Châm cứu học - Thích Tâm Ấn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Châm cứu học - Thích Tâm Ấn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- cham_cuu_hoc_thich_tam_an.pdf
Nội dung text: Châm cứu học - Thích Tâm Ấn
- Thích Tâm Ấn CHÂM CỨU HỌC WWW.THUQUAN.NET, 2008.
- Y Học, Sức Khỏe Châm cứu học Chương 1 (Biên khảo về Châm cứu của T.T Thích Tâm Ấn) T.T. THÍCH TÂM ẤN CHÂM CỨU HỌC 1965 Nguồn gốc và lịch sử khoa châm cứu 1
- Căn cứ theo sách y học Trung Hoa (Nội kinh tố vấn luận) và tài liệu của Thừa đạm am một Châm cứu gia trứ danh Trung quốc thì khoa châm cứu là một phương pháp chữa bịnh thời tối cổ của nước này cách đây hơn 5.000 năm. Người thượng cổ vì sự sống quá thô sơ nên phần nhiều bị ngoại tà xâm nhập làm thịt nhức, gân co. Khi có bệnh chỉ biết dùng lửa để hơ và dùng đá nhọn để châm chích (thạch khí thời đại). Cách trị liệu này dần dần đúc kết thành khoa châm cứu ngày nay. Do kinh nghiệm sống thời thượng cổ, Thánh nhân đã dạy rằng: vì cuộc sống đơn giãn của loài người thuở ấy nên việc trị bệnh cũng đơn giãn, có khi chỉ lấy tay ấn vào huyệt, xoa mạnh vào vùng kinh lạc tập trung, hay hơ ấm những nơi đó cũng lành bệnh được. Nên phương pháp trị bịnh thuở ấy rất giãn dị như án ma, suy nả, quất thử, huân úy, tẩm dục, đồ hoán, phu triêm, xuy thông, điều nhập , đạo dẫn, châm cứu, chà bóp (massage) sửa lận xương gân , cạo gió, bắt gió xông giác (fumigation, inhalation, révulasion) tắm (bain médicamenteuse) thoa rưới (Badigeonage friction) đặt dán (catalasme, emplâtre) thổi thụt (insufflation) nhét hậu môn (suppositoire), thông khoan bằng thuốc hay các chất giúp cho thông đại tiện (gymnastique), châm đốt vào các kinh lạc của các kinh huyệt (acupunture). Tất cả các phương pháp trên chỉ có châm cứu là quan hệ nhất. Các phương pháp khác chỉ có tính cách phụ trợ, giải quyết tạm thời chứ không thể lành bệnh hẳn được. Từ khi có văn tự, sự ghi chép và kinh nghiệm về khoa châm cứu được hệ thống hoá có qui củ. Trái qua ngàn năm với các kinh nghiệm được thêm thắt lần hồi làm cho khoa châm cứu trở nên cực kỳ tinh vi thần diệu. Khoa này thịnh hành nhất từ năm 1277 đến năm 1628 ở Trung Hoa, Cao Ly, nhật Bản và Việt Nam. Từ đó ngoài những châm cứu gia, các Đông y sư cũng dùng châm cứu để làm trợ liệu cho thang dược, thâu thập rất nhiều kết quả khả quan ngoài sức tưởng tượng. Đến thế kỷ thứ 17 nhân có một số khoa học gia Đông Tây bắt đầu nghiên cứu về khoa này với những quan niệm ôn cố nhi tri tâm làm cho khoa châm 2
- cứu đươc phát triển rộng ra. Phong trào nầy đã đưa khoa châm cứu tiến thêm một bước khá dài. Đông y cho đó là cơ hội âu phong đông tiệm. Hiện nay khoa châm cứu đã được thế giới chú ý, cả Tây y cũng đặt thành vấn đề nghiên cứu phối hợp trị liệu cho các bệnh nhân hàng ngày. Ở Pháp , Đức, Nhựt, Đại Hàn, Trung Hoa, vv đều có thành lập các viện châm cứu, các y viện chuyên trị bệnh bằng khoa này, thu thập hằng ngàn luận án để tổng kết phổ biến kinh nghiệm và 3 năm có họp một lần, một tạp chí ra hàng tháng (R.I.A) được phát hành rộng rãi. Ở Việt Nam khoa châm cứu chưa được phát triển rộng rãi và chỉ có một số đông y sư áp dụng châm cứu với tính cách phụ trợ cho thang dược mà thôi. Y sư Nguyễn Văn Quan sau bao năm nghiên cứu ở Nhựt, trở về nước mở phòng trị bệnh nhưng thời bấy giờ ít ai hiểu được sự công hiệu của khoa này nên ông lại trở qua Nhật chuyên khảo cứu và xuất bản nhiều quyển sách rất có giá trị. Từ 1949 đến 1950 , sau khi dự Hội nghị châm cứu Quốc tế về, Bác sĩ Nguyễn Văn Ba đã chuyển hướng chữa bệnh bằng khoa châm cứu. Bác sĩ Nguyễn văn Ba, nghiên cứu nhiều về Đông y và châm cứu, trong việc trị bệnh hằng ngày Bác sĩ Ba thường trị bằng châm cứu và thuốc Tàu. Bác sĩ Hoàng Mộng Lương tuy chuyên về Tây y nhưng cũng áp dụng phương pháp trị liệu về khoa châm cứu. Đông ý sư có công nghiên cứu về châm cứu và có nhiều kinh nghiệm về thuật nầy hiện nay rất ít. Ở Nam Việt có cụ Lê Chí Thuần, một Lão y sư có tên tuổi. Ở Huế có Lão y sư Trần Tiển Hy, Thái Y Nguyễn Văn Ái cũng là bậc Lão Y, Lão Nho, nghiên cứu và áp dụng lâu năm khoa nầy và đã có rất nhiều kinh nghiệm. Hiện nay một số Đông y sĩ trẻ tuổi và sinh viên Y khoa đang cố công nghiên cứu áp dụng khoa châm cứu. 3
- II. KHOA CHÂM CỨU VỚI CÁC LOẠI BỊNH Khoa châm cứu là thuật trị bịnh rất khoa học, dựa vào kinh lạc, cơ điểm của từng tạng phủ, từng hệ thống một của thần kinh của mỗi bộ phận trong người, đúng với nguyên tắc cấu tạo của cơ thể học (cơ thể học: Anatomie) Nói đến châm cứu đa số còn quan niệm là nó chỉ trị được một số bệnh như đau lưng, nhức đầu, đau bụng, tê bại, thủng trướng hay trúng phong, kinh giản v.v. . . Sự thật, những bậc tiền bối của chúng ta từ rước cũng như các châm y hiện đại của Pháp, Đức, Nhựt, Trung Hoa đều đã dùng châm cứu đối phó với vô số bịnh tật. Chúng ta đọc Châm cứu Đại thành hay tạp chí của Hội Châm cứu Quốc tế (Revue international d acupuncture) sẽ thấy, trừ những bịnh về ngoại thương, cơ hồ không có mấy chứng bịnh mà người ta không thể trị bằng khoa châm cứu được. Cổ nhân có nói “vạn bệnh nhất châm”, tuy hơi quá đáng những cũng có bằng cớ vậy. Trước đây người phương tây (Âu châu) có quan niệm chỉ dùng riêng cho bịnh thuộc về nhiều loại quan năng (Troubles fontionelles) gây ra. Sau này nhờ sự gia công nghiên cứu của các châm gia nhất là ở Nhật (Thời Minh Trị có nhiều Châm y đặt vấn đề khoa học hoá khoa châm cứu) người ta đã chứng mình rằng châm cứu khoa còn trị được cả những chứng bịnh có vi trùng như sốt rét rừng (Paludisme), dịch tả (choléra). Những bịnh về thời khí, kinh niên nội tạng bị hư hao ít nhiều như dạ dày bị trụt (ptôse estomac) cả những bịnh sở quan đến tinh thần (déficience mentale) , si ngốc (idiotie), điên cuồng (démence, folie) v.v.v những bịnh về tâm lý (đau nhức ở mặt vì lúc nhỏ bị nhiều sợ sệt khổ tâm) (theo y án của Bác sĩ Kalma trong R.I.A số tháng 7, 8, năm 1959, đau đầu, ói, mửa vì gặp điều trái ý hay nổi giận dữ (theo y án của Bác sĩ Rebuelto trong tạp chí R.I.A tháng Avril 1951) . Tuy nhiên có những loại bịnh như ung thư, dương mai thì châm cứu chỉ đóng vai phụ trợ cho thuốc mà thôi. Nói chung, châm cứu trị cả những chứng bịnh mà nội tạng bị tổn thương (lésion)). Thực vậy Thái tử nước Quất bị chứng thi khuyết nhờ biển Thước châm ở huyệt Duy hộ mà khỏi, Ngụy võ Đế bị đau đầu, phong, nhờ Hoa Đà châm ở huyệt Nảo không mà hết bịnh. Kết quả trị liệu đều do ở chỗ thủ thuật cao thấp, huyệt vị có được nắm vững hay không. Trải qua mấy trăm năm khoa châm cứu đã được các bậc tiền bối, nghiên cứu, bồi bổ kinh nghiệm rất nhiều do đó nó trở thành có lý luận, trị liệu châm cứu có căn cội, nghĩa là có luận chứng lập phương không khác nào trị 4
- liệu bằng thang dược, đôi khi lại có phần khó hơn. Một quan niệm khác cho rằng châm cứu chỉ trị được một số bịnh, còn một số bịnh khác phải nhờ uống thuốc. Như chúng ta đã biết khí hóa của Vũ trụ và cơ thể quan hệ đến bệnh tật như thế nào mà châm cứu là khoa trị bịnh phù hợp với khí hoá hơn hết. Như vậy tại sao châm cứu lại chỉ trị được một số bịnh? điều này trong thực tế hàng ngày đã chứng minh được rất nhiều. Từ những loại bệnh do ngoại tà xâm nhập đến những bệnh nội thương bởi chính khí của cơ thể suy kém, những kỳ bịnh do biến thể của ra khí, bịnh hiện ngoài da, bịnh hiện trong xương thịt, bịnh phá hoại máu, làm tê liệt một phần hệ thống thần kinh v.v.v đã được giải quyết bằng trị liệu châm cứu. Tuy nhiên ,chúng ta vẫn nhận rằng sự hổ trợ giữa châm cứu và dược tể cũng rất cần. Âm dương suy kém, vinh vệ không đều, thủy hỏa mất thăng bằng, vận khí không thuận v.v. . . đó là những căn nguyên làm cho con người bịnh tật Và châm cứu đã giải quyết được những căn nguyên của bịnh ở trên. Về trị liệu bằng thang dược và châm cứu, nếu biết xử dụng đúng phương pháp rất nhiều trường hợp được giải quyết nhanh chóng hơn. Ví dụ: một vài trị liệu cho những bịnh lạ (kỳ bịnh), thời gian dùng thang dược sẽ dài gấp ba bốn lần so với trị liệu châm cứu. Trong thực tế dùng khoa châm cứu để trị bịnh , kinh nghiệm đã cho biết: nhiều bệnh về loại ngoại cảm, từ sơ phát đến khi nhiễm lý phạm vào từng kinh lạc, biến thể nhiều tạng chứng khác (nhứt là loại trúng phong, thương hàn) công năng: tuyến, thông, công, tán của châm cứu rất nhiều hiệu lực. Ví dụ: tà phạm nặng vào Túc khuyết âm biến thể của chứng nầy nếu dùng thang dược trị liệu giải quyết sẽ rất chậm trong lúc nầy nếu dùng châm cứu thời gian sẽ rút ngắn rất nhiều. Những bịnh về nội thương, trừ những cơ thể quá suy nhược mới phải dùng thang dược để trị liệu, ngoài ra thì dùng châm cứu rất kịp thời. Ví dụ: Tà phạm nặng vào Túc Thiếu âm làm cho kinh này suy yếu biến thể làm ê đầu thường xuyên, tai lùng bùng, đêm ngủ mồ hôi dầm dề, suyễn, khạc ra máu, nếu dùng thang dược để giải quyết tình trạng động kinh nầy sẽ rất chậm trong lúc cơ thể rất cần bớt sự hành hạ dày vò. Khoa châm cứu trong trường hợp này rất cần. 5
- Nói chung, châm cứu đối với các loại bịnh đều giải quyết được nhất là những bịnh thâm nhiễm lâu ngày thì sức tuyên thông của châm cứu rất mau. Phần trợ liệu của thang dược đối với châm cứu cần trong trường hợp cơ thể suy yếu. Ngược lại phần trợ liệu châm cứu đối với thang dược lại rất cần cho những trường hợp bịnh trạng quá nguy kịch loại thuốc mạnh của thang dược vẫn giải quyết rất chậm. III. NHẬN THỨC GIỮA TÂY Y VÀ ĐÔNG Y Đông y là một khoa học cố hữu của đông phương . Trước thế lực của Tây y tiến bộ đến cực độ và tràn lan mạnh mẽ nếu đông y không có một cơ sở lý luận, một kinh nghiệm trị liệu căn bản thực tế đem lại sức khoẻ cho loài người thì đã bị Tây y chà nát từ lâu. Đông y đặt mình trên cơ sở toàn là khí hoá cho nên dù lập luận theo phương pháp mới của Tây y, nào giải phẩu, sinh lý chẩn đoán, dược vật, v.v. . chúng ta cũng gặp toàn là khí hoá. Sự thật thì Đông y và Tây y mỗi đàng có một nguyên lý, học thuyết khác nhau như trời với vực. Tuy nhiên nếu thực tâm vì mục đích cứu khổ và phục vụ cho nhân loại, phá bỏ mọi đố kỵ nhỏ nhen thì Đông y và Tây y có thể phối hợp mỗi bên một phương pháp sẽ giúp cho đời rất nhiều lợi ích. Trước Thiên Chúa Giáng sinh 460 năm, phái của Hypocrate cũng chủ trương theo lý thuyết khí hoá của vua Huỳnh đế Đông phương. Sáu trăm năm sau, phái Galien (Kỷ nguyên 131 – 210) nổi lên lấy vật thể giải phẩu học làm căn cứ. Nhìn sự sống qua thể chất. Hư nghẹt chỗ nào thì cứu chữa bộ phận chỗ ấy. đó là Khoa y học theo nguyên tắc lý thuyết Vật hoá (l’altération de substances). Nhằm theo xác thịt con người, chữa bịnh bằng lối dùng vật thể thay cho bộ phận của cơ thể hư, Tây y đã đi đến tuyệt điểm theo nguyên tắc lý thuyết của họ nhưng vẫn chưa hoàn toàn thắng bệnh tật. Hiện nay một số Bác sĩ thông thái đã nhìn thấy y học ở Đông phương ngành khí hoá học in hệt thuyết Hypocrate nên liền chú tâm nghiên cứu. 6
- Tây y có tham vọng tìm hiểu kinh nghiệm của Đông y, đông ý có tham vọng thể dụng cơ giới của Tây y, hai điều đó hai bên phải đặt mình trên cơ sở chính đáng mới có cơ hội dung hòa được. IV. LUẬN VỀ ÂM DƯƠNG KHÍ HOÁ Vũ trụ là sự điều hợp của hai khí âm và dương. Âm là nặng, đục chìm xuống là đất. Dương là nhẹ, sáng trong nổi ở trên. Qua một chuyển biến về khí hóa, vũ trụ lần lần được trật tự lại. Tất cả các vật thể trong vụ trụ đều do sự biến chuyển của khí hóa mà thay đổi. Ví dụ: hơi của nước xông lên để chuyển thành mưa. Gió thổi có thể di chuyển đổi dời một hòn núi đất. Thời gian và không gian cũng được chia ra theo nguyên tắc khí hoá. Đông phương lấy sự biến hóa của khí trong không gian làm tiêu chuẩn để phân chia thời tiết, tháng ngày. Lấy mực độ cao nhất của âm dương tức là độ thuần âm và độ thuần dương. Thí dụ: khí thuần âm lên đến thuần dương là 180 ngày có dư và thuần dương tới thuần âm 180 ngày có dư. Do đó mới định từ khi khí lên cho đến lúc khí xuống nguyên độ cũ là một năm hay hơn 300 ngày, 24 khí, 28 tiết, cùng là 4 mùa. Do chuyển biến khí hoá của vũ trụ nên đã định ra ước lệ về thời gian. Khí trời (dương) chi phối khí của đất (âm) là thuận và ngược lại là nghịch. Khí thuận thì muôn vật sinh hoá dễ dàng, nghịch lại thì muôn vật tiêu hao rồi tàn tạ. Con người theo luận thuyết đông y là một trong muôn vật, gặp khí tiết của trời đất thạnh thì khoẻ mạnh nở nang, khí tiết của trời đất nghịch thì tiêu hao bịnh tật. Trị bịnh cho con người theo phương pháp của đông ý là điều hòa khí hóa trong cơ thể cho kịp chiều hướng bất thường của Trời đất. V. NGỦ HÀNH SANH KHẮC Khí hóa của đất có 6 loại: Mộc khí, Quân hỏa, Tướng hỏa, Thổ khí, Kim khí, 7
