Giáo dục dựa vào bối cảnh: Một cách tiếp cận giáo dục tiên tiến

pdf 7 trang ngocly 2580
Bạn đang xem tài liệu "Giáo dục dựa vào bối cảnh: Một cách tiếp cận giáo dục tiên tiến", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_duc_dua_vao_boi_canh_mot_cach_tiep_can_giao_duc_tien_ti.pdf

Nội dung text: Giáo dục dựa vào bối cảnh: Một cách tiếp cận giáo dục tiên tiến

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 11-17 Giáo dục dựa vào bối cảnh: Một cách tiếp cận giáo dục tiên tiến Ngô Vũ Thu Hằng* Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Nhận ngày 26 tháng 5 năm 2016 Chỉnh sửa ngày 08 tháng 9 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 9 năm 2016 Tóm tắt: Cách tiếp cận giáo dục dựa vào bối cảnh đã và đang được nghiên cứu và đưa vào ứng dụng trong nhà trường ở nhiều nước phát triển. Nó được cho là một cách tiếp cận có thể giúp học sinh học tập một cách có ý nghĩa thông qua sự kết nối giữa bài học với thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu, bài viết về cách tiếp cận giáo dục này. Bài viết này được thực hiện dựa trên sự tổng quan tư liệu với mục đích giới thiệu một cách tiếp cận giáo dục tiên tiến. Bài viết nhằm hướng đến một giải pháp có thể góp phần vào giải quyết những vấn đề mà giáo dục Việt Nam đang đối diện. Bài viết cũng chỉ ra những hướng nghiên cứu có thể phát triển tiếp theo nhằm đẩy mạnh sự vận dụng hiệu quả cách tiếp cận giáo dục này ở Việt Nam, qua đó thúc đẩy sự phát triển của giáo dục trong nước để có thể bắt kịp với sự phát triển của giáo dục thế giới. Từ khóa: Giáo dục dựa vào bối cảnh; dạy học; học sinh; giáo viên. 1. Đặt vấn đề * hội nhập, toàn cầu hóa với nhiều thách thức. Điều này đòi hỏi cần tìm kiếm và đưa những lí Trong những thập kỉ gần đây, sự phát triển thuyết giáo dục tiên tiến vào ứng dụng trong và thay đổi của kinh tế xã hội, sự tiến bộ của thực tế. khoa học công nghệ đã và đang ảnh hưởng đáng Trong khoa học, nhiều lí thuyết GD đã và kể đến nền giáo dục (GD) của tất cả các quốc đang không ngừng tiếp tục được tìm hiểu, gia trên thế giới. Các nhà khoa học giáo dục đã nghiên cứu. Nhiều quan điểm, cách tiếp cận GD nhận thấy những “bài toán” mới cần được GD mới được ra đời và phát triển. Trong phạm vi giải quyết cũng như thấy được cả những hạn bài viết này, tác giả muốn trình bày một trong chế trong các cách tiếp cận GD truyền thống lỗi những cách tiếp cận GD đang là xu hướng thịnh thời cần được khắc phục. Vấn đề đổi mới GD hành ở các nước phát triển nhưng còn rất mới hơn bao giờ hết được nhấn mạnh và kêu gọi ở mẻ ở Việt Nam: giáo dục dựa vào bối cảnh nhiều quốc gia. Điều này xuất phát từ quan (GDDVBC). Cụ thể trong bài viết, tác giả trình điểm cho rằng sự cạnh tranh giữa các quốc gia bày về khái niệm, đặc điểm của GDDVBC, ý thực chất là sự cạnh tranh về GD và sự phát nghĩa và tác dụng của nó đối với GD cũng như triển bền vững của GD được cho rằng chính là quá trình ra đời và phát triển của nó. Trên cơ sở sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Nói đó, tác giả đi đến luận bàn và liên hệ với các cách khác, GD chính là chìa khóa để mở cửa vấn đề hiện nay của GD của Việt Nam. Mục cho sự phát triển của mỗi quốc gia trong thời kì đích của bài viết là nhằm cung cấp những vấn đề lí thuyết có tính hệ thống hóa về GDDVBC ___ và đưa ra gợi ý về giải pháp góp phần giải quyết * ĐT.: 84-912722590 các vấn đề của GD trong nước. Bài viết cũng Email: hangnvt@hnue.edu.vn 11
