Cộng đồng các dân tộc Việt Nam (Phần 2)

pdf 157 trang ngocly 1520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Cộng đồng các dân tộc Việt Nam (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcong_dong_cac_dan_toc_viet_nam_phan_2.pdf

Nội dung text: Cộng đồng các dân tộc Việt Nam (Phần 2)

  1. Người Ra-glai Nhóm địa phương : Rai (ở Hàm Tân - Bình Thuận), Hoang, La Oang (Đức Trọng - Lâm Đồng) Dân số : 96.931 người. Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malaiô - Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Đảo). Do có sự tiếp xúc với các dân tộc khác quanh vùng nên ở người Ra-glai đã xuất hiện hiện tượng song ngữ và đa ngữ. Tiếng phổ thông hiện giữ một vai trò quan trọng, là ngôn ngữ giao tiếp của người dân nơi đây với những dân tộc cận cư khác. Lịch sử : Người Ra-glai đã sinh sống lâu đời ở vùng Nam Trung Bộ. Hoạt động sản xuất : Nghề làm rẫy luôn chi phối các hoạt động kinh tế khác. Trên rẫy đồng bào trỉa cả lúa, bắp, đậu, bầu bí và cây ăn trái. Rẫy được phát bằng chà gạc, rựa hoặc rìu. Cư dân sử dụng đoạn gỗ ngắn, nhọn đầu để trỉa giống, làm cỏ rẫy bằng chiếc cào nhỏ và thu hoạch lúa bằng tay Rèn và đan lát là hai nghề thủ công khá phát đạt. Nghề dệt không phát triển Chăn nuôi phổ biến với các đàn gia súc, gia cầm gồm trâu, lợn, gà, vịt Ngày nay cư dân đã biết trồng cấy lúa nước. Ăn : Sáng và chiều là hai bữa ăn chính. Cơm trưa thường được mang lên rẫy. Canh nấu lẫn thịt, cá và các loại rau là món ăn được ưa thích. Đồ uống gồm nước lã đựng trong vỏ bầu khô và rượu cần. Thuốc lá tự thái, quấn trong vỏ bắp ngô được dùng phổ biến trong các gia đình. Mặc : Rất khó tìm thấy y phục truyền thống của người Ra-glai. Ngày nay, đàn ông thì mặc quần âu và áo sơ mi, đàn bà mặc váy hoặc quần với áo bà ba. Thời xa xưa, đàn ông nơi đây ở trần, đóng một loại khố đơn giản, không có hoa văn trang trí. Những ngày lễ hội truyền thống, phụ nữ mặc áo dài, phía trên được ghép thành những ô vuông màu đỏ, trắng xen kẽ nhau. Có nhiều cách chế thóc thành gạo : Xay, cối giã gạo bằng chân, cối giã gạo bằng sức nước, cối giã gạo bằng chày tay Người Ra-glai cũng như các dân tộc Tây Nguyên giã gạo phổ biến bằng chày tay. Ảnh : Vũ Hồng Thuật 148
  2. ở : Người Ra-glai ở trong vùng núi và thung lũng có độ cao từ 500 - 1000m, tập trung ở các huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), Bắc Bình (Bình Thuận) và một số nơi thuộc các tỉnh : Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Đồng. Trước đây, họ ở nhà sàn. Hiện nay, nhà đất đã khá phổ biến. Những căn nhà thường có dạng hình vuông, chỉ rộng chừng 12 - 14m2. Một vài nhà lớn hơn, có hình chữ nhật. Kĩ thuật lắp ghép rất đơn sơ, chủ yếu sử dụng chạc cây và dây buộc. Mái lợp bằng tranh hoặc lá mây. Vách được che bằng phên đan hay sử dụng đất trát. Phương tiện vận chuyển : Như các dân tộc khác trên Trường Sơn - Tây Nguyên, phương tiện vận chuyển của người Ra-glai là gùi. Gùi được đan đơn giản, không hoa văn trang trí. Gùi có các kích cỡ khác nhau, phù hợp với đôi vai của từng người và từng công việc cụ thể. Quan hệ xã hội : Mỗi làng là nơi sinh sống của nhiều dòng họ. Trong những trường hợp cần thiết “Hội đồng già làng” hình thành dựa trên sự thừa nhận của mọi thành viên trong làng. Mỗi đơn vị cư trú đều có một người đứng đầu, là người có công tìm đất lập làng. Khi nhiều làng cùng sinh tụ trên một vùng rừng núi thì ở đó có một người là chủ núi bên cạnh các chủ làng. Tầng lớp thầy cúng cũng đã hình thành Tuy nhiên, mọi quan hệ xã hội của người Ra-glai trước kia và hiện nay đều chịu sự chi phối của chế độ gia đình mẫu hệ. Cưới xin : Tình yêu của trai gái trước hôn nhân được người Ra-glai tôn trọng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục khá phức tạp. Lễ cưới được tiến hành cả ở hai bên gia đình : nhà gái trước, nhà trai sau. Quan trọng nhất trong lễ cưới là nghi thức trải chiếu cho cô dâu, chú rể. Cô dâu, chú rể ngồi trên chiếu này để hai ông cậu của hai bên cúng trình với tổ tiên, thần linh về việc cưới xin. Cũng chính trên chiếc chiếu này, họ ăn chung bữa cơm đầu tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Sau lễ cưới, việc cư trú bên vợ đang còn phổ biến. Sinh đẻ : Trước và sau sinh nở, phụ nữ Ra-glai kiêng một số thức ăn, không nói tên một vài loài thú và tránh làm những công việc nặng nhọc. Họ được chồng dựng cho một căn nhà nhỏ ở bìa rừng để sinh đẻ. Họ đẻ ngồi và tự mình giải quyết các công việc khi sinh. Có nơi, sản phụ được sự giúp đỡ của một người đàn bà giàu kinh nghiệm. Khi sinh xong, người mẹ bế con về nhà và khoảng 7 ngày sau họ tiếp tục làm các công việc như bình thường. Ngày nay, phụ nữ nơi đây đã đến sinh đẻ ở trạm xá, với sự giúp đỡ của các nữ hộ sinh. Ma chay : Người chết được quấn trong vải hoặc quần áo cũ rồi đặt trong quan tài bằng thân cây rỗng hay quấn bằng vỏ cây là tùy theo mức giàu nghèo của gia đình. Người chết được chôn trên rẫy hoặc trong rừng, đầu hướng về phía tây. Khi có đủ điều kiện về kinh tế người ta làm lễ bỏ mả, dựng nhà mồ cho người chết. Quanh nhà mồ được trồng các loại cây như : chuối, mía, dứa và khoai môn. Trên đỉnh nhà mồ còn chạm khắc hình chiếc thuyền và những chú chim bông lau. Vật dụng thuộc về người chết được phá hỏng, đặt quanh và trong nhà mồ. Thờ cúng : Người Ra-glai cho rằng có một thế giới thần linh bao quanh và vượt ra ngoài hiểu biết của họ. Các vị thần đều có thể bớt gây tai họa hay trợ giúp họ nếu được cúng tế và thỉnh cầu. Vong linh người chết là lực lượng siêu nhiên gây cho họ nhiều sợ hãi nhất. Cư dân còn tin vào sự linh hóa của các loại thú vật Vì vậy, hằng năm thường xuyên diễn ra các nghi lễ cúng bái với việc hiến tế để mong thần linh giúp đỡ. Việc cúng tế này đã có sự tham gia của lớp thầy cúng, họ đang dần tách khỏi lao động và coi cúng bái như một nghề nghiệp chính thức. 149
  3. Lễ tết : Theo chu kì sản xuất, người Ra-glai thường tiến hành các nghi lễ khi chọn rẫy, phát và đốt rẫy, gieo trỉa và thu hoạch lúa. Theo chu kì đời người, đó là các lễ tiết khi sinh nở, lúc ốm đau, rồi cưới xin, ma chay Những nghi lễ lớn trong năm thường tập trung vào khoảng tháng 1 - 2 dương lịch, khi đã thu hoạch rẫy, gồm cả lễ mừng thu hoạch, cưới xin và lễ bỏ mả. Đây chính là những ngày tết của cư dân vùng này. Văn nghệ : Đó là những truyện cổ tích, thần thoại, những làn điệu dân ca, những câu tục ngữ, ca dao thể hiện tâm tư, tình cảm của cư dân. Đó cũng còn là bộ nhạc cụ khá phong phú của người Ra-glai. Bộ chiêng đồng đầy đủ với 12 chiếc. Tuy nhiên, có thể sử dụng 4, 6, 7 hay 9 chiếc. Khèn bầu, kèn môi, đàn ống tre khá phổ biến. Người Ra-glai cũng là cư dân biết sử dụng những thanh đá kêu, ghép thành bộ thường gọi là đàn đá, đánh thay chiêng, khá độc đáo và lí thú. Cồng chiêng là nhạc cụ rất phổ biến ở Trường Sơn – Tây Nguyên. Nam, nữ, người già, người trẻ Ra-glai đều say sưa chơi và thưởng thức tiếng cồng chiêng trong các đêm hội. Ảnh : Phạm Lợi Kèn môi là một loại nhạc cụ truyền thống của người Ra-glai, các bộ phận của kèn được làm bằng chất liệu khác nhau : nhôm, lá đồng, tre, dây đàn, sáp ong. Khi thổi, tay phải giữ bệ kèn, thân kèn cho vào môi ngậm, ngón tay trỏ của tay trái gẩy vào đầu nốt nhạc. Ảnh : Vũ Hồng Thuật 150
  4. Người Rơ măm Tên tự gọi : Rơ Măm. Dân số : 352 người. Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á), chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố ngôn ngữ của dân tộc Khmer và gần gũi với tiếng nói của một số nhóm trong dân tộc Xơ-đăng. Người Rơ Măm hiện sử dụng thành thạo tiếng nói của nhiều dân tộc, trong đó có tiếng phổ thông. Lịch sử : Những người già làng cho biết, họ là cư dân đã sinh sống ở khu vực này từ xa xưa. Đầu thế kỉ XX, dân số của tộc này còn khá đông, phân bố trong 12 làng, ở lẫn với người Gia-rai. Hiện nay, họ chỉ sống tập trung trong một làng ở tỉnh Kon Tum. Hoạt động sản xuất : Người Rơ Măm sống bằng nghề làm rẫy, trồng lúa nếp là chính, thêm một ít lúa tẻ, ngô và sắn. Họ sử dụng dao phát, rìu để đốn hạ cây, dùng lửa để đốt dọn rẫy, khi gieo trỉa dùng hai gậy chọc lỗ và một ống đựng hạt. Đôi bàn tay vẫn là công cụ chính để tuốt lúa. Săn bắt và hái lượm còn giữ vai trò kinh tế quan trọng. Việc bắt cá dưới suối khá hiệu quả với đôi tay, rổ, đó và lá độc. Trong số những nghề phụ gia đình, nghề trồng bông, dệt vải được chú ý phát triển nhất. Trước kia, vải họ dệt ra đủ cung cấp cho nhu cầu mặc của gia đình, ngoài ra, còn là hàng hóa trao đổi lấy dầu đốt, muối ăn và các công cụ lao động bằng sắt mà họ không làm ra được. Ăn : Tập quán ăn bốc còn tồn tại khá phổ biến vào thời điểm hiện nay. Người dân thích cơm nếp đốt trong ống tre, nứa ăn với canh và muối ớt. Họ lấy nước từ các mạch ngầm, đựng trong những chiếc vỏ bầu khô để uống, không cần đun sôi. Những ngày lễ tết, hội hè, cư dân uống rượu cần chế từ các loại gạo, sắn, bắp Cho dù những ngôi nhà kiểu cũ không còn nữa, nhưng hằng năm, các cây nêu ngày lễ đâm trâu, cái nọ tiếp cái kia vẫn đang và sẽ còn mọc lên với hàng cột vượt lên trên chiều cao của những mái nhà, những hàng cây. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại ở làng Le của người Rơ Măm hôm nay. Ảnh : Phạm Lợi 151
  5. Mặc : Trong xã hội truyền thống, đàn ông Rơ Măm mặc khố, phía trước thả tới đầu gối, phía sau buông đến ống chân. Phụ nữ quấn váy và ở trần, một số mặc áo cộc tay. Váy và khố đều có màu trắng của vải mộc, không nhuộm. Phụ nữ ưa đeo hoa tai làm bằng ngà voi, nứa hoặc gỗ. Nam nữ thanh niên đều cà 4 hoặc 6 chiếc răng cửa của hàm trên, khi bước vào tuổi trưởng thành. ở : Làng truyền thống của người Rơ Măm được dựng theo một trật tự cố định. Nhà ở là loại nhà sàn dài, cất kế tiếp, xung quanh ngôi nhà chung. Cửa chính của mọi ngôi nhà đều quay nhìn vào nhà rông. Khoảng cách giữa nhà rông và nhà ở của các gia đình là khu sân chơi. Quanh làng có hàng rào bảo vệ. Mỗi nóc nhà thường có nhiều bếp. Mỗi cặp vợ chồng ở trong một buồng có vách ngăn, với một bếp riêng. Gian chính giữa nhà là nơi tiếp khách Tại làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, hiện nay mỗi gia đình sống trong một ngôi nhà cao to, rộng thoáng, vách gỗ, mái ngói, do Nhà nước xây dựng. Phương tiện vận chuyển : Gùi là phương tiện vận chuyển chính của người Rơ Măm, sử dụng sức mạnh của đôi vai và lưng. Gùi được đan cải hoa văn bằng nan nhuộm đen. Có loại gùi dành riêng cho việc vận chuyển công cụ săn bắt, đi rừng, làm rẫy của đàn ông. Có loại gùi lại chỉ sử dụng để vận chuyển váy, áo, đồ trang sức phụ nữ đem theo khi đi dự lễ tết, hội hè Đây là một trong những dụng cụ gắn liền với cuộc sống hằng ngày của người Rơ Măm. Ảnh : Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Quan hệ xã hội : Đứng đầu làng là một già làng, người cao tuổi nhất trong làng, do dân tín nhiệm bầu ra. Làng truyền thống là một công xã láng giềng. Mọi thành viên quan hệ với nhau dựa trên cơ sở bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Họ không chỉ quan hệ với nhau trong khuôn khổ làng mà còn quan hệ với làng khác, dân tộc khác qua việc trao đổi hàng hóa và trao đổi hôn nhân. Quan hệ xã hội ở đây còn lưu giữ khá đậm các tàn dư của thời kì mẫu hệ vào giai đoạn đang chuyển nhanh sang chế độ phụ hệ. Cưới xin : Việc cưới xin của người Rơ Măm thường phải qua hai bước chính : ăn hỏi và đám cưới. Lễ cưới được tổ chức đơn giản, chỉ là bữa ăn uống cộng cảm của dân làng để chứng kiến và chúc mừng bữa ăn chung đầu tiên của cô dâu, chú rể. Tính chất hôn nhân của họ đang ở giai đoạn tiến lên chế độ phụ hệ. Sau ngày cưới, đôi vợ chồng trẻ sống bên nhà vợ 4 - 5 năm rồi về ở bên nhà chồng hoặc cư trú luân phiên cả hai bên. Việc li dị rất ít xảy ra. 152
