Cẩm nang chăm sóc tre (Phần 1)

pdf 25 trang ngocly 3030
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Cẩm nang chăm sóc tre (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfcam_nang_cham_soc_tre.pdf

Nội dung text: Cẩm nang chăm sóc tre (Phần 1)

  1. DIINH DƯỠNÄNG CHUNG Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : Cộng đồng Google : 4 lời khuyên dinh dưỡng Ngoài việc cho con bú sữa mẹ, những người nuôi con nhỏ đều nên biết về những thức uống độc hại cho trẻ để tránh, biết cách cho ăn dặm, chế độ dinh dưỡng hợp lý 1. Sữa mẹ: “ SỮA MẸ LÀ THỨC ĂN TỐT NHẤT CHO TRẺ” Nên cho trẻ bú mẹ liền ngay sau khi sinh, nếu mẹ sinh mổ thì cố gắng cho trẻ bú mẹ càng sớm càng tốt. Trong 4 tháng đầu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn. Để sữa mẹ tiết ra nhiều, bà mẹ cần: - Cho trẻ bú mẹ càng nhiều lần càng kích thích tạo sữa nhiều. - Mẹ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng (4 nhóm thực phẩm), không kiêng khem - Nghỉ ngơi nhiều. - Tránh căng thẳng. Nên cho bé bú mẹ kéo dài đến 18-24 tháng tuổi. 2. Các thức uống độc hại đối với trẻ: - Rượu. - Trà. - Cà phê. - Các loại nước ngọt nếu dùng quá nhiều. - Tất cả các loại thức uống bán rong ngoài đường phố. 3. Ăn dặm: - Trẻ bắt đầu ăn dặm ở lứa tuổi từ 4 tháng đến 6 tháng. - Nguyên tắc ăn dặm: Ăn từ ít đến nhiều. Ăn từ loãng đến đặc. Bữa ăn của bé cần đủ 4 nhóm thực phẩm: bột, béo, đạm, rau và trái cây. Số lượng bữa ăn trong ngày tùy thuộc vào lứa tuổi: 0 đến tròn 4 tháng: Bú mẹ hoàn toàn. 4 tháng đến 6 tháng: 1 đến 2 bữa ăn sệt và bú mẹ nhiều lần 7 tháng đến 9 tháng: 2 đến 3 bữa ăn đặc và bú mẹ nhiều lần. 10 tháng đến 18 tháng: 3 bữa ăn đặc và bú mẹ 2-3 lần, nếu bú cả ban đêm thì tốt Trên 18 tháng: ăn 2 đến 3 bữa cơm và 2 đến 3 bữa phụ. Thức ăn phụ gồm chè, chuối, khoai, sữa và cho ăn xen kẽ với các bữa chính. Sau thời gian đó, phải chú ý cho con bạn có một chế độ dinh dưỡng hợp lý. 4. Thế nào là dinh dưỡng hợp lý? - Đủ về số lượng: 3 bữa mỗi ngày, phải cần cho trẻ ăn bữa sáng,
  2. thêm 1 đến 2 bữa phụ trong ngày với các loại thực phẩm như trên Đủ về chất lượng: Mỗi bữa ăn chính cần có đủ 4 nhóm thực phẩm gồm đạm, béo, bột và rau & trái cây. - An toàn vệ sinh: Vệ sinh ăn uống: - Rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. - Chọn thức ăn có đậy, sạch sẽ, không ôi thiu, không có phẩm màu, không ăn quà vặt bán rong ngoài đường Vệ sinh cá nhân: - Vệ sinh răng miệng: chải răng sau khi ăn và trước khi đi ngủ. - Vệ sinh thân thể: tắm rửa sạch sẽ mỗi ngày Ngủ: phải ngủ ít nhất 8 tiếng mỗi ngày Ăn dặm hợp lý Sữa mẹ là thức ăn đầu tiên và tốt nhất đối với trẻ. Nhưng khi đã lớn thì người ta ăn cơm và những thức ăn khác. Trong thời gian chuyển tiếp giữa bú mẹ và ăn như người lớn, đứa bé cần được ăn dặm. Để trẻ phát triển tốt, thông minh và khoẻ mạnh, cần cho trẻ ăn dặm hợp lý. 1. Ăn dặm là gì? Ăn dặm (ăn bổ sung) là cho trẻ ăn các loại thức ăn khác ngoài sữa mẹ như: bột, cháo, cơm, rau, hoa quả, sữa đậu nành, sữa bò 2. Khi nào nên bắt đầu cho trẻ ăn dặm? - Trong 4 - 6 tháng đầu chỉ cần cho trẻ bú mẹ. - Từ tháng thứ 5 hoặc thứ 6, ngoài sữa mẹ, trẻ cần được ăn bổ sung các loại thực phẩm khác. 3. Khi cho trẻ ăn dặm, các bà mẹ cần chú ý những điều gì? - Cho trẻ ăn từ lỏng đến đặc, từ ít đến nhiều, tập cho trẻ quen dần với thức ăn mới. - Số lượng thức ăn và bữa ăn tăng dần theo tuổi, đảm bảo thức ăn hợp với khẩu vị của trẻ. - Chế biến các thức ăn hỗn hợp giàu dinh dưỡng, sử dụng các thức ăn sẵn có tại địa phương. - Khi chế biến đảm bảo thức ăn mềm dễ nhai và dễ nuốt. - Tăng đậm độ năng lượng của thức ăn bổ sung: Có thể thêm dầu, mỡ hoặc vừng (mè), lạc (đậu phộng) hoặc bổ sung bột men tiêu hóa làm cho bát bột vừa thơm, vừa béo, mềm, trẻ dễ nuốt; lại cung cấp thêm năng lượng giúp trẻ mau lớn. - Tất cả dụng cụ chế biến phải sạch sẽ, rửa tay sạch trước khi chế biến thức ăn và khi cho trẻ ăn. - Cho trẻ bú mẹ càng nhiều càng tốt. - Cho trẻ ăn nhiều hơn trong và sau khi bị ốm, cho trẻ ăn uống nhiều chất lỏng hơn đặc biệt khi bị ỉa chảy và sốt cao. - Không nên cho trẻ ăn bột ngọt (mì chính) vì không có chất dinh dưỡng lại không có lợi.
  3. - Không cho trẻ ăn bánh kẹo, uống nước ngọt trước bữa ăn vì cho ăn chất ngọt sẽ làm tăng đường huyết gây ức chế tiết dịch vị làm cho trẻ chán ăn, trẻ sẽ bỏ bữa hoặc ăn ít đi trong bữa ăn. trở về 4. Khi ăn dặm, trẻ ăn được những loại thức ăn nào? Để phát triển tốt trẻ cần ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, tất cả các loại thức ăn tươi, sạch, giàu dinh dưỡng mà người lớn ăn được hàng ngày đều có thể cho trẻ ăn được, trừ rượu, bia và các loại gia vị chua, cay. Trẻ nhỏ không cần kiêng dầu, mỡ, rau xanh, cá, tôm, cua, trứng ,thịt vì một lượng nhỏ các loại thức ăn này cũng giúp cho trẻ khoẻ mạnh. Thức ăn bổ sung gồm 4 nhóm: - Nhóm cung cấp chất đạm: thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa, đậu (đỗ, lạc), vừng - Nhóm cung cấp tinh bột: Gạo, mì, khoai, ngô - Nhóm cung cấp chất béo: dầu, mỡ, lạc, vừng - Nhóm cung cấp vitamin và chất khoáng: Rau, quả, đặc biệt các loại rau có màu xanh thẫm như: Rau ngót, rau muống, rau dền, rau cải, mồng tơi và các loại quả có màu đỏ hoặc vàng: chuối, đu đủ, xoài Một ngày phải cho trẻ ăn đủ 4 nhóm thực phẩm trên. trở về 5. Tô màu bát bột cho trẻ có nghĩa là gì? - Làm cho bát bột của trẻ có màu sắc của các loại thực phẩm. - Màu xanh của rau (rau muống, rau ngót, rau cải, rau dền ) - Màu vàng của trứng, cà rốt, bí đỏ và các loại thức ăn có màu vàng, màu da cam - Màu nâu của thịt, cá, tôm, cua, lươn, nhộng, lạc, vừng 6. Trẻ nên ăn mấy bữa một ngày? - 5 - 6 tháng: Bú mẹ là chính + 1 - 2 bữa bột loãng và nước quả - 7 - 9 tháng : Bú mẹ + 2 - 3 bữa bột đặc (10%) + nước quả hoặc hoa quả nghiền. - 10 - 12 tháng: Bú mẹ + 3 - 4 bữa bột đặc + hoa quả nghiền - 13 - 24 tháng: Bú mẹ + 4 - 5 bữa cháo + hoa quả - 25 - 36 tháng: 2 bữa cháo hoặc súp + 2 - 3 bữa cơm nát + sữa bò hoặc sữa dậu nành + hoa quả - Từ 36 tháng trở đi: Cho trẻ ăn cơm như người lớn nhưng phải được ưu tiên thức ăn (thức ăn nấu riêng) nên cho ăn thêm 2 bữa phụ: Cháo, phở, bún, súp, sữa Trong một ngày không nên cho trẻ ăn một món giống nhau. trở về 7. Lượng chất đạm (thịt, cá, tôm, trứng) cho trẻ một ngày là bao nhiêu? - Trẻ 5 - 6 tháng: 20 - 30 g Thịt (cá, tôm) khoảng 2 - 3 thìa cà phê băm nhỏ chia 2 bữa, nếu ăn trứng: 1/2 lòng đỏ trứng gà hoặc 2 lòng đỏ trứng chim cút. - Trẻ 7 - 12 tháng: 100 - 120 g thịt hoặc 150 g cá, tôm, hoặc 200
