Bài giảng Pháp luật kinh tế

doc 95 trang ngocly 2310
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Pháp luật kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_giang_phap_luat_kinh_te.doc

Nội dung text: Bài giảng Pháp luật kinh tế

  1. Bài giảng pháp luật kinh tế CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT KINH TẾ Ở VIỆT NAM I. Vai trò của Pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường Từ năm 1986, Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường. Hiệu quả kinh tế đạt được trong những năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương đó. Vì vậy, cơ chế thị trường đã được HP 1992 của nước ta ghi nhận thành nguyên tắc hiến định. Cả lý luận và thực tiễn đều đã khẳng định rằng nền kinh tế nào cũng cần nêu cao vai trò quản lý của nhà nước. Với bản chất “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ta lại càng to lớn. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp về quan hệ kinh tế, với sự đa dạng về chủ thể, về lợi ích, về hình thức pháp lý, Dù phức tạp thế nào đi nữa, sự quản lý của nhà nước cũng phải đảm bảo một nền kinh tế có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có định hướng rõ rệt. Vì vậy, yêu cầu khách quan do nền kinh tế thị trường đặt ra đối với pháp luật thể hiện ở mức độ khái quát sau: a. Trong nền kinh tế thị trường văn minh, việc đảm bảo sự thống nhất, hài hoà giữa kinh tế và xã hội là yêu cầu khách quan. Hai mặt này vốn luôn ở trạng thái mâu thuẫn nhau. Trong khi đó, với mục đích nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, bản thân nền kinh tế thị trường không bao hàm trong nó cơ chế bảo đảm các vấn đề xã hội. Sự thống nhất giữa sự phát triển cả kinh tế lẫn xã hội chỉ có thể đạt được bằng sự can thiệp của nhà nước bằng pháp luật. Bởi vì, một trong những giá trị xã hội to lớn của pháp luật là gắn liền với những thuộc tính đặc trưng của đời sống cộng đồng, là “khế ước của cộng đồng”. Thiếu vai trò của pháp luật, không thể có một nền kinh tế thị trường văn minh. b. Nói đến nền kinh tế thị trường là nói đến đa hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất, đa thành phần kinh tế và đa lợi ích, từ đó, yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo bình đẳng và công bằng. Việc đảm bảo bình đẳng và công bằng lại là thiên chức của pháp luật. Quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh sẽ là hình thức nếu thiếu sự quy định của pháp luật, bảo đảm quyền bính dẳng của mọi doanh nghiệp trước pháp luật, trong những hoàn cảnh khác nhau, mọi doanh nghiệp được hưởng -1-
  2. Bài giảng pháp luật kinh tế những khả năng, điều kiện và cơ hội như nhau, phải ngang quyền với nhau trong quan hệ với nhau, không có sự phân biệt đối xử nào. Trong điều kiện vẫn giữ vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, càng cần phải đề cao vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo sự bình đẳng, nếu không nền kinh tế nước ta rất dễ quay lại với cơ chế cũ: Tập trung quan liêu bao cấp. c. Tự do, năng động, sáng tạo và nhạy bén là những yêu cầu khách quan và là thuộc tính của nền kinh tế thị trường. Nhưng gắn liền với các yếu tố đó là nguy cơ làm xuất hiện tình trạng vô chính phủ, tùy tiện làm ăn gian lận trong nền kinh tế thị trường. Chúng đặt ra yêu cầu phải đề cao pháp luật để hạn chế và đi đến xoá bỏ tình trạng thiếu lành mạnh đó. Qua nghiên cứu, chúng ta thấy nền kinh tế thị trường Việt nam có những đặc điểm sau: - Nền kinh tế thị trường Việt nam được xây dựng từ nền kinh tế kế hoạch tập trung cao độ. Nền kinh tế thị trường đối lập với nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp và đối lập với cơ chế cấp phát – giao nộp. Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường tuân theo quy luật riêng của nó, đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, Vì vậy, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Hệ thống pháp luật cũ là hệ quả tất yếu của cơ chế cũ, do đó cũng cần phải được thay thế bằng hệ thống pháp luật mới phù hợp. - Nền kinh tế thị trường Việt nam với vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh. Mục đích là nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định và có hiệu quả toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được vai trò đó, phải làm sao đảm bảo cho thành phần kinh tế quốc doanh chiếm vị trí then chốt trong nền kinh tế, có đủ lực lượng vật chất chi phối thị trường và là tấm gương về năng suất, chất lượng, về công nghệ và công tác quản lý, về quan hệ hợp tác và cạnh tranh. Trong khi nền kinh tế thị trường đặt ra yêu cầu phải đảm bảo tự do, bình đẳng, công bằng, thì việc đảm bảo vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh, về mặt pháp lý đòi hỏi phải xử lý nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội phức tạp, nếu không nghiên cứu kỹ để đề ra những phương hướng giải quyết thì dễ làm mất tính lành mạnh của nền kinh tế thị truờng, nhất là của sự cạnh tranh thực sự, dẫn đến sự quay trở lại với cơ chế kinh tế cũ: tập trung, quan liêu, bap cấp. -2-
  3. Bài giảng pháp luật kinh tế - Nền kinh tế thị trường Việt nam có định hướng xã hội chủ nghĩa. Với đặc điểm đó, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường không phải đơn thuần là một quá trình kinh tế mà bao giờ cũng gắn với những thay đổi lớn, căn bản về mặt xã hội. Vì vậy, nội dung của hệ thống pháp luật mới phải đảm bảo hai mặt chủ yếu: Một mặt bảo đảm nguyên tắc mọi người được tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, bình đẳng trước pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, mặt khác, do cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hoá những người sản xuất kinh doanh, kích thích người kinh doanh chạy theo lợi nhuận trước mắt, không tính đến lợi ích toàn cục, xem nhẹ các yêu cầu xã hội, phá vỡ môi sinh và để lại những hậu quả xấu về mặt xã hội, do đó hơn lúc nào hết, cần phải đề cao vai trò của pháp luật, nhằm đảm bảo lợi ích của xã hội, bảo vệ người lao động, người tiêu dùng. Tóm lại, nền kinh tế thị trường đòi hỏi pháp luật kinh tế phải đáp ứng các yêu cầu sau: - Tạo ra những tiền đề pháp lý vững chắc để ổn định các quan hệ kinh tế, làm cho mọi thành phân kinh tế, mọi công dân yên tâm chủ động huy động mọi tiềm năng sáng tạo và tiềm lực kinh tế vào sản xuất, kinh doanh dịch vụ; - Tạo ra cơ chế pháp lý đảm bảo một cách có hiệu quả sự bình đẳng thực sự giữa các thành phần kinh tế; - Đấu tranh phòng và chống có hiệu quả những hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường đồng thời bảo vệ một cách chắc chắn lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, của mọi công dân và người tiêu dùng. II. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh, chủ thể và phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế: 1. Khái niệm luật Kinh tế: Luật Kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động của sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và với các cơ quan quản lý nhà nước. 2. Đối tượng điều chỉnh của luật Kinh tế: -3-
  4. Bài giảng pháp luật kinh tế Để có căn cứ xác định đối tượng điều chỉnh của luật Kinh tế, trước hết phải làm rõ vấn đề Nhà nước sử dụng luật Kinh tế để can thiệp như thế nào vào đời sống kinh tế. Qua nghiên cứu, chúng ta rút ra mấy khía cạnh cơ bản sau: a) Thông qua luật Kinh tế, Nhà nước xác định địa vị pháp lý cho các tổ chức, đơn vị kinh tế; b) Thông qua luật Kinh tế, Nhà nước điều chỉnh hành vi kinh doanh của các chủ thể kinh doanh; c) Thông qua luật Kinh tế, Nhà nước quy định cơ quan tài phán trong kinh doanh; d) Thông qua luật Kinh tế, Nhà nước quy định điều kiện, thủ tục phá sản của các doanh nghiệp. Từ đó, chúng ta thấy rõ ràng luật Kinh tế điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội sau: - Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp như: Mua bán vật tư, sản phẩm, cung cấp dịch vụ các loại, Đây là nhóm quan hệ chủ yếu, nhóm quan hệ này có những đặc điểm cơ bản: + Chúng phát sinh trực tiếp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; + Chủ thể của nhóm quan hệ này là các doanh nghiệp như các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, các doanh nghiệp tư nhân, đó là quan hệ phát sinh giữa các chủ thể độc lập, bình đẳng với nhau; + Nhóm quan hệ này phát sinh chủ yếu thông qua các hợp đồng kinh tế; + Quan hệ này là quan hệ tài sản. Tuy nhiên, các quan hệ tài sản này khác với quan hệ tài sản trong luật dân sự. Quan hệ tài sản trong luật dân sự được hình thành do nhu cầu tiêu dùng cá nhân và bị chi phối bởi nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Quan hệ tài sản trong luật kinh tế được hình thành do nhu cấu hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do bị chi phối bởi nhu cầu của sản xuất, kinh doanh nên ngoài sự tác động của thị trường, quan hệ kinh tế này còn chịu sự tác động của nhà nước. Vì vậy, trong một số quan hệ kinh tế cụ thể do luật kinh tế điều chỉnh, ngoài yếu tố tài sản -4-
  5. Bài giảng pháp luật kinh tế còn có yếu tố tổ chức kế hoạch nữa. Tuy theo mức độ thể hiện yếu tố tổ chức kế hoạch, quan hệ kinh tế thuộc nhóm này có thể chia thành các nhóm nhỏ sau: . Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhằm thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước; . Quan hệ kinh tế phát sinh giữa các đơn vị kinh tế mà một bên tham gia được giao chỉ tiêu pháp lệnh hoặc cả hai bên tham gia không được giao chỉ tiêu pháp lệnh; - Quan hệ phát sinh giữa cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế đối với các doanh nghiệp. Quan hệ này có đặc điểm là chúng phát sinh trong quá trình quản lí kinh tế. Chủ thể tham gia quan hệ này ở vào vị trí pháp lý không bình đẳng. Một bên là cơ quan quản lí kinh tế cấp trên, một bên là đơn vị kinh tế cấp dưới; - Quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp: Các doanh nghiệp được cấu thành bởi các bộ phận như: phân xưởng, đội sản xuất, Việc sản xuất của các bộ phận này được tiến hành trên cơ sở hạch toán nội bộ hoặc chế độ khoán. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi bộ phận hợp thành có những vai trò khác nhau trong việc tạo ra sản phẩm hay kết quả công việc của đơn vị. Giữa chúng phát sinh những quan hệ nhất định – quan hệ nội bộ. 3. Chủ thể của luật Kinh tế: Mỗi ngành luật có cơ cấu chủ thể khác nhau, điều đó trước hết tuỳ thuộc vào những quan hệ mà ngành luật đó điều chỉnh. Những quan hệ do luật kinh tế điều chỉnh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh, mà hoạt động sản xuất kinh doanh trong xã hội diễn ra rất phong phú, đa dạng dưới nhiều hình thức, quy mô và lĩnh vực khác nhau. Do đó, chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh cũng rất đa dạng, bao gồm nhiều tổ chức, đơn vị, cá nhân. Vì vậy, để xác định chủ thể của luật Kinh tế phải dựa vào những dấu hiệu cơ bản sau: a) Chủ thể của luật Kinh tế phải là đơn vị được thành lập hợp pháp b) Phải có tài sản riêng c) Phải có thẩm quyền kinh tế Căn cứ vào vị trí, vai trò, mức độ tham gia vào các quan hệ kinh tế, chủ thể của luật Kinh tế được phân loại như sau: -5-
  6. Bài giảng pháp luật kinh tế - Chủ thể chủ yếu, thường xuyên của luật kinh tế là các doanh nghiệp, các doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, - Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: Đó là những cơ quan thay mặt nhà nước, nhân danh nhà nước chỉ đạo doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ quan loại này bao gồm các bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật, UBND các cấp, các sở, ban kinh tế ở địa phương. Ngoài những chủ thể trên, trên thực tế chúng ta còn thấy có những tổ chức, đơn vị tuy không có chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng cũng có thể là chủ thể của luật kinh tế. Đó là các tổ chức xã hội, trường học, trong quá trình hoạt động cũng ký kết hợp đồng kinh tế để phục vụ cho hoạt động chính của đơn vị. Khi đó chúng là chủ thể của luật kinh tế. Những chủ thể này không phải là chủ thể chủ yếu, thương xuyên của luật kinh tế vì chúng không tham gia liên tục, thường xuyên vào các quan hệ do luật kinh tế điều chỉnh. 4. Phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế: Xuất phát từ tính chất của những quan hệ kinh tế do luật kinh tế điều chỉnh, để sự tác động của pháp luật có hiệu quả, luật kinh tế sử dụng và phối hợp nhiều phương pháp tác động khác nhau, kết hợp phương pháp quyền uy và phương pháp bình đẳng theo mức độ linh hoạt tuỳ thuộc vào từng quan hệ kinh tế cụ thể a. Phương pháp bình đẳng: Phương pháp này chủ yếu điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp. Đó là các đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập với nhau. Theo phương pháp này, những vấn đề mà các bên tham gia quan tâm đều được giải quyết trên cơ sở bình đẳng, bàn bạc thoả thuận. b. Phương pháp quyền uy: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong lĩnh vực quản lí sản xuất kinh doanh. Chủ thể tham gia quan hệ này ở vào vị trí pháp lí không bình đẳng, một bên là cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế, một bên là các đơn vị kinh tế cơ sở trực thuộc. Bản chất của phương pháp này thể hiện ở chỗ cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế có quyền đưa ra những -6-
