số nhân điểm các bộ phận đó khác nhau. Cuối cùng căn cứ vào tổng số điểm phân cấp ngoại hình gia súc đã giám định. Ví dụ tiêu chuẩn giám định ngoại hình trâu bò cày kéo (bảng 2.1) Bảng 2.1. Tiêu chuẩn giám định ngoại hình trâu bò cày kéo Cái Ðực Các bộ Đặc điểm mô tả Tổng Hệ Tổng phận Điểm Hệ số Điểm số số số Ðầu và Ðực thô nhưng không cổ nặng. 5 1 5 5 1 5 Cái hơi thanh đầu, cổ cân xứng Ngực Sâu, rộng, nở, dài 5 3 15 5 3 15 Vai, Cao, rộng, thẳng lưng, 5 3 15 5 3 15 hông Bụng Ðực thon, cái không sệ 5 1 5 5 1 5 Mông Dài, rộng, hơi dốc 5 2 10 5 2 10 Ðùi To, tròn 5 2 10 5 2 10 Vú ,cơ Đực: Phát dục tốt. quan Cái: Phát dục tốt, bầu 5 2 10 5 1 5 sinh dục vú to, tĩnh mạch rõ Bốn Thẳng, chắc, móng chân chụm, tư thế bình 5 1 5 5 2 10 thường Phát dục Toàn thân cân đối 5 5 25 5 5 25 chung Cộng 100 100 Xếp cấp: Kỷ lục: > 80 Ðặc cấp: 75 - 79 ; Cấp I: 70 - 74 Cấp II: 65 - 69; Cấp III: 60 - 64 Phương pháp này tương đối chính xác khoa học, hiện vẫn đang được áp dụng trong tuyển chọn gia súc thông qua ngoại hình. 2.3. Sinh trưởng phát dục
  24. Sinh trưởng phát dục là chỉ tiêu thứ hai đánh giá, chọn lọc giống vật nuôi. Ðánh giá sinh trưởng phát dục cho phép ta nhận định đầy đủ hơn về ngoại hình thể chất, đánh giá được sự phát triển của cơ thể, từ đó có nhận định về tác động nuôi dưỡng, chăm sóc của con người trong những điều kiện cụ thể. 2.3.1 Khái niệm 2.3.1.1. Sinh trưởng Cơ sở chủ yếu của sự sinh trưởng của cơ thể là sự sinh trưởng của các mô bào, sự sinh trưởng gồm hai quá trình chính là sinh sản và phát triển, có nghĩa là tế bào phân chia và các tế bào nhỏ lớn dần lên có kích thước và thể vóc giống tế bào mẹ dẫn tới sự tăng thể khối của toàn cơ thể hay của từng bộ phận của cơ thể. Sự sinh trưởng là một quá trình tích lũy các chất dinh dưỡng, là sự tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng của các bộ phận và toàn cơ thể trên cơ sở tính di truyền và chịu tác động bởi yếu tố ngoại cảnh. 2.3.1.2. Phát dục Sự phát triển của cơ thể không phải chỉ ở việc tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng mà còn ở chỗ hoàn thiện, tăng chức năng, tính cách hoạt động của từng bộ phận trong cơ thể. Phát dục là một quá trình thay đổi chất lượng, tức là sự tăng thêm, hoàn chỉnh các tính chất, chức năng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể vật nuôi. Sinh trưởng, phát dục là hai quá trình của sự phát triển, giữa chúng có mối liên quan chặt chẽ với nhau cùng tiến hành song song, hỗ trợ và thúc đẩy cho nhau giống như mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng. Ở các giai đoạn phát triển khác nhau có thể sinh trưởng nhanh hơn phát dục nhưng có lúc phát dục nhanh hơn sinh trưởng. 2.3.2. Ðánh giá sinh trưởng và phát dục Ðể đánh giá sinh trưởng và phát dục ta thường dùng phương pháp định kỳ cân trọng lượng, đo kích thước các chiều cơ thể. Khoảng cách giữa các lần cân đo tùy thuộc các loại gia súc, khả năng sinh trưởng (sinh trưởng nhanh khoảng cách cân ngắn) mục đích theo dõi. Nói chung, khoảng cách cần đo rút ngắn, nhận xét sẽ chính xác hơn. Trong sản xuất có thể cân đo ở các thời điểm sau: - Lợn: sơ sinh, 1, 2, 4, 6, 8, 10, 12, 18, 24, 36 tháng - Bò: sơ sinh, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 12, 18, 24, 36, 48, 60 tháng - Trâu, ngựa: sơ sinh, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 12, 18, 24, 36, 48, 60 tháng Trong nghiên cứu, trong 10 - 15 ngày hoặc trong 3 - 5 ngày có thể cân đo mỗi ngày 1 lần. Cân vào sáng sớm khi chưa cho con vật ăn, đảm bảo trạng thái con vật bình thường.
  25. Ðể biểu thị tốc độ sinh trưởng, phát triển ở các thời điểm cần đo cần áp dụng các chỉ tiêu sau: 2.3.2.1. Ðộ sinh trưởng tích lũy Là những số liệu cân đo được tại những thời điểm của quá trình sinh trưởng, phát dục của gia súc. Ví dụ: Khối lượng lợn Móng Cái ở các tháng tuổi (kg) S.s 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 18 Đực 0,45 3 6 10 13 18 25 29 34 38 41 44 47 52 Cái 0,42 2 5 7 11 14 19 24 28 32 35 38 40 50 Đường biểu diễn độ sinh trưởng tích luỹ có dạng chữ S, lúc đầu tăng chậm sau đó tăng nhanh và cuối cùng nằm ngang. 2.3.2.2. Ðộ sinh trưởng tuyệt đối (A) Là khối lượng, kích thước, thể tích của cơ thể hay từng bộ phận trong cơ thể tăng lên trong một đơn vị thời gian. V2-V1 A = trong đó: V1 là độ sinh trưởng ở thời gian T1 T2 – T1 V2 là độ sinh trưởng ở thời gian T2 Trong thực tế chăn nuôi, người ta dùng công thức này để biểu thị tăng trọng (g/ngày) hoặc (kg/tháng). Ðồ thị lý thuyết có dạng đường cong gần giống đường Parabol. 2.3.2.3. Ðộ sinh trưởng tương đối (R%) Là tỷ lệ phần trăm tăng lên của kích thước, khối lượng, thể tích lúc kết thúc khảo sát so với lúc bắt đầu khảo sát. V2 – V1 R(%) = x 100 V1 Ðể đảm bảo chính xác hơn ta dùng công thức: V2 – V1 R (%) = x 100 (V2 + V1) /2 Ðồ thị sinh trưởng tương đối có dạng đường cong Hypebol, giảm dần cùng với sự tăng lên của lứa tuổi.