  4. g đậu phụ trong 1 ngày chia 3 - 4 bữa (nếu cho trẻ ăn cả thịt, cá, tôm thì mỗi thứ chỉ cần 30 - 40g/ngày), hoặc 1 lòng đỏ trứng gà/bữa. Một tuần cho trẻ ăn từ 3 - 4 quả trứng. - Trẻ 13 - 36 tháng: 120 - 150 g thịt hoặc 150 - 200 g cá, tôm, hoặc 250 g đậu phụ/ngày, hoặc 1 quả trứng gà/bữa (ăn cả lòng trắng) 1 tuần ăn từ 3 - 4 quả trứng. - Trẻ từ 36 tháng trở lên: 200 g thịt hoặc 250 g cá, tôm, hoặc 300 g đậu phụ, mỗi ngày có thể cho trẻ ăn 1 quả trứng nhưng phải giảm bớt thịt hoặc cá đi (30 g thịt nạc lượng đạm tương đương với 1 quả trứng gà). trở về 8. Cách chế biến thức ăn cho trẻ như thế nào? Trẻ càng nhỏ càng phải xay nhỏ, băm nhỏ, giã nhỏ. Khi bắt đầu ăn bổ sung phải cho trẻ ăn cả cái, không nên chỉ ăn nước, kể cả rau cũng phải ăn cả cái. - Nấu bột cho trẻ 5 - 6 tháng tuổi: + Bột gạo 2 thìa cà phê (10 g bột) + Lòng đỏ trứng gà: 1/2 quả hoặc thay thế bằng 2 thìa cà phê thịt, tôm, cá (giã nhuyễn, băm nhỏ để ăn cả cái) + 10 g rau xanh (1 thìa cà phê bột rau giã nhỏ) cho rau khi bột đã chín đun sôi nhắc ra ngay + Dầu ăn hoặc mỡ: 1/2 - 1 thìa cà phê. - Nấu bột cho trẻ 7 - 12 tháng tuổi: + Bột gạo 4 - 5 thìa cà phê (20 - 25 g bột) + Lòng đỏ trứng gà: 1 quả hoặc thay thế bằng 3 thìa cà phê thịt, tôm, cá (giã nhuyễn , băm nhỏ, ăn cả cái) + 20 g rau xanh ( 2 thìa cà phê bột rau băm nhỏ) cho rau khi bột đã chín đun sôi nhắc ra ngay + Dầu ăn hoặc mỡ: 1 - 2 thìa cà phê. - Nấu cháo cho trẻ 13 - 24 tháng: Có thể nấu một nồi cháo trắng nhừ đến mỗi bữa múc một bát vào xoong con rồi cho thêm thịt, cá, trứng, tôm, gan, đậu phụ + rau xanh và dầu mỡ như nấu bột nhưng số lượng nhiều hơn. - Nấu cơm nát cho trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi: Nấu cơm nhiều nước hơn bình thưòng rồi nấu canh thịt, cá, tôm, cua trộn với cơm cho trẻ ăn, không nên chỉ cho trẻ ăn nước rau luộc trộn cơm. Hoặc có thể nấu kiểu cơm nát thập cẩm như sau: dùng các loại củ như bí đỏ, su hào, khoai tây cắt nhỏ 2 x 3 cm, đun chín nhừ, nghiền nát, cho gạo vào nước rau củ để nấu cơm. Thịt, cá băm nhỏ mồi bữa 30-40 g cho vào hấp khi cơm đã chín, nếu dùng thịt nạc, cá, tôm thì phải cho thêm 1- 2 thìa dầu mỡ trộn đều cho trẻ ăn. - Nấu cơm cho trẻ trên 36 tháng: có thể ăn cơm như người lớn nhưng cần ưu tiên thức ăn và ăn thêm các bữa phụ. Cần xoá bỏ quan niệm cho rằng trẻ ăn cơm sớm sẽ cứng cáp, hoặc ăn xương ống, xương chân gà sẽ chống được còi xương! Nên nhớ rằng trẻ cần được ăn
  5. nhiều loại thức ăn khác nhau, ăn được nhiều thì trẻ sẽ mau lớn và cứng cáp dù đó là thức ăn lỏng và mềm. Muốn biết trẻ đã được ăn uống đúng và đầy đủ chưa, hãy làm bài trắc nghiệm trên webtrẻthơ. Hoặc theo dõi cân nặng của trẻ trên biểu đồ phát triển trong Sổ Sức khoẻ của bé. Sổ này có phát ở các trạm Y tế. Nếu trẻ lên cân đều đặn tương ứng với kênh A trên biểu đồ là trẻ đã được nuôi dưỡng tốt. Còn không lên cân, hoặc tụt cân, tức là đường biểu diễn cân nặng nằm ngang hoặc đi xuống thì có thể trẻ bị bệnh hoặc nuôi dưỡng không đúng Một số nguyên nhân gây biếng ăn Có rất nhiều nguyên nhân gây ra chứng biếng ăn ở trẻ như lý do tâm lý, bệnh lý, thức ăn không ngon Tùy theo từng nguyên nhân, cha mẹ cần thực hiện những biện pháp khắc phục khác nhau. Sau đây là ý kiến của bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Hương (Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM) về vấn đề này: 1. Biếng ăn do tâm lý: Đây là nguyên nhân thường gặp nhất. Trẻ biếng ăn khi có cảm giác bị ép buộc, bỏ rơi, bị gò bó hoặc bị đánh lừa. Các tình huống thường gặp trong thực tế: - Bị ép bú bình trong khi chỉ thích bú mẹ. - Mẹ đi làm để trẻ cho người khác chăm sóc. - Bị ép phải mang khăn ăn, phải ngồi một chỗ từ đầu đến cuối bữa ăn. - Bị quy định phải ăn hết khẩu phần của mình trong một thời gian cố định. - Không khí bữa ăn căng thẳng. - Cha mẹ cho thuốc vào thức ăn, vào sữa. 2. Biếng ăn do sai lầm trong chế biến thức ăn: - Hầm khoai tây, cà rốt, củ dền, đậu, thịt xay nhuyễn và cho trẻ ăn hết ngày này qua ngày nọ, gây cảm giác ngán. - Chỉ cho trẻ ăn nước rau, nước thịt, không cho ăn xác, lâu ngày dẫn đến tình trạng thiếu các chất dinh dưỡng. - Cho trẻ ăn thức ăn xay nhuyễn đến lúc 2, 3 tuổi. - Pha bột vào sữa, pha sữa quá đặc, pha sữa bằng nước cháo hoặc nước hầm đậu, hầm xương làm trẻ khó tiêu hóa. - Pha bột quá đặc khi trẻ mới tập ăn dặm. 3. Thời gian chuyển tiếp chế độ ăn không phù hợp: - ăn dặm quá sớm (trước khi trẻ tròn 4 tháng). - ăn cơm quá sớm (trong khi răng trẻ chưa đủ để nhai cơm). 4. Biếng ăn do bệnh lý: - Suy dinh dưỡng. - Nhiễm ký sinh trùng; nhiễm trùng (viêm mũi, viêm họng, viêm amiđan ) và virus. - Bệnh lý răng miệng (sâu răng, viêm lợi), loạn khuẩn đường ruột.
  6. 5. Biếng ăn sinh lý: Trẻ vẫn khỏe mạnh nhưng tự nhiên ăn ít đi trong vài ngày đến vài tuần. Các thời điểm này thường trùng với lúc bé biết lẫy, ngồi, đứng, đi Sau đó, trẻ trở lại ăn uống bình thường. 6. Biếng ăn do thuốc: Do dùng quá nhiều vitamin, kháng sinh hoặc thuốc kích thích ăn. Việc lạm dụng kháng sinh có thể gây rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột, còn thuốc kích thích ăn sẽ làm cho trẻ biếng ăn thêm ngay sau khi ngừng thuốc (thuốc này chống chỉ định ở trẻ dưới 2 tuổi). 7. Biếng ăn do cha mẹ: Do cha mẹ quá lo lắng về sự tăng trưởng của con. Khi thấy con ăn ít hơn các trẻ cùng lứa tuổi, nhiều người nghĩ rằng con biếng ăn mặc dù trẻ vẫn tăng cân và tăng chiều cao tốt. 8. Biếng ăn bẩm sinh: Có khoảng dưới 5 % trẻ sinh ra chỉ ngủ, chơi mà không bao giờ đòi bú. Ngoài ra, trẻ còn có thể bị biếng ăn như sau khi tiêm phòng hoặc sau chấn thương. Các biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn khi biết nguyên nhân Nếu bạn xác định được con mình biếng ăn là do đâu (xem nguyên nhân gây biếng ăn), việc khắc phục tình trạng biếng ăn sẽ không còn quá khó khăn nữa. Hãy nghe lời khuyên của các chuyên gia dinh dưỡng: - Biếng ăn tâm lý: Cha mẹ cần hết sức bình tĩnh và kiên nhẫn tìm hiểu vì sao trẻ không chịu ăn. Cần tránh các hành vi ép buộc như đè bé ra đổ thức ăn, bóp mũi cho bé nuốt, đánh cho bé khóc để bé nuốt Khi trẻ ốm, nếu trẻ khó uống thuốc, cha mẹ hãy trình bày với bác sĩ để bác sĩ cho thuốc dễ uống, không cần phải cho thuốc vào thức ăn để đánh lừa trẻ. Hãy cho trẻ ăn một cách thoải mái, bột, sữa có thể dây vào áo một chút cũng không sao. - Biếng ăn do sai lầm trong kỹ thuật chế biến thức ăn và thời gian chuyển tiếp chế độ ăn: Tránh kéo dài thời gian cho trẻ ăn thức ăn xay nhuyễn. Không cho bé ăn thức ăn đơn điệu, nên đổi món thường xuyên cho bé. - Biếng ăn do bệnh lý: Bổ sung các vi chất dinh dưỡng mà trẻ thiếu; xổ giun cho trẻ 6 tháng một lần; giữ gìn vệ sinh răng miệng; điều trị bệnh nhiễm trùng. - Biếng ăn sinh lý: Trong giai đoạn biếng ăn sinh lý, các bậc cha mẹ không nên nóng lòng tự ý sử dụng các loại thuốc bổ hoặc thúc ép trẻ ăn. Hãy kiên nhẫn cho trẻ ăn từng bữa nhỏ, thay đổi các món ăn lạ để chờ trẻ ăn trở lại. - Biếng ăn do thuốc: Sử dụng các men vi sinh hoặc sữa chua để cấy lại vi khuẩn đường ruột cho trẻ; tránh sử dụng thuốc bổ khi không có đơn của bác sĩ; tránh sử dụng thuốc kích thích ăn. - Biếng ăn bẩm sinh: Đối với các trẻ không đòi ăn bao giờ, cha mẹ phải chủ động cho trẻ ăn theo sự hướng dẫn và theo dõi của bác sĩ dinh dưỡng.