- Thủy khí. Khí của trời có 6 loại, người xưa đặt những tên tượng trưng: Dương minh, Thái dương, Thiếu dương, Khuyết âm, Thái âm và Thiếu âm. Cả hai khí của Trời đất phải giao hiệp nhau để thành phong, hàn thử, thấp, táo, hòa. Sái nghịch là vạn vật tiêu hao khổ bệnh. Khí của trời thuận, chi phối được khí của đất thì sự sinh hóa thuận chiều Kim sanh thủy, Thủy sanh mộc mộc sanh hoả, hoả sanh thổ thổ sanh kim. Phong mộc ở mùa xuân sinh luân hỏa. Huân hòa ở đầu mùa hạ sinh ra tướng hỏa ở cuối hạ Thử hỏa ở chính hạ sinh ra thấp thổ Thấp thổ ở đầu thu sinh ra táo kim Táo kim ở cuối thu sinh ra hàn thủy. Hàn thủy ở mùa đông rồi sự sinh hóa đi vòng trở lại cứ thế mà sinh hoá liên tiếp. Theo Đông y luận: nhân thân là tiểu vũ trụ. Cơ thể con người định thuộc vào khí trời, khí đất, tạng phủ kinh lạc trong cơ thể con người cũng phối hợp chuyển hoá với nhau theo sự chuyển hóa của khí và sự vận hành của trời đất. Khí trời đất chuyển hóa bất thường thì vũ trụ bịnh và làm cho vạn vật đều bịnh. Sự chuyển hóa của khí, sanh ra bịnh nội thương. Sự chuyển hoá bất thường của trời đất làm ra bịnh ngoại cảm. Lập luận rõ ràng nguyên tắc khí hóa giữa Trời Đất và con người để theo đó mà luận bịnh gọi là khoa Khí Hoá Y lý học (altération des humeurs). Những vì thuộc chất thể (đối lại khí thể) trong vũ trụ, đông y liệt về loại ngũ hành (kim mộc, thủy, hỏa, thổ). Những gì thuộc về khí thể (đối lại chất thể) đều liệt về loại lục khí. (phong,hàn, thử, thấp, táo, hỏa) Theo đông y hình thể con người có hình trạng song sự đau mạnh của những 8
- hình tượng đó không thể chỉ nhìn vào mà luận được. ví dụ: tim yếu, thiếu máu, Tây y cho sang máu và làm yên tim. Đông y cho đó chỉ là trị ngọn. Cách trị của Đông y là luận rõ căn nguyên của bịnh rồi làm cho tim hoạt phát trở lại tự nó làm cho đầy máu. Như vậy đông y làm cho phần khí của tim điều hòa ăn nhịp với các phần khí của các tạng phủ khác. Bác sĩ Sakurafawa sau khi nghiên cứu về y lý Đông phương cũng nhận chân rằng làm cho điều hòa khí huyết trong cơ thể, hể bên trong tạng phủ đã chỉnh đốn hoàn toàn thì tà khí không thể xâm nhập nhiễu nhương nữa (Il faut créer la constitution, le terrain, le milieu intérieur parfait dans lequel les facteurs maladifs ne peuvent pénétret ou ne sont plus actifs theo quyển La principe unique). Ngũ hành tương khác là: kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim. Khoa châm cứu phân kinh lạc có âm kinh và dương kinh, huyệt có ngũ hành (kim, mộc, thủy , hỏa, thổ) tương sanh tương khắc, mỗi thứ đều có ẩn tàng ý nghĩa sâu xa. Như những chứng hư thì dùng cách châm bổ dụng ngũ hành huyệt tương sanh để có tác dụng xúc tiến cơ năng mạnh mẽ cho bịnh được bình phục. Thí dụ như: tỳ vị thuộc thổ bị hư nhược thì bổ kinh hỏa huyệt vì hoả sinh thổ. Trái lại những chứng thật thì dùng cách châm tả dụng ngủ hành huyệt tương khắc để có tác dụng chế ngự các cơ năng đem lại sự quân bình cho tạng phủ. Ví như gan, mật thuộc mộc đau thật chứng thì tả mộc kinh kim huyệt vì kim khắc mộc. 9
- Châm cứu học Chương 2 PHƯƠNG PHÁP CHÂM I. Cách tìm huyệt và phân tấc 1. Phương pháp tìm huyệt - Cách nhận định vị trí để tìm mỗi huyệt có nói rõ ở mỗi chương. Khi tìm huyệt chắc chắn rồi cần phải tra cứu kỹ: a) huyệt này châm hay đốt. b) Nếu là huyệt chỉ được châm thì xem có thể châm sâu hay cạn. c) Phân biệt huyệt chánh hay phụ. d) Xét thể trạng và sức khoẻ của người bịnh để xử dụng theo lối châm mạnh (cường châm) châm mau ( tốc châm) châm cho ra máu (châm xuất huyết) châm rộng vùng (loạn châm) châm bổ hay châm tả, châm đứng hay xiên hay châm lẻo ngoài da. 2. Phân tấc: - Phân tấc trong khoa châm cứu không nhất định vì người có lớn nhỏ ốm mập, nên người bịnh nào thì lấy phân tấc của người ấy. Thí dụ như muốn đo lấy một tấc của người bệnh thì bảo họ co ngón tay cái và ngón tay giữa cho đụng nhau. Từ đầu chỉ ta bên trong đến đầu chỉ bên ngoài của lóng giữa ngón tay giữa là một tấc. Đàn ông lấy tay trái, đàn bà bên tay phải, trẻ con cũng đo như vậy. Đo những huyệt trên đầu thì đo từ mé tóc trước trán đến mé tóc phía sau ót là 12 tấc hay là một thước hai tấc. (dùng những huyệt trong mí tóc) Một cách khác là tìm huyệt dựa theo những điểm chánh của cơ thể, rồi từ những điểm chánh đó đo đến huyệt mình muốn tìm. Thí dụ: Múôn tìm huyệt Thông thiên ta hãy lấy huyệt chính là Bá hội đo ra hai bên, mỗi bên là một tấc rưỡi rồi đo ra sau 5 phân. Tìm huyệt ở vùng bụng, thì lấy rún làm điểm chính. Như muốn tìm huyệt Trung Uyển thì từ rún đo lên 3 tấc, Thượng uyển đo lên 5 tấc . Hạ uyển đo lên 1 tấc. từ rún đo xuống một tấc 5 là huyệt Khí hải, xuống 3 tấc là huyệt Quang nguyên, 4 tấc là huyệt Trung cực v.v. 10
- Ở vùng lưng lấy Tam hạng cốt (hay Hổ lô cốt) làm điểm chính, để tìm các huyệt khác. Dưới xương này giáp với đốt thư tư là huyệt Đại chùy, dưới một đốt nữa là huyệt Đào đạo, giữa đốt 8 và 9 là huyệt Linh đài, giữa đốt 12 – 13 là huyệt Cân súc, Từ giữa đo ngang ra tìm các huyệt khác. Như huyệt Đào đạo đo ra một bên 2 tấc là huyệt Phong môn v.v Ở một có nhiều điểm chánh như chót và đầu chân mày, khoé miệng, mé tóc v.v. . . Ở chân điểm chánh là đầu gối, mắt cá và cườm chân. Ở tay ấy đầu xương vai, cùi chỏ, cườm tay. Ngoài những điểm kể trên còn do ở thực nghiệm và quan sát chuyên môn và linh động mà ta nhận đúng vị trí của mỗi huyệt. Nếu quá chú trọng và câu nệ về phân tấc để đo, đôi khi cũng làm sai lạc. Hiện nay người Nhật dùng ngọn đèn điện để tìm huyệt đạo, khi dò đúng vị trí thì đèn nầy cháy lên, khiến cho sự tìm huyệt không còn khó khăn nữa. II. Dụng cự để châm Thời thượng cổ dùng đá nhọn để châm, thời Trung cổ thì dùng xương hay tre vót nhọn. Sau thạch khí thời đại con người biết thuật luyện kim và xã hội tiến bộ, kỷ nghệ phát triển lấy cơ giới thay cho thủ công, người ta dùng hợp kim để chế ra, khi xử dụng không gảy hoặc cong và rỉ sét. Thuở xưa người ta dùng 9 loại kim: 1) Tiển đầu châm: dùng châm cạn ngoài da, hiện giờ dùng kim thất tinh hay kim mai hoa để thay thế còn kìm tiển đầu không thấy xử dụng. 2) Viên châm: kim tròn, dùng chà sát trên gân thịt. 3) Đề châm: loại kim dùng kích thích ở ngoài da. 4) Phong châm: có tên Tam lăng châm (kim 3 khía) dùng châm cho ra máu để làm giảm đau. Thí dụ: đau lưng dữ dội châm huyệt Ủy trung cho ra máu, hầu sưng nhức, châm huyệt Thiếu thương, dịch tả châm huyệt Thập Tuyên, các chứng trên đều được nhẹ . 5) Phi châm: Hình giống như lưởi kiếm, thuở xưa dùng để châm cho ra mủ. 6) Viên lợi châm: hình giống như đuôi trâu mủi lớn nhọn thân kim nhỏ để đâm sâu trong những chứng ung thư và tê bại. 7) Hào châm: hình giống như sợi lông nhọn, hiện thời loại kim nầy được phổ biến sâu rộng trong dân chúng. 8) Trường châm: hình như chiếc giày, thân kim mỏng mủi nhọn. 11
- 9) Đại châm: giống như chữ Đại hay chữ hỏa có nhiều người gọi là phần châm, thường dùng xương hay trúc làm cán để cầm , dùng trị những bộ phận trong sâu có mủ, ung thư xương, đau tràng hạt rất có công hiệu. Hiện nay, người ta thường dùng các loại kim sau đây: 1) Hào châm: từ từ 5 phân đến 3 tấc 5 , nhỏ từ số 26 đến 32 v.v. thân kim tròn trơn loại này sử dụng rất rộng trong quần chúng. 2) Tam lăng châm: kim 3 khía mủi nhọn để châm cho ra máu 3) Bì phu châm: cũng gọi là tiểu nhi châm rất nhiều hình thức đại khái như cầm lấy cán gỏ lên vị trí của huyệt, gỏ nhiều hay ít tùy theo bịnh, nên gọi là kim Mai hoa (ít gỏ 3 lần, nhiều gỏ 5 lần) có tác dụng làm cho da mẫn cảm để điều chỉnh kinh lạc được phấn khởi. Đánh mạnh hay nhẹ tùy theo người mập hay ốn. Những người đau lưng gỏ vào Du huyệt, gỏ vào tay chơn và thân kinh mạc sao hay chỗ đau. Mặt khác những bệnh ngoài da, bịnh mắt, bịnh dạ dày, ruột, thần kinh suy nhược dùng trị rất hữu hiệu. 4) Hoả châm: loại dụng cụ về ngoại khoa, cán kim làm bằng trúc hay xương. Khi xử dụng dùng gòn bao kim đoạn thoa dầu mè rồi đốt trên lửa đỏ. Khi kim cháy đỏ bỏ gòn châm vào chỗ đau, sau khi châm lập tức lấy kim ra và lấy tay đè lên chỗ đã châm làm cho chỗ đau được hết. III. Chuẩn bị trước khi châm 1) Đối với bịnh nhân cần giải thích châm kim không có gì đau đớn để người bịnh không lo sợ hồi hộp. 2) Đối với bịnh nhân suy nhược nên chuẩn bị để nằm hay ngồi. Những người có hiện tượng thiếu máu nên cho nằm, châm nhẹ nhàng và ít huyệt để khỏi làm xẩy xẩm choáng váng. Đối với trẻ con và người bịnh về tinh thần nên đề phòng sự giật mình hay dẩy dụa làm kim bị cong hay gẩy. 3) Nên sắp xếp bịnh nhân cho thích hợp để khi châm dễ dàng, dặn người bịnh không nên xê dịch vì sợ làm sai huyệt. Đôi khi phải đưa tay hả miệng, co tay để có phương tiện tìm cho đúng huyệt. VI. PHƯƠNG PHÁP KHỬ ĐỘC 1) Khử độc dụng cụ: Dụng cụ dùng để châm có những loại kim dài hay ngắn không bằng nhau, kim bằng vàng, bạc, bạch kim khác nhau, nên để có riêng từng loại và khử độc trước khi châm. Khử độc có 2 cách : a) dùng rượu 95% để tẩy ngâm lâu 20 phút 12
- b) Nấu sôi bằng nước 10 phút c) Mỗi khi khử độc chỉ dùng một lần, dùng lần sau phải khử độc lại. 2) Khử độc ở tay: Tay châm cứu gia cũng phải khử đôc bằng rượu 95% trước khi cầm kim và không nên tiếp xúc với những vật chưa khử độc. 3) Khử độc ngoài da bệnh nhân: 4) Phải khử độc trên da bịnh nhân chỗ mình muốn châm V. LÚC CHÂM VÀ SAU KHI CHÂM 1) KHI CHÂM KIM: Khi châm lấy tay đè xuống vị trí của huyệt để báo hiệu cho người bịnh biết trước mình sắp châm kim vào ít đau đớn. Sau đó nên quan sát kỷ lại có đúng vị trí và phân tấc đã định hay không. Lúc châm kim vào từ từ nhưng sau rồi phải đẩy mạnh vào tùy theo sâu cạn. Để kim lâu hay mau cũng tùy người bịnh khoẻ hay mệt, mập hay yếu, sức kích thích của huyệt mạnh hay yếu, thời tiết nóng hay lạnh. Đối với người cường tráng nở nang, khí huyết sung thịnh, có thể để kim lâu lối 10 phút. Người già yếu, đàn bà xương yếu da mềm không nên để kim lâu. Trẻ em huyết thiếu, khí kém, bộ sanh dục chưa nẩy nở cần dùng kim rất nhỏ và không nên để lâu. Nếu gặp đứa nhỏ bịnh nặng thì nên chia nhiều thời kỳ để trị. 2) Khi lấy kim: Nên lấy kim từ từ không nên vội vả lắm, làm thế nào cho người bịnh không đau, đồng thời để cho khí độc trong khí huyết bài tiết ra ngoài, đó là phương pháp vừa bổ vừa tả. Nếu như lúc lấy kim ra mà người bịnh có cảm giác đau đớn hay lấy ra khó khăn thì ta lấy hai ngón tay bên tay trái chận thịt ở nơi huyệt, bấy giờ lấy ra sẽ dễ dàng. Trường hợp kim bị cong hay da thịt chỗ huyệt co rút lại, ta nên bình tỉnh châm một huyệt khác để thần kinh ở da được thăng bằng lại. Nếu kim không ra thì lấy ngón tay cái thoa chung quanh để gân thịt trở lại bình thường thì lấy kim ra dễ dàng. 4) Khi châm người bịnh bị xây xẳm: 5) Sau khi nhận thức chứng bịnh và đặt phương pháp trị liệu nhưng vấp phải người bịnh thể chất quá suy nhược hoặc trạng thái bịnh chứng quá trầm trọng. Cũng có thể châm gia kém kỹ thuật lúc châm dùng sức quá mạnh làm cho bịnh nhân choáng váng mặt mày, tâm thần hoảng hốt, đổ mồ hôi, mắt có 13
- hoa đố, sắc mặt tái xanh, có khi tay chơn đều lạnh, ụa mửa, sáu mạch đều nhỏ yếu. Gặp trường hợp này châm gia nên bình tỉnh lần lượt lấy hết kim ra, để người bịnh nằm xuống, nếu nhẹ thì cho uống nước trà nóng, nếu nặng thì châm huyệt Thiếu Xung, huyệt Thiếu Thương, huyệt Nhơn Trung, huyệt Túc Tam Lý hoặc đốt huyệt Bá hội khiến cho người bịnh tỉnh lại. 4) Sau khi châm: Sau khi châm người bịnh có cảm giác đau ở huyệt song một vài hôm sẽ trở lại bình thường. Nguyên nhân nầy tại châm gia kém kỷ thuật rút kim. Hoặc giả sau khi châm chỗ huyệt hành đỏ nổi cục vài hôm sau cục đỏ bíến đi sự kiện này do lúc châm trúng phải huyết quản làm tổn thương. Trường hợp này nên lấy ít ngại đốt nơi chỗ sưng hay đấp nước nóng lên một vài hôm thì khỏi. 14
- Châm cứu học Chương 3 PHƯƠNG PHÁP ĐỐT I) VẬT LIỆU ĐỂ ĐỐT Ngại là một thực vật nơi ẩm thấp chỗ nào cũng có thể mọc được. nhưng tốt hơn hết là ngại ở kỳ châu xứ Hồ Bắc . Dùng ngại để uống thì làm cho khí huyết lưu thông, trị tử cung lạnh không thọ thai, có kinh đau bụng, hông trước lên biếng ăn, ăn giảm sụt, dịch tả, ỉa mửa v.v. Dùng bên ngoài để làm mạnh ngươn dương, thông kinh mạch điều hòa khí huyết. Dùng để đốt làm ấm sâu vào kinh huyệt, ngoài nó ra không còn thứ nào hay hơn nữa. Hiện nay người ta thường dùng ngại ở Nhựt về chế luyện để đốt. Ngại để lâu chừng nào công hiệu mạnh chừng ấy. Mạnh tử nói: Bịnh 5 năm dùng ngại để lâu 3 năm đốt thì hết. II) PHƯƠNG PHÁP ĐỐT: Cần biết nên đốt bổ hay đốt tả: a) Đốt bổ: Dùng gừng sống cắt lát dây khoảng 4 hay 5 ly rộng 8 ly đến 1 phân lót nơi vị trí huyệt để ngại nhung lên đốt (đất gián tiếp). Đốt tả: cắt gừng mỏng 1 ly hay 2 ly. b) Định rõ số liều cần thiết của mỗi huyệt. c) Vùng đốt của huyệt lớn hay nhỏ. d) Trước đốt bên dương (phía ngoài) sau đốt bên âm (phía trong) e) Trước đốt trên, sau đốt dưới. f) Bịnh cũ đốt nhỏ lần và ít. g) Bịnh đau lâu, trước đốt nhỏ lần lần thêm lớn lên. Thân thể cường tráng và lớn thì đốt liều lớn và nhiều, thân thể hư nhược thì ngược lại. Đầu, mặt, ngực hông nên đốt ít và nhỏ. Đau bụng nên đốt nhiều, liều lớn, đau ở tứ chi thì đốt ở liều nhỏ. 15