  26. 2.3.3. Các quy luật sinh trưởng phát dục ở vật nuôi Gia súc lúc trưởng thành không phải chỉ là sự phóng to của gia súc lúc sơ sinh. Bởi vì trong quá trình phát triển, mỗi giai đoạn sinh trưởng phát dục của gia súc tuân theo những quy luật nhất định. 2.3.3.1. Quy luật sinh trưởng phát dục không đều Quy luật này thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau: - Không đồng đều về sự tăng trọng trong quá trình phát triển. Ðiều này thể hiện rất rõ ở cường độ sinh trưởng tích lũy tuyệt đối và tương đối của gia súc. Gia súc còn non sinh trưởng tuyệt đối chậm nhưng sinh trưởng tương đối nhanh, gia súc lớn thì ngược lại. Cường độ sinh trưởng tuyệt đối trong các giai đoạn phát triển trong cơ thể mẹ thấp nhưng độ sinh trưởng tương đối bao giờ cũng cao và vượt xa giai đoạn phát triển ngoài cơ thể mẹ. - Không đồng đều về sự phát triển ngoại hình, dáng vóc. Nguyên nhân của hiện tượng này là sự phát triển không đồng đều của bộ xương cơ thể. Giai đoạn bào thai phát triển chiều cao chân là chính vì vậy gia súc sơ sinh mình ngắn, hẹp, nhưng có dáng cao so với gia súc trưởng thành. Sau khi ra khỏi cơ thể mẹ, gia súc bắt đầu phát triển mạnh mẽ về chiều dài sau đó là chiều sâu, cuối cùng là chiều rộng. - Không đồng đều về sự phát triển của các cơ quan bộ phận trong cơ thể. Có thể chia tốc độ phát triển của các cơ quan bộ phận thành 3 mức độ khác nhau: 1- nhanh, 2- trung bình, 3- chậm, ứng với mỗi giai đoạn phát triển trong và ngoài cơ thể (bảng 2.2). Bảng 2.2. Sự phát triển của các bộ phận trong cơ thể Giai Giai đoạn phát triển ngoài cơ thể mẹ đoạn 1 2 3 phát 1 Da, cơ Xương, tim Ruột triển 2 Máu, dạ dày Thận Lách, lưỡi trong 3 Dịch hoàn Gan, phổi, khí quản Não cơ thể mẹ Trong cả 2 giai đoạn thì da, cơ đều phát triển mạnh, não phát triển chậm, ruột phát triển mạnh ở giai đoạn bào thai, chậm khi ra ngoài cơ thể mẹ, cơ quan sinh dục thì ngược lại. Trong quá trình phát triển, lúc đầu sự phát triển của xương mạnh nhất, tiếp theo là sự phát triển cơ bắp và cuối cùng là sự tích lũy mỡ. 2.3.3.2. Quy luật sinh trưởng phát dục theo chu kỳ Quy luật này thể hiện trên các khía cạnh:
  27. - Tính chu kỳ trong hoạt động sinh lý của cơ thể: chu kỳ hoạt động sinh dục của gia súc; trạng thái hưng phấn, ức chế của hoạt động thần kinh cao cấp. - Tính chu kỳ trong sự tăng trọng của gia súc: do sự tăng sinh của các tế bào có tính chu kỳ. Có thời kỳ tăng sinh mạnh, có thời kỳ tăng yếu rồi lại mạnh mà sự tăng trọng của gia súc khi nhiều, khi ít có thể biểu diễn thành làn sóng chu kỳ. - Tính chu kỳ trong sự trao đổi chất: các chu trình trao đổi đường (Creb) hình thành urea (Ornitine); chu kỳ của sự đồng hoá, dị hoá . 2.3.3.3. Quy luật sinh trưởng phát dục theo giai đoạn Không những bản thân gia súc sinh trưởng, phát dục theo các giai đoạn khác nhau mà ngay cả từng cơ quan, bộ phận trong cơ thể cũng phát triển theo những giai đoạn khác nhau. Trong suốt quá trình sinh trưởng, phát dục, cơ thể gia súc phải trải qua những thời kỳ nhất định và chính trong những thời kỳ này chúng đòi hỏi những điều kiện sống nhất định. Có thể chia quá trình sinh trưởng, phát dục của gia súc thành các giai đoạn và thời kỳ sau đây: 2.3.3.3.1. Giai đoạn trong cơ thể mẹ: gồm 3 thời kỳ - Thời kỳ phôi tử: từ lúc trứng được thụ tinh đến khi hợp tử bám chắc vào niêm mạc sừng tử cung. Trong thời kỳ này, phôi phân chia rất mạnh, chất dinh dưỡng cung cấp cho phôi chủ yếu là noãn hoàng của trứng và một phần chất dịch của tử cung gia súc mẹ. - Thời kỳ tiền thai: từ lúc hợp tử bám chắc vào niêm mạc tử cung tới khi xuất hiện những nét đặc trưng về giải phẫu sinh lý và trao đổi chất của các mầm, các cơ quan. Thời kỳ này thai sinh trưởng, phát dục mạnh, hệ thống thần kinh, tiêu hóa, tuần hoàn, bộ xương đã bắt đầu hình thành, chất dinh dưỡng được cơ thể mẹ cung cấp thông qua hệ thống mạch máu nối liền bào thai, nhau thai, cơ thể mẹ. Thời kỳ thai nhi: từ lúc kết thúc thời kỳ tiền thai đến khi gia súc non được sinh ra. Trong thời kỳ này, 4 chân, các cơ quan cảm giác, lông, đuôi hình thành, các cơ quan khác tăng sinh nhanh chóng làm cho 3/4 trọng lượng sơ sinh hình thành trong giai đoạn này. Vì vậy, cần cung cấp cho cơ thể mẹ đầy đủ các chất dinh dưỡng đặc biệt là protein và khoáng chất. Bảng 2.3. Thời gian của từng thời kỳ phát triển của phôi Gia súc Phôi tử (ngày) Tiền thai (ngày) Thai nhi (ngày) Lợn 1-22 23-38 39-114 Bò 1-34 35-60 61-284 2.3.3.3.2. Giai đoạn ngoài cơ thể mẹ
  28. Giai đoạn này gồm 5 thời kỳ: - Thời kỳ sơ sinh: từ lúc mới đẻ cho đến 1 - 2 tuần tuổi. Thời kỳ này gia súc non được nuôi bằng sữa đầu có chứa một hàm lượng globulin lại liên quan tới khả năng đề kháng của cơ thể. Mặt khác, sữa đầu chứa nhiều protein dễ tiêu, nhiều vitamin, một số chất khoáng cần thiết cho sự phát triển của gia súc non. Cho bú sữa đầu đầy đủ là biện pháp kỹ thuật quan trọng nâng cao sức khỏe và tỷ lệ nuôi sống của gia súc non. - Thời kỳ bú sữa: từ lúc vài ba tuần tuổi cho đến khi cai sữa. Chất dinh dưỡng chủ yếu ở thời kỳ này là sữa mẹ, cần bổ sung thức ăn sớm cho gia súc non vì ngoài tác dụng thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng mà bản thân sữa mẹ không đáp ứng đủ. Thức ăn còn có tác dụng kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển, tăng khả năng lợi dụng thức ăn sau này. Thời gian bú sữa bình thường của lợn: 2 tháng; bê, nghé: 4 - 6 tháng. - Thời kỳ phát triển sinh dục: lúc này, sự phân biệt tính dục bắt đầu rõ rệt dần. Gia súc dần dần thành thục về tính, ngoại hình, tính tình cũng có những biến đổi nhất định: con đực cơ bắp phát triển, cơ thể nở nang, cân đối, tính tình cũng mạnh dạn, hung hăng hơn. Con cái bầu vú tăng sinh, có những phản xạ tìm kiếm con đực, tính tình cũng ôn hòa hơn. Nếu được phối giống nó sẽ có khả năng sinh sản, chức năng tiết sữa nuôi con, bảo vệ con sẽ xuất hiện. Thời gian thành thục về tính của các loài gia súc: Bò đực: 12 - 16 tháng Bò cái: 8 - 12 tháng Trâu đực: 18 - 30 tháng Trâu cái: 18 - 24 tháng Lợn đực ngoại: 7 - 8 tháng Lợn cái ngoại: 7 - 8 tháng Lợn đực nội: 2 tháng Lợn cái nội: 3 - 4 tháng - Thời kỳ trưởng thành: thời kỳ này con vật đã phát triển hoàn chỉnh, có khả năng sinh sản, cho sữa, cày kéo tốt nhất. Nếu nuôi dưỡng, chăm sóc, sử dụng hợp lý sẽ cho hiệu quả cao khi con vật ở giai đoạn trưởng thành. - Thời kỳ già cỗi: khả năng sản xuất của gia súc dần dần giảm đi và mất hẳn, khi con vật về già, các hoạt động sinh lý và sức khỏe cũng giảm sút. Thời kỳ này đến sớm hay muộn không chỉ do tuổi tác quyết định mà còn phụ thuộc vào điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc và chế độ sử dụng. 2.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục 2.3.4.1. Nhân tố di truyền Trong quá trình sinh trưởng, yếu tố di truyền chi phối sự sinh trưởng, phát dục khiến nó thể hiện những đặc điểm nhất định của giống, dòng họ và cá thể. Người ta phân chia thành 3 hệ thống gen chi phối sự phát triển của các tính trạng: - Gen ảnh hưởng tới toàn bộ các tính trạng - Gen ảnh hưởng tới một nhóm tính trạng liên quan