  7. Bài giảng pháp luật kinh tế quyết định bát buộc đối với đơn vị kinh tế cơ sở trực thuộc. Ở mức độ nhất định, phương pháp này là cần thiết cho sự quản lí nhà nước. III. Nguồn của luật kinh tế: Nguồn của luật kinh tế là những văn bản pháp luật chứa đựng những quy phạm pháp luật kinh tế, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nguồn của luật kinh tế bao gồm luật và các văn bản dưới luật. 1) Hiến pháp 1992 là đạo luật cơ bản của nhà nước và là nguồn của nhiều ngành luật. Đối vớ luật kinh tế, Hiến pháp có vai trò đặc biệt quan trọng. Những quy định trong Hiến pháp là cơ sở, nguyên tắc chung cho việc xây dựng luật kinh tế. Cụ thể, tại Chương II Hiến pháp 1992 quy định: Chế độ kinh tế, là những quy định mang tính nguyên tắc chỉ đạo việc xác lập các chế định, các quy phạm pháp luật kinh tế cụ thể. 2) Các lụât do Quốc hội thông qua như: Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Phá sản doanh nghiệp 2004, 3) Những Nghị quyết của Quốc hội như Nghị quyết của Quốc hội thông qua phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước 4) Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ quốc hội như Pháp lệnh về quyền sở hữu và bảo vệ công nghệp 5) Nghị quyết, Nghị định, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các văn bản của các Bộ và các uỷ ban của QH. IV. Đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu của luật kinh tế 1. Đối tượng nghiên cứu Môn khoa học luật kinh tế nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau: - Bản chất, đặc điểm của các quy phạm luật kinh tế, sự phát sinh, phát triển của các chế độ pháp lí về quản lí sản xuất kinh doanh và xu hướng phát triển của các quy phạm, các chế định pháp luật kinh tế. Nghĩa là, nghiên cứu các hình thức pháp lí của các quan hệ kinh tế; - Nội dung, đặc điểm của các quan hệ pháp luật kinh tế; - Vấn đề áp dụng luật kinh tế trong thực tiễn sản xuất kinh doanh. Những biện pháp để nâng cao hiệu quả của luật kinh tế; -7-
  8. Bài giảng pháp luật kinh tế - Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và pháp luật kinh tế; 2. Phương pháp nghiên cứu: Cũng giống như các môn khoa học pháp lý khác, khoa học luật kinh tế lấy triết học Mác – Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Đó là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp này được vận dụng cụ thể khi nghiên cứu luật kinh tế là phải xuất phát từ cơ sở kinh tế để phân tích các quy phạm pháp luật, các chế định luật kinh tế trong mối quan hệ biện chứng và thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh. Luật kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế nhưng không phải phản ánh nội dung kinh tế một cách trực tiếp mà thông qua ý chí nhà nước. Ý chí của Nhà nước khi đã trở thành pháp luật không phải chỉ chịu ảnh hưởng của kinh tế mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác. Vì vậy, luật kinh tế không phải là bản sao các hiện tượng kinh tế, không phải bao giờ cũng phù hợp với sự phát triển của sản xuất mà thường đi chậm hơn so với sự phát triển của sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, khi nghiên cứu luật kinh tế phải tính đến sự khác nhau có thể có giữa nội dung kinh tế và hình thức pháp lí của nó. Điều này ở nước ta ít xảy ra, nhiều chế độ, thể lệ, nhiều quy định đã lỗi thời không còn phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhiều hiện tượng kinh tế mới đã xuất hiện nhưng chưa có quy định của pháp luật để điều chỉnh chúng. Nghiên cứu luật kinh tế là nghiên cứu các quy phạm, các chế định pháp luật về quản lí sản xuất kinh doanh để từ đó rút ra những kết luận khoa học góp phần hoàn thiện luật kinh tế. Ngoài ra, còn phải nghiên cứu luật kinh doanh của các nước để tiếp thu những lí luận tiên tiến phục vụ cho việc xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta. Ngoài phương pháp triết học là phương pháp chung, khi nghiên cứu luật kinh tế còn phải vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, Các phương pháp này giúp cho việc nghiên cứu luật kinh tế ở những mức độ khác nhau của các quy phạm, các chế định luật kinh tế. -8-
  9. Bài giảng pháp luật kinh tế CHƯƠNG II PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ HỘ KINH DOANH I. PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN 1. Khái niệm doanh nghiệp tư nhân Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đòi hỏi phải có một khung pháp luật kinh tế hoàn chỉnh, trong đó pháp luật về doanh nghiệp có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, ở Việt Nam, quá trình công nhận hình thức sở hữu tư nhân chiếm một thời gian khá dài trong tương quan so sánh với quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, sự ra đời của các doanh nghiệp đại diện cho hình thức sở hữu này khá muộn so với các hình thức doanh nghiệp đại diện cho các hình thức sở hữu khác. Trước hết, doanh nghiệp tư nhân là "tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" (Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005). Bên cạnh những dấu hiệu chung để nhận biết một doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân có những nét rất đặc thù mà thông qua đó có thể phân biệt được doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác. Để làm rõ các khía cạnh pháp lý cơ bản của doanh nghiệp tư nhân, Điều 141 Luật doanh nghiệp năm 2005 định nghĩa: "Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp; doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kì một loại chứng khoán nào; mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân". 2. Đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp tư nhân a. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ Là một trong năm loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân có những đặc điểm chung cũng như những nét phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Điểm phân biệt đầu tiên và cũng là rõ nét nhất là doanh nghiệp tư nhân chỉ do một cá nhân làm chủ. Theo Pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân được xếp vào nhóm các doanh nghiệp một chủ sở hữu. Các doanh nghiệp một chủ bao gồm: Công ty Nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ và doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, ngay trong nhóm các doanh nghiệp một chủ, doanh nghiệp tư nhân cũng mang những nét khác biệt, đó là loại hình doanh nghiệp này chỉ do một cá nhân duy nhất làm chủ sở hữu. Như vậy, trong doanh nghiệp tư nhân không xuất hiện sự góp vốn như ở các Công -9-
  10. Bài giảng pháp luật kinh tế ty nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp xuất phát từ tài sản cuả một cá nhân duy nhất. Từ đặc điểm này có thể thấy rằng doanh nghiệp tư nhân bao hàm trong nó những đặc trưng nhất định giúp phân biệt loại hình doanh nghiệp tư nhân với các loại hình khác. Cụ thể: - Về quan hệ sở hữu vốn trong doanh nghiệp: Nguồn vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân xuất phát chủ yếu từ tài sản của một cá nhân, phần vốn này sẽ do chủ doanh nghiệp tự khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh (gọi là vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân) và được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán của doanh nghiệp. Như vậy, cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân đưa vào kinh doanh một số vốn nhất định trong khối tài sản thuộc sở hữu của cá nhân mình và về nguyên tắc, tài sản đưa vào kinh doanh đó là tài sản của doanh nghiệp tư nhân. Nhưng trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn có quyền tăng giảm vốn đầu tư, chỉ phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh trong trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng ký. - Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lý: Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, vì vậy cá nhân có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể tự mình quản lý doanh nghiệp hoặc thuê người khác quản lý doanh nghiệp. Trong trường hợp thuê người quản lý, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước mọi hành động của doanh nghiệp dưới sự quản lý, điều hành của người được thuê. - Về phân phối lợi nhuận: Vấn đề phân chia lợi nhuận không đặt ra đối với doanh nghiệp tư nhân, bởi lẽ doanh nghiệp này chỉ có một chủ sở hữu và toàn bộ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thuộc về một mình chủ doanh nghiệp, sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước và các bên thứ ba. Đây cũng là một ưu điểm khi kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp một chủ. b. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân: Doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân. Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp duy nhất không có tư cách pháp nhân. Trước đây, Luật doanh nghiệp không quy định tư cách pháp nhân cho doanh nghiệp tư nhân cũng như Công ty hợp danh với lý do chủ yếu liên quan đến quan hệ vốn và tài sản giữa chủ doanh nghiệp tư nhân; các thành viên hợp danh và doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân cũng như Công ty hợp danh không có sự độc lập về tài sản. Việc không phải là pháp nhân, doanh -10-
  11. Bài giảng pháp luật kinh tế nghiệp tư nhân cũng gặp phải một số khó khăn nhất định và bị hạn chế ít nhiều trong hoạt động thương mại dưới sự điều chỉnh của pháp luật hiện hành. c. Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân Đối với chủ doanh nghiệp tư nhân, do tính chất độc lập về tài sản của doanh nghiệp tư nhân - người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro của doanh nghiệp sẽ phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn. Chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng ký không đủ để trang trải các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân. Một doanh nghiệp tư nhân không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản thì tất cả những tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân đều nằm trong diện tài sản phá sản của doanh nghiệp. 3. Quy chế pháp lí về hình thành và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân a. Đăng ký kinh doanh doanh nghiệp tư nhân * Điều kiện đăng ký kinh doanh Theo quy định của Pháp luật hiện hành, để một doanh nghiệp tư nhân được đăng ký kinh doanh, cần hội đủ những điều kiện nhất định. Cụ thể: - Điều kiện về chủ thể Xuất phát từ việc doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân duy nhất làm chủ, cá nhân này chính là người trực tiếp thành lập và quản lý doanh nghiệp tư nhân, cho nên, điều kiện để trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân cũng chính là các điều kiện được quy định tại Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005. Theo đó, một số cá nhân sau đây không thể trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân: + Cán bộ, công chức; + Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị trực thuộc quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân; + Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu Nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; + Người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; -11-
