Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

pdf 30 trang ngocly 3130
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_kinh_te_vi_mo_bai_2_hach_toan_thu_nhap_quoc_dan.pdf

Nội dung text: Bài giảng Kinh tế vĩ mô - Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

  1. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân BÀI 2: HẠCH TOÁN THU NHẬP QUỐC DÂN Nội dung • Đo lường các chỉ tiêu sản lượng của quốc gia như: Tổng sản phẩm quốc dân (GNP), Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) • Chỉ ra cách xác định các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP và tỷ lệ lạm phát • Xây dựng các phương pháp xác định GDP • Phân tích ý nghĩa của các chỉ tiêu GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô • Phân tích các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản Mục tiêu Hướng dẫn học • Giúp học viên hiểu và biết được các • Học viên nên đọc kỹ nguồn tài liệu tham phương pháp đo lường sản lượng quốc khảo để chọn ra những tài liệu tham khảo gia, phương pháp tính lạm phát, thất hữu ích nhất và cần xem các nguồn tài nghiệp, v.v liệu và thứ tự tài liệu được cung cấp cho • Chỉ rõ cho học viên phương pháp tính bài này để học tập tốt hơn GDP và nêu được ý nghĩa, vai trò của các • Trong bài này học viên cần phải học chỉ tiêu GNP, GDP, và các đồng nhất thuộc các công thức liên quan đến việc thức trong phân tích Kinh tế Vĩ mô xác định sản lượng của nền kinh tế. Học viên cũng cần có sự cố gắng thực hành các loại bài tập đã cung cấp, càng làm nhiều bài tập thì học viên càng nhớ lâu và hiểu sâu các công thức cũng như các khái niệm xác định mức hạch toán thu nhập quốc dân Thời lượng học • 7 tiết học 33
  2. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân 2.1. Các chỉ tiêu đo lường sản lượng quốc gia 2.1.1. Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Product – GNP) GNP là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất trong một thời kỳ (thường lấy là một năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình. GNP đánh giá kết quả của hàng triệu giao dịch và hoạt động kinh tế do công dân của một đất nước tiến hành trong một thời kỳ nhất định. Đó chính là con số đạt được khi dùng thước đo tiền tệ để tính toán giá trị của các hàng hoá khác nhau mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phủ mua sắm và tiêu dùng trong một thời gian đã cho. Những hàng hoá và dịch vụ đó là các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của các hộ gia đình; thiết bị nhà xưởng mua sắm và xây dựng lần đầu của các hãng kinh doanh; nhà mới xây dựng; hàng hoá và dịch vụ mà các cơ quan quản lý Nhà nước mua sắm và phần chênh lệch giữa hàng hoá xuất khẩuh ẩvà nhập k u. Sản lượng ô tô Dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị sản phẩm là thuận lợi vì thông qua giá cả thị trường chúng ta có thể cộng giá trị của các loại hàng hoá có hình thức và nội dung vật chất khác nhau như lương thực, thực phẩm, xe ô tô, dịch vụ du lịch, y tế, giáo dục,v.v. Nhờ vậy, có thể đo lường kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế chỉ bằ ng một con số, một tổng lượng duy nhất. Nhưng giá cả lại là một thước đo co dãn. Lạm phát thường xuyên đưa mức giá chung lên cao. Do vậy, GNP tính bằng tiền có thể tăng nhanh trong khi giá trị thực của tổng sản phẩm tính bằng hiện vật có thể không tăng hoặc tăng ít. Để khắc phục được nhược điểm này, các nhà kinh tế thường sử dụng các khái niệm: GNP danh nghĩa và GNP thực tế. GNP danh nghĩa (GNPn) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả hiện hành, tức là giá cả của cùng thời kỳ đó. Ví dụ: GNPn = ΣPi2009 . Qi2009 GNP thực tế (GNPr) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả cố định ở một thời kỳ lấy làm gốc. Ví dụ: GNPr = ΣPi2008 . Qi2009 Tỷ lệ giữa GNP danh nghĩa và GNP thực tế là chỉ số giá cả hay còn được gọi là chỉ số điều chỉnh GNP (ký hiệu: DGNP). DGNP = GNP danh nghĩa/(GNP thực tế).100 34
  3. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Như vậy, khi biết chỉ số điều chỉnh DGNP chúng ta có thể tính được GNPr từ GNPn và ngược lại, khi biết GNPr và chỉ số điều chỉnh DGNP chúng ta có thể tính được GNPn của cùng một thời kỳ. Chỉ tiêu GNP danh nghĩa và GNP thực tế thường được dùng cho các mục tiêu phân tích khác nhau. Chẳng hạn, khi muốn nghiên cứu mối quan hệ tài chính, ngân hàng người ta thường dùng GNP danh nghĩa; khi cần phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng GNP thực tế. 2.1.2. Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product – GDP) GDP là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Chỉ tiêu GNP là kết quả của hàng triệu hoạt động kinh tế xảy ra bên trong lãnh thổ của một đất nước. Những hoạt động này có thể là do công ty, doanh nghiệp của công dân nước ngoài sản xuất tại nước đó. Nhưng GDP không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại tiến hành ở nước ngoài. Đây là một dấu hiệu để phân biệt GDP và GNP. Trong thực tế, một hãng kinh doanh của nước ngoài sở hữu một nhà máy, dưới hình thức bỏ vốn đầu tư hay liên doanh với các công ty ở nước ta, thì một phần lợi nhuận của họ sẽ chuyển về nước họ để chi tiêu hay tích luỹ. Tổng sản phẩm quốc nội GDP Ngược lại, công dân sinh sống và làm việc ở nước ngoài cũng gửi một phần thu nhập về trong nước. Tuy vậy, hầu hết các khoản thu nhập chu chuyển giữa các nước không phải là thu nhập từ lao động mà là thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cổ phần, lợi nhuận, Khi hạch toán các tài khoản quốc dân, người ta thường dùng thuật ngữ “Thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài” để chỉ phần chênh lệch giữ a thu nhập của công dân nước ta ở nước ngoài và công dân nước ngoài ở nước ta. Từ đó, ta có đẳng thức thể hiện mối quan hệ giữa GDP và GNP như sau: GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài Hoặc GNP = GDP + Tổng thu về thu nhập nhân tố sản xuất từ nước ngoài – Tổng chi về thu nhập nhân tố sản xuất trả nước ngoài. 2.1.3. Tổng sản phẩm quốc dân ròng (Net National Product – NNP) Sản phẩm quốc dân ròng (NNP) là phần GNP còn lại sau khi trừ đi khấu hao. Như đã biết thì các tư liệu lao động bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Sau khi tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp phải tiến hành bù đắp ngay phần hao mòn này. Chúng không trở thành 35
  4. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân nguồn thu nhập của cá nhân và xã hội và không tham gia vào quá trình phân phối cho các thành viên trong xã hội. Như vậy, suy cho cùng, không phải tổng đầu tư mà đầu tư ròng cùng với các thành phần khác của GNP mới là những bộ phận quyết định tốc độ tăng trưởng, nâng cao mức sống của người dân. Những bộ phận này tạo thành sản phẩm quốc dân ròng (NNP). Vậy ta có: NNP = GNP – khấu hao (TSCĐ). Tuy nhiên, việc xác định tổng mức khấu hao trong nền kinh tế đòi hỏi nhiều thời gian và rất phức tạp. Vì vậy, để đáp ứng kịp thời nhu cầu phân tích và tránh phiền phức do việc thu thập số liệu khác nhau, hay biến động về khấu hao, Nhà nước và các nhà kinh tế thường sử dụng GNP. Bảng 2.1: Tổng thu nhập quốc dân theo giá thực tế từ 1990 - 2007 Chia ra Tổng thu nhập Tỷ lệ tổng thu nhập quốc Năm quốc gia Tổng sản phẩm Thu nhập thuần gia so với tổng sản phẩm (Tỷ đồng) trong nước tuý từ nước ngoài trong nước (%) (Tỷ đồng) (Tỷ đồng) 1990 39284 41955 -2671 93.6 1991 72620 76707 -4087 94.7 1992 106757 110532 -3775 96.6 1993 134913 140258 -5345 96.2 1994 174017 178534 -4517 97.5 1995 228677 228892 -215 99.9 1996 269654 272036 -2382 99.1 1997 308600 313623 -5023 98.4 1998 352836 361017 -8181 97.7 1999 392693 399942 -7249 98.2 2000 435319 441646 -6327 98.6 2001 474855 481295 -6440 98.7 2002 527056 535762 -8706 98.4 2003 603688 613443 -9755 98.4 2004 701906 715307 -13401 98.1 2005 822432 839211 -16779 98.0 2006 953232 974266 -21034 97.8 Sơ bộ 2007 1112892 1144015 -31123 97.3 Nguồn: Tổng cục Thống kê 2.1.4. Thu nhập quốc dân và thu nhập quốc dân có thể sử dụng Thu nhập quốc dân (Y hoặc NI): Là phần thu được khi lấy tổng sản phẩm quốc dân ròng (NNP) trừ đi phần thuế gián thu. Thu nhập quốc dân phản ánh tổng thu nhập từ các yếu tố sản xuất: Lao động, vốn, đất đai, tài nguyên, khả năng quản lý, của nền kinh tế hay đồng thời cũng là thu nhập của tất cả các hộ gia đình (các cá nhân) trong nền kinh tế. Như vậy, khái niệm thu nhậ p quốc dân trùng hợp với khái niệm sản phẩm quốc dân ròng theo chi phí cho các yếu tố sản xuất, nó bao gồm tiền thuê lao động cộng với tiền thuê vốn cộng với tiền thuê bất động sản cộng lợi nhuận của doanh nghiệp. 36
