Bài giảng Điện học - Cao đẳng Cộng đồng Kiên Giang

pdf 81 trang ngocly 3500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Điện học - Cao đẳng Cộng đồng Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_dien_hoc_cao_dang_cong_dong_kien_giang.pdf

Nội dung text: Bài giảng Điện học - Cao đẳng Cộng đồng Kiên Giang

  1. © your[Type address] HTTP:// HIEPKHACHQUAY BENJAMIN CROWELL WWW.THUVIENVATLY.COM  number] phone your [Type BÀI GI ẢNG  [Type your e your [Type ĐIỆN HỌC TLY.COM - mail address] An Minh, Xuân Mậu Tý 2008
  2. Tặng Lớp Sư phạm Vật lí K2000 Trường Cao đẳng Cộng đồng Kiên Giang
  3. Nguyên bản: Electricity and Magnetism (freebook) Tác giả: Benjamin Crowell Người dịch: hiepkhachquay Bản dịch còn nhiều sai sót, mong nhận được ý kiến góp ý của các bạn mailto: manhan101@yahoo.com
  4. MỤC LỤC Chương 1 Điện và Nguyên tử 1.1 Cuộc truy tìm lực nguyên tử 2 1.2 Điện tích, điện tính và từ tính 3 1.3 Nguyên tử 6 1.4 Lượng tử hóa điện tích 11 1.5 Electron 14 1.6 Mô hình bánh bông lan rắc nho của nguyên tử 18 Bài tập 21 Chương 2 Hạt nhân 2.1 Phóng xạ 24 2.2 Mẫu hành tinh nguyên tử 27 2.3 Số nguyên tử 31 2.4 Cấu trúc của hạt nhân 35 2.5 Lực hạt nhân mạnh, phân rã alpha và sự phân hạch 38 2.6 Lực hạt nhân yếu, phân rã beta 40 2.7 Sự nhiệt hạch 44 2.8 Năng lượng hạt nhân và năng lượng liên kết 45 2.9 Tác dụng sinh học của bức xạ ion hóa 47 2.10 Sự hình thành các nguyên tố 49 Bài tập 52 Chương 3 Mạch điện, Phần 1 3.1 Dòng điện 54 3.2 Mạch điện 57 3.3 Điện thế 58 3.4 Điện trở 61 3.5 Tính dẫn điện của vật chất 68 3.6 Áp dụng tính toán 71 Bài tập 73 Chương 4 Mạch điện, Phần 2 4.1 Sơ đồ mạch điện 78 4.2 Các điện trở mắc song song và quy tắc mối nối 78 4.3 Các điện trở mắc nối tiếp 83 Bài tập 88
  5. Chương 5 Các trường lực 5.1 Tại sao lại là các trường lực 92 5.2 Trường hấp dẫn 94 5.3 Điện trường 97 5.4 Điện thế đối với trường không đều 102 5.5 Hai hoặc ba chiều 103 5.6 Điện trường của sự phân bố điện tích liên tục 105 Bài tập 107 Chương 6 Điện từ học 6.1 Từ trường 109 6.2 Tính từ trường và lực từ 112 6.3 Cảm ứng điện từ 115 6.4 Sóng điện từ 120 6.5 Năng lượng của trường 123 6.6 Sự đối xứng và khuynh hướng thuận một bên 125 Bài tập 127 Chương A Điện dung và Độ tự cảm A.1 Điện dung và độ tự cảm 132 A.2 Mạch dao động 135 A.3 Điện thế và dòng điện 137 A.4 Sự tắt dần 140 A.5 Trở kháng 143 Bài tập 145
  6. Chương 1 ĐIỆN VÀ NGUYÊN TỬ Nơi kết thúc của kính thiên văn là nơi bắt đầu của kính hiển vi. Trong hai tầm nhìn vĩ mô và vi mô này, cái nào quan trọng hơn ? Victor Hugo Cha của ông qua đời khi mẹ ông đang thai nghén. Cậu con trai bị mẹ hắt hủi nên ông bị tống khứ đến một trường nội trú khi mẹ ông tái giá. Bản thân ông chưa hề lấy vợ, nhưng ở tuổi trung niên, ông có quan hệ gần gũi với một người phụ nữ trẻ tuổi hơn nhiều, mối quan hệ đó đã chấm dứt khi ông đột phát chứng thần kinh. Sau những thành công khoa học buổi đầu, ông đã sống phần lớn quãng đời còn lại của mình trong sự thất vọng vì bất lực không giải mã được bí mật