  29. - Gen ảnh hưởng tới từng tính trạng riêng rẽ. Tính di truyền về mặt sức sản xuất cao hay thấp, chuyên hóa hay kiêm dụng ảnh hưởng rất rõ rệt tới sinh trưởng, phát dục của các bộ phận trực tiếp sản xuất: bầu vú bò sữa, mông vai bò thịt Hệ thống gen ảnh hưởng Hệ thống gen ảnh hưởng tới nhóm tính trạng liên quan tới các tính trạng riêng rẽ Sự phát triển của xương Cao vây Sâu ngực Hệ thống gen ảnh hưởng Dài thân đến toàn bộ các tính trạng Vòng ngực Vòng bụng Sự phát triển cơ, khối lượng Ðể tạo nên tính di truyền mong muốn, cần khéo chọn lọc để củng cố tính di truyền và phối hợp tốt đực cái để tính di truyền được truyền cho đời con lai, là biện pháp tích cực tạo nên yếu tố di truyền cần cho sự phát triển. 2.3.4.2. Nhân tố ngoại cảnh Cùng với các điều kiện thời tiết, khí hậu thì chế độ nuôi dưỡng là yếu tố ngoại cảnh quan trọng nhất ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát dục của gia súc. Trong quá trình sinh trưởng phát dục, nếu một giai đoạn nào đó nuôi dưỡng không tốt, sinh trưởng phát dục sẽ ngừng trệ, để lại những dấu vết trên ngoại hình con vật. Chẳng hạn khi bò cái có chửa, nếu chế độ dinh dưỡng kém nhất là thiếu Ca, P thì sự phát triển chiều cao xương chân của thai bị ngừng trệ, con vật đẻ ra chân ngắn hơn bình thường, dấu vết này giữ suốt cả quá trình phát triển sau này. Nuôi dưỡng tốt, gia súc sinh trưởng, phát dục nhanh và ngược lại. Tác động bằng các yếu tố dinh dưỡng, chăm sóc, tiểu khí hậu chuồng nuôi chính là các biện pháp điều khiển sinh trưởng, phát dục của gia súc. 2.4. Sức sản xuất của vật nuôi Sức sản xuất là khả năng cho thịt, trứng, sữa, lông, sức cày kéo, cưỡi, khả năng sinh sản của vật nuôi (gia súc, gia cầm ). Sức sản xuất cao hay thấp, chất lượng tốt hay xấu tùy thuộc vào đặc tính di truyền của con vật và điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc nó. Ðánh giá sức sản xuất của gia súc có một ý nghĩa quan trọng trong công tác giống vì sức sản xuất là chỉ tiêu quan trọng nhất để chọn lọc những gia súc có giá trị kinh tế cao nhân giống chúng nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất của giống. Mặt khác, nếu đánh giá được sức sản xuất của gia súc ta có thể ta biết được những nhu cầu của chúng về dinh dưỡng, chăm sóc. Trên cơ sở đó đề ra những biện pháp kỹ thuật tác động để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các phương pháp, các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất bao gồm: 2.4.1. Sức sinh sản
  30. Ðể đánh giá sức sinh sản người ta dùng các chỉ tiêu sau đây: 2.4.1.1 Tỷ lệ thụ thai Số gia súc cái đã thụ thai Tỷ lệ thụ thai (%) = x 100 Tổng số gia súc cái được phối giống Với gia cầm thì Số trứng có phôi Tỷ lệ thụ tinh (%) = x 100 Tổng số trứng đem ấp Trứng có phôi được kiểm tra vào ngày thứ 5-7 sau khi ấp. 2.4.1.2 Tỷ lệ sinh sản • Ðối với gia súc đơn thai dùng công thức: Số g/s con (trừ những con chết trong 24h sau khi đẻ) Tỷ lệ sinh sản (%) = x 100 T.số g/s cái có đủ điều kiện và khả năng sinh sản • Ðối với gia súc đa thai tính theo số con bình quân trên một đầu gia súc cái trong một năm hay trong một lứa đẻ. • Ðối với gia cầm tính khả năng đẻ trứng: Tổng số trứng đẻ ra trong một đơn vị thời gian Tỷ lệ đẻ(%) = x 100 TS mái đủ điều kiện và khả năng đẻ trứng trong thời gian đó Sản lượng trứng là số trứng đẻ ra từ một gia cầm mái/năm (quả) 2.4.1.3. Tỷ lệ nuôi sống Với gia súc: Số con nuôi sống đến lúc cai sữa Tỷ lệ nuôi sống (%) = x 100 Số con để nuôi (trừ số chết trong
  31. 24h sau khi đẻ) Với gia cầm: Số gia cầm còn sống tới 2 tháng tuổi Tỷ lệ nuôi sống (%) = x 100 Tổng số gia cầm con mới nở để nuôi 2.4.2. Sức sản xuất sữa Ðể đánh giá sức sản xuất sữa của đại gia súc, ta dùng các chỉ tiêu sau: - Chu kỳ tiết sữa: là thời gian cho sữa 1 lứa đẻ. Ðối với bò chuyên sữa, chu kỳ tiết sữa thường 300 ngày. - Sản lượng sữa: là lượng sữa của 1 bò sữa sản xuất trong một kỳ tiết sữa 300 ngày (tính bằng kg). - Tỷ lệ mỡ sữa: định kỳ tháng 1 lần phân tích tỷ lệ mỡ trong sữa, lấy trung bình của 10 lần phân tích. - Sữa tiêu chuẩn 4%: để so sánh những sản lượng sữa có tỷ lệ mỡ sữa khác nhau cần quy đổi qua sữa tiêu chuẩn 4% theo công thức: FCM = 0,4M + 15F Trong đó: FCM: lượng sữa có tỷ lệ mỡ 4% = Sữa tiêu chuẩn (kg) M: lượng sữa thực tế (kg) F: lượng mỡ sữa thực tế (kg) Cơ sở của cách tính này là: 1kg sữa đã được khử mỡ sản sinh lượng nhiệt năng tương đương 0,4 kg sữa có 4% mỡ; 1 kg mỡ sữa cho nhiệt năng tương đương 15 kg sữa có 4% mỡ. Ðối với lợn, để đánh giá sức sản xuất sữa trong thực tế thường dùng phương pháp gián tiếp. Hiện nay, ngoài tỷ lệ mỡ sữa, người ta chú ý đến hàm lượng protein trong mỡ sữa, đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sức sản xuất sữa. 2.4.3. Sức sản xuất thịt Ðể đánh giá sức sản xuất thịt của gia súc ta thường dùng các chỉ tiêu sau đây: - Khối lượng móc hàm: là khối lượng sau khi lấy máu, cạo lông và bỏ phủ tạng, thường dùng đối với lợn. - Khối lượng thịt xẻ: là khối lượng móc hàm nhưng đã bỏ đầu, chân, đuôi, với đại gia súc thì lột da. - Tỷ lệ móc hàm, thịt xẻ: là tỷ lệ giữa các khối lượng đó với khối lượng giết thịt. - Tỷ lệ nạc, mỡ, xương, da trong thân thịt.
  32. - Chi phí thức ăn cho 1kg tăng trọng. - Ngoài phẩm chất thịt xẻ nói trên người ta còn chú ý tới phẩm chất thịt như độ xốp của thịt, độ ẩm, độ chắc, độ mịn, màu sắc, phẩm chất mỡ như màu sắc, độ chắc, chỉ số iốt của mỡ Trên thị trường người ta phân loại giá trị của các phần trên thân thịt. Chẳng hạn: Với bò: Thịt loại 1 gồm 1,2,4; Thịt loại 2: 3,5,6; Thịt loại 3: 7,8,9. Với lợn: Thịt loại 1 gồm 1,2,3,4,5; Thịt loại 2:6,7 ; Thịt loại 3: 8,9. 2.4.4. Sức làm việc Các chỉ tiêu và phương pháp đánh giá sức làm việc của gia súc: - Sức kéo trung bình: là sức kéo đo được của gia súc trong điều kiện làm việc bình thường phù hợp với sức khỏe. Phương pháp đo: Mắc lực kế xen lẫn đòn giành và vật cản, cho con vật kéo (xe, cày vỡ ) đọc kết quả trung bình. Sức kéo trung bình thường có trị số bằng 12-16% trọng lượng gia súc. Bò nặng 260 - 300 kg, sức kéo trung bình thường là 40 kg // 300 - 350 kg // 45 - 50 kg // 350 - 400 kg // 60 - 70 kg - Sức kéo lớn nhất: là sức kéo đo được khi con vật kéo được trọng tải lớn nhất. Phương pháp đo: mắc lực kế tương tự như trên, cho con vật kéo xe tăng dần trọng tải tới khi không kéo được nữa, đọc kết quả. Sức kéo tối đa thường bằng: 50 - 60% khối lượng cơ thể. - Sức giật lớn nhất: là sức kéo ghi được khi con vật bắt đầu kéo. Phương pháp đo: mắc lực kế tương tự trên nhưng một đầu buộc vào gốc cây to, đuổi vật đi, đọc kết quả. Sức giật lớn nhất tỷ lệ thuận với khối lượng. Bò 300 kg, sức giật 750 - 800 kg 350 - 400 kg 800 - 1000 kg 500 kg 1000 - 1200 kg
  33. - Công thực hiện: A=P.L. trong đó: P là sức kéo; L là đoạn đường đi của con vật; t là thời gian. Diện tích ruộng cày Nếu con vật cày thì L = Độ rộng xá cày A L - Công suất: W = ; Tốc độ = t t - Khả năng hồi phục: xác định mạch đập, nhịp thở trước khi làm việc, cho gia súc cày kéo 15 - 30 phút, cho gia súc nghỉ việc, xác định mạch đập, nhịp thở sau đó cứ 10 - 15 phút xác định một lần. Tính thời gian để mạch đập, nhịp thở hồi phục như trạng thái ban đầu. 2.4.5. Sức đẻ trứng Sản lượng trứng của gia cầm thường phụ thuộc vào tuổi: ở gà, thường năm đầu sản lượng trứng cao, các năm sau giảm dần, cá biệt năm thứ hai sản lượng cao nhất. Riêng ngỗng tới năm thứ năm sản lượng trứng vẫn tăng. Các chỉ tiêu đánh giá: Tổng số trứng đẻ trong tháng, năm - Sản lượng trứng trong năm, tháng = Số gà đẻ trong tháng, năm đó - Chu kỳ đẻ trứng: số ngày đẻ trứng liên tục của 1 gia cầm. - Thời gian duy trì đẻ trứng: số ngày từ khi bắt đầu đẻ tới khi thay lông nghỉ đẻ. - Chi phí thức ăn cho 10 quả trứng. Cứ 10 ngày cân 1 lần, tính trung bình. 2.5. Chọn lọc và chọn đôi giao phối 2.5.1. Chọn lọc 2.5.1.1. Khái niệm Trong công tác giống, chọn lọc là khâu rất quan trọng. Darwin đã chia làm 2 loại: chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Chọn lọc tự nhiên tác động đến cả quá trình phát triển của các thể, là kết quả của sự tác động qua lại giữa cơ thể và ngoại cảnh, cơ thể nào thích nghi được thì phát triển, còn không thì bị hạn chế và tiêu diệt. Ngay từ khi con người bắt đầu thuần hóa gia súc, sự chọn lọc nhân tạo đã bắt đầu. Chọn lọc nhân tạo là chọn ra từ trong đàn những cá thể tốt để giữ lại làm giống, tiến hành đào thải những cơ thể xấu. Chọn lọc nhân tạo có thể tác động tới cơ thể nói chung, nhưng có khi chỉ đi vào những tính trạng cần thiết cho con người.