  6. Sinh đẻ : Trước kia, phụ nữ Rơ Măm sinh đẻ trong ngôi nhà nhỏ ở ngoài rừng. Đứa trẻ ra đời được cắt rốn bằng nứa hoặc một loại lá cây sắc. Mỗi làng có một hay hai bà đỡ là những người phụ nữ đã có tuổi, nhiều kinh nghiệm trong việc sinh nở. Phụ nữ phải kiêng một số thức ăn có nhiều mỡ, từ khi có thai cho đến lúc đứa trẻ tròn 3 năm tuổi. Gần đây họ sinh con tại nhà. Ngày đó, người lạ không được vào, nếu ai vi phạm sẽ bị giữ lại trong nhà đến hết thời gian kiêng cữ và đứa trẻ sẽ được đặt tên trùng với tên người khách lạ. Ma chay : Người Rơ Măm thường dùng trống để báo tin trong nhà có người chết. Xác chết được đặt ở mặt trước ngôi nhà, đầu hướng vào trong, mặt nhìn nghiêng. Việc chôn cất sẽ được tiến hành vào một hai hôm sau. Các ngôi mộ xếp theo hàng lối sao cho mặt người chết không nhìn hướng vào làng. Một số ít ngôi mộ chôn chung, từ 2 đến 3 người, thường là những người thân trong gia đình. Trong lễ bỏ mả có hai người đeo mặt nạ (một nam, một nữ) đánh trống nhảy múa. Mặt nạ nam có hai sừng trên đầu, mặt nạ nữ có hai chiếc răng nanh. Kết thúc lễ bỏ mả, hai chiếc mặt nạ được treo lại trên nhà mồ Nét tiêu biểu trong kiến trúc nhà mồ truyền thống của người Rơ Măm là hình tượng những cặp ngà voi, được đẽo gọt công phu, trên đỉnh 4 cây cột dựng ở các góc nhà mồ. Ảnh : Phạm Lợi Thờ cúng : Người Rơ Măm quan niệm "vạn vật hữu linh", cả linh hồn con người sau khi chết cũng là lực lượng siêu nhiên đầy quyền lực và bí ẩn. Đó là những đối tượng mà họ thờ cúng để cầu mong một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một trong những lực lượng siêu nhiên được người dân thờ cúng nhiều nhất là Thần Lúa. Họ cúng Thần Lúa vào ngày bắt đầu trỉa giống, khi lúa lên đòng, trước ngày tuốt lúa để cầu mong một mùa rẫy bội thu Lễ tết : Trong tất cả những nghi lễ được tiến hành theo chu kì sản xuất hay chu kì đời người đều có hiến tế các con vật như : gà, lợn, hoặc trâu. Ngày lễ lớn nhất thường được tổ chức sau thu hoạch mùa rẫy. Các gia đình trong làng làm lễ mừng kế tiếp nhau, có thể mỗi ngày một gia đình hay 4 - 5 ngày một chủ hộ giết lợn, gà, thậm chí tổ chức đâm trâu mời bà con trong làng tới dự. Sau lễ mừng lúa mới là thời điểm diễn ra hàng loạt đám cưới của nam nữ thanh niên và lễ bỏ mả cho người đã chết. Văn nghệ : Những làn điệu dân ca, những bài hát giao duyên của nam nữ thanh niên, những câu chuyện kể của người già với bộ nhạc cụ gồm chiêng, trống và các loại đàn, sáo được làm ra từ nguồn tre, nứa trong rừng là yếu tố chính tạo dựng nên nền văn nghệ dân gian của cư dân nơi đây. 153
  7. Người Sán Chay Tên tự gọi : Sán Chay. Tên gọi khác : Hờn Bán, Chùng, Trại Nhóm địa phương : Cao Lan và Sán Chỉ. Dân số : 147.315 người. Ngôn ngữ : Tiếng Cao Lan thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai) còn tiếng Sán Chỉ thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng). Lịch sử : Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm. Hoạt động sản xuất : Là cư dân nông nghiệp, làm ruộng nước thành thạo nhưng nương rẫy vẫn có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế và phương thức canh tác theo lối chọc lỗ, tra hạt vẫn tồn tại đến ngày nay. Đánh cá có vị trí quan trọng. Với chiếc vợt ôm và chiếc giỏ có hom, việc đánh cá đã cung cấp thêm nguồn thực phẩm giàu đạm, góp phần cải thiện bữa ăn. Bộ nữ phục truyền thống của người Sán Chay bao gồm váy, áo, yếm, thắt lưng và khăn. Chiếc áo uyên ương mà họ gọi là pù dăn đinh có trang trí hoa văn ở lưng áo và hò áo. Loại hoa văn thường thấy là ngôi sao 8 cánh. Ảnh : La Công Ý 154
  8. Ăn : Người Sán Chay ăn cơm tẻ là chính. Rượu cũng được dùng nhiều, nhất là trong ngày tết, ngày lễ. Đàn ông thường hút thuốc lào. Phụ nữ ăn trầu. Mặc : Phụ nữ mặc váy chàm và áo dài có trang trí hoa văn ở hò áo và lưng áo. Thường ngày, chỉ dùng một thắt lưng chàm nhưng trong ngày tết, ngày lễ họ dùng 2, 3 chiếc thắt lưng bằng lụa hay nhiễu với nhiều màu khác nhau. ở : Người Sán Chay cư trú ở các tỉnh vùng Đông Bắc nước ta, chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Phú Thọ Họ sống trên nhà sàn giống nhà của người Tày cùng địa phương. Phương tiện vận chuyển : Người Sán Chay thường đeo chiếc túi lưới ở sau lưng theo kiểu đeo ba lô. Quan hệ xã hội : Trước Cách mạng tháng Tám, ruộng đất dần dần trở thành tư hữu hóa và phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Trong xã hội đã xuất hiện địa chủ và phú nông. Tùy theo từng địa phương, chính quyền thực dân phong kiến đặt ra một số chức dịch như quản mán, tài chạ, quan lãnh Bên cạnh đó có tổ chức tự quản ở các bản do dân bầu ra gọi là khán thủ. Có nhiều dòng họ, trong đó có những dòng họ lớn, đông dân như Hoàng, Trần, La, Ninh. Các chi họ và nhóm hương hỏa giữ vị trí quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng. Cưới xin : Trước khi đón dâu, lễ vật và trang phục của những người đi đón được tập trung lại ở giữa nhà để quan lang làm phép. Khi xuất phát, quan lang đứng dưới giọt gianh giương ô lên cho mọi người đi qua. Trên đường về nhà chồng, cô dâu phải đi chân đất. Sau khi cưới, cô dâu vẫn ở Nhà sàn là ngôi nhà truyền thống của nhiều dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Nhà của người Sán Chay thường quay lưng lên đồi, phía trước nhìn ra ruộng và xung quanh là vườn cây lâu năm. Ảnh : La Công Ý 155
  9. nhà bố mẹ đẻ cho đến lúc sắp đẻ mới về ở nhà chồng. Ông mối được cô dâu, chú rể quý trọng, coi như bố mẹ và khi ông mối chết phải để tang. Bàn thờ của người Sán Chay khá đơn sơ, nhiều khi chỉ là một ống tre để cắm hương. Nhưng hằng năm đến trước Tết Nguyên đán các bàn thờ được quét dọn và dán lên một mảnh giấy đỏ. Ảnh : La Công Ý Sinh đẻ : Trong vòng 42 ngày sau khi đẻ cấm người lạ vào nhà. Nếu ai đó lỡ vào mà sau đó trẻ sơ sinh bị ốm thì phải đem lễ vật đến làm lễ cúng vía. Sau khi đẻ 3 ngày tổ chức lễ ba mai. Ma chay : Đám ma do thầy tào chủ trì gồm nhiều nghi lễ chịu ảnh hưởng sâu sắc của Đạo giáo và Phật giáo. Đặc biệt ngôi nhà táng được làm rất công phu và đẹp. Làm nhà mới : Việc chọn đất, chọn hướng và chọn ngày giờ để làm nhà mới rất được người Sán Chay coi trọng. Thờ cúng : Trong nhà người Sán Chay có rất nhiều bàn thờ. Ngoài thờ cúng tổ tiên, họ còn thờ trời đất, Thổ Công, Bà Mụ, Thần Nông, Thần Chăn nuôi Phổ biến nhất là thờ Ngọc Hoàng, Phật Nam Hoa, Táo Quân. Lễ tết : Họ ăn Tết như người Tày. Lịch : Người Sán Chay theo âm lịch. Học : Người Sán Chay sử dụng chữ Hán trong cúng bái và chép bài hát. Văn nghệ : Ngoài kể chuyện cổ tích, đọc thơ, người Sán Chay còn yêu thích ca hát. Phổ biến hơn cả là sình ca, lối hát giao duyên nam nữ gồm 2 loại : hát ở bản về ban đêm và hát trên đường đi hoặc ở chợ. Bên cạnh đó còn có ca đám cưới, hát ru Chơi : Đánh cầu lông, đánh quay là những trò chơi phổ biến của người Sán Chay. Trong ngày hội có nơi còn biểu diễn trò "trồng chuối", "vặn rau cải". 156
  10. Người Sán Dìu Tên tự gọi : San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân). Tên gọi khác : Trại, Trại Đất, Mán Quần cộc, Mán Váy xẻ Ngôn ngữ : Người Sán Dìu nói thổ ngữ Hán Quảng Đông (ngữ hệ Hán - Tạng). Dân số : 126.237 người. Lịch sử : Người Sán Dìu di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay. Hoạt động sản xuất : Người Sán Dìu có làm ruộng nước nhưng không nhiều, canh tác ruộng khô là chính. Ngoài các loại cây trồng thường thấy ở nhiều vùng như lúa, ngô, khoai, sắn, họ còn trồng nhiều cây có củ. Từ rất lâu họ đã biết dùng phân bón ruộng. Nhờ đắp thêm mũi phụ, lưỡi cày của họ trở nên bền, sắc và thích hợp hơn với việc cày ở nơi đất cứng, nhiều sỏi đá. Ăn : Người Sán Dìu ăn cơm tẻ là chính, có độn thêm khoai, sắn. Sau bữa ăn, họ thường húp thêm bát cháo loãng như người Nùng. Chiếc váy quấn gồm 2 mảnh cùng gắn vào một cạp là một nét đặc trưng văn hóa của người Sán Dìu. Ảnh : La Công Ý 157
  11. Mặc : Bộ y phục truyền thống của phụ nữ gồm khăn đen, áo dài (đơn hoặc kép), nếu là áo kép thì bao giờ chiếc bên trong cũng màu trắng còn chiếc bên ngoài màu chàm dài hơn một chút ; yếm màu đỏ ; thắt lưng màu trắng, hồng hay xanh lơ ; váy là hai mảnh rời cùng chung một cạp, chỉ dài quá đầu gối có màu chàm ; xà cạp màu trắng. Đồ trang trí gồm vòng cổ, vòng tay, hoa tai và dây xà tích bằng bạc. Nam giới ăn mặc như người Việt : búi tóc vấn khăn hoặc đội khăn xếp, áo dài thâm, quần trắng. ở : Họ sống tập trung ở trung du Bắc Bộ, trong vùng từ tả ngạn sông Hồng đổ về phía đông vùng Đông Bắc nước ta. Chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Tuyên Quang Làng xóm của họ tựa như làng người Việt, có lũy tre bao bọc và giữa các nhà thường có tường hay hàng rào. Ở nhà đất trình tường hay thưng ván. Phương tiện vận chuyển : Ngoài gánh còn sử dụng xe quệt như là một phương tiện vận chuyển chính. Xe làm bằng tre, gỗ do trâu kéo, dùng để vận chuyển tất cả mọi thứ, từ thóc lúa, củi đuốc cho đến phân bón. Do không có bánh nên xe quệt có thể sử dụng ở nhiều loại địa hình khác nhau. Quan hệ xã hội : Trước Cách mạng tháng Tám, ruộng đất đã tư hữu hóa và xã hội đã có sự phân hóa giai cấp rõ rệt. Địa chủ và phú nông nắm giữ nhiều ruộng đất và bóc lột các tầng lớp nông dân lao động dưới hình thức phát canh thu tô, thuê mướn nhân công và cho vay nặng lãi. Bên cạnh bộ máy chính quyền, ở các làng còn có người đứng đầu làng do dân bầu ra để quản lí công việc chung. Bộ đồ nghề của thầy cúng Sán Dìu gồm có án, lệnh bài, sách cúng, tù và và thẻ xin âm dương. Ảnh : La Công Ý Cưới xin : Nam nữ được tự do yêu đương nhưng họ có thành vợ thành chồng hay không lại tùy thuộc vào “số mệnh” và sự quyết định của bố mẹ. Đám cưới gồm nhiều nghi lễ. Đáng chú ý nhất có lễ khai hoa tửu diễn ra tại nhà gái, trước hôm cô dâu về nhà chồng. Người ta lấy một bình rượu và một cái đĩa, trên đĩa lót hai miếng giấy cắt hoa, miếng trắng để dưới, miếng đỏ để trên, đặt lên trên đĩa hai quả trứng luộc có xâu chỉ đỏ và buộc ở mỗi bên trứng hai đồng xu. Sau khi cúng thì bóc trứng lấy lòng đỏ hòa với rượu để mọi người uống mừng hạnh phúc của cô dâu, chú rể. 158
  12. Ma chay : Khi hạ huyệt, con cái phải từ phía chân quan tài bò một vòng quanh miệng huyệt. Con trai bò từ trái sang phải còn con gái bò từ phải sang trái, vừa bò vừa xô đất lấp huyệt. Lúc đứng dậy, mỗi người vốc một nắm đất và chạy thật nhanh về nhà bỏ vào chuồng trâu, chuồng lợn, với ý nghĩa cho gia súc sinh sôi, nảy nở. Tiếp đó chạy vào nhà và ngồi xuống thúng thóc với quan niệm ai dính nhiều thóc là may mắn. Cuối cùng, mỗi người tự xé lấy một miếng thịt gà luộc để ăn, ai đến trước nhất được mào gà, tiếp theo được đầu, cổ, cánh Nhà mồ có mái bằng, lợp lá rừng. Khi cải táng, xương được xếp vào tiểu hoặc chum theo tư thế ngồi và nếu chưa chọn được ngày tốt thì chôn tạm ở chân đồi hay bờ ruộng. Nhà mới : Mỗi khi có ai làm nhà thì mọi người trong họ, trong làng tự đến giúp đỡ, chủ nhân không cần phải mời giúp. Trong lễ lên nhà mới, chủ nhà mời người cao tuổi trong họ đem lửa, bình vôi, ít hạt giống vào nhà. Thờ cúng : Trên bàn thờ thường đặt ba bát hương thờ tổ tiên, pháp sư và Táo quân. Nếu chủ nhà chưa được cấp sắc thì chỉ có hai bát hương. Những người mới chết chưa kịp làm ma cũng đặt bát hương lên bàn thờ nhưng để thấp hơn. Ngoài ra, người Sán Dìu còn thờ Thổ thần ở miếu, thờ Thành hoàng ở đình. Lễ tết : Có những ngày tết như nhiều dân tộc khác ở trong vùng. Riêng tết Đông chí còn mang thêm ý nghĩa cầu mong có con đàn, cháu đống. Những người đã lấy nhau lâu mà vẫn chưa có con thì sau khi ăn Tết xong người vợ về nhà bố mẹ đẻ ở. Người chồng cho ông mối đến hỏi và sau đó tổ chức cưới lại như là cưới vợ mới. Lịch : Người Sán Dìu theo âm lịch. Học : Trước kia, thanh niên thường học chữ Hán để làm thầy cúng ; hiện nay, còn rất ít người biết chữ Hán. Văn nghệ : Giống như ở nhiều dân tộc khác, người Sán Dìu cũng có hát giao duyên nam nữ mà họ gọi là soọng cô, thường được hát về đêm. Có những cuộc hát kéo dài suốt nhiều đêm. 159