  2. 12 N.V.T. Hằng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 11-17 mở ra những hướng nghiên cứu mới để các nhà Giáo dục dựa vào bối cảnh là một cách tiếp khoa học giáo dục Việt Nam có thể tiếp tục tìm cận đã và đang được chú trọng thực hiện ở hiểu, qua đó, có những tiếp cận kịp thời với sự nhiều nước phát triển do ý nghĩa to lớn của nó. phát triển của GD trên thế giới. Bài viết mang Nó đã được thực hiện trong nhiều chiến lược đến những đóng góp có giá trị để góp phần giải giáo dục có quy mô lớn và lâu dài ở châu Âu, quyết các vấn đề, thách thức mà GD Việt Nam thu hút sự tham gia và nghiên cứu của nhiều đang đối diện. nhà khoa học, giáo dục hàng đầu của các nước phương Tây như Anh, Đức, Mỹ, Hà Lan thông qua việc sử dụng bối cảnh thực tế có kết 2. Giáo dục dựa vào bối cảnh nối với kiến thức bài học trong sách. Dự án GDDVBC đầu tiên đã được bắt đầu ở Hà Lan 2.1. Định nghĩa “giáo dục dựa vào bối cảnh” vào những năm 1970 với chương trình giáo dục vật lý được gọi là "Dự án Leerpakket GDDVBC được hiểu là việc sử dụng bối Ontwikkeling Natuurkunde” (PLON) dành cho cảnh để thực hiện các hoạt động GD, dạy học HS từ 6-12 tuổi. Mục đích của chương trình này (DH), nhằm giúp đạt được các mục tiêu về kiến là làm cho vật lý hấp dẫn hơn và kết nối nó với thức khoa học, kĩ năng, thái độ đề ra cho học các tình huống cuộc sống hàng ngày, trong đó sinh (HS), qua đó hình thành, phát triển ở HS sẽ làm cho nội dung phù hợp hơn cho HS. Tại những năng lực cần thiết và hoàn thiện nhân Anh, học tập dựa trên bối cảnh thường được cách. Nguồn gốc của “bối cảnh” xuất phát từ nhắc đến với cụm từ “Cách tiếp cận Salters”. ngôn ngữ Latin, thể hiện sự gắn kết Dự án Salters là một chương trình 2 năm đầu (coherence), kết nối (connection) và mối quan tiên được thiết kế vào năm 1983 cho HS tuổi từ hệ (relationship). Trong tiếng Việt Nam, bối 17-18. Tại Mỹ, trong thập niên 80, bắt đầu có cảnh thường được hiểu là cảnh làm nền cho các sự nỗ lực để khuyến khích cải cách GD tạo điều hoạt động, sự kiện diễn ra. Theo John Gilbert, kiện “chuyển giao” HS từ trường học đến với bối cảnh là một thực thể văn hóa trong xã hội thế giới của công việc và thực tế cuộc sống. Khi có tính thời gian, không gian, và liên quan đến cải cách phát triển, xã hội Mỹ bắt đầu hỏi các hoạt động của con người [1]. Với cách hiểu đó, câu hỏi: “Vai trò của GV là gì?”, “Bản chất của bối cảnh giáo dục có thể là một dữ kiện, sự việc dạy và học?”, “Nhiệm vụ của nhà trường kiện, một vấn đề, hay một tình huống nào đó có trong một nền dân chủ?” Để trả lời những ẩn chứa nội dung kiến thức khoa học, có thể câu hỏi và giải quyết các mối quan tâm về GD xây dựng và phát triển thành bài học giúp HS lúc này, GDDVBC đã được tìm hiểu và đi vào hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ cần thiết. ứng dụng. Học tập dựa trên bối cảnh tại Mỹ được coi là một quan niệm về dạy và học giúp 2.2. Sự phát triển của giáo dục dựa vào bối cảnh GV liên hệ nội dung môn học với các tình GDDVC cung cấp một phương thức DH huống thực tế, thúc đẩy HS thực hiện kết nối thay thế cho cách DH truyền thống vốn chú giữa kiến thức và ứng dụng của nó vào trong trọng hoạt động truyền thụ. Khái niệm này được cuộc sống của chúng. Gần đây hơn, các khóa cho là xuất phát từ Canada vào những năm học dựa trên bối cảnh đã được phát triển ở Đức 1960. Gốc rễ của quan điểm giáo dục dựa vào với các ngành khoa học khác nhau. Các khóa bối cảnh được tìm thấy trong các tài liệu về GD học đã được khởi xướng bởi vì đã có những lời chỉ trích về hệ thống giáo dục trung học Đức và kiến tạo xã hội với những nhà tiên phong là cũng nhằm mục đích nâng cao sự quan tâm và John Dewey - nhà chủ nghĩa thực dụng Mỹ, và thái độ của HS đối với môn học. Mục đích quan Lev Vygotsky - nhà tâm lý giáo dục học Nga. trọng nhất của các khóa học này là để tạo ra Lí thuyết kiến tạo xã hội đặt vai trò của chủ thể việc vận dụng, liên hệ kiến thức học trong nhà nhận thức lên vị trí hàng đầu của quá trình nhận trường vào trong thực tế cuộc sống. HS được thức và coi trọng môi trường, bối cảnh mà hoạt khuyến khích áp dụng kiến thức bên ngoài lớp động nhận thức diễn ra [2].