  5. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Bảng 2.2: Một số chi tiêu chủ yếu về tài khoản quốc gia từ năm 2000 – 2007 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Sơ bộ 2007 Tổng sản phẩm trong nước theo 441646 481295 535762 613443 715307 839211 974266 1144015 giá thực tế (Tỷ đồng) Tích luỹ tài sản 130771 150033 177983 217434 253686 298543 358629 476450 ( Tỷ đồng) Tiêu dùng cuối cùng 321853 342607 382137 445221 511221 584793 675916 811321 (Tỷ đồng) Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ 243049 262846 304262 363735 470216 582069 716652 878473 (Tỷ đồng) Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ 253927 273828 331946 415023 524216 617157 765827 1032158 (Tỷ đồng) Tổng thu nhập quốc gia (Tỷ 435319 474855 527056 603688 701906 822432 953232 1112892 đồng) Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh năm 273666 292535 313247 336242 362435 393031 425373 461443 1994 (Tỷ đồng) Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong 6.79 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.48 nước (Năm trước = 100) (%) Một số tỷ lệ so với GDP (Giá thực tế) (%) Tích luỹ tài sản 29.613 31.17 33.22 35.44 35.47 35.58 36.81 41.65 Tài sản cố định 27.652 29.15 31.14 33.35 33.25 32.87 33.35 37.14 Tiêu dùng cuối 72.877 71.18 71.33 72.58 71.47 69.68 69.38 70.92 cùng Xuất khẩu hàng 55.035 54.61 56.79 59.29 65.74 69.36 73.56 76.79 hoá và dịch vụ Nhập khẩu hàng 57.5 56.89 61.96 67.65 73.29 73.54 78.61 90.22 hoá và dịch vụ Tổng thu nhập 98.579 98.66 98.38 98.41 98.13 98.00 97.84 97.28 quốc gia Nguồn: Tổng cục Thống kê Thu nhập quốc dân ròng cũng có thể tính bằng cách lấy tổng sản phẩm quốc dân trừ đi khấu hao và thuế gián thu. Y = GNP – Khấu hao (DP) – Thuế gián thu (Te) hay Y = NNP – Thuế gián thu (Te) 37
  6. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân • Thuế gián thu: Thông thường đây được coi là những loại thuế đánh vào sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ và do vậy, việc trả thuế chỉ là gián tiếp (người nộp thuế không phải là người chịu thuế mà thực chất là người tiêu dùng phải gánh chịu). Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế hải quan và thuế giá trị gia tăng là các ví dụ về thuế gián thu. Sự phân biệt giữa thuế trực thu và thuế gián thu là một sự phân biệt truyền thống trong tài chính công cộng. Tuy nhiên, sự phân biệt này không phải là một sự phân biệt hoàn toàn chặt chẽ, đồng thời cũng không phải là đặc biệt bổ ích theo quan điểm phân tích. Có một số ví dụ về thuế mà sự phân loại là không dễ dàng và sự phân biệt giữa chúng không phải là rất có ích theo quan điểm phân tích phạm vi ảnh hưởng. • Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập sau khi trừ các chi phí liên quan đến thu nhập của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Tuy thu nhập quốc dân là chỉ tiêu phản ánh thu nhập từ tất cả các yếu tố của nền kinh tế, do vậy đã phản ánh mức sống của dân cư. Nhưng để dự đoán khả năng tiêu và tích luỹ của dân cư, Nhà nước phải dựa vào các chỉ tiêu trực tiếp hơn, tác động đến tiêu dùng và tích luỹ. Đó là thu nhập có thể sử dụng. Thu nhập có thể sử dụng là phần thu nhập quốc dân còn lại sau khi các hộ gia đình nộp lại các loại thuế trực thu và nhận được các trợ cấp của Chính phủ hoặc doanh nghiệp. YD = Y – Td + TR Thuế trực thu chủ yếu là các loại thuế đánh vào thu nhập do lao động; thu nhập do thừa kế tài sản của cha ông để lại, các loại đóng góp của cá nhân như bảo hiểm xã hội, lệ phí giao thông, Thu nhập của các hộ gia đình kinh doanh cá thể hay chung vốn cũng là một dạng thuế trực thu và phải trừ ra từ thu nhập quốc dân. Tương tự các loại thuế lợi tức đánh vào các công ty cổ phần (công ty do nhiều người sở hữu) và phần lợi nhuận không chia của các công ty để lại để tích luỹ tái sản xuất mở rộng, cũng không nằm trong thành phần của thu nhập có thể sử dụng (YD). Toàn bộ thu nhập có thể sử dụng (YD) chỉ bao gồm thu nhập mà các hộ gia đình có thể tiêu dùng (C), và để dành hay tiết kiệm (S). Ta có: YD = C + S Bảng 2.3: Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu xét dưới góc độ thuế Thu nhập Thu nhập ròng tài sản ròng tài sản Khấu hao Khấu hao Khấu hao NX GNP G GDP I Thuế gián thu Thuế gián thu NNP C Y Thuế trực thu – Trợ cấp = YD Bảng 2.4: Phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu dựa vào yếu tố chi phí đầu vào Thành phần Thu nhập Thu nhập từ các GDP NNP của GNP quốc dân yếu tố đầu vào Thu nhập từ Thu nhập từ tài sản nước tài sản nước Khấu hao ngoài ròng ngoài ròng GNP theo G Thuế gián thu Thu nhập từ cho thuê giá thị NNP theo trường I GDP theo giá Thu nhập quốc Lợi nhuận giá thị dân (Y) = NNP NX thị trường Thu nhập từ tự làm trường theo mức chi phí C đầu vào Tiền công tiền lương 38
  7. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân 2.1.5. Ý nghĩa của các chỉ tiêu GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô. Những hạn chế của chỉ tiêu GNP và GDP Một quốc gia hay một doanh nghiệp đều luôn tìm cách đo lường kết quả hoạt động của mình sau mỗi thời kỳ nhất định. Tuy vậy, doanh nghiệp quan tâm nhiều đến lợi nhuận thu được. Lợi nhuận là thước đo tốt nhất kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, thành tựu kinh tế của một quốc gia phản ánh trong việc quốc gia đó sản xuất ra được bao nhiêu, nói cách khác, nó đã sử dụng những yếu tố sản xuất của mình đến mức độ nào, để tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sống nhân dân của đất nước mình. Chỉ tiêu GNP hay GDP là những thước đo tốt về thành tựu kinh tế của một đất nước. Ngân hàng thế giới (WB) hay quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng như các nhà kinh tế khác thường sử dụng các chỉ tiêu này để so sánh quy mô sản xuất của các nước khác nhau trên thế giới. GNP và GDP thường được sử dụng để phân tích những biến đổi về sản lượng của một đất nước trong thời gian khác nhau. Trường hợp này, người ta thường tính tốc độ tăng trưởng của GNP hay GDP thực tế nhằm loại trừ sự biến động của giá cả. Các chỉ tiêu GNP hay GDP còn được sử dụng để phân tích sự thay đổi mức sống của dân cư. Lúc này người ta tính các chỉ tiêu GNP và GDP bình quân đầu người: GNP bình quân đầu người = GNP/tổng dân số GNP của Mỹ qua các năm (Tỷ USD) Như vậy, mức sống của dân cư của một nước phụ thuộc vào số lượng hàng hoá và dịch vụ mà họ sản xuất ra và quy mô dân số của nước đó. Sự thay đổi về GNP hay GDP bình quân đầu người phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng dân số và năng suất lao động. Nói cách khác, mức sống của dân cư của một nước phụ thuộc và đất nước đi ó g ải quyết vấn đề dân số trong mối quan hệ với năng suất lao động như thế nào? Thu nhập bình quân đầu người trên thế giới 39
  8. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Có sự khác nhau giữa hai chỉ tiêu GNP bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người. GNP bao gồm GDP và phần chênh lệch về tài sản từ nước ngoài, nên GNP bình quân đầu người là một thước đo tốt hơn, xét theo khía cạnh số lượng hàng hoá và dịch vụ mà mỗi người dân một nước có thể mua được. Còn GDP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra tính bình quân cho một người dân. Điề u này giải thích tại sao các thống kê của World Bank thường đưa ra các ước tính về GDP, trong khi các nước tính bình quân đầu người lại dùng GNP. Hiện nay, hầu hết các Chính phủ của các quốc gia trên thế giới đều phải dựa vào số liệu và các ước tính về GNP và GDP để lập các chiến lược phát triển kinh tế dài hạn và kế hoạch ngân sách, tiền tệ ngắn hạn. Từ các chỉ tiêu GNP và GDP, các cơ quan hoạch định chính sách đưa ra các phân tích về tiêu dùng, đầu tư, ngân sách, lượng tiền, xuất nhập khẩu, giá cả, tỷ giá hối đoái, Các phân tích này thường được tiến hành trên cơ sở các mô hình toán kinh tế vĩ mô. Thiếu các thống kê chính xác về GNP và GDP, Nhà nước thiếu một cơ sở tối thiểu cần thiết cho quá trình quản lý và điều tiết kinh tế. Muốn có số liệu chính xác về GNP và GDP cần có phương pháp khoa học để tính toán GNP và GDP. Một câu hỏi đặt ra là: GNP có phải là thướ c đo hoàn hảo về thành tựu kinh tế cũng như phúc lợi kinh tế của một đất nước không? Câu trả lời là không. Qua trình bày ở trên, phương pháp tính GDP và do đó GNP đã bỏ sót nhiều sản phẩm và dịch vụ mà nhân dân làm hoặc giúp đỡ nhau làm, vì đơn giản là không đưa ra thị trường và không báo cáo. Nhiều hoạt động kinh tế phi pháp hoặc hợp pháp nhưng không được báo cáo nhằm trốn thuế, cũng không tính được vào GNP. Những thiệt hại về môi trường như ô nhiễm nước, không khí, tắc nghẽn giao thông, gây thiệt hại cho sức khoẻ và môi trường, cũng không được “điều chỉnh” khi tính GNP. Sau cùng, GNP phản ánh những hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Nhưng hàng hoá cao cấp nhất cho đời sống con người là thời gian nghỉ ngơi, để bổ khuyết cho sự thoải mái về tâm lý thì không thể nào ghi chép và phản ánh được vào GNP. Nhiều nhà kinh tế đã đề nghị sử dụng một khái niệm mới: Phúc lợi kinh tế ròng (NEW) để đo lường phúc lợi thay cho GNP hoặc bổ sung cho nó. Nhưng vì phương pháp tính NEW còn là mới mẻ, chưa theo dõi được, nên chúng ta tiếp tục sử dụng GNP làm thước đo thành tựu kinh tế của một đất nước. 2.2. Chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số điều chỉnh GDP 2.2.1. Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index – CPI) Một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng tiếp theo là chỉ số giá tiêu dùng. Giống như GDP, CPI cũng được coi là một hàn thử biểu của nền kinh tế do thay đổi trong CPI có tác động trực tiếp đến mức sống và phúc lợi kinh tế của mọi người dân trong xã hội. Bởi vậy, CPI thu hút sự quan tâm theo dõi của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, từ các nhà kinh tế đến những người dân thường. Cơ quan chứ c năng của Chính phủ là Tổng cục Thống kê tiến hành xây dựng CPI như thế nào và đo lường tỷ lệ lạm phát ra sao và sử dụng chỉ số này như thế nào để so sánh những con số tính bằng đơn vị đồng (tiền) ở những thời điểm khác nhau là những nội dung chủ yếu được đề cập trong phần này. Tiếp đó là chỉ ra những sự khác biệt chủ yếu giữa hai chỉ số giá là chỉ số điều chỉnh GDP và CPI và những hạn chế của việc dùng những thay đổi trong CPI là các thước đo của lạm phát. 40
  9. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân 2.2.1.1. Định nghĩa chỉ số giá tiêu dùng Chỉ số giá tiêu dùng đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hóa và dịch vụ mà một người tiêu dùng điển hình mua. Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối phản ánh xu thế và mức độ biến động của giá bán lẻ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ dùng trong sinh hoạt của dân cư và các hộ gia đình. Bởi vậy, nó được dùng để theo dõi sự thay đổi của chi phí sinh hoạt theo thời gian. Khi chỉ số giá tiêu dùng tăng, nghĩa là mức giá trung bình tăng. Kết quả là người tiêu dùng Tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn để có thể mua được một lượng hàng hóa và dịch vụ như cũ nhằm duy trì mức sống trước đó của họ. Ở Việt Nam, hàng tháng Tổng cục thống kê tính toán và công bố những số liệu mới về CPI. Trên cơ sở những con số thống kê này, các nhà phân tích nhanh chóng đưa ra các bình luận về nguyên nhân thay đổi giá cả và đồng thời dự báo triển vọng thay đổi giá cả trong tương lai trên các mặt báo hàng ngày hoặc đưa lên Tivi. Chúng ta có thể đọc thấy những con số thống kê này trên các Niên giám Thống kê do Tổng cục thống kê phát hành hàng năm. 2.2.1.2. Xây dựng chỉ số giá tiêu dùng Bây giờ, chúng ta tìm hiểu xem các nhà thống kê kinh tế tính chỉ số CPI như thế nào? Trước hết để xây dựng chỉ số giá tiêu dùng, các nhà thống kê kinh tế chọn năm cơ sở/kỳ gốc. Tiếp đó, họ tiến hành các cuộc điều tra tiêu dùng trên khắp các vùng của đất nước để xác định “giỏ” hàng hóa và dịch vụ điển hình mà dân cư mua trong năm cơ sở. Hiện nay, giỏ hàng đặc trưng để tính CPI củi a V ệt Nam được hình thành bởi 10 nhóm hàng cấp I; 34 nhóm hàng cấp II và 86 nhóm hàng cấp 3. CPI và xu thế biến động của mức giá hàng tiêu dùng được tính toán như thế nào? Để biết được một cách chính xác, chúng ta hãy xét 1 ví dụ đơn giản với các bước tiến hành cụ thể sau: t • Bước 1: Chọn năm cơ sở và xác định giỏ hàng cho năm cơ sở (qi ) với t biểu thị năm hay thời kỳ thứ t, với t = 0 ở năm cơ sở; và i là dạng viết gọn của mặt hàng tiêu dùng thứ i trong giỏ hàng cơ sở. Giả sử năm cơ sở là năm 2002, trong ví dụ chúng ta thì: t0 qqii= Chúng ta giả định rằng ở năm cơ sở, giỏ hàng của người tiêu dùng điển hình chỉ bao gồm có 2 mặt hàng là gạo và cá với lượng hàng mua tương ứng là 10 kg và 5 kg cá. Chúng ta cố định giỏ hàng này cho các năm tiếp theo, vì mục đích của chúng ta là xác định ảnh hưởng của những thay đổi giá đến chi phí giỏ hàng ở các năm khác nhau. t • Bước 2: Xác định giá của từng mặt hàng trong giỏ hàng cố định cho các năm ( pi ) với giá của mặt hàng gạo và giá cả như đã được ghi chép lại ở bảng 2.5. Bây giờ chúng ta tiến hành tính CPI cho từng năm và tỷ lệ lạm phát qua các năm. • Bước 3: Tính chi phí mua giỏ hàng cố định theo giá thay đổi theo các năm. 41
  10. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Chi phí cho giỏ hàng của mỗi năm được tính bằng cách nhân giá của từng mặt hàng của năm tương ứng với lượng cố định của các mặt hàng đó ở năm cơ sở và sau đó cộng các giá trị tìm được với nhau. Do chỉ có giá các mặt hàng thay đổi qua các năm nên chi phí giỏ hàng ở năm t là t0. ∑pqii • Bước 4: Tính chỉ số giá tiêu dùng cho các năm. Sau khi có số liệu về chi phí cho giỏ hàng cho từng năm, chúng ta có thể tính CPI, đó là một chỉ số. Cũng giống như ở chỉ số điều chỉnh GDP để tiện lợi, các nhà thống kê kinh tế thường thể hiện giá trị của chỉ số ở năm cơ sở là 100 thay vì 1,0. CPI của một năm/thời kỳ nào đó chính là tỷ số giữa giá trị (chi phí) giỏ hàng của năm đó và giá trị (chi phí) giỏ hàng của năm cơ sở nhân với 100. Đó là: pqt0 t ∑ ii .100 CPI= (00 ) ∑pqii Bảng 2.5: Ví dụ về cách xác định chỉ số giá tiêu dùng CPI Chỉ tiêu Năm cơ sở Giai đoạn hiện hành Hàng hóa Số lượng Giá ($) Chi tiêu ($) Giá ($) Chi tiêu ($) Cam 5 0,8 4 1,2 6 Cắt tóc 6 11 66 12,5 75 Vé xe buýt 100 1,4 140 1,5 150 Tổng 210 231 Bảng 2.5 mô tả cách xác định chỉ số giá tiêu dùng CPI trong năm hiện hành và năm cơ sở đối với 3 loại hàng hóa là lượng cam tiêu thụ, số đầu cắt tóc và số vé xe buýt đi trong 1 năm. Giá cả hiện tại của 3 loại hàng hóa đều tăng lên, nhưng chúng ta xét số lượng 3 loại hàng hóa này không đổi ở thời điểm hiện tại và một thời điểm nào đó lấy làm gốc. Khi đó, chỉ số giá tiêu dùng tại năm cơ sở và thời điểm hiện tại là: 210 CPI=⋅= 100 100 ; 0 210 231 CPI=⋅= 100 110 1 210 Bảng 2.6: Ví dụ về cách xác định giá trị các chỉ số CPI từ năm 2002 – 2004 Giá gạo Giá cá Chi tiêu Năm CPI (1000đ/kg) (1000đ/kg) (1000đ) 2002 3 15 105 100 2003 4 17 125 119,0 2004 5 22 160 152,4 Trong ví dụ ở Bảng 2.6, CPI của năm 2003 là 119. Theo định nghĩa thì CPI với năm 2002 là năm cơ sở là 100. CPI năm 2003 là 119 cho biết rằng mức giá của năm 2003 cao hơn mức giá của năm cơ sở 2002 là 19%. Tương tự, so với năm cơ sở 2002 thì mức giá của năm 2004 đã tăng lên là 52,4%. 42
  11. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân 2.2.1.3. Tính toán chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam Ở Việt Nam, hàng tháng nhân viên Tổng cục Thống kê cùng các Chi cục Thống kê tại các tỉnh, thành trong cả nước tiến hành quan sát và ghi chép giá cả của các mặt hàng trong từng nhóm hàng thuộc giỏ hàng đã cố định. Khi đã có đầy đủ số liệu, họ tính CPI thông qua việc tính chi cho giỏ hàng hóa và dịch vụ theo giá hiện hành của thời kỳ tính toán. Giá trị tính được này sau đó được đem so sánh với giá trị của giỏ hàng trong thời kỳ cơ sở. Hiện nay, Tổng cục Thống kê tính chỉ số giá tiêu dùng theo công thức Laspeyres, như sau: CPI .d CPI = ∑ i0i ∑d0i Trong đó: CPIi là chỉ số giá cả tiêu dùng tính theo nhóm hàng tiêu dùng i. d0i là quyền số cố định của nhóm hàng i tính theo năm cơ sở/ kỳ gốc. Chỉ số giá tiêu dùng được tính chung cho tất cả các nhóm hàng và tính riêng cho từng nhóm hàng. Khi tính toán chỉ số giá tiêu dùng. Tổng cục thống kê cố gắng tính tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng điển hình mua. Ngoài ra, họ còn tìm cách gắn quyền số cho những hàng hóa và dịch vụ này theo số lượng của mỗi loại hàng mà người tiêu dùng mua. Quyền số dùng trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng là tỷ trọng chi tiêu cho từng nhóm hàng so với tổng chi tiêu trung bình của một người trong một Thống kê chỉ số tiêu dùng năm, tính bằng tỷ lệ phần trăm. Quyền số được cố định và sử dụng để tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ ngày 1/5/2006, được biểu thị ở bảng 2.7. Bảng 2.7 dưới đây phân tích chi tiêu của người tiêu dùng theo các nhóm hàng hóa và dịch vụ chủ yếu ở Việt Nam. Nhóm hàng được tiêu dùng nhiều nhất là lương thực và thực phẩm, chiếm tới 42,85% ngân sách của người tiêu dùng điển hình. Nhóm này bao gồm chi tiêu về lương thực chiếm 9,86% và chi tiêu về thực phẩm chiếm 25,2%. Bảng 2.7: Quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam Stt Nhóm hàng hóa và dịch vụ (Chỉ số chung) Quyền số (%) 1. Lương thực - thực phẩm 42,85 2. Đồ uống và thuốc lá 4,56 3. May mặc, mũ nón, giày dép 7,21 4. Nhà ở và vật liệu xây dựng 9,99 5. Thiết bị và đồ dùng gia đình 8,62 6. Dược phẩm, y tế 5,42 7. Phương tiện đi lại, bưu điện 9,04 8. Giáo dục 5,41 9. Văn hóa, thể thao, giải trí 3,59 10. Đồ dùng và dịch vụ khác 3,31 Nguồn: Tổng cục Thống kê 43
  12. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân 2.2.2. Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Deflator DGDP) Chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) đo lường mức giá trung bình của tất cả mọi hàng hóa và dịch vụ được tính vào GDP. Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế. Nó phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá của năm cơ sở. Chỉ số điều chỉnh GDP ở những năm sau (thời kỳ sau) phản ánh sự gia tăng của GDP danh nghĩa so với nă m gốc, nó chỉ cho biết sự thay đổi sản lượng do giá thay đổi chứ không cho biết sự gia tăng của GDP thực tế. Do GDP danh nghĩa phải bằng GDP thực tế ở năm cơ sở theo định nghĩa nên chỉ số điều chỉnh GDP ở năm cơ sở luôn bằng 1. Tuy nhiên, để tiện lợi, các nhà thống kê kinh tế thường thể hiện giá trị của chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số giảm phát ở năm cơ sở là 100 thay vì là 1. Rõ ràng là đọc chỉ số điều chỉnh GDP của năm 2004 là 196,9 dễ hơn là 1,969 (so với năm cơ sở là 1994). Do vậy, tỷ số giữa giá trị của GDP danh nghĩa và GDP thực tế được nhân với 100. Chúng ta có công thức tính chỉ số điều chỉnh GDP là: t t GDPn D1GDP = t ⋅ 00 GDPr Bảng 2.8: Ví dụ về cách xác định giá trị chỉ số điều chỉnh GDP Chỉ tiêu Giai đoạn hiện hành Năm cơ sở Hàng hóa Số lượng Giá ($) Chi tiêu ($) Giá ($) Chi tiêu ($) Cam 4240 1,05 4452 1 4240 Máy tính 5 2100 10500 2000 10000 Bút 1060 1 1060 1 1060 Tổng 16012 15300 Bảng 2.8 mô tả cách xác định chỉ số điều chỉnh GDP. Chúng ta xác định giá trị GDP danh nghĩa và GDP thực tế trước, sau đó tính được: DGDP = (16012/15300) X 100 = 104,7 Chúng ta có thể minh họa những điều đã được đề cập trên bằng một ví dụ đơn giản, đó là nghiên cứu một nền kinh tế tưởng tượng chỉ sản xuất hai hàng hóa cuối cùng là gạo, nước mắm. Đối với mặt hàng gạo, đơn vị đo lường về lượng được tính bằng kg và giá được tính theo đơn vị nghìn đồng một kg. Về mặt hàng nước mắm đơn vị đo lường về lượng được tính bằng lít và giá được tính theo nghìn đồng một lít. Chúng ta tìm hiểu xem các nhà thống kê kinh tế tính toán các chỉ tiêu về GDP danh nghĩa (GDPn), GDP thực tế (GDPr) theo cách tiếp cận chỉ tiêu, chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) và tỷ lệ tăng trưởng GDP hay tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm (g) như thế nào. Dựa theo các công thức đã nêu và chọn năm 2002 là năm cơ sở chúng ta tính được các chỉ tiêu trên căn cứ vào số liệu ở bảng 2.9. Bảng 2.9: Xác định GDP danh nghĩa, GDP thực tế, và chỉ số điều chỉnh GDP Gạo (kg) Nước mắm (lít) Tính các chỉ tiêu Năm Giá Lượng Giá Lượng GDPn GDPr DGDP 2002 3 1000 7 180 4260 4260 100 2003 4 1200 7,5 190 6225 4930 126,3 2004 5 1350 8 210 8430 5520 152,7 44
  13. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Nhìn vào kết quả tính toán ở bảng 2.9, chúng ta thấy rằng GDP danh nghĩa và GDP thực tế bằng nhau và bằng 4260 trong năm cơ sở là năm 2002. Vì vậy, chỉ số điều chỉnh GDP bằng 100. Trong năm 2003, GDP danh nghĩa là 6225 trong khi GDP thực tế là 4930, chúng ta có chỉ số điều chỉnh GDP là 126,3. Điều này có nghĩa là mức giá chung của nền kinh tế trong năm 2003 đã tăng lên 26,3% so với năm 2002. 2.2.3. Cách tính tỷ lệ lạm phát Tính tỷ lệ lạm phát (π) là công việc cuối cùng, giúp chúng ta hiểu được ứng dụng của CPI trong phân tích kinh tế. Cụ thể, chúng ta dùng CPI để tính tỷ lệ lạm phát. Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung theo thời gian. Do vậy, tỷ lệ lạm phát là phần trăm thay đổi của mức giá chung so với thời kỳ trước đó. Trong ví dụ này, tỷ lệ lạm phát hay tốc độ tăng giá của giỏ hàng tiêu dùng của năm sau so với năm trước được tính bằng công thức sau: CPItt-1 -CPI πt = ×100% Tỷ lệ lạm phát CPIt-1 Trong đó, πt là tỷ lệ lạm phát năm t, và CPIt là chỉ số giá tiêu dùng năm t. Ở ví dụ trên, tỷ lệ lạm phát tính được của chúng ta là 19% trong năm 2003 và 28% trong năm 2004 hay mức giá chung của giỏ hàng hóa đã tăng lên 19% trong năm 2003 và 28% trong năm 2004. Điều này cũng có nghĩa là so với năm 2002, chi phí người tiêu dùng điển hình phải bỏ ra để mua cùng một giỏ hàng đã tăng lên 19% trong năm 2003 và tiếp tục tăng lên thêm 28% trong năm 2004. Bảng 2.10: Xác định tỷ lệ lạm phát dựa vào chỉ số điều chỉnh GDP (theo bảng 2.9) Gạo (kg) Nước mắm (lít) Tính các chỉ tiêu Năm t Giá Lượng Giá Lượng GDPn GDPr DGDP π 2002 3 1000 7 180 4260 4260 100 - 2003 4 1200 7,5 190 6225 4930 126,3 26,3% 2004 5 1350 8 210 8430 5520 152,7 20,9% 2.3. Các chỉ tiêu đo lường khác 2.3.1. Lãi suất và tỷ lệ lãi suất thực tế Hiệu chỉnh các biến số kinh tế khỏi ảnh hưởng của lạm phát cũng diễn tra trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng, cụ thể đối với lãi suất tiền gửi và tiền vay. Khi gửi tiền tiết kiệm vào tài khoản ở ngân hàng người ta nhận được một khoản tiền lãi từ khoản tiền vay. Trái lại, khi vay tiền của ngân hàng để kinh doanh hoặc mua sắm hàng tiêu dùng người ta phải trả lãi cho khoản tiền vay đó. Như vậy, lãi suất thể hiện một khoản thanh toán trong tương lai cho một sự chuyển giao tiền trong quá khứ. Bởi vậy, lãi suất luôn liên quan đến việc so sánh các khoản tiền tại các thời điểm khác nhau. 45
  14. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Giao dịch tại Ngân hàng Để dễ hiểu chúng ta xem xét một ví dụ. Giả sử anh A gửi một khoản tiền là 10 triệu đồng vào ngân hàng Techcombank với lãi suất hàng năm là 10%. Sau một năm, anh A nhận được 1 triệu tiền lãi hay số lượng đồng mà anh A có tăng lên 10%. Rút toàn bộ số tiền cả gốc và lãi, anh A có 11 triệu đồng. Có đúng anh A được lợi một số tiền là 1 triệu đồng so với số tiền 10 triệu mà anh A gửi vào một năm trướ c đây không? Đúng là số lượng tiền anh A nhận được này tăng lên 10%. Tuy nhiên, giá hàng hóa trong năm đã tăng lên 9,5% nên mỗi đồng bây giờ mua được ít hàng hóa hơn trước hay sức mua của anh A không tăng lên 10%. Thực tế, lượng hàng hóa mà anh A mua được chỉ tăng thêm 0,5%. Nếu lạm phát cao hơn 10%, giả sử là 12%, thì sức mua thực tế của anh A đã giảm 2%. Lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền được gọi là lãi suất danh nghĩa (Nominal Interest Rate – ký hiệu là i) và lãi suất đã trừ tỷ lệ lạm phát gọi là lãi suất thực tế (Real Interest Rate – ký hiệu là r). Từ đó chúng ta có thể mô tả mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế dưới dạng công thức sau: r = i – π Như vậy, lãi suất thực tế là khoản chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa cho biết số đồng tiền tăng lên như thế nào qua thời gian trong khi lãi suất thực tế cho biết sức mua của tài khoản ngân hàng tăng lên như thế nào qua thời gian. Trên thực tế, lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế không phải luôn biến đổi chiều theo thời gian. Trong 2 năm 2004 và 2005, mặc dù lãi suất danh nghĩa cao và luôn được điều chỉnh cao hơn nhưng lãi suất thực tế lại rất thấp và thậm chí giảm xuống thành lãi suất âm. Đó là tình huống lạm phát cao và lạm phát gia tăng đã giảm giá trị của khoản tiền tiết kiệm nhanh hơn lãi suất danh nghĩa tăng giá trị của khoản tiền này. 2.3.2. Đo lường tỷ lệ thất nghiệp Thống kê việc làm và thất nghiệp là một trong những số liệu kinh tế được mọi người quan tâm nhất. Thứ nhất là một nền kinh tế vận hành tốt sẽ sử dụng hết các nguồn lực hiện có. Thất nghiệp có thể là tín hiệu cho biết các nguồn lực dư thừa, do đó chỉ ra nền kinh tế có thể có những vấn đề trong việc vận hành. Thứ hai là thất nghiệp được mọi người đặc biệt quan tâm bởi vì đó là vấn đề Kinh tế Vĩ mô ảnh hưởng đến con người trực tiếp nhất và nghiêm trọng nhất. Tỷ lệ thất nghiệp 46