  13. NGƯỜI SI LA Tên tự gọi : Cù Dề Sừ. Tên gọi khác : Kha Pẻ. Dân số : 840 người. Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, gần với Miến hơn. Lịch sử : Người Si La có nguồn gốc di cư từ Lào sang. Hoạt động sản xuất : Trước kia chuyên làm nương du canh, nay sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, ngô trên ruộng và nương. Hái lượm giữ vị trí quan trọng trong đời sống. Ăn : Người Si La quen dùng cả cơm nếp và cơm tẻ với các loại canh rau rừng là chính. Đạm động vật chủ yếu là sản phẩm của săn bắn, đánh cá. Mặc : Phụ nữ mặc váy, hở bụng. Áo cài khuy bên nách phải, nổi bật là vạt ngực gắn đầy những đồng xu bạc, Người Si La thích dùng loại túi lưới được xu nhôm ; cổ và tay áo được trang trí bằng cách gắn đan bằng tơ gai. Quai đeo ở túi, nữ còn can thêm chỉ màu. Đan túi là công việc của nữ. lên những đường vải màu khác nhau. Váy màu đen hay Ảnh : Mai Thanh Sơn chàm, khi mặc giắt ra phía sau. Khăn đội đầu phân biệt theo lứa tuổi và tình trạng hôn nhân. Phụ nữ thường đeo túi đan bằng dây gai. Tục nhuộm răng phổ biến, nam giới nhuộm đỏ, nữ nhuộm đen. ở : Người Si La quần tụ trong vài ba bản ở huyện Mường Tè, Lai Châu. Ở nhà đất, hai gian và hai chái nhỏ, có hiên và một cửa ra vào. Bàn thờ ở góc trái trong cùng, trên có một chén rượu nhỏ và một quả bầu. Bếp chính ở giữa nhà, kê ba ông đầu rau bằng đá, ông đầu rau quan trọng nhất, nơi mà tổ tiên thường ở, trông coi bếp lửa, quay lưng hướng về bàn thờ. Thiếu nữ Si La khi chưa chồng thì vấn tóc quanh đầu và đội khăn trắng giản dị. Khi lấy chồng thì búi tóc lên đỉnh đầu và cuốn đội khăn chàm đen. Ảnh : Mai Thanh Sơn 160
  14. Phương tiện vận chuyển : Người Si La phổ biến dùng gùi. Ngoài ra họ còn biết dùng thuyền, mảng đi lại trên sông. Quan hệ xã hội : Làng bản Si La xưa kia chịu sự cai quản của hệ thống chức dịch người Thái, chưa có sự phân hóa giai cấp. Tính cộng đồng trong công xã cao. Quan hệ dòng họ khá chặt chẽ. Có nhiều tên họ khác nhau nhưng họ Hù và họ Pờ đông hơn cả. Do quan niệm cùng tên họ là cùng chung tổ tiên xa xưa do điều kiện cư trú xa cách, người ở chi họ này dễ dàng xin nhập sang chi họ khác, cùng thờ tổ tiên với nhau. Mỗi chi họ đều có người già nhất, không phân biệt dòng trưởng hay thứ, đứng đầu. Hằng năm vào hai kì, Tết năm mới và Cơm mới, có lễ cúng tổ tiên chung ở nhà người trưởng họ với các lễ vật rất đặc trưng như thịt sóc, cua, cá bống, ống rượu cần tượng trưng, vài bông lúa, khoai sọ, bó lá hạt cườm. Trên mâm cúng không dùng hương mà đốt nến bằng sáp ong. Những đồ thờ gia bảo của dòng họ bày ở bàn thờ là trống, nhạc ngựa, quả bầu, chén đựng rượu. Khi người trưởng họ mất, chỉ sau ba năm người lên thay mới được quyền chuyển những đồ thờ này sang bàn thờ nhà mình. Người trưởng họ có vai trò lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ giữa các thành viên trong họ, cưới xin, ma chay, cho người ra khỏi họ hoặc kết nạp thành viên mới vào họ. Những người cùng họ không được lấy nhau. Cưới xin : Trai gái yêu nhau được quan hệ với nhau, người con trai được ngủ qua đêm tại nhà người yêu của mình. Có tục cưới hai lần. Lần đầu đón cô dâu về nhà chồng. Lần thứ hai sau một năm, nhà trai trao tiền cưới cho nhà gái. Sinh đẻ : Phụ nữ sinh con ở trong nhà, đẻ ngồi. Nhau đẻ đựng trong ống nứa, phủ một lớp tro bếp lên trên dựng ở góc bếp cho đến ngày đặt tên cho đứa trẻ. Họ thường mời bà già trong bản tới đặt tên cho con để mong con sống lâu. Sau khi đặt tên, bà già này bịt ống đựng nhau bằng lá chuối, nếu con trai buộc 9 lạt, con gái buộc 7 lạt, rồi đem treo hoặc chôn. Lễ cúng hồn cho trẻ sơ sinh được tiến hành 3 ngày sau khi đặt tên. Ma chay : Nghĩa địa thường để dưới bản, mộ của những người cùng họ thường ở gần nhau. Kiêng đặt mộ xa giữa những người khác họ. Chọn được đất ưng ý để đặt mộ thì cuốc một nhát, đặt cục than vào nhát cuốc đó, coi như đất đã có chủ. Sáng hôm sau mới làm nhà táng và đào huyệt. Quan tài bằng khúc gỗ bổ đôi khoét rỗng. Cúng đưa hồn người chết về quê hương cũ ở Mồ U. Sau khi chôn, gia đình tang chủ dội nước tắt bếp, mang hết than củi cũ ra ngoài nhà rồi mới đốt bếp. Không có tục cải táng và tảo mộ. Để tang bằng cách con trai buộc túm ít tóc trên đỉnh đầu, con gái tháo vòng tay, vòng cổ. Thờ cúng : Con cái thờ bố mẹ đã mất. Mỗi bàn thờ phải có chén thờ lấy từ chén cúng cơm bố mẹ trong ngày làm ma. Nhà có bao nhiêu con trai thì có bấy nhiêu chén và tất cả để lên bàn thờ. Đến khi chia nhà thì mang chén đó ra lập bàn thờ riêng. Thờ tổ tiên từ đời ông trở lên do người trưởng họ đảm nhận. Lễ cúng bản là lễ cúng quan trọng nhất cầu mong cả bản không ốm đau, bệnh tật, lợn gà không bị thú rừng bắt trong năm. Cứ 7 năm lại làm lễ cúng hồn lúa, dùng vợt bắt cá, gạo đưa đường để đưa hồn lúa từ nương về bản, tới nhà rồi cất kĩ trên bồ thóc. Học : Trước kia, họ không có chữ viết riêng, kinh nghiệm trao truyền bằng lời hoặc qua thực hành. Văn nghệ : Người Si La hát giao duyên giữa nam nữ thanh niên, hát sử ca. Tết lễ : Ăn Tết năm mới vào đầu tháng 12 âm lịch. Ngoài ra họ còn ăn Tết Cơm mới. Chơi : Các em nhỏ Si La thường chơi các đồ chơi tự chế từ tre gỗ hay đất sét. Đồng thời, chúng cũng có các trò chơi tập thể rất vui nhộn. 161
  15. NGƯỜI TÀY Tên gọi khác : Thổ. Nhóm địa phương : Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí. Dân số : 1.477.514 người. Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai). Lịch sử : Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên. Hoạt động sản xuất : Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng Lạng Sơn nổi tiếng thuốc lá sợi vàng. Thuốc ngon do đất, giống, trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng sấy và cũng do cách phơi. Ảnh : Trọng Thanh rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng. Người Tày (Pa Dí) có truyền thống làm các loại bánh bằng bột. Những ngày tết, phiên chợ, phụ nữ trong các gia đình thường rất bận rộn làm bánh. Ảnh : Trọng Thanh 162
  16. Ăn : Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giầy, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo Đặc biệt có loại bánh bột hấp nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã. Trang phục của người Tày hầu như không thêu hoa văn. Riêng áo phụ nữ nhóm Pa Dí có thêu hoa văn ở cổ và hò áo, ống tay áo được nối bởi những đoạn vải màu. Điểm nổi bật nhất trong bộ trang phục nữ Pa Dí là chiếc mũ hình mái nhà. Ảnh : Mai Thanh Sơn Mặc : Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không có thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao búi tóc, quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình). ở : Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Đông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa. Phương tiện vận chuyển : Với những thứ nhỏ, gọn, người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai ; còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng bè, mảng để chuyên chở trên sông suối. Quan hệ xã hội : Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kì mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối. Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. 163
  17. Cưới xin : Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tùy thuộc vào bố mẹ hai bên và “số mệnh” của họ có hợp nhau hay không. Vì thế, trong quá trình đi tới hôn nhân, phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang, sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng. Lễ lẩu then (lẩuput) là một nghi lễ để thầy cúng (bà Then) mang lễ vật đi tiến cống Ngọc Hoàng nhằm xin những điều tốt lành hoặc để cấp sắc nhằm thăng quan tiến chức cho người làm Then. Trong ảnh là các bà Then đang hành lễ. Ảnh : La Công Ý Sinh đẻ : Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ và đôi khi cả chồng phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khỏe mạnh và tránh được những vía độc làm hại. Sau khi sinh được 3 ngày, cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng, tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ. Ma chay : Đám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất ba năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hằng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định. Nhà mới : Khi làm nhà phải chọn đất, xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới, chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau. Thờ cúng : Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ Thổ công, Vua Bếp, Bà Mụ. Lễ tết : Hằng năm có nhiều ngày Tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và Tết Cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. 164
  18. Lịch : Người Tày theo âm lịch. Học : Chữ Nôm Tày, xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ Nôm Việt, ra đời khoảng thế kỉ XV, được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng Chữ Tày - Nùng, dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh, ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa những năm 80, được dùng trong các trường tiểu học vùng có người Tày, Nùng cư trú. Văn nghệ : Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ, ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo. Chơi : Trong ngày hội lồng tồng, ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng Ngày thường, trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô Đàn tính là nhạc cụ được sử dụng phổ biến ở người Tày. Bầu đàn làm bằng vỏ quả bầu khô, cần đàn bằng gỗ, dây đàn bằng tơ. Đàn có thể có 2 hoặc 3 dây. Đàn tính thường dùng để trong nghi lễ, đệm cho hát then. Ngày nay đàn tính còn dùng biểu diễn trên sân khấu. Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Ảnh : Phạm Ngọc Long 165
  19. Người Tà-Ôi Tên gọi khác : Tôi Ôi, Pa-cô, Tà Uốt, Kan Tua, Pa Hi, v.v Nhóm địa phương : Tà-ôi, Pa-cô, Pa Hi. Dân số : 34.960 người. Ngôn ngữ : Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á), ít nhiều gần gũi với tiếng Cơ-tu và Bru - Vân Kiều. Giữa các nhóm có một số khác biệt nhỏ về từ vựng. Lịch sử : Người Tà-ôi thuộc lớp cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn. Hoạt động kinh tế : Làm rẫy, trồng lúa rẫy là nguồn sống chính của người Tà-ôi. Cách thức canh tác tương tự như ở các tộc Cơ-tu, Bru - Vân Kiều. Ruộng nước đã phát triển ở nhiều nơi. Săn bắn, đánh cá, hái lượm đem lại nguồn thức ăn đáng kể. Nghề dệt chỉ có ở một số nơi, sản phẩm được các dân tộc láng giềng ưa chuộng (nhất là y phục có đính hoa văn bằng chì và cườm trắng). Đồ đan mây tre chủ yếu đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp. Đồ sắt, đồ gốm, đồ đồng chủ yếu do trao đổi với người Việt và các dân tộc khác ; quan hệ hàng hóa với bên Lào cũng khá quan trọng. Ngày nay, người Tà-ôi đã sử dụng tiền, nhưng tập quán dùng vật đổi vật vẫn thông dụng. Ăn : Cơm là lương thực chủ yếu ; ngô, sắn, khoai, củ mài, v.v bổ sung khi thiếu gạo. Thức ăn thông thường là các loại rau, măng, nấm, ốc, cá, thịt chim muông. Người Tà-ôi ưa thích món băm trộn tiết gia súc với thịt luộc. Thức uống gồm nước lã, rượu, đặc biệt rượu chế từ nước thứ cây họ dừa được dùng phổ biến. Họ dùng tẩu tự tạo bằng gốc le hoặc bằng đất nung để hút thuốc lá. Người Tà-ôi ở một số nơi giỏi nghề dệt vải sợi bông, hoa văn được tạo bằng sợi màu và bằng chì, cườm trắng. Loại vải có hoa văn chì, cườm được ưa thích. Ảnh : Lưu Hùng 166
  20. Mặc : Nữ mặc váy ống loại ngắn và áo, hoặc váy loại dài che luôn cả từ ngực trở xuống (ở nhóm Tà-ôi phía biên giới thuộc A Lưới), có nơi dùng thắt lưng sợi dệt ; nam quấn khố mặc áo, thường hay ở trần. Ngoài vải do tự dệt, người Tà-ôi còn dùng vải mua ở Lào và y phục như người Việt đã thông dụng, nhất là với nam giới. Xưa kia, có những nơi phải dùng đồ mặc chế tác từ vỏ cây. Hình thức đeo trang sức cổ truyền là các loại vòng tay, vòng chân, vòng cổ, khuyên tai bằng đồng, bạc hay hạt cườm, mã não, v.v Phụ nữ đeo cả loại vòng dây đồng quấn thành hình ống ôm quanh đoạn ống chân và cẳng tay. Tục cà răng, xăm trên da và đeo trang sức làm căng rộng lỗ xâu ở dái tai chỉ còn số ít ở các cụ già. ở : Người Tà-ôi cư trú trên một dải từ tây Quảng Trị (huyện Hướng Hóa) đến tây Thừa Thiên - Huế (huyện A Lưới và Hương Trà). Họ ở quần tụ thành từng làng ; ở nhà sàn dài. Trước kia, nhà sàn dài có khi trên một trăm mét, là nơi ở của nhiều cặp vợ chồng cùng các con (gọi là các "bếp"). Giữa các "bếp" trong làng thường có quan hệ bà con thân thuộc với nhau. Mái nhà uốn tròn ở 2 đầu hồi, trên đỉnh dốc có khau cút nhô lên. Trong nhà, mỗi “bếp” (gia đình riêng) đều có buồng sinh hoạt riêng. Phương tiện vận chuyển : Chủ yếu và thường nhật là đeo gùi sau lưng. Có các loại, các cỡ gùi khác nhau, đan bằng mây hoặc tre lồ ô. Đàn ông có riêng loại gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") như gùi của đàn ông Cơ-tu, dùng khi đi săn, đi rừng, đi sang làng khác. Mỗi khi đi chơi xa hay đi dự lễ hội, phụ nữ Tà-ôi mặc đẹp, đủ cả váy, áo, thắt lưng và cũng thường đeo theo chiếc gùi sau lưng. Ảnh : Lưu Hùng 167