  34. Trong công tác giống, chúng ta nói đến chọn lọc là nói đến chọn lọc nhân tạo. Muốn chọn lọc phải chọn lọc theo 3 thế hệ: chọn lọc tổ tiên, chọn lọc bản thân và chọn lọc đời sau. Như vậy, một gia súc giống tốt có nghĩa là nó phải có tổ tiên tốt, bản thân tốt và đời sau tốt. Trong mỗi khâu đều phải có 3 mặt tốt: ngoại hình thể chất tốt, sinh trưởng phát dục tốt, sức sản xuất tốt. 2.5.1.2. Chọn lọc tổ tiên Chọn lọc tổ tiên là thông qua lý lịch ghi lại quá trình hình thành con gia súc để xem xét tổ tiên nó tốt hay xấu. Thông qua chọn lọc tổ tiên người ta có thể: - Có những nhận định, phán đoán được khả năng của con vật. - Biết được phẩm chất các thế hệ tăng dần hay ổn định, trên cơ sở đó đánh giá được mức độ ổn định của tính di truyền. - Thông qua lý lịch biết được mức độ đồng huyết của gia súc đó. Lý lịch của gia súc được ghi theo 2 cách: 2.5.1.2.1. Lý lịch dọc được lập theo nguyên tắc: đời trước ghi dưới, đời sau ghi trên, bên phải là họ nội bên trái là họ ngoại. Chẳng hạn: Ðời I Mẹ 13 Bố 24 Ðời II Bà ngoại 150 Ông ngoại 68 Bà nội 95 Ông nội 6 Ðời III 2.5.1.2.2. Lý lịch ngang được lập theo nguyên tắc: đời trước ghi bên phải, đời sau ghi bên trái, con đực ghi trên, con cái ghi dưới. Chẳng hạn: Ðời I đời II đời III Bố: 24 Ông nộ 6 Bà ội Mẹ: 13 Ông ngoại 68 Bà ngoại 2.5.1.3. Chọn lọc bản thân Là khâu quan trọng nhất trong 3 khâu vì: - Bản thân gia súc trực tiếp tạo nên sản phẩm và ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất sản phẩm. - Ðánh giá biểu hiện cụ thể của đời tổ tiên, nhận xét sự ổn định tính di truyền, đồng thời dự đoán được sự di truyền đó cho đời sau. Khi chọn lọc bản thân, con vật có thể được đánh giá qua một hay nhiều đặc tính, nhưng thường chú ý đến nhiều đặc tính. Trong đó những đặc tính thuộc về sức sản xuất là quan trọng nhất. Mặt khác, phải chú ý tính tương tác giữa các đặc tính. Bên cạnh đó, bản thân con vật lại di truyền các đặc tính cho đời sau, do đó khi chọn lọc bản thân phải nhận
  35. xét, suy đoán để những đặc tính tốt của bố mẹ có thể được biểu hiện ở đời sau với mức độ cao hơn trong điều kiện nuôi dưỡng có thể tốt hơn. Ðối với từng loại gia súc có thể đánh giá theo các chỉ tiêu chính: - Loại cho sữa: sản lượng sữa của các chu kỳ, tỷ lệ mỡ sữa, số ngày cho sữa. - Loại cho thịt: thời gian nuôi thịt, số con đẻ ra mỗi lứa, số con còn sống và khối lượng toàn ổ khi đẻ, khi cai sữa. - Loại cho sức kéo: sức kéo trung bình, sức kéo tối đa. - Loại cho trứng: số trứng đẻ ra trong 1 năm, khối lượng trứng, chu kỳ đẻ trứng. Tất cả các chỉ tiêu đó cuối cùng cần được quy về giá thành trên một đơn vị sản phẩm. 2.5.1.4. Chọn lọc qua đời sau Là kiểm tra đời sau của gia súc giống nhằm mục đích đánh giá khả năng di truyền những đặc điểm của bố mẹ cho đời con. Phương pháp này có những đặc điểm sau: - Ðánh giá chính xác nhất mức độ ổn định tính di truyền của gia súc giống. - Phương pháp đòi hỏi phải có nhiều thời gian (gà phải 1 năm, lợn, bò nhiều năm hơn) và phức tạp. Do đó, người ta thường kiểm tra con đực qua đời con là chính. Trong khi kiểm tra con đực, người ta lại chú ý tới những loại gia súc có tuổi thọ lớn, thời gian sử dụng dài, phạm vi sử dụng rộng: bò, lợn Các phương pháp kiểm tra chọn lọc đời con bao gồm: 2.5.1.4.1. So sánh mẹ với con Muốn kiểm tra con đực ta cho nó phối với nhóm con cái tương đối tốt và đồng đều nhau. Khi đàn con ra đời, đem nuôi dưỡng trong điều kiện giống nhau sau đó so sánh các chỉ tiêu ngoại hình thể chất, sinh trưởng phát dục, sức sản xuất trung bình giữa đời con và đời mẹ. Áp dụng công thức: O = D - M Trong đó: O: thành tích của đực giống D: thành tích của con M: thành tích của mẹ Nếu O > 0 (D > M): chứng tỏ đực giống có khả năng cải lương. Nếu O < 0 (D < M): chứng tỏ đực giống không có khả năng cải lương. Nếu O = 0 (D = M): chứng tỏ đực giống không làm kém sút đời sau. Theo nguyên tắc hỗn hợp di truyền (đời con chịu ảnh hưởng nửa di truyền của bố và nửa của mẹ) người ta cải tiến công thức sau: O + M D = ; O = 2D - M 2
  36. Nhược điểm của phương pháp này là bỏ qua ảnh hưởng của điều kiện sống, tuổi tác của mẹ và con. Ngoài cách tính theo công thức trên, người ta có thể áp dụng phương pháp “ô di truyền”: vẽ đồ thị, tung độ biểu thị thành tích của con, hoành độ biểu thị thành tích của mẹ, so sánh điểm xác định với đường chuẩn y = x. Nếu điểm xác định phía trên đường chuẩn: con hơn mẹ (đực có tác dụng cải lương). Ðiểm xác định ở dưới đường chuẩn: con kém mẹ (đực giống không có tác dụng cải lương). 2.5.1.4.2. So sánh con với con Cho các nhóm nái giao phối với các con đực, so sánh thành tích của đàn con chúng với nhau. Phương pháp này tránh được nhược điểm chênh lệch về tuổi và điều kiện nuôi dưỡng khi so sánh nó, đánh giá được đàn con trong cùng một điều kiện nuôi dưỡng, đồng thời nó có thể so sánh được nhiều con đực cùng một lúc cũng như kiểm tra khả năng phối hợp của con đực với các con cái khác nhau. Phương pháp có thể tiến hành theo các cách khác sau: - Dùng 2 con đực, mỗi con cho phối hợp với một nái, so sánh con của chúng, sau đó đổi ngược cặp phối hợp, tiếp tục so sánh con của chúng. Ðể khắc phục sai lệch đó, việc kiểm tra được tiến hành ở 2 thời điểm khác nhau. Ta lặp lại lần thứ 3 sau đó điều chỉnh để so sánh. - Phương pháp móc xích: Cho phối giống theo sơ đồ: 1 2 3 4 lần phối 1 lần phối 2 A B C 1, 2, 3, 4 là các đặc giống A, B, C là các nhóm nái đồng đều nhau. So sánh đời con của các nhóm nái của 2 lần phối giống để đánh giá đực giống. - Phương pháp móc xích kín: A 1 D Cho phối giống theo sơ đồ: 4 2 B 3 C 2.5.1.4.3. So sánh con với trung bình toàn đàn Áp dụng trong trường hợp cơ sở chăn nuôi mới xây dựng, số lượng gia súc giống còn ít, số liệu ban đầu chưa nhiều. 2.5.1.4.4. Phương pháp “Ðan Mạch”
  37. - Ðánh giá bò đực giống: cho bò đực giống đặc cấp phối giống với bò cái đặc cấp, chọn 120 bò đặc nuôi kiểm tra sinh trưởng phát dục tới 15 tháng, kiểm tra phẩm chất tinh dịch, chọn lấy 40 bê giữ làm giống. Chọn 40 bò đực phối giống với 40 bò cái để kiểm tra đời con của 40 bò đực này. Nhận xét sự phát triển của 40 bê cái được sinh ra. Ðánh giá chu kỳ tiết sữa I của 40 bò cái này. Trong khi đó tiếp tục khai thác tinh trùng của 40 bò đực. Sau 3 năm đánh giá tổng hợp đời con, nếu tốt thì sử dụng tinh dịch bò đực, những bò không tốt thì hủy bỏ tinh dịch. Phương pháp được tóm tắt như sau: Giai đoạn trước kiểm tra. Chọn bò đực đặc cấp cho phối với các bò cái đặc cấp, chọn 120 bò đực đưa vào nuôi kiểm tra sinh trưởng phát dục, phẩm chất tinh dịch. Giữ lại 40 bò đực giống tốt nhất được chọn. Cho 40 bò đực giống này phối với 40 bò cái giống đồng đều nhau. Đời con sinh ra chọn 40 bê cái đại diện cho từng bò đực giống đưa vào nuôi kiểm tra. Giai đoạn kiểm tra. Đánh giá sinh trưởng phát dục và sức tiết sữa ở chu kỳ I của 40 bò cái kiểm tra. Đồng thời tinh dịch bò đực (bố của các bò cái này) được khai thác đưa vào cất giữ. Kết quả kiểm tra cá thể nào cho sữa tốt thì tinh dịch bò đực giống được quyết định đưa ra sử dụng, và ngược lại sẽ phải huỷ bỏ và loại thải đực giống đó. - Ðánh giá lợn đực giống: chọn ngẫu nhiên 4 con của đực giống (2 đực thiến và 2 cái cùng ổ) nuôi ở trạm kiểm tra đánh giá các chỉ tiêu: tuổi xuất chuồng khi đạt trọng lượng nhất định, tăng trọng bình quân gram/ ngày, tiêu hóa thức ăn, độ dày mỡ lưng. Do nuôi lợn con tập trung ở trạm kiểm tra nên sự khác biệt về ngoại cảnh được hạn chế rất nhiều. - Ðánh giá gia cầm trống qua đời con: tương tự đánh giá lợn đực giống qua đời con. Gần đây, người ta đề nghị dùng con đực “cải tiến” tức là sử dụng ngay con của những con đực đã kiểm tra mà không qua kiểm tra vì 90% trường hợp có kết quả tốt, hoặc chỉ cần đánh giá 1 - 2 lợn con trong ổ chứ không cần tới 4, và nếu nuôi riêng biệt từng con sẽ chính xác hơn nuôi theo nhóm. 2.5.2. Chọn đôi giao phối 2.5.2.1. Khái niệm Sau khi đã chọn lọc được cá thể tốt, cần tiến hành một khâu quan trọng nữa là chọn đôi giao phối gọi tắt là chọn phối. Chọn phối là trên cơ sở đã chọn lọc được những cá thể đực và cái tốt, tiến hành ghép đôi cho chúng để có thể phát huy được những đặc tính tốt ở đời con. Cần lưu ý rằng: con đực và con cái dù tốt đến đâu cũng có nhược điểm của nó.