  3. N.V.T. Hằng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 11-17 13 học trong các tình huống khác nhau thay vì tái học một cái gì đó hàn lâm, xa vời, khó có thể hiện sự kiện, kiến thức hàn lâm [3]. liên hệ vận dụng vào những vấn đề gặp phải hàng ngày. Điều này khiến HS thấy chán học và 2.3. Vai trò, ý nghĩa của giáo dục dựa vào bối cảnh học không tập trung. ● Kiến thức có trọng tâm không hợp lí. Các GDDVBC chú trọng sự kết nối việc học với bài học hiện nay thường coi trọng những phần thế giới thực. HS thực hiện sự kết nối ấy bằng kiến thức “cứng” (buộc HS phải ghi nhớ), những vai trò khác nhau, ví dụ như là công dân, những câu trả lời - lời giải thích đúng, và các thành viên gia đình , chứ không phải đơn giản bước thực hiện theo đúng quy định. Điều này chỉ là người học, do đó trọng tâm của việc học căn bản không hợp lí cho hoạt động học vì về tập sẽ khác. GDDVBC được nhiều nhà khoa bản chất hoạt động học là nhằm mục đích phát học giáo dục cho rằng có thể giải quyết các vấn triển tư duy hơn là rèn luyện trí nhớ máy móc đề của GD hiện nay. Theo Gilbert, đó là các vấn cho HS. Nó cũng làm cho HS về sau ngần ngại đề [4]: theo đuổi nghề nghiệp gắn với những môn học ● Kiến thức quá tải. Hậu quả của việc tích mà có thể các em có khả năng. Lí do là bởi các lũy và tích tụ nhiều kiến thức trong giáo dục đã em chưa thấy được sự thú vị, hấp dẫn, và ý dẫn đến việc chương trình trở nên quá tải nội nghĩa mà bài học mang lại cho mình. dung. Điều đó thể hiện ở việc nhiều chương Các nhà khoa học giáo dục cho rằng trình dạy học thường chỉ là sự tập hợp nhiều GDDVBC giúp HS hiểu được vì sao cần phải kiến thức riêng rẽ, tách rời khỏi nguồn gốc khoa học chứ không chỉ là việc biết được học cái gì học ban đầu của nó và trở nên trừu tượng với và học như thế nào, do đó, các em tham gia học người học. tập một cách tích cực, chủ động và có chiều sâu ● Kiến thức riêng rẽ, tách rời. Những hơn [4]. Thông qua các bối cảnh giáo dục, vốn chương trình tập trung vào nội dung kiến thức là những quá trình mang tính tình huống giàu thường không giúp học sinh biết được mối quan thực tiễn, HS được tham gia gia vào các hoạt hệ bên trong và bên ngoài của các khái niệm, động học tập một cách có ý nghĩa. Nhiều nhà kiến thức. Trong khi đó, nhiều nghiên cứu cho khoa học đã khẳng định việc quyết định học nội rằng việc đạt được một khối lượng lớn kiến thức dung gì giờ không quan trọng bằng việc chọn riêng rẽ khó có thể giúp hình thành tư duy lý tính bối cảnh gì để dạy cho HS. cao cấp ở HS. HS không thể tự đi đến được ý nghĩa của bài học. Điều này hạn chế sự tham gia 2.4. Đặc điểm và quy trình chung của bài học tích cực của HS trong giờ học và làm cho các em theo cách tiếp cận giáo dục dựa vào bối cảnh quên bài nhanh chóng sau khi học xong. ● Kiến thức thiếu sự liên hệ, vận dụng. Với Một bài học theo cách tiếp cận GDDVBC những chương trình tập trung vào nội dung kiến thường có cấu trúc hoạt động học chặt chẽ: lấy thức, HS chỉ có thể giải quyết được những vấn hoạt động học của HS làm trung tâm, có sự đề được giao theo những cách y như những gì lồng ghép việc cung cấp kiến thức với quy trình các em đã được dạy. Các em thất bại đáng kể học và quy luật tư duy. Một bài học như thế trong việc giải quyết những vấn đề đòi hỏi sử nuôi dưỡng, cổ vũ những mối tương tác trong dụng kiến thức đã được học một cách linh hoạt, học