của thuật giả kim. Con người được mô tả ở trên chính là Isaac Newton, nhưng không phải một Newton hoan hỉ trong các sách giáo khoa tiểu sử thông thường. Vậy tại sao ta lại chú ý đến mặt buồn bã của cuộc đời ông ? Đối với các nhà giáo dục khoa học hiện đại, nỗi ám ảnh lâu dài của Newton với thuật giả kim có thể xem là một sự bối rối, một sự xao lãng khỏi thành tựu chủ yếu của ông là sáng lập nền cơ học hiện đại. Tuy nhiên, đối với Newton, việc nghiên cứu thuật giả kim của ông có liên quan tự nhiên với nghiên cứu của ông về lực và chuyển động. Gốc rễ của phép phân tích chuyển động của Newton là tính phổ quát của nó: nó đã thành công trong việc mô tả thế giới trên trời và dưới đất với cùng những phương trình đó, trong khi trước đấy người ta vẫn cho rằng mặt trời, mặt trăng, các sao và hành tinh khác biệt về cơ bản so với những vật thể thuộc trái đất. Nhưng Newton nhận thấy rằng nếu như khoa học mô tả được mọi thế giới tự nhiên theo một cách thống nhất, thì nó không đủ khả năng thống nhất quy mô con người với quy mô vũ trụ: ông sẽ không hài lòng cho đến khi nào ông hợp nhất được vũ trụ vi mô vào trong bức tranh đó. Chúng ta không gì phải ngạc nhiên trước thất bại của Newton. Mặc dù ông là một tín đồ chắc chắn về sự tồn tại của các nguyên tử, nhưng không hề có thêm bằng chứng thực nghiệm nào cho sự tồn tại của chúng kể từ khi những người Hi Lạp cổ đại lần đầu tiên thừa nhận chúng trên cơ sở thuần túy triết học. Thuật giả kim làm việc dốc sức dưới truyền thống bí mật và thần bí. Newton đã chuyển hóa lĩnh vực “triết học tự nhiên” thành cái mà chúng ta công nhận là khoa học vật lí hiện đại, và thật là không công bằng nếu như phê © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 1
  7. bình ông đã thất bại trong việc biến thuật giả kim thành ngành hóa học hiện đại. Thời gian lúc đó chưa chín muồi. Kính hiển vi là một phát minh mới, và nó là một khoa học mũi nhọn khi người đương thời của Newton là Hooke khám phá những cơ thể sống cấu tạo nên tế bào. 1.1 Cuộc truy tìm lực nguyên tử Newton không phải là nhà khoa học đầu tiên. Ông là thầy phù thủy cuối cùng. John Maynard Keynes Tuy nhiên, sẽ cần phải nắm bắt được chuỗi tư tưởng của Newton và xét nơi nó đưa chúng ta đến với sự thuận lợi của nhận thức khoa học hiện đại. Trong việc thống nhất quy mô con người và vũ trụ của sự tồn tại, ông đã hình dung lại cả hai sân khấu trên đó các diễn viên (cây cối và nhà cửa, hành tinh và các sao) tương tác qua lực hút và lực đẩy. Ông cũng bị thuyết phục rằng đối tượng ngự trị thế giới vi mô là các nguyên tử, cho nên vấn đề còn lại chỉ là xác định xem chúng tác dụng lên nhau bằng loại lực gì. Sự sáng suốt tiếp theo của ông cũng không kém nổi bật so với sự bất lực của ông mang nó đến đơm hoa kết trái. Ông nhận thấy nhiều lực ở quy mô con người – như lực ma sát, lực nhớt, những lực thông thường giữ các vật chiếm giữ cùng một không gian, và vân vân – đều phải đơn giản là biểu hiện của một loại lực cơ bản hơn tác dụng giữa các nguyên tử. Băng