  38. Vì vậy, chọn phối phải khéo phối hợp ưu điểm, giảm nhược điểm ở đời con. Chọn lọc là cơ sở của chọn phối, chọn phối nhằm phát huy tác dụng của chọn lọc, 2 khâu này có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Khi phối hợp đực và cái cần lưu ý: nói chung theo nguyên tắc di truyền, đời con thừa hưởng 50% đặc tính của bố và 50% đặc tính của mẹ, nhưng sự di truyền một số đặc tính ở con đực rất mạnh. Ví dụ: khả năng cho sữa ở con đực rất cao. Ngược lại, khi phôi thai phát triển trong cơ thể mẹ, ảnh hưởng của con mẹ tới sự phát triển đó rất lớn. Chẳng hạn khi cho giao phối ngược, tầm vóc mẹ lớn thì con sẽ lớn và ngược lại. Vì vậy, có thể vận dụng những vấn đề này trong việc ghép đôi nhằm tạo đời con có đặc điểm tốt. 2.5.2.2. Các phương pháp chọn đôi giao phối Khi ghép đôi giao phối. Dựa vào căn cứ để ghép đôi người ta chia ra: 2.5.2.2.1. Chọn đôi giao phối theo phẩm chất. Là phương pháp ghép đôi dựa theo phẩm chất, đặc tính của con đực và cái có 2 hình thức: - Chọn đôi giao phối đồng chất: là chọn ghép đôi giữa đực và cái có cùng đặc điểm tốt, có thể là một hay nhiều đặc điểm, nhằm củng cố những đặc điểm đó ở đời sau. Thí dụ: cho gà trống có thể trọng lớn giao phối với gà mái cũng có thể trọng lớn. Hình thức này thường áp dụng cho những đàn gia súc mới thành lập, tính di truyền chưa ổn định, thường sử dụng trong nhân giống thuần chủng, nhân giống trong dòng, giao phối đồng huyết. - Chọn đôi giao phối dị chất: là chọn ghép đôi giữa con đực và con cái có những đặc điểm tốt khác nhau, nhằm bổ sung cho nhau những đặc điểm ấy ở đời sau. Thí dụ: cho bò đực là con cháu của các bò cái sản lượng sữa cao nhưng tỷ lệ mỡ sữa thấp giao phối với bò cái có tỷ lệ mỡ sữa cao. Hình thức này thường áp dụng trong khi lai giữa 2 giống khác nhau. Cần hiểu rằng: giao phối dị chất không có nghĩa là cho đực cái có khuyết điểm đối lập nhau giao phối với nhau, hy vọng chúng sẽ bù trừ cho nhau để có được đời con tốt. Chẳng hạn: cho con võng lưng giao phối với con có lưng cong vòng lên, cho con chân chữ bát giao phối với con chân vòng kiềng Cách giao phối này không thể xóa được nhược điểm mà có khi còn dẫn tới hậu quả trầm trọng hơn. 2.5.2.2.2. Chọn đôi giao phối theo huyết thống Nếu căn cứ vào quan hệ máu mủ để ghép đôi giao phối thì gọi là chọn đôi giao phối theo huyết thống. Nếu đực cái có quan hệ huyết thống trong vòng 7 đời thì gọi là giao phối đồng huyết, nếu ngoài vòng 7 đời thì gọi là đồng huyết xa hay không đồng huyết. Ðể đánh giá mức độ đồng huyết của các gia súc ta dùng các phương pháp sau:
  39. - Ðánh giá quan hệ đồng huyết. Phương pháp gồm các bước: - Lập lý lịch tổ tiên gia súc - Ðánh dấu những tổ tiên chung xuất hiện ở các đời - Dùng chữ số la mã ghi lại đời xuất hiện của tổ tiên chung đó. Họ ngoại ghi bên trái, họ nội bên phải, phân biệt 2 họ bằng dấu gạch (-). - Ðối chiếu bảng phân loại để xác định mức độ đồng huyết, nếu có nhiều tổ tiên chung thì dùng tổ tiên chung có mức độ đồng huyết cao nhất để biểu thị mức độ đồng huyết của gia súc. Bảng phân loại mức độ đồng huyết của gia súc như sau: Rất gần Gần Vừa Xa (Ðích thân) (Cận thân) (Trung thân) (Viễn thân) I - II III - II III - IV III - V II - I II - III IV - III V - III II - II III - III IV - IV II - IV I - III I - IV I - V VI - II III - I IV - I V - I V - V II - V V - VI V - II VI - V I - VI VI - VI VI - I VII - VII Thí dụ: đánh giá quan hệ đồng huyết thông qua lý lịch bò số 52 như sau: 369 1470 2.107+ 140 1.119 139 1638 422 48 372 2107 515 1141 623 117 63 277 109 603 724 398 659 1638 22 234 614 172 521 216 372 Bò 52 có các tổ tiên chung như sau: 2.107: II - III: gần (dì cháu) 1638: III - IV: vừa 372: III - IV: vừa (cô cháu) 422: III - IV: vừa Trong đó, tổ tiên 2.107 có mức đồng huyết cao nhất. Vậy bò 52 có mức độ giao phối đồng huyết II.III (gần)
  40. - Hệ số giảm bớt tổ tiên: hệ số giảm bớt tổ tiên (In) là tỷ số giữa số tổ tiên lặp lại trên tổng số tổ tiên phải có trong lý lịch. Số tổ tiên lặp lại bằng tổng số tổ tiên phải có trừ số tổ tiên thực có trong lý lịch. In = Số tổ tiên phải có - số tổ tiên thực có / Số tổ tiên phải có In thay đổi từ 0 tới 1, nếu lý lịch không có tổ tiên chung thì In = 0, tổ tiên chung xuất hiện nhiều thì In tăng và mức độ đồng huyết sẽ cao. Tuy vậy nó không biểu hiện thể là đồng huyết xa hay gần. Thí dụ: xác định hệ số In của bò 200 theo lý lịch sau: Số tổ tiên phải có: 30 Số tổ tiên thực có: 19 30-19 In = = 0,36 30IIIIII Nếu ghép đôi giữa đực, cái cùng huyết thống thì giao phối đồng huyết sẽ làm cho mức độ đồng dạng tăng lên, do đó có thể củng cố một số đặc tính mong muốn, nhưng đồng thời nó cũng làm giảm mức độ dị dạng có nghĩa là sẽ làm giảm sức sống ở đời con. Mặt khác, do làm tăng mức độ đồng dạng, có thể dẫn tới hiện tượng tập trung các gen lặn (gây chết, quái thai, giảm sức sống). Vì vậy, ghép đôi giao phối đồng huyết thường dẫn tới hiện tượng suy hóa do đồng huyết. Khi ghép đôi giao phối đồng huyết có những đặc tính suy hóa, song cũng có những đặc tính ít chịu ảnh hưởng. Chẳng hạn ở bò: Khả năng sinh sản, lượng sữa suy hóa nhưng hàm lượng mỡ sữa, proteid trong sữa không bị ảnh hưởng đáng kể. Ở lợn: sức sinh sản, sức sống giảm rõ rệt nhưng mức chi phí thức ăn, phẩm chất thịt ít chịu ảnh hưởng. Mặt khác, các loài gia súc khác nhau mức độ chịu ảnh hưởng của giao phối đồng huyết cũng khác nhau. Ở lợn ảnh hưởng mạnh hơn ở bò, ở bò rõ hơn ở cừu Do đó, nói chung cần tránh giao phối đồng huyết nhất là đồng huyết gần và rất gần, chỉ sử dụng giao phối đồng huyết ở các cơ sở tạo giống, có chế độ theo dõi, quản lý chặt chẽ. 2.5.2.2.3. Chọn đôi giao phối theo tuổi Tuổi sử dụng của các gia súc giống tốt nhất là tuổi trưởng thành, nếu sử dụng cả gia súc non hoặc đã già thì cần tránh trường hợp ghép đôi non với non, già với già. 2.6. Nhân giống và phối giống vật nuôi 2.6.1. Các phương pháp nhân giống Sau khi đã chọn lọc được những cá thể đực cái có đặc tính tốt và chọn phối để chúng có khả năng phối hợp các đặc tính đó, bổ sung cho nhau những ưu điểm, hạn chế nhược điểm thì nhân giống là biện pháp phổ biến phẩm chất mong muốn trên một phạm vi rộng rãi hơn.