  7. Chế độ dinh dưỡng khi trẻ ốm Khi trẻ ốm, ngoài điều trị thuốc theo hướng dẫn của thầy thuốc, người mẹ cần phải chú ý chăm sóc và cho trẻ ăn uống đầy đủ. Trẻ ốm thường chán ăn nên dễ sụt cân và có thể bị suy dinh dưỡng. Do trẻ mệt mỏi, chán ăn nên cần cho trẻ ăn thành nhiều bữa hơn với thức ăn loãng hơn và mỗi bữa cho trẻ ăn cần nhiều thời gian hơn. 1. Đối với trẻ dưới 4 tháng đang bú mẹ: Vẫn tiếp tục cho trẻ bú bình thường, tăng số lần bú và thời gian mỗi lần bú cần kéo dài hơn vì trẻ mệt, khả năng mút vú kém hơn. Đối với trẻ bị tắc mũi hoặc mệt quá không bú được, người mẹ cần vắt sữa ra và cho trẻ uống bằng thìa. 2. Trẻ từ 5 tháng trở lên: Ngoài sữa mẹ cần cho trẻ ăn thêm nhiều bữa và từng ít một với các thức ăn giàu dinh dưỡng như thịt, trứng, sữa, cá và cho thêm dầu, mỡ để tăng thêm năng lượng của khẩu phần. Thức ăn cần mềm, nấu kỹ, loãng hơn bình thường để dễ tiêu hoá. Cho trẻ ăn ngay sau khi nấu để đảm bảo vệ sinh và giảm nguy cơ bội nhiễm. Cho trẻ ăn thêm quả chín hay nước quả chín như chuối, cam, chanh, xoài, đu đủ để tăng cường vitamin và chất khoáng. 3. Chế độ ăn uống của trẻ sau khi khỏi ốm: Sau khi khỏi ốm, để giúp trẻ hồi phục nhanh và tránh suy dinh dưỡng, cho trẻ ăn thêm mỗi tuần 2 bữa trong 2 tuần liền. Với trẻ bị tiêu chảy kéo dài thì phải cho trẻ ăn thêm mỗi ngày 1 bữa và kéo dài tối thiểu là 1 tháng. 4. Một số điểm chú ý về chăm sóc dinh dưỡng khi trẻ ốm: - Cho trẻ ăn nhiều bữa hơn với số lượng mỗi bữa ít hơn. - Thức ăn cho trẻ ốm cần nấu loãng và giàu chất dinh dưỡng hơn. - Khi trẻ ốm không cần kiêng khem các loại thực phẩm như tôm, cá, dầu mỡ và rau xanh. - Khi trẻ ốm cần cho trẻ uống nhiều nước, nhất là đối với trẻ bị tiêu chảy. Súp, nước cháo muối, dung dịch Oresol chỉ là các dịch để bù nước, không nên coi là thức ăn vì không cung cấp đủ chất dinh dưỡng. - Trẻ bị tiêu chảy tránh cho ăn các thức ăn có nhiều đường, nước ngọt có ga vì có thể làm tiêu chảy nặng hơn. Đồng thời cần tránh các thức ăn có nhiều chất xơ, ít dinh dưỡng như các loại rau thô, tinh bột nguyên hạt như ngô, đỗ gây khó tiêu. - Khi trẻ ốm, người mẹ và gia đình cần dành nhiều thời gian hơn để chăm sóc, dỗ dành để trẻ ăn được nhiều. Với trẻ bị viêm nhiễm hô hấp, bị sổ mũi, bị khó thở, cần làm thông thoáng mũi cho trẻ bằng bông gạc để giúp trẻ bú mẹ và ăn uống dễ dàng. Gia đình cần tập trung quan tâm chăm sóc trẻ khi trẻ ốm: trẻ sốt phải theo dõi nhiệt độ, trẻ bị tiêu chảy thì cần theo dõi số lần đi ngoài Như vậy gia đình sẽ sớm phát hiện những dấu hiệu nguy hiểm để đưa trẻ đến
  8. bệnh viện kịp thời. Đừng để con bạn bị suy dinh dưỡng! Năm 2000 ở nước ta có 2,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, chủ yếu là suy dinh dưỡng thể nhẹ và vừa. Tuy vậy, các thể suy dinh dưỡng này cũng có ý nghĩa quan trọng vì đứa trẻ dễ mắc bệnh, tăng nguy cơ tử vong và thường kèm theo thiếu hụt các vi chất dinh dưỡng. 1. Sự nghiêm trọng của suy dinh dưỡng: Suy dinh dưỡng do thiếu protein - năng lượng (thường gọi là suy dinh dưỡng) là tình trạng thiếu dinh dưỡng quan trọng và phổ biến ở trẻ em nước ta. Biểu hiện của suy dinh dưỡng là trẻ chậm lớn và thường mắc bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy và viêm đường hô hấp, trẻ bị giảm khả năng học tập, năng suất lao động kém khi trưởng thành. Đáng chú ý là trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ và vừa ít được người mẹ, các thành viên khác trong gia đình chú ý tới vì trẻ vẫn bình thường. Ở một cộng đồng (xóm, làng, xã) có nhiều trẻ suy dinh dưỡng, ta càng khó nhận biết được vì chúng đều "nhỏ bé" như nhau. Do đó, suy dinh dưỡng trẻ em cần được sự quan tâm của mọi người. 2. Làm thế nào để biết trẻ bị suy dinh dưỡng? Theo dõi cân nặng hàng tháng là cách tốt nhất để nhận ra đứa trẻ bị suy dinh dưỡng hay không. Trẻ bị suy dinh dưỡng khi không tăng cân, nhẹ cân hơn đứa trẻ bình thường cùng tuổi. Vậy phát hiện sớm bệnh suy dinh dưỡng cho trẻ em bằng cách nào? - Chậm tăng cân, đứng cân hoặc sụt cân. - Trẻ biếng ăn, ăn ít, da, môi xanh, niêm mạc mắt nhợt nhạt. - Trẻ buồn bực, hay quấy khóc, ít vui chơi, kém linh hoạt. - Các bắp thịt tay chân mềm nhão, bụng to dần. - Chậm phát triển vận động: chậm biết lật, ngồi, bò, đi, đứng. - Đo khoảng giữa vòng cánh tay thấy dưới 13 cm. 3. Tại sao trẻ bị suy dinh dưỡng? - Thiếu ăn, ăn không đủ để phát triển: Trẻ dưới 5 tuổi có nhu cầu dinh dưỡng cao để phát triển cơ thể. Để đáp ứng nhu cầu đó, cần cho trẻ ăn uống đầy đủ theo lứa tuổi. Trẻ dưới 4 tháng tuổi cần được bú mẹ hoàn toàn. Sữa mẹ là thức ăn lý tưởng của trẻ nhỏ. Từ tháng thứ 5 trẻ bắt đầu ăn thêm ngoài sữa mẹ. Từ tháng tuổi này, thực hành nuôi dưỡng trẻ có ý nghĩa quan trọng đối với suy dinh dưỡng. Nhiều bà mẹ chỉ cho trẻ ăn bột muối, thức ăn sam (dặm) thiếu dầu mỡ, thức ăn động vật, rau xanh, hoa quả. Đây là những tập quán nuôi dưỡng chưa hợp lý cần được khắc phục. Mặc khác, để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng, trẻ cần được ăn nhiều bữa trong ngày vì trẻ nhỏ không thể ăn một lần với khối lượng lớn như trẻ lớn hoặc người lớn. Điều này có liên quan đến vấn đề chăm sóc trẻ. - Người mẹ bị suy dinh dưỡng: Người mẹ trước và trong khi mang thai ăn uống không đầy đủ dẫn đến bị suy dinh dưỡng và có
  9. thể đẻ ra đứa con nhẹ cân, còi cọc. Đứa trẻ bị suy dinh dưỡng từ trong bào thai sẽ dễ bị suy dinh dưỡng sau này. Người mẹ bị suy dinh dưỡng, ăn uống kém trong những tháng đầu sau đẻ dễ bị thiếu sữa hoặc mất sữa, do đó đứa con dễ bị suy dinh dưỡng. - Các bệnh nhiễm khuẩn như viêm đường hô hấp, tiêu chảy, các bệnh ký sinh trùng: Đây là tình trạng hay gặp ở nước ta. Chế độ nuôi dưỡng không hợp lý khi trẻ bệnh là một nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng sau mắc bệnh ở trẻ dưới 5 tuổi. - Thiếu chăm sóc hay đứa trẻ bị "bỏ rơi": Ngoài chăm sóc về ăn uống, đứa trẻ cần chăm sóc về sức khoẻ (tiêm chủng, phòng chống nhiễm khuẩn), chăm sóc về tâm lý, tình cảm và chăm sóc về vệ sinh. Môi trường sống ở gia đình bị ô nhiễm, sử dụng nguồn nước không sạch để nấu ăn, tắm giặt cho trẻ, xử lý nước thải, phân, rác không đảm bảo là những yếu tố dẫn đến suy dinh dưỡng. 4. Những đứa trẻ nào dễ bị suy dinh dưỡng? - Trẻ từ 6-24 tháng: thời kỳ có nhu cầu dinh dưỡng cao, thời kỳ thích ứng với môi trường, thời kỳ nhạy cảm với bệnh tật. - Trẻ không đủ sữa: không được bú sữa mẹ hoặc không đủ sữa. - Trẻ đẻ nhẹ cân: nhẹ hơn 2,5 kg hay trẻ đẻ sinh đôi, sinh ba. - Trẻ ở gia đình đông con: điều kiện vệ sinh kém, gia đình không hoà thuận. - Trẻ hiện đang mắc các bệnh nhiễm khuẩn như: bệnh sởi, tiêu chảy hay viêm đường hô hấp 5. Cần làm gì để phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại mỗi gia đình? Muốn phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, cần có sự hiểu biết, chủ động và thay đổi thực hành của mỗi gia đình. Do đó, chương trình phòng chống suy dinh dưỡng lấy gia đình là đối tượng thực hiện công tác chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ em. Mọi gia đình đều hưởng ứng và thực hiện 8 nội dung cụ thể sau đây: 1. Chăm sóc ăn uống của phụ nữ có thai để đạt mức tăng cân 10-12 cân trong thời gian có thai. Khám thai ít nhất 3 lần, tiêm đủ 2 mũi phòng uốn ván. 2. Cho trẻ bú sớm trong nửa giờ đầu sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ trong 4 tháng đầu và tiếp tục cho bú đến 18-24 tháng. 3. Cho trẻ ăn bổ sung (ăn sam, dặm) từ tháng thứ 5. Tô màu đĩa bột, tăng thêm chất béo (dầu, mỡ, lạc, vừng). ăn nhiều bữa. 4. Thực hiện phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng: Phụ nữ có thai uống viên sắt/ acid folic hàng ngày. Trẻ em 6-36 tháng uống vitamin A liều cao 2 lần một năm. Phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn (tiêu chảy, viêm đường hô hấp). Thực hiện tiêm phòng đầy đủ. Chăm sóc và nuôi dưỡng hợp lý trẻ bị bệnh. 5. Phát triển ô dinh dưỡng trong hệ sinh thái VAC (vườn, ao, chuồng) để có thêm thực phẩm cải thiện bữa ăn gia đình. Chú ý nuôi gà, vịt đẻ trứng, trồng rau ngót, đu đủ, gấc.