  15. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Thước đo thất nghiệp dựa trên cơ sở phân loại dân số hoạt động kinh tế (tính từ đủ 15 tuổi trở lên): POP = E + U + NL Trong đó, POP là dân số hoạt động kinh tế, E là số người có việc, U là số người thất nghiệp, và NL là những người không nằm trong lực lượng lao động. Do đó, chúng ta có: L = U + E Trong đó: L là lực lượng lao động. L/POP là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (là phần trăm của dân số hoạt động kinh tế nằm trong lực lượng lao động). Tỷ lệ có việc (em) và tỷ lệ thất nghiệp (u) được xác định như sau: E e = m L U u1e==− L m 2.3.3. Tiết kiệm tư nhân và tiết kiệm Chính phủ Tiết kiệm tư nhân là phần còn lại của thu nhập sau khi đã tiêu dùng. Tiết kiệm của Chính phủ chính là cán cân ngân sách của Chính phủ; nó là phần còn lại của nguồn thu ngân sách sau khi Chính phủ đã chi tiêu trong năm tài khóa. Trong nền kinh tế giản đơn, nền kinh tế chỉ có hai tác nhân kinh tế là hộ gia đình và hãng kinh doanh thì tiết kiệm Chính phủ không tồn tại, chỉ có tiết kiệm tư nhân. Khi đó, giả sử gọi SP là tiết kiệm của các hộ gia đình thì SP chính bằng đầu tư tư nhân (I) và cũng đúng bằng tiết kiệm quốc dân. Trong nền kinh tế có yếu tố Chính phủ (nền kinh tế đóng), nếu gọi tiết kiệm của Chính phủ là SG thì tiết kiệm quốc dân là SN = SG + SP; trong đó, tiết kiệm khu vực tư nhân (SP) = thu nhập có thể sử dụng (YD) – chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của các hộ gia đình (C); tiết kiệm của Chính phủ cũng chính là cán cân ngân sách Chính phủ (B = T – G). 2.4. Các phương pháp xác định GDP 2.4.1. Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô Trong nền kinh tế, các tác nhân đã tạo nên mối quan hệ chằng chịt trong việc tạo ra các hàng hoá và dịch vụ. Để đơn giản cho việc tính toán, người ta chỉ xem xét mô hình kinh tế giản đơn có hai tác nhân tham gia là hộ gia đình và hãng kinh doanh. Mô hình đó chính là sơ đồ luân chuyển Kinh tế Vĩ mô: Hàng hóa dịch vụ Chỉ tiêu của hộ gia đình Khu vực Khu vực hộ gia Doanh đình nghiệp Yếu tố đầu vào Thu nhập của hộ gia đình Hình 2.1. Sơ đồ dòng luân chuyển Kinh tế Vĩ mô 47
  16. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Dòng bên trong là sự luân chuyển các nguồn lực thật: Hàng hoá và dịch vụ từ các hãng kinh doanh sang hộ gia đình và dịch vụ về yếu tố sản xuất từ hộ gia đình sang các hãng kinh doanh. Dòng bên ngoài là các giao dịch thanh toán bằng tiền: Các hãng kinh doanh trả tiền cho các dịch vụ yếu tố sản xuất tạo nên thu nhập của các hộ gia đình; các hộ gia đình thanh toán các khoản chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ. Sơ đồ trên với giả định: Tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ bằng tổng lượng tiền mà các hộ gia đình trả cho các hãng để mua hàng hoá và dịch vụ, gợi cho ta hai cách tính khối lượng sản phẩm trong một nền kinh tế, do đó: • Nửa trên của sơ đồ là cơ sở của phương pháp tính giá trị hàng hoá và dịch vụ theo luồng sản phẩm. • Nửa dưới của sơ đồ là cơ sở của phương pháp tính giá trị hàng hoá và dịch vụ theo luồng thu nhập. 2.4.2. Phương pháp xác định GDP theo luồng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (còn được gọi là theo luồng sản phẩm) Qua sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô cho thấy, có thể xác định GDP theo giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nền kinh tế. Chúng ta gọi tắt là phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm. Tuy nhiên, sơ đồ trên quá đơn giản. Ở đây chúng ta sẽ mở rộng sơ đồ đó, tính tới cả khu vực Chính phủ và xuất nhập khẩu. Theo phương pháp luồng sản phẩm, GDP bao gồm toàn bộ giá trị thị trường của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng, mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh và Chính phủ mua; và khoản xuất khẩu ròng được thực hiện trong một đơn vị thời gian (một năm). Công thức tính: GDP = C + I + G + X – IM Cấu thành của GDP theo phương pháp này bao gồm: • Tiêu dùng của hộ gia đình (C): Tiêu dùng của hộ gia đình (C) bao gồm tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của các hộ gia đình mua được trên thị trường để chi dùng trong đời sống hàng ngày của họ như chi để mua cam, chuối, bánh kẹo, thực phẩm, chi cho phương tiện giao thông, v.v Như vậy, GDP chỉ bao gồm những sản phẩm được bán và bỏ sót nhiều hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình tự sản xuất để tiêu dùng mà không phải để bán, hoặc những hàng hoá dịch vụ, nhìn chung không được Tiêu dùng của hộ gia đình mua bán trên thị trường nhưng rất cần thiết cho đời sống của gia đình. Chẳng hạn, nông sản cho các gia đình nông dân tự sản xuất, tự chi tiêu; công việc của các nhà nội trợ, một bữa tiệc do các thành viên gia đình tự làm lấy, v.v Tuy nhiên, tổng hợp các khoản chi tiêu cho tiêu dùng của các hộ gia đình ghi chép cũng đã chiếm vào khoảng 60% – 70% GDP của một đất nước. • Đầu tư (I): Tổng sản phẩm không chỉ bao gồm các hàng hoá tiêu dùng của các hộ giá đình mà còn bao gồm cả hàng hoá đầu tư mà các hãng kinh doanh mua sắm để tái sản xuất mở rộng. Hàng hoá đầu tư bao gồm trang thiết bị là các tài sản cố định của doanh nghiệp, nhà ở, văn phòng mới xây dựng và chênh lệch hàng tồn kho của các hãng kinh doanh. 48
  17. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Như vậy, khái niệm đầu tư ở đây khác với khái niệm đầu tư nói chung. Đầu tư, theo cách hiểu của các nhà kinh tế, ứng dụng trong tính toán tổng sản phẩm quốc nội là việc mua sắm các tư liệu lao động mới nhằm tạo ra tư bản dưới dạng hiện vật như nhà máy mới, công cụ mới, Không nên nhầm lẫn khái niệm trên với quan niệm đầu tư củ a các nhà kinh doanh, như việc sử dụng vốn để mua cổ phần, cổ phiếu hay mở một tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng. Đó chỉ là hành động thay đổi thành phần tính tài sản của cá nhân hay doanh nghiệp, không làm cho tổng sản phẩm cố định của đất nước tăng lên. Tổng đầu tư là giá trị các tư liệu lao động chưa trừ phần đã hao mòn trong quá trình sản xuất. Còn đầu tư ròng bằng tổng đầu tư trừ đi khấu hao tài sản cố định (còn gọi là tiêu dùng cơ bản). Đầu tư ròng = Tổng đầu tư – Hao mòn tài sản cố định Trong tính toán tổng sản phẩm quốc nội, ta tính tổng đầu tư chứ không phải đầu tư ròng. Cuối cùng như đã nêu ở trên, trong thành phần của đầu tư còn có khoản chênh lệch về hàng tồn kho. Vậy hàng tồn kho là gì? Hàng tồn kho hay dự trữ là những hàng hoá được giữ lại để sản xuất hay tiêu thụ sau này. Thực chất của hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động. Đó là những vật liệu hay các yếu tố đầu vào của sản xuất sẽ được sử dụng trong chu kỳ sản xuất tới, hoặc các thành phẩm chờ bán ra trong thời gian tới. Nhưng, theo quy định, chúng được xếp vào hàng hoá đầu tư, khi tính toán tổng sản phẩm quốc nội. Tóm lại, khái niệm đầu tư là một khái niệm phức tạp. Khái niệm này chỉ rõ phần tổng sản phẩm quốc nội – hay một phần của khả năng sản xuất của xã hội – dùng để tạo vốn cơ bản (vốn cố định) cho nền kinh tế, chứ không phải để tiêu dùng cho hiện đại. Đầu tư có tác dụng tái sản xuất mở rộng, như vậy cũng có tác dụng tăng tiêu dùng trong tương lai. Đầu tư là việc giảm tiêu dùng trong tương lai, là kết quả của quá trình tích luỹ: tích luỹ từ khu vực tư nhân và khu vực Chính phủ. • Chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ (G): Chính phủ cũng là một tác nhân kinh tế – một người tiêu dùng lớn nhất. Hàng năm, Chính phủ các nước phải chi tiêu những khoản tiền rất lớn vào việc xây dựng đường xá, trường học, bệnh viện, quốc phòng, an ninh và trả lương cho bộ máy quản lý hành chính Nhà nước. Toàn bộ chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ đều được tính vào luồng sản phẩm. Ký hiệu là (G). Những khoản chi tiêu sau không được tính vào GDP: Những khoản thanh toán chuyển nhượng, ký hiệ u TR, bao gồm: Bảo hiểm xã hội cho người già, tàn tật, những người thuộc diện chính sách, trợ cấp thất nghiệp, v.v Những khoản này chi ra nhưng không tương ứng với một hàng hoá và dịch vụ nào mới được sản xuất ra trong nền kinh tế, do đó không làm tăng GDP. Chi tiêu của Chính phủ được tài trợ chủ yếu bằng thuế (ký hiệu TA). TA bao gồm 2 loại: Trực thu và gián thu. Nhưng khi tính GDP theo cung trên tức là tính theo luồng hàng hoá và dịch vụ, chúng ta chưa cần quan tâm xử lý vấn đề thuế khoá. Vì rằng, bản thân giá cả thị trường đã bao gồm trong đó các loại thuế gián thu, đánh vào hàng hoá tiêu dùng. • Xuất và nhập khẩu (X và IM): Hàng xuất khẩu là những hàng hoá được sản xuất ở trong nước, nhưng được bán ra cho người tiêu dùng ở nước ngoài. Hàng nhập khẩu là những hàng được sản xuất ở nước ngoài, nhưng được mua để phục vụ tiêu dùng nội địa. 49