  12. Bài giảng pháp luật kinh tế + Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị tòa án cấm hành nghề kinh doanh. + Các trường hợp khác theo quy định của Pháp luật về phá sản. - Điều kiện về vốn: Trước đây, theo quy định của Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 thì vốn pháp định là một điều kiện bắt buộc cho mỗi chủ thể đầu tư khi muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp năm 1999 đã bỏ quy định về vốn pháp định như một điều kiện để thành lập doanh nghiệp tư nhân, trừ một số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong những ngành nghề mang tính chất đặc thù thuộc hạng mục phải đáp ứng điều kiện về vốn pháp định. Luật doanh nghiệp năm 2005, về nguyên tắc vẫn không quy định vốn pháp định đối với tất cả các ngành nghề kinh doanh, trừ một số ngành nghề đặc biệt. Như vậy, để thành lập một doanh nghiệp tư nhân, chủ đầu tư không phải đáp ứng điều kiện bắt buộc về một số vốn tối thiểu phải có nếu doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh trong những ngành nghề thuộc danh mục phải có vốn quy định. Tuy nhiên, đã là đăng ký để thực hiện hoạt động kinh doanh thì phải có vốn. Vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân sẽ do chủ doanh nghiệp tư nhân tự khai và chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn ban đầu này. - Các điều kiện khác: Ngoài hai điều kiện quan trọng là điều kiện về chủ thể có quyền thành lập doanh nghiệp và điều kiện về vốn, các điều kiện khác như điều kiện về ngành nghề kinh doanh, điều kiện về tên doanh nghiệp cũng đóng góp những phần không nhỏ để làm căn cứ xét tính hợp pháp của việc đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp tư nhân. Thứ nhất, điều kiện về ngành nghề kinh doanh Đối với điều kiện về ngành nghề kinh doanh, pháp luật quy định, doanh nghiệp được kinh doanh trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Về cơ bản, ngành nghề kinh doanh được chia theo các nhóm: Nhóm ngành nghề kinh doanh tự do, nhóm ngành nghề kinh doanh có điều kiện (phải có chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề) và nhóm ngành nghề kinh doanh bị cấm. Như vậy, chủ đầu tư có thể lựa chọn bất cứ ngành nghề nào nằm ngoài nhóm ngành nghề bị cấm kinh doanh, đặc biệt, đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì việc chọn ngành nghề kinh doanh được coi là hợp pháp khi chủ đầu tư đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của pháp luật liên quan đến ngành nghề đó. -12-
  13. Bài giảng pháp luật kinh tế Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ - CP của Chính Phủ quy định ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức: - Giấy phép kinh doanh; - Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh; - Chứng chỉ hành nghề; - Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; - Xác nhận vốn pháp định; - Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; - Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được quyền kinh doanh ngành, nghề đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều 9 Nghị định 102/2010/NĐ - CP của Chính Phủ quy định về ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề cụ thể như sau: - Chứng chỉ hành nghề quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật Doanh nghiệp là văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc hiệp hội nghề nghiệp được Nhà nước ủy quyền cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về một ngành, nghề nhất định. Chứng chỉ hành nghề được cấp ở nước ngoài không có hiệu lực thi hành tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành hoặc Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác. - Ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề và điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề tương ứng áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan. - Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề phải có chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật, việc đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký bổ sung ngành, nghề kinh doanh đó phải thực hiện theo quy định dưới đây: -13-
  14. Bài giảng pháp luật kinh tế + Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật yêu cầu Giám đốc doanh nghiệp hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề, Giám đốc của doanh nghiệp hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh đó phải có chứng chỉ hành nghề. + Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật yêu cầu Giám đốc và người khác phải có chứng chỉ hành nghề, Giám đốc của doanh nghiệp đó và ít nhất một cán bộ chuyên môn theo quy định của pháp luật chuyên ngành đó phải có chứng chỉ hành nghề. + Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật không yêu cầu Giám đốc hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề, ít nhất một cán bộ chuyên môn theo quy định của pháp luật chuyên ngành đó phải có chứng chỉ hành nghề. Thứ hai, điều kiện về tên doanh nghiệp Với điều kiện về tên doanh nghiệp : Tên doanh nghiệp phải viết được bằng các chữ cái trong Bảng chữ cái tiếng Việt, có thể kèm theo các chữ cái F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu, phát âm được và bao gồm hai thành tố sau đây: - Loại hình doanh nghiệp, bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, cụm từ trách nhiệm hữu hạn có thể viết tắt là TNHH; công ty cổ phần, cụm từ cổ phần có thể viết tắt là CP; công ty hợp danh, cụm từ hợp danh có thể viết tắt là HD; doanh nghiệp tư nhân, cụm từ tư nhân có thể viết tắt là TN; - Tên riêng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ được sử dụng ngành, nghề kinh doanh, hình thức đầu tư để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có đăng ký ngành, nghề đó hoặc thực hiện đầu tư theo hình thức đó. Tên tập đoàn kinh tế nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Như vậy, với quy định này, tên của tất cả các doanh nghiệp tư nhân đều phải kèm theo cụm từ "doanh nghiệp tư nhân". Ngoài ra, pháp luật còn nêu ra một số trường hợp cấm trong khi lựa chọn tên cho doanh nghiệp như: Không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký; không được sử dụng tên cơ quan Nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó; không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc để đặt tên riêng cho doanh nghiệp. Ngoài -14-
  15. Bài giảng pháp luật kinh tế ra, pháp luật cũng cho phép các doanh nghiệp được dịch tên doanh nghiệp sang tiếng nước ngoài hoặc viết tắt, tuy nhiên trong mọi trường hợp vẫn phải thể hiện đầy đủ tên doanh nghiệp bằng Tiếng Việt trên biển hiệu của doanh nghiệp. * Hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp Với tư cách là một trong những loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân cũng phải tuân theo quy trình, cách thức, các bước giống như việc đăng ký doanh nghiệp cho các loại hình Công ty. Cụ thể như sau * Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân 1. Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp; 2. Bản sao hợp lệ của một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân hợp pháp của chủ doanh nghiệp tư nhân quy định tại Điều 24 Nghị định này; 3. Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định; 4. Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một hoặc một số cá nhân theo quy định đối với doanh nghiệp tư nhân kinh doanh các ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. * Trình tự, thủ tục đăng ký doang nghiệp Tiếp nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp Bước 1: Người thành lập doanh nghiệp hoặc người đại diện theo ủy quyền nộp hồ sơ theo quy định tại Nghị định này tại Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Bước 2: Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được tiếp nhận để nhập thông tin vào Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia khi: a) Có đủ giấy tờ theo quy định tại Nghị định này; b) Tên doanh nghiệp đã được điền vào Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy đề nghị chuyển đổi doanh nghiệp; c) Có địa chỉ liên lạc của người nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp ; d) Đã nộp lệ phí đăng ký doanh nghiệp theo quy định. Bước 3: Sau khi tiếp nhận hồ sơ, Phòng Đăng ký kinh doanh phải trao Giấy biên nhận về việc nhận hồ sơ cho người nộp hồ sơ. Bước 4 : Sau khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, Phòng đăng ký kinh doanh kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và nhập đầy đủ, chính xác thông tin trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp vào Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ hoặc tên doanh nghiệp yêu cầu đăng ký không đúng theo quy định, Phòng Đăng ký kinh doanh phải thông báo rõ nội dung -15-
  16. Bài giảng pháp luật kinh tế cần sửa đổi, bổ sung bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ. Trường hợp đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử, cơ quan đăng ký kinh doanh thông báo qua mạng điện tử cho cá nhân, tổ chức đã đăng ký doanh nghiệp thời điểm trả kết quả đăng ký doanh nghiệp hoặc các nội dung cần bổ sung, sửa đổi (nếu có). Quy trình phối hợp tạo và cấp mã số doanh nghiệp Khi hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định, thông tin về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được chuyển sang cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính). Trong thời hạn hai ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông tin từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Tổng cục Thuế có trách nhiệm tạo mã số doanh nghiệp và chuyển mã số doanh nghiệp sang Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp để Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp cho doanh nghiệp. Thông tin về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sẽ được chuyển sang Tổng cục Thuế. Trường hợp Tổng cục Thuế từ chối cấp mã số cho doanh nghiệp thì phải gửi thông báo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó nói rõ lý do từ chối để chuyển cho cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thông báo cho doanh nghiệp. * Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử là việc người thành lập doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký doanh nghiệp thông qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Phòng đăng ký kinh doanh tiếp nhận hồ sơ, xem xét hồ sơ, hướng dẫn sửa đổi, bổ sung hồ sơ và thông báo kết quả giải quyết thủ tục đăng ký doanh nghiệp qua Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Trường hợp người thành lập doanh nghiệp chưa có chữ ký điện tử, việc đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử có thể được thực hiện theo quy trình sau: sau khi hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được chấp thuận trên Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, doanh nghiệp sẽ in Giấy xác nhận nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử từ Hệ thống này. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ký tên vào Giấy xác nhận nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử và gửi đến Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Sau khi nhận được Giấy xác nhận nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử của doanh nghiệp, Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh xem xét cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp nộp qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia có giá trị pháp lý như hồ sơ nộp bằng bản giấy. *Thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, chia, -16-
  17. Bài giảng pháp luật kinh tế tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi doanh nghiệp, đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, thông báo lập địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu quá thời hạn trên mà không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc không nhận được thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp thì người thành lập doanh nghiệp có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. *Cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 24 của Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trực tiếp tại Cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký và trả phí để nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp qua dịch vụ chuyển phát. Kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh ngành, nghề yêu cầu phải có điều kiện. Doanh nghiệp có quyền yêu cầu Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và phải trả phí theo quy định. Khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới trong trường hợp đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp phải nộp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũ hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũ hoặc giấy tờ tương đương khác. * Hiệu đính thông tin trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Trường hợp phát hiện nội dung trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chưa chính xác so với nội dung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp thì doanh nghiệp có quyền gửi thông báo yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh hiệu đính nội dung trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho phù hợp với hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đã nộp. Cơ quan đăng ký kinh doanh nhận thông báo, kiểm tra hồ sơ và thực hiện việc cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp trong thời hạn hai ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nếu thông tin trong thông báo của doanh nghiệp là chính xác. *Cung cấp thông tin về nội dung đăng ký doanh nghiệp Định kỳ vào tuần thứ hai hàng tháng, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh gửi danh sách kèm thông tin về các doanh nghiệp đã đăng ký trong tháng trước đó đến cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật cùng cấp, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện. Ở những nơi có điều kiện về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin thì có thể thực hiện việc trao đổi thông tin về đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử. Các tổ chức, cá nhân có thể đề nghị cơ quan đăng ký kinh doanh cung cấp thông tin về nội dung đăng ký doanh nghiệp lưu giữ tại Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia và phải trả phí theo quy định. *Lệ phí đăng ký doanh nghiệp -17-