- Châm cứu học Chương 4 THIÊN THỨ HAI SỰ LƯU HÀNH CỦA KINH HUYỆT PHƯƠNG PHÁP CHÂM CỨU THỦ THÁI ÂM PHẾ KINH (Méridien du poumon (5 huyệt x 2) Sự lưu hành của kinh huyệt Kinh Thái âm nối tiếp từ kinh Túc khuyết âm, bắt đầu ở bộ phần Huyệt Trung uyển, chạy xuống liên lạc với ruột già, đến cuốn bao tử xuyên lên Hoàn cách mạc đi vào Phế kinh đến đầu cuốn phổi rồi xuyên qua phía trái đến bên mặt, tới dưới huyệt Trung phũ trên huyệt Vân môn phía dưới xương sườn. Nơi đây đi qua kinh Khuyết âm, phía trước chạy lên trên vai đến các huyệt Thiên phủ, huyệt xích trạch, huyệt Khổng tối, huyệt Liệt khuyết, huyệt Kinh cự, huyệt Thái uyên, nơi dưới cục u trên bàn tay là huyệt Ngư tế, đến trên chót phía trong đầu ngón tay cái là huyệt Thiếu Thương. Từ huyệt Liệt Khuyết, thần kinh chia ra và chạy vòng phía sau là huyệt Hiệp cốc trên đàu ngón trỏ phía trong có thần kinh liên lạc với Thủ Dương Minh. 1) Huyệt Xích Trạch: Huyệt này có tên riêng là huyệt Ủy thọ, Qủy đường thuộc Thủ Thái âm Phế kinh chạy vào hiệp Thủy huyệt. a) Phương pháp tìm huyệt: Ngay cánh tay ra, bàn tay ngữa tay lên, cùi chỏ hơi co lại, trên đây hiện lên một lằn ngang, ở giữa lằn ngang này có một lỗ hủng, đó là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu từ ba (3) đến (5) phân (cấm đốt) . Có thể dùng kim ba khía (tam lăng) đâm cho ra máu. c) Chủ trị: - Thần kinh ở vai nhức - Phổi có mụt - Bán thân bất toại - Mữa ra máu - Đau đầu voi - Cuống họng đau - con nít co rút - uất hơi 16
- - Kinh phong - Hông nóng - Ho hen - Đi tiểu gắt - Phổi sưng - Tiểu xón - Ho đàm. d) Phương pháp phối hợp - châm với huyệt Thái Uyên và huyệt Xích trạch, trị cùi chỏ đau . - Châm với huyệt Khúc Trì, trị gân co rút và bàn tay nhức c) Tham khảo các sách: - Phương pháp tìm huyệt: hai bên trong cùi cho trong lúc hơi co lại có một lằn nhăn nằm ngang, bên trong có hai sợi gân nổi lên ăn thông xuống ngón tay cái và ngón trỏ; Huyệt xích trạch nằm nơi giữa. - Phương Thiên Kim bảo: Cuống họng sưng và hông đau, sưng bên trong thì đốt huyệt này 100 liều. - Sách nhập môn dạy: Những bệnh thổ huyết, châm huyệt Xích Trạch rất hay. - Bài ca Thắng Ngọc nói: Huyệt Xích Trạch trị những người bị chứng gân co rút. - Quyển châm cứu thuật của ông Kiên Điền Thập Thứ Lang (Nhật) nói: - Huyệt Xích trạch phối hợp với huyệt Hiệp Cốc trị bệnh nhức tay rất hay. - quyển Traité d’acupuncture của Bác sĩ Royer de la Fuyer: - Huyệt Xích Trạch châm với huyệt Thiếu Thương trị đầu ngón tay nhức f) Nhận xét chung; Huyệt Xích trạch về Phế kinh, thuộc Thuỷ, Kim sanh Thủy nên đối với Phế Kinh những Thiệt chứng thì làm ho hen thở hào hển, hông đầy hơi, người bệnh nằm ngữa ụa khan, hông sường bả vai đều đau. Châm huyệt Xích Trạch đều có công hiệu. Suy diễn quan hệ về ngũ hành ; khi phổi thạnh thì gan suy, gan chủ về gân, khi gan bệnh không thể nuôi gân được, cho nên mới sanh chứng co rút hay bại xụi. Khi tả huyệt Xích Trạch có thể làm cho gân mạch lơi ra đồng thời trừ được cùi chỏ đau và rút gân lại. Vã lại Can kinh còn có một đường chạy qua Hoành Cách mạc và ở lại Phế Kinh, cho nên châm huyệt Xích Trạch có thể trị chứng kinh phong và bán thân bất toại. Đó là kinh mạch thông suốt phát sanh hiệu lực. Lại nữa, Kim Thủy đồng nguyên, nếu hiệp Thủy huyệt thì Thận thủy đồng một ngũ hành, do đó có thể trị chứng bệnh đi tiểu xón. Những chứng trúng phong khạc ra máu, ỉa mữa, thời khí, ôn dịch và kinh phong thì có thể dùng kim 3 khía (Tam Lăng), đâm ngay chỗ gân tím của huyệt Xích trạch cho ra máu đỏ, đồng thời tại huyệt Ủy trung, huyệt Bá hội, huyệt Phong Phũ, đâm 3 huyệt nầy cho ra máu có công hiệu rất nhanh. Nếu từ ngực trở lên bị tê cứng thì dùng kim Mai Hoa đánh lên chỗ đau cũng có thể kích thích cho thần kinh phấn khởi. 17
- 2. Huyệt Khổng tối. Huyệt khổng Tối cũng thuộc Thủ thái âm Phế Kinh a) Phương pháp tìm huyệt: Ngay cánh tay ra lòng bàn tay ngữa lên, từ huyệt Xích Trạch nhìn thẳng xuống huyệt Ngử Tế, dưới huyệt Xích Trạch 3 tấc, dùng ngón tay nhận vào đó mà ngón tay có cảm giác đau là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 7 phân - Đốt 7 liều, cũng có thể đốt được nhiều. Phụ chú: - vì có người cao, thấp lớn, nhỏ nên cánh tay có thể dài, ngắn không đề, nên phân tấc không thể cố định được. Vì thế chỉ dùng một sợi dây đo từ huyệt Xích Trạch đến huyệt Hái Uyên chia ra 12 tấc. Từ huyệt Xích Trạch xuống 3 tấc là huyệt Khổng Tối. c) Chủ trị - Da cánh tay nóng - Ngón tay co rút - Tay và ngón tay nhức - Cùi chỏ không co duỗi được. - Ho hen - Cuống họng đau - Nói không ra tiếng - Trỉ lậu (mạch lươn) - Thổ huyết, tắt tiếng. Huyệt này có công năng làm cho ra mồ hôi. d) Tham khảo các sách: Ông Trạch Điền Kiên nhận rằng: - đốt huyệt Khổng Tối trị bệnh Trĩ rất công hiệu. Trong quyển nghiên cứu thực nghiệm về châm cứu, ông Trường Môn Cốc Trượng (Nhật): Huyệt Khổng Tối châm với huyệt Trường Cường, Huyệt Hiệp Cộc trị bịnh ỉa ra máu, trĩ lậu rất hay. Quyển Théorie et Pratique de l’acupuncture của bác sĩ J. Lavier (Pháp): Huyệt Khổng Tối châm với huyệt Thận Du, huyệt Tiểu Trường du trị bệnh đi tiểu xón. Huyệt Khổng Tối thuộc Phế Kinh, mạch ở phổi liên lạc với ruột già, vì thế châm huyệt này rất công hiệu. Lại nữa Giang Môn cũng gọi là Phách Môn, Phách là Khí ở Phổi phát ra, cho nên Giang Môn thuộc Phế Khí. Vì thế đốt huyệt này có thể trị trỉ lậu. Huyệt Khổng Tối liên lạc với Phế kinh, tại sao châm nó lại trị được bệnh Trỉ và sưng ruột già? Vì kinh Thủ Thái âm chạy từ huyệt Liệt khuyết, huyệt HIệp Cốc đến Đầu ngón tay trỏ liên lạc mật thiết với kinh Thủ Dương Minh. Đồng thời Phổi và ruột già, có liên lạc mật thiết ở ngoài và bên trong. Nhân đó huyệt Khúc Trì thuộc kinh Đại Trường mà cũng có thể bị bệnh Phế viêm và chứng uất hơi. Huyệt Khổng Tối tuy thuộc Phế Kinh mà có thể trị ruột già sưng, và cả trỉ lậu vì nó có sự liên hệ của giao kinh cho nên nó có tác động hổ trợ. 18
- Gặp trường hợp này mới biết được tác dụng thần diệu của kinh huyệt vận chuyển. 3.- Huyệt Liệt Khuyết: Huyệt này có tên riêng là Đồng Huyền, Uyển Lao, nó thuộc Thủ Thái âm Phế Kinh, cũng có đường chạy lên kinh Dương Minh. a) Phương pháp tìm huyệt: Lấy hai bàn tay xỏ vào nhau, đầu ngón tay trỏ bên trái nhận lưng bàn tay mặt có cục xương. Trên cục xương nầy 1 tấc 5 là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm hai hoặc 3 phân. Châm huyệt này phải châm xiên. Đốt 5 liều cũng có thể đâm huyệt này cho ra máu. c) Chủ trị: - Thần Kinh ở mặt nhức đau - Tiểu ra máu. - Đầu đau một bên - Xuất tinh - Thần Kinh nơi da mặt đau - Nhức đầu - Hay tê cứng hoặc giựt co lại - Cuống họng tê. - Bộ sinh dục đàn bà đau - Bị trúng hàn ho. d) Phương pháp phối hợp: Huyệt Liệt Khuyết có thể phối hợp với huyệt Túc Tam Lý trị ho hen . Phối hợp với huyệt Tâm du trị tim nóng, hơi thở ngắn, nằm ngồi không yên. Phối hợp với huyệt Thái Uyên trị đầu nhức một bên. e) Tham khảo các sách: - Phú tịch Hoằng nói: - Huyệt Liệt Khuyết trị đau nhức một bên đâầ. Châm huyệt Thái Uyên thì hết liền. - Phú Thiên Kim dạy: - Con trai đau bộ sinh dục tiểu ra máu, tinh xuất, đốt 30 liều khỏi bệnh. - Phú Lãng Giang dạy: - Đâầ nhức nên châm huyệt Liệt Khuyết có thể trị đàm lên khò khè - Phổi khô. - Quyển Trị liệu Phương; ông Độ biên Tam Lang (Nhật):- Huyệt Liệt Khuyết châm với huyệt HIệp cốc, huyệt Thủ Tam Lý trị sốt rét. - Quyển Traité d’1acupuncture của bác sĩ Royer de là Fuye nói: - Huyệt Liệt Khuyết châm với huyệt Kiên Ngung và Thủ tam Lý trị tay sưng và nhức. f) Nhận xét chung: Huyệt Liệt Khuyết thuộc về Phế Kinh, không những liên hệ mật thiết với kinh Đại trường mà còn liên lạc với Nhâm mạch và Đốc mạch. Nhân đó có thể trị ho hen, hàn tà nhức đầu, xương hông đau nhức, yết hầu đau, bộ sinh dục đau và tiểu tiện khó khăn v.v. 4.- Huyệt Thái Uyên. Huyệt này có tên riêng Thái Tuyền, Qủy Tâm, nơi hội các mạch thuộc Thủ Thái âm Phế mạch. 19
- a) Phương pháp tìm huyệt Gần xương cườm tay nơi đây để tay vào thì có mạch nhãy là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 3 phân. Đốt 3 liều. c) chủ trị: Thần kinh phía trước. Phổi ra máu, cánh tay đau, ho hen, gân đau, hông đầy hơi làm suyển. Mắt đỏ, suyển hàn nằm không được, mắt nổi gân đỏ có màng, khoé mắt nóng. d) Phương pháp phối hợp: Châm với huyệt Liệt khuyết, trị phong đàm ho suyển, uất hơi, đau hai vú, đầu đau một bên. - Châm với Huyệt Xích Trạch trị cùi chỏ đau. e) Tham khảo các sách: - Sách Tối vấn luận: - Khí trời quá nóng nực, nhiệt độc lưu hành, Phổi và Tim nhiểm độc, Động mạch huyệt Thái Uyên không nhảy, người bệnh chết không thể trị được. - Ông Thần Nông luận: - Bàn tay nhức đau nên đốt 7 liều, châm cứu huyệt này có thể làm cho tạng phũ điều hòa khí huyết lưu thông. - Quyển châm cứu Y học Thực Nghiệm. Ông Câu Tỉnh Nhứt: - Huyệt Thái Uyên phối hợp với huyệt Liệt Khuyết trị tay đau và nhức đầu đông. - Quyển Théorie et Pratique de l’acupuncture của bác sĩ J.Lavier: - Huyệt Thái Uyên hiệp với huyệt Xích Trạch trị cánh tay sưng nhức và đầu đau một bên. f) Nhận xét chung: Huyệt Thái Uyên Phế Kinh thuộc thổ, thổ sinh kim cho nên lấy kinh này làm mẫu huyệt. Bệnh hư thì phải bảo mẫu. Phàm những bệnh thuộc phổi hư, bổ huyệt này rất công hiệu. Lúc nào Phế kinh bị nhiểm gió độc làm cảm mạo, ho hen thì cũng châm nơi huyệt Xích Trạch có tác dụng mạnh. Cho nên ở Tim bệnh thì hơi trướng nơi hông làm ho hen, cuống họng đau, vú đau, đàm kết ở tạng tâm. Trước hãy châm huyệt Thái Uyên, sau châm đến huyệt thiên Lịch thuộc về Đại Trường Kinh lạc. Đó là phương pháp chủ và khách, chính và phụ vì phổi và ruột già trong và ngoài điều liên lạc với nhau nên kinh lạc thông dụng có hiệu lực. 5. Huyệt Thiếu Thương: Huyệt này có tên riêng Qủy tín thuộc Thủ Thái âm Phế Kinh, chỗ mạch khí hay phát ra, thuộc mộc. a) Phương pháp tìm huyệt: Huyệt này ở phía trong ngón tay cái, cách ngón tay một phân năm. b) phương pháp châm cứu: 20
- Đầu kim hướng về phía trên đâm vào 1 phân: - Cấm đốt. Có thể dùng kim ba khía (Tam Lăng) châm huyệt này cho ra máu. c) Chủ trị - Máu lên - Bụng trướng lên. - Lỗ tai sưng - Dưới lưỡi có mụt - Cuống họng đau ăn uống không được - Môi khô - Vàng da - Ngón tay có rút - Nấc cụt. - Con nít giựt mình và nóng. - Con nít cam tích. d) Phương pháp phối hợp: Châm nơi huyệt Thiếu Xung, huyệt Thương dương, huyệt Hiệp Cốc trị bệnh yết hầu. Châm với huyệt Lệ Đoài, huyệt Ẩn Bạch, huyệt Đại Đôn, trị bụng đau. Châm với huyệt Nhơn Trung, huyệt Dũng tuyền, huyệt Ân Đường trị con nít làm kinh phong. Châm với huyệt Thiếu Xung, huyệt Trung Xung, huyệt Thiếu Trạch trị nóng và ho hen. e) Tham khảo các sách: - Bệnh sốt rét tay chân lạnh, tim nóng thường nhảy mũi, mồ hôi ra nhiều, châm huyệt Thiếu Thương cho ra máu. - Sách càn khôn nói: - Trúng phong mặt mày xẩy xẩm suyển, đàm chận nơi cổ, bất tỉnh nhân sự, miệng ngậm, nghiến răng. Châm huyệt Thiếu thương, huyệt Thiếu Xung, huyệt Trung Xung, huyệt Quang Xung, huyệt Thiếu Trạch, huyệt Thương Dương làm cho máu huyết được lưu thông, có thể cứu người sống lại. Bí quyết của Thiên Tỉnh dạy: - Huyệt Thiếu Thương chuyên trị tay co rút và đau nhức. - Quyển bút Ký của ông Trần Tâm Đường dạy: - Đầu sưng to, châm huyệt Thiếu Thương chỗ sưng tiêu liền. - Sách thánh Tế có chép: - có ông Thứ sử đời đường bị bệnh cổ sưng má lớn, cuống họng bế tắc, ba ngày không ăn uống được, dùng Kim Tam Lăng đâm huyệt Thiếu Thương cho ra máu bệnh liền nhẹ. - Bài ca Kinh Thái Ất nói: - Đàn ông có cục trong bụng nên châm huyệt Thiếu Thương. - Phú Bá chứng dạy: - châm với huyệt Khúc trạch trị bệnh thiếu máu, miệng kho. - quyển Kinh huyệt Kinh lạc của ông Trung Cốc Nghĩa Hùng (Nhật): - Huyệt Thiếu Thương châm với huyệt Đại Đôn, huyệt Thiêu xu trị đau bụng. 21
- - Quyển Traité d’acupuncture của Bác sĩ Royer de la Fuyer: - Huyệt Thiếu thương phối hợp với huyệt Ấn Đường, huyệt Dũng Tuyền trị con nít bị kinh phong giựt tay trợn mắt. f) Nhận xét chung : Cuống họng sưng châm những huyệt Thiếu Thương, huyệt Thiếu Xung, huyệt Hiệp Cốc, có tác dụng làm cho giảm nóng, tiêu thũng thì máu huyết được lưu thông. Nếu trúng phong sanh nóng làm tay chân giựt hoặc ỉa mửa, thở thiếu hơi thì chích 12 tỉnh huệyt hiệp với Thập tuyên huyệt (Kỳ huyệt) đồng cho ra máu; có công năng làm giảm nóng, hết uất, hết cảm người bệnh trở lại bình thường. Với bệnh sưng cuống họng , sưng bên trái châm bên phải, bên phải châm bên trái. Huyệt Thiếu Thương Phế Kinh thuộc Mộc, châm vào làm bài tiết chất nóng trong ngũ tạng hoặc khí huyết được lưu thông. Nhân đó trúng phong làm sưng cuống họng nói xàm, châm huyệt này rất có công hiệu. Các chứng bệnh thuộc về yết hầu nếu không châm huyệt này thì không có công hiệu. Vì huyệt này có công năng làm giảm nóng, mát phổi. Phối hợp với huyệt Quan Xung, huyệt Trung xung, huyệt Thiếu xung châm cho ra máu, thì hiệu quả lại càng nhiều. Con nít bị trúng thực sanh ỉa mửa, nặng mặt, châm thêm huyệt tứ Phùng (kỳ huyệt) bệnh mau mạnh. Những người nóng nhiều sanh phong, tay chân co rút, mặt xanh lưng uốn vàn, bệnh trạng nguy kịch phát sinh nhiêu trạng thái hiểm nghèo, châm thêm huyệt Thủy Cấu, huyệt Phong Phủ, huyệt Bá Hội, huyệt Dũng Tuyền, huyệt Côn Lôn, huyệt Thiên Trụ, huyệt Mạng Môn huyệt Ấn Đường thì có thể cứu 22