  41. Nhờ nhân giống chúng ta có nhiều cá thể mới, do đó có thể xúc tiến việc tiếp tục chọn lọc và chọn phối. Như vậy, chọn lọc, chọn phối nhằm cải tiến tính di truyền, nhân giống nhằm phổ biến tính di truyền đã được cải biến đó và tạo tiền đề cho chọn lọc, chọn phối. Giữa 3 khâu đó có quan hệ mật thiết với nhau. Các phương pháp nhân giống bao gồm: 2.6.1.1. Nhân giống thuần chủng Nhân giống thuần chủng là phương pháp chỉ cho giao phối giữa đực và cái cùng giống. Thí dụ: cho lợn đực Móng Cái giao phối với lợn cái Móng Cái, cho bò đực Thanh Hóa giao phối với bò cái Thanh Hóa. - Yêu cầu của nhân giống thuần chủng là: sau khi nhân xong phải chọn lọc, chọn phối và tiếp tục nhân nhằm giữ được, nâng cao và hoàn chỉnh phẩm chất của giống. Những biện pháp cần thiết trong nhân giống thuần chủng bao gồm: - Phải nhân giống rộng rãi để có một số lượng lớn, địa bàn phân bố tương đối rộng nhằm tạo điều kiện cho việc chọn lọc, chọn phối có kết quả. - Phải thường xuyên bình tuyển, định cấp xác định huyết thống nhằm đánh giá đúng phẩm chất đàn gia súc. - Chú ý chọn lọc, bồi dưỡng định hướng gia súc non, đàn hậu bị nhằm nâng cao phẩm chất đàn. - Chú trọng chọn lọc đàn hạt nhân để cố định các đặc tính tốt và nhân rộng đặc tính đó ra toàn đàn. Ðể nâng cao hơn nữa chất lượng của việc nhân giống thuần chủng, người ta tiến hành phương pháp nhân giống thuần chủng tạo dòng. Nhân giống theo dòng có nghĩa là nhân giống giữa gia súc trong một giống nhưng cùng huyết thống, cùng hình dáng, phẩm chất. Như vậy, so với số lượng của giống, số lượng của dòng ít hơn, một giống có nhiều dòng (thường từ 5 dòng trở lên) mỗi dòng đều có những đặc tính chung nhưng cũng có những đặc tính riêng và sức sản xuất của dòng thường phải cao hơn trị số trung bình của giống. Muốn nhân giống theo dòng trước hết phải chọn lọc được con đực đầu dòng, đó là con đực ưu tú nhất trong đàn có đặc điểm nổi bật so với các đặc điểm của giống. Chọn phối đực đầu dòng với những con cái thích hợp để củng cố ưu điểm nổi bật nói chung. Trong trường hợp này cần phải sử dụng giao phối đồng chất và đồng huyết ở mức độ vừa, từ đó hình thành nên dòng. Mỗi dòng mang những tên và ký hiệu của đực đầu dòng, thí dụ: dòng gà Plymouth 799; Leghorn X,Y. Khi đã có các dòng, người ta có thể cho giao phối liên dòng để tạo dòng mới hoặc lai giữa các dòng để lợi dụng ưu thế lai. 2.6.1.2. Lai tạo Là phương pháp nhân giống cho giao phối giữa các đực và cái khác giống hoặc khác loài, trong đó lai khác loài còn được gọi là lai xa. Lai tạo là biện pháp tích cực lay động tính di truyền vốn có của các cá thể, dòng, giống nhằm tạo nên những tổ hợp di truyền mới, phong phú hơn thông qua tác động ngoại cảnh, con người thu được các phẩm giống mới, giống gia súc mới có phẩm giống
  42. cao hơn. Thông qua lai tạo con người đã sử dụng một hiện tượng sinh vật học khá quan trọng đó là ưu thế lai. Các hình thức lai tạo bao gồm: 2.6.1.2.1. Lai kinh tế (lai công nghiệp) Là phương pháp lai giữa đực và cái khác giống hoặc khác loài, con lai F1 tạo nên không dùng để làm giống mà chỉ để tạo nên sản phẩm với năng suất cao. (lấy thịt, lấy trứng, sữa ). Thí dụ: lai lợn Landrace với lợn lang hồng, con lai F1 nuôi lấy thịt. Lai bò Hà Lan với bò Sind, con lai F1 nuôi lấy sữa Sơ đồ lai kinh tế A x B Sơ đồ 2.2. Lai kinh tế đơn giản F1 50% A, 50% B Do hiệu quả của phương pháp lai và con lai có đặc tính tốt mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, biểu hiện: sức sống cao, trọng lượng sơ sinh cao, tăng trọng nhanh và năng suất sản phẩm cao (thịt, sữa, trứng ) có những trường hợp vượt cả bố mẹ. Ở nước ta, lai kinh tế đang được ứng dụng rộng rãi trong các ngành chăn nuôi, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi. Các công thức lai có hiệu quả là: Becxia x Ỉ, Ðại mạch x Móng Cái, Landrace x Móng Cái (trong chăn nuôi lợn); Holstein x Lai Sind, nâu Thụy Sĩ x bò Lai Sind (trong chăn nuôi bò); gà Leghorn x gà Ri, gà Rhode x Ri, Plymouth x Ri (trong chăn nuôi gà). Sức sản xuất của con lai F1 thường thể hiện trung gian giữa bố (cao sản) và mẹ (giống địa phương) chẳng hạn: Lợn lai F1: P sơ sinh: 0,6-0,7 kg so với bố 1,1-1,2 và mẹ 0,4-0,5kg. Bò sữa F1: sản lượng sữa 1500-2500 kg so với giống bố 4000kg và mẹ 900 kg. 2.6.1.2.2. Lai luân chuyển Lai luân chuyển là bước phát triển của lai kinh tế. Trong đó sau mỗi đời lai, người ta lại thay đổi đực giống thuộc các giống khác nhau cho giao phối với nái lai. Khác với lai kinh tế, lai luân chuyển sử dụng tiếp được các đời lai sau mà ưu thế lai không bị giảm sút. Mặt khác, lai luân chuyển có thể sử dụng được nhiều giống và có thể tạo được giống mới. B A A B X X X A X C X B X A
  43. S ơ đồ 2.3. Lai luân chuyển 2 giống Sơ đồ 2.4. Lai luân chuyển 3 giống Âæåüc caíi tiãún Caíi tiãún 1/ 2 1/4 1/8 Khi tính trạng các conSơ laiđồ đạ2.5.t yêu Lai c cầảui thìtiế ndừ ng lại, trong thực tế thường chỉ dừng ở đời thứ năm vì ưu thế lai đã giảm thấp. 2.6.1.2.3. Lai cải tiến (pha máu) Lai cải tiến được sử dụng khi một giống cơ bản đã tốt, nhưng còn một vài hạn chế cần hoàn thiện hoặc nâng cao. Lai cải tiến để hoàn chỉnh đặc tính của giống một cách nhanh chóng hơn là con đường thuần chủng. 2.6.1.2.4. Lai cải tạo (cấp tiến) Là phương pháp dùng một giống cao sản lai để cải tạo một giống chưa đáp ứng được nhu cầu mong muốn. Så âäö lai 1/ 2 3/4 1/8
  44. Sơ đồ 2. 6. Lai cải tạo Khi áp dụng phương pháp này, người ta dùng con đực giống cao sản (đi cải tạo) giao phối với các thế hệ lai làm tăng tỷ lệ máu giống cải tạo, giảm tỷ lệ máu giống địa phương. Khi đạt được đặc tính mong muốn thì dừng lại để tự giao. 2.6.1.2.5. Lai gây thành (phối hợp) Là phương pháp phối hợp nhiều giống lai để có được một giống mới có nhiều tính trạng tốt. Có thể sử dụng các giống địa phương phối hợp với nhau hoặc phối hợp với các giống cao sản, nhưng phải xác định được giống nào là giống chủ yếu (giống nền) trong quá trình pha máu. 2.6.1.2.6. Lai khác loài (lai xa) Là phương pháp lai tạo giữa cá thể khác loài, nhưng có một số điểm chung, như cùng là thuỷ cầm (như ngan và vịt); cùng ăn cỏ và có dạ dày đơn (như lừa và ngựa) Thí dụ: ngựa lai với lừa, bò nhà lai với bò Tây Tạng, vịt lai với ngan Khi lai xa, nói chung ưu thế lai biểu hiện rất rõ nhưng thường dẫn tới hiện tượng bất thụ: con lai không có khả năng sinh sản. Tuy vậy, cũng có hiện tượng con lai sinh sản được hoặc chỉ có con đực hay con cái bất thụ và thường là con đực bất thụ. Nguyên nhân của hiện tượng bất thụ này là sự khác biệt về số lượng nhiễm sắc thể hoặc sự khác biệt quá xa về đặc tính di truyền của nhiễm sắc thể. Trong chăn nuôi, lai xa được ứng dụng để tạo các giống gia súc mới, bò thịt Santa gertrudis từ bò thịt Soocgoc và bò Ucraina, cừu lông mịn từ cừu nhà và cừu núi. Gà đuôi dài từ gà rừng và gà Ðông Thiên. 2.6.2. Các phương pháp phối giống Có hai phương pháp phối giống: phối trực tiếp và thụ tinh nhân tạo. 2.6.2.1. Phối trực tiếp Là phương pháp cho con đực trực tiếp giao phối với con cái, gồm các hình thức: - Phối đơn: khi con cái động dục, cho một đực giao phối một lần, phương pháp này được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất vì đơn giản, rẻ tiền, dễ áp dụng, nhưng đòi hỏi phải theo dõi chặt chẽ thì tỷ lệ thụ thai mới cao. - Phối lặp: khi con cái động dục, cho một đực giao phối hai lần cách nhau từ 12 - 18 giờ. Phương pháp giao phối này có tỷ lệ thai cao, số con nhiều, sức sống cao, nhưng ảnh hưởng tới sức khỏe và tuổi thọ của đực giống.