dính vào giấy vì các nguyên tử trong băng hút các nguyên tử trong giấy. Nhà của tôi không đổ sập xuống tâm của trái đất vì các nguyên tử của nó đẩy các nguyên tử bùn đất nằm dưới nó. Ở đây ông đã bị sa lầy. Thật cám dỗ khi nghĩ rằng lực nguyên tử là một hình thức của hấp dẫn, loại lực ông biết là phổ quát, cơ bản và đơn giản về mặt toán học. Tuy nhiên, hấp dẫn luôn luôn là lực hút, nên làm sao có thể sử dụng nó để giải thích sự tồn tại lực nguyên tử cả đẩy lẫn hút ? Lực hấp dẫn giữa các vật có kích thước bình thường cũng cực kì nhỏ, đó là lí do tại sao chúng ta chưa hề chú ý tới xe cộ và nhà cửa hút chúng ta về mặt hấp dẫn. Thật khó hiểu được làm sao hấp dẫn có thể gây ra bất cứ thứ gì mãnh liệt như nhịp đập của con tim hay sự nổ của thuốc súng. Newton tiếp tục viết lách hàng triệu từ ghi chép thuật giả kim đầy luận cứ về một số lực khác, có lẽ “lực thần thánh” hay “lực sinh dưỡng” là ví Bốn miếng băng được làm cho nhiễm điện, 1. Tùy thuộc vào loại kết hợp chọn để kiểm tra, lực tương tác có thể là dụ lực được mang bởi tinh dịch đến trứng. lực hút, 2, hoặc lực đẩy, 3. Thật may mắn, ngày nay chúng ta có đủ kiến thức để nghiên cứu một mối hoài nghi khác với tư cách là ứng cử viên cho lực nguyên tử: đó là lực điện. Lực điện thường thấy giữa các vật chuẩn bị bằng cách cọ xát (hay những tương tác bề mặt khác), chẳng hạn như quần áo chà xát lên nhau trong máy sấy. Một ví dụ hữu ích được chỉ rõ trong hình a/ 1: dán hai miếng băng lên mặt bàn, và sau đó đặt thêm hai miếng nữa lên trên chúng. Kéo mỗi cặp lên khỏi bàn, và rồi tách chúng ra. Hai miếng phía trên sẽ đẩy nhau, a/2, hai miếng dưới cũng vậy. Tuy nhiên, một miếng phía © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 2
  8. dưới sẽ hút một miếng phía trên, a/3. Lực điện như thế này có một số điểm tương tự như lực hấp dẫn, loại lực khác mà chúng ta biết là lực cơ bản: Lực điện là phổ biến. Mặc dù một số chất, ví dụ như lông thú, cao su, và chất dẻo, phản ứng với sự nhiễm điện mạnh hơn những chất khác, nhưng mọi vật chất đều tham gia vào lực điện ở một mức độ nào đó. Không có chất nào là chất “phi điện”. Vật chất vốn có tính hấp dẫn lẫn tính điện. Thí nghiệm cho thấy lực điện, giống như lực hấp dẫn, là lực tỉ lệ nghịch với bình phương. Nghĩa là, lực điện giữa hai quả cầu tỉ lệ với 1/r2, trong đó r là khoảng cách tâm-nối-tâm giữa chúng. Ngoài ra, lực điện còn có ý nghĩa hơn lực hấp dẫn về phương diện là ứng cử viên cho lực cơ bản giữa các nguyên tử, vì chúng ta đã thấy chúng có thể hút nhau hoặc đẩy nhau. 1.2 Điện tích, điện tính và từ tính Điện tích “Điện tích” là thuật ngữ chuyên môn dùng để chỉ cho biết một vật đã được làm nhiễm để tham gia vào tương tác điện. Cần phân biệt với cách sử dụng phổ biến, trong đó thuật ngữ này được sử dụng bừa bải để chỉ bất cứ tính chất điện nào. Chẳng hạn, mặc dù chúng ta nói một cách thông tục là “điện tích” của pin, nhưng bạn có thể dễ dàng xác minh là pin không hề có điện tích nào về ý nghĩa chuyên môn, tức là nó không tác dụng