- sống trong muôn một. 23
- Châm cứu học Chương 5 THỦ DƯƠNG MINH ĐẠI TRƯỜNG KINH (MÉRIDIEN DU GORS INESIN) (Kinh này có 5 huyệt x 2) Sự lưu hành của kinh huyệt Kinh này liên lạc mật thiết với Kinh thủ thái Âm, khởi đầu từ ngón tay trỏ phía trong chạy đến huyệt Hiệp cốc, huyệt Nhị Gian, huyệt Tam Gian ở phía trên bàn tay giữa huyệt Dương Khê. Từ huyệt Thiên Lịch, huyệt Ôn Lưu, huyệt Thượng Liêm, huyệt Hạ Liêm, huyệt Tý Nhu, huyệt Kiên Ngung chạy lên bã vai huyệt Cự Cốt lên đến xương sống chỗ huyệt Đại Chùy thuộc Đốc Mạch là nơi hội các Dương Mạch. Ở đây mạch chạy đến huyệt Khuyết Bồn liên lạc với Phế Tạng qua Hoành Cách Mạc đi thẳng xuống ruột già. Tại huyệt Khuyết Bồn lại có dây thần kinh chảy thẳng lên đầu đến huyệt Phò Đột, huyệt Thiên đãnh, chạy xuống hai bên má dưới răng vào trong miệng và chung quanh môi. Kinh mạch bên mặt chạy qua bân trái , bên trái chạy qua bên mặt, chằng chịt với Đốc Mạch hội tại Nhơn Trung, phía trên chạy thẳng tới lỗ mũi nơi huyệt Nghinh Hương tiếp xúc với Túc Dương Minh Vị kinh. 1. HUYỆT THƯƠNG DƯƠNG. Huyệt này có tên riêng Tuyệt Dương, Kinh, Thủ Dương Minh Đại Trường mạch khí chạy ra, huyệt này thuộc Kim. a) Phương pháp tìm huyệt: Huyệt này nằm trong ngón tay trỏ cách móng tay 1 phân 5. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 1 phân 5, mũi kim xỉa lên, thường dùng kim ba khía châm cho ra máu. · Cấm đốt . c) Chủ trị - Lên máu - Lổ tai lùng bùng. - Mặt có mụt - Tai điếc, - Răng nhức - Sốt rét 24
- - Sưng hàm - Quáng gà, - Thân kinh nhức và tê. d) Phương pháp phối hợp Châm với huyệt Thái Khê trị rét có công hiệu. e) Tham khảo các sách: Sách đồng Nhơn nói: - Mắt quáng gà đốt 3 liều, mờ bên trái đốt bên phải mờ bên phải đốt bên trái. ?? Sách Nghiên cứu sinh lý học: - Ông Câu Lang nhứt Phùng (Nhật) nói: huyệt Thương Dương phối hợp với huyệt Thái Khê, huyệt Liệt khuyết trị bệnh sốt rét kinh niên. Theo Théorie et Pratique de l’Acupuncture của bác sĩ J.Lavier: - Huyệt Thương dương, phối hợp với huyệt Hiệp Cốc huyệt Thông Hội, trị lùng bùng lỗ tai và lỗ tai điếc. f) Nhận xét chung: Ruột già và phổi có quan hệ mật thiết, phổi chủ về da. Khi ngoại cảm hơi lạnh nhiểm vô chân lông nên châm huyệt Thương dương, huyệt Nhị Gian, huyệt Hiệp Cốc, huyệt Khúc Trì cho máu huyết được lưu thông. Những người bị nóng, máu lên nhiều, sưng hàm, cổ đau, hay suyển thì châm với Thập Nhị Tinh Huyệt cho ra máu thì người bệnh được nhẹ. 2) HUYỆT HIỆP CỐC: Huyệt này có tên riêng huyệt Hổ Khẩu, Thủ Dương Minh đại Tràng Mạch đi qua huyệt này. a) Phương pháp tìm huyệt: - Huyệt này ở lưng bàn tay chổ có động mạch. Ngón tay cái và ngón trỏ mở rộng ra nơi hổ khẩu có xương cao lên, phía dưới xương có lỗ hủng, rờ vào nơi động mạch nhảy là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: - Châm sâu 5 phân, đốt 5 đến 7 liều. c) Chủ trị; - Nhức đầu - Mủi có thịt dư. - Tai điếc - Răng nhức - Tai lùng bùng - Mắt có mây mời - Lổ mủi ra máu - Tay và vai nhức d) Phương pháp phối hợp: - Châm với huyệt Bá Hội, huyệt Thần Môn trị bịnh thần kinh, kinh phong. - Châm với huyệt Phong Trì trị nhức đầu . - Châm với huyệt Ty Trúc Không, huyệt Tỉnh Minh trị mắt đỏ. - Châm với huyệt Nghinh Hương trị mủi chảy nước. - Châm với huyệt Tam Âm giao trị bệnh đau bao tử. - Châm với huyệt Địa Thương, huyệt Giáp Xa trị miệng méo, mắt méo, 25
- không há miệng ra được. e) Tham khảo các sách: - Sách Y học Cang Mục dạy : - đau thương hàn mồ hôi ra không được, châm 5 phân. Khi nào mồ hôi ra khắp mình thì rút kim liền. Huyệt này phát hạn rất hay. - Sách Thần Nông nói: - Răng đau, yết hầu tê, ghẻ ngứa thì đốt từ 3 đến 7 liều. - Sách châm Cứu Đại Thành bảo: - Đàn bà có thai nên tả không nên bổ. Vì bổ sợ hư thai. - Bài ca Trữu Hậu cho rằng: - Miệng câm mắt nhắm đổ nước không được châm huyệt Hiệp Cốc hay lạ lùng. - Ông Quyển Trí Miễn Thái Lang (Nhật) trong quyển Nghiên cứu Bỉ Phu Tổ chức Học nói: - Huyệt Hiệp Cốc phối hợp với huyệt Ty Trúc Không, huyệt Nghinh Hương trị nghẹt lỗ mũi và con mắt đau. - Quyển Traité d’acupuncture của Bác sĩ Royer de là Fuye nói: - Huyệt Hợp cốc phối hợp huyệt Phong trì và huyệt Bá Hội trị bệnh nhức đầu kinh niên. f) Nhận xét chung: Huyệt Hiệp cốc có sự phản ứng khắp mình vì nó kích thích rất mạnh . châm sâu độ 3 đến 8 phân (đó là sự giả định của thước tấc) Điều căn bản là trước khi châm cần chú ý đến thể chất của người bệnh yếu hay mạnh. Trước khi châm phải bảo người bệnh nằm. Không nên châm sâu vì sợ người bệnh xỉu. Người có thai cấm châm huyệt này. Huyệt Hiệp Cốc châm với huyệt Thủ Tam Lý thì điều hòa Tỳ vị, khí huyết. Vì Hiệp Cốc thuộc kinh Đại Trường, hay thăng hay giáng, hay mở hay đóng. Huyệt Tam Lý thuộc thổ thì thêm hơi vào bao tử được mạnh, tả thì thăng dương giáng trược, giải nhiểm hơi độc do khí trời nóng nực làm sình bụng, ăn uống vào làm ngăn ngại ở ruột lình bình hay ói mửa, tả huyệt Tam lý thì dẫn thấp trược đi xuống, các chứng bịnh đều được thuyên giảm. 3. HUYỆT THỦ TAM LÝ - Huyệt này có tên riêng là Tam lý, Qủy Tà. a) Phương pháp tìm huyệt: Co cùi chỏ lại từ huyệt Dương khê chạy lên 10 tấc dưới huyệt Khúc Trì hai tấc chỗ có cục thịt lồi lên là vị trí huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 5 đến 7 phân, đốt 6 liều. c) chủ trị: - Trúng phong - Bán Thân bất toại - Răng đau - Thần kinh mặt tê, - sưng mép tai - Vú xưng - Đau tràng hạt - Thần kinh cù chỏ đau. 26
- - Tay tê bại. d) Hợp trị: - Châm với huyệt Thiếu Hải trị tay tê không biết đau. - Châm với huyệt Túc Tam Lý trị có cục hơi trong bụng. e) tham khảo các sách: Phép tìm huyệt dạy: Trong lúc vận động dưới huyệt Khúc Trì có nổi lên cục thịt. Nơi có cục thịt nhọn nổi lên là vị trí của huyệt. - Sách Đồ dực nói: trị ung thư và nổi mục sưng lở. Mỗi ngày đốt từ hai mươi đến 30 liều. Nếu mụt có mủ thì ra mủ lẹ, chưa có mủ thì tiêu liền. - Bài ca Thắng Ngọc dạy Vai đau nhức, lưng nhức nên châm huyệt Tam Lý. - Ông Liễu Cốc tố Linh (Nhật) trong quyển Châm Cứu Trị Liệu Y điểu nói: Huyệt Tam Lý châm với huyệt Hạ Quan và Huyệt Nghinh Hương, huyệt Giáp xa trị bệnh thần kinh ở mặt và ở tay tê nhức. - Quyển Théorie et Pratique de l’acucupuncture của bác sĩ J.Lavier người Pháp nói: Huyệt Tam Lý phối hợp với huyệt Dưỡng lảo làm cho mụt mau lành và khỏi ra mủ. g) Nhận xét chung: Châm cứu huyệt Thủ Tam Lý có thể làm cho thần kinh và máu huyết được lưu thông lại tăng thêm huyết thanh, khiến cho chứng Viêm nhiệt tiêu mất. Các chứng bệnh u nần nổi mụt cũng đều thuyên giảm. Lổ tai đau là vì đại trường và thận bị khí nghịch hành, nên châm huyệt Tam Lý thì có hiệu quả. 4. HUYỆT KHÚC TRÌ: Huyệt này có tên riêng là huyệt Dương Trạch, huyệt Qủy Thần, kinh Thủ Dương Minh đại trường chạy vào . Huyệt này thuộc Thổ. a) Phương pháp tìm huyệt: - Ở phía trong cùi chỏ có chỉ nhăn ngang, mút đầu chỉ này là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: - đâm sâu 8 phân, đốt 7 đến 30 liều. Khi châm hướng đầu kim về ngón tay trỏ. c) Chủ trị: - Thần kinh cùi chỏ đau nhức - Trúng phong - Cổ sưng - Thần kinh vai nhức, co duỗi khó khăn. - Da ngứa - Trúng phong, bán thân bất toại. d) Phương pháp phối hợp: - Châm với huyệt Hiệp Cốc trị các bệnh trên đầu và hai tay không tự chủ được. - châm với huyệt Thiếu xung cho ra máu có thể làm giảm nóng. - Châm với huyệt Nhơn Trung trị uể oải. - Châm với huyệt Xích Trạch trị cùi chỏ co quắp. 27
- - Châm với huyệt Kim Tỉnh, huyệt Túc Tam Lý, huyệt Tam Âm giao, trị thần kinh suy nhược. - Châm với huyệt Ngoại quan, huyệt Hiệp Cốc, huyệt Dương Trì, huyệt Thần Môn , huyệt Đại Lặng trị tay nhức. - Châm với huyệt Thủ Tam Lý, huyệt Liệt Khuyết trị trúng phong. Nếu gần nhẹ, đốt huyệt Bá Hội, Thiên Trụ, Vân môn, huyệt Túc Tam Lý. - Châm với những huyệt Xích Trạch, huyệt Thái Khê trị cuống họng ra máu. - Châm với huyệt Tuyệt cốt, huyệt Kim tinh, huyệt Dương Lăng Tuyền, trị thần kinh cổ, vai , đầu nhức mỏi. - Châm với huyệt Dương Lăng, huyệt Thủ Tam Lý, huyệt Túc Tam Lý, huyệt Hoàn Khưu, huyệt Tuyệt Cốt, huyệt Thận Du, huyệt Uỷ Trung, huyệt Kiên tỉnh, huyệt Tất nhản, trị phong thấp làm cho xương thịt nhức mỏi. - Châm với huyệt tuyệt cốt, huyệt Chi Cấu, trị các xương nơi hông đau. - Châm với huyệt Ngoại quan, huyệt Hiệp cốc, huyệt Tam âm giao, trị tiểu tiện không ngưng (tiểu xón) . - châm với huyệt Kiên tỉnh, huyệt Túc Tam Lý, huyệt Tam âm giao trị chứng máu lên. - Châm với huyệt Kiên Tỉnh, huyệt Thiên Đột, trị bưới sưng ở cổ. - Châm với huyệt Sát Môn, trị trúng phong, tay chân không co duỗi được. e) Tham khảo các sách: - Sách Nạn kinh nói: - Huyệt Khúc Trạch chủ trị bài tiết, nhiệt khí ra làm cho hơi nóng ở đầu, vai, mặt và lưng giáng xuống. - Trong Phương Thiên Kim nói: - Huyệt này trị các khí độc, nổi bướu, ban đỏ, tùy theo tuổi tác mà đốt nhiều hay ít. - Bài ca Thắng Ngọc nói: - Hai tay nhức mỏi, không cầm vật gì được thì châm huyệt Khúc Trì, huyệt Hiệp Cốc và huyệt Kiên Ngung. Ông Thiền Tỉnh Văng Long trong quyển Châm Cứu y học nói : - Huyệt Khúc trì phối hợp huyệt Xích trạch, huyệt Hợp cốc trị bệnh tay chân co rút và xưng tê. Quyển Théorie et Pratique de l’acupuncture của bác sĩ J.Lavier: - Huyệt Tam Lý, huyệt Hiệp Cốc, huyệt Dương Lăng trị được bệnh thần kinh ở vai và ở cổ đau. f) Nhận xét chung: - Huyệt Khúc trì thuộc Thủ dương Minh là nơi hiệp các huyệt cho nên đối với nội tạng trong các khí quản huyệt này có tác dụng làm cho sống động. Lại nữa khắp mình bị ngứa hay có mụt sắp làm mủ ở ngoài da thì nên lấy huyệt nầy làm chủ yếu. Hoặc trong bị máu nóng, ngoài cảm phong thấp đều thuộc về dương chứng. Nên lấy đại trường và phế kinh làm biểu lý, mà hế chủ về da có liên hệ với phế kinh, vì thế châm huyệt Khúc trì có thể đuổi phong làm cho huyết mát và có tác dụng nhuận táo bón. Nhân đó ai cũng đều công nhận huyệt này có thể trị khỏi các chứng bệnh ngoài da. 28
- Phàm khi châm cứu dùng sức mình quá mạnh làm cho thần kinh người bệnh bị phản ứng, diễn ra những trạng thái hơi uất xong lên làm nhức đầu, nhức răng thì châm huyệt Khúc trì sẽ làm cho gián khí, mát huyết. Huyệt Khúc trì trừ đuổi phong thấp, huyệt Ủy trung làm cho tán thấp đi (đi theo đường tiểu), huyệt Hạ Liêm thông dương khí, 3 huyệt đồng dụng có thể trị chứng phong tê. Khuyệt Khúc trì cùng châm với huyệt Dương Lăng Tuyền trị chứng bán thân bất toại, các lóng xương tê nhức. Phàm gặp chứng gan uất, hông đau, nhiệt kết vào ruột và bao tử hoặc bụng đầy hơi, nên châm hai huyệt này thì có hiệu quả. Huyệt Khúc trì châm với huyệt Tam Âm giao có thể trị phong thấp và nhiểm độc, vì huyệt Khúc trì chạy thẳng vào Tam âm Kinh làm cho mát máu ở trong và an thần. Huyệt Tam Âm giao là mấu chốt của Gan, Bao tử, Thận, các bệnh thuộc về huyết, nó là chủ huyệt. Nhân đó các chứng đau sưng, phong thấp, tê, khước khí (hai chân tê và nhỏ lần), răng đau, đàn bà huyết băng, bạch đái, có cục máu trong bụng, hay kinh kỳ bế tắc, châm huyệt này thì có công hiệu. Vai có mục sưng đỏ lớn như cái chén, châm huyệt Khúc trì để kim 1 giờ, ba ngày sau bình phục như thường. 5. HUYỆT KIÊN NGUNG: Huyệt này có tên riêng là Trung Kiên Tỉnh, huyệt Thiên cốt, huyệt Biến cốt, huyệt Kiên Tiêm, huyệt Ngung Cốt. Thủ Thái Dương tiểu Trường, Thủ Dương Minh Đại Trường, Dương kiều mạch, đây là nơi hội huyệt của 3 mạch này. a) Phương pháp tìm huyệt: Dùng tay sờ ngoài đầu xương bả vai, đè xuống có một lổ sâu là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 6 phân đến 1 tấc 5, Để bệnh nhân nằm trước khi châm. Đốt 7 liều. c) Chủ trị: - Bán thân bất toại - thần kinh ở vai nhức - Xương vai co rút - Xương gân ở vai và cánh tay đau - Vai bị tê và rút lại, không thể ngước đầu lên. - Răng đau. d) Phương pháp phối hợp: - Châm với huyệt Dương Khê trị bệnh da nóng, nổi mụt sần sượng. e) Tham khảo các sách: - Kinh Giáp Ất nói: Trong vai nong, tay và bả vai đau, châm huyệt Kiên ngung. Tay vai đau không đưa lên đầu được nên đốt huyệt Kiên Ngung 100 29