  10. 6. Phấn đấu bữa ăn nào cũng có đủ 4 món cân đối. Ngoài cơm (cung cấp năng lượng), cần có đủ 3 món nữa là: rau quả (cung cấp vitamin, chất khoáng và chất xơ); đậu phụ, vừng lạc, cá, thịt, trứng (cung cấp chất đạm, béo); canh (cung cấp nước) và các chất dinh dưỡng bổ sung giúp ăn ngon miệng. 7. Thực hiện vệ sinh môi trường, dùng nguồn nước sạch, tẩy giun theo định kỳ, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiểu tiện. Đảm bảo vệ sinh thực phẩm, thức ăn không là nguồn gây bệnh. 8. Thực hiện gia đình hạnh phúc, có nếp sống văn hoá, năng động, lành mạnh. Có biểu đồ tăng trưởng để theo dõi sức khoẻ của trẻ. Không có trẻ suy dinh dưỡng, không sinh con thứ ba. Số liệu suy dinh dưỡng ở trẻ em và bà mẹ Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đã giảm nhiều, tính từ 1985 (51,5%) đến 1995 (44,9%), mỗi năm giảm trung bình 0,66%. Từ năm bắt đầu kế hoạch quốc gia phòng chống suy dinh dưỡng (1995), chỉ sau 4 năm tỷ lệ suy dinh dưỡng đã giảm xuống còn 36,7% (1999), trung bình mỗi năm giảm 2%, là tốc độ được quốc tế công nhận là giảm nhanh. Như vậy, mỗi năm đã đưa khoảng gần 200 ngàn trẻ dưới 5 tuổi thoát khỏi suy dinh dưỡng. Có thể nói thành tựu giảm nhanh tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em trong 5 năm qua rất đáng ghi nhận. Suy dinh dưỡng nặng đã giảm hẳn (0,8%) và suy dinh dưỡng ở nước ta hiện nay chủ yếu là thể nhẹ và thể vừa. Tuy nhiên, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở nước ta vẫn ở mức rất cao so với quy định của Tổ chức Y tế thế giới. Mặt khác, dù tỷ lệ trẻ em bị thấp còi đã giảm nhanh trong những năm qua song vẫn còn ở mức khá cao (38,6%), những vùng có tỷ lệ trẻ nhẹ cân cao cũng là những vùng có tỷ lệ thấp còi cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng có sự khác biệt giữa các vùng sinh thái, giữa các tỉnh. Tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi thấp nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh (18,1%) và Hà nội (21%). Vùng có tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp nhất là vùng Đông Nam bộ - trong đó có TP HCM - (29,6%); sau đó là đồng bằng sông Cửu Long (32,3%); vùng đồng bằng sông Hồng (33,8%); vùng duyên hải Nam Trung bộ (39,2%); vùng Đông bắc (40,9%); vùng Tây bắc (41,6%); vùng Bắc Trung bộ (39,2%) và cao nhất là vùng Tây nguyên (49,1%). Việt Nam không có sự khác biệt rõ ràng về giới đối với mức độ suy dinh dưỡng. Nhóm tuổi bị ảnh hưởng nhiều nhất là 6-24 tháng tuổi, đây là nhóm tuổi bắt đầu chuyển từ chế độ bú sữa mẹ sang chế độ ăn sam, nếu chế độ ăn sam không đúng sẽ tác động rất lớn đến tình trạng dinh dưỡng ở nhóm tuổi này. Các nguyên nhân của suy dinh dưỡng là phức hợp: từ nguyên nhân trực tiếp là ăn uống, bệnh tật đến các yếu tố về chăm sóc và nguyên nhân gốc rễ là sự nghèo đói. Tuy vậy, mức độ tác động của các yếu tố khác nhau theo vùng: - Vùng Trung bộ, Tây nguyên và miền núi phía Bắc: vấn đề an
  11. ninh lương thực nổi lên hàng đầu. - Vùng đồng bằng nông thôn khác: vấn đề chăm sóc (trong đó có cách nuôi dưỡng trẻ) nổi lên hàng đầu. - Vùng đô thị lớn: vấn đề bệnh tật từ nhỏ dẫn tới suy dinh dưỡng nổi lên hàng đầu. Sở dĩ như vậy là vì ở thành thị vấn đề thiếu ăn không còn phổ biến và chất lượng chăm sóc trẻ tốt hơn, trong khi nhiều địa phương ở khu vực nông thôn thì vấn đề chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ còn nhiều hạn chế. Điều này đòi hỏi các chiến lược tác động khác nhau theo từng khu vực và từng giai đoạn. Gần đây, tổng kết của Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách Dinh dưỡng Quốc Tế (IFPRI) cho thấy học vấn của người phụ nữ đóng góp 43% đối với suy dinh dưỡng, trong khi an ninh thực phẩm đóng góp 26,1%. Điều này cho thấy yếu tố về cách nuôi dưỡng, cách chăm sóc (thể hiện qua trình độ học vấn của người phụ nữ) có vai trò quan trọng đối với suy dinh dưỡng. Thiếu năng lượng thường xuyên ở phụ nữ, thể hiện bằng chỉ số khối cơ thể (BMI) thấp (<18,5), năm 1977 là 38% và gần đây là 32%. Tình trạng thiếu năng lượng thường xuyên ở phụ nữ phản ánh những vấn đề tồn tại trong chăm sóc phụ nữ, đồng thời có liên quan tới tỷ lệ suy dinh dưỡng bào thai. Tăng chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn cho trẻ em Con bạn đang ở độ tuổi thích khám phá và học hỏi rất nhanh. Vì vậy, đây là lúc tập cho con thói quen tốt trong ăn uống. Trẻ mẫu giáo thường thích tìm hiểu về thực phẩm và chuẩn bị các món ăn cùng với mẹ. Những câu hỏi đáp sau đây giúp bạn biết nên cho con ăn thêm gì và bằng cách nào. Đứa con 4 tuổi của tôi bị sâu răng vì ăn ngọt. Phải làm sao? Để cứu vãn tình trạng này bạn thường cấm con ăn đồ ngọt. Như thế chẳng khác nào bạn lại kích thích sự thèm muốn của trẻ. Hãy bảo cho con bạn biết món đồ ngọt nào là nó được ăn nhưng phải có giới hạn. Ở nhà, bạn vẫn có thể để các loại đồ ngọt như nho khô, ya-our trái cây, cam, dưa hấu và một ít bánh qui trong tủ đựng đồ ăn hay tủ lạnh. Con bạn sẽ ăn những món này với món tráng miệng. Nếu trẻ thích và thường xuyên ăn bánh qui, kẹo ngọt, bạn phải tập cho con biết hạn chế sự thèm ăn ngay lúc đầu và bỏ hẳn về sau. Ăn rau quả có ích lợi gì với trẻ? Đứa con 3 tuổi của tôi chẳng hề để ý đến bất cứ món gì khác ngoại trừ món đậu. Hãy giúp tôi. Trẻ thường bỏ ăn là do món ăn không hấp dẫn, không có mùi thơm để kích thích các em chứ không phải do mùi vị của món ăn đó. Đừng ép con bạn phải ăn nhiều loại rau quả mà hãy từ từ, kiên nhẫn. Có thể phải mất 5 - 10 lần hay nhiều hơn nữa con bạn mới quen dần được với một món ăn mới. Bạn cũng có thể áp dụng nhiều cách như: dẫn con đi chợ cùng và để chúng chọn rau quả giúp bạn. Hãy tập cho trẻ thói quen biết liên hệ giữa thực phẩm với những gì trẻ được ăn. Một đứa trẻ 3 tuổi đã có thể giúp mẹ làm món rau trộn.