  21. Nhà sàn dài có mái uốn tròn ở đầu hồi là hình thức cư trú truyền thống của người Tà-ôi. Nay vẫn thấy ở đó đây một số ngôi nhà khá dài. Ảnh : Phạm Lợi Quan hệ xã hội : Người Tà-ôi sống theo tập tục cổ truyền, trọng người già, tin theo "già làng", quý trẻ em không phân biệt trai hay gái. Mỗi làng bao gồm người của các dòng họ khác nhau, từng dòng họ có người đứng đầu, có kiêng cữ riêng và tên gọi riêng. Xã hội đã phân hóa giàu - nghèo và có sự khác nhau nhất định về vị thế, nhưng nếp cộng đồng dân làng vẫn đậm nét. Làng là đơn vị tổ chức xã hội cơ bản và tự quản trong xã hội cổ truyền. Cưới xin : Trai gái lớn lên sau khi đã cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên thì được tìm hiểu nhau và lấy vợ, lấy chồng. Việc cưới hỏi do nhà trai chủ động. Nhà gái cho con đi làm dâu và được nhận của cải dẫn cưới gồm cồng, chiêng, ché, nồi đồng, trâu, lợn, v.v Cùng với đám cưới, cô dâu chú rể phải làm lễ “đạp bếp” tại nhà bố mẹ cô gái để đánh dấu từ đó cô ta sẽ thực sự là người nhà chồng ; ít năm sau phải tổ chức lễ tạ ơn “thần linh” đã cho hai người sống yên ổn với nhau. Người Tà-ôi thích cho con trai cô lấy con gái cậu. Một số người giàu có thể có hơn một vợ. Sinh đẻ : Phụ nữ phải kiêng khem nhiều trong thời kì có thai và sau khi mới sinh, với ý muốn nhờ vậy sẽ dễ đẻ, con dễ nuôi, v.v Việc sinh nở có người giúp đỡ. Con trai hay con gái đều được yêu quý và tâm lí chung thường muốn có cả hai. Sản phụ lao động cho tới khi ở cữ và cũng chỉ nghỉ ít ngày sau khi sinh con. Ma chay : Bãi mộ chung của làng chỉ chôn những người chết bình thường. Quan tài đẽo độc mộc. Người giàu thì quan tài được làm cầu kì hơn ở 2 đầu. Có tục “chia của” cho người chết như các dân tộc khác. Việc mai táng sau khi chết là tạm thời. Vài năm sau khi chôn, tang gia tổ chức lễ cải táng, đưa hài cốt vào quan tài mới và chôn trong bãi mộ, bên cạnh những thân nhân quá cố từ trước. Khi đó, nhà mồ được trang trí đẹp bằng chạm khắc và vẽ trên gỗ. Thờ cúng : Người Tà-ôi tin mọi vật đều có siêu linh, từ trời, đất, núi, rừng, suối nước, cây cối cho đến lúa gạo, con người, con vật đều có “thần” hoặc "hồn". Việc bói toán và cúng lễ là một phần quan trọng trong đời sống cá nhân cũng như cộng đồng dân làng. Mỗi dòng họ có một bàn thờ ở nhà trưởng họ, mọi gia đình đều có thể tới đó làm lễ cúng khi ốm yếu, rủi ro, cầu khẩn một điều gì đó. Nhiều làng còn thờ cúng chung vật “thiêng” là hòn đá, cái vòng đồng, chiếc ché, v.v Chúng dị dạng hoặc có xuất xứ khác lạ, được coi là có quan hệ huyền bí đối với cuộc sống của làng. 168
  22. Lễ tết : Có rất nhiều lễ cúng, liên quan đến sức khỏe, tài sản, việc ngăn chặn dịch bệnh, việc làm rẫy, Những lễ lớn đều có đâm trâu tế thần và trở thành ngày hội trong làng. Gắn với chu kì canh tác có những lễ thức quan trọng nhằm cúng cầu Thần Lúa, mong bội thu, no đủ. Tết cổ truyền vào thời kì nghỉ ngơi sau khi tuốt lúa, trước mùa rẫy mới. Lịch : Căn cứ vào quy luật tròn - khuyết của Mặt Trăng để xác định ngày trong tháng. Tháng có 30 ngày, năm có 12 tháng và có ngày tốt, ngày xấu cho các công việc khác nhau. Học : Cách đây mấy chục năm, chữ viết ra đời trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh để tạo ra bộ vần, lấy tiếng Pa-cô làm chuẩn. Văn nghệ : Vốn tục ngữ, ca dao, câu đố, truyện cổ khá phong phú. Người già am hiểu thường kể cho con cháu các truyện đời xưa, có tác dụng vừa giải trí, vừa giáo dục. Dân ca có điệu Calơi đối đáp khi uống rượu, hội hè ; điệu Ba boih hát một mình khi lao động hoặc đi đường ; điệu Rơih gửi gắm, dặn dò đối với bậc con cháu nhân các dịp vui vẻ ; điệu Cha châp dành cho tình cảm trai gái của thanh niên, Nhạc cụ gồm nhiều loại : cồng, chiêng, tù và sừng trâu hay sừng dê, khèn 14 ống nứa, sáo 6 lỗ, nhị vừa kéo vừa điều khiển âm thanh bằng miệng, đàn Ta lư, Chúng được dùng vào những hoàn cảnh, tình huống khác nhau và theo các tập quán sẵn có của đồng bào. Ví dụ : Trong đám ma thì gõ một chiêng với một trống ; ở lễ hội vui lại có thêm một tù và, một khèn bè 169
  23. NGƯỜI THÁI Tên tự gọi : Tay hoặc Thay. Tên gọi khác : Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tay Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ. Nhóm địa phương : a) Ngành Đen (Tay Đăm). b) Ngành Trắng (Tay Đón hoặc Khao). Dân số : 1.328.725 người. Ngôn ngữ : Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai). Lịch sử : Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, định cư chủ yếu ở các tỉnh từ Tây Bắc đến khu IV cũ (Thanh Hoá, Nghệ An). Hoạt động sản xuất : Người Thái sớm đi vào nghề trồng lúa nước trong hệ thống thủy lợi thích hợp được đúc kết như một thành ngữ - Mương, phai, lái, lin (khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua chướng ngại vật, đặt máng) trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, nay chuyển sang hai vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải. Ăn : Ngày nay, gạo tẻ đã trở thành lương thực chính ; gạo nếp vẫn được coi là lương ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hòa muối, tỏi, có rau thơm, mùi, lá hành có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng gọi chung là chéo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải có nước nhúng lấy từ lòng non - (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm ; ăn chín, thích hợp nhất phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến canh, xào, rang, luộc Họ ưa thức ăn có các vị : cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng thường uống rượu cần, rượu cất. Người Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và châm lửa bằng mảnh đóm tre ngâm khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn. Người Thái Đen ở Mường Chanh (Sơn La) có nghề làm gốm với các sản phẩm quen thuộc như nồi đất, chõ đất, chum, vò Ảnh : Hoàng Bé 170
  24. Cót (xát) rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu (phục tay) và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao. Ảnh : Tiến Dũng Mặc : Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính hàng khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống ; thắt eo bằng dải lụa màu xanh lá cây ; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo, vai phồng, đính vải trang trí ở nách và đối vai ở phía trước như của Thái Trắng. Nữ Thái Đen đội khăn piêu nổi tiếng với các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt theo kiểu chân què có cạp để thắt lưng ; áo cánh xẻ ngực có túi ở hai bên gấu vạt. Áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực trái ; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến Dệt vải là một nghề thủ công truyền thống lâu đời của người Thái. Hình ảnh cô gái Thái bên khung cửi là nét đẹp là đen, có thể màu gạch non, hoa kẻ sọc quen thuộc vẫn thường gặp ở mỗi nhà trong làng bản. hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, Ảnh : Mai Thanh Sơn 171
  25. bên trong có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay. ở : ở nhà sàn, dáng vẻ khác nhau : nhà mái tròn khum hình mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút ; nhà 4 mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần vuông, hiên có lan can ; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh ; nhà mái thấp, hẹp lòng, gần giống nhà người Mường. Phương tiện vận chuyển : Gánh là phổ biến, ngoài ra, gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ. Ở dọc các con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én. Quan hệ xã hội : Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay theo chế độ phìa tạo. Tông tộc Thái gọi là Đẳm. Mỗi người có 3 quan hệ dòng họ trọng yếu : Ải Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông tổ bốn đời). Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ). Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể). Cưới xin : Trước kia người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có 2 bước cơ bản. - Cưới lên (đong khửn) - đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể. Người Thái Đen có tục búi tóc ngược lên đỉnh đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này. Tục ở rể từ 8 đến 12 năm. - Cưới xuống (đong lông) đưa gia đình trở về với họ cha. Đưa tiến bộ kĩ thuật vào cuộc sống đảm bảo sự phát triển bền vững của các dân tộc. Nuôi cá lồng trên sông, suối là một nghề mới mang lại thu nhập cao. Ảnh : Tiến Dũng 172
  26. Sinh đẻ : Phụ nữ đẻ theo tư thế ngồi, nhau bỏ vào ống tre đem treo trên cành cây ở rừng. Sản phụ được sưởi lửa, ăn cơm lam và kiêng khem một tháng ; ống lam bó đem treo trên cành cây. Có nghi thức dạy trẻ lao động theo giới và mời Lung Ta đến đặt tên cho cháu. Cọn nước là cách vận chuyển nước từ chỗ thấp lên chỗ cao để lấy nước tưới ruộng. Đó là một phát minh quan trọng của các cư dân làm nông nghiệp vùng thung lũng. Ảnh : Tiến Dũng Ma chay : Lễ tang có 2 bước cơ bản. Pông : phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), thiêu (Thái Đen). Xống : đưa đồ tang lễ ra bãi tha ma và kết thúc bằng lễ gọi ma trở về ngụ tại gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà. Nhà mới : Dẫn chủ nhân lên nhận nhà Lung Ta châm lửa đốt củi ở bếp mới. Người ta thực hiện tại nghi lễ, cúng đọc bài mo xua đuổi điều ác thu điều lành, cúng tổ tiên, vui chơi. Lễ tết : Cúng tổ tiên ở người Thái Đen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người Thái Trắng ăn Tết theo âm lịch. Bản mường có cúng Thần Đất, Núi, Nước và linh hồn người làm trụ cột. Lịch : Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Đen chênh với âm lịch 6 tháng. Học : Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và văn học. 173
  27. Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một để tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm. Chõ đồ xôi (ninh đồng, chõ gỗ) được đặt trên 3 ông đầu rau bằng đá. Phía trên bếp có giàn để thức ăn cần sấy khô. Người Thái thường dùng ghế mây tròn để ngồi quanh bếp. Ảnh : Tiến Dũng Văn nghệ : Người Thái có các điệu xòe, các loại sáo lam và tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú. Chơi : Trò chơi của người Thái phổ biến là ném còn, kéo co, đua ngựa, dạo thuyền, bắn nỏ, múa xòe, chơi quay và quả mák lẹ. Họ có nhiều trò chơi cho trẻ em. 174
  28. Người Thổ Tên tự gọi : Thổ. Tên gọi khác : Người Nhà làng, Mường, Con Kha, Xá Lá Vàng. Nhóm địa phương : Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai, Li Hà, Tày Poọng. Dân số : 68.394 người. Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á). Lịch sử : Địa bàn cư trú hiện nay của người Thổ vốn là giao điểm của các luồng di cư xuôi ngược. Do những biến động lịch sử ở những thế kỉ trước, những nhóm người Mường từ miền tây Thanh Hóa dịch chuyển vào phía nam gặp gỡ người Việt từ các huyện ven biển Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương ngược lên hòa nhập với cư dân địa phương ở đây. Những người tha hương cùng chung cảnh ngộ ấy ngày một hòa nhập vào nhau thành một cộng đồng chung - dân tộc Thổ. Hoạt động sản xuất : Người Thổ sống chủ yếu dựa vào làm nương, rẫy và một số nhỏ làm ruộng nước. Dù làm ruộng hay làm nương, trình độ canh tác của đồng bào đã phát triển khá cao biểu hiện ở kĩ thuật làm đất (dùng cày nương “cày nộn” một cách thành thạo), thâm canh cây trồng. Cây lương thực được trồng chủ yếu là lúa, sau đó đến sắn và ngô. Ở các nhóm Kẹo, Mọn, Cuối, gai là cây được trồng nhiều và giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của họ. Ở người Thổ, nghề đánh cá cũng rất phát triển ; săn bắn, hái lượm tuy chỉ phát triển ở một số vùng nhưng nó đã góp phần đáng kể vào việc giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống của họ. Ăn : Trước đây, người Thổ ăn gạo nếp là chính, nhưng hiện nay hầu hết đã chuyển sang ăn gạo tẻ. Những khi giáp hạt, đói kém, họ thường ăn các loại củ, các loại rau và các loại quả hái ở rừng. Trong các ngày lễ, tết, người Thổ thường làm các loại bánh chưng, bánh giầy, bánh gai. Mặc : Đàn ông mặc tương tự người Việt với chiếc quần trắng cạp vấn, áo dài lương đen và đầu đội khăn nhiễu tím. Phụ nữ vùng Lâm La mặc váy vải sợi bông màu đen, có thêu hai đường chỉ màu từ cạp tới gấu váy. Một số mặc áo 5 thân màu nâu hoặc trắng. Ở vùng Quỳ Hợp, váy phụ nữ thường được mua hoặc đổi của người Thái. Váy bằng vải sợi bông nhuộm chàm, dệt kẻ sọc ngang, khi mặc những đường sọc đó tạo thành vòng tròn song song quanh thân. Áo cánh trắng cổ viền, tay hẹp như áo cánh người Việt. Phụ nữ đều đội khăn vuông trắng giống như người Mường và để tang bằng khăn dài trắng giống người Việt. ở : Người Thổ cư trú tập trung ở các huyện miền tây tỉnh Nghệ An. Họ sống thành những làng bản đông đúc, chủ yếu theo lối mật tập. Nhà ở truyền thống là loại nhà sàn được che xung quanh bằng liếp nứa hoặc gỗ. Nhưng ở một số vùng, nhà lại được làm theo kiểu cột ngoãm. Ngày nay, nhà cửa của họ cũng đang trong quá trình chuyển từ nhà sàn sang nhà đất như kiểu nhà người Việt trong vùng. 175