tập, đề cao, ủng hộ cho việc giải quyết vấn uyển chuyển. Hầu như HS khó có thể liên hệ, đề một cách sáng tạo, khuyến khích đa chiều ý vận dụng các kiến thức đã học cho cuộc sống kiến. HS được tham gia vào không khí học tập lâu dài sau này của mình. dân chủ, tích cực và được phát triển và nâng ● Kiến thức thiếu sự gần gũi, liên quan. cao các năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề, Nhiều HS không thích học đơn giản chỉ bởi các hợp tác nhóm, thực hành, vận dụng. em thấy bài học không gần gũi với cuộc sống Một bài học theo cách tiếp cận GDDVBC hàng ngày của mình. Các em có cảm giác đang thường được bắt đầu với một tình huống hay
  4. 14 N.V.T. Hằng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 11-17 vấn đề cụ thể - có ý nghĩa như một cái nền để GV mang tính kiến tạo: vừa là khơi gợi lại kiến phát triển và diễn ra các hoạt động học của HS. thức đã học, vừa là gợi mở để HS phát triển và Nó thúc đẩy nhu cầu học tập ở HS và dẫn các đi đến vấn đề. Dưới đây là một số nguyên tắc em đến với các hoạt động tìm kiếm, khám phá, về việc đặt câu hỏi mà GV có thể áp dụng khi chia sẻ thông tin với GV và bạn học, chủ động dạy học theo cách tiếp cận dựa GDDVBC. trong việc phát hiện và nghiên cứu các ý tưởng, - Hướng dẫn, hỗ trợ HS thực hiện các thông tin, lý thuyết để giải quyết nhiệm vụ bài nhiệm vụ học tập học đặt ra. HS thực hiện các hoạt động học theo - Đặt câu hỏi để dẫn dắt hoạt động học nhóm nhỏ ở đó các em có thể giữ những vai trò - Đưa ra những thử thách cho HS khác nhau, ví dụ: lãnh đạo, người đọc, thư kí, - Tham gia như một thành phần trong các người theo dõi thời gian. Quá trình đó cũng hoạt động học của HS: cùng HS tìm cách giải thúc đẩy HS tiến hành việc đánh giá các hoạt quyết những vấn đề nảy sinh và chia sẻ với HS động học, đặc biệt là cách học, tiến trình học, những hiểu biết liên quan hoặc không liên quan thái độ cùng với những kiến thức HS thu được. đến vấn đề học Như vậy, HS đánh giá và được đánh giá một - Đánh giá hoạt động học của HS cách toàn diện, mọi mặt liên quan đến hoạt động học. Quy trình của một giờ học theo cách 2.5. Một số ví dụ về bối cảnh giáo dục được sử tiếp cận GDDVBC có thể được mô hình hóa dụng trong DH như dưới đây. ● Cây cầu Bailey (Mỹ) (giáo dục toán học): f HS được tìm hiểu về cây cầu Bailey (một cây Viễn cảnh/ Kịch bản cầu có thật, gần gũi với HS) cùng với yêu cầu tìm hiểu các mối quan hệ về độ dài các cạnh của cầu, số tam giác được sử dụng để tạo ra các cạnh của nó. Qua bài học này, HS được học về Vấn đề cần phát triển những kiến thức đại số, về đồ thị, bảng số liệu [5]. ● Giao thông và sự an toàn (giáo dục vật Nhu cầu học tập lí): Bài học nhằm giúp HS nhận ra được mối quan hệ giữa lực và sự vận động thông qua bối cảnh gắn liền với các biện pháp an toàn giao thông như dây an toàn, mũ bảo hiểm và giới Hành động học hạn tốc độ. Bài học còn nhằm giúp HS nhận thức được và thúc đẩy những hành vi giao thông có trách nhiệm thông qua sự hiểu biết Đánh giá liên quan đến vật lý. Với bối cảnh này, HS được yêu cầu suy luận và tính toán hiệu quả của các biện pháp an toàn dựa trên sơ đồ biểu thị chỉ số thương vong giao thông trong những năm qua. Trong cách tiếp cận dạy học dựa trên bối HS được dẫn dắt để có thể tự đưa ra câu hỏi tại cảnh, vai trò của GV được nâng lên một tầm sao cần biết đến những kiến thức vật lí ở đây. mới. GV không chỉ là người có thể tạo ra được HS tiến hành tìm hiểu hoạt động đo lường về sự các bối cảnh học tập thú vị, phù hợp với HS của an toàn liên quan đến các lực mà cơ thể con mình mà còn là người hướng dẫn, giám sát hoạt người có thể tạo ra và cường độ các lực tác động học, biết cách đặt ra các câu hỏi một cách động lên cơ thể con người trong suốt quá trình khéo léo để giúp HS có thể kết nối tới vấn đề va chạm [6]. học được lồng trong bối cảnh, qua đó đi đến tri ● Chế tạo thực phẩm an toàn không chứa thức, quy trình cần đạt được. Các câu hỏi của gluten (giáo dục sinh-hóa): HS được tìm hiểu
  5. N.V.T. Hằng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 11-17 15 về những vấn đề mà gluten - một loại protein có phát triển nhiều về thái độ, kĩ năng, và tư duy nhiều trong ngũ cốc - có thể ảnh hưởng đến sức [9]. Trong khi cách tiếp cận GDDVBC đã được khỏe con người. Từ việc nắm được mối nguy nhiều nước nghiên cứu và đưa vào ứng dụng [3] hại của gluten đối với sức khỏe con người, các thì ở Việt Nam nó vẫn còn rất mới mẻ. Trong em được dẫn dắt đi đến ý tưởng về thực phẩm khi đó, các nhà khoa học, giáo dục, hoạch định an toàn: phát triển sản phẩm không chứa gluten. chính sách ở Việt Nam không ngừng kêu gọi Từ đó, các em tự tìm kiếm thêm thông tin liên thực hiện đổi mới chương trình, phương pháp quan và đi đến quyết định lựa chọn ngô thay dạy học nhằm nâng cao chất lượng GD, đáp cho lúa mì – loại ngũ cốc chứa nhiều gluten ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Do đó, nhất - và lấy hoạt động làm bánh để thực việc tìm hiểu và vận dụng cách tiếp cận nghiệm. HS phải viết một kế hoạch làm thế nào GDDVBC vào trong chương trình dạy học là để tạo ra bánh mì bằng bột ngô không chứa cần thiết, phù hợp với hướng đi chung của GD gluten. Với các hoạt động tìm hiểu, thí nghiệm, ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, để có thể trao đổi , HS đã đi đến được những kiến thức thành công thì quá trình vận dụng cần quan tâm khoa học liên quan của môn sinh - hóa [7]. đến đặc điểm bối cảnh, văn hóa, xã hội của Việt ● Xử lí nước (giáo dục hóa học): HS được Nam. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu biết rằng chất lượng nước uống có vai trò quan tố văn hóa, xã hội có ảnh hưởng to lớn đến việc trọng đối với sức khỏe con người. Đồng thời, vận dụng các lí thuyết giáo dục từ nước ngoài các em biết được các hợp chất hữu cơ, kim loại đưa vào [9]. Do đó, để vận dụng thành công nặng và tế bào vi sinh cần phải được loại bỏ để cách tiếp cận GDDVBC vào Việt Nam, các bối tạo ra nước uống an toàn. HS cũng được biết rằng nhu cầu sử dụng nước sạch đang ngày một cảnh giáo dục cần được xây dựng gần gũi với tăng. Từ đó, các em đi đến việc tìm hiểu về quá HS, qua bối cảnh HS thấy được ý nghĩa bài học, trình xử lí nước. Bối cảnh này giúp HS có thể sự kết nối của nó với cuộc sống đời thường của nhận ra rằng chất lượng nước sạch phụ thuộc các em. Dưới đây là một số ví dụ về bối cảnh có vào nhiều yếu tố, ví dụ: chất lượng nguồn nước, thể cân nhắc để khai thác và sử dụng trong việc loại nước, và các bước xử lí. Với hoạt động thiết kế ra các bài học theo cách tiếp cận thực hiện mô hình xử lí nước sạch, HS sẽ được GDDVBC: cung cấp thêm những kiến thức khoa học như: - Bối cảnh lũ lụt ở miền Trung: có thể dùng các chất gây ô nhiễm nguồn nước: các chất hữu để dạy cho HS (bậc trung học) các các