  12. Có một cách khác cũng khá thú vị cho những nhà có một chút đất là tận dụng miếng đất nhỏ ấy để trồng một vài cây rau và cho con bạn cùng chăm sóc nó. Con bạn không chịu ăn sáng và đến trường với cái bụng đói. Có một cách khiến con bạn phải ngồi vào bàn ăn sáng là bạn phải làm một bữa sáng thật hấp dẫn. Bữa điểm tâm đã dọn sẵn, nếu con bạn không thích ăn thì ít nhất nó cũng ngồi nhấm nháp cho đến hết. Nếu làm như thế vẫn không ổn thì bạn hãy đổi phương án khác bằng một ly nước trái cây ngay khi trẻ thức dậy. Như thế sẽ khiến con bạn thấy thoái mái, hưng phấn hơn và sẵn sàng ăn hết bữa sáng. Khi nào trẻ không thích bữa điểm tâm như thế nữa, bạn hãy đổi thành sữa chua trái cây với bánh hình chữ cái hoặc hình thù các con thú thử xem. Bạn cũng nên bỏ vào cặp của trẻ một ít quà vặt để chúng nhẩn nha ăn trên đường đi học, chẳng hạn như trái cây hay bánh xốp, bánh mì ngọt. Con tôi không chịu uống sữa. Tôi sợ nó bị thiếu canxi. Có cách nào tăng lượng canxi trong khầu phần ăn của trẻ không? Con bạn sẽ bị thiếu canxi nếu không được uống sữa. Vậy hãy tăng lượng canxi trong khẩu phần ăn cho trẻ. Ai cũng biết sữa cung cấp lượng canxi cao nhất, tuy nhiên các loại thực phẩm như bơ và sữa chua cũng là nguồn cung cấp can xi rất tốt. Bạn cũng có thể tăng lượng can xi cho trẻ khi cho trẻ ăn sô cô la sữa, bánh mì sữa hay ca cao nóng. Nên hầm xương nấu súp cho cháu ăn, đó cũng là một cách thêm canxi. Nên cho cháu dạo chơi ngoài trời nhiều. Trẻ em ăn vặt nhiều có tốt hay không? Quà vặt đem đến cho trẻ một năng lượng cần thiết vì thế hầu hết các trẻ nên được ăn 5 bữa trong ngày (3 bữa ăn chính và 2 hoặc 3 bữa ăn nhẹ tuỳ theo sở thích của trẻ). Đậu, bơ, bánh ngọt, sữa chua và trái cây, bột ngũ cốc, sữa sẽ mang đến cho trẻ thêm cacbonhydrat và protein trong khi đó kẹo hay bánh quy lại chứa rất ít dinh dưỡng về các chất này. Con bạn biếng ăn Hình như ở các gia đình nghèo khó, vấn đề biếng ăn không bao giờ được đặt ra. Con nhà nghèo bữa no bữa đói, chúng đua nhau ăn đến cha mẹ phải nhịn cho chúng. Chỉ lo không đủ cho chúng ăn thôi. Nhưng nếu con bạn biếng ăn thì làm sao? Vì bệnh tật? Vì tâm lý? Nguyên tắc chữa trị Vì bệnh tật: Dĩ nhiên ai cũng biết thỉnh thoảng bé biếng ăn vì đau yếu, tiêu chảy, cảm, nóng, ban đỏ Bé biếng ăn một cách thình lình chính là triệu chứng của một bịnh nào rồi đó. Đôi khi trẻ sơ sinh biếng ăn vì có tật ở một bộ phận nào thuộc bộ tiêu hoá như sứt môi, thực quản nghẹt v.v Những bịnh lở miệng loét niêm mạc, viêm họng, nhọt mủ sau hầu, dĩ nhiên là làm cho bé
  13. đau đớn không ăn được dù rất muốn ăn chứ không phải do biếng ăn. Những bịnh xa gần khác cũng có thể làm rối loạn bộ tiêu hoá như viêm amidan, thúi tai, nhiễm trùng đường tiểu Những sai lầm trong dinh dưỡng như pha sữa không đúng cách, dùng sữa không đúng loại hay bé không chịu thứ sữa bò nào đó, không chịu bột v.v cũng làm cho bé biếng ăn. Cuối cùng bé có thể biếng ăn vì thiếu sinh tố, thiếu chất sắt Nhưng ngược lại thặng dư sinh tố nhất là các loại sinh tố A, D hay uống nhiều các loại thuốc bổ dưới hình thức sirô cũng có thể làm cho biếng ăn. Bác sĩ phải hỏi cặn kẽ, khám tổng quát cơ thể rồi sau đó nới có thể kết luận là chứng biếng ăn của bé do tâm lý. TRỞ VỀ Vì tâm lý: Thỉnh thoảng bé bỏ bú chỉ vì bà mẹ đã pha sữa "lường gạt" bé như những lần trước, làm cho bé sợ và bỏ bú mấy ngày liền. Có khi vì thêm một thức ăn lạ đột ngột, bé không thích cũng bỏ ăn. Trong khoảng từ 4 đến 9 tháng phần nhiều bé biếng ăn vì lúc đó bé đang phát triển mạnh về tâm lý, chậm phát triển về thể chất. Thời gian này bé còn mọc răng, thích gậm nhấm, cắn hơn là thích bú "như con nít". Bé sẽ lên cân chậm vì ít "bú" trong thời kỳ này. Nhưng nguyên nhân tâm lý sâu xa nhất theo các nhà tâm lý nhi đồng là có một sự xung khắc giữa nền "văn minh tân tiến" với những quy luật cứng nhắc của nó và bản năng cá biệt, phức tạp, cụ thể của bé trong vần đề dinh dưỡng, làm bé biếng ăn: - Ngay trong hai tháng đầu, nếu vì lý do gì dó người mẹ không thể cho con bú sữa mẹ được nữa thì sự xung khắc đã bắt đầu từ đó. - Sữa mẹ, như ta biết, là một thứ sữa thiên nhiên, lý tưởng của trẻ. Bé có thể khi vui bú nhiều, khi buồn bú ít, nhởn nhơ mà bú, thảnh thơi mà bú. - Sữa mẹ cũng tuỳ theo nhu cầu trẻ mà tăng hay giảm; bình sữa lúc nào cũng sẵn sàng, cũng có nhiệt độ thích hợp, cũng sạch sẽ; mùi vị sữa cũng thích khẩu cho từng trẻ, khác xa với các bình bú, cái núm vú kỹ nghệ cùng một khuôn mẫu cho hàng triệu trẻ em và sữa thì luôn luôn có cùng phẩm chất, mùi vị - Ngoài ra bú sữa nhân tạo trẻ còn bị bắt bú vào những giờ giấc nhất định, cân lượng nhất định cho đủ bao nhiêu calori. Tới giờ bú mà bé đang ngủ cũng bị dựng đầu dậy, khi bé đói mà chưa tới giờ thì người ta cứ để cho khóc. Lối bú nhân tạo này thường bỏ các cữ bú đêm trong khi thực ra bé cần bú cả đêm ít nhất là mấy tuần lễ đầu rồi mới bỏ dần được. Ai cũng biết bé sơ sinh thường ngủ ngày rồi đêm lại thức bú. Khoảng từ 6 đến 12 tháng bé biếng ăn là vì cách bỏ bú (dứt sữa) của ta không khéo, thay đổi thức ăn quá đột ngột làm bé mất sự thèm ăn. - Từ một tuổi trở đi có những "xung khắc" mới. Lúc đó bé phát triển cá tính mạnh, thích độc lập, thích làm trái ý mẹ, người mẹ không hiểu vẫn tiếp tục chăm sóc quá đáng, kiểm soát từng ly từng tí, ép bé ăn thứ này thứ khác
  14. theo ý mình. Bé càng ít ăn, mẹ càng lo lắng, có khi giận dữ nữa, và bé càng phản ứng mạnh, bỏ ăn luôn. - Từ 15 đến 18 tháng bé thích ăn bốc hay phá phách thức ăn, vung vãi đổ bừa khiến bà mẹ bực mình, cho là mất vệ sinh và tìm mọi cách để "đưa bé vào vòng kỷ luật" một cách tuyệt vọng. Bà bắt bé tập cầm muỗng, cầm đũa, hay đút chứ không cho bé ăn một mình, và dĩ nhiên bé lại ăn mất ngon. - Cũng có thể do bé đã có thêm một đứa em, một "địch thủ đáng ngại" của bé. Bé ganh tị, khổ sở, cảm thấy mình bị bỏ rơi, tủi thân và như thế làm sao bé có thể ăn ngon ngủ yên nữa. - Từ hai tuổi trở đi, bé đã được xem như một người lớn trong nhà. Mẹ bắt bé ngồi vào bàn ăn ngay ngắn, nghiêm chỉnh, quấn khăn ăn chung quanh cổ, ép bé ăn các món ngon, bổ theo ý mẹ. Và bé ì ra hay chỉ ăn chút đỉnh như mèo ngửi. Không có gì bực mình bằng sự bị ép ăn, nhất là bị quan sát từng ly từng tí trong lúc ăn. Chúng ta cũng vậy, bao giờ "ăn vụng" cũng ngon hơn. Nguyên tắc chữa trị: Biết những nguyên nhân tâm lý bệnh như vậy rồi, cách chữa trị chứng biếng ăn của bé không khó. - Trước hết đừng quên là có nhiều hạng trẻ. Có hạng "thực như hổ" cũng có hạng "thực như miêu". Cũng đừng quên có những giai đoạn phát triển bình thường mà bé ăn uống ít đi, không thấy thèm ăn. Mập bự không phải là triệu chứng của sự khỏe mạnh. Nếu bé ăn ít mà vẫn khoẻ, vẫn chơi thì cứ mặc kệ. Nhờ bản năng bé sẽ tự kiếm lấy thức ăn thích hợp. Nhờ bản năng bé biết phải ăn thức ăn gì, ăn bao nhiêu và ăn ra sao. Ta đừng quan trọng hoá vấn đề. Nếu ta không cữ kiêng quá đáng, để bé tự ăn thứ gì bé thích thì không bao giờ bé chết đói đâu. (Bé bị thiếu ăn, bị ốm đói phần nhiều là do ta không cho bé ăn: Sau cơn bịnh ta bắt bé kiêng cữ quá đáng. Lúc bé thèm ăn lại, ta không dám cho). Nếu bé vì lý do gì đó mà chê bữa thì cũng mặc kệ! "Đói đầu gối phải bò!" Đừng lo! - Phải kiên nhẫn. Đừng nài ép, đừng quấy rầy, hăm dọa hay dụ dỗ gì cả. Đừng quan tâm quá đáng làm bé khó chịu thêm. Không cổ võ, không tỏ ra hài lòng hay khen ngợi. Cũng không so sánh bé với bé này bé khác. Không để ý đến bé, bé sẽ ăn lại được lúc nào không hay. - Dĩ nhiên, một cách kín đáo, nên theo dõi xem bé thích món gì, ta cung cấp kha khá món đó cho bé. Ít thôi, để cho bé còn thèm ăn. Ê hề quá cũng dễ ngán. - Nếu bé thích ăn một món hoài rồi đổi sang món khác cũng kệ. Đừng lo thiếu chất này chất kia. Khi cơ thể thiếu thì nó sẽ đòi ngay. - Từ 12 đến 18 tháng bé thích vọc phá, thích tự ăn một mình, không chịu cho người lớn đút, ta cứ để yên cho bé. Nếu bé ăn không đúng bữa, đúng lượng cũng không sao. Nếu trước bữa mà bé đã ăn bánh ngọt, uống sữa, ăn kẹo thì dĩ nhiên không ăn đúng bữa chẳng có gì để lạ. Có bé thích ăn trong khung cảnh ganh đua với anh chị,
  15. bạn bè. Ta khéo léo tạo khung cảnh đó cho bé. Có khi cũng cần cứng rắn một chút. Không phải là nạt nộ nhưng nhờ một người khác – không phải là mẹ bé – cho ăn thì bé sẽ ăn nhiều hơn. Có khi xa nhà một thời gian bé cũng ăn nhiều có lẽ là nhờ không khí vui lạ. Một điểm quan trọng là các thứ thuốc kích thích dạ dày, làm cồn cào ruột không giúp ích gì cho việc chữa trị chứng biếng ăn. Các sinh tố, nhất là sinh tố D thặng dư các loại sirô bổ dưỡng v.v càng làm cho bé mất sự thèm ăn. Tóm lại là trong vấn đề bé biếng ăn, ta không có gì để lo ngại cả. Nếu có bịnh thì chữa, nếu do nguyên nhân tâm lý thì khéo léo, kiên nhẫn một thời gian bé sẽ khỏi, nếu sai lầm trong dinh dưỡng thì phải sửa lại cho đúng. Biếng ăn ở trẻ em Biếng ăn hay mất ngon miệng, hay trẻ từ chối ăn xảy ra khi cơ chế điều hoà sự ngon miệng của cơ thể trẻ bị trục trặc ở một hay nhiều khâu. Do đó, muốn điều trị biếng ăn cho trẻ, bác sĩ và cha mẹ cần phải tìm đúng các khâu bị trục trặc và khắc phục. Nếu không, trẻ sẽ rơi vào trong vòng luẩn quẩn "biếng ăn – suy dinh dưỡng - nhiễm trùng - biếng ăn" khiến cho sức khỏe của trẻ ngày càng suy sụp. 1. Biếng ăn do tâm lý: Đa số các trường hợp biếng ăn trẻ em thuộc về loại này, do cha mẹ không hiểu tâm lý trẻ. Trẻ mất sự thèm ăn khi trẻ có cảm giác bị ép buộc, bị bỏ rơi hoặc bị đánh lừa. Cha mẹ cần hết sức bình tĩnh, kiên nhẫn tìm hiểu lý do trẻ không chịu ăn. Cần tránh các hành vi ép buộc trẻ. Cố gắng thay đổi hành vi thái độ: mẹ dành nhiều thời gian chơi với trẻ, tạo không khí vui tươi thoải mái khi trẻ ăn, cho trẻ tự do chọn lựa thức ăn, làm cho trẻ tiếp nhận các món ăn mới như một món đồ chơi, đừng lén pha thuốc vào thức ăn hay trong sữa của trẻ, 2. Biếng ăn do sai lầm trong kỹ thuật chế biến thức ăn và thời gian chuyển tiếp chế độ ăn (quá sớm hoặc quá trễ): Các sai lầm thường gặp trong chế biến thức ăn như: - Chỉ cho trẻ ăn nước rau, nước thịt, không ăn xác; lâu ngày gây thiếu các chất dinh dưỡng. - Pha bột vào sữa, pha sữa quá đặc, pha sữa bằng nước cháo, nước hầm xương làm trẻ khó tiêu hoá. - Pha bột quá đặc khi trẻ mới tập ăn dặm. - Chất và lượng thực phẩm trong chén bột hay chén cháo không đủ. - Thức ăn đơn điệu gây cảm giác chán ăn Tránh kéo dài thời gian cho trẻ ăn thức ăn xay nhuyễn. - Thường xuyên đổi món để trẻ đừng chán. - Bảo đảm đủ lượng thực phẩm cần có trong chén bột hay chén cháo.