- liều. - Phú Ngọc Long nói: Huyệt này có thể trị chứng phong thấp làm nhức hai vai. - Y ấn nói: - Đời đường có người bị chứng phong tê tay và vai không ngay ra được, các thầy thuốc trị không lành. Chỉ châm hai huyệt Kiên Ngung thì người bệnh bảo đem cung ra bắn như trước. - Trong quyển Y học Châm Cứu giảng cứu, ông Ban Bổn Công (Nhật): Huyệt Kiên Ngung phối hợp với huyệt Khúc trì, huyệt Hiệp cốc trị được bệnh xuội tay. f) Nhận xét chung : - Huyệt Kiên Ngung là nơi hội Kinh Tiểu Trường, Đại Trường và mạch Dương Kiều, dưới tiếp xúc với huyệt Khúc trì, huyệt HIệp Cốc có công năng đuổi phong, trừ thấp, giảm nhiệt làm cho hết sưng và hết đau. Huyệt Kiên Ngung còn trị bệnh ban chẩn làm ra mồ hôi, trị phong thấp nổi mụt và trị bệnh ngoài da. Châm huyệt Kiên Ngung thường các thớ thịt bị rung động, còn đốt thì các thớ thịt có cảm giác hơi tê. Khi máu huyết trong cơ thể kém làm cho da thịt bị rút lại và chứng phong thấp làm cho các lóng xương bị nhức, châm huyệt Kiên Ngung có thể làm cho thần kinh kích thích khiến các cơ năng được bình phục. Đối với các bệnh nhức các lóng xương làm cho sự vận động bị trở ngại thì châm cứu là vấn đề trọng yếu. Cách một ngày nên châm một lần những huyệt Kiên Ngung, huyệt Nhu Du, huyệt Thiên giao, huyệt Đại Trử, huyệt Thiên Trụ, huyệt Kiên Ngoại Du. 6. HUYỆT NGHINH HƯƠNG. Huyệt này có tên riêng là Xung Dương, nơi hội Thủ dương Minh và Túc dương Minh. a) Phương pháp tìm huyệt. Ngồi ngay thẳng, từ huyệt Tỉnh minh xuống đến lỗ mũi hai bên cách 5 phân dùng tay nhận nơi đây trên con mắt có cảm giác khác hơn lúc bình thường đây là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: - Châm nhớ hướng mủi kim lên, cấm đốt. c) Chủ trị: - Chảy nước mũi, - mũi có ghẻ. - mũi nghẹt không biết mùi - thần kinh mặt tê - mũi ra máu - da mặt ngứa - mũi có thịt dư d) Phương pháp hợp huyệt: - Châm với huyệt Thính hội trị tai điếc, uất hơi. 30
- Châm với huyệt Thượng tinh trị các chứng bịnh nơi lổ mũi. e)Tham khảo các sách: - Sách Đồng Nhơn nói: - Trúng phong méo miệng, da mặt sưng ngứa, mặt sần sượng, mặt nhột như sâu bò hoặc ngứa, sưng nhức nên châm sâu 3 phân. Quyển Nghiên Cứu Nhật Bổn Châm cứu Giao khoa thơ của ông Sơn Bổn Công Ngộ nói: - huyệt Nghinh hương phối hợp với huyệt Giáp xa, huyệt địa thương trị bệnh miệng méo, mắt méo. Quyển Traité d’acupuncture của bác sĩ Royer de là Fuýe : Huyệt Nghinh Hương phối hợp với huyệt Thính hội trị lỗ tai lùng bùng hay tai điếc. f) nhận xét chung: Phổi chủ về hô hấp, phế kinh khi bị nhiễm lạnh làm cảm mạo hoặc nhiễm nóng làm khô nước miếng, lỗ mũi nghẹt không ngửi được mùi, thì châm huyệt Nghinh Hương thuộc Đại Trường Kinh rất công hiệu. Châm với huyệt Thượng Tinh có thể làm cho tế bào hoạt động, khai thông những đường gân ở mũi làm đình chỉ chứng chảy nước mũi Trên mặt có cảm giác như sâu bò, châm huyệt Nghinh hương rất công hiệu. Phối hợp huyệt Túc tam Lý trị mũi nghẹt, lỗ mũi chảy nước rất hay. 31
- Châm cứu học Chương 6 TÚC DƯƠNG MINH VỊ KINH (Méridient de l’estomac) (có 12 x huyệt 2) Sự lưu hành của kinh huyệt Kinh này giao tiếp với thủ dương minh, phát khởi từ lỗ mũi trên sơn căn gần bên vành mắt chạy đến mạch Túc Thái Dương vòng ngoài lỗ mũi qua các huyệt: Thừa khắp, Tứ bạch, Cự giao đi xuống chân răng liên lạc với Nhâm mạch và đốc mạch (dưới nướu răng). Nơi đây thần kinh chạy ra ngoài theo quanh miệng và môi từ phải sang trái, hội lại nơi mạch Thừa tướng (Nhâm mạch) chạy gần mạch Đia thương từ mép tai xuống các huyệt: Đại nghinh, Giáp xa, Đại quang đến huyệt khách chủ nhơn. Từ mí mắt chạy thẳng lên góc đầu huyệt Đầu duy hội với kinh Túc Thiếu dương. Nơi huyệt Đại Nhinh chia ra chạy xuống huyệt Nhơn nghinh, giáp cuống họng đến huyệt Thủy đột, huyệt Khí xá, chạy vào huyệt Khuyết bồn thông qua Hoành cách mạc thuộc bản kinh vị phủ liên liên lạc với tỳ tạng. Lại có một đường mạch chạy từ huyệt Khuyết Bồn thẳng xuống các huyệt: Khí hô, Khô phòng, Ốc ế, Ưng song, từ vú trao trong cơ thể đến huyệt Bất dung, huyệt Địa đới chạy ra ngoài da.Từ huyệt Thừa mãn, huyệt Lưỡng môn đến huyệt Thiên xu (gần rốn) , huyệt Ngoại Lăng, huyệt Đại cự, huyệt Thủy đạo, huyệt Huy Lai, huyệt Khí xung. Có một đường riêng chạy từ cuống bao tử đi vào trong bụng đến huyệt Khí xung, phía trước hai mạch gặp nhau chạy xuống vế có huyệt Phục thổ, huyệt Âm thị, huyệt Lương Kheo vào trong đầu gối. Nơi đây chạy ra huyệt Độc tỉ xuống bên ngoài cổ chân hướng về các huyệt: Tàm lý, Thượng cự hư, Điểu Khẩu, Hạ cự hư tới phía trước các lóng xương là huyệt Giải Khê, chạy xuống những huyệt Xung dương, huyệt Hảm Cốc, huyệt Hội Đình, huyệt Lệ đoài mới hết. Nơi huyệt Túc Tam lý có một đường mạch chạy thẳng xuống huyệt Phong long theo ngón chân giữa phía ngoài. Trên sống lưng chân có huyệt Xung dương, nơi đây có một nhánh mạch chạy thẳng xuống ngón chân cái ngang qua kinh Túc khuyết âm ngoài huyệt Hành giang, từ dưới ngón chân trái chạy ra giao tiếp vóơi Túc thái âm tỳ kinh. HUYỆT THỪA KHẤP 32
- Huyệt này còn có tên Tố Khắp, đây là nơi hợp lại của động mạch dương kiều, Nhâm mạch và Túc dương minh vị kinh. a) Phương pháp tìm huyệt: Dưới mắt 7 phân ,ngó ngay tới trước dưới con ngươi nơi vành mắt gần cục xương là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu từ ba đến bốn phân (cấm đốt) c) Chủ trị: Mắt nóng, khoé mắt và vành mắt giựt, chảy nước mắt sống, mắt méo, cận thị, quáng gà, nói không được . d) Phương pháp hợp trị: Châm với huyệt Tình minh trị con mắt bịnh. e) Tham khảo các sách: Thánh Tế Tổng lục nói châm ba phân, không nên châm sâu sợ trúng tròng mắt thành bất trị. Quyển Trung Quốc Châm cứu học: trong vòng 10 năm trở lại đây trị bệnh con mắt các Thầy thuốc châm huyệt này với huyệt Tình minh, dùng kim nhỏ châm ba phân để lâu 15 phút rất công hiệu. Quyển Tân soạn Châm cứu y học của ông Tiểu giả Nhứt Lang (người Nhật) nói huyệt Thừa Khắp phối hợp với huyệt Tỉnh Minh trị chảy nước mắt sống. - Quyển Théorie et pratique de l’acupuncture của Bác sĩ J.Lavier: huyệt Thừa khắp phối hợp với huyệt Ti trúc không và huyệt Thượng tinh trị bệnh cận thị. f) Nhận xét chung: - Huyệt Thừa khắp cùng châm với huyệt Tỉnh minh làm cho thần kinh ở mặt được sống động vì thế triệu chứng chảy nước mắt sống sẽ dứt. HUYỆT ĐỊA THƯƠNG: Huyệt này có tên riêng Hội duy, Vị duy, Qủi trang. Đó là nơi các huyệt Thủ dương Minh, Nhâm mạch, Dương kiều mạch tụ lại. a) Phương pháp tìm huyệt; - Bên ngoài khoé miệng 4 phân, há miệng lấy huyệt. - b) Phương pháp châm cứu: - Châm sâu từ 3 đến 7 phân, mũi kim hướng về huyệt Giáp xa đâm vào (đốt từ ba đến bảy liều) - 33
- c) chủ trị: Thần kinh ở mặt đau hay tê, miệng méo, da ở miệng giựt. Miệng không há được, nói không được, răng đau, má sưng, mắt không nhắm được. d) Phương pháp hợp trị; Châm với huyệt Giáp xa, huyệt Hiệp cốc trị miệng và mắt méo, châm với huyệt Cố giao trị mắt lòa. Châm với huyệt Đại nghinh trị nóng lạnh, cổ đau và đau tràng hạt. e) Tham khảo các sách: Họ Kiết Điền nói: phía ngoài khoé miệng nửa lóng tay là vị trí của huyệt. Cuốn Ngọc Long nói: huyệt Địa thương và huyệt Giáp xa trị bịnh méo miệng, lúc châm vào quanh miệng có cảm giác rần rần. Bệnh đau bụng có lãi châm huyệt Địa thương có thể nhẹ được. Quyển Châm Cứu Lạo pháp đại Thành, ông Thiệt Siêng Trí Hưng (người Nhật) nói huyệt Địa thương phối hợp với huyệt Giáp xa, huyệt Nghinh hương trị bệnh méo miệng. Quyển Théorie et pratique de l’acupuncture của Bác sĩ J.Lavier : huyệt Địa Thương trị nhức răng và thần kinh ở mặt tê rần rất hay. Miệng, mắt bị méo trước châm huyệt Hiệp cốc, huyệt Thừa tướng, huyệt Giáp xa, huyệt Địa Thương để mười phút lấy kim ra. Dùng một lát gừng để trên huyệt Giáp xa, huyệt Địa thương đốt lối 20 phút. Lúc đốt hơi nóng vì nóng quá làm miệng sùi bọt. Méo bên trái đốt bên phải, méo bên phải đốt bên trái. HUYỆT GIÁP XA Huyệt này có tên riêng là Khúc nha, liên quan với huyệt Qũy sàng, Túc dương minh vịk inh nơi mạch khí phát ra. a) Phương pháp tìm huyệt: Dưới trái tai thòng xuống có chỗ lỏm vô dùng tay nhận vào miệng tự nhiên hả ra, đè mạnh nơi đây có cảm giác đau là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: - Trong lúc châm bảo người bệnh ngậm một miếng vải và cắn thật cứng, châm sâu 4 phân và đầu kim hướng về huyệt Địa thương, Đốt 7 liều. c) Chủ trị; - Thần kinh ở mặt đau và tê. tiếng noi khan. Hàm sưng không hả được, thần kinh ở cổ bị co không day qua lại được. d) Phương pháp phối hợp: - Châm với huyệt Hiệp cốc, huyệt Địa thương trị miệng và mắt méo. e) thảm Khảo các sách: - Sách Đồng nhơn bảo: - nằm nghiêng mở miệng lấy huyệt. 34
- - Phú Linh Quang nói: - Huyệt giáp xa trị đau răng. - Đồ Ký nói: - Phàm miệng và mắt bị méo, châm tả bên méo, bên kia châm bổ. - ông Thạch Điền Kiên nói: - Răng đau hay sưng nướu miệng ngậm không hả được, miệng méo hay mắt méo, châm hay đốt huyệt này rất hiệu nghiệm. - Bí phương xưa dạy rằng: - Hàm dưới răng đau bảo người bệnh nằm nghiêng miệng ngậm miếng vải châm nơi thần kinh khoé miệng sâu 1 tấc thấy bớt đau. Ông Hạ Nguyên Đường Thái Lang, trong quyển Thương bệnh Châm cứu Toàn thơ nói: Huyệt Giáp xa phối hợp với huyệt Hạ quan, huyệt Địa thương trị bệnh méo miệng. - Quyển l’acupuncture du Praticien của H.Voisin: Huyệt giáp xa, huyệt Nhơn Trung, huyệt Thừa tướng trị con nít kinh phong méo miệng, đàm chặn không nói được. g) Nhận xét chung; - Nhận mạnh huyệt nầy hàm răng dưới có cảm giác đau. Miệng méo, mắt méo có thể châm huyệt Giáp xa và để kim rất lâu (hai hay 3 ngày). Thần kinh trên mặt bị tê dùng kim Mai hoa vổ (đánh) vào da mặt đồng thời với huyệt Nghinh Hương. Dưới tai bị sưng nếu răng có mụt sưng hoặc trúng phong miệng ngậm cứng, nên châm với huyệt Hiệp cốc và châm thêm 12 tỉnh huyệt cho ra máu, rất công hiệu. HUYỆT HẠ QUAN Đó là nơi hội túc Dương Minh Vị Kinh và túc Thiếu Dương đởm Kinh. a) Phương pháp tìm huyệt: Lấy tay đè trước trái tai độ 7 phân, có một lổ sâu xuống, ngậm miệng lại thì có hả ra thì không, đó là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu từ 3 đến 4 phân. Cấm đốt. c) Chủ trị: Tai điếc, tai lùng bùng, thần kinh răng bị đau. Thần kinh mặt tê. Chóng mặt. d) Phương pháp phối hợp: Châm với huyệt Dương Khê, huyệt Quang Xung, huyệt Dương Cốc trị tai lùng bùng và tai điếc. e) Tham khảo các sách: - Sách Đồng Nhơn nói: nơi nướu răng đau, dùng kim 3 khía đâm cho ra máu. - Vỏ Điền thị nói: Huyệt Hạ quan trị đau Thần Kinh Tam xoa, - Quyển Châm trị khẩu khuyết chỉ nam , ông Cang Bổn Nhứt Lang 35
- (Nhựt), huyệt Hạ quan trị lỗ tai lùng bùng và nhức răng. - Quyển Précis de la vraie acupuncture chinoise của Soulíe de Moran nói: Huyệt Hạ quan kết hợp với huyệt Giáp xa, huyệt Dương cốc trị lổ tai điếc, lổ tai lùng bùng. f) Nhận xét chung: Trong lúc châm huyệt này dưới cằm có cảm giác đau. Đối với chứng răng đau, nưới răng lở, thần kinh trên mặt bị tê, thần kinh trên đầu bị nhức, châm huyệt này rất công hiệu. HUYỆT THIÊN XU Huyệt này có tên riêng là Trường Khê, Cốc Mông, Trường Cốc, Tuần tế, thuộc Túc Dương Minh vị kinh mạch khí phát ra. a) Phương pháp tìm huyệt: Nằm ngửa gần bên rún 2 tấc là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm 5 phân đến 1 tấc. Đốt mười liều (đàn bà có thai cấm đốt) c) Chủ trị: - Ruột lá lách nóng - Đau bụng lải. - Tiêu chảy - Thủng - Ụa mửa - đi tiểu khó - Ăn không tiêu - Màng tử cung viêm - Sình bụng - Kinh huyệt không đều - Ruột sôi - Đàn bà không thụ thai. - Kiết lỵ. d) Phương pháp phối hợp Châm với huyệt Thủy Tuyền trị bặt đường kinh. d) Tham khảo các sách. - Sách Thiên Kim nói: thổ huyết, bụng đau, ruột sôi nên đốt huyệt Thiên xu. - Kinh Giáp ất nói: bị hàn, ruột lạnh, ăn không tiêu, đi tiêu chảy đốt huyệt Thiên Xu . - Phú Kiên ưu nói : chứng kiết Lỵ bụng đau, châm huyệt Thiên xu , huyệt Tam Lý , bệnh được nhẹ. Nếu chưa được lành châm huyệt Nội quan, huyệt Tam âm giao. Huyệt này thường dùng để trị những chứng về tinh hoàn, buồng trứng, thận hay ống dẫn nước tiểu bị đau. - Họ Trạch Điền nhận: huyệt Thiên xu trị thương hàn rất hay. Những người bị ruột hay bao tử nóng, đau bụng, kiết lỵ tiêu chảy, châm huyệt Thiên xu và huyệt Tam Lý bịnh hết liền. - Quyển châm Pháp chỉ nam của ông Hòa Điền Chỉ Nam: Huyệt Thiên 36