bất cứ lực điện nào lên một miếng băng đã bị làm cho nhiễm điện như đã mô tả ở phần trước. Hai loại điện tích Chúng ta có thể dễ dàng thu thập hàng loạt dữ liệu về lực điện giữa các chất khác nhau được làm cho tích điện theo những cách khác nhau. Ví dụ, chúng ta lấy lông mèo nhiễm điện bằng cách cọ xát lên lông thỏ sẽ hút thủy tinh đã chà xát lên lụa. Vậy chúng ta có thể hiểu tất cả những thông tin này như thế nào ? Chúng ta có thể thu được một sự đơn giản hóa rất lớn bằng cách lưu ý rằng thực tế chỉ có hai loại điện tích. Giả sử chúng ta chọn lông mèo cọ xát lên lông thỏ là đại diện của loại A, và thủy tinh cọ lên lụa là đại diện cho loại B. Bây giờ chúng ta sẽ thấy là không có “loại C”. Bất kì vật nào được làm cho nhiễm điện bằng bất cứ phương pháp nào thuộc loại A, hút các vật mà A hút và đẩy các vật mà A đẩy, hoặc là thuộc loại B, có cùng tính chất hút và đẩy như B. Hai loại, A và B, luôn luôn biểu hiện tương tác ngược nhau. Nếu như A biểu hiện lực hút đối với một số vật tích điện, thì B chắc chắn sẽ đẩy nó ra xa, và ngược lại. Đơn vị coulomb Mặc dù chỉ có hai loại điện tích, nhưng mỗi loại có thể biểu hiện lượng điện khác nhau. Đơn vị hệ mét của điện tích là coulomb, được định nghĩa như sau: Một coulomb (C) là lượng điện tích sao cho một lực 9,0. 109 N xuất hiện giữa hai chất điểm có điện tích 1 C nằm cách nhau 1 m. Kí hiệu cho lượng điện tích là q. Hệ số trong định nghĩa có nguồn gốc lịch sử, và không phải học thuộc lòng chính xác. Định nghĩa phát biểu cho chất điểm, tức là những vật rất nhỏ, vì nếu không thì những phần khác nhau của chúng sẽ cách nhau những khoảng khác nhau. Mô hình hai loại hạt mang điện Thí nghiệm cho thấy mọi phương pháp cọ xát hoặc bất kì phương pháp nào khác làm tích điện cho vật đều gồm hai vật, và cả hai cuối cùng đều tích điện. Nếu một vật cần một lượng nhất định của một loại điện tích, thì vật kia sẽ có lượng tương đương loại điện © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 3
  9. tích kia. Có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về điều này, nhưng cách đơn giản nhất là những viên gạch cấu trúc cơ bản của vật chất có hai vị, mỗi vị ứng với một loại điện tích. Việc cọ xát các vật lên nhau làm di chuyển một số hạt này từ vật này sang vật kia. Theo mô hình này, một vật chưa bị làm cho nhiễm điện có thể thật sự có một lượng lớn cả hai loại điện tích, nhưng số lượng của chúng bằng nhau và chúng phân bố đều nhau bên trong vật. Vì loại A đẩy bất cứ thứ gì mà loại B hút, và ngược lại, nên vật sẽ tác dụng một lực tổng hợp bằng không lên bất cứ vật nào khác. Phần còn lại của chương này sẽ làm sáng tỏ mô hình này và bàn xem những hạt bí ẩn này có thể được hiểu như thế nào với ý nghĩa là những phần cấu trúc nội của nguyên tử. Sử dụng kí hiệu điện tích dương và âm Vì hai loại điện tích có xu hướng triệt tiêu lực lẫn nhau, nên người ta gán nhãn cho chúng bằng kí hiệu dương và âm, và nói về điện tích toàn phần của một vật. Việc gọi điện tích này là dương, điện tích kia là âm, là hoàn toàn độc đoán. Benjamin Franklin quyết định mô tả loại thứ nhất mà chúng ta gọi là “A” là âm, nhưng thật ra không có vấn đề gì nếu như ai ai cũng đều gọi như vậy. Một vật có điện tích toàn phần bằng không (lượng điện tích thuộc hai loại bằng nhau) được gọi là trung hòa điện.  