  18. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Căn cứ vào quan điểm đó, ta thấy hàng xuất khẩu làm tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), trái lại hàng nhập khẩu không nằm trong sản lượng nội địa, do đó cần phải được trừ đi khỏi khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và Chính phủ đã mua và tiêu dùng. Ví dụ: Giả sử GDP = 3000, C = 1700, G = 50, thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài bằng 0 và NX = 40. 1. Mức đầu tư trong nền kinh tế bằng bao nhiêu? I = GDP – C – G – NX = 2000 – 1790 = 1210 2. Giả sử xuất khẩu bằng 350, nhập khẩu bằng bao nhiêu? IM = X – NX = 350 – 40 = 310 3. Giả sử mức khấu hao bằng 130, NNP bằng bao nhiêu? NNP = GDP – DP = 3000 – 130 = 2870 2.4.3. Phương pháp xác định GDP theo luồng thu nhập (phương pháp chi phí đầu vào) Khác với phương pháp trên, tính GDP theo giá trị sản phẩm đầu ra, phương pháp này tính GDP theo chi phí các yếu tố đầu vào của sản xuất, mà các doanh nghiệp phải thanh toán, như tiền công, tiền trả lãi do vay vốn, tiền thuê nhà, thuê đất và lợi nhuận – phần thưởng cho sự mạo hiểm trong kinh tế. Tổng chi phí mà doanh nghiệp phải thanh toán trở thành thu nhập của công chúng. Sản xuất trong doanh nghiệp Gọi: Chi phí tiền công, tiền lương là w Chi phí thuê vốn (Lãi suất) là i Chi phí thuê nhà, thuê đất là r Lợi nhuận là π Công thức chung xác định GDP theo yếu tố chi phí trong trường hợp đơn giản nhất, tức là trường hợp nền kinh tế chỉ bao gồm các hộ gia đình và các doanh nghiệp, chưa tính tới khấu hao như sau: GDP theo chi phí cho yếu tố sản xuất = w + i + r + π Trong nền kinh tế có yếu tố Chính phủ và khu vực nước ngoài, khi tính GDP theo phương pháp này cần có hai điều chỉnh: 50
  19. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân • Một là, vì GDP theo chi phí cho yếu tố sản xuất chưa tính đến khoản thuế mà Chính phủ đánh vào hàng hoá tiêu dùng thu qua doanh nghiệp. Đó là thuế gián thu (Te). • Hai là, GDP tính theo yếu tố sản xuất chưa tính đến hao mòn tài sản cố định. Vì rằng hao mòn tài sản cố định không tương ứng với khoản thu nhập nào của hộ gia đình. Chi phí khấu hao tài sản cố định phát sinh, các hãng phải bù đắp các hao mòn bộ phận hay toàn bộ tài sản cố định. Khi tính GDP ta phải thêm vào công thức trên Xác định GDP theo giá trị phần thuế gián thu (Te) và phần khấu hao ită tài sản cố định (Dp): GDP = w + i + r + π + Te + Dp 2.4.4. Phương pháp xác định GDP theo giá trị gia tăng GDP là tổng giá trị của hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một nước. Nhưng để các hàng hoá cuối cùng đến tay người tiêu dùng, chúng ta phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất. Mỗi công đoạn, mỗi doanh nghiệp chuyên môn hoá chỉ đóng góp một phần giá trị của mình để tạo ra một hàng hoá hoặc dịch vụ hoàn chỉnh. Vì vậy, khi tính GDP theo cung dưới – luồng thu nhập hoặc chi phí cần rất thận trọng để tránh tính trùng. Giá trị gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá trị của sản lượng của một doanh nghiệp với khoản mua vào về vật liệu và dịch vụ từ các doanh nghiệp khác, mà đã được dùng hết trong việc sản xuất ra sản lượng đó. Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu, được tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng; khoản thuế này do đối tượng tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu. Thuế giá trị gia tăng được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng và được viết tắt là VAT (Value Added Tax). Giá trị gia tăng của một doanh nghiệp là số đo phần đóng góp của doanh nghiệp đó vào tổng sản lượng của nền kinh tế. Tổng giá trị gia tăng của mọi đơn vị sản xuất và dịch vụ trong vòng một năm là tổng sản phẩm quốc nội GDP. Như vậy, để tránh tính trùng, cần chú ý chỉ đưa vào tổng sản phẩm quốc nội những hàng hoá cuối cùng, loại bỏ các hàng hoá trung gian dùng để tạo nên hàng hoá cuối cùng đó; hoặc chỉ cộng giá trị gia tăng ở từng giai đoạn của sản xuất. Cộng giá trị gia tăng của các đơn vị sả n xuất trong cùng một ngành, rồi cộng giá trị gia tăng của các ngành trong nền kinh tế, chúng ta thu được một con số đúng bằng GDP. Ví dụ 1: Giả sử trong một nền kinh tế chỉ có 5 doanh nghiệp là: nhà máy thép, xí nghiệp cao su, xí nghiệp cơ khí, xí nghiệp bánh xe và xí nghiệp xe đạp. Nhà sản xuất xe đạp bán xe đạp của anh ta cho người tiêu dùng cuối cùng với giá 8000. Trong quá trình sản xuất xe đạp, anh ta đã mua bánh xe với giá 1000, thép với giá 2500 và một số máy móc trị giá 1800 của xí 51
  20. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân nghiệp cơ khí. Xí nghiệp bánh xe mua cao su của xí nghiệp thép với giá 1000 để sản xuất máy móc. a.Hãy tính GDP của nền kinh tế giả định trên đây bằng phương pháp giá trị gia tăng. b.Tổng chi tiêu trong nền kinh tế là bao nhiêu? c.Hai phương pháp tính GDP trong câu 1 và 2 đem lại kết quả như nhau? Trả lời: Trước hết để giải bài toán này chúng ta lập bảng: Bảng 2.11: Xác định GDP theo phương pháp giá trị gia tăng Giá trị Giá trị Hàng hoá Người bán Người mua giao dịch gia tăng Thép Nhà máy thép Nhà máy cơ khí 1000 1000 Thép Nhà máy thép XN xe đạp 2500 2500 Cao su XN cao su XN bánh xe 600 600 Máy móc Nhà máy cơ khí XN xe đạp 1800 800 Bánh xe XN bánh xe XN xe đạp 1000 400 Xe đạp XN xe đạp Người tiêu dùng 8000 4500 Tổng 9800 a. Dựa vào bảng, chúng ta dễ dàng tính được GDP bằng cách lấy tổng giá trị gia tăng, tăng thêm hay mới tạo ra qua mỗi giao dịch: GDP = ∑VA = 9800 b. Tổng chi tiêu trong nền kinh tế: E = chi tiêu để mua xe đạp + chi tiêu để mua máy móc E = 8000 + 1800 = 9800 c. Vậy các kết quả tính ở câu 1 và 2 đều bằng nhau. Ví dụ 2: Về cách tính thuế giá trị gia tăng: Để sản xuất ra sản phẩm may mặc thì phải qua 3 cơ sở sản xuất, thuế GTGT phải nộp ở từng cơ sở, tính theo phương pháp khấu trừ thuế như sau: Bảng 2.12: Tính thuế theo phương pháp giá trị gia tăng Doanh số Thuế đầu vào Thuế đầu ra Thuế phải nộp Cơ sở kinh doanh (1) (2) (3) (4) 1. Cơ sở sản xuất sợi - Bông nhập khẩu, vật tư mua vào 200 20 - - - Sợi sản xuất bán ra 250 - 25 25 - 20 = 3 2. Cơ sở dệt vải - Sợi mua vào để sản xuất 250 25 - - - Vải sản xuất bán ra 280 - 28 28 - 25 = 3 3. Cơ sở may mặc - Vải mua vào 280 28 - - - Quần áo bán ra 320 - 32 32 - 28 = 4 4. Người tiêu dùng mua quần áo 320 32 52
  21. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Ghi chú: (1) Doanh số mua vào, bán ra chưa có thuế. (2) Thuế đầu vào được tính khấu trừ. (3) Thuế đầu ra người mua hàng phải trả. (4) Số thuế cơ sở kinh doanh còn phải nộp NSNN. Theo ví dụ trên đây, thuế GTGT của các mặt hàng này tính theo mức thuế suất là 10%, số thuế GTGT phải nộp ở các khâu đầu vào sản xuất sợi là: Khâu bông nhập khẩu và vật tư mua vào: 20 Sản xuất sợi: 5 Dệt vải: 3 May mặc: 4 Cộng: 32 Giá quần áo người tiêu dùng mua (chưa kể thuế GTGT) là 320, phải trả thuế GTGT là 32. Như vậy, khi mua quần áo, người tiêu dùng phải thanh toán là 320 + 32 = 352. Số thuế GTGT là 32 mà người tiêu dùng phải chịu đúng bằng số thuế GTGT đã nộp ở khâu: Bông nhập khẩu và vật tư của các đơn vị khác, sản xuất sợi, dệt vải, may quần áo bán, CHÚ Ý Nếu quá trình thu thập, tính toán và ghi chép các số liệu thống kê được chính xác, đầy đủ, kịp thời thì kết quả tính toán theo 3 phương pháp trình bày trên đây đều giống nhau. 2.5. Các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản 2.5.1. Đồng nhất thức tiết kiệm và đầu tư Trước hết, chúng ta xét nền kinh tế giản đơn chỉ bao gồm hai tác nhân kinh tế: Các hộ gia đình và các doanh nghiệp. Trong sơ đồ dòng chu chuyển kinh tế vĩ mô (hình 2.2), chúng ta đã giả định rằng thu nhập của các hộ gia đình được đem chi tiêu hết vào việc mua các hàng hóa và các dịch vụ tiêu dùng. Do vậy, chi tiêu mua hàng hóa, dịch vụ ở cung trên bằng thu nhập ở cung dưới. Trong thực thế thì các hộ gia đình thường không tiêu dùng hết thu nhập của mình. Họ dành một phần thu nhập dưới dạng tiết kiệm (S). Tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập sau khi đã tiêu dùng. Trong nền kinh tế giản đơn, không có sự tham gia của Chính phủ, không có thuế và trợ cấp nền: YD = Y và S = Y – C hay Y = C + S Vậy là có sự rò rỉ ở cung dưới của dòng luân chuyển. Tiết kiệm tách ra khỏi luồng thu nhập. Tương tự, ở cung trên, cung hàng hóa và dịch vụ cuối cùng không chỉ bao gồm hàng tiêu dùng của các hộ gia đình. Các doanh nghiệp cũng mua một lượng hàng đầu tư (I). Như vậy, có sự bổ sung thêm vào cung trên. Ta có: Y = C + I. Kết hợp với trên ta có: S = I, đây chính là đồng nhất thức tiết kiệm và đầu tư. Hình 2.2 mô tả một cách khái quát, tiết kiệm làm thế nào chuyển hóa thành đầu tư trong một nền kinh tế thị trường. 53