  18. Bài giảng pháp luật kinh tế Người thành lập doanh nghiệp phải nộp lệ phí đăng ký doanh nghiệp tại thời điểm nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Lệ phí đăng ký doanh nghiệp có thể được nộp trực tiếp tại cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc chuyển vào tài khoản của cơ quan đăng ký kinh doanh. Lệ phí đăng ký doanh nghiệp sẽ không được hoàn trả cho doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn mức lệ phí và việc sử dụng lệ phí đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh, đảm bảo bù đắp một phần chi phí cho hoạt động của cơ quan đăng ký kinh doanh. Tỷ lệ trích để lại cho cơ quan đăng ký kinh doanh không thấp hơn 50% tổng số tiền thu được từ lệ phí đăng ký doanh nghiệp. Mức lệ phí đăng ký doanh nghiệp được thực hiện theo quy định của pháp luật b. Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân: * Giải thể doanh nghiệp tư nhân: Với tư cách là một loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân cũng có cùng một quy chế giải thể chung với các loại hình doanh nghiệp khác như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và Công ty hợp danh. Tuy nhiên, ngoài những quy định chung, xét riêng đối với doanh nghiệp tư nhân, quy chế giải thể cũng có một số điểm khác biệt. Theo Điều 157 Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân giải thể theo các trường hợp sau đây: Thứ nhất, theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân có thể coi đây là trường hợp giải thể tự nguyện. Với quy định này, Luật doanh nghiệp trao cho chủ doanh nghiệp tư nhân được quyết định việc có giải thể doanh nghiệp hay không, có nghĩa là lí do giải thể ở đây sẽ phụ thuộc vào ý chí và sự lựa chọn rộng rãi của chủ doanh nghiệp tư nhân. Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân có thể giải thể doanh nghiệp với bất cứ lý do gì, khi cho rằng sự tồn tại của doanh nghiệp tư nhân là không còn có lợi Điều này cũng đảm bảo được một cách cao hơn quyền tự do kinh doanh và sở hữu doanh nghiệp của các nhà đầu tư. Thứ hai, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Luật doanh nghiệp quy định trường hợp giải thể bắt buộc đối với doanh nghiệp tư nhân bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Việc quy định này xuất phát từ việc đảm bảo tính pháp chế tuyệt đối trong việc áp dụng Luật. Đây là trường hợp giải thể bắt buộc. Bị thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh cũng có nghĩa là Nhà nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh đối với doanh nghiệp tư nhân. Lúc này, doanh nghiệp tư nhân không còn thẩm quyền kinh tế, nghĩa là -18-
  19. Bài giảng pháp luật kinh tế không còn được tiến hành các hoạt động kinh doanh. Mục đích của việc thành lập doanh nghiệp không có cơ hội để thực hiện nữa. Vì vậy, sự tồn tại của doanh nghiệp này cũng không có ý nghĩa. Điều 158 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định rất rõ về thủ tục giải thể doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể, thủ tục giải thể một doanh nghiệp tư nhân gồm có 3 bước: - Bước 1: Chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định giải thể doanh nghiệp. - Bước 2: Chủ doanh nghiệp trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp. - Bước 3: Trong thời hạn 7 ngày làm việc, phải tiến hành gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh và thông báo giải thể đến tất cả những người có quyền và lợi ích liên quan, các chủ nợ của doanh nghiệp (kèm theo phương án giải quyết nợ), tiến hành thông báo công khai về việc giải thể thông qua việc niêm yết quyết định giải thể tại trụ sở chính của doanh nghiệp và đăng báo địa phương hoặc trung ương trong 3 số liên tiếp (nếu pháp luật quy định phải đăng báo). - Bước 4: Trong thời hạn 7 ngày kể từ sau khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp, người đại diện cho doanh nghiệp phải gửi hồ sơ về giải thể doanh nghiệp tư nhân đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ về giải thể doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh phải xóa tên doanh nghiệp tư nhân đó trong sổ đăng ký kinh doanh. Đây là hành vi pháp lý cuối cùng chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp tư nhân với tư cách là một doanh nghiệp. * Phá sản doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp tư nhân lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn. Doanh nghiệp tư nhân là một trong những đối tượng áp dụng của Luật phá sản năm 2004, vì thế khi doanh nghiệp tư nhân lâm vào tình trạng phá sản, nó sẽ được áp dụng các quy định của Luật phá sản năm 2004 để giải quyết. Được áp dụng Luật phá sản năm 2004 để giải quyết việc thanh toán nợ với các chủ nợ, doanh nghiệp tư nhân có những lợi ích nhất định, đó là việc chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ thanh toán các khoản nợ theo quy định của pháp luật phá sản cho đến hết tài sản hiện có của doanh nghiệp. Sau khi thủ tục phá sản chấm dứt, tùy từng trường hợp theo quy định của pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ với các khoản nợ còn chưa thanh toán hết với các chủ nợ. -19-
  20. Bài giảng pháp luật kinh tế II. PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH 1. Khái niệm hộ kinh doanh : Như vậy, hộ kinh doanh là tên gọi để chỉ những cá nhân kinh doanh hoặc hộ gia đình kinh doanh không dưới danh nghĩa một doanh nghiệp. Hộ kinh doanh không thể hiểu là một nhóm kinh doanh như bản chất của nhóm kinh doanh trước đây, bởi hộ kinh doanh cá thể chỉ chấp nhận chủ đầu tư hoặc là một cá nhân duy nhất hoặc một hộ gia đình (đáp ứng các tiêu chuẩn của một hộ gia đình theo quy định của pháp luật). Hộ kinh doanh cá thể theo quy định của Nghị định của Chính phủ số 02/2000/NĐ-CP không bao gồm các hộ gia đình sản xuất nông, lâm ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, làm dịch vụ có thu nhập thấp. Những đối tượng này không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh mặc dù vẫn có thể tiến hành các hoạt động mang tính chất kinh doanh thu lợi nhuận, ví dụ như bán các sản phẩm do mình tạo ra hoặc mua đi bán lại những mặt hàng nhỏ lẻ, không có giá trị đáng kể hoặc thực hiện những dịch vụ có thu nhập thấp để kiếm lời. Quy định này phân chia các đối tượng thực hiện kinh doanh dựa trên quy mô kinh doanh, ở tầm doanh nghiệp, có doanh nghiệp tư nhân; ở tầm quy mô thấp hơn và không kinh doanh dưới danh nghĩa doanh nghiệp thì có hộ kinh doanh cá thể; cuối cùng, với một quy mô quá nhỏ lẻ và các đối tượng có tính chất giống với hộ kinh doanh cá thể nhưng không phải đăng ký kinh doanh. Nghị định của Chính phủ số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004 về đăng ký kinh doanh thay thế Nghị định của Chính phủ số 02/2000/NĐ-CP đã đưa ra một định nghĩa mới về hộ kinh doanh cá thể: Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá 10 lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Nghị định số 43/2010/NĐ-CP của Chính Phủ được ban hành đã đưa ra một khái niệm mới về hộ kinh doanh: “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. 2. Đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh: a. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ: -20-
  21. Bài giảng pháp luật kinh tế Tên gọi chung là hộ kinh doanh nhưng kinh doanh dưới hình thức này có thể do một cá nhân duy nhất hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình. Vốn kinh doanh ban đầu của hộ kinh doanh là vốn của một cá nhân duy nhất hoặc vốn chung của một nhóm người hoặc một hộ gia đình. b. Hộ kinh doanh thường kinh doanh với quy mô nhỏ hẹp: Đối với các loại hình doanh nghiệp, pháp luật không thể đưa ra một hạn chế nào trong việc các doanh nghiệp sử dụng bao nhiêu lao động, việc sử dụng lao động làm thuê có diễn ra thường xuyên hay không cũng như việc doanh nghiệp có bao nhiêu cơ sở sản xuất và kinh doanh. Không giống như vậy, đối với hộ kinh doanh, pháp luật đưa ra một số dấu hiệu nhận biết loại hình kinh doanh này chủ yếu dựa vào những đặc điểm làm cho hộ kinh doanh dường như có quy mô nhỏ hẹp. Những dấu hiệu mà pháp luật lựa chọn là địa điểm kinh doanh; số lượng lao động mà hộ gia đình sử dụng; con dấu riêng. Mặc dù được phân biệt với các loại hình doanh nghiệp bởi quy mô kinh doanh nhỏ hẹp nhưng hộ kinh doanh không phải là đối tượng có quy mô kinh doanh nhỏ nhất. Loại hình kinh doanh này vẫn được coi là có quy mô kinh doanh lớn hơn và ổn định hơn so với một số hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, làm dịch vụ có thu nhập thấp. Những đối tượng trên đây không phải đăng ký kinh doanh mặc dù vẫn thực hiện hành vi mua bán hàng hóa để kiếm lời. Dấu hiệu để phân biệt những đối tượng này với hộ kinh doanh đó là mức thu nhập thấp. Mức thu nhập được coi là thấp theo quy định cụ thể của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tuy nhiên, mức thu nhập này không được vượt quá mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao. c. Chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh: Cũng giống như đối với chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ kinh doanh sẽ chịu chế độ trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh của hộ, có nghĩa là, chủ hộ không chỉ chịu trách nhiệm bằng phần vốn và tài sản dùng để trực tiếp kinh doanh mà còn phải chịu nghĩa vụ trên phần tài sản thuộc sở hữu của mình mặc dù không đưa vào kinh doanh trong trường hợp số nợ lớn hơn số vốn kinh doanh của hộ. Nếu chủ hộ là một hộ gia đình hoặc một nhóm người, mỗi thành viên sẽ chịu trách nhiệm vô hạn bằng tất cả tài sản của mình, cụ thể, nếu số vốn chung không đủ để trả nợ thì mỗi thành viên sẽ đóng góp thêm bằng tài sản riêng của mình hoặc tài sản dân sự chung của cả hộ để trả nợ. Việc góp thêm này sẽ chỉ chấm dứt khi số nợ của cả hộ kinh doanh được trả hết. Mức góp của mỗi thành viên có thể đồng đều hoặc khác nhau phụ thuộc vào thỏa thuận của hộ gia đình nhưng trong mọi trường -21-
  22. Bài giảng pháp luật kinh tế hợp, các thành viên phải có trách nhiệm thanh toán hết nợ cho các chủ nợ. Nếu một trong các thành viên không có khả năng góp thêm để trả nợ như thỏa thuận của hộ thì các thành viên khác có nghĩa vụ phải lấy tài sản của mình để tiếp tục trả nợ. Quan hệ nợ nần chỉ được coi như chấm dứt khi hộ kinh doanh đã thanh toán hết các khoản nợ. 3. Đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh: a. Điều kiện đăng ký kinh doanh: Không phải là một trong các loại hình doanh nghiệp nhưng để có tư cách một chủ thể kinh doanh, hộ kinh doanh vẫn phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh nhằm tạo ra quyền hoạt động kinh doanh cho mình. Nghị định của Chính phủ số 88/2006/NĐ-CP quy định các điều kiện để đăng ký kinh doanh đối với một hộ kinh doanh. Về cơ bản, các điều kiện này cũng bao gồm điều kiện về chủ thể, điều kiện về ngành nghề kinh doanh và một số điều kiện khác. Pháp luật cho phép tất cả công dân Việt Nam có đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; các hộ gia đình đều có quyền tham gia đăng ký kinh doanh loại hình hộ kinh doanh, trừ những người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị tòa án tước quyền hành nghề. Pháp luật quy định mỗi một cá nhân hoặc một hộ gia đình chỉ được đăng ký kinh doanh đối với một hộ kinh doanh. Theo nguyên tắc, các chủ đầu tư chỉ được đăng ký kinh doanh cho hộ kinh doanh với những ngành nghề kinh doanh không bị pháp luật cấm, với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì các chủ hộ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện này. Hộ kinh doanh có tên gọi riêng. Tên hộ kinh doanh bao gồm hai thành tố sau đây: - Loại hình “Hộ kinh doanh”; - Tên riêng của hộ kinh doanh . Tên riêng phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số, ký hiệu, và phát âm được. - Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc để đặt tên riêng cho hộ kinh doanh. - Tên riêng hộ kinh doanh không được trùng với tên riêng của hộ kinh doanh đã đăng ký trong phạm vi huyện. -22-