  29. Phương tiện vận chuyển : Người Thổ chủ yếu dùng hai phương thức vận chuyển : đối với những thứ nhỏ gọn thì có thể mang, xách hay cho vào sọt, bồ để gánh ; còn những vật nặng phải dùng đến sức trâu, bò để kéo xe (toàn bộ khung và bánh xe đều được làm bằng gỗ). Quan hệ xã hội : Đơn vị hành chính nhỏ nhất trước kia của người Thổ là làng với một ông trùm làng đứng đầu. Trùm làng được bầu lại hằng năm và có nhiệm vụ đốc thúc công việc sưu dịch, thuế khóa, giải quyết các vụ việc xảy ra trong phạm vi của làng. Phong tục rất đa dạng, nhiều khi trái ngược nhau. Ở nhiều dân tộc khác, khăn trắng là dấu hiệu nhà có tang, nhưng ở người Thổ và người Mường, khăn trắng được sử dụng hằng ngày để tôn vẻ đẹp của trang phục. Ảnh : La Công ý Gia đình nhỏ phụ quyền là chủ yếu. Mối quan hệ trong gia đình cũng như làng xóm là tình tương trợ hữu ái. Tuy sống xen cài giữa nhiều dân tộc, nhưng việc kết hôn giữa người Thổ với các dân tộc lân cận dường như không đáng kể, quan hệ hôn nhân giữa các nhóm Thổ với nhau không có sự phân biệt nào. Cưới xin : Tục ngủ mái thịnh hành trong các nhóm Thổ vùng Nghĩa Đàn, Tân Kì, Quỳ Hợp nhưng lại vắng bóng ở các nhóm Thổ vùng Tương Dương, Con Cuông. Từ những đêm ngủ mái, các đôi nam nữ tìm hiểu nhau dẫn đến xây dựng gia đình. Hôn lễ của người Thổ phải qua nhiều bước. Thông thường khi cưới, nhà trai phải dẫn một con trâu, 100 đồng bạc trắng, 30 vuông vải, 6 thúng xôi, một con lợn. Nhiều vùng còn có tục ở rể. Sinh đẻ : Khi sinh được 3 ngày thì cúng bà mụ để đặt tên cho con và người mẹ phải kiêng cữ trong vòng một tháng ; trong tháng đó, người lạ không được vào nhà. 176
  30. Ma chay : Tổ chức khá linh đình và tốn kém. Trước đây, có nhà đã giết tới 12 con trâu. Người chết được quàn trong nhà hằng tuần. Quan tài của người Thổ là một cây gỗ nguyên, đục bụng, giống như cách làm thuyền, làm máng đập lúa. Khi đặt quan tài, phía chân xuôi theo dòng nước chảy. Sau khi chôn cất, cúng người chết vào dịp 30 ngày, 50 ngày và 100 ngày. Những vong hồn không được cúng trong nhà thì được lập miếu cúng ở ngoài trời. Nơi thờ các cô gái chết trước tuổi thành niên được biểu trưng bằng những cột gỗ. Ảnh : La Công Ý Nhiều dân tộc có tục làm nhà táng cho người chết ở thế giới bên kia, hiến nhà táng bằng cách đốt hay để nguyên. Người Thổ không đốt nhà mà đặt nhà táng ngay bên cạnh mộ. Ảnh : La Công Ý Lịch : Người Thổ theo âm lịch. Thờ cúng : Người Thổ thờ rất nhiều loại thần, ma, đặc biệt là các vị thần có liên quan đến việc đánh giặc và khai khẩn đất đai. Trong phạm vi gia đình, ngoài việc thờ cúng tổ tiên, họ còn làm lễ cúng bà mụ mỗi khi trẻ em đau ốm và cúng vía cho người lớn vào các dịp lễ, tết, khi đau ốm. Học : Người Thổ không có văn tự riêng, chỉ một số người biết chữ Hán. Ngày nay, tiếng Việt được phổ cập và sử dụng rộng rãi. Văn nghệ : Vốn văn nghệ dân gian Thổ khá đa dạng ; các bài hát đồng dao vẫn được lưu truyền ; ca dao, tục ngữ rất phong phú. Chơi : Trò chơi gồm kéo co, múa sư tử, chơi cờ tướng. Trẻ em thích chơi đá cầu và đánh cù. 177
  31. Người Việt Tên gọi khác : Kinh. Dân số : 65.795.718 người, chiếm 86,83% dân số toàn quốc. Ngôn ngữ : Người Việt có tiếng nói và chữ viết riêng. Tiếng Việt nằm trong nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á). Lịch sử : Tổ tiên người Việt từ rất xa xưa đã định cư ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Việt định cư trên toàn dải lãnh thổ Việt Nam, là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động sản xuất : Nông nghiệp lúa nước đã được hình thành và phát triển ở người Việt từ rất sớm. Trải qua bao đời cày cấy, người Việt đã tổng kết kinh nghiệm làm ruộng thật sâu sắc : “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống". Hệ thống đê điều kì vĩ ngày nay là sự chứng minh hùng hồn tinh thần ngoan cường chế ngự tự nhiên để sống và sản xuất nông nghiệp của người Việt. Chăn nuôi lợn, gia súc, gia cầm, thả cá, cũng rất phát triển. Đặc biệt con trâu trở thành “đầu cơ nghiệp” của nhà nông. Người Việt nổi tiếng “có hoa tay” về nghề thủ công, phát triển bách nghệ (trăm nghề) mà nghề nào dường như cũng đạt đến đỉnh cao của sự khéo léo tài hoa. Không ít làng thủ công đã tách khỏi nông nghiệp. Chợ làng, chợ phiên, chợ huyện, rất sầm uất. Hiện nay, các đô thị và các khu công nghiệp đang ngày càng phát triển trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ăn : “Cơm tẻ, nước chè” là đồ ăn, thức uống cơ bản hằng ngày của người Việt. Đồ nếp chỉ gặp trong những ngày lễ tết. Trong bữa ăn thường có món canh rau hay canh cua, cá, Đặc biệt, người Việt rất ưa dùng các loại mắm (mắm tôm, cá, tép, cáy ) và các loại dưa (cải, hành, cà, kiệu ). Tương và các loại gia vị như ớt, tỏi, gừng, cũng thường thấy trong các bữa ăn. Rượu được dùng trong các dịp lễ tết, liên hoan Ăn trầu, hút thuốc lào trước kia chẳng những là nhu cầu, thói quen mà còn đi vào cả lễ nghi phong tục. Mặc : Xưa kia, đàn ông thường mặc quần chân què, áo cánh nâu (Bắc Bộ), màu đen (Nam Bộ), đi chân đất ; ngày lễ tết mặc quần trắng, áo chùng lương đen, đội khăn xếp, đi guốc mộc. Đàn bà mặc váy đen, yếm, áo cánh nâu, chít khăn mỏ quạ đen (Bắc Bộ). Phụ nữ ngày lễ, hội hè mặc áo dài. Mùa đông, cả nam và nữ thường mặc thêm áo kép bông. Y phục phân biệt giữa các lứa tuổi chỉ ở màu sắc và cỡ áo quần ; giữa kẻ giàu, người nghèo, y phục có sự phân biệt ở chất liệu vải lụa và chỉ có người giàu sang mới dùng đồ trang sức. Từ đầu thế kỉ XX trở về trước, người ta còn thấy đàn ông thôn quê đóng khố, cởi trần. ở : Người Việt thường ở nhà trệt. Trong khuôn viên thường được bố trí liên hoàn nhà - sân - vườn - ao. Ngôi nhà chính thường có kết cấu ba gian hoặc năm gian và gian giữa là gian trang trọng nhất, đặt bàn thờ gia tiên. Những gian bên là nơi nghỉ ngơi, sinh hoạt của các thành viên trong gia đình ; gian buồng được bố trí ở chái nhà làm chỗ ở của phụ nữ và cũng là nơi cất trữ lương thực, của cải 178
  32. của gia đình. Nhà bếp thường được làm liền với chuồng nuôi gia súc. Ở nhiều tỉnh Nam Bộ, nhà bếp thường được làm sát kề hay nối kề với ngôi nhà chính. Sân để phơi và để sinh hoạt gia đình và cũng để tạo không gian thoáng mát rất phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm. Giếng làng, một biểu tượng văn hóa truyền thống của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Ảnh : Nguyễn Văn Huy Làng truyền thống có trật tự, kỉ cương. Đằng sau lũy tre xanh và cổng làng là một cộng đồng tương đối khép kín. Ảnh : Nguyễn Văn Huy 179
  33. Phương tiện vận chuyển : Phương tiện vận chuyển của người Việt rất phong phú và có thể phân biệt hai loại như sau : + Bằng đường bộ có : gánh (gánh quang, gánh cặp, đòn gánh, đòn sóc, đòn càn, ) vác, khiêng (đòn khiêng), cáng, đội, đeo (bị, tay nải ), cõng (ba lô, bao tải ). Thồ, chở bằng các loại xe : xe đạp, xe kéo, xe đẩy, xe ngựa, xe trâu, xe bò, + Bằng đường thủy có : thuyền, bè, mảng, xuồng, tàu, Mỗi loại này lại có nhiều kiểu dáng, to nhỏ, vật liệu chế tác và trang thiết bị khác nhau. Quan hệ xã hội : Đại bộ phận người Việt sinh sống thành từng làng, dăm ba làng họp lại thành một xã. Nhiều xã cũng chỉ bao gồm một làng lớn và một số xóm độc lập mới tách ra từ làng lớn. Trong làng thường có nhiều xóm, có xóm lớn tương đương với một thôn và thôn Bắc Bộ gần tương tự như một ấp của Nam Bộ. Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi làng có một tổ chức hành chính - tự quản riêng khá chặt chẽ. Tổ chức Phe Giáp làm nơi quy tụ của dân làng để lo toan nhiều công việc của làng xã từ quản lí nhân đinh đến việc hiếu, việc tế lễ Thành hoàng. Những làng thủ công còn có tổ chức phường hội của những người cùng nghề nghiệp. Đặc biệt, trong làng, sự phân chia dân nội tịch và dân ngoại tịch (ngụ cư) được quy định rõ trong hương, khoán ước của làng. Lệ làng được quy định một cách tương đối toàn diện và chặt chẽ về các mặt hoạt động của làng buộc mọi người thừa nhận và tự giác thực hiện. Gia đình : Gia đình của người Việt hầu hết là những gia đình nhỏ gồm hai thế hệ theo chế độ phụ quyền nhưng phụ nữ vẫn giữ vai trò quan trọng, thường là người quản lí kinh tế trong gia đình. Người Việt có rất nhiều dòng họ, có những họ rất phổ biến như Nguyễn, Trần, Lê, Phạm, Vũ, v.v dường như ở địa phương nào cũng có. Mỗi tộc họ, thường có nhà thờ tổ riêng, được chia ra làm nhiều chi phái và mỗi chi phái lại bao gồm nhiều nhánh. Mỗi nhánh lại bao gồm các anh em cùng bố mẹ, ông bà. Quan hệ họ nội được truyền giữ bền chắc qua nhiều đời. Anh em họ hàng (kể cả họ nội và họ ngoại, đều yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Cưới xin : Người Việt rất coi trọng tình yêu trong trắng chung thủy. Dưới thời phong kiến thường là “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy". Ngày nay, nam nữ tự tìm hiểu. Để đi đến hôn nhân - thành vợ thành chồng, nghi lễ cưới xin truyền thống ở người Việt phải qua mấy bước cơ bản sau : - Dạm : nhờ một người làm mối đến nhà gái ướm hỏi trước. - Hỏi : sắp lễ vật sang thưa chuyện chính thức với gia đình và họ hàng nhà gái. - Cưới : tổ chức lễ trình tổ tiên, ra mắt họ hàng làng xóm, tổ chức rước dâu về nhà trai. - Lại mặt : Cô dâu, chú rể về thăm lại nhà bố mẹ đẻ (nhà gái). Qua các bước này và dĩ nhiên trước đó phải qua đăng kí kết hôn thì đôi trai gái chính thức trở thành cặp vợ chồng mới. Ma chay : Việc tổ chức tang ma của người Việt rất trang nghiêm, chu tất và thường được thực hiện qua các bước cơ bản sau : liệm, nhập quan, đưa đám, hạ huyệt, cúng cơm, cúng tuần "tứ cửu", cúng "bách nhật", để tang, giỗ đầu, cải táng, Và cứ mỗi độ Thanh minh, mỗi kì giỗ tết, 180
  34. mỗi gia đình lại đi đắp lại mộ và tổ chức cúng lễ. Cải táng là một phong tục rất thiêng liêng của người Việt. Nhà mới : Người Việt có câu : "Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng nam". Nhà hướng nam thì ấm về mùa đông và mát về mùa hè. Khi làm nhà, ngoài việc chọn hướng còn phải xem tuổi và định ngày tháng tốt để khởi công xây cất. Khi làm nhà xong thì chọn ngày tốt cúng rước tổ tiên về nhà mới và ăn mừng nhà mới. Thờ cúng : Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng quan trọng nhất của người Việt. Bàn thờ được đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà : được cúng lễ vào các ngày giỗ, tết và các dịp tuần tiết, v.v trong năm. Tục thờ Thổ công, Táo quân, Ông địa phổ biến ở các nơi. Rất nhiều gia đình thờ Phật tại gia, thờ Thần tài, v.v và hầu hết các làng người Việt đều có đình thờ Thành hoàng, chùa thờ Phật, nơi thờ Đức Khổng Tử hay đền thờ Phúc Thần, v.v Một bộ phận cư dân ở nông thôn hay thành thị còn theo đạo Thiên Chúa. Tin Lành và các tôn giáo khác như Cao Đài, Hòa Hảo, v.v Lễ tết : Tết Nguyên đán là cái tết lớn nhất trong một năm. Sau tết âm lịch là các hội mùa xuân. Ngoài ra còn có nhiều lễ tết truyền thống khác trong một năm : Rằm tháng giêng, Tết Thanh minh, lễ Hạ điền, lễ Thượng điền, Tết Đoan ngọ, Lễ Vu lan, Tết Trung thu, lễ Cơm mới, v.v Mỗi tết lễ đều có ý nghĩa riêng và lễ thức tiến hành cũng khác nhau. Thờ cúng tổ tiên là một hoạt động tinh thần quan trọng bậc nhất của người Việt. Có nhiều cách bố trí của bàn thờ. Bàn thờ có thể kê trên giường cao, giường cầu hay bàn. Trên bàn thờ có khám (ngai, ỷ hay ảnh), mâm triện (mâm bồng), mâm đài (đài rượu, đài trầu, kê trên tam sơn) cùng ngũ sự (đỉnh, hai cây nến, hai cây đèn), hay tam sự (đỉnh, hai cây nến), bát hương. Y môn có thể bằng gỗ hay vải. Ảnh : Phạm Lan Hương 181