  16. Hãy nghiên cứu kỹ bảng hướng dẫn dưới đây và cho trẻ chế độ ăn phù hợp với độ tuổi. Tuổi Chế độ ăn trong ngày 0 – 4 tháng Bú mẹ hoàn toàn, nhiều lần, theo yêu cầu của bé. 5 – 6 tháng Bú mẹ nhiều lần. 1 bữa bột loãng 5%; tăng dần dần từ ít đến nhiều, từ loãng đến đặc. 7 – 9 tháng Bú mẹ nhiều lần. 2 chén bột đặc 10-15%, đủ bốn nhóm thực phẩm. 10 - 12 tháng Bú mẹ ít nhất 3-4 lần. 3 chén bột đặc, đủ bốn nhóm thực phẩm. 12 - 24 tháng 3-4 chén cháo đặc hoặc cơm xay, đủ bốn nhóm thực phẩm. Sữa mẹ vẫn rất cần cho trẻ: bú mẹ ít nhất 3 lần. 2 - 5 tuổi 3 bữa ăn chính cùng với gia đình, thức ăn đa dạng, đủ 2-3 bữa phụ: khoai, chuối, sữa, chè, 3. Biếng ăn do bệnh lý: Đa số khi mắc các bệnh lý đều làm trẻ biếng ăn. Nên: - Bổ sung các vi chất dinh dưỡng mà trẻ thiếu. - Xổ giun định kỳ mỗi 6 tháng. - Giữ gìn vệ sinh răng miệng tốt. - Điều trị các bệnh nhiễm trùng. 4. Biếng ăn do sinh lý (khi trẻ biết lật, biết ngồi, biết đứng, biết đi ): Hãy bình tĩnh và kiên nhẫn cho trẻ ăn từng bữa nhỏ, làm các món ăn lạ và hấp dẫn ; giai đoạn này sẽ qua đi một cách tự nhiên. 5. Biếng ăn do thuốc: Kháng sinh gây loạn khuẩn đường ruột, giảm quá trình lên men thức ăn. Nên cho trẻ ăn sữa chua hoặc dùng các men vi sinh để tái lập hệ vi sinh ở ruột. Cấm dùng Ciproheptadine ở trẻ dưới tuổi, vì tình trạng biếng ăn sẽ tăng lên sau khi ngưng thuốc. 6. Biếng ăn "của cha mẹ" (cha mẹ cho rằng trẻ "biếng ăn" trong khi trẻ vẫn tăng trưởng tốt): Cha mẹ cần được hướng dẫn về sự tăng trưởng và phát triển
  17. tâm sinh lý bình thường của trẻ tại các phòng khám nhi để tự tin hơn khi nuôi con. 7. Biếng ăn do bẩm sinh (có 5% trẻ không bao giờ đòi bú hay đòi ăn): Cha mẹ phải chủ động cho trẻ ăn theo sự hướng dẫn và theo dõi của bác sĩ dinh dưỡng. Con tôi béo quá Trẻ bị béo phì, lỗi một phần không nhỏ là ở các bà mẹ. "Cu Rốc tháng sau sẽ chuyển sang ăn chung với nhóm trẻ béo phì. Cô giáo bảo trẻ con 8 tuổi, cao 1m30, nặng 35kg là thừa cân rồi. Ở nhà em cũng phải cho con ăn kiêng đấy". Đi họp phụ huynh về, anh Tiến thông báo với vợ. Chị Thanh chép miệng: "Nó dư vài cân, khoẻ mạnh thế kia làm sao gọi là béo phì, con người ta mong mập chẳng được. Trong lớp tùy cô cho ăn gì cũng được nhưng ở nhà thì cứ cho ăn bình thường". Bà nội Rốc nói thêm: "Giỏ nhà ai, quai nhà ấy. Bố nó hồi bé một tuổi cũng nặng bằng đứa hai tuổi. Mát da mát thịt thì bụ bẫm, ai lại gọi thằng bé là béo phì bao giờ". Theo số liệu khảo sát của Trung Tâm dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ ở bậc tiểu học đang bị thừa cân (so với chiều cao) năm 2000 đã tăng 6%, gần gấp đôi so với năm 1999 (3.9%). Bệnh béo phì ở trẻ đang ở mức báo động không còn là vấn đề mới mẻ nữa. Tại sao trẻ dễ mắc bệnh, lỗi một phần là ở các bà mẹ. Từ những quan niệm không đúng: "Nhìn nhà kia rõ thật buồn cười, mẹ thì ú na ú nần, con lại có chút xíu, chắc là mẹ ăn hết phần con". Thấy cảnh mẹ mập con ốm, đa số chúng ta đều nghĩ vậy. Làm sao cho trẻ bụ bẫm là ước muốn của tất cả các bà mẹ. Ngoài ra, quan niệm "trẻ bụ bẫm là trẻ khoẻ mạnh", vẫn còn tồn tại ở rất nhiều gia đình. Chúng không ăn được, phải bằng mọi cách ép chúng ăn. Chúng đã ăn được, cố nhồi cho chúng ăn được nhiều hơn nữa. Nếu trẻ con bị suy dinh dưỡng, nghĩa là các bà mẹ vụng về, không biết chăm sóc con. Những quan niệm sai lầm ấy góp phần đẩy tỷ lệ trẻ mập phì tăng ngày càng cao. Các bà mẹ không biết rằng, suy dinh dưỡng dễ chữa hơn béo phì, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng chỉ còn cao ở các vùng sâu vùng xa. Tại các thành phố lớn, bệnh béo phì đang làm các bác sĩ, chuyên gia về dinh dưỡng phải mất nhiều công sức hơn nhiều so với việc giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ. Béo phì do dư thừa lượng calo: Ngoài những nguyên nhân đặc biệt do di truyền, đa số trẻ bị béo phì vì các thực đơn hàng ngày của các bà mẹ. Cu Rốc tuy đã 7 tuổi nhưng một ngày vẫn uống hai cữ sữa bột, mỗi lần 250ml. Ngoài ba bữa ăn chính, vào trường mẹ còn giúi thêm một cái bánh bông lan hay bánh cốm. Đi học về là mẹ bồi dưỡng ngay một bát chè sen hay một lòng đỏ trứng gà ngâm mật ong. Trước khi đi ngủ, cu cậu lại phải dằn bụng thêm một cái bánh bao. Rốc cũng
  18. chẳng hào hứng gì lắm nhưng mẹ cứ dỗ dành: "Ăn đi mới mau lớn, mới có sức mà đá banh giỏi như chú Hồng Sơn, chú Huỳnh Đức chứ con". Thế là thằng bé lại vui vẻ chén nốt. Chị Thanh không hiểu rằng, trẻ cần được ăn đầy đủ các chất: tinh bột, rau xanh, đạm trong thịt cá, các chất canxi có trong cua tôm, các chế phẩm từ sữa. Nhưng chỉ cần ăn dư 60 - 70 Kcal/ngày và kéo dài vài tháng là trẻ sẽ bị thừa cân ngay. Lượng calo này tương đương với một chai nước ngọt nhỏ hoặc 5,7 viên kẹo hay một muỗng canh sữa đặc có đường, cái bánh ngọt nhỏ những thứ tưởng chừng ít có tác hại, vì vậy các bà mẹ thường không để ý. Ai cũng cho rằng, các thức ăn giàu năng lượng như chiên xào, khoai tây nghiền, bơ, cá, thịt, trứng rất cần cho trẻ nhưng hiếm bà mẹ tìm hiểu xem lượng này bao nhiêu là vừa cho trẻ. Những bà mẹ tham khảo và áp dụng đúng các thực đơn khoa học hàng ngày để nuôi trẻ đúng đắn lại càng hiếm hơn. Ăn vặt, nguyên nhân gây béo phì: Ăn vặt, là ăn bất kỳ lúc nào trong ngày. Tùy sở thích từng trẻ mà chúng ăn vặt thứ gì. Nhưng các thức ăn vặt phổ biến nhất là bánh snack, nước ngọt, sinh tố bịch, bánh kẹp, sôcôla, mứt. Ăn vặt chẳng làm trẻ thừa cân giảm lượng thức ăn trong bữa chính, nên chúng càng mập. Ngược lại, trẻ suy dinh dưỡng hay ăn vặt lại thấy no ngang trong bữa chính nên chúng không ăn được và càng ốm hơn. Ăn vặt khác hoàn toàn với ăn bữa phụ. Rất nhiều bà mẹ nhầm lẫn hai khái niệm này. Bữa ăn phụ là những bữa ăn bổ sung thêm chất dinh dưỡng cho trẻ, cách bữa chính khoảng 2 giờ. Bữa ăn phụ rất cần cho trẻ vì chúng hay hoạt động, đang tăng trưởng. Với trẻ suy dinh dưỡng hoặc bình thường, bữa ăn phụ cần nhiều đạm, tinh bột như bánh giò, bánh bông lan, bánh bao. Với trẻ đã đủ hoặc thừa cân, bữa phụ là là một quả táo, quả mận hay củ sắn, tức là chỉ có khoáng chất, nước, vitamin. Như bữa ăn phụ của cu Rốc ở đây, lẽ ra được thay bằng trái ít ngọt như bưởi, cam, táo, sữa tách bơ hay sữa chua. Học nhiều nhưng lại ít vận động: Chị Thanh còn rất an tâm vì theo cô giáo thông báo, lớp Rốc có tới phân nửa bị dư cân chứ không riêng gì con chị. Cũng thật dễ hiểu, cho con học bán trú hầu hết là những gia đình khá giả nên thực đơn của trẻ cũng tương tự như cu Rốc, nghĩa là năng lượng được cung cấp dư thừa mà vận động thì thật ít. Đi và về đều có người đưa đón. Chẳng ông bố bà mẹ nào dám cho con đi bộ một mình trong tình trạng giao thông như hiện tại. Từ sáng đến chiều, lũ trẻ ngồi học trong phòng, hết chính khóa lại đến giờ tự học. Giờ chơi, chúng lại tụ tập từng nhóm trong khoảng sân chẳng rộng rãi cho lắm. Hết giờ học ở trường, chúng về nhà ăn tối cùng bố mẹ, rồi lại học bài hoặc xem tivi. Mùa hè, Rốc được đi bơi ba buổi một tuần cùng với bố, nhưng thật ra lịch nào cũng thay đổi xoành xoạch vì có khi bố còn bận việc