  23. Bài giảng pháp luật kinh tế b. Thủ tục đăng ký kinh doanh: Cá nhân, nhóm cá nhân hoặc người đại diện hộ gia đình gửi Giấy đề nghị đăng ký hộ kinh doanh đến cơ quan Đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đặt địa điểm kinh doanh. Nội dung Giấy đề nghị đăng ký hộ kinh doanh gồm: - Tên hộ kinh doanh, địa chỉ địa điểm kinh doanh; - Ngành, nghề kinh doanh; - Số vốn kinh doanh; - Họ, tên, số và ngày cấp Giấy chứng minh nhân dân, địa chỉ nơi cư trú và chữ ký của các cá nhân thành lập hộ kinh doanh đối với hộ kinh doanh do nhóm cá nhân thành lập, của cá nhân đối với hộ kinh doanh do cá nhân thành lập hoặc đại diện hộ gia đình đối với trường hợp hộ kinh doanh do hộ gia đình thành lập. - Kèm theo Giấy đề nghị đăng ký hộ kinh doanh phải có bản sao Giấy chứng minh nhân dân của các cá nhân tham gia hộ kinh doanh hoặc người đại diện hộ gia đình và Biên bản họp nhóm cá nhân về việc thành lập hộ kinh doanh đối với trường hợp hộ kinh doanh do một nhóm cá nhân thành lập. - Đối với những ngành, nghề phải có chứng chỉ hành nghề, thì kèm theo các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này phải có bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của cá nhân hoặc đại diện hộ gia đình. - Đối với những ngành, nghề phải có vốn pháp định thì kèm theo các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này phải có bản sao hợp lệ văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Khi tiếp nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện trao Giấy biên nhận và cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cho hộ kinh doanh trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, nếu có đủ các điều kiện sau đây: - Ngành, nghề kinh doanh không thuộc danh mục ngành, nghề cấm kinh doanh; - Tên hộ kinh doanh dự định đăng ký phù hợp quy định tại Điều 56 Nghị định này; - Nộp đủ lệ phí đăng ký theo quy định. Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung bằng văn bản cho người thành lập hộ kinh doanh. Nếu sau năm ngày làm việc, kể từ ngày nộp hồ sơ đăng ký hộ kinh doanh mà không nhận được Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc không nhận được -23-
  24. Bài giảng pháp luật kinh tế thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký hộ kinh doanh thì người đăng ký hộ kinh doanh có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Định kỳ vào tuần thứ nhất hàng tháng, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện gửi danh sách hộ kinh doanh đã đăng ký tháng trước cho cơ quan thuế cùng cấp, Phòng Đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật cấp tỉnh. Hộ kinh doanh có quyền hoạt động kinh doanh kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh phải có điều kiện. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, hộ kinh doanh sẽ bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh trong các trường hợp sau đây: - Không tiến hành hoạt động kinh doanh trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; - Ngừng hoạt động kinh doanh quá 60 ngày liên tục mà không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đăng ký kinh doanh; - Chuyển địa điểm kinh doanh sang quận, huyện khác; - Kinh doanh ngành, nghề bị cấm. Hộ kinh doanh bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ không có quyền tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh và có thể coi như bị giải thể. -24-
  25. Bài giảng pháp luật kinh tế CHƯƠNG III PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY A. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY I . KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CÔNG TY: Trong khoa học pháp lý, các nhà luật học đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về Công ty. Nhà luật học Kubler Cộng hòa Liên ban Đức quan niệm rằng: "Khái niệm Công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt động để đạt một mục tiêu chung nào đó". Bộ Luật dân sự Cộng hòa Pháp quy định: "Công ty là một hợp đồng thông qua đó hai hay nhiều người thỏa thuận với nhau sử dụng tài sản hay khả năng của mình vào một hoạt động chung nhằm chia lợi nhuận thu được qua hoạt động đó". Điều 2 Luật Công ty năm 1990 của Việt Nam tuy không đưa ra một khái niệm chung về Công ty nhưng qua định nghĩa về Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn thì: "Công ty là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào Công ty". Theo các định nghĩa trên thì Công ty có ba đặc điểm cơ bản: - Sự liên kết của hai hay nhiều người hoặc tổ chức; - Sự liên kết được thực hiện thông qua một sự kiện pháp lý (hợp đồng, điều lệ, quy chế); - Sự liên kết nhằm mục đích chung. Có nhiều sự liên kết giống Công ty nhưng không do luật Công ty điều chỉnh. Ví dụ: Cộng đồng thừa kế, các hiệp hội. Theo khái niệm trên thì sẽ có rất nhiều loại Công ty với các mục đích khác nhau, trong đó có các loại Công ty thương mại hay Công ty kinh doanh là loại phổ biến, ngoài ra, còn có các Công ty dân sự. Trong giáo trình này chỉ đề cập Công ty thương mại. -25-
  26. Bài giảng pháp luật kinh tế Công ty thương mại là loại Công ty do hai hay nhiều người (tổ chức) góp vốn thành lập để kinh doanh với mục đích kiếm lợi nhuận. Từ khái niệm trên Công ty kinh doanh có những đặc điểm cơ bản: - Công ty là sự liên kết của nhiều cá nhân hoặc pháp nhân, sự liên kết này thể hiện ở hình thức bên ngoài là một tổ chức. - Các thành viên bỏ ra một số tài sản của mình để góp vào Công ty. Đây là điều kiện quan trọng để thành lập Công ty. Tuy nhiên, vai trò của vốn góp đối với các loại Công ty là khác nhau. - Mục đích của việc thành lập Công ty là để kinh doanh kiếm lời chia nhau. Như vậy, về thực chất Công ty kinh doanh là một loại hình doanh nghiệp có sự liên kết của ít nhất là hai bên, các bên tham gia có thể là thể nhân, pháp nhân, nó hoàn toàn khác với doanh nghiệp một chủ sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống pháp luật của một số quốc gia trong đó có Việt Nam đã quy định Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Mặc dù vậy, dấu hiệu sự liên kết vẫn là đặc điểm phổ biến, cơ bản của các loại hình Công ty. II. CÁC LOẠI HÌNH CÔNG TY PHỔ BIẾN TRÊN THẾ GIỚI: Qua bao nhiêu năm tồn tại và phát triển, Công ty có nhiều loại hình khác nhau, có những loại hiện vẫn tồn tại và có xu hướng phát triển, có những loại không phát triển nữa và có xu hướng mất dần. Trong giáo trình này chỉ trình bày những loại chính. Căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên Công ty và í chí của nhà lập pháp, dưới góc độ pháp lý người ta chia Công ty thành hai loại cơ bản là: - Công ty đối nhân; - Công ty đối vốn. 1. Công ty đối nhân: Công ty đối nhân là những Công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia, sự hùn vốn là yếu tố thứ yếu. Công ty đối nhân có đặc điểm quan trọng là không có sự tách bạch về tài sản cá nhân các thành viên và tài sản của Công ty. Các thành viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn, đối với mọi khoản nợ của Công ty hoặc ít nhất phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của Công ty. Các thành viên -26-
  27. Bài giảng pháp luật kinh tế có tư cách thương gia độc lập và phải chịu thuế thu nhập cá nhân, bản thân Công ty không bị đánh thuế. Công ty đối nhân thường tồn tại dưới hai dạng cơ bản: - Công ty hợp danh; - Công ty hợp vốn đơn giản. a. Công ty hợp danh: Công ty hợp danh là loại hình Công ty trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của Công ty. Công ty hợp danh này còn gọi là Công ty góp danh là loại hình đặc trưng của Công ty đối nhân. Xét về mặt lịch sử thì Công ty hợp danh ra đời sớm nhất, trên thực tế Công ty này được thành lập trong dòng họ gia đình. Do tính chất liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên các thành viên phải thật sự hiểu biết nhau, tin tưởng nhau "sống chết có nhau". Điều đó phản ánh tâm lý của các thương gia khi hùn vốn với nhau để kinh doanh. Việc thành lập Công ty trên cơ sở hợp đồng giữa các thành viên. Hợp đồng thành lập Công ty nói chung được lập thành văn bản, tuy nhiên, luật không bắt buộc phải làm như vậy. Các bên có thể thỏa thuận miệng, thậm chí không cần tuyên bố rõ, mà chỉ cần có những hoạt động chung thì Công ty cũng được coi là đã thành lập. Về nguyên tắc, hợp đồng thành lập phải được đăng ký vào danh bạ thương mại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hợp đồng tuy không được đăng ký nhưng được thông báo rộng rãi thì vẫn có giá trị pháp lý. Trong hợp đồng, điều quan trọng là sự thỏa thuận về trách nhiệm của các thành viên. Một Công ty hợp danh được thành lập nếu ít nhất có 2 thành viên thỏa thuận với nhau cùng chịu trách nhiệm vô hạn. Vấn đề trách nhiệm, các thành viên phải cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm vô hạn, điều đó được thể hiện ở các đặc trưng sau: - Các thành viên chịu trách nhiệm một cách trực tiếp cơ bản, vì chủ nợ có quyền đòi bất kỳ ai với toàn bộ số tiền nợ. - Trách nhiệm này không thể bị giới hạn đối với bất kỳ thành viên nào. Nếu họ có thỏa thuận khác, lập tức Công ty sẽ chuyển sang loại hình Công ty hợp vốn đơn giản. -27-
  28. Bài giảng pháp luật kinh tế - Trong Công ty hợp danh không có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản Công ty và tài sản cá nhân. Sự chuyển dịch quyền sở hữu đối với khối tài sản chung sang tài sản riêng rất đơn giản và nói chung khó kiểm soát. Về nguyên tắc, ngay khi thành viên chưa được hưởng chút lợi nhuận nào thì vẫn phải chịu trách nhiệm. Vì vậy, khả năng rủi ro và nguy hiểm đối với từng thành viên rất lớn. Nếu Công ty thua lỗ họ rất dễ bị khánh kiệt gia sản. - Tuy nhiên, lợi thế của Công ty là khả năng dễ dàng được ngân hàng cho vay vốn hoặc hoãn nợ, bởi tính chịu trách nhiệm vô hạn đã là sự bảo đảm rồi. Do tính an toàn pháp lý đối với công chúng cao nên Công ty hợp danh chịu ít quy định pháp lý ràng buộc. Pháp luật dành quyền rộng rãi cho các thành viên thỏa thuận, quy định ràng buộc duy nhất là tính chịu trách nhiệm vô hạn. Về tổ chức, Công ty hợp danh rất đơn giản. Các thành viên có quyền thỏa thuận trong hợp đồng về việc tổ chức, điều hành, đại diện của Công ty. Công ty hợp danh được tổ chức dưới hình thức một hãng chung. Hãng này thường mang tên của một thành viên hoặc tất cả thành viên. Hầu hết pháp luật các nước đều quy định Công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân (Luật doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam quy định Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân). Dưới hình thức một hãng, Công ty hợp danh có tư cách thương gia độc lập, mỗi thành viên vẫn có tư cách thương gia riêng, các thành viên có thể cùng nhau điều hành và đại diện cho Công ty hoặc thỏa thuận phân công trách nhiệm và quyền đại diện cho từng người. Vấn đề góp vốn, luật không quy định vốn tối thiểu các bên có quyền thỏa thuận các hình thức góp vốn (bằng tiền, hiện vật, các bản quyền, ) thậm chí "vốn góp" chỉ là uy tín kinh doanh của cá nhân. Trong Công ty hợp danh, việc thay đổi thành viên là rất khó khăn, chỉ cần một thành viên chết, xin ra khỏi Công ty là lý do quan trọng để giải thể. b. Công ty hợp vốn đơn giản: Công ty hợp vốn đơn giản là loại Công ty có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên nhận vốn), còn những thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong số vốn góp vào Công ty (thành viên góp vốn). Công ty hợp vốn đơn giản về cơ bản giống Công ty hợp danh, điểm khác cơ bản là Công ty hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên với những thân phận pháp lý khác nhau. - Thành viên nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của Công ty, có quyền đại diện cho Công ty trong các quan hệ đối ngoại. -28-