  45. - Phối kép: khi con cái động dục cho hai đực giao phối hai lần cách nhau vài phút. Phương pháp giao phối này tăng được số con đẻ trong một lứa và sức sống đời con nhưng tốn kém nhiều đực giống. - Phối nhiều lần: khi con cái động dục, cho nhiều đực, mỗi đực giao phối nhiều lần, có tác dụng kích thích sự rụng trứng, khắc phục tình trạng khó chửa, đẻ của gia súc cái. Phương pháp giao phối này thường áp dụng chữa bệnh khó chửa đẻ của gia súc cái. 2.6.2.2. Thụ tinh nhân tạo Là phương pháp lấy tinh dịch của con đực đem truyền cho con cái mà không có sự tiếp xúc giữa con đực và con cái. Thụ tinh nhân tạo là phương pháp tiên tiến vì có những ưu điểm sau đây: - Tiết kiệm được đực giống, vì cùng một lượng tinh dịch của cùng một lần phóng tinh, có thể đem phối cho nhiều con cái, trong khi giao phối trực tiếp chỉ phối được cho một con cái. Thí dụ: một lần phóng tinh lợn phối được 12 con cái, bò phối được 100 - 200 con cái, ngựa 8 - 12 con cái. - Mở rộng được địa bàn ảnh hưởng của con đực, do đó phát huy được đặc tính tốt của con đực ưu tú. - Khắc phục được những trường hợp không tiến hành giao phối trực tiếp giữa con đực và con cái, chẳng hạn sự chênh lệch nhau quá lớn về tầm vóc và khối lượng. - Ngăn ngừa được một số bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là một số bệnh lây qua đường sinh dục do có sự tiếp xúc giữa con đực và con cái. - Có thể làm tăng tỷ lệ thụ thai, do các chất dinh dưỡng pha thêm vào tinh dịch làm tăng thêm hoạt tính của tinh trùng. - Gián tiếp kéo dài thời gian sử dụng con đực là biện pháp tích cực đáp ứng yêu cầu của phương pháp kiểm tra đực giống qua đời con. Ưu điểm này do thời gian bảo quản tinh dịch được kéo dài có thể 1 - 15 năm. - Là cơ sở cho các phương pháp tác động đến bản chất di truyền của tế bào sinh dục đực, áp dụng trong lai xa, điều khiển giới tính. Ðể tiến hành thụ tinh nhân tạo cần thực hiện các bước sau: 2.6.2.2.1. Lấy tinh Huấn luyện gia súc đực nhảy giá, phóng tinh vào âm đạo giả. 2.6.2.2.2. Kiểm tra phẩm chất tinh dịch Mục đích kiểm tra là để đánh giá chất lượng tinh dịch thông qua đó nhận định khả năng sản xuất, sức khỏe, chế độ nuôi dưỡng và sử dụng đực giống đồng thời quyết định tỷ lệ pha loãng, liều lượng tinh dịch sử dụng/ lần phối giống. Các chỉ tiêu chính kiểm tra phẩm chất tinh dịch bao gồm.
  46. - Thể tích tinh dịch (V): lượng tinh của một lần lấy tinh Lợn: 150 - 400ml; bò: 1,5 - 15ml; ngựa: 50 - 200ml; cừu: 0,5 - 2,5ml - Hoạt lực (A) là tỷ lệ (%) tinh trùng thẳng tiến trong tổng số tinh trùng. Hoạt lực thường chia 10 bậc. 1 0,9 0,8 0,7 0,6 0,5 0,4 0,3 0,2 0,1 100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% Quy định với lợn hoạt lực đạt trên 0,6 mới pha chế, bảo quản. - Nồng độ (C): nồng độ tinh trùng có trong 1ml tinh dịch. Bò: 600 - 2500 triệu / ml; Lợn: 100-150 triệu/ml VAC là chỉ tiêu quan trọng nhất. - Ngoài ra người ta còn kiểm tra các chỉ tiêu: màu sắc, độ ẩm, pH, độ hạ băng điểm, sức kháng 2.6.2.2.3. Pha loãng tinh dịch Dùng các môi trường đặc biệt pha loãng tinh dịch làm tăng thể tích tinh dịch, đồng thời có tác dụng dinh dưỡng cũng như bảo tồn sự hoạt động, khả năng thụ thai cho tinh trùng. Một vài loại môi trường tinh dịch thường được ứng dụng trong sản xuất hiện nay: Bảng 2.4. Một số môi trường pha loãng tinh dịch Môi trường Trilon B Lượng Môi trường sữa Lượng Nước cất 1000ml Sữa bò tươi 70 - 75ml Glucoza 60g Glucoza 0,6 - 0,8g Thành Trilon B 1,85g Tartrat 0,09 - 0,12g phần Citrat Natri 1,78g Sulfamit 0,1g Bicarbonat Natri 0,60g Lòng đỏ trứng gà 10ml Tetracyclin 0,05g Nước cất 15 - 20ml Lòng đỏ trứng gà 30 - 50ml Tùy hoạt lực của tinh trùng, nồng độ tinh trùng (tỷ/ml), thể tích một liều dẫn tinh (ml) mà quy định bội số pha loãng (tỷ lệ giữa tinh trùng và môi trường) có thay đổi. Cần tính toán để trong một liều dẫn tinh đảm bảo có 0,5 - 1,0 tỷ tinh trùng tiến thẳng (dùng cho lợn cái nội); 1,0 - 1,5 tỷ tinh trùng tiến thẳng (dùng cho lợn lai) hoặc 1,5 - 2,0 tỷ tinh trùng tiến thẳng cho lợn nái ngoại. 2.6.2.2.4. Bảo tồn tinh dịch Giữ tinh dịch trong môi trường nhiệt độ thấp ức chế sự hoạt động của tinh trùng để bảo tồn tinh dịch. Thông thường bảo tồn tinh dịch trong phích nước đá hoặc dùng môi trường nitơ lỏng (- 1960C). 2.6.2.2.5. Vận chuyển tới nơi sử dụng
  47. Khi vận chuyển cần tránh va chạm, rung động ảnh hưởng tới hoạt lực của tinh trùng, giảm thấp tỷ lệ thụ thai. 2.6.2.2.6. Dẫn tinh Ðưa ống cao su, thủy tinh, nhựa vào đường sinh dục gia súc cái nhẹ nhàng bơm tinh dịch vào. Lượng tinh dịch sử dụng trong một lần dẫn tinh như sau: Bò: 0,5-2ml/lần. Sử dụng tinh đông viên, tinh cọng rạ (Straw) bằng dụng cụ chuyên dùng và với quy trình riêng Lợn: 20; 30; 60; 100ml/lần (tuỳ theo bội số pha loãng và đối tượng phối giống). Hiện nay, mạng lưới thụ tinh nhân tạo đang phát triển mạnh mẽ ở nước ta với các trại lợn đực giống, Trung tâm tinh đông lạnh Moncađa, mạng lưới đến dẫn tinh viên đông đảo có tay nghề cao. Trong chăn nuôi lợn và bò, thụ tinh nhân tạo là biện pháp tích cực, nhanh chóng để mở rộng địa bàn lai tạo, giảm bớt số gia súc đực phải nuôi. Trong công nghệ sinh học hiện đại, người ta đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trong việc nhân giống, phối giống để nhân nhanh một giống gia súc tốt nào đó, như là bò sữa cao sản, dê sữa, bò thịt cao sản thông qua các công nghệ như: gây rụng trứng nhiều và đồng loạt/ lần động dục, thụ tinh trong ống nghiệm, cấy truyền phôi, sản xuất tế bào gốc, nhân bản (cloning) Các kỹ thuật này không tách rời khỏi kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và các kỹ thuật di truyền. 2.7. Các giống gia súc , gia cầm phổ biến hiện nay 2.7.1. Một số giống lợn nuôi phổ biến ở nước ta 2.7.1.1.Các giống lợn nội a) Lợn Móng Cái Là giống lợn hướng mỡ, có từ lâu đời ở nước ta. Hiện nay được coi là giống lợn nội tốt nhất, đầu tiên được nuôi phổ biến ở vùng Đông Bắc của nước ta (huyện Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh), hiện nay được nhân rộng và nuôi phổ biến ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, Bắc và Trung trung bộ nhờ chương trình Móng Cái hóa những năm 1980. - Nguồn gốc: lợn Móng Cái có nguồn gốc từ giống lợn lang Quảng Ðông, Trung Quốc, được nguời Hoa kiều mang sang nước ta nuôi từ lâu dần dần phát triển thành giống lợn Móng Cái ngày nay. Lợn Móng Cái có 3 loại hình: Móng Cái xương to, xương nhỡ, xương nhỏ. Giống nuôi phổ biến hiện nay là trong sản xuất thuộc dạng Móng Cái xương to và xương nhỡ. - Ðặc điểm về ngoại hình: đầu đen có đốm trắng ở giữa trán (hình thoi hoặc hình tam giác), mõm trắng, giữa vai và cổ có một vành trắng vắt ngang vai, kéo dài đến bụng và 4 chân. Lưng và mông có màu đen hình yên ngựa. Dáng thấp, lưng yếu hơi võng, bụng xệ, má bệu, ở cổ có nhiều ngấn.