  22. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Khu vực Khu vực hộ gia đình doanh nghiệp Thị trường vốn Hình 2.2. Tiết kiệm và đầu tư trong dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế giản đơn Hình 2.2 cho thấy các thể chế tài chính, ngân hàng phát triển trong nền kinh tế thị trường, thu hút toàn bộ tiết kiệm cho các hãng vay để đầu tư mở rộng sản xuất. Khu vực Khu vực hộ gia đình doanh nghiệp Thị trường vốn Ngân sách NN Ngân hàng TƯ Hình 2.3. Tiết kiệm và đầu tư trong dòng luân chuyển Kinh tế Vĩ mô trong nền kinh tế đóng Trong nền kinh tế đóng, hình 2.3 mô tả một cách khái quát, tiết kiệm làm thế nào chuyển hóa thành đầu tư trong một nền kinh tế đóng. Ngân hàng trung ương sẽ kiểm soát thị trường vốn. Khác với nền kinh tế giản đơn, nền kinh tế đóng có bổ sung thêm 2 yếu tố của chính phủ đó là thuế và chi tiêu của Chính phủ. Cả 2 yếu tố này đều tác động đến hộ gia đình, hãng kinh doanh và cả thị trường vốn. 2.5.2. Đồng nhất thức mô tả các mối quan hệ giữa các khu vực trong nền kinh tế Chúng ta hãy mở rộng hình 2.3, tính tới yếu tố Chính phủ và khu vực nước ngoài. Hình 2.4 ta mở rộng dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô đơn giản có tính tới cả khu vực Chính phủ và người nước ngoài (xuất – nhập khẩu). NFi Khu vực Khu vực Khu vực hộ gia doanh nước ngoài đình nghiệp C M S Thị trường vốn I X T Ngân sách NN G NFA D R Ngân hàng TW Hình 2.4. Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở 54
  23. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân Ở cung dưới, ngoài tiết kiệm (S), thuế (T) và nhập khẩu (M) cũng là những “rò rỉ”. Thực vậy, một phần thu nhập của dân cư phải làm nghĩa vụ với Nhà nước dưới dạng thuế thu nhập (TA). Mặt khác, Nhà nước cung tiến hành trợ cấp cho các gia đình có khó khăn (TR). Nếu sử dụng khái niệm mức thuế ròng (T) là hiệu số giữa thuế thu nhập và trợ cấp, ta có: T = TA – TR Thuế ròng là một “rò rỉ ” ở cung dưới. Một phần khác của thu nhập dùng để mua hàng tiêu dùng nhập khẩu, tạo nên thu nhập cho dân cư nước ngoài, không đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân. Như vậy, tổng số “rò rỉ” ở cung dưới là: S + T + M Ở cung trên, Chính phủ cũng chi tiêu một phần hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. Mặt khác, hàng xuất khẩu được sản xuất ra trong nền kinh tế nhưng không để tiêu dùng trong nước. Do vậy, tổng số “bổm sung” ới vào luồng sản phẩm bằng: I + G + X Tổng các rò rỉ ở cung dưới phải bằng tổng các “bổ sung” thêm vào cung trên để đảm bảo cho tổng hàng hóa ở cung trên bằng tổng thu nhập ở cung dưới và các tài khoản quốc gia là cân bằng. Do vậy, ta có: S + T + M = I + G + X Chuyển về các số hạng tương ứng, thu được: (T – G) = (I – S) + (X – M) Đồng nhất thức trên là đồng nhất thức thể hiện mối quan hệ giữa các khu vực hay các tác nhân trong nền kinh tế. Vế trái là khu vực Chính phủ, vế phải là khu vực tư nhân (hãng kinh doanh và hộ gia đình) và khu vực nước ngoài. Đồng nhất thức cho thấy trạng thái của mỗi khu vực có ảnh hưởng đến các khu vực còn lại của đất nước như thế nào. Lấy trường hợp đơn giản để phân tích. Chẳng hạn, nếu khu vực nước ngoài, xuất khẩu bằng nhập khẩu (X = M), nghĩa là cán cân thương mại của đất nước là cân bằng thì ngân sách của Chính phủ bị thâm hụt (G > T), ở khu vực tư nhân, tiết kiệm sẽ lớn hơn đầu tư (S > I). Nói cách khác, khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu được, đầu tư của doanh nghiệp sẽ thấp hơn tiết kiệm của các hộ gia đình. Ngược lại, nếu đầu tư của doanh nghiệp đúng bằng số tiết kiệm của dân cư (I = S) thì tổng thâm hụt ngân sách phải được bù đắp bằng thâm hụt cán cân thương mại. Trong trường hợp này, đất nước lâm vào tình trạng thâm hụt kép: Thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại. Kết luận rút ra từ phần này là, cần phải có những chính sách và biện pháp kinh tế vĩ mô giữ cho các khu vực kinh tế ở trạng thái cân bằng, để cho toàn bộ nền kinh tế là cân bằng. Để hiểu rõ hơn kết luận vừa nêu trên, chúng ta hãy nghiên cứu lý thuyết cân bằng kinh tế, bắt đầu từ cân bằng tổng cung – tổng cầu. Các bài tiếp theo sẽ đi sâu phân tích vấn đề này. 55
  24. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân TÓM LƯỢC CUỐI BÀI Sau khi nghiên cứu xong bài 2, chúng ta có thể tóm lược một số nội dung nổi bật như sau: • Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất trong một thời kỳ nhất định (thường lấy là một năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình. GNP danh nghĩa (GNPn) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả hiện hành, tức là giá cả của cùng thời kỳ đó. GNP thực tế (GNPr) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả cố định ở một thời kỳ lấy làm gốc. • Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). GDP không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại tiến hành ở nước ngoài. Khi hạch toán các tài khoản quốc dân, người ta thường dùng thuật ngữ “Thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài” để chỉ phần chênh lệch giữa thu nhập của công dân nước ta ở nước ngoài và công dân nước ngoài ở nước ta. GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài • Khi tính toán GDP và GNP chúng ta đã bỏ sót nhiều sản phẩm và dịch vụ mà nhân dân tự cung tự cấp, vì đơn giản là không đưa ra thị trường và không báo cáo. Nhiều hoạt động kinh tế phi pháp hoặc hợp pháp nhưng không được báo cáo nhằm trốn thuế, cũng không tính được vào GNP. Những thiệt hại về môi trường như ô nhiễm nước, không khí, tắc nghẽn giao thông, gây thiệt hại cho sức khoẻ và môi trường, cũng không được “điều chỉnh” khi tính GNP. • Sản phẩm quốc dân ròng (NNP) là phần GNP còn lại sau khi trừ đi khấu hao. Như đã biết các tư liệu lao động bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Sau khi tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp phải bù đắp ngay phần hao mòn này. Chúng không trở thành nguồn thu nhập của cá nhân và xã hội và không tham gia vào quá trình phân phối cho các thành viên trong xã hội. • Thu nhập quốc dân (Y) là phần thu được khi lấy tổng sản phẩm quốc dân ròng (NNP) trừ đi phần thuế gián thu. Thu nhập quốc dân phản ánh tổng thu nhập từ các yếu tố sản xuất: Lao động, vốn, đất đai, tài nguyên, khả năng quản lý, của nền kinh tế hay đồng thời cũng là thu nhập của tất cả các hộ gia đình trong nền kinh tế. • Thu nhập có thể sử dụng (YD) là phần thu nhập quốc dân còn lại sau khi các hộ gia đình nộp lại các loại thuế trực thu và nhận được các trợ cấp của Chính phủ hoặc doanh nghiệp. Thuế trực thu chủ yếu là các loại thuế đánh vào thu nhập do lao động; thu nhập do thừa kế tài sản của cha ông để lại, các loại đóng góp của cá nhân như bảo hiểm xã hội, lệ phí giao thông, • Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hóa và dịch vụ mà một người tiêu dùng điển hình mua. Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu phản ánh xu thế và mức độ biến động của giá bán lẻ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ dùng trong sinh hoạt của dân cư và các hộ gia đình. Nó được dùng để theo dõi sự thay đổi của chi phí sinh hoạt theo thời gian. Chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) đo lường mức giá trung bình của tất cả mọi hàng hóa và dịch vụ được tính vào GDP. Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế. 2 chỉ số này có những điểm khác biệt: Trong khi chỉ số điều chỉnh GDP đo lường mức giá của các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra thì CPI đo lường mức giá của các hàng hóa và dịch vụ đượ c tiêu dùng. 56
  25. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân • Có thể tính GDP theo ba phương pháp hay còn gọi là ba cách tiếp cận, đó là: Phương pháp chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng, phương pháp tính theo luồng thu nhập, và phương pháp giá trị gia tăng. Phương pháp chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng tính GDP bằng cách cộng chi tiêu cho tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu của Chính phủ, và xuất khẩu ròng với nhau. Phương pháp tính theo luồng thu nhập tính GDP bằng cách cộng tất cả các khoản thu nhập trả cho các yếu tố sản xuất với nhau, đó là tiền công cho lao động, tiền lãi trả cho vốn đi vay, tiền thuê trả tài sản đi thuê như đất đai và các tài sản thuê khác, và lợi nhuận trả cho doanh nhân; ngoài ra chúng ta còn phải cộng thêm thuế gián thu và khấu hao. Phương pháp giá trị gia tăng đánh giá giá trị sản lượng của từng ngành bằng cách tính giá trị gia tăng của ngành đó và sau đó tổng cộng giá trị sản lượng của các ngành với nhau. • Lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền gọi là lãi suất danh nghĩa và lãi suất đã trừ tỷ lệ lạm phát gọi là lãi suất thực tế. Lãi suất thực tế là khoản chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa cho biết số đồng tiền tăng lên như thế nào qua thời gian trong khi lãi suất thực tế cho biết sức mua của tài khoản ngân hàng tăng lên như thế nào qua thời gian. Trên thực tế, lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế không phải luôn biến đổi chiều theo thời gian. • Tiết kiệm tư nhân là phần còn lại của thu nhập sau khi đã tiêu dùng. Tiết kiệm của Chính phủ chính là cán cân ngân sách của Chính phủ; nó là phần còn lại của nguồn thu ngân sách sau khi Chính phủ đã chi tiêu trong năm tài khóa. 57