  29. Bài giảng pháp luật kinh tế - Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp vào Công ty. Thành viên góp vốn không có quyền đại diện cho Công ty trong các quan hệ đối ngoại, nếu họ đứng ra thay mặt Công ty thì sẽ mất quyền chịu trách nhiệm hữu hạn. Thành viên góp vốn chỉ có quyền trong quan hệ nội bộ của Công ty, các thành viên có thể thỏa thuận với nhau. Tên hãng của Công ty hợp vốn đơn giản cũng chỉ ghi tên của thành viên nhận vốn. Sự ra đời của Công ty hợp vốn đơn giản đã đáp ứng được yêu cầu của các nhà kinh doanh một khi họ không muốn vào Công ty hợp danh do tính chịu trách nhiệm vô hạn của tất cả các thành viên. 2. Công ty đối vốn: Về mặt lịch sử, các Công ty đối vốn ra đời sau các Công ty đối nhân. Khác với Công ty đối nhân, Công ty đối vốn không quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tấm đến phần vốn góp. Đặc điểm quan trọng của Công ty đối vốn là có sự tách bạch tài sản của Công ty và tài sản của cá nhân, luật các nước gọi là nguyên tắc phân tách tài sản. Công ty đối vốn có tư cách pháp nhân, các thành viên Công ty chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn mà họ góp vào Công ty (trách nhiệm hữu hạn). Do việc thành lập chỉ quan tâm đến phần vốn góp, do đó, thành viên Công ty thường rất đông, những người không hiểu biết về kinh doanh cũng có thể tham gia vào Công ty. Công ty phải đóng thuế cho Nhà nước, các thành viên phải đóng thuế thu nhập. Có rất nhiều các quy định pháp lý về tổ chức hoạt động đối với Công ty đối vốn, thành viên Công ty dễ dàng thay đổi. Các Công ty đối vốn thông thường chia làm hai loại: - Công ty cổ phần; - Công ty trách nhiệm hữu hạn. Hai loại này tồn tại phổ biến ở Châu Âu lục địa. Hệ thống Luật Anh - Mỹ chỉ có một loại Công ty đối vốn, ở Anh gọi là Company, ở Mỹ gọi là Corporation và Close Corporation. Publiccorporation là các Công ty có phát hành cổ phiếu rộng rãi trong công chúng như Công ty cổ phần, còn Closecorporatinon là các Công ty không phát hành có phiếu rộng rãi trong công chúng giống như Công ty trách nhiệm hữu hạn. Hai loại Công ty đối vốn tồn tại ở Châu Âu lục địa có sự phân biệt rõ ràng hơn, tránh sự nhầm lẫn trong công chúng nhưng có nhược điểm là không thuận lợi khi thay đổi hình thức Công ty. -29-
  30. Bài giảng pháp luật kinh tế Ngược lại, hệ thống Luật Anh - Mỹ tỏ ra mềm dẻo cho người kinh doanh nhưng sự phân biệt ở đây không rõ ràng, đòi hỏi trình độ dân trí phát triển, thông tin rộng rãi, công khai thì mới tránh được sự nhầm lẫn, lừa đảo trong kinh doanh. Các Công ty đối vốn có rất nhiều ưu điểm so với Công ty đối nhân, được người kinh doanh ưa chuộng vì chế độ trách nhiệm hữu hạn. Điều đó tạo điều kiện cho các nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vào các khu vực rủi ro lớn và khả năng họ phân tán vốn đầu tư vào nhiều cơ sở kinh doanh khác nhau, tạo điều kiện cho thị trường vốn ra đời, phát triển. Bên cạnh ưu điểm, Công ty đối vốn còn có những hạn chế. Do chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn nên dễ gây rủi ro cho khách hàng. Mặt khác, do chỉ quan tâm đến vốn góp, do đó, thành viên rất đông có thể dẫn tới sự phân hóa các nhóm quyền lợi trong Công ty, việc quản lý Công ty là rất phức tạp. B. CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Luật doanh nghiệp được Quốc hội nước ta thông qua ngày 29/11/2005 quy định 3 loại hình Công ty: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và Công ty hợp danh. Trong Luật doanh nghiệp có những quy định chung cho các loại hình Công ty và có những quy định riêng cho từng loại hình Công ty. Vì vậy, để tránh sự trùng lặp và tiện cho việc nghiên cứu, trong phần này sẽ trình bày những vấn đề chung của 3 loại Công ty và những quy định riêng về từng loại Công ty. -30-
  31. Bài giảng pháp luật kinh tế I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY 1. Thành lập và đăng ký doanh nghiệp a. Các đối tượng được quyền thành lập và được quyền góp vốn vào công ty: Ở hầu hết các nước phát triển, việc thành lập Công ty hoàn toàn là quyền của công dân. Đó là quyền tự do lập hội và họ thực hiện quyền này theo các quy định của pháp luật. Pháp luật chỉ quy định đối với Công ty từ giai đoạn nó đăng ký kinh doanh. Pháp luật hiện hành ở Việt Nam (thể hiện trong Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành) đã bước đầu tiếp thu tư tưởng tiến bộ này, theo đó xóa bỏ chế độ xin phép thành lập Công ty đã tồn tại trong nhiều năm, chỉ thực hiện đăng ký kinh doanh Công ty; coi việc thành lập và đăng ký kinh doanh Công ty là quyền của công dân và tổ chức được Nhà nước bảo hộ bằng pháp luật. Nội dung các quy định về thành lập và đăng ký kinh doanh Công ty bao gồm hai vấn đề cơ bản là: - Đối tượng có quyền thành lập, có quyền góp vốn vào Công ty. - Đăng ký kinh doanh cho Công ty. * Đối tượng có quyền thành lập và quản lý Công ty. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài (nếu không thuộc đối tượng bị cấm thành lập, quản lý Công ty theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005) có quyền thành lập, quản lý Công ty tại Việt Nam. Như vậy, đối tượng có quyền thành lập, quản lý Công ty rất rộng, bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền lựa chọn thành lập, quản lý Công ty theo các mô hình Công ty đã được quy định trong Luật doanh nghiệp năm 2005. (Vấn đề này trước đây được quy định theo Luật đầu tư nước ngoài). * Đối tượng được quyền góp vốn vào Công ty Theo quy định tại khoản 3 Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của Công ty cổ phần, góp vốn vào Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005. -31-
  32. Bài giảng pháp luật kinh tế b. Hồ sơ, trình tự và thủ tục đăng ký doanh nghiệp * Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp - Đối với công ty cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty hợp danh bao gồm các loại giấy tờ sau: 1. Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp; 2. Dự thảo Điều lệ công ty. Dự thảo điều lệ công ty phải có đầy đủ chữ ký của các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của người đại diện theo pháp luật, của các thành viên hoặc người đại diện theo uỷ quyền đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; của người đại diện theo pháp luật, của các cổ đông sáng lập hoặc người đại diện theo uỷ quyền của cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần. Các thành viên, cổ đông sáng lập phải cùng nhau chịu trách nhiệm về sự phù hợp pháp luật của điều lệ công ty; 3. Danh sách thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty hợp danh; danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần lập theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định. Kèm theo danh sách thành viên hoặc danh sách cổ đông sáng lập phải có: a) Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân quy định tại Điều 24 Nghị định này đối với trường hợp thành viên sáng lập hoặc cổ đông sáng lập là cá nhân; b) Bản sao hợp lệ Quyết định thành lập, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy tờ tương đương khác, bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân quy định tại Điều 24 Nghị định này của người đại diện theo uỷ quyền và quyết định uỷ quyền tương ứng đối với trường hợp thành viên sáng lập hoặc cổ đông sáng lập là pháp nhân. 4. Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định; 5. Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của một hoặc một số cá nhân đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần nếu công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 1. Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp; 2. Dự thảo Điều lệ công ty có đầy đủ chữ ký của chủ sở hữu công ty, người đại diện theo pháp luật đối với trường hợp chủ sở hữu là cá nhân; người đại diện -32-
  33. Bài giảng pháp luật kinh tế theo ủy quyền, người đại diện theo pháp luật đối với chủ sở hữu công ty là tổ chức. Chủ sở hữu công ty phải chịu trách nhiệm về sự phù hợp pháp luật của điều lệ công ty; 3. Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân quy định tại Điều 24 Nghị định này của chủ sở hữu công ty đối với trường hợp chủ sở hữu công ty là cá nhân hoặc Quyết định thành lập, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy tờ tương đương khác, Điều lệ hoặc tài liệu tương đương khác của chủ sở hữu công ty đối với trường hợp chủ sở hữu công ty là tổ chức (trừ trường hợp chủ sở hữu công ty là Nhà nước); 4. Danh sách người đại diện theo uỷ quyền đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được tổ chức quản lý theo quy định tại khoản 3 Điều 67 của Luật Doanh nghiệp lập theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định. Kèm theo danh sách này phải có Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân quy định tại Điều 24 Nghị định này của từng đại diện theo uỷ quyền. Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân quy định tại Điều 24 Nghị định này của người đại diện theo uỷ quyền đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được tổ chức quản lý theo quy định tại khoản 4 Điều 67 của Luật Doanh nghiệp; 5. Văn bản uỷ quyền của chủ sở hữu cho người được uỷ quyền đối với trường hợp chủ sở hữu công ty là tổ chức; 6. Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định; 7. Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một hoặc một số cá nhân theo quy định đối với công ty kinh doanh các ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. Các giấy tờ chứng thực cá nhân trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp 1. Giấy chứng minh nhân dân còn hiệu lực hoặc Hộ chiếu còn hiệu lực đối với công dân Việt Nam. 2. Một trong số các giấy tờ còn hiệu lực đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài sau đây: a) Hộ chiếu Việt Nam; b) Hộ chiếu nước ngoài (hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu nước ngoài) và một trong các giấy tờ chứng minh người gốc Việt Nam ở nước ngoài. 3. Giấy đăng ký tạm trú do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và Hộ chiếu còn hiệu lực đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam. -33-
  34. Bài giảng pháp luật kinh tế 4. Hộ chiếu còn hiệu lực đối với người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam. Trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp * Tiếp nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp Bước 1: Người thành lập doanh nghiệp hoặc người đại diện theo ủy quyền nộp hồ sơ theo quy định tại Nghị định này tại Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Bước 2: Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được tiếp nhận để nhập thông tin vào Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia khi: a) Có đủ giấy tờ theo quy định tại Nghị định này; b) Tên doanh nghiệp đã được điền vào Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy đề nghị chuyển đổi doanh nghiệp; c) Có địa chỉ liên lạc của người nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp ; d) Đã nộp lệ phí đăng ký doanh nghiệp theo quy định. Bước 3: Sau khi tiếp nhận hồ sơ, Phòng Đăng ký kinh doanh phải trao Giấy biên nhận về việc nhận hồ sơ cho người nộp hồ sơ. Bước 4 : Sau khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, Phòng đăng ký kinh doanh kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và nhập đầy đủ, chính xác thông tin trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp vào Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ hoặc tên doanh nghiệp yêu cầu đăng ký không đúng theo quy định, Phòng Đăng ký kinh doanh phải thông báo rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ. Trường hợp đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử, cơ quan đăng ký kinh doanh thông báo qua mạng điện tử cho cá nhân, tổ chức đã đăng ký doanh nghiệp thời điểm trả kết quả đăng ký doanh nghiệp hoặc các nội dung cần bổ sung, sửa đổi (nếu có). * Quy trình phối hợp tạo và cấp mã số doanh nghiệp Khi hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định, thông tin về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được chuyển sang cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính). Trong thời hạn hai ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông tin từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Tổng cục Thuế có trách nhiệm tạo mã số doanh nghiệp và chuyển mã số doanh nghiệp sang Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp để Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp cho doanh nghiệp. Thông tin về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sẽ được chuyển sang Tổng cục Thuế. Trường hợp Tổng cục Thuế từ chối cấp mã số cho doanh nghiệp thì phải gửi thông báo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó nói rõ lý do từ chối để chuyển cho cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thông báo cho doanh nghiệp. * Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử -34-