  19. này việc khác. Vào năm học mới rồi thì chẳng còn thời gian đâu mà đi bơi nữa. Chỉ những ngày lễ bố mẹ được nghỉ thì Rốc mới hy vọng được đi Đầm Sen. Ở đó, nó thoải mái chạy nhảy hay nô đùa cùng mấy anh em họ. Nhưng những ngày như thế thật quá ít ỏi so với cả một năm dài. Béo phì, nguyên nhân của nhiều căn bệnh: Chị Thanh hẳn sẽ không lo lắng gì về sức khỏe của cu Rốc nếu không tình cờ gặp chị Tâm, một người bạn từ thời phổ thông. Thấy chị Tâm buồn bã, chị hỏi thăm mới biết bé Thảo, con chị Tâm, đang bị viêm khớp phải nằm bệnh viện. Các bác sỹ cho biết nguyên nhân của bệnh là do bé bị béo phì quá lâu. Con bé thừa cân từ lúc bốn tuổi nhưng chị Tâm không để ý, vả lại cũng tặc lưỡi: "Nó tròn trịa thì càng dễ thương". Khi bé Thảo học lớp 6, chiều cao bằng các bạn nhưng đã nặng gần 50kg, và hiện tại mới học lớp 8 con bé xấp xỉ 60kg. Trẻ mập phì sẽ thành người lớn mập phì: Bác sĩ Kim Hưng, giám đốc Trung Tâm Dinh Dưỡng TP. HCM cho biết: "Gần 80% trẻ mập phì sẽ mập phì cho đến lớn. Mức mập phì càng nặng thì sự mập dai dẵng tới lớn càng cao. Mập phì cũng làm trẻ vụng về trong sinh hoạt, gia tăng khả năng gặp tai nạn giao thông ở trẻ và nguy hiểm hơn cả, đó là nguyên nhân gây các bệnh như tim mạch, tiểu đường, cao huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid ". Ngoài ra, với trẻ em, việc bị phân biệt đối xử do mập quá gây nhiều tác hại tâm lý. Trẻ sẽ thiếu tự tin, mặc cảm, ngại giao tiếp vì khi sinh hoạt trong đám đông, chúng thường bị chế giễu: "thằng mập", "béo", "thùng tô nô", "em chã" Như một vòng lẩn quẩn, chúng lại ngày càng mập hơn trước vì sống khép kín và không vận động. Để giúp trẻ giảm trọng lượng thừa: Hiểu nguy hiểm của bệnh mập phì, chị Thanh vội vã áp dụng ngay chế độ giảm cân cho cu Rốc. Chị cho con ăn toàn thịt nạc, rau xanh, cấm tiệt thằng bé ăn mỡ, béo, bánh kem, bánh ngọt. Được hai tháng, thằng bé chỉ xuống gần một ký nhưng nó luôn mồm kêu thèm hết thứ này đến thứ khác. Thương con nên thỉnh thoảng chị cho con ăn thoải mái một bữa. Hai tháng kế tiếp, thằng bé chẳng những không giảm cân mà còn có vẻ tròn trịa hơn. Chị Thanh đành mang con đến Trung Tâm dinh dưỡng để điều trị ngoại trú. "Kiên nhẫn và kết hợp một cách khoa học các thực đơn sao cho vừa đúng nguyên tắc, vừa gần với chế độ ăn, sở thích của trẻ, như vậy mới làm cho trẻ chấp nhận thực đơn một cách vui vẻ". Đó là lời khuyên đầu tiên của các bác sĩ. Phải giảm các thức ăn mà trẻ thích một cách từ từ hoặc thay thế bằng các thức ăn năng lượng hơn chứ không thể bắt trẻ ngưng ngay một cách đột ngột. Nếu bạn không cho trẻ ăn, rồi lại cho chúng ăn bù thì lượng mỡ tích tụ sẽ tăng hơn nhiều. “Ăn ít nhưng ít vận động thì hiệu quả giảm cân cũng không thể
  20. cao". Phải tạo cho trẻ hứng thú để chúng tự giác giúp gia đình làm việc nhà. Tạo điều kiện cho trẻ đi bộ, chạy nhảy càng nhiều càng tốt. Hãy giữ cho con bạn một dáng vóc cân đối. Một trí óc hoàn hảo chỉ có thể có trong một cơ thể khỏe mạnh. Với tình thương của người mẹ, hẳn chúng ta sẽ bảo vệ những đứa trẻ trước nguy cơ thừa cân đang ngày một tăng cao. Bé có bị suy dinh dưỡng hay không? Những năm gần đây, đất nước ngày càng phát triển, đời sống người dân được nâng cao. Tỉ lệ suy dinh dưỡng giảm đi. Dù vậy, suy dinh dưỡng vẫn còn gặp rất nhiều ở những vùng dân cư nghèo, ở những bà mẹ thiếu kiến thức nuôi con. Quả là trẻ em hiện nay cao to hơn thế hệ cha anh khi bằng tuổi chúng. Nhưng ở nước ta hiện nay, có khoảng 40% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng. Nguyên nhân gây suy dinh dưỡng - Kinh tế khó khăn, không đủ ăn cho cả mẹ lẫn con. - Trẻ sinh ra không có sữa mẹ, phải uống nước cháo thay sữa. - Trẻ bú mẹ, nhưng từ tháng thứ tư, mẹ không cho ăn dặm đầy đủ. - Trẻ mắc bệnh: sởi, tiêu chảy Mẹ kiêng cữ, không cho bú, chỉ cho ăn cháo muối, cháo đường. - Trẻ bị sốt kéo dài, hay bị các bệnh nhiễm trùng kéo dài hàng tháng làm tiêu hao năng lượng. - Trẻ bị các tật bẩm sinh ở hệ tim mạch, tiêu hoá, thần kinh - Phổ biến nhất là do trình độ dân trí thấp, bà mẹ thiếu kiến thức nuôi con. Lý do này chiếm đến 60% nguyên nhân gây suy dinh dưỡng. Có hai cách giúp biết khá chính xác bé suy dinh dưỡng hay không 1. Dựa vào cân nặng theo tuổi Điều kiện chuẩn: - Mới sinh : cỡ 3 kg - 5 tháng : tăng gấp hai - 12 tháng : tăng gấp ba - 2 tuổi : tăng gấp bốn - Sau đó mỗi năm tăng thêm 2 kgs. Ví dụ, bé 6 tuổi thì cân nặng phải là 20 kg. Đánh giá kết quả: - Trên 80% : bình thường - 70% - 80% : suy dinh dưỡng nhẹ - 60% - 70% : suy dinh dưỡng trung bình - Dưới 60% : bé bị suy dinh dưỡng nặng 2. Dựa vào chiều cao theo tuổi Điều kiện chuẩn: - Mới sinh : 50 cm
  21. - 6 tháng : 65 cm - 12 tháng : 75 cm - 2 tuổi : 85 cm - 3 tuổi : 95 cm - 4 tuổi : 100 cm - Sau đó mỗi năm chiều cao tăng thêm 5 cm. Ví dụ bé 8 tuổi phải cao 120 cm. Kết quả: - Trên 90% : bình thường - 80% - 90% : suy dinh dưỡng nhẹ - 70% - 80% : suy dinh dưỡng trung bình - Dưới 70% : bé suy dinh dưỡng nặng - Nếu ở vùng sâu, vùng xa, không có cân, có thể đo vòng cánh tay trẻ từ 1 – 5 tuổi. Trẻ bình thường 14 cm – 15 cm. Nếu dưới 13 cm: suy dinh dưỡng. Cách phòng chống suy dinh dưỡng Suy dinh dưỡng ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ trẻ. Tương lai của chúng bị đe dọa vì suy dinh dưỡng để lại di chứng lâu dài. Do đó, để giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, các bà mẹ cần chú ý kiến thức nuôi con của mình: - Theo dõi biểu đồ tăng trưởng để phát hiện sớm suy dinh dưỡng. - Cho uống dung dịch Orésol khi trẻ tiêu chảy. - Nuôi con bằng sữa mẹ và chủng ngừa sáu bệnh lây : lao, sởi, ho gà, bạch hầu, uốn ván và sốt bại liệt. - Sinh đẻ có kế hoạch. Khi bé ăn tham Ăn tham không phải là một tội, nó chỉ là một “tật xấu” bé xiu xíu thôi. Hình như đứa bé nào cũng có một thời kỳ mắc phải tật đó. Nếu khoảng thời gian đó kéo dài (từ 1 đến 2 năm chẳng hạn), bạn có thể gặp những chuyện bực mình do bé mang lại nhất là khi đi ăn ở những chốn tiệc tùng hoặc nơi công cộng. Để ngăn chặn tật xấu bé xíu này của con trẻ, không cho nó “cơ hội phát triển”, bạn hãy: - Tập cho bé thói quen chỉ được ăn khi người lớn cho phép. - Nghiêm khắc yêu cầu bé không được vòi vĩnh thêm phần ăn của người khác. - Dạy bé thói quen chia sẻ thức ăn cho người khác. Khen ngợi bé mỗi khi bé thực hiện lời khuyên ấy. - Đọc chuyện cổ tích liên quan đến tật xấu tham ăn cho bé nghe. - Phạt bé mỗi khi bé dằn dỗi và dành ăn với anh, chị trong nhà. - Thưởng bé một buổi tối đi chơi cuối tuần khi bé ăn uống ngoan ngoãn suốt tuần. - Dạy bé “chế tạo” một món ăn (dễ làm) và đem mời mọi người.