  35. Lịch : Âm lịch từ lâu đã đi vào cuộc sống, vào phong tục tập quán và tín ngưỡng của người Việt. Người Việt dùng âm lịch để tính tuổi, tính ngày giỗ, tính thời vụ sản xuất, tính ngày tốt xấu để dùng cho các công việc lớn của cuộc đời như làm nhà, cưới hỏi, cải táng, Dương lịch là lịch pháp chính thức hiện nay, ngày càng được dùng rộng rãi trong đời sống. Học : Người Việt từ lâu đã sử dụng chữ Hán, chữ Nôm và ngày nay là chữ Quốc ngữ. ở kinh thành Thăng Long xưa, ngay từ thời Lý, đã lập Văn Miếu - Quốc Tử Giám để đào tạo các trí thức bậc cao, được coi là Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam. Văn nghệ : Văn học dân gian với nhiều thể loại phong phú : truyện cổ tích, ca dao, dân ca, tục ngữ, v.v phản ánh mọi mặt cuộc sống của dân tộc. Văn học dân gian góp phần to lớn vào việc giữ gìn bản lĩnh, bản sắc dân tộc. Văn học viết cũng đã đạt được những thành tựu to lớn ở giai đoạn Lý - Trần và đặc biệt là từ thế kỉ XV về sau, với các cây bút thiên tài như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Các bộ môn nghệ thuật như mĩ thuật, âm nhạc, sân khấu, phát triển cao, được chuyên nghiệp hóa. Chơi : Người Việt có rất nhiều trò chơi cho mỗi lứa tuổi, mỗi giới, mỗi mùa, cho cá nhân và cho tập thể. Có những trò chơi thể hiện thú thưởng thức rất thanh cao như thả chim, thả diều, cờ tướng, Lại có những trò chơi mang tính thể thao và cộng đồng mạnh mẽ như kéo co, đánh đu, đánh vật, đua thuyền. Rất nhiều trò chơi mang dấu ấn lịch sử và đậm đà bản sắc như vật, cù, nấu cơm thi, đánh pháo đất. Trò chơi trẻ em thì rất nhiều và mỗi địa phương mỗi sắc thái khác nhau. Lễ hội mùa xuân là nơi tập trung rất nhiều trò chơi dân tộc. Hội làng. Ảnh : Trọng Thanh 182
  36. Người Xinh-Mun Tên tự gọi : Xinh-mun. Tên gọi khác : Puộc, Xá, Pnạ. Nhóm địa phương : Xinh-mun Dạ, Xinh-mun Nghẹt. Dân số : 18.018 người. Ngôn ngữ : Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer (ngữ hệ Nam Á). Người Xinh-mun nói giỏi tiếng Thái. Lịch sử : Người Xinh-mun đã từng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam. Hoạt động sản xuất : Họ chuyên trồng lúa trên nương, một số ít làm ruộng lúa nước. Ăn : Người Xinh-mun ăn cơm nếp, cơm tẻ, thích gia vị cay, uống rượu cần, có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen. Mặc : Y phục của họ giống người Thái. ở : Người Xinh-mun sống ở vùng biên giới Việt Lào thuộc tỉnh Lai Châu và Sơn La. Họ ở nhà sàn. Nhà có mái vòm hình mai rùa. Phương tiện vận chuyển : Phổ biến dùng gùi đeo trên trán. Quan hệ xã hội : Gia đình nhỏ, phụ quyền là chủ yếu, nhưng những đại gia đình gồm ba thế hệ hay các anh em trai đã có vợ vẫn sống chung trong một nhà còn tồn tại khá đậm nét. Số lượng thành viên trong nhà khoảng 10 - 15 người, cũng có nhà lên tới 20 - 30 người. Người Xinh-mun có nhiều họ nhưng phổ biến nhất là hai họ : họ Vì và họ Lò. Cưới xin : Phổ biến tục ở rể. Trước đây, con trai phải ở rể khoảng 8 đến 12 năm hoặc ở rể suốt đời nếu bên vợ không có con trai. Trong lễ cưới đi ở rể, cô dâu, chú rể phải đổi tên của mình để lấy một tên mới chung cho cả hai người. Tên chung này do bố mẹ vợ, ông cậu đặt cho, đôi khi lại phải bói xin âm dương để tìm tên chung. Cô dâu búi tóc ngược lên đỉnh đầu biểu hiện là người con gái đã có chồng. Ngay trong hôm cưới đi ở rể, đôi vợ chồng mới cưới trở về nhà trai 2, 3 ngày rồi mới sang ở hẳn nhà gái cho đến hết thời gian ở rể. Lễ cưới đưa dâu về nhà trai tổ chức sau khi hết thời gian ở rể, lúc đó đôi vợ chồng đã có một hoặc vài con. Lễ lại mặt tổ chức sau đó vài ngày, hay một năm. Bộ nữ phục Xinh-mun tuy đã chịu ảnh hưởng của y phục Thái, nhưng vẫn giũ cách vấn khăn riêng của mình. Ảnh : Mai Thanh Sơn 183
  37. Cũng giống như nhiều dân tộc khác nói ngôn ngữ Môn - Khmer và cũng như người Thái Đen, người Xinh-mun thường kiến tạo mái hồi nhà theo kiểu hình khum tròn hình mai rùa. Ảnh : Mai Thanh Sơn Sinh đẻ : Phụ nữ có mang vẫn đi nương, đi rừng cho đến tận ngày sinh. Sản phụ đẻ ngồi, cạnh bếp nấu cơm, ngay trong nhà. Mẹ chồng, chồng hay một bà già láng giềng đỡ đẻ. Cắt rốn bằng cách : kéo rốn dài đến mắt cá chân đứa trẻ rồi buộc nút lại, từ đó lại kéo dài tiếp một đoạn như thế nữa rồi mới cắt. Nhau đẻ đựng trong ống tre, treo lên cây cao nơi có ít người qua lại. Trẻ gần một tuổi mới mời thầy cúng về làm lễ đặt tên. Nhà mới : Người Xinh-mun có tập quán ai dựng nhà thì cả bản đến giúp nên nhà chỉ làm vài ngày là xong. Họ thường làm nhà vào dịp sau vụ gặt và chọn đất dựng nhà bằng cách bói xem đất có hợp với các thành viên trong nhà không. Ngày nước (các ngày 2, 6, 8, 9 trong tháng) thích hợp với việc làm nhà. Kiêng ngày hỏa tức các ngày 1 và 7. Ông cậu là người dựng cột chính, trên treo nhiều vật tượng trưng cho sự phồn thực, đầy đủ của gia đình như bông lúa, con dao, cái thớt, các vật biểu tượng âm, dương vật. Ông cậu cũng là người đốt ngọn lửa đầu tiên trên bếp nấu cơm của căn nhà mới. Ngọn lửa ấy được giữ không tắt trong suốt đêm đầu tiên. Ma chay : Tiếng súng trong nhà báo hiệu có người chết, cùng lúc đó người con trai ném ông đầu rau vào nơi thờ cúng tổ tiên bày tỏ một sự giận dữ truyền thống. Mọi điều kiêng kị hằng ngày của gia đình cũng như của người con rể nay được hủy bỏ, người ta nấu cơm trên bếp sưởi, đặt tai ninh theo chiều ngang nhà, con rể lo mọi việc cơm nước. Không dùng quan tài gỗ mà chỉ bó cót. Chọn đất đào huyệt bằng cách ném trứng trên khu đất định sẵn, trứng vỡ ở đâu thì huyệt được đặt ở đó. Nhà mồ được làm cẩn thận, có đủ thứ cần thiết tượng trưng cho người chết. Người Xinh-mun không có tục cải táng và tảo mộ. Thờ cúng : Thờ cúng tổ tiên hai đời, bố mẹ và ông bà. Biểu trưng cho nơi thờ tổ tiên là một chiếc xương hàm lợn, ít trầu đựng trên nắp giỏ cơm, ống tre đựng nước. Cúng vào các dịp cơm mới, đám cưới, nhà mới. Việc thờ cúng tổ tiên, tùy nơi, có thể chỉ do anh cả, cũng có thể do các anh em trai cùng đảm nhiệm. Bố mẹ vợ được thờ riêng ở một chiếc lán nhỏ, bên cạnh nhà, cơm nước cúng được nấu ở ngoài nhà. Lễ cúng bản hằng năm rất được coi trọng. Học : Trước đây, một số người biết sử dụng chữ Thái, nay dùng chữ phổ thông. Văn nghệ : Người Xinh-mun thích hát và múa vào các dịp tết lễ, ngay trên nhà. Trai gái, nam nữ hát đối với nhau rất tự nhiên. 184
  38. Người Xơ-đăng Tên tự gọi : Tùy từng nhóm Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Đrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trẽ), Châu. Tên gọi khác : Xê Đăng (Sê Đăng), Kmrâng, Con Lan, Brila. Nhóm địa phương : Xơ Teng, Tơ Đrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu. Dân số : 127.148 người. Ngôn ngữ : Tiếng Xơ-đăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á), ít nhiều gần gũi với tiếng Hrê, Ba-na, Gié-Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm. Lịch sử : Người Xơ-đăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở vùng bắc Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum) và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi. Hoạt động kinh tế : Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối sơ khai : làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm ruộng và dùng cuốc đẽo từ gỗ để cuốc (nay đã có cuốc lưỡi sắt) Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt phá cây bằng rìu và dao quắm hay xà gạc, đốt bằng lửa ; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt ; làm cỏ bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên ; thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ-đăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía, Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ. Nghề dệt vải có ở nhiều vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Đrá ; họ biết chế sắt từ quặng để rèn và lò rèn xưa có bễ kéo bằng da hoẵng. Một số nơi, người Xơ-đăng đã biết đãi vàng sa khoáng. Đan lát phát triển tinh xảo, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền. Người Xơ-đăng không chỉ đan đồ mây tre rất đẹp, mà còn tạo ra một số đồ dùng bằng lá, như nón đội đầu chẳng hạn. Để làm nón, họ lợp lá thành một lớp ken khít nhau và áp sát vào khung, cốt đan bằng nan tre. Đây là một chiếc nón kiểu cổ truyền ở dân tộc này. Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Ảnh : Phạm Ngọc Long 185
  39. Ăn : Người Xơ-đăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng ; khi cúng bái mới có thịt gia súc, gia cầm. Phổ biến là món canh nấu rau hoặc măng lẫn thịt hay cá, ốc và các món nướng. Họ uống nước lã (nay nhiều người đã uống nước đun sôi), rượu cần. Đặc biệt, họ có loại rượu được chế từ loại kê chân vịt, ngon hơn rượu làm từ gạo, sắn. ở một số nơi, người Xơ-đăng có tập quán ăn trầu cau. Nam nữ đều hút thuốc lá ; có nơi, đồng bào đưa thuốc lá nghiền thành bột vào miệng thay vì hút trong tẩu. Mặc : Nam đóng khố, ở trần. Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh, họ dùng tấm vải choàng người. Trước kia, nhiều nơi người Xơ-đăng phải dùng y phục bằng vỏ cây. Ngày nay, đàn ông thường mặc quần áo như người Việt, áo nữ cũng là áo cánh, sơmi, váy bằng vải dệt công nghiệp. Vải cổ truyền Xơ-đăng có nền màu trắng mộc của sợi hoặc màu đen, Ngôi nhà công cộng (nhà rông) nổi bật trong làng ở nhiều vùng người hoa văn ít và chủ yếu thường Xơ-đăng. Công trình kiến trúc cao, to và đẹp nhất này dùng để tiếp đón dùng các màu đen, trắng, đỏ. khách, hội họp, liên hoan ăn uống, tổ chức một số lễ cúng và cũng là chỗ vui chơi, nghỉ ngơi lúc rỗi rãi của nam giới. Những thanh thiếu niên khi chưa có vợ ra đây ngủ đêm. Ảnh : Lưu Hùng ở : Người Xơ-đăng cư trú ở tỉnh Kon Tum, hai huyện Trà Mi, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam và huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi ; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn (trước kia là nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung ; nay là hình thức phổ biến tách hộ riêng). Nhà ở trong làng được bố trí theo tập quán từng vùng : có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kĩ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột. 186
  40. Phương tiện vận chuyển : Gùi được dùng hằng ngày, chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau : đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp, có hoa văn, không có hoa văn, Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") hoặc gùi gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ-đăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kĩ thuật đan. Quan hệ xã hội : Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông "già làng". Lãnh thổ của làng là sở hữu chung, trên đó, mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt ; xưa kia, nô lệ mua về và người ở đợ không bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao. Cưới xin : Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Đám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một nắm cơm, để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân. Ma chay : Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba-na, Gia-rai, Tục “chia của” cho người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng, ) phổ biến. Thờ cúng : Người Xơ-đăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các “thần” hay “ma” được gọi là Kiak (Kia) hoặc “Ông”, “Bà”, chỉ một số nơi gọi là Yàng. Các thần quan trọng như Thần Sấm Sét, Thần Mặt Trời, Thần Núi, Thần Lúa, Thần Nước, Thần Nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con “lươn” khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần Lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân. Lễ tết : Quan trọng nhất là lễ cúng Thần Nước vào dịp sửa máng nước hằng năm, các lễ cúng vào dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kì con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành, Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng Thần Nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tùy làng, nhưng thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3 - 4 ngày. Lịch : Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kì làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các thời điểm với tên gọi cụ thể. Lịch có phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ : ngày cuối tháng nếu trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt Văn nghệ : Người Xơ-đăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloong bút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, dàn ống nứa hoạt động nhờ sức nước, ). Có loại dùng giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là : hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa : có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ-đăng phong phú và đặc sắc. 187