kiến cơ/ vô cơ: chất thải uế, thuốc trừ sâu, quá trình thức địa lý như đặc điểm sông ngòi ở miền xử lí nước, nguồn cung cấp nước uống, phương Trung đồng thời giáo dục cho HS ý thức bảo về tiện đo chất lượng nước uống, quá trình xử lí và cách giữ gìn môi trường; sinh học, mối nguy hiểm và đe dọa sức khỏe - Bối cảnh nấu ăn: có thể dùng để dạy cho của vi khuẩn, hoạt động thống kê [8]. HS (bậc tiểu học) các kiến thức, kĩ năng làm toán về tỉ số phần trăm và biểu đồ hình quạt thông qua việc thiết lập tỉ lệ các thành phần 3. Vận dụng cách tiếp cận giáo dục dựa vào nguyên liệu dùng để nấu ăn; bối cảnh vào Việt Nam - Bối cảnh hội chợ (hoặc hoạt động đi mua Những vấn đề GD của thế giới không nằm sắm): có thể dùng để dạy cho HS (bậc tiểu học) ngoài những vấn đề của GD của Việt Nam. kiến thức, kĩ năng liên quan đến các phép toán Thậm chí, những vấn đề đó ở Việt Nam được cộng trừ trong phạm vi 100 hoặc 100.000; cho là nặng nề hơn, trầm kha hơn. GD ở Việt - Bối cảnh mô hình làm muối sạch: có thể Nam bị chỉ trích là nền giáo dục lạc hậu, ở đó, dùng để dạy HS (bậc trung học) những kiến HS tham gia vào quá trình học một cách bị thức, kĩ năng liên quan đến môn vật lý với trọng động, đầy tính áp đặt, giáo điều và không được tâm kiến thức là sự bay hơi của nước.
  6. 16 N.V.T. Hằng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 11-17 Thực tế, nhiều câu chuyện cho thấy rằng thực tiễn. Với đặc điểm văn hóa xã hội ở Việt nhiều khái niệm khoa học được ra đời gắn liền Nam - một đất nước phương Đông có sự ảnh với bối cảnh cụ thể của nó. Ví dụ như định luật hưởng lâu đời của Nho giáo, mọi sự ứng dụng vạn vật hấp dẫn của Newton gắn liền với bối cách tiếp cận GDDVBC cần tính đến những đặc cảnh quả táo rụng, định luật Archimedes ra đời điểm riêng của Việt Nam, để làm cho cách tiếp gắn liền với bối cảnh nhà khoa học tắm trong cận này trở nên phù hợp và khả thi. Những một bồn nước đầy, lí thuyết bay trong không nghiên cứu tiếp theo có thể tìm hiểu về việc xây gian của Tsiolkovsky ra đời gắn liền với những dựng quy trình thiết kế bài học theo cách tiếp bối cảnh liên quan đến quả bóng bay hay pháo cận GDDVBC, nghiên cứu quá trình ứng dụng thăng thiên Những bối cảnh thực tế đó đã thúc cách tiếp cận này trong thực tế, hoặc tìm hiểu đẩy các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu các vấn đề về những hoạt động của GV và HS trong các khoa học và từ đó cho ra đời các kiến thức khoa giờ học theo cách tiếp cận GDDVBC Những học để phục vụ đời sống, sản xuất. Bản chất của nghiên cứu cụ thể và mang tính thực tế như thế khoa học là vậy, xuất phát từ cuộc sống, phát có thể cung cấp những tư liệu phong phú về triển thành các kiến thức trừu tượng (như là việc áp dụng cách tiếp cận GDDVBC ở Việt dưới dạng định luật, công thức, nguyên lí, quan Nam, góp phần phát triển cách tiếp cận này điểm, v.v ), và từ đó quay trở lại phục vụ cuộc cũng như nâng cao hiệu quả ứng dụng nó trong sống. Tương tự như vậy, các nhà giáo dục và dạy học, từ đó góp phần vào công cuộc phát các GV ở Việt Nam có thể thiết kế ra các bối triển giáo dục nói chung. cảnh gắn liền với thực tế cuộc sống để từ đó giúp HS học và tìm hiểu về những khái niệm, kiến thức khoa học, phát triển các quy trình, kĩ Tài liệu tham khảo năng. Cách làm này có tác dụng giúp các em nắm được ý nghĩa của bài học, có sự chủ động [1] John .K. Gilbert, On the Nature of “Context” in trong học tập, phát triển hứng thú học tập và sự Chemical Education, International Journal of tò mò khoa học - điều mà bài học thiết kế theo Science Education, 28(9), 2006, 957-976. lối truyền thống tập trung vào kiến thức hàn [2] Ngô Vũ Thu Hằng, Design of a social lâm hiếm khi làm được. constructivism-based curriculum for primary science education in Confucian heritage culture. Faculteit Betawetenschappen Flsm. Utrecht University. The Netherland, 2014. 