  22. Nhu cầu calcium (canxi) hàng ngày Hàm lượng calcium trong cơ thể tăng từ 27 g lúc mới sanh tới 830 g (số trung bình) ở phụ nữ trưởng thành và 1110 g ở đàn ông trưởng thành. 1. Nhu cầu calcium của cơ thể: - Tại giai đoạn đỉnh của sự tăng trưởng, đàn ông cần 290-400 mg calcium /ngày, phụ nữ là 210-240 mg calcium/ngày. Trong khi đó, nghiên cứu ở lứa tuổi 10 –20, nhu cầu calcium mỗi ngày trung bình từ 180-210 mg/ngày đối với đàn ông và 90-110 đối với phụ nữ. - Nhu cầu phosphorus cho cơ thể bằng khoảng ½ nhu cầu calcium. Hầu hết thức ăn có nhiều phosphorus. Việc thiếu phosphorus không xảy ra ở người khỏe mạnh ngoại trừ trẻ sinh non. - Sữa mẹ cung cấp các khoáng chất; mỗi 100 ml sữa mẹ thì bà mẹ mất 34 mg calcium, 14 mg phosphorus, và 4 mg magnesium. Cần lưu ý những tháng cuối của thai kỳ bào thai mỗi ngày cần 150 mg phosphorus và 250 mg calcium từ bà mẹ. Điều thuận lợi là sự hấp thu calcium tại ruột ở bà mẹ mang thai thì cao hơn bình thường. 2. Nhu cầu Calcium hàng ngày cho cơ thể: - Trẻ sơ sinh - 6 tháng tuổi: 210 mg - 6 tháng tuổi - 1 tuổi: 270 mg - 1 tuổi - 3 tuổi: 500 mg - 4 tuổi - 8 tuổi: 800 mg - 9 tuổi - 18 tuổi: 1300 mg - 19 tuổi - 50 tuổi: 1000 mg - > 50 tuổi: 1200 mg Có thai và đang nuôi con bú: 1000 mg Các thuốc thông thường trong điều trị biếng ăn ở trẻ em Trên thị trường hiện nay, có rất nhiều loại thuốc điều trị biếng ăn. Tuy nhiên, thuốc phải được sử dụng hợp lý và đúng chỉ định. Nếu không, thuốc có thể gây tác hại cho trẻ và tốn kém cho gia đình. 1. Multivitamin hay multivitamin kết hợp với khoáng chất Vitamin và khoáng chất đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động chuyển hóa của cơ thể. Đa số trẻ biếng ăn đặc biệt là trẻ suy dinh dưỡng đều bị thiếu hụt vitamin và khoáng chất. Các chế phẩm thường dùng trong điều trị biếng ăn là các dạng tổng hợp từ nhiều loại vitamin, khoáng chất với hàm lượng gần với nhu cầu cơ thể. 2. Các chế phẩm chứa acid amin Acid amin là đơn vị cấu trúc để tổng hợp protein, thành phần thiết yếu của tế bào, có vai trò kiến tạo, duy tu các mô, và là thành phần cơ bản của các men tiêu hóa, nội tiết tố, kháng thể là những chất tham gia vào quá trình chuyển hóa và bảo vệ cơ thể. Trẻ suy dinh dưỡng và biếng ăn thường thiếu hụt những chất này, nhất là các acid amin thiết yếu, đặc biệt là lysine. - Các chế phẩm hỗn hợp nhiều acid amin thường có đủ 8 acid amin thiết yếu (trong đó có lysine) và một số acid amin không thiết
  23. yếu. Khi dùng, chú ý không uống cùng với sữa hoặc nước trái cây vì những chất này làm giảm sự hấp thu của acid amin. - Các chế phẩm trong thành phần có lysine (Kiddi Pharmaton) - Các chế phẩm chỉ chứa arginine có tác dụng làm tăng chuyển hóa của gan đối với ammoniac. 3. Các chế phẩm chứa kẽm Kẽm là thành phần của nhiều loại men, tiền men có ảnh hưởng trực tiếp trên hệ tiêu hóa. 4. Nhân sâm: Nhân sâm có tác dụng làm gia tăng sự đáp ứng của cơ thể với các tác động bên ngoài, phục hồi sinh lực; do có thể gia tăng chuyển hóa dinh dưỡng của cơ, đặc biệt là cơ tim và cơ vân. Không dùng cho trẻ dưới 1 tuổi và phụ nữ mang thai. 5. Men tiêu hóa Men tiêu hóa hỗ trợ cho việc tiêu hóa thức ăn trong lòng ống tiêu hóa, giúp cho ruột hấp thu các chất dinh dưỡng trong thời gian sớm nhất, làm trống ống tiêu hóa nhanh tạo cảm giác đói. Đa số đều chứa pancreatin (men tiêu hóa tuyến tuỵ), một vài loại có thêm mật (dịch tiêu hóa của gan), pepsin (men tiêu hóa của dạ dày), dimethicon hay simethicon (hút hơi, tránh đầy bụng), cellulose hay papain (nhuận tràng). Có loại chỉ chứa men amylase đơn thuần để giúp tiêu hóa tinh bột để làm thức ăn lỏng mềm, cho trẻ dễ ăn. 6. Dibencozide: có tác dụng hoạt hóa các phản ứng tổng hợp protein. 7. Thuốc lợi gan, lợi mật có tác dụng làm gia tăng hoạt động ngoại tiết của gan, làm tăng lượng mật bài tiết giúp cho sự tiêu hóa và hấp thu chất béo, thường được dùng trong các trường hợp biếng ăn do nguyên nhân từ gan mật hay có kèm theo bệnh lý gan mật không có tắc nghẽn đường mật. Cần phải thận trọng khi chỉ định cho trẻ em, nhất là trẻ em dưới 2 tuổi. Chống chỉ định dùng khi có tắc nghẽn đường mật. 8. Các thuốc hỗ trợ hoạt động tiêu hóa trong một số trường hợp đặc hiệu: - Các chế phẩm chứa vi khuẩn sống sinh acid lactic co tác dụng lên men các thức ăn trong lòng ruột, tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu hóa hấp thu chất dinh dưỡng, ức chế phát triển của vi khuẩn gây hại, tái lập lại cân bằng hệ vi sinh của ruột. Thuốc thường được sử dụng sau các đợt dùng kháng sinh liều cao, dài ngày trên những cơ địa dễ bị loạn khuẩn ruột. Vi khuẩn trong thuốc dễ bị tiêu diệt bởi nhiệt độ và acid dịch vị, do đó không nên pha thuốc với nước nóng và nên uống thuốc sau bữa ăn. - Thuốc có tác dụng hút hơi: có tác dụng chống chướng bụng, tránh hiện tượng căng giãn ống tiêu hóa làm ảnh hưởng đến cường độ và tần suất các sóng nhu động. - Thuốc làm giảm độ acid dịch vị, giảm sóng nhu động dạ dày
  24. tránh nôn ọc. - Thuốc nhuận tràng, trị táo bón. - Thuốc điều hòa nhu động ruột. 9. Các thuốc y học cổ truyền Sữa ong chúa kích thích ngon miệng, trị mệt mỏi, suy nhược. Gừng giúp trợ tiêu hóa, chống nôn, chống đầy hơi. Artichaud và bột nghệ có tác dụng lợi mật, trợ gan. Rau má dùng để mát gan, giải độc, giải nhiệt. Các loại thuốc không sử dụng trong điều trị biếng ăn ở trẻ: 1. Antihistamin H1 nhóm cyproheptadine Gây dễ ngủ và ngon miệng chỉ là tác dụng phụ của thuốc, sẽ biến mất khi ngưng thuốc. Ngoài ra, thuốc còn có thể ảnh hưởng ngoại ý trên sự phát triển và hoàn thiện não ở trẻ do tác động lên các vi mạch nuôi dưỡng não. 2. Nội tiết tố glucocorticoid của tuyến thượng thận Glucocorticoid làm gia tăng sự tiết dịch vị ở dạ dày tạo cảm giác đói, đồng thời giữ nước và muối lại trong cơ thể làm gia tăng trọng lượng cơ thể trong một thời gian ngắn, dễ gây ấn tượng là thuốc làm ăn ngon và tăng cân tốt. Các hậu quả do sử dụng glucocorticoid kéo dài rất nghiêm trọng: giảm đề kháng, rối loạn chuyển hoá, loãng xương, tiểu đường, yếu cơ , rối loạn chức năng sinh dục 3. Nội tiết tố insulin của tuyến tuỵ Insulin có thể gây tình trạng hạ đường huyết cấp rất nguy hiểm, nhất là ở trẻ suy dinh dưỡng. Ngon miệng chỉ đi đôi với niềm vui Cha mẹ đôi khi quá quan tâm đến khía cạnh dinh dưỡng của thức ăn mà quên mất một điều hết sức quan trọng đó là trẻ chỉ có thể ăn ngon miệng khi trẻ cảm thấy vui sướng trong lòng. Hãy làm cho bữa ăn của trẻ thơ tràn ngập niềm vui. Trẻ sẽ vui sướng biết bao nhiêu nếu được mẹ “đối thoại” với trẻ về các sự vật, sự kiện diễn ra xung quanh như bông hoa xinh đẹp đang có trên bàn ăn (bông hoa đẹp quá nè mẹ! bông hoa thơm quá phải không con? bông này là bông hồng, con biết không? nó kêu “chíp chíp” ồ con cũng biết hả? còn con kia? con kia nó kêu “cốc cốc” ngộ quá, nó kêu giống như gõ mõ ) Mẹ và con cùng cười rạng rỡ. Và con ăn, ăn trong niềm vui sướng mà mẹ đã tạo cho con, ăn thật là ngon! Sau đây là một vài phương cách giúp tạo niềm vui cho trẻ khi ăn: - Tạo niềm vui cho trẻ bằng hình ảnh và màu sắc: bày nhiều tô chén khác nhau, mẹ cùng trẻ thưởng thức vẻ đẹp của bông hoa, chim chóc (hoặc vật thật, hoặc tranh vẽ, hình chụp). - Tạo niềm vui cho trẻ bằng âm thanh: thông qua các bài hát dí dỏm, câu thơ ngộ nghĩnh, chim hót líu lo, tiếng rao hàng kéo dài trầm bổng.