- xu thuộc Túc Dương Minh vị kinh nên trị về các chứng bao tử rất hay. - Quyển Accupuncture Chinoise của Ch. Flandin: Huyệt Thiên xu châm với huyệt Quan Nguyên, huyệt Khí hải trị bịnh đi tiểu không thông . HUYỆT LƯƠNG KHEO. Huyệt này có tên riêng là Hạt Đính, thuộc Túc Dương Minh vị kinh. a) Phương pháp tìm huyệt: Ngồi thẳng co chân lại từ đầu gối lấy lên hai tấc, lấy ra bên ngoài 1 tấc, nhận ngón tay nơi lổ hủng là vị trí huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 5 phân (đốt 10 liều) c) Chủ trị; Thần kinh ở lưng, chân nhức và tê, các lóng chân không ngay ra được. Vú bị sưng nhức. d) Phương pháp phối hợp: Châm với huyệt Thần môn trị tiêu ra máu. . châm với huyệt Thần môn, huyệt Mạng môn trị tiểu ra máu. Châm với huyệt Vị thương, huyệt Thiên môn, huyệt Vị du, huyệt Trung uyển, trị những chứng bịnh ruột co lại. e) Tham khảo các sách: Quyển châm cứu Y học của ông Nguyễn Trí Nguy và Nguyễn Thái Lang nói: huyệt Lương Kheo hợp với huyệt Trung uyển trị ruột quặn đau. Quyển Die moderne Akupunktur của De la Fuýe Schimidt nói huyệt Lương kheo châm với huyệt Nội quan, huyệt Thần môn trị bịnh đi tiểu ra máu. f) Nhận xét chung: Huyệt Lương kheo thường trị bụng đau, đặc biệt trị những người bị co rút, châm vào liền ngay ra được, nhưng sau khi hết đau không nên châm thêm Huyệt Lương kheo có công năng trị đau bụng đi tiêu chảy. Nhưng đốt huyệt Lương kheo thường đại tiện bị bế vì vậy sau khi đốt huyệt nầy phải đốt huyệt Thần môn để khỏi bị bí đại tiện. Những người đau bao tử, dùng tay nhận vào huyệt Lương kheo thì nơi đây đau rất khó chịu, khi châm thì trong xương bàn chân có cảm giác đau. Khi đau bụng dữ dội, châm huyệt Lương kheo, huyệt Túc Tam Lý huyệt Côn Lôn. Huyệt Lương kheo có công năng trị những chứng ra máu ở ruột, đối với bịnh đau các lóng xương, châm huyệt Lương kheo có kết quả lớn . 7) HUYỆT ĐỘC TỶ Thuộc Túc dương minh Vị kinh, nơi mạch khí phát ra. 37
- a) Phương pháp tìm huyệt: Ngồi ngay co chân lại phía ngoài đầu gối có chỗ sâu vô đó là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu năm đến bảy phân. Đốt 7 liều. c) Chủ trị: - Bị phong thấp - Các lóng xương đau. - Thần kinh ở đầu gối bị đau nhức - Da không biết đau - chân nhức và tê đứng không được. d) Tham khảo các sách: Từ đầu gối xuống 2 tấc giữa huyệt Tất nhãn và huyệt Tam lý là huyệt Độc tỷ. - Kinh Giáp ất nói: Huyệt Độc tỷ nên châm ở trên, nếu nơi đây sưng cứng lắm thì đừng châm, châm vào khó trị. - Phương Thiên Kim nói: Huyệt Độc tỷ sưng nên đốt không nên châm, phàm những người bệnh da không có cảm giác nên đốt huyệt Phong thị, huyệt Phục thổ, huyệt Độc Tỷ, đốt mỗi huyệt 30 lần. - Quyển châm cứu Yếu dụng ký của ông Cao Tầng Kính Tiết (Nhật) nói: Huyệt độc Tỷ châm với huyệt Túc tam lý và huyệt Côn lôn trị các bệnh tê bại. - Quyển Théorie et Pratique de l acupuncture của bác sĩ J.Lavier nói: Huyệt Độc tỷ trị được bệnh hai chân ốm, châm không biết đau, đi đứng không được. e) Nhận xét chung: - Huyệt này đi thông qua các lóng xương nên khó châm, khi châm phải để bệnh nhân ngồi ngay, người châm nên lấy kim châm từ từ vào rồi đâm xiên qua huyệt. Những người bệnh đau đầu voi không nên châm mà chỉ dùng kim điểm vào nhiều chỗ, xâm xong nên đốt và giác hơi. Cần xem trạng thái từng bệnh, nếu đâu đầu voi mà sưng ít thì đốt cũng công hiệu. 8. HUYỆT TAM LÝ Huyệt này có tên riêng là Túc Tam Ly, Qủy Tà, Hạ Lăng, Túc dương minh vị kinh mạch khí chạy vào thổ huyệt. a) Phương pháp tìm huyệt Ngồi ngay co chân lại, phía ngoài xương ống chân 3 tấc dưới huyệt Độc tỷ có chỗ hũng, nhận mạnh vào có cảm giác tê hay đau là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 5 phân đến 1 tấc, đốt 7 liều. c) chủ trị : - ăn không tiêu - thần kinh tê nhức và đau 38
- - Lạnh bao tử - Phong thấp - Ốm gầy - Phong tê - Miệng lở - Da không có cảm giác - Bụng dưới đau - Xây xẩm - Đi tiêu khó khăn - Mắt bệnh thấy không xa - Bế đại tiện - Sưng vú. - Uể oải - ỉa mửa. - Thủy thủng, ruột chướng. d) Phương pháp phối hợp : Châm với huyệt Tam âm giao trị tê. Châm huyệt Túc Tam lý với huyệt Thần khuyết trị đau bụng tiêu chảy. Châm với huyệt Hành giang, huyệt Hợp cốc, huyệt Khúc trì trị máu lên (huyết áp cao) d) Tham khảo các sách: Phú Tịch Hoằng nói: những người suyển lâu ngày nên châm huyệt Túc Tam lý . Ca Tạp bịnh nói: bịnh suyển nặng nên châm với huyệt Liệt Khuyết và huyệt Túc Tam Lý Ca Hoa Thắng nói: bịnh da tê đau từ chân tới tay châm huyệt Túc tam lý với huyệt Dương lăng tuyền. Ca Thập bệnh nói : Huyệt Túc tam lý và huyệt Âm Lăng tuyền trị tiểu tiện không thông. bịnh bụng trướng, mình sưng, trước đốt huyệt Thủy phong, huyệt thủy đạo, sau châm huyệt Túc Tam lý với huyệt Tam âm giao. Thiên tinh bí quyết nói : răng đau, đầu nhức và yết hầu tê, trước châm huyệt Nhị Giang sau châm huyệt Túc tam lý. Ca Thắng ngọc nói: Tự nhiên hai đầu gối sưng, nên đốt huyệt Túc tam lý và huyệt Tất Nhãn. Ca trữu hậu nói : Bệnh nội thương ăn không tiêu làm sinh bụng nên châm huyệt Túc tam lý và huyệt Trung uyển. Kinh giáp ất nói: Bao tử bịnh, sình bụng đầy lên cuống bao tử đau nhiều nên châm huyệt Túc tam lý. Ông Hoa Đà dạy: Huyệt Tam lý trị ứ máu ở hông rất hay. Phú Ngọc long nói : những người gan nóng mắt mờ châm huyệt Túc tam lý bổ huyệt Can Du rất hay. Sách Đông Dương dạy: đường kinh bế tắc châm huyệt Chí cấu , huyệt khúc trì , đốt huyệt Tam Âm giao , Chi cấu rất công hiệu. Sách châm cứu Nhật bổn dạy : ông Tàm Hà sống lâu 200 tuổi. Nguyên nhân được gia truyền thường đốt huyệt Túc Tam Lý mới được trường thọ như thế . Quyển Châm Cứu Khổng huyệt loại của ông Tứ Bình Lang (Nhật) dạy: Huyệt Túc tam lý trị bịnh bao tử sình hơi, cuống họng đau ăn không tiêu. 39
- Quyển Traité d’acupuncture của Bác sĩ Royer de la Fuýe: Huyệt Tam lý châm với huyệt Âm cốc trị bịnh ỉa mửa rất hay. e) Nhận xét chung: Phàm khi châm những huyệt trên cơ thể, nên đốt huyệt Túc Tam lý để thông hơi và đổi máu. Huyệt này người ngoài 30 tuổi mới được đốt. Trẻ nhỏ cấm đốt là vì sợ làm mờ mắt. Nếu châm thì rất thích ứng trị trẻ nít tiểu xón và tê xuội. Trẻ nhỏ ăn không tiêu nên châm huyệt Túc tam lý vì huyệt này trị lỗ mủi nghẹt hoặc chảy nước mũi. Nếu không dùng huyệt Túc tâm lý thì đốt huyệt Thượng cự hư cũng có công hiệu. Ăn uống không tiêu nên châm huyệt Túc tam lý, huyệt Nội Đình rất hay, vì tỳ vị rất liên quan mật thiết với nhau. Cuống bao tử lở, đốt huyệt túc taml ý và huyệt Tỳ du rất công hiệu . 9. HUYỆT PHONG LONG Túc dương minh vị kinh có đường chạy dài qua Kinh Thái âm. a) Phương pháp tìm huyệt: Ngồi ngay thòng chân xuống, trên mắt cá 8 tấc là vị trí huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 5 phân đến 1 tấc (châm xiên) c) chủ trị: Hai chân co rút, bí đại tiên. Bại xuội. Hay cười, hay khóc. Sưng xương đầu gối và xương ống – Chân nhức khó co duỗi. Xốc hong, hơi thấp làm chân lạnh. d) Phương pháp phối hợp : Châm với Huyệt thiên Đột trị suyển. châm với huyệt Dương lăng tuyền làm thông đại tiện. e) Tham khảo các sách: Sách bịnh Lý Học Tu dưỡng của ông điền Hiến Thái Lan (Nhật) dạy: Huỵệt Phong Long châm với huyệt Thu Tam Lý trị đau nửa thân mình. Quyển Was ist Akupunktur: wie Wirkt Akupunkter của Stiftvater E.W (Đức) dạy: huyệt Phong Long châm với huyệt Hàn Môn làm bình thường hoá thần kinh hệ. Sách Đơn Khế Tâm Pháp nói: Lâu ngày không thấy có kinh, khi có lại rất nhiều như làm băng rồi dứt ,sau lại có rất nhiều. Châm huyệt Phong Long 6 phân và huyệt Thạnh môn 5 phân không có kinh nũa. Quyển Y Hoc Cương Mục nói: Các chứng thuộc đàm làm cho nhức đầu, ho hen thì châm huyệt Phong Long và Trung Uyển. Sách Cửu Cổ Nghĩa của Thạch Bản Tôn Tiết (Nhật) nói: Huyệt Phong Long châm với huyệt Cường Giang trị nhức đầu dử dội. Sách Emérit d’acupuncture traditionnelle: Huyệt Phong long châm với huyệt Nội đình trị xây xẩm mặt mày, nhức đầu. 40
- f) Nhận xét chung: Huyệt Phong Long thuộc Vị kinh do huyệt Túc tam Lý chay qua Tỳ Kinh. Người có đàm nhiều là bị cảm hơi, thấp tích ở Lá lách, tụ ở dạ dày nên sanh đàm chẳng dứt. Châm huyệt Phong Long có thể làm Tỳ vị lưu thông. Lá lách bớt nóng, tiêu đàm độc thì chứng bệnh suyển và ho đều dứt. Trị nhức đầu lấy huyệt Thượng tinh làm chủ châm với huyệt Phong Long, huyệt Nội đình, dù cách xa vị trí huyệt nhưng nhờ sức phản xạ cũng có thể kích thích làm cho máu huyết lưu thông mà bệnh được nhẹ. Người xưa khi trị nhức đầu hay châm ở chân cũng đồng lý trên. Người bị áp huyết cao hay nảo sung huyết, thì châm huyệt bá hội tả huyệt Phong Long cho ra máu rất thần hiệu. 10. HUYỆT GIẢI KHÊ Huyệt này có tên riêng là Hài đái, Túc dương minh vị kinh thuộc hỏa huyệt. a) Phương pháp tìm huyệt: Từ ngón chân thứ hai lên cho đến chỉ ngang phía trước cổ chân có hai sợi gân nỗi lên, nơi giữa có lổ sâu. Nơi đây rờ có động mạch nhảy là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 5 phân đốt 8 đến 9 liều, ôn cứu 30 phút có thể dùng phương pháp sâm. c) chủ trị: Phong thấp, chóng mặt, nhức đầu, nhức hai chân, trên mặt sưng, đầu gối và xương chân sưng. d) Phương pháp phối hợp : Châm với huyệt Thượng kheo, Kheo khư trị sưng chân. Châm với huyệt Dương giao trị sợ hải, hồi hộp. Châm với huyệt Nội đình trị mặt sưng. e) Tham khảo các sách: Kinh Thần Nông dạy: Huyệt này trị sưng nhức, cổ chân nhức, mắt mờ, đầu nhức, nên đốt 7 liều. Quyển Revue Internationale d’Acupuncture dạy: Châm với huyệt Nội đình trị trên mặt bị tê nhức. Sách Thần Kinh Sinh lý học, của ông Điền Kỳ (Nhật) nói: Châm với huyệt Lệ đoài trị bàn chân tê. Sách Châm cứu Y học, của ông Thời Tỉnh Văn Lang nói: hợp với huyệt Thận du trị ống tiểu tiện bệnh. Quyển Traité d’Acupuncture của Bác sĩ Royer de la Pugé : Hợp với huyệt Túc Tam lý trị phong thấp làm tê nhức. f) Nhận xét chung: Huyệt Giải Khê ở về vị kinh thuộc hỏa, hoả sanh thổ giao thông với tỳ kinh 41
- nên có thể trị phong thấp, châm huyệt nầy làm cho các khí quản bên trong được cường tráng. 11. HUYỆT NỘI ĐÌNH. Túc dương minh vị kinh thuộc thủy. a) Phương pháp tìm huyệt: Bên ngoài lóng xương thứ hai trên bàn chân tiếp giáp với ngón giữa là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâutừ 4 đến 5 phân, đốt từ 3 đến 5 liều. c) Chủ trị: Nhức răng, ruột sôi, lổ mũi ra máu, có cục chạy trong bụng, sưng mặt, gân giựt, tay chân lạnh. d) Phương pháp phối hợp: Hợp với huyệt Túc tam lý trị đau bụng Hợp với Huyệt Dương lăng tuyền trị tay chân lạnh Hợp với Huyệt Khúc trì trị tay lạnh Hợp với huyệt Lâm khấp trị ruột đau Hợp với Hiệp cốc trị rét lạnh, mặt sưng, ruột sôi. e) Tham khảo các sách: Sách Ngoại đoài dạy: Tiểu ra máu đốt 7 liều hết bịnh. Sách Thiên Tinh nói: Hiệp Nội Đình thuộc Túc Dương Minh, trị tay chân lạnh, đậu mùa, sưng cổ nhức răng, sốt rét, không muốn ăn, tai lùng bùng. Sách Theorie et Pratique de l’acupuncture của bác sĩ J.Lavier dạy: Châm với huyệt Lệ đoài, huyệt Hiệp Cốc, trị đau ruột, mặt sưng và sốt rét lạnh nhiều. Sách Hải Đặt Thị Đái nói: Trị bệnh Nhiếp hộ tuyến và tử cung bệnh. Sách Tây y Dương học sử của ông Tiểu Vượng Chánh Tu (Nhật) nói: châm với huyệt Túc Lâm Khấp trị được bụng dưới đau. f) Nhận xét chung: Huyệt Nội Đình thuộc Túc Dương Minh thủy huyệt có công năng làm hết nóng, bớt sưng, giảm chứng uất hơi. Nhưng chứng thấp nhiệt, uất kết bên trong làm cho mình sưng hoặc nổi mụt đỏ khắp mình dùng huyệt này có công hiệu đặc biêt. 12) HUYỆT LỆ ĐOÀI Túc Dương Minh vị kinh chạy ra thuộc kim a) Phương pháp tìm huyệt: Phía bên ngoài ngón chân thứ hai cách móng chân 1 phân. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 1 phân, mũi kim day lên, đốt 3 liều. c) Chủ trị: Gan nóng, thịt dư ở cuống họng, não thiếu máu, nướu răng sưng lở, điên 42
- cuồng, bụng và khắp mình sưng, chiêm bao, chân lạnh. d) Tham khảo các sách: Sách Trị Liệu Phương Diện của ông Đổ Kiên Tam Lang nói: Huyệt này trị đau tử cung, tử cung lạnh, tử cung có mụt. Quyển Acupuncture Chinoise Pratique nói: huyệt lệ đoài trị chân tê lạnh và teo lần. Sách Hải Đặc Thị Đái nói: Trị các tuyến ở tử cung đau. Thông cứu Liệu Tạp thoại của Đồng lượng nói: huyệt Lệ đoài hợp với Huyệt Đại đô trị tim yếu hay hồi hộp. Quyển Théorie et Pratique de l’acupuncture, của bác J.Lavier nói: Huyệt Lệ đoài phôí hợp với huyệt Âm Lăng tuyền trị tê thấp. e) Nhận xét chung: Huyệt Lệ đoài ở về Vị kinh thuộc kim huyệt, kim sanh thủy. Vị kinh có những chứng bị hỏa bốc lên, châm huyệt Lệ đoài có thể dẫn hoả đi xuống làm cho an thần tăng thêm trí nhớ. 43
- Châm cứu học Chương 7 TÚC THÁI ÂM TÌ KINH (Meridien de la rate) (7 huyệt x 2 ) Sự lưu hành kinh huyệt Kinh này liên hệ với Túc Dương minh, phát ngôn từ huyệt ẩn bạch ở đầu ngón chân cái, chạy từ huyệt Đại đô, huyệt Thái Bạch , huyệt Công Tôn đến huyệt Thượng khê, vòng qua mắt cá phía trong, chạy thẳng lên huyệt Tam âm giao gần với Kinh túc khuyết âm ở phía trước. Nơi đây chạy thẳng lên các huyệt Lậu Cốc, Địa cơ, Tam lăng tuyền, qua đầu gối, chạy thẳng lên huyệt Huyết Hải, huyết Chí môn. từ huyệt Xung Môn chạy vòng trong trong bụng lên Hoàn hcách mạc liên lạc với hai bên cuống họng, đến dưới lưỡi. Từ Lá lách chạy ra một đường đến huyệt Phủ Xá, huyệt Phú Khê, huyệt Đại Hoành, huyệt Phúc Ai, huyệt thực độc xuống huyệt Đại Bao mới dứt. Lại xó một nhánh thần kinh ở ngoài từ trên nơi huyệt Phúc Ai, huyệt Địa Đái chạy ra do huyệt Trung Quản (nhâm mạch) vào huyệt Chiêu Trung (Nhâm mạch) dưới quả tim, giao tiếp với Thủ thiếu âm Tâm kinh. I. HUYỆT ẨN BẠCH Huyệt này có tên riêng là Quỷ Lủi, Qui nhân, Huyệt Túc thái âm tì kinh thuộc mộc . a) Phương pháp tìm huyệt: Bên trong ngón chân cái, cách móng chân một phân là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 1 phân. Đốt 3 liều. c) Chủ trị: Bệnh lãng trí, ruột viêm cấp tính, chân lạnh. Kinh nguyệt quá nhiều, tử cung co rút, bụng lạnh, trẻ nít làm kinh. d) Tham khảo các sách: Sách Ngoại Đoài và Thiên Kim nói: Con trai tinh hoàn vổ thục vô, hay bịnh điên thì đốt phía trong ngón cái cách một tấc, tùy theo người lớn hay nhỏ, nếu người lớn đốt cả hai bên rất hiệu nghiệm Sách Bảo Mạng dạy: máu lổ mũi chảy ra chẳng ngừng, đại tiểu tiện ra máu, chứng băng huyết nên châm huyệt Ẩn Bạch rất hay. Tạp chí châm cứu dạy: Bịnh ỉa mửa, mồ hôi nhỏ giọt, khát nước, tay chân giật, chân lạnh, nhức đầu gối, bịnh chứng hiểm nghèo, đốt hai huyệt Ẩn bạch 44