  41. Người Xtiêng Tên gọi khác : Xa Điêng hay Xa Chiêng. Nhóm địa phương : Bù Lơ, Bù Đek (Bù Đêh), Bù Biêk. Dân số : 66.788 người. Ngôn ngữ : thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ-ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh. Lịch sử : Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng nam Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Hoạt động sản xuất : Nguồn lương thực chính là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp. Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn toàn làm rẫy. Nhóm Bù Đeh (Bù Đêh) ở vùng thấp làm ruộng nước từ khoảng 100 năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác nhau, được trồng theo lối "phát - đốt - chọc - trỉa", kết quả mùa màng phụ thuộc lớn vào thiên nhiên và vào việc bảo vệ trước sự phá phách của chim muông. Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng gậy nhọn (mỗi tay cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại Ngôi nhà dài của người Xtiêng hầu như không còn nữa. Trong ảnh là ngôi nhà kiểu dáng cổ truyền còn thấy ở nhóm Bù Lơ vùng Phước Long, nhà 4 mái, lợp tranh, mái tròn ở 2 hồi, thấp và sà sát gần đất, cửa ra vào mở ở chính giữa hai đầu hồi. Ảnh : Phạm Lợi 188
  42. cuốc con (về sau thay thế bằng cái xà - bát mà người Việt sử dụng), dùng tay tuốt lúa. Hái lượm, săn bắn và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng thiết thực. Gia súc phổ biến gồm trâu, bò, lợn, chó, một số hộ nuôi voi ; gia cầm chủ yếu là gà. Nghề thủ công có dệt vải và đan lát. Việc mua bán thường dùng vật đổi vật (nay dùng tiền), có quan hệ hàng hóa với người Việt, Khmer, Mnông, Mạ và cả với bên Campuchia. Phụ nữ Xtiêng biết dệt vải. Ngày nay, nam nữ Xtiêng thường mặc quần áo là sản phẩm của dệt công nghiệp. Dù vậy, vẫn thấy những phụ nữ cao tuổi ở trần, cổ đeo nhiều chuỗi vòng hạt cườm nhiều màu, dái tai căng rộng bởi đôi hoa tai ngà voi Họ cũng là lớp người cuối cùng có những chiếc răng cửa hàm trên bị cắt cụt do tục cà răng Ảnh : Phạm Lợi Ăn : Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm được trong rừng và sông suối (nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống có nước lã, rượu cần. Đồ đựng cơm, canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ hút thuốc lá bằng tẩu (nay ít thấy). ở : Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh Bình Phước, một số ở Bình Dương, Tây Ninh và Đồng Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi, cửa mở hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn của từng hộ đang phát triển. Mặc : Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần ; đàn bà mặc áo hoặc ở trần quấn váy. Trước kia, phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm hay bạc, có cả loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi được ưa chuộng. Ngày nay, nam giới mặc như người Việt ; nữ hay dùng áo cánh, sơ mi. ở vùng gần người Khmer cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khmer. 189
  43. Phương tiện vận chuyển : Các loại gùi rất thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác. Ở nhóm gần người Việt và Khmer, có loại xe gỗ hai bánh dùng đôi bò kéo và đã trở thành một phương tiện vận chuyển phổ biến từ rất lâu đời. Quan hệ xã hội : Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một “bếp” (nak). Nhiều “bếp” hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là thành viên của một dòng họ nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống, làng là đơn vị bao trùm và nổi bật ; trong tự quản ở làng thì ông “già làng” và các bô lão có uy tín cao khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp nghèo, xã hội Xtiêng đã có những “nô lệ gia đình” do phải ở đợ, hoặc bị mua về, Cưới xin : Thông thường, nếu nhà trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở nhà chồng. Trong thực tế, phần đông chú rể phải ở rể do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng cồng, trâu, ) ; riêng ở vùng Bình Long, tỉnh Bình Phước, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục hôn nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn : nhóm Bù Đek cho phép con trai cô với con gái cậu cũng như con trai cậu với con gái cô lấy nhau ; ở nhóm Bù Lơ, chỉ con trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô và cũng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình. Sinh đẻ : Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kì mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay sở ngoài rừng một mình. Ngày nay, nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "Thần Lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "Thần Lúa". Ma chay : Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng. Nếu chết bình thường thì họ chôn trong bãi mộ của làng. Trong quan tài, cùng với tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá, Những ché, nồi, dụng cụ, “chia” cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có tục thăm viếng mồ mả. Có người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và không vui nhộn trong khoảng 10 ngày. Những trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm ngoài khu gia cư của làng và không được chôn vào bãi mộ của làng. Thờ cúng : Người ta tin con người, con vật, cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như “hồn”. “Thần linh” cũng có rất nhiều : Thần Sấm Sét, Thần Mặt Trời, Thần Núi, Thần Lúa, Thần Lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền thế, quan trọng. Lễ tết : Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác nhau trong đời sống người Xtiêng. Trong đó, lễ hội đâm trâu là lớn nhất, thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi cỡ to trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát đạt, mừng con cái lớn khôn, Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn. Nếu hiến sinh một trâu, cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu. Tết Xtiêng được gọi là "lễ cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau, lễ thức ngày Tết có nội dung tạ ơn Thần Lúa sau một mùa. 190
  44. Văn nghệ : Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng ; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Đek (Bù Đêh) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại đàn. Người Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình. Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ còn rất ít so với xưa kia. Khi tổ chức lễ hội có đâm trâu, nếu giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thân cây gạo làm cột. Nếu đâm nhiều trâu hơn, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gọi là gâng srung, những lần sau họ dựng cột gâng rai và nhiều hoa văn trang trí. Đây là phần ngọn của cây cột lễ trong dịp đâm trâu loại gâng rai. Ảnh : Phạm Lợi 191
  45. “Nhờ sức mạnh đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh em trong một nhà, không còn sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa.” (Lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày 3-12-1945, đăng trên báo Cứu quốc, số 108, ngày 4-12-1945)
  46. BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Số 35-CT/TW Hà Nội, ngày 08 tháng 5 năm 2009 CHỈ THỊ CỦA BAN BÍ THƯ Về lãnh đạo Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam Bác Hồ lúc sinh thời, Đảng và Nhà nước ta đã tổ chức hai Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số ở hai miền Bắc và Nam. Nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn của năm 2010, Ban Bí thư quyết định tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị - xã hội quan trọng trong đời sống cộng đồng các dân tộc Việt Nam; nhằm tiếp tục tổng kết, đánh giá công tác dân tộc, khẳng định đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc; khẳng định, tôn vinh và biểu dương công lao đóng góp to lớn của các dân tộc thiểu số đối với thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam. Đại hội là diễn đàn giao lưu, trao đổi, tạo sự đồng thuận và niềm tin vững chắc của đồng bào các dân tộc vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Đây cũng là nguyện vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc thiểu số trong cả nước. Đại hội là biểu tượng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thống nhất ý chí và hành động vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quá trình tiến hành Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đặc biệt đối với vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời là dịp để tiếp tục nâng cao nhận thức, hành động cách mạng của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước, đường lối chiến lược của Đảng về chính sách dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc. Để tổ chức Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam đạt kết quả tốt, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây: 1. Quán triệt sâu rộng về mục đích, ý nghĩa của việc tổ chức Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhằm phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo khí thế thi đua sôi nổi trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thiết thực lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và các sự kiện chính trị, lịch sử lớn của đất nước. 2. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền tới các tầng lớp nhân dân Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) về công tác dân tộc. Chú trọng tuyên truyền trong nước và tuyên truyền đối ngoại về kết quả thực hiện chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. 194 195
  47. Ban tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan liên quan có kế hoạch chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương tổ chức tuyên truyền về Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp. 3. Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam được tổ chức ở cấp huyện, tỉnh và cấp trung ương. Việc tổ chức Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp phải trang trọng, thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm. Thời gian Đại hội Đại biểu ở huyện, tỉnh từ quý III đến quý IV năm 2009; Đại hội Đại biểu toàn quốc sẽ tiến hành vào tháng 5 - 2010 (vào dịp kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương căn cứ tinh thần Chỉ thị này thành lập Ban Chỉ đạo Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số các cấp. Ban Chỉ đạo Đại hội toàn quốc do một đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban, lãnh đạo Uỷ ban Dân tộc làm Phó Trưởng ban Thường trực, thành viên gồm các đồng chí lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương có liên quan. Ban Chỉ đạo đại hội cấp tỉnh, cấp huyện do đồng chí Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm Trưởng ban, thành viên gồm các đồng chí lãnh đạo các cơ quan liên quan trực thuộc tỉnh, huyện. 4. Đây là Đại hội nhằm tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội qua các thời kì cách mạng, đặc biệt là trong thời kì đổi mới. Do vậy, các cấp uỷ đảng cần chỉ đạo việc giới thiệu, chọn cử đại biểu tham dự đại hội các cấp bảo đảm thực sự tiêu biểu, xuất sắc, đại diện cho các dân tộc thiểu số, các thành phần, các giới, các thế hệ, lĩnh vực, vùng miền. Việc bình xét khen thưởng cho các tập thể, cá nhân có thành tích phải có tác dụng động viên, lôi cuốn phong trào, theo đúng Luật Thi đua – Khen thưởng và các quy định hiện hành. 5. Giao Ban Cán sự đảng Uỷ ban Dân tộc chủ trì xây dựng đề án Đại hội, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện; chủ trì, phối hợp với Ban Dân vận Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan liên quan hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp triển khai tổ chức Đại hội. 6. Từ năm 2010 trở đi, định kì 10 năm tiến hành tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam một lần. Chỉ thị này phổ biến đến Chi bộ. T/M BAN BÍ THƯ (đã kí) Trương Tấn Sang 194 195