  35. Bài giảng pháp luật kinh tế Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử là việc người thành lập doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký doanh nghiệp thông qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Phòng đăng ký kinh doanh tiếp nhận hồ sơ, xem xét hồ sơ, hướng dẫn sửa đổi, bổ sung hồ sơ và thông báo kết quả giải quyết thủ tục đăng ký doanh nghiệp qua Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia. Trường hợp người thành lập doanh nghiệp chưa có chữ ký điện tử, việc đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử có thể được thực hiện theo quy trình sau: sau khi hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được chấp thuận trên Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, doanh nghiệp sẽ in Giấy xác nhận nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử từ Hệ thống này. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ký tên vào Giấy xác nhận nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử và gửi đến Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Sau khi nhận được Giấy xác nhận nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử của doanh nghiệp, Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh xem xét cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp nộp qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia có giá trị pháp lý như hồ sơ nộp bằng bản giấy. *Thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi doanh nghiệp, đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, thông báo lập địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu quá thời hạn trên mà không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc không nhận được thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp thì người thành lập doanh nghiệp có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. *Cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 24 của Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trực tiếp tại Cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký và trả phí để nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp qua dịch vụ chuyển phát. Kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh ngành, nghề yêu cầu phải có điều kiện. Doanh nghiệp có quyền yêu cầu Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và phải trả phí theo quy định. Khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới trong trường hợp đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp phải nộp lại Giấy -35-
  36. Bài giảng pháp luật kinh tế chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũ hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũ hoặc giấy tờ tương đương khác. * Hiệu đính thông tin trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Trường hợp phát hiện nội dung trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chưa chính xác so với nội dung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp thì doanh nghiệp có quyền gửi thông báo yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh hiệu đính nội dung trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho phù hợp với hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đã nộp. Cơ quan đăng ký kinh doanh nhận thông báo, kiểm tra hồ sơ và thực hiện việc cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp trong thời hạn hai ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nếu thông tin trong thông báo của doanh nghiệp là chính xác. * Cung cấp thông tin về nội dung đăng ký doanh nghiệp Định kỳ vào tuần thứ hai hàng tháng, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh gửi danh sách kèm thông tin về các doanh nghiệp đã đăng ký trong tháng trước đó đến cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật cùng cấp, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện. Ở những nơi có điều kiện về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin thì có thể thực hiện việc trao đổi thông tin về đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử. Các tổ chức, cá nhân có thể đề nghị cơ quan đăng ký kinh doanh cung cấp thông tin về nội dung đăng ký doanh nghiệp lưu giữ tại Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia và phải trả phí theo quy định. * Lệ phí đăng ký doanh nghiệp Người thành lập doanh nghiệp phải nộp lệ phí đăng ký doanh nghiệp tại thời điểm nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Lệ phí đăng ký doanh nghiệp có thể được nộp trực tiếp tại cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc chuyển vào tài khoản của cơ quan đăng ký kinh doanh. Lệ phí đăng ký doanh nghiệp sẽ không được hoàn trả cho doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn mức lệ phí và việc sử dụng lệ phí đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh, đảm bảo bù đắp một phần chi phí cho hoạt động của cơ quan đăng ký kinh doanh. Tỷ lệ trích để lại cho cơ quan đăng ký kinh doanh không thấp hơn 50% tổng số tiền thu được từ lệ phí đăng ký doanh nghiệp. Mức lệ phí đăng ký doanh nghiệp được thực theo quy định 2. Tổ chức lại Công ty: Tổ chức lại Công ty bao gồm chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi hình thức pháp lý Công ty. Những quy định về tổ chức lại Công ty là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho Công ty phát triển thuận lợi, hiệu quả và đa dạng. Luật doanh -36-
  37. Bài giảng pháp luật kinh tế nghiệp quy định về tổ chức lại Công ty trên cơ sở vận dụng những quy định về sáp nhập, hợp nhất, chia, tách và chuyển đổi pháp nhân trong Bộ luật dân sự. a. Chia Công ty: Chia Công ty là biện pháp tổ chức lại Công ty được áp dụng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần, theo đó Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần được chia thành một số Công ty cùng loại. Thủ tục chia Công ty được thực hiện theo Điều 150 Luật doanh nghiệp. Sau khi đăng ký kinh doanh các thông tin mới, Công ty bị chia chấm dứt tồn tại. Các Công ty mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia. b. Tách Công ty: Tách Công ty là biện pháp tổ chức lại Công ty được áp dụng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần, theo đó Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần được tách bằng cách chuyển một phần tài sản của Công ty hiện có (Công ty bị tách), chuyển một phần quyền và nghĩa vụ của Công ty bị tách sang Công ty được tách mà không chấm dứt tồn tại của Công ty bị tách. Thủ tục tách Công ty được thiện theo Điều 151 Luật doanh nghiệp. Sau khi đăng ký kinh doanh, Công ty bị tách và Công ty được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty bị tách. c. Hợp nhất Công ty: Hợp nhất Công ty là biện pháp tổ chức lại Công ty được áp dụng cho tất cả các loại hình Công ty, theo đó hai hoặc một số Công ty cùng loại (gọi là Công ty bị hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang Công ty hợp nhất đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các Công ty bị hợp nhất. Thủ tục hợp nhất Công ty được thực hiện theo Điều 152 Luật doanh nghiệp. Sau khi đăng ký kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại. Công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty bị hợp nhất. d. Sáp nhập Công ty: -37-
  38. Bài giảng pháp luật kinh tế Sáp nhập Công ty là biện pháp tổ chức lại Công ty được áp dụng cho tất cả các loại hình Công ty, theo đó một hoặc một số Công ty cùng loại (gọi là Công ty bị sáp nhập) sáp nhập vào một Công ty khác (gọi là Công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang Công ty nhận sáp nhập đồng thời chấm dứt sự tồn tại của Công ty bị sáp nhập. Thủ tục sáp nhập Công ty được thực hiện theo Điều 153 Luật doanh nghiệp. Sau khi đăng ký kinh doanh, Công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của Công ty bị sáp nhập. e. Chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên Việc chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn 100% sở hữu nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này) được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên khi chủ sở hữu công ty đã góp đủ số vốn vào công ty như đã cam kết. Công ty được chuyển đổi theo phương thức sau: - Chủ sở hữu công ty chuyển nhượng, cho, tặng một phần sở hữu của mình tại công ty cho một hoặc một số người khác; - Công ty huy động thêm vốn góp từ một hoặc một số người khác. Giá trị phần vốn góp được chuyển nhượng, cho, tặng hoặc huy động thêm tương ứng với cách thức chuyển đổi nói trên phải theo giá thị trường, giá được định theo phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu hoặc phương pháp khác. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày chủ sở hữu công ty chuyển nhượng, cho, tặng một phần sở hữu của mình tại công ty cho một hoặc một số người khác hoặc công ty huy động thêm vốn góp hoặc vốn cam kết góp từ một hoặc một số người khác, công ty gửi hoặc nộp hồ sơ chuyển đổi tại cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Hồ sơ, trình tự thủ tục chuyển đổi thực hiện theo quy định tương ứng của Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ chuyển đổi, cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan nhà nước quản lý đầu tư có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư tương ứng. - Công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi. -38-
  39. Bài giảng pháp luật kinh tế - Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư quy định tại khoản 3 Điều này, cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư phải thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan theo quy định tại khoản 1 Điều 27 của Luật Doanh nghiệp; đồng thời xóa tên công ty được chuyển đổi trong sổ đăng ký doanh nghiệp. f. Chuyển đổi công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có thể chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo phương thức sau: - Một cổ đông hoặc thành viên nhận chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp tương ứng của tất cả các cổ đông, thành viên còn lại; - Một cổ đông hoặc thành viên là pháp nhân nhận góp vốn đầu tư bằng toàn bộ cổ phần hoặc phần vốn góp của tất cả các cổ đông, thành viên còn lại; - Một tổ chức hoặc cá nhân không phải là thành viên hoặc cổ đông nhận chuyển nhượng hoặc nhận góp vốn đầu tư bằng toàn bộ số cổ phần hoặc phần vốn góp của tất cả cổ đông hoặc thành viên của công ty. Việc chuyển nhượng hoặc nhận góp vốn đầu tư bằng cổ phần, phần vốn góp quy định tại khoản 1 Điều này phải thực hiện theo giá thị trường, giá được định theo phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu hoặc phương pháp khác. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày một cổ đông hoặc một thành viên nhận chuyển nhượng quy định tại điểm a, khoản 1 Điều này hoặc nhận góp vốn đầu tư quy định tại điểm b, khoản 1 Điều này hoặc một người khác nhận chuyển nhượng hoặc nhận góp vốn đầu tư quy định tại điểm c khoản 1 Điều này, công ty gửi hoặc nộp hồ sơ chuyển đổi tại cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đã đăng ký hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Hồ sơ chuyển đổi thực hiện theo quy định tương ứng của Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ chuyển đổi, cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư. - Công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi. - Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư quy định tại khoản 3 Điều này, cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư phải thông báo cho các cơ quan nhà nước liên quan theo quy định tại khoản 1 Điều -39-