- đến lúc hết ỉa mửa mới thôi. Sách châm cứu Tác dụng, ông Thái phú Hùng (Nhật): Huyệt Ẩn bạch châm với huyệt Công Tôn trị ăn không tiêu, sôi bụng hoặc sình bụng rất hay. Sách Hải Đặc Thị Đái nói: Dùng trị bịnh cổ tử cung và Nhiếp hộ tuyến. Tâm soạn Châm Cứu Y học, ông Tiểu Nhản Điền lang nói: Huyệt Ẩn Bạch châm với huyệt Lệ Đoài, huyệt Thái Khê, huyệt Thừa sơn trị chân bị vọp bẻ. Sách La chirurgie de la douleur của Serishe nói : huyệt Ẩn bạch và Tam âm giao cũng có thể trị bịnh Bạch Đái. e) Nhận xét chúng: Huyệt ẩn bạch trị tiểu tiện không thông, trẻ mít ăn chậm tiêu, ban đêm hay khóc, châm rất công hiệu. Sự tiêu hoá của bao tử là nhờ dương khí vận chuyển, nếu dưỡng khí không mạnh thì bụng đau và hay sinh chứng tiêu chảy, mỏi mệt, hơi thở ngắn. Có thể sanh chứng băng huyết và Bạch đái. Huyệt Ẩn bạch là cội rể kinh Thái Âm, bổ huyệt này làm cho khí vượng và đưa hơi lên trên khiến cho tế bào bao tử sống động. 2. HUYỆT CÔNG TÔN Thuộc Thái âm Tỳ kinh có đường riêng chạy qua Túc dương minh Vị Kinh. a) Phương pháp tìm huyệt: Tại phía trong lưng bàn chân có một cục xương lồi lên, lấy tay nhận xuống có cảm giác đau là vị trí của huyệt. Phía trên có huyệt Trung Phong sau có huyệt Chiếu hải. b) Phương pháp châm cứu: Châm từ 5 đến 8 phân , trước khi châm bảo người bịnh ngồi ngay 2 chân khép lại. Đốt 20 liều. c) Chủ trị: Dưới bụng bị co rút. Kinh Phong. Trong ruột đau. Điên cuồng. Ruột ra máu. Mặt sưng. Bụng nóng. Không muốn ăn. Ụa mửa. d) Phương pháp phối hợp : Châm với huyệt Nội quan trị đau bụng. e) Tham khảo các sách: - Phú Tiêu U nói: Bao tử lạnh, lá lách đau, tả huyệt Công Tôn thì hết. - Phú Thiên Kim dạy: Huyệt Công Tôn chủ trị ruột bị trướng, ăn không tiêu và sốt ruột. - Sách Phản xạ Phát hạn của ông Cao Mộc Liên Thái Lang; Huyệt công tôn trị tử cung và bọng đái bị tổn thương. - Sách Bulletin de la socíete d’acupuncture nói: Huyệt Công Tôn châm với huyệt Thiên Xu trị ăn không tiêu, đau chằng bụng dưới. g) Nhận xét chung: Huyệt Công Tôn thuộc Túc Thái Âm tỳ mạch nó liên quan với bao tử, nhơn 45
- đó những bịnh về bao tử, lá lách hông, bụng, thì huyệt nầy có tác dụng phát huy. Châm mạnh vào thì bịnh trạng được bình phục như thường. Những chứng bịnh thuộc về bao tử châm huyệt Công Tôn có ảnh hưởng rất tốt. 3. HUYỆT THƯƠNG KHEO Thuộc Túc Thái Âm tỳ mạch về Kim huyệt a) Phương pháp tìm huyệt: Nơi mắt cá về phía trước có một lằn ngang, một bên huyệt trúng phong sau có huyệt Chiếu Hải, huyệt Thương Kheo nằm ở giữa. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 3 phân. Đốt 3 liều. c) Chủ trị: Đại tiện bí, ăn không tiêu, ruột sôi. Thần kinh hai chân đau. Con nít tê và co rút. Ỉa mửa. Trĩ . Bụng đau. Các lóng xương chân nhức. d) Phương pháp phối hợp: Phối hợp với huyệt Kheo khư, hay huyệt Giải khê trị 2 chân teo và nhức. e) Tham khảo các sách: Phú Bá chứng nói: chuyện trị trĩ chảy mủ rất hay. Sách Đại hành nói: Đàn bà không con, trẻ nhỏ làm kinh phong nên châm huyệt này. Sách Hải Đặc Thị Đái nói: huyệt này dùng trị thận, ống tiểu tiện, tử cung đau. Sách nghiên cứu sinh lý học của ông Câu Tỉnh Nhất Hùng nói: huyệt này trị tử cung lạnh, con nít hay giật mình. Sách Théorie et pratique de l’acupuncture của Bác sĩ J.Lavier nói: châm với huyệt Phong thị , huyệt Âm thị trị bịnh tê bại. g) Nhận xét chung: Huyệt Thương Kheo thuộc Tỳ kinh có thể trị các chứng bịnh thuộc bao tử, nhân đó những người bị thấp khí làm bụng đầy hơi và đau. Hơi thấp chạy vào cơ thể làm cho uể oải nặng nề sanh ra những trạng thái nóng hông, đau bụng da vàng châm huyệt Thương Kheo rất tốt. 4. HUYỆT TAM ÂM GIAO Huyệt này có tên riêng là Thừa mạng, Túc Thái Âm Can Kinh, Túc Thiếu âm thận kinh 3 đường kinh mạch đều nhóm họp nơi đây. a) Phương pháp tìm huyệt : Lấy 3 ngón tay chận lên xương mắt cá, nơi mắt cá đi lên 3 tấc, đối diện phía ngoài là huyệt Huyền chung, bên trong là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 5 phân đến 8 phân. Đốt 7 liều c) Chủ trị : 46
- - Bệnh sinh dục đàn ông và đàn bà. - Có kinh nguyệt nhiều - Trẻ nhỏ tiểu xón. - Tử cung ra máu - Ruột sôi. - Dưới rún đau. d) Phương pháp phối hợp: - Đốt với huyệt Trung cực, Huyệt Huyết Hải làm điều kinh. - Đốt với huyệt Khí hải trị bịnh Di tinh, bạch đái . - Đốt với huyệt Tam lý, huyệt Dương Lăng tuyền, huyệt Tuyệt cốt trị chân đau, chân teo, đầu gối sưng, đầu ngón tay tê và nhức mỏi. - Đốt với huyệt Thừa sơn trị hông đầy. e) Tham khảo các sách: - Nếu dùng phương pháp châm cứu mà ghẻ chốc không hết, đốt huyệt này 30 liều bịnh không trở lại. - Cẩm nang nhãn khoa nói: Vành mắt phía trên thòng xuống nếu bịnh còn nhẹ thì đốt huyệt Tam âm giao. - Sách nhà Tống nói: ông Từ văn Bá thấy sản phụ sanh nguy hiểm, xem kỹ lại thai chết trong bụng. Ông châm huyệt Tam âm giao, tả 2 huyệt Thái xung, thai liền ra được. - Sách Đồng Nhơn nói: Tả huyệt Tam âm giao, bổ huyệt Hiệp cốc làm thai ra. - Phương trửu hậu nói: huyệt này trị thời khí. - Quyển châm cứu Y học Giang nghĩa, của ông Bổn Cống (Nhựt) nói: huyệt Tam âm giao trị chân yếu đi không được, nây bụng đau, con nít tiểu xón. - Sách Précis de la vraie acupuncture Chinoise của Soulier de Morant nói: Huyệt Tam gâm giáo phối hợp Ủy trung trị hết chứng nhức lưng. g) Nhận xét chung: Đốt huyệt Dương Lăng tuyền làm hết bạch đái và dứt kinh nguyệt, cũng như đốt huyệt Tam âm giao làm sanh bạch đái và có kinh nhiều. Nếu bịnh thuộc Tam dương Kinh nên dùng huyệt Tam âm giao. bịnh ở Tam âm kinh nên dùng huyệt Tam dương lạc. Sách nội kinh nói: Châm gia có kỹ thuật theo âm kinh mà dẫn dương, theo dương dẫn âm rất có công hiệu. Đốt Tam âm giao trị da đầu mọc mụt, mọc ghẻ, vì thế mà biết Tam âm giao bài tiết máu ứ. Huyệt này có thể điều kinh nhưng cần phải châm thêm huyệt Trung cực. Tam âm chao chủ trị các chứng kích thích trên não làm cho mạch lạc được thăng bằng . Vì nó là nơi giao hợp 3 kinh: lá lách, gan, thận nên mới trị được các chứng nói trên. Năm 1950 Hội Y học châm cứu ở Ba lê có ra tờ báo nói: Châm huyệt Tam âm giao để kim lại 1 giờ thì có 3 đường bạch tuyến dài độ 35 đến 50ly từ 47
- chỗ châm chạy khắp nới. Đây là trạng thái của kinh thận, gan, lá lách vận chuyển mà mảy may không sai chạy. Đó là chứng minh cụ thể không phải ức đoán vậy. Tạp chí Y học ở Mỹ nói về khoa châm cứu cho rằng huyệt Tam âm giao trị mất ngủ, người mất sức nhiều và hay đi tiểu đêm trị rất công hiệu. Cũng thường trị chứng bịnh tay co rút, lát (hắc lào) long ben, ghẻ chóc. Đàn bà có thai nếu châm đốt huyệt Tam âm giao có phản ứng làm cho hư thai, vì thế mà từ xưa đến nay những người có thai không nên châm đốt huyệt này. 5. HUYỆT ÂM LĂNG TUYỀN Túc Thái Âm tỳ mạch hợp với Hỏa huyệt. a) Phương pháp tìm huyệt: Ngay chơn ra từ phía trong đầu gối chỗ sâu ngang với huyệt Dương lăng tuyền là vị trí của huyệt . b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 5 phân ,cấm đốt, có thể dùng phương pháp xâm. c) Chủ trị: Đau bụng nơi cuống rún, âm đạo viêm, tiểu xón không ngừng, tiểu không thông, Bộ sinh dục đau nhức, ỉa mửa. d) Phương pháp phối hợp. - Phối hợp với Dương Lăng tuyền trị chân đau. - Phối hợp với huyệt Thủy Phân trị dưới rún sưng. - Phối hợp huyệt Túc Tam Lý, huyệt Khí hải, huyệt thiên xu trị tiểu tiện không thông. e) Tham khảo các sách : - Bí quyết của Thiên Tinh nói rằng: nếu ruột non và rún đau thì trước châm huyệt Âm Lăng sau châm huyệt Dũng Tuyền. - Phú Tịch Hoằng nói: Huyệt Âm lăng Tuyền trị bụng đầy hay đau, châm với huyệt Thừa sơn làm cho ăn biết ngon. - Hải đặc thị Đái nói: dùng trị tử cung, thân, niếu quản đau. - Sách Luân viên Trí Tề (Nhựt) nói: huyệt Âm Lăng tuyền trị bụng và hoành cách mạc nóng hay trong ruột có cục nổi lên. - Sách l’acupuncture Chinoise của Ch.Flandin nói: huyệt Âm lăng tuyền trị bọng đái, tử cung nhức sưng, thận suy. g) Nhận xét chung: Huyệt Âm lăng tuyền Tỳ kinh thuộc thủy huyệt cùng với thận thủy và bàng quang có sự liên hệ mật thiết nên có thể làm cho lá lách bớt nóng bằng cách bài tiết nước ra ngoài , dương khí được thông, thấp khí được bớt có công dụng làm bớt đau và lợi tiểu. Phối hợp với huyệt Túc tam Lý trị đi tiểu không thông. Sau khi lấy kim ra 48
- thì đi tiểu được nhiều. 6. HUYỆT KHÍ HẢI Huyệt này có tên riêng là Bá Trùng Sào, từ Thái âm tỳ mạch phát ra. a) Phương pháp tìm huyệt: Trên xương đầu gối, phía trong hai tấc, ngồi ngay thòng chân xuống. Châm gia lấy tay mặt để lên đầu gối bên trái người bịnh, ngón cái đè mạnh xuống có cảm giác đau là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 5 phân đến 1 tấc, hoặc đốt 3 liều. c) Chủ trị: Màng bụng viêm, bụng đau, kinh huyệt không đều tử cung ra máu, màng tử cung viêm, cao hoàn viêm, hai đầu gối bị phong thấp sanh ghẻ và ngứa. d) Phương pháp phối hợp: Hiệp với huyệt Địa cơ trị kinh trồi sụt. Hiệp với huyệt Xung môn trị trong bụng có cục. Hiệp với huyệt Khí Hải trị uất hơi, tiểu ra máu hay bạch đái. e) Tham khảo các sách: - Sách Đồ dực nói: huyệt Huyết hải trị thận nhức, hai ống chân bị thấp khí sinh ghẻ, ngứa khó chịu. - Sách Đại Thành nói: trị hai chân sanh ghẻ. - Tạp chí Châm cứu nói hai bên đùi bị ghẻ độc sưng có mũ, đau ngứa chẳng ngớt lên đến Cao hoàn vẫn còn đau, ngày đêm rên la . Châm huyệt Huyết hải, Huyệt Hạ Cự hư, chảy nước vàng liền hết. Hải Đặc Thị Đái nói: dùng trị tử cung, thận, niếu quản bị bịnh. - Sách Nghiên cứu thực nghiệm của Trường Môn Cốc trượng nói: huyệt này hợp với huyệt Khí hải trị sạn ở thận. - Quyển Traité de l’acupuncture của Bác sĩ Royer de la Fuýe nói: Huyệt Huyết Hải trị bịnh Tinh hoàn sưng hay tử cung ra máu. g) Nhận xét chung: Huyệt huyết hải làm Chủ huyệt, tri các chứng bịnh thuộc về huyết, có công năng lọc máu làm hơi thấp bớt đi, vì thế các chứng ghẻ mụt đều nhẹ. Huyệt Huyết Hải và huyệt Khí Hải có công năng làm chứng bịnh đầy hơi, trước ở ruột được thuyên giảm. 7. HUYỆT THỰC ĐỘC: Huyệt này có tên riêng là Mạng quang, thuộc Túc Thái Âm tỳ Kinh mạch khí đi ra. a) phương pháp tìm huyệt. Nằm ngửa ngay tay ra , từ huyệt nhủ bàn, ra hai tấc, dưới một tấc 6 phần ngay xương sườn thứ 6 thẳng tay lên lấy huyệt. Đối với huyệt Trung Uyển thành hình tam giác. 49
- b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 3 đến 4 phân. Đốt từ 3 đến 100 liều . c) Chủ trị: Phổi viêm, màng hông viêm. Thần kinh ở hông đau, gan đau phổi sung huyết . d) Tham khảo các sách: - Sách châm cứu nói:trị ho nhiều, hông đau. - Sách Ngoại đài nói: Huyệt nầy chủ trị hông đau hay sưng, trong ngực có tiếng kêu ồ ồ, thỉnh thoảng nghe có tiếng động như nước chảy. - Hải Đặc Thị Đái nói: dùng trị bịnh phổi, ống thực quản, hạch sửa. - Sách Trị liệu Phương diện của ông Độ biên Tam Lang nói: Huyệt Thực Độc có công năng trị cuống họng sưng và vú sưng. Quyển Théorie et pratique de l’acupuncture của Bác sĩ J.Lavier nói: Huyệt này trị bịnh uất hơi, làm khó thở. e) Nhận xét chung: Đàn bà sau khi sanh hay sình bụng, mình sưng, nên đốt nhiều liều . Chứng bụng trướng hay sưng dùng tay nhận vào thấy móp hoặc bụng đầy hơi nằm không được, tiểu không thông vì tì khí kém. Vì thế cần phải đốt nhiều liều huyệt nầy để làm cho tì khí mạnh lên, đốt thêm huyệt Quan nguyên nhiều liều để cho thận thủy, thì chứng thủy thũng được lành. Huyệt này còn trị dứt chứng Kiết lỵ, tiêu ra máu, ra đàm vì tì khí kém làm người gầy ốm bằng cách đốt huyệt Quan Nguyên, Mạng quan. 50