  26. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân CÂU HỎI ÔN TẬP Trả lời đúng, sai và giải thích ngắn gọn các câu hỏi dưới đây: 1. Nếu một nước tập trung vào việc sản xuất những hàng hóa có giá bán cao, đương nhiên nó sẽ làm tăng được thu nhập quốc dân của mình. 2. Nếu các số liệu được thu thập đầy đủ, chính xác và kịp thời, đồng thời quá trình xử lý số liệu cũng chính xác và kịp thời thì ba phương pháp tính GDP phải cho cùng một kết quả. 3. Phương pháp giá trị gia tăng giúp chúng ta tránh được sự tính trùng khi tính toán sản lượng của nền kinh tế. 4. Trong nền kinh tế đóng không có Chính phủ, tiết kiệm luôn luôn bằng đầu tư. 5. GDP và GNP là những chỉ tiêu hoàn hảo để đánh giá thành tựu kinh tế của một quốc gia. 6. Muốn so sánh mức sản xuất của một quốc gia giữa hai năm khác nhau người ta thường dùng chỉ tiêu GNP hoặc GDP danh nghĩa. 7. Tổng sản phẩm trong nước tính theo chi phí nhân tố bằng tổng sản phẩm trong nước tính theo giá thị trường trừ thuế gián thu ròng. 8. Sản lượng tiềm năng là mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có khả năng sản xuất được trong điều kiện toàn dụng nhân công và không gây lạm phát. 9. Trong nền kinh tế mở, tổng tiết kiệm luôn luôn bằng đầu tư. 10. Tổng sản phẩm trong nước tính theo giá hiện hành là chỉ tiêu phản ánh hoạt động thực tế của nền kinh tế. 11. Trong nền kinh tế đóng có Chính phủ, tiết kiệm quốc gia luôn luôn bằng đầu tư. 12. Trong một quốc gia, chỉ số giá tiêu dùng CPI và chỉ số điều chỉnh GDP có giá trị bằng nhau trong một giai đoạn nhất định. 58
  27. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân BÀI TẬP THỰC HÀNH 1. Giả sử GDP = 5000, C = 3500, G = 1000, NX = - 50, và thu nhập ròng từ nước ngoài bằng 0. a. Mức đầu tư trong nền kinh tế bằng bao nhiêu? b. Giả sử xuất khẩu là 550 thì nhập khẩu là bao nhiêu? c. Giả sử khấu hao bằng 100 thì thu nhập quốc dân là bao nhiêu? d. Xác định mức đầu tư ròng nếu biết giá trị khấu hao ở câu c. 2. Có số liệu về chi tiêu và thu nhập (đơn vị tính là 1000 tỷ USD) của nền kinh tế nước Mỹ năm 2001 như sau: Tiêu dùng của các hộ gia đình (C) là 7,05 Tổng đầu tư tư nhân (I) là 1,67 Chi tiêu của Chính phủ là 1,84 Xuất khẩu ròng là (- 0,36) Khấu hao là 1,34 Thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài là (- 0,02) Thuế gián thu ròng là 0,63 Trợ cấp của Chính phủ cho người lao động là 6,01 Thu nhập từ cho thuê tài sản là 0,75 Lợi nhuận cổ phần là 0,76 Tiề n thuê vốn là 0,55 Thu nhập từ các khoản cho thuê khác của các cá nhân là 0,18 a. Xác định giá trị thu nhập quốc dân. b. Tính GDP bằng cách sử dụng phương pháp thu nhập và phương pháp chi tiêu. So sánh giá trị GDP tính được thông qua hai phương pháp này. 3. Mỗi giao dịch sau đây có ảnh hưởng như thế nào (nếu có) đến các thành phần của GDP của Việt Nam theo cách tiếp cận chi tiêu? Hãy giải thích. a. Gia đình bạn mua một chiếc tủ lạnh Samsung sản xuất trong nước. b. Gia đình bạn mua một ngôi nhà bốn tầng mới xây. c. Hãng Toyota Việt Nam bán một chiếc xe hiệu Corola từ hàng tồn kho. d. Bạn mua một chiếc bánh gato của công ty Kinh Đô. e. Thành phố Hà Nội thay mới hệ thống chiếu sáng trong dịp hội nghị APEC. f. Hãng Honda mở rộng nhà máy ở Vĩnh Phúc. g. Chính phủ tăng trợ cấp cho những người già không nơi nương tựa. 4. Những hàng hóa đã qua sử dụng và được bán lại, và những hàng hóa dịch vụ không được giao dịch công khai trên thị trường (ví dụ lương thực thực phẩm được tạo ra và tiêu dùng ngay tại gia đình) thường không được tính vào GDP. Tại sao lại như vậy? Điều này ảnh hưởng ra sao đến việc dùng GDP làm thước đo phúc lợi kinh tế của một quốc gia và so sánh giữa các nước phát triển và kém phát triển? 59
  28. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân 5. Dưới đây là số liệu về GDP của Việt Nam (Nguồn: Niên giám thống kê 2003): GDP danh nghĩa (nghìn tỷ đồng) GDP thực tế* (nghìn tỷ đồng) 536 313 606 336 (1994 là năm cơ sở) a. GDP danh nghĩa năm 2003 đã tăng bao nhiêu phần trăm so với năm 2002? b. GDP thực tế năm 2003 đã tăng bao nhiêu phần trăm so với năm 2002? c. Mức giá chung năm 2003 đã tăng bao nhiêu phần trăm so với năm 2002? d. Tốc độ tăng GDP danh nghĩa lớn hơn hay nhỏ hơn so với tăng GDP thực tế? Hãy giải thích. 6. Vào ngày 1/5/2009, một người thợ cắt tóc tên là Nam kiếm được 400.000 đồng tiền cắt tóc. Theo tính toán của anh, trong ngày hôm đó, các dụng cụ thiết bị của anh bị hao mòn giá trị là 50.000 đồng. Trong 350.000 đồng còn lại, anh Nam chuyển 30.000 đồng cho Chính phủ dưới dạng thuế doanh thu, 100.000 đồng giữ lại cửa hàng để tích lũy mua thiết bị trong tương lai. Phần thu nhập còn lại là 220.000 đồng anh phải nộp thuế thu nhập 70.000 đồng và chỉ mang về nhà thu nhập sau khi đ ã nộp thuế. Dựa vào những thông tin này, hãy tính đóng góp của anh Nam vào những chỉ tiêu thu nhập sau: a. Tổng sản phẩm trong nước b. Sản phẩm quốc dân ròng c. Thu nhập quốc dân d. Thu nhập cá nhân e. Thu nhập khả dụng 7. Giao dịch nào đóng góp nhiều hơn vào giá trị GDP: Chiếc vòng kim cương mới được một người giàu có mua hay chai nước sô-đa mà một người đang khát mua? Tại sao? Một nước tập trung nguồn lực vào sản xuất hàng hóa đắt tiền có làm tăng GDP và tăng phúc lợi kinh tế cho người dân được không? 8. Sự kiện sau đây có tác động như thế nào đến CPI và chỉ số điều chỉnh GDP? a. Đồng hồ Senko tăng giá 15% b. Xe máy Honda SCR 110 nhập khẩu tăng giá 20% c. Dầu thô tăng giá 20% d. Dịch cúm gia cầm làm tăng giá thực phẩm 10% e. Tiền lương cho nhân viên hành chính sự nghiệp tăng 35%. 9. Giả sử rằng mọi người chỉ tiêu dùng ba loại hàng hóa như trình bày trong bảng sau: Năm Bóng Tennis Vợt Tennis Mũ chơi Tennis Giá (1.000 đ) Lượng (Cái) Giá (1.000 đ) Lượng (cái) Giá (1.000 đ) Lượng (cái) 2008 20 100 400 10 10 200 2009 20 100 600 10 20 200 a. Giá từng mặt hàng thay đổi bao nhiêu %? Mức giá chung thay đổi bao nhiêu %? b. Vợt tennis trở nên đắt hay rẻ một cách tương đối so với mũ chơi tennis? Liệu phúc lợi của một số người này có thay đổi so với phúc lợi của một số người khác không? Hãy giải thích. c. Việc chọn năm 2008 hoặc năm 2009 làm năm cơ sở có ảnh hưởng gì đến kết quả trả lời của các câu a và b hay không? 60
  29. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân 10. Các tình huống sau đây có ảnh hưởng gì đến việc tính toán CPI? Hãy giải thích. a. Phát minh ra máy tính xáy tay sử dụng năng lượng mặt trời. b. Sự xuất hiện mua nhiều máy tính hơn do giá máy tính giảm. c. Tăng trọng lượng mỗi lon bia mà giá không đổi. d. Người tiêu dùng chuyển sang sử dụng xe hơi tiết kiệm nhiên liệu nhiều hơn do giá xăng tăng. 11. Giả thiết tiền lương hưu hàng năm được điều chỉnh theo cùng tỷ lệ với sự gia tăng của CPI, và hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng CPI ước tính quá cao sự gia tăng chi phí sinh hoạt trên thực tế. a. Nếu người già tiêu dùng một giỏ hàng như những người khác thì hàng năm lương hưu tăng có cải thiện mức sống cho người già không? Hãy giải thích. b. Trên thực tế, người già chi tiêu nhiều hơn cho chăm sóc sức khỏe so với những người trẻ tuổi, và chi phí chăm sóc sức khỏe đã tăng nhanh hơn mức giá chung. Bạn cần biết gì thêm để xác định rõ xem liệu phúc lợi của người già có thực sự tăng lên không? 61
  30. Bài 2: Hach toán thu nhập quốc dân BÀI TẬP LỚN 1. Hãy tự thu thập số liệu để xác định và so sánh giá trị của các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP của nền kinh tế Australia năm 2007 so với năm 2006. Bạn có bình luận gì với chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số điều chỉnh GDP ở Việt Nam trong các năm đó. 2. Hãy thu thập các số liệu về GDP của Việt Nam theo giá trị danh nghĩa và giá trị thực tế từ năm 1995 đến năm 2007. 62