Hãy bình luận phát biểu sau: “Có hai loại điện tích, hút và đẩy”. Định luật Coulomb Một đối tượng lớn của những quan sát thực nghiệm có thể được tóm tắt như sau: Định luật Coulomb: Cường độ của lực tác dụng giữa hai điện tích điểm cách nhau một khoảng r cho bởi phương trình qq Fk 12 r2 trong đó k = 9,0. 109 N.m2/C2. Lực là lực hút nếu như các điện tích khác dấu, là lực đẩy nếu như chúng cùng dấu. Những kĩ thuật hiện đại tài tình cho phép dạng 1/r2 của định luật Coulomb được kiểm tra đến độ chính xác không thể tin nổi, cho thấy số mũ nằm trong khoảng từ 1,99999999999999998 đến 2,0000000000000002. Lưu ý là định luật Coulomb rất giống với định luật hấp dẫn của Newton, trong đó 2 độ lớn của lực là Gm1m2/r , ngoại trừ chỉ có một loại khối lượng, chứ không phải hai, và lực hấp dẫn không bao giờ là lực đẩy. Do sự tương tự gần gũi này giữa hai loại lực, nên chúng ta có thể sử dụng lại rất nhiều hiểu biết của chúng ta về lực hấp dẫn. Chẳng hạn, có một tương đương điện của định lí lớp vỏ: lực điện tác dụng ra bên ngoài bởi một vỏ cầu tích điện đều có độ lớn như thể toàn bộ điện tích tập trung tại tâm của nó, và lực tác dụng vào bên trong là bằng không. Bảo toàn điện tích Một lí do còn cơ bản hơn nữa cho việc sử dụng kí hiệu dương và âm cho điện tích là các thí nghiệm cho thấy điện tích được bảo toàn theo định nghĩa này: trong bất kì hệ cô lập nào, tổng lượng điện tích là một hằng số. Đây là lí do vì sao chúng ta thấy việc cọ xát những chất ban đầu không tích điện lên nhau luôn luôn có kết quả là một chất có một lượng nhất định một loại điện tích, còn chất kia cần một lượng tương đương điện tích kia. Bảo toàn điện tích trông có vẻ tự nhiên trong mô hình của chúng ta trong đó vật chất cấu thành từ những hạt dương và âm. Nếu điện tích trên mỗi hạt là một tính chất cố định của loại hạt đó, và nếu chính những hạt đó không thể tự sinh ra hoặc phá hủy, thì bảo toàn điện tích là điều không thể tránh được. © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 4
  10. Lực điện với các vật trung hòa Như chỉ rõ trong hình b, một vật tích điện có thể hút một vật không tích điện. Làm sao điều này có thể xảy ra ? Vấn đề mấu chốt là ở chỗ mặc dù mỗi miếng giấy có tổng điện tích bằng không, nhưng ít nhất nó có một số hạt mang điện bên trong nó có một mức độ tự do chuyển động nào đó. Giả sử miếng băng tích điện dương, c. Các hạt di động trong miếng giấy sẽ phản ứng với lực của miếng băng, làm cho một đầu của miếng giấy trở nên tích điện âm và đầu kia trở nên dương. Lực hút giữa giấy và băng bây giờ mạnh hơn lực đẩy, vì đầu tích điện âm ở gần miếng băng hơn. b/ Miếng băng tích điện hút các mẫu giấy không tích điện ở gần, làm nhấc bổng chúng lên. c/ Mẫu giấy có tổng điện tích bằng không, nhưng nó có những hạt tích điện bên trong nó có thể di chuyển được.  