4. Kết luận và khuyến nghị [3] Albert Pilot & Astrid M.V. Bulte, The Use of “Contexts” as a Challenge for the Chemistry GDDVBC hiện đã đi vào nhà trường ở các Curriculum: Its successes and the need for nước phát triển thông qua nhiều dự án giáo dục further development and understanding, quy mô lớn cấp quốc gia và liên quốc gia, tuy International Journal of Science Education, 28(9), 2006, 1087-1112. nhiên ở Việt Nam thì chưa có nhiều nghiên cứu [4] Albert Pilot & Astrid M. V. Bulte, Why do you về cách tiếp cận GD này. Trong giới hạn của “Need to Know”? context-based education, bài viết này, tác giả mới chỉ trình bày những International Journal of Science Education, vấn đề lí thuyết chung về GDDVBC được tổng 28(9), 2006, 953-956. kết và hệ thống hóa lại. Mặc dù tác giả đã có sự [5] Roger Harvey, Robin Averill, A lesson based on liên hệ đến GD Việt Nam hiện nay, tuy nhiên, the use of contexts: An example of effective bài viết cũng mới chỉ dừng lại ở hướng đi và practice in secondary school mathematics. những gợi ý ban đầu. Do đó, để cho cách tiếp Mathematics Teacher Education and Development, 14(1), 2012, 41-59. cận này phát triển hơn nữa và mang lại những thành công trong sự vận dụng vào thực tế ở [6] Retrieved from: Việt Nam, cần có thêm nhiều nghiên cứu về nó, ra-07-synopsis.pdf đặc biệt là những nghiên cứu có tính ứng dụng
  7. N.V.T. Hằng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 11-17 17 [7] Marijn Meijer, Macro-meso-micro thinking with [9] Ngô Vũ Thu Hằng, Marijn Meijer, Astrid Bulte, structure-property relations for chemistry & Albert Pilot, The implementation of a social education. Faculty of Science. Flsme. Utrecht constructivist approach in primary science University, 2010. education in Confucian heritage culture: the case [8] Gjalt Prins, Teaching and learning of modelling of Vietnam. Cultural Studies of Science in chemistry education: Authentic practices as Education, 10(3), 2015, 665-693. contexts for learning. Utrecht University, 2010. Context-Based Education: An Advanced Approach Ngo Vu Thu Hang Faculty of Primary Education - Hanoi National University of Education Abstract: Context-based education has been increasingly studied and applied to practices of teaching and learning in many developed countries. It is acknowledged to be able to help students learn meaningfully through connecting lessons to students’ daily life. However, there is a lack of studies and papers on this educational approach in Vietnam. This paper is aimed at introducing this educational approach for finding solutions to educational problems in Vietnam. It also leads to possible further studies in order to promote the application of context-based education in Vietnam; thereby to enable Vietnam education to catch up with the global education. Keywords: Context-based education, teaching and learning, student, teacher.