  40. Bài giảng pháp luật kinh tế 27 của Luật Doanh nghiệp; đồng thời xóa tên công ty được chuyển đổi trong sổ đăng ký doanh nghiệp. Chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần thì thực hiện theo quy định của pháp luật về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể chuyển đổi thành công ty cổ phần theo phương thức sau: - Chuyển đổi thành công ty cổ phần mà không huy động thêm người khác cùng góp vốn cổ phần, không bán cổ phần hiện có cho người khác; - Chuyển đổi thành công ty cổ phần kết hợp với chào bán chứng khoán ra công chúng; - Chuyển đổi thành công ty cổ phần kết hợp với chào bán cổ phần cho ít hơn 100 nhà đầu tư đã xác định. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ phần bằng cách chào bán chứng khoán ra công chúng thì điều kiện chuyển đổi, trình tự, thủ tục và điều kiện chào bán chứng khoán thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ chuyển đổi, cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan nhà nước quản lý về đầu tư cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư tương ứng; đồng thời, thu hồi lại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư đã cấp đối với công ty được chuyển đổi. Hồ sơ chuyển đổi thực hiện theo quy định tương ứng của Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp. - Công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi. - Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư quy định tại khoản 4 Điều này, cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đầu tư phải thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan theo quy định tại khoản 1 Điều 27 của Luật Doanh nghiệp; đồng thời xóa tên công ty được chuyển đổi trong sổ đăng ký doanh nghiệp. 3. Chấm dứt hoạt động của công ty: a. Giải thể công ty: Giải thể Công ty là việc chấm dứt sự tồn tại, hoạt động của Công ty. Giải thể Công ty trước hết là quyền của các thành viên Công ty. Mặt khác Công ty còn bị giải thể trong những trường hợp do pháp luật quy định. -40-
  41. Bài giảng pháp luật kinh tế - Các trường hợp giải thể: Theo luật doanh nghiệp, Công ty bị giải thể trong các trường hợp sau đây: + Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ Công ty mà không có quyết định gia hạn. Khi thành lập Công ty các thành viên đã thỏa thuận, kết ước với nhau. Sự thỏa thuận, kết ước được biểu hiện bằng điều lệ Công ty. Điều lệ Công ty là bản cam kết của các thành viên về thành lập, hoạt động của Công ty trong đó đã thỏa thuận về thời hạn hoạt động. Khi hết thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ (nếu các thành viên không muốn xin gia hạn hoạt động) thì Công ty đương nhiên phải tiến hành giải thể. + Theo quyết định của hội đồng thành viên, chủ sở hữu Công ty đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn, của đại hội đồng cổ đông đối với Công ty cổ phần; của tất cả các thành viên hợp danh đối với Công ty hợp danh. + Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của pháp luật trong thời hạn 6 tháng liên tục. Có đủ số lượng thành viên tối thiểu là một trong những điều kiện pháp lý để Công ty tồn tại và hoạt động. Pháp luật quy định số lượng thành viên tối thiểu cho mỗi loại hình Công ty là khác nhau. Khi không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu, để tiếp tục tồn tại, Công ty phải kết nạp thêm các thành viên cho đủ số lượng tối thiểu. Thời hạn để Công ty thực hiện việc kết nạp thêm thành viên là 6 tháng kể từ ngày Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu. Nếu Công ty không kết nạp thêm thành viên, dẫn đến Công ty tồn tại không đủ số lượng thành viên tối thiểu trong 6 tháng liên tục thì Công ty phải giải thể. + Bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là căn cứ pháp lý không thể thiếu cho sự tồn tại và hoạt độngc ủa các doanh nghiệp nói chung, Công ty nói riêng. Khi Công ty kinh doanh vi phạm các quy định của pháp luật và bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì Công ty không thể tiếp tục tồn tại hoạt động. Trong những trường hợp này Công ty phải giải thể theo yêu cầu của cơ quan đăng ký kinh doanh (theo khoản 2 Điều 165 Luật doanh nghiệp). - Thủ tục giải thể Công ty: -41-
  42. Bài giảng pháp luật kinh tế Giải thể Công ty dẫn đến chấm dứt sự tồn tại, hoạt động của Công ty và thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ. Vì vậy, việc giải thể Công ty phải tuân theo những thủ tục nhất định. a. Thông qua quyết định giải thể Công ty: Theo quy định của Luật doanh nghiệp, khi rơi vào một trong những trường hợp bị giải thể, để tiến hành việc giải thể, Công ty phải thông qua quyết định giải thể Công ty. Quyết định giải thể Công ty phải có các nội dung chủ yếu theo quy định tại khoản 1 Điều 158 Luật doanh nghiệp. Sau khi thông qua quyết định giải thể, Công ty phải gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh, các chủ nợ người lao động, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan. Quyết định giải thể phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính của Công ty và phải đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong 3 số liên tiếp. Khi gửi quyết định giải thể cho các chủ nợ, Công ty phải gửi kèm theo thông báo về phương án giải quyết nợ. Thông báo này phải ghi rõ tên, địa chỉ của chủ nợ, số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó, cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ. b. Thanh lý tài sản và thanh toán các khoản nợ của Công ty: Thanh lý tài sản và thanh toán các khoản nợ là vấn đề quan trọng, chủ yếu của Công ty giải thể. Việc thanh toán khoản nợ là rất phức tạp vì liên quan đến quyền lợi của nhiều người, do đó phải tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định. Trước hết phải thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ, sau đó tiến hành phân chia tài sản còn lại của Công ty cho các thành viên. Phần hoàn lại cho các thành viên có thể nhiều hơn hoặc ít hơn phần vốn góp ban đầu, diều đó tùy thuộc vào tình trạng tài sản của Công ty. Sau khi thanh toán hết nợ của Công ty, người đại diện theo pháp luật của Công ty phải gửi hồ ớ về giải thể Công ty đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ về giải thể Công ty, phải xóa tên Công ty trong số đăng ký kinh doanh. Công ty chấm dứt sự tồn tại với tư cách là một doanh nghiệp từ khi bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh. b. Phá sản công ty: -42-
  43. Bài giảng pháp luật kinh tế Theo quy định tại Điều 3 Luật Phá sản năm 2004: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản dùng để chỉ doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu”. Như vậy, Luật Phá sản coi việc mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khi các chủ nợ yêu cầu là căn cứ cơ bản, duy nhất để xem xét việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Điều này thể hiện sự tiến bọ của Luật phá sản, phù hợp với thông lệ và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ tục phá sản , cũng như khả năng phuck hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tinh trạng phá sản chưa chắc đã bị phá sản. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể bị phá sản hoặc có thể được phục hồi. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản bị coi là phá sản khi đã tiến hành thủ tục phá sản * Phân biệt phá sản với giải thể Nếu chỉ xem xét về mặt hiện tượng thì phá sản và giải thể doanh nghiệp không có gì khác nhau, bởi vì cả hai thủ tục này đều dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải quyết quyền lợi cho người làm công, Tuy nhiên, về bản chất đây là hai thủ tục pháp lí khác nhau. Thứ nhất, lí do giải thể không đồng nhất với các loại hình doanh nghiệp và rộng hơn nhiều so với lí do phá sản. Thứ hai, phá sản khác với giải thể ở bản chất cảu hai thủ tục pháp lí cũng như cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục đó. Thứ ba, giải thể và phá sản khác nhau về hậu quả. Giải thể bao giờ cũng chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, hợp tác xã về mọi phương diện còn đối với phá sản không phải bao giờ cũng đem đến một kết quả như vậy. Thứ tư, thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay người quản lí, điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh trong hai trường hợp trên cũng có sự phân biệt. Đối với chủ sở hữu hay người quản lí, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản sẽ bị pháp luật hạn chế quyền tự do kinh doanh, còn đối với trường hợp giải thể thì vấn đề hạn chế quyêng tự do kinh doanh không bị đặt ra. 4. Thành viên Công ty -43-
  44. Bài giảng pháp luật kinh tế Thành viên Công ty là người đã góp tài sản vào Công ty. Khi nghiên cứu chế độ pháp lý của thành viên Công ty, các nhà làm luật quan tâm với hai vấn đề chính, đó là: - Sự hình thành và mất đi tư cách thành viên. - Các quyền và nghĩa vụ của thành viên. a. Sự hình thành và mất đi tư cách thành viên Công ty + Hình thành tư cách thành viên Công ty Thông thường, tư cách thành viên Công ty được hình thành bằng ba con đường: - Góp vốn vào Công ty. - Mua lại phần vốn góp của thành viên Công ty - Hưởng thừa kế mà người để lại di sản thừa kế là thành viên Công ty. Góp vốn vào Công ty là con đường chủ yếu để trở thành thành viên Công ty. Một người sẽ có tư cách thành viên Công ty khi đã góp một số vốn của mình vào thành lập Công ty. Tùy theo từng loại hình Công ty, cách thức góp sẽ khác nhau. Một người cũng sẽ có tư cách thành viên khi họ góp vốn vào Công ty, khi Công ty kết nạp thành viên mới để tăng vốn điều lệ. Tùy theo từng loại hình Công ty, việc kết nạp thành viên sẽ khác nhau. Tư cách thành viên Công ty cũng có thể được hình thành qua việc mua lại phần vốn của thành viên Công ty. Tùy theo từng loại Công ty, việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người khác có những quy định khác nhau. Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn việc chuyển nhượng phần vốn cho người ngoài Công ty bị hạn chế. Thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn chế. Thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được chuyển nhượng vốn cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại cho người bán một giá trị tài sản do hai bên thỏa thuận. Đối với Công ty cổ phần, việc mua lại phần vốn góp được thực hiện thông qua hành vi mua cổ phiếu trên thị trường chúng khoán. Tư cách thành viên Công ty cí thể được hình thành qua việc họ được hưởng thừa kế. Tùy theo từng loại hình Công ty, trong điều lệ của Công ty có quy định khác nhau về việc hưởng thừa kế phần vốn góp để trở thành thành viên Công ty. + Mất tư cách thành viên Công ty -44-
  45. Bài giảng pháp luật kinh tế Thông thường, tư cách thành viên Công ty có thể mất đi khi thành viên nhượng lại phần vốn góp của mình cho người khác, hay khi thành viên đó chết. Ngoài ra, tư cách thành viên Công ty cũng có thể mất đi khi điều lệ Công ty quy định, như trong trường hợp khi trừ thành viên, thu hồi tư cách thành viên hay khi họ nguyện rút khỏi Công ty. b. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của thành viên Công ty Mỗi loại hình Công ty khác nhau thì quyền và nghĩa vụ của thành viên Công ty cũng khác nhau. Điều đó do Luật doanh nghiệp và điều lệ Công ty quy định song về nguyên tắc chung thành viên Công ty có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: + Quyền lợi. - Quyền chuyển nhượng phần góp phần góp cho người khác. - Quyền được chia lợi nhuận: Việc góp vốn vào Công ty là hành vi đầu tư vốn để kinh doanh, vì vậy, quyền được chia lợi nhuận là quyền quan trọng của thành viên Công ty. Về nguyên tắc, quyền được chia lợi nhuận tỉ lệ với phần vốn góp vào Công ty. Việc phân chia lợi nhuận phải tuân thủ pháp luật và Điều lệ của Công ty. - Quyền được chia các phần dự trữ. Công ty có thể tiến hành chia các quỹ dự trữ cho thành viên dưới dạng lợi nhuận tỉ lệ với phần vốn góp vào Công ty. Hoặc khi lợi nhuận để chia cho thành viên ở tài khóa này không đủ thì Công ty có thể lấy từ quỹ dự trữ để bù vào lợi nhuận cho đủ để chia, việc chia này cũng theo tỉ lệ phần vốn góp. - Quyền được chia các giá trị tài sản còn lại sau khi thanh lý Công ty. Công ty khi giải thể, sau khi đã thanh toán mọi khoản nợ, phần còn lại các thành viên được quyền chia nhau. Việc phân chia tài sản còn lại theo tỉ góp vốn. - Quyền bỏ phiếu: Thành viên Công ty có quyền tham gia cuộc họp của cơ quan có quyền quyết định cao nhất trong Công ty để thảo luận, biểu quyết những vấn đề về tổ chức, quản lý và hoạt động của Công ty. Việc bỏ phiếu để thông qua các quyết định phụ thuộc vào phần vốn góp của từng thành viên. Thành viên sở hữu cổ phần ưu đãi sổ tức và cổ phần và cổ phần ưu đãi hoàn lại trong Công ty cổ phần không có quyền biểu quyết. -45-