Điều gì sẽ xảy ra nếu như miếng băng tích điện âm ? Lối đi phía trước Chúng ta bắt đầu làm việc với những hành vi điện phức tạp mà chúng ta chưa bao giờ nhận thấy xuất hiện rành rành ngay trước mắt mình. Không giống như chiếc ròng rọc, cái puli, và mặt phẳng nghiêng của cơ học, các diễn viên trên sân khấu điện và từ học là những hiện tượng không nhìn thấy xa lạ với kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta. Vì lí do này nên nửa thứ hai của chương trình vật lí học của bạn khác hoàn toàn, tập trung nhiều hơn vào các thí nghiệm và kĩ thuật. Mặc dù bạn sẽ không bao giờ thật sự nhìn thấy điện tích chuyển động qua một sợi dây, nhưng bạn có thể học cách sử dụng máy đo ampe để đo dòng chuyển động đó. Sinh viên cũng có xu hướng bị gây ấn tượng từ học kì vật lí đầu tiên của họ rằng nó là môn khoa học chết người. Không phải như thế ! Chúng ta đang lần theo vết tích lịch sử dẫn trực tiếp đến nghiên cứu vật lí mũi nhọn mà bạn đọc thấy trên báo chí. Những thí nghiệm nguyên tử xuất sắc bắt đầu vào khoảng năm 1900, mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong chương này, không khác gì mấy với những thí nghiệm của năm 2000 – chỉ có điều nhỏ hơn, đơn giản hơn, và rẻ tiền hơn nhiều. Lực từ Nghiên cứu toán học chi tiết của từ học sẽ không xuất hiện mãi cho đến phần cuối của cuốn sách này, nhưng chúng ta cần phát triển một vài khái niệm đơn giản về từ học ngay bây giờ vì lực từ thường được sử dụng trong các thí nghiệm và kĩ thuật mà chúng ta sắp nói tới. Các nam châm thông dụng hàng ngày nói chung có hai loại. Nam châm vĩnh cửu, ví dụ như loại nằm trên tủ lạnh nhà bạn, cấu tạo từ sắt hoặc những chất giống thép có chứa những nguyên tử sắt. (Những chất khác nhất định cũng có từ tính, nhưng sắt rẻ nhất © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 5
  11. và thông dụng nhất) Loại nam châm kia, ví dụ là loại làm cho loa máy hát của bạn rung động, gồm những cuộn dây có dòng điện chạy trong đó. Cả hai loại nam châm đều có khả năng hút sắt chưa nhiễm từ, chẳng hạn như cánh cửa tủ lạnh. Một cách xem xét khiến cho những hiện tượng trông có vẻ phức tạp này trở nên dễ hiểu hơn nhiều : đó là lực từ là tương tác giữa các điện tích đang chuyển động, xuất hiện cùng với lực điện. Giả sử một nam châm vĩnh cửu được mang tới gần một nam châm loại cuộn dây. Cuộn dây có các điện tích chuyển động bên trong nó vì chúng ta buộc các điện tích chạy thành dòng. Nam châm vĩnh cửu cũng có các điện tích chuyển động bên trong nó, nhưng trong trường hợp này các điện tích xoáy tròn tự nhiên bên trong sắt. (Cái làm cho một mẫu sắt bị từ hóa khác với một khối gỗ là ở chỗ chuyển động của điện tích bên trong gỗ là ngẫu nhiên chứ không có tổ chức) Các điện tích chuyển động trong cuộn dây nam châm tác dụng một lực lên các điện tích chuyển động trong nam châm vĩnh cửu, và ngược lại. Cơ sở toán học của từ học phức tạp hơn nhiều so với định