  48. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Số: 757/QĐ-TTg Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 08 tháng 6 năm 2009 QUYẾT ĐỊNH Phê duyệt Đề án Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 08 tháng 5 năm 2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; Xét đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc. QUYẾT ĐỊNH: Điều 1. Phê duyệt Đề án Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam với các nội dung chủ yếu sau: 1. Mục đích, yêu cầu của Đại hội a) Mục đích Đại hội nhằm tiếp tục tổng kết, đánh giá công tác dân tộc, khẳng định đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc; khẳng định, tôn vinh và biểu dương công lao đóng góp to lớn của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước qua các thời kì; b) Yêu cầu: Đại hội các cấp tổ chức phải trang trọng, thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, đồng thời tạo khí thế sôi nổi, phấn khởi, tự hào trong các tầng lớp nhân dân. 2. Nội dung Đại hội: tổng kết, đánh giá phong trào thi đua yêu nước trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong các thời kì cách mạng, đặc biệt thời kì đổi mới, hội nhập và phát triển; đánh giá tình hình, kết quả thực hiện công tác dân tộc từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đến nay và định hướng đến năm 2020. 3. Đại hội được tổ chức ở 3 cấp: huyện, tỉnh và trung ương (Đại hội toàn quốc); 4. Thời gian Đại hội các cấp a) Đại hội cấp huyện, cấp tỉnh: thời gian 01 ngày, từ quý III đến hết quý IV năm 2009; b) Đại hội toàn quốc: thời gian 02 ngày, vào trung tuần tháng 5 năm 2010 – dịp Kỉ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. 5. Kinh phí Đại hội a) Ngân sách Trung ương bảo đảm chi tổ chức Đại hội toàn quốc và các hoạt động của Đại hội; b) Ngân sách địa phương bảo đảm chi tổ chức Đại hội cấp tỉnh, huyện và các hoạt động của Đại hội; đối với các địa phương chưa tự cân đối được thu, chi ngân sách trên địa bàn thì ngân sách Trung ương hỗ trợ cho ngân sách địa phương để thực hiện. 196 197
  49. Điều 2. Tổ chức thực hiện 1. Thành lập Ban Chỉ đạo Đại hội toàn quốc do một đồng chí Phó Thủ tướng làm Trưởng ban; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc làm Phó Trưởng ban Thường trực; thành viên Ban Chỉ đạo gồm các đồng chí lãnh đạo các Bộ, Ban, ngành Trung ương liên quan (Thủ tướng Chính phủ sẽ có quyết định riêng); Ban Chỉ đạo tổ chức Đại hội cấp tỉnh, huyện do đồng chí Chủ tịch hoặc một đồng chí Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp làm Trưởng ban; thành viên gồm lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành, đơn vị cùng cấp có liên quan (Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định). 2. Uỷ ban Dân tộc là cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Đại hội toàn quốc, giúp Ban Chỉ đạo Đại hội toàn quốc chỉ đạo việc tổ chức Đại hội các cấp; chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ban, ngành, cơ quan Trung ương liên quan xây dựng và thực hiện kế hoạch tổ chức Đại hội toàn quốc; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai tổ chức Đại hội các cấp; theo dõi báo cáo Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Đại hội toàn quốc về kết quả Đại hội các cấp và thực hiện các nhiệm vụ do Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Đại hội toàn quốc phân công. 3. Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Uỷ ban Dân tộc, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các cơ quan thông tin đại chúng tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền trước, trong và sau Đại hội các cấp bảo đảm theo đúng chỉ đạo của Ban Bí thư về tổ chức Đại hội. 4. Các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương liên quan thực hiện các nhiệm vụ quy định trong Đề án. Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày kí ban hành. Điều 4. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ (đã kí) Nguyễn Tấn Dũng 196 197
  50. BAN CHỈ ĐẠO Đại hội Đại bIỂU CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ­­KẾ HOẠCH Tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 05/QĐ-BCĐĐHDTTS ngày 26 tháng 2 năm 2010 của Ban Chỉ đạo Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam) Kế hoạch tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam nhằm thực hiện Quyết định 757/QĐ-TTg ngày 08 tháng 6 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam như sau: I. Nội dung chủ yếu của Đại hội 1. Nội dung hoạt động diễn ra trước khai mạc Đại hội a) Tổ chức Hội thảo Quốc gia về cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và chính sách đại đoàn kết dân tộc; b) Phát phóng sự truyền hình về các dân tộc thiểu số Việt Nam (20 tập) trên kênh truyền hình Việt Nam và Website của Uỷ ban Dân tộc; c) Tổ chức Triển lãm giới thiệu bản sắc văn hoá và thành tựu của các dân tộc thiểu số Việt Nam tại Triển lãm Vân Hồ; d) Tổ chức Hội chợ giới thiệu về Văn hóa - Thương mại của các dân tộc thiểu số Việt Nam tại Trung tâm Hội chợ Quốc gia Giảng Võ; đ) Tổ chức Festival học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số Việt Nam; e) Tổ chức Cuộc thi Tìm hiểu về các dân tộc thiểu số Việt Nam; g) Biên soạn và xuất bản 01 ấn phẩm (ảnh và lời) tổng quan về kinh tế, văn hoá, xã hội các dân tộc thiểu số Việt Nam; h) Tổ chức Lễ trao tặng Kỉ niệm chương “Vì sự nghiệp phát triển các dân tộc” nhân dịp tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam cho các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Đại hội toàn quốc; i) Tổ chức họp báo thông báo việc tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam; k) Tổ chức tiếp đón đại biểu: ngày 09 tháng 5 năm 2010; l) Tổ chức Lễ dâng hương Đền Hùng: ngày 10 tháng 5 năm 2010; m) Tổ chức cuộc gặp mặt của đại diện Lãnh đạo Đảng và Nhà nước với đại diện 53 dân tộc là các đại biểu tiêu biểu, xuất sắc dự Đại hội toàn quốc; 198 199
  51. n) Tổ chức thăm quan Vịnh Hạ Long (theo đăng kí của các đoàn đại biểu); o) Tổ chức viếng các Anh hùng liệt sĩ tại Đài tưởng niệm liệt sĩ Thành phố Hà Nội : sáng ngày 11 tháng 5 năm 2010; p) Tổ chức vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh: sáng ngày 11 tháng 5 năm 2010. 2. Nội dung hoạt động diễn ra trong Đại hội chính thức a) Báo cáo Chính trị Đại hội: Tổng kết phong trào thi đua yêu nước trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực của đời sống xã hội qua các thời kì cách mạng, đặc biệt là thời kì đổi mới và hội nhập; đánh giá kết quả thực hiện công tác dân tộc từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) đến nay và định hướng đến năm 2020; b) Báo cáo điển hình của các tập thể, cá nhân trên các lĩnh vực tại Đại hội; c) Phát biểu chỉ đạo Đại hội của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước; d) Tôn vinh, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào yêu nước ; đ) Tổ chức Dạ hội chào mừng thành công của Đại hội vào đêm giữa hai ngày Đại hội chính thức; e) Chiếu phim tài liệu về các dân tộc thiểu số Việt Nam tại Đại hội và Website của Uỷ ban Dân tộc (thời lượng khoảng 30 phút); g) Tường thuật trực tiếp Chương trình Đại hội trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và Website của Uỷ ban Dân tộc. 3. Nội dung hoạt động sau Đại hội a) Họp báo Thông báo kết quả Đại hội; b) Biên tập, hoàn thiện, ban hành Kỉ yếu Đại hội; c) Tổ chức Hội nghị Tổng kết đánh giá kết quả Đại hội Đại biểu toàn quốc của Ban Chỉ đạo (có kế hoạch riêng); d) Quyết toán kinh phí Đại hội. II. Thời gian, địa điểm tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam 1. Thời gian a) Đại hội trù bị (có kịch bản riêng): 1/2 ngày (từ 14h ngày 11 tháng 5 năm 2010); b) Đại hội chính thức (có kịch bản riêng): 2 ngày (ngày 12 và 13 tháng 5 năm 2010). 2. Địa điểm: tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mĩ Đình, Hà Nội. III. Số lượng, cơ cấu đại biểu 1. Số lượng đại biểu a) Tổng số đại biểu chính thức: 1.702 đại biểu. Trong đó: - Đại biểu khối địa phương: 1.252 đại biểu. - Khối cơ quan Trung ương: 450 đại biểu. 198 199
  52. b) Đại biểu khách mời (dự kiến khoảng 500 đại biểu) - Đại biểu khách mời ở các cơ quan Trung ương dự Đại hội: các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; đại diện Lãnh đạo các cơ quan Trung ương không phải là đại biểu chính thức của Đại hội; - Đại biểu khách mời ở địa phương: 01 đồng chí Lãnh đạo chủ chốt của tỉnh (nếu Đoàn đại biểu của địa phương không có lãnh đạo chủ chốt của tỉnh là đại biểu chính thức dự Đại hội toàn quốc); Trưởng hoặc Phó Ban Chỉ đạo Đại hội cấp tỉnh (nếu Đoàn đại biểu của địa phương không có Trưởng và Phó Ban Chỉ đạo Đại hội cấp tỉnh là đại biểu chính thức dự Đại hội toàn quốc); đại diện Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong thời kì Đổi mới là người dân tộc thiểu số; đại diện các trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân, doanh nhân tiêu biểu là người dân tộc thiểu số; - Đại biểu khách mời quốc tế: mời đại diện một số đại sứ quán, cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế tại Hà Nội. 2. Cơ cấu đại biểu chính thức Đại hội: Đại biểu đại diện cho các thành phần dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; các ngành, lĩnh vực; lứa tuổi, giới tính; các tầng lớp nhân dân trong phạm vi toàn quốc. IV. Ban Tổ chức và phục vụ Đại hội Dự kiến khoảng 500 người (gồm thành viên Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức, các Tiểu ban, lễ tân, cán bộ an ninh, trật tự, bảo vệ, nhân viên phục vụ, lái xe, y tế, phóng viên ). V. Phân công trách nhiệm Thực hiện theo Phụ lục Kế hoạch chi tiết tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam kèm theo Kế hoạch này. VI. Kinh phí Đại hội 1. Nguồn ngân sách trung ương đảm bảo, theo kế hoạch được duyệt. 2. Nguồn tài trợ của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân. VII. Tổ chức thực hiện 1. Giao Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, Trưởng ban tổ chức Đại hội toàn quốc chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị và các Tiểu ban giúp Ban Tổ chức Đại hội thực hiện các nhiệm vụ được phân công đảm bảo chất lượng và tiến độ theo thời gian quy định; phê duyệt kế hoạch, chương trình, nội dung hoạt động cụ thể của các cơ quan, đơn vị và các Tiểu ban; chỉ đạo và thông qua kịch bản tổ chức Đại hội (trù bị và chính thức); đồng thời chủ động báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Trưởng ban Chỉ đạo khi cần thiết. 2. Uỷ ban Dân tộc chủ trì, phối hợp Ban tổ chức Đại hội toàn quốc, các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng dự toán kinh phí Đại hội gửi Bộ Tài chính để làm căn cứ bố trí kinh phí theo quy định. 3. Bộ Tài chính bảo đảm đủ kinh phí theo kế hoạch được duyệt, bố trí kinh phí cho các cơ quan, đơn vị để thực hiện nhiệm vụ; kiểm tra, giám sát để đảm bảo việc sử dụng kinh phí được cấp của các đơn vị đúng mục tiêu, đối tượng, tiết kiệm, hiệu quả và quyết toán kinh phí sau khi kết thúc Đại hội. 200 201