  48. - Ðặc điểm về sinh trưởng và phát dục (STPD): khả năng STPD cao hơn các giống lợn nội khác. Có 13 đôi xương sườn, khối lượng sơ sinh trung bình 0.5 - 0.6 kg/con, khối lượng 60 ngày tuổi 6.5 - 6.8 kg/con. Lợn trưởng thành con cái đạt 95 - 100 kg, nuôi thịt 10 tháng tuổi đạt 60 - 70 kg, tỷ lệ nạc trong thân thịt thấp 34 - 35%, tỷ lệ mỡ cao 41 - 42%. Tiêu tốn thức ăn/1 kg tăng trọng 5 - 6 kg thức ăn hỗn hợp. - Khả năng sinh sản: lợn có khả năng sinh sản cao, có 12 - 14 vú, đẻ 10 - 16 con/lứa, trung bình 11,6 con. - Hướng sử dụng: làm nái nền để lai tạo với lợn ngoại (Ðại bạch, Landrace ) tạo con lai nuôi thịt chủ yếu hiện nay ở miền Bắc, ven biển miền Trung và Tây Nguyên. Dùng nái lai F1 (ÐB x MC); LR x MC) để làm nền tạo con lai 3/4 máu ngoại nuôi thịt để nâng cao năng suất và tỷ lệ nạc trong thịt xẻ lên 48 - 49%. Hình 2.1. Lợn nái Móng Cái b) Lợn Ỉ Là giống lợn hướng mỡ, được nuôi phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ của nước ta - Nguồn gốc: hiện nay chưa có một tài liệu nào xác định một cách đầy đủ và khoa học về nguồn gốc của lợn Ỉ. Song dựa trên quá trình phát triển, sự phân bố và sự thuần nhất ta có thể nói rằng ngồn gốc của lợn Ỉ xuất phát từ 3 huyện phía bắc của tỉnh Nam Định. - Ðặc điểm ngoại hình: lợn Ỉ có 2 ngoại hình là Ỉ mỡ và Ỉ pha, chúng có chung đặc điểm ngoại hình: toàn thân màu đen, tầm vóc nhỏ, chân ngắn, mõm ngắn, thể chất không vững chắc, lưng võng, bụng xệ, 4 chân yếu. Lợn Ỉ mỡ Ỉ mặt nhăn có đặc điểm mặt nhăn, mõm ngắn. Lợn Ỉ pha: mõm thẳng, mặt không nhăn, bụng gọn hơn do pha tạp với lợn Móng Cái, lợn Berkshire.
  49. - Ðặc điểm sinh trưởng phát dục: lợn Ỉ có 13 đôi xương sườn, khối lượng sơ sinh trung bình 0.4 - 0.5 kg/con, khối lượng 60 ngày tuổi 4 - 6 kg/con. Trọng lượng trưởng thành đạt 70 - 75 kg, nuôi thịt 10 tháng tuổi đạt 50 - 60 kg, tỷ lệ nạc trong thân thịt thấp 34%, tỷ lệ mỡ cao 45%. Tiêu tốn thức ăn/1 kg tăng trọng 5 - 7 kg thức ăn hỗn hợp. - Khả năng sinh sản: lợn Ỉ có khả năng sinh sản cao, có trên 12 vú, đẻ 10-12 con/lứa. - Hướng sử dụng: làm nái nền để lai tạo với lợn ngoại (Ðại Bạch, Landrace ) tạo con lai nuôi thịt ở miền Bắc, ven biển miền Trung và Tây Nguyên. Hiện nay số lượng lợn Ỉ không nhiều và càng ngày càng giảm. c) Lợn Ba Xuyên Lợn hướng kiêm dụng mỡ-nạc, được hình thành ở vùng Vị Xuyên, tỉnh Sóc Trăng và được nuôi nhiều ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. - Nguồn gốc: theo Lê Thanh Hải (1985), lợn Ba Xuyên được hình thành từ các giống lợn địa phương lai tạo với lợn Hải Nam, Craonnai và lợn Berkshire. - Ðặc điểm ngoại hình: lông da có đốm màu đen trắng nên còn gọi là lợn bông, mặt thẳng tai to hướng về phía trước, lưng thẳng, bụng gọn, 4 chân chắc chắn. - Ðặc điểm về STPD: lợn sinh trưởng phát dục tương đối nhanh, trung bình giữa lợn Berkshire và lợn nội. Khối lượng sơ sinh trung bình 0.55 - 0.6 kg/con, khối lượng 45 ngày tuổi 7 - 9 kg/con. Nuôi thịt 10 - 12 tháng tuổi đạt 70 - 80 kg, tỷ lệ nạc trong thân thịt 42,5%. - Khả năng sinh sản: lợn 6 - 8 tháng tuổi bắt đầu động dục, thường cho phối vào lúc 8 tháng tuổi, trọng lượng 60 - 70 kg, đẻ 8 - 9 con/lứa, mỗi năm có thể đẻ được 2 lứa. - Hướng sử dụng: lợn thích nghi với các vùng nước phèn, nước lợ ở miền Tây Nam Bộ nên sử dụng làm nái nền để lai tạo với lợn ngoại (Ðại bạch, Landrace ) tạo con lai nuôi thịt cho năng suất và tỷ lệ nạc khá cao. d) Lợn Thuộc Nhiêu Lợn hướng kiêm dụng, được hình thành ở vùng Thuộc Nhiêu, tỉnh Tiền Giang và nuôi nhiều ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. - Nguồn gốc: theo Lê Thanh Hải (1985), lợn Thuộc Nhiêu được hình thành từ các giống lợn địa phương lai tạo với lợn Hải Nam, Craonnai và lợn Yorkshire. Ðược hội đồng Khoa học nhà nước và Bộ Nông nghiệp công nhận là một giống vào năm 1990.
  50. - Ðặc điểm ngoại hình: màu sắc lông da trắng có xen bớt đen nhỏ trên da, đầu to vừa phải, mõm hơi cong, tai nhỏ ngắn hơi nhô về phía trước, mặt thẳng, lưng thẳng, bụng gọn, 4 chân chắc chắn. - Ðặc điểm về sinh trưởng phát dục: lợn sinh trưởng phát dục tương đối nhanh, trung bình giữa lợn Yorkshire và lợn nội. Khối lượng sơ sinh trung bình 0.51 - 0.58 kg/con, khối lượng 50 ngày tuổi 6.7 - 7 kg/con. Nuôi thịt 10 tháng tuổi đạt 95 - 100 kg, trọng lượng trưởng thành 120 - 160 kg. Tỷ lệ nạc trong thân thịt 47 - 48%. - Khả năng sinh sản: lợn đẻ 10 - 12 con/lứa, mỗi năm có thể đẻ được 2 lứa. - Hướng sử dụng: lợn thích nghi với các vùng nước ngọt đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Ðông Nam Bộ. (Sử dụng nhân thuần, làm nái nền để lai kinh tế với các giống lợn ngoại (Ðại Bạch, Landrace ) cho năng suất cao. 2.7.1.2.Các giống lợn ngoại nhập nội được nuôi phổ biến ở nước ta a) Lợn Yorkshire. Ðược phân bố ở nhiều nước trên thế giới. - Nguồn gốc: Từ vùng Yorkshire của nước Anh. Ðược hình thành vào thế kỷ thứ 19 do sự lai tạo giữa các giống lợn địa phương với lợn châu Á (Trung Quốc). Ðến năm 1951 tạo thành giống lợn này. Lợn Yorkshire có 3 loại tầm vóc: đại bạch, trung bạch và tiểu bạch. Ngày nay chủ yếu còn 2 loại hình đại bạch, trung bạch mà thôi. Giống lợn này được người Pháp nhập vào nước ta lần đầu tiên vào năm 1921 - 1922, các lần tiếp theo vào năm 1964 từ Liên Xô cũ, 1970, 1977 từ Cuba, 1986 từ Nhật, Bỉ. Hình 2.2. Lợn đực Yorkshire