- Châm cứu học Chương 8 THỦ THIẾU ÂM TÂM KINH (Méridien du Coeur)( 4 huyệt x 2) Sự lưu hành của kinh huyệt Huyệt này liên lạc với Thủ Thái Âm tỳ kinh, khởi từ tim bằng đường gân chạy vào phía dưới xương sườn thứ năm nằm ngoài Nhâm mạch, đi xuống Hoành cách mạc và liên hiệp với ruột non. Từ tim có một đường mạch đi lên cuống họng chạy thẳng bên trong tròng mắt. Có đường mạch khác từ tìm đến phổi xuống huyệt Cúc tuyền chạy vào phía trong cánh tay, sau động mạch Thủ thái âm và Thủ Khuyết âm, đến huyệt Thạch Linh, huyệt Thiếu Hải chạy đến phía sau bàn tay các huyệt Linh đài, huyệt Thông lý huyệt Âm sát, huyệt Thần môn, vào trong bàn tay huyệt Thiên Phủ đến đầu ngón tay út phía trong huyệt Thiếu xung và tiếp với kinh Thủ Thái Dương. I. HUYỆT THIẾU HẢI. Huyệt này có tên riêng: Khúc Tiết, Kinh Thủ Thiếu âm chủ mạch chạy vào, thuộc thủy huyệt. a) Phương pháp tìm huyệt: Co tay lại bàn tay ngửa lên trong cùi chỏ, có lằn ngang cách huyệt Khúc trì 5 phân, nơi đầu lằn ngang là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu từ 5 phân - Đốt 7 liều. c) Chủ trị : Đau tràng hạt, tay chơn lạnh, điên cuồng răng đau, nhức đầu, chóng mặt, cùi chỏ tay giựt, phồi có mụt, các lóng xương nhức mỏi. d) Phương pháp phối hợp: Châm với huyệt Tam Lý trị tay hay tê. e) Tham khảo các sách: Phú tịch Hoằng nói: Tim đau, tay chân giựt châm huyệt Thiếu Hải muốn trừ căn châm thêm huyệt Âm thị. Sách Hán Phường Y học Khái luận của Tây xích Đạo giản nói: Huyệt Thiếu hải châm với huyệt Thái Khê trị tay nhức giựt và chân vọp bẻ. Sách Traité d’acupuncture của Bác sĩ Royer de là Fuýe nói: huyệt Thiếu Hải trị các chứng bịnh về phổi và bướu nơi cổ. 52
- d) Nhận xét chung: Huyệt Thiếu Hải tâm kinh thuộc thủy, nhân đó mà thêm thủy tản hoả làm cho mát máu. Huyệt này có công năng làm cho hết bịnh tràng hạt. Phối hợp với huyệt Thủ Tam lý đó là âm dương hòa hợp trong những phương thức trị liệu, có công năng làm cho kinh lạc ýông động điều hòa máu huyết. Nhờ thế làm cho cùi chỏ cánh tay tê nhức được khỏi. Trong lúc bịnh nóng chưa giảm chỉ dùng phương pháp châm chờ cho sức nóng giảm sẽ đốt. 2) HUYỆT THÔNG LÝ Thuộc thủ Thiếu âm tâm kinh, có một đường chạy về Thái Dương và Tiểu Trường. a) Phương pháp tìm huyệt: Theo đường gân phía sau cườm tay có một lằn nhăn trên đường nầy một tấc là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 3 phân - đốt 7 liều. Cũng có thể dùng kim xâm nhẹ vào. c) Chủ trị: Nhức đầu, chóng mặt, đau thần kinh, sợ hãi, đau cuống họng, lưỡi tê, thần kinh hai cánh tay co rút, buồn rầu, tử cung ra huyết. d) Phương pháp phối hợp: Châm với huyệt Đại trung trị biếng nói hay câm. Châm với huyệt Tam Lý trị ho hen. e) Tham khảo các sách: Sách Thiên tỉnh nói: Huyệt Thông Lý sau cườm tay 1 tấc trị chứng nói không ra tiếng, buồn rầu hồi hộp, đầu lắc lư, tai đỏ, cuống họng tê, hơi thở không thông sắc mặt kém tươi nhuận. Sách châm cứu y học của Thời Tỉnh Văn Lang nói: Huyệt này trị chứng chóng mặt, xỉu, sợ sệt, biếng nói, biếng cười. Quyển Revue internationale de l’acupuncture nói: huyệt Thông LÝ trị tử cung ra máu, và lưỡi nhức tê. d) Nhận xét chung: Biếng nói hay muốn nằm là do tâm hỏa suy nhược không thể làm cho lá lách được ấm nên lâu ngày làm cho tim và thận sanh bịnh. Huyệt Thông Lý thuộc về Tâm Kinh phối hợp với thận kinh và liên lạc với huyệt Đại chung nối liền với tim và ruột non, tiếp với Túc Thái dương tỳ kinh mạch khí, cho nên trị lá lách bị thất thường rất công hiệu. 3) HUYỆT THẦN MÔN Huyệt này có tên riêng: Đoài xung, Trung Đô, thuộc Thủ thiếu âm tâm mạch. (Thổ huyệt) a) Phương pháp tìm huyệt: Ngay tay ra bàn tay ngửa lên, ngón tay út và ngón tay vô danh dang ra, dưới 53
- cườm tay có lổ hủng là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Từ da châm vào, hướng mũi kim phía ngón tay. Đốt từ 3 đến 7 liều. c) chủ trị: Thở hào hển, lỗ mũi nhức, mắt đỏ, buồn bực, ngủ không được, không muốn ăn, khờ khạo, thất chí, nằm ngồi không yên, tinh thần bịnh, tim yếu. d) Phương pháp phối hợp: Kinh Giáp ất nói: tay co rút hơi lên, mửa ra máu nên châm huyệt Thần môn Sách Nhập Môn nói: Trị sau khi sanh bụng trướng làm tiểu tiện không thông. Sách Bổ Tả Luận Tập của Đông Thương nói: huyệt Thần môn trị mất ngủ, ăn uống không được, lưỡi tê. Quyển Acupuncture Chinoise nói: Huyệt Thần môn trị bịnh loạn óc, mất ngủ, phát điên. e) Nhận xét chung : Huyệt Thần Môn có tác dụng làm cho tinh thần được an tinh, tim hết hồi hợp, tiểu tiện được thông. Đại tiện bị bí khởi tại ruột già, ruột non tại sao châm huyệt Thần Môn thuộc Tâm Kinh mà làm cho đại tiện được thông? Nguyên nhân vì tim và ruột trong và ngoài có liên quan mật thiết, nên châm huyệt thuộc về tâm kinh có thể làm cho thần kinh ở đại trường bị giao cảm và kích thích khiến cho thớ thịt ở ruột chuyển động do đó đi tiểu được dễ dàng. 4) HUYỆT THIẾU XUNG Huyệt này có tên riêng là Kinh thỉ, Thủ Thiếu âm tâm mạch phát ra, thuộc mộc. a) Phương pháp tìm huyệt: Ở bên trong ngón tay út cách móng tay 1 phân là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Phương pháp châm cũng như huyệt Thiếu Thương. c) Chủ trị : Thần kinh làm cho tim yếu, bàn tay đau nhức đến cùi chỏ, tay không ngay ra được, thần kinh ở hông đau, nảo sung huyết, vàng da. d) Phương pháp phối hợp : Hợp với huyệt Khúc trì trị nóng nhiều. e) Tham khảo các sách: - Sách Đại thành nói : chuyên trị bộ sinh dục nóng, trước châm huyệt Hành giang để tả can (cho gan mát) sau châm huyệt Thiếu xung. - Phú Ngọc Long nói: chuyên trị tim yếu, hơi nóng bị bế tắc. Y học sử của Tiểu xuyên Chánh Tu nói: huyệt này có công năng trị tay co rút, tim yếu ngủ hay giựt mình. - Quyển Revue internationnale d’acupuncture nói: Huyệt Thiếu xung trĩ máu 54
- lên, cổ, đầu đau nhức. g) Nhận xét chung: Huyệt Thiếu Xung thuộc Tâm kinh , ở nơi đầu ngón tay út, nó có công năng làm cho thần kinh sống động, nên những bịnh như trên châm huyệt nầy có tác dụng làm cho thần kinh phản xạ và trị những chứng bịnh nhiệt độ lên cao, nó làm cho an thần, giải nóng mát huyệt. 55
- Châm cứu học Chương 9 THỦ THÁI DƯƠNG TIỂU TRƯỜNG KINH (8 huyệt x 2) (Mériedien de l’instestin grêle) Sự lưu hành của kinh huyệt Kinh này tiếp nối với Thủ thiếu Dương tâm kinh, khởi nguồn từ ngoài đầu ngón tay út huyệt Thiếu trạch, chạy theo phía ngoài ngón tay út đi lên đến các huyệt Tiền cốc, huyệt Hậu Khê, huyệt Uyển Cốt đến huyệt Dương cốc, huyệt Dưỡng lảo, huyệt Chỉ chánh. Sau cùi chỏ huyệt Tiểu hải chạy ra ngoài Kinh Thủ Dương Minh và Kinh Thiếu Dương thẳng lên trên bả vai huyệt Kiên trinh, huyệt Nhu Du đến huyệt Thiên Tôn, huyệt Bỉnh phong chạy vào trong huyệt Khúc viên, huyệt Kiên ngoại du, huyệt Kiên trung du, bên trái bên phải nối nhau trên hai vai huyệt Đại Chùy và Đốc Mạch, đến xương tiêu huyệt Khuyết bồn vào trong liên lạc tâm trạng theo thực quản xuống Hoành cách mạc ra phía ngoài Nhâm mạch nơi ngang rún 2 tấc thuộc Tiểu trường kinh. Tại Huyệt Khuyết bồn chia ra một đường mạch từ trên cổ huyệt Thiên Song, huyệt Thiền dung đến huyệt Quyền giao, bên ngoài mí mắt chạy qua Túc Thiếu Dương Đởm mạch nơi huyệt Đồng Tử giao (Đởm kinh) nhập vào huyệt Thính Cung mới dứt. Ngoài ra còn có một đường chạy từ mặt giáp liền huyệt Địa Xu xuyên bên xương gò má liên lạc với Túc Thái dương kinh từ mí mắt chay ra. I. HUYỆT THIẾU TRẠCH: Huyệt này có tên riêng là : Tiểu Kiết, Thủ Thái Dương Tiểu trường mạch phát ra, thuộc mộc. a) Phương pháp tìm huyệt: Ở phía ngoài ngón tay út cách móng tay 1 phân là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Cũng như huyệt Thiếu thương. 56
- c) Chủ trị: Nhức đầu, cuống họng viêm, nở tim, thần kinh tay nhức, cổ đau không cử động được, xương sườn đau, hơi thở ngắn, hông đau, không sửa (mất sửa) , mắt keo mây, nóng lạnh, trúng phong bất tỉnh nhân sự. d) Phương pháp hợp trị: Hợp với huyệt Thiên tỉnh, huyệt Bá lao, trị trẻ nít kinh phong, đau tràng hạt. Hợp với huyệt Can du trị mắt nóng. Hợp với huyệt Thái dương trị vú sưng. e) Tham khảo các sách: Theo phương pháp cấp cứu, nếu người nào bị chứng yết hầu nặng, lưỡi cứng không thể nói được có thể chết trong giấy lạt, nên đốt gấp 2 huyệt Thiếu trạch. Sách châm cứu nói: trị bán thân bất toại, đau bên nào châm bên đó. Sách Traité d’acupuncture của Bác sĩ Royer de ka Fuýe nói: huyệt Thiếu Trạch hợp với huyệt Bá Lao trị trẻ nít kinh phong, đau tràng hạt. Sách Châm Pháp Chỉ Nam, ông Hoà Dưởng An nói: huyệt Thiếu Trạch trị đau yết hầu và bướu. g) Nhận xét chung: Huyệt này có công năng làm cho người nghẹt thở sắp chết được sống lại. Nếu châm huyệt này ra máu thì trong giấy lát cổ hết nhức đau. Huyệt Thiếu Trạch thuộc Tiểu Trường là nơi Lục Dương Kinh vận chuyển nối tiếp với kinh Thủ Thiếu âm tâm mạch trong và ngoài liên lạc nhau. Tâm kinh lại có một đường mạch chạy ra ngoài da, khởi điểm gần huyệt Tiểu Trạch. Vì thế châm huyệt Thiếu Trạch nó rung động và phóng xạ đến gân mạch ở xa nên trị được các chứng bịnh nhiệt độ lên cao. Châm huyệt Thiếu trạch , chứng đau nhức sẽ hết. Nếu châm cho ra máu thì có thể làm cho chứng thần kinh ở mặt bị đau được nhẹ. 2. Huyệt Hậu Khê: Thuộc Thủ Thái Dương tiểu trường mạch, vận chuyển về mộc huyệt. 57
- a) Phương pháp tìm huyệt: Nắm tay lại, sau ngón tay út có lằn ngang, dùng tay nhận có cảm giác hơi đau đó là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm 5 đến 8 phân. Đốt 3 liều (có thể dùng kim xâm) c) Chủ trị: Điên khùng, lổ mủi ra máu, tai điếc, khoé mắt nóng, mắt kéo mây trắng, cổ sưng 5 ngón tay đau nhức, phía sau đầu đau, xương sườn nhức vì mạo cảm, gân ở hông đau. Vế đau. d) Phương pháp phối hợp: Hợp với huyệt Hoàn khiêu trị cổ chân nhức. Hợp với huyệt Lao cung trị khát nước và da vàng. Hiệp với huyệt Liệt Khuyệt trị hông và cổ đau. Hiệp với huyệt Thân mạch trị cổ, tay, lổ tai, lưng hay nhức mỏi. e) Tham khảo các sách: Quyển pháp Châm cứu nói: Tay chân nhức, ghẻ chốc nhiều, nên dùng huyệt Hậu khê làm chủ, sau tùy theo chứng nặng nhẹ tìm các huyệt khác trị liệu. Phú Thông Huyền nói: Trị đầu và cổ đau nhức. Bulletin de la Socíete d’acupuncture nói: phối hợp với huyệt Thân mạch có thể trị nhức đầu và cổ đau. Sách nghiên cứu Lâm sàn thực nghiệm của Thiệt Hồ Tiên Thái Lang (Nhựt) nói: Huyệt Hậu Khê với huyệt Uyển cốt, huyệt Hiệp cốc trị tay chân nhức. d) Nhận xét chung: Huyệt Hậu Khê thông với Đốc mạch, phía sau có một đường mạch tuyến chạy vào bàng quang. Nhân đó nó làm cho giảm nóng hết nhiểm độc, nảo được thăng bằng, hơi thở thông hết đau nhức. Bịnh Phong thấp biến chứng làm đau cùi chỏ, vai cổ co rút phía sau đầu đau. Huyệt này trị rất công hiệu. Phối hợp với huyệt Đại Chùy, huyệt Giang sử, huyệt Cưu vi, huyệt Bá Hội, huyệt Phong Long trị bệnh điên, mất trí rất công hiệu. 58
- Độc khí lưu hành làm cho nhiều người cảm mạo, phổi viêm châm huyệt này rất hay, Nhức đầu phát nóng, mạch nhảy lớn, mau, mình đau, tức hơi, không mồ hôi, ho hen. Châm vào thấy công hiệu. Thân và Tiểu trường có liên quan mật thiết bởi thế châm cứu huyệt Hậu khê làm cho nội tạng cường tráng, tiểu trường lại hết nóng và thận hết đau. Những người điên cuồng châm huyệt Hậu khê rất công hiệu. 3. HUYỆT UYỂN CỐT Huyệt này cũng có tên là Oản cốt. Thủ thái dương Tiểu Trường mạch đi qua. a) Phương pháp tìm huyệt. Theo huyệt Hậu khê phía ngoài vòng tay, đến gần cườm tay có chỗ trũng xuống giữa hai đầu xương là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 5 phân. Đốt 7 liều. (Có thể dùng kim để xâm) c) chủ trị: Cùi chỏ, năm ngón tay và cánh tay đau nhức, sợ sệt, mắt có mây, ụa mửa, nóng không có mồ hôi, vàng da, nước mắt sống, nhức đầu, lổ tay lùng bùng. d) Phương pháp phối hợp: Hợp với huyệt Trung uyển trị đau lá lách, vàng da. e) Tham khảo các sách: Sách Đồ dựt nói: Phàm khi tim và ruột non quá nóng, châm huyệt này được mát. Nếu khắp mình đều nóng thì trước bổ sau tả, vai và lưng lạnh nhức thì trước tả sau bổ. Quyển Y học Can Mục nói: Cánh tay yếu và nhức nên châm huyệt Uyển Cốt. Sách Bổ Tả luận tập của Đông Thượng nói: Trị bịnh ra nước mắt sống, năm ngón tay co rút. Sách Traité de l’acupuncture của bác sĩ Royer de la Fuýe nói: Trị vàng da, 59
- ụa ra nước đắng. g) Nhận xét chung: Huyệt Uyển cốt thuộc Kinh tiểu trường có tác dụng đặc biệt làm cho giảm nóng ra mồ hôi, tiêu máu ứ, nóng uất, tan thấp nhiệt. Huyệt Uyển cốt là nguồn gốc huyệt Thủ Thái dương, huyệt Trung Uyển Thủ Thái dương, Dương minh, nơi sanh tiểu trường mạch. Hai huyệt đồng châm một lượt làm cho thượng, hạ, trung bộ khí hóa vận chuyển, tiểu tiện được thông, bệnh thấp nhiệt được dứt và chứng vàng da cũng hết. 4.- HUYỆT KIÊN TRINH: Nơi phát ra Thủ thái dương tiểu trường mạch. a) Phương pháp tìm huyệt: Phía sau nách lên một tấc là vị trí của huyệt. b) Phương pháp châm cứu: Châm sâu 1 tấc, ôn cứu nửa giờ. Vai nhức mỏi, nhận huyệt này đau hay đau để kim lâu rất công hiệu. c) Chủ trị; Lổ tai lùng bùng , tai điếc, nhức đầu, khớp xương hai cánh tay và thần kinh nhức, huyệt Khuyết bồn ở vai nóng nhức. bị chứng phong tê hai tay, hai chân không cử động được. d) Tham khảo các sách: Phép Lấy Huyệt dạy: Sau nách trên lằn ngang nách chạy lên 1 tấc. Lúc lấy huyệt phải dặn bệnh nhân ngồi ngay thẳng. Nơi đây nhận xuống có lổ hủng. Sách Thọ thế Bảo Nguyên nói: Trị răng nhức đau, châm 1 tấc, đốt 7 liều. Đốt xong nơi vai đau nhiều trong chốc lát thì hết, không đau tái lại. Sách Châm Trị Tân Luận: Huyệt Kiên Trinh chuyên trị phong tê, tay chân không cử động được. Sách Lerisch: La Chirurgie de la Douleur : chuyên trị cổ nóng, vai nhức. g) Nhận xét chung: 60