luật Coulomb đối với điện học, đó là lí do vì sao chúng ta phải chờ sang chương 6 mới nghiên cứu sâu về chúng. Hai cơ sở đơn giản sẽ được trình bày ngay bây giờ: (1) Nếu một hạt mang điện chuyển động trong vùng không gian gần một hạt mang điện khác cũng đang chuyển động, thì lực từ tác dụng lên nó tỉ lệ với vận tốc của nó. (2) Lực từ tác dụng lên một hạt mang điện chuyển động luôn luôn vuông góc với hướng hạt chuyển động. Ví dụ 1. La bàn từ Trái Đất có nhân nóng chảy bên trong, giống như một bình nước sôi, nó khuấy động và nổi sóng. Để đơn giản hóa, điện tích có thể đi theo những chuyển động khuấy tròn, nên Trái Đất chứa những điện tích chuyển động. Kim nam châm của la bàn từ chính là một nam châm vĩnh cửu nhỏ. Điện tích chuyển động bên trong Trái Đất tương tác từ với điện tích chuyển động bên trong kim la bàn, làm cho kim la bàn xoay tròn và chỉ hướng bắc. Ví dụ 2. Ống phóng điện tử Hình ảnh trên ti vi được vẽ bằng chùm electron bắn từ phía sau ống phóng ra phía trước. Chùm hạt quét qua toàn bộ mặt ống giống như một người đọc xem lướt qua một trang sách. Lực từ được sử dụng để lái chùm hạt. Khi chùm hạt đi từ phía sau ra phía trước ống, cần có lực theo hướng trên-dưới, trái- phải để lái chúng. Nhưng không thể sử dụng lực từ để làm tăng tốc chùm hạt, vì chúng chỉ có thể đẩy vuông góc với hướng chuyển động của các electron, chứ không cùng chiều với chúng. Câu hỏi thảo luận A. Nếu lực hút điện giữa hai chất điểm nằm cách nhau 1m là 9 x 109 N thì tại sao chúng ta không thể suy ra điện tích của chúng là + 1 C và – 1 C ? Chúng ta cần phải có thêm những quan sát gì để chứng minh điều này ? B. Một miếng băng tích điện sẽ hút dính vào tay bạn. Điều đó có cho phép chúng ta nói rằng các hạt mang đỉện tự do bên trong tay bạn là dương hay âm, hoặc cả hai, hay không ? 1.3 Nguyên tử Tôi đi tới chỗ xem nguyên tử là người bạn xinh đẹp, khó tính, có màu xám hoặc màu đỏ tùy theo cảm nhận. Rutherford Thuyết nguyên tử Người Hi Lạp chịu rất nhiều áp bức trong hai thiên niên kỉ qua: bị người La Mã thống trị, bị ức hiếp trong cuộc thập tự chinh bởi những kẻ thánh chiến đi đến và đến từ Miền đất hứa, và bị người Thổ Nhĩ Kì chiếm đóng mãi cho đến gần đây. Không có gì ngạc © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 6
  12. nhiên khi mà họ thích nhớ tới những ngày tháng lộn xộn đó, vào lúc những nhà tư tưởng lỗi lạc nhất của họ đã tiến rất gần tới các quan niệm như nền dân chủ và thuyết nguyên tử. Hi Lạp trở lại dân chủ sau một giai đoạn độc tài quân sự, và hình nguyên tử được in một cách hãnh diện trên một trong những đồng tiền của họ. Đó là lí do vì sao khiến tôi xúc động phải nói rằng giả thuyết Hi Lạp cổ đại rằng vật chất cấu thành từ các nguyên tử là một công trình dự đoán thuần túy. Không có bằng chứng thực nghiệm thực tế nào cho các nguyên tử, và sự hồi sinh khái niệm nguyên tử vào thế kỉ thứ 18 bởi Dalton có ít tính chất Hi Lạp hơn tên gọi, có nghĩa là “không thể chia tách”. Thậm chí tiếng tăm Hi Lạp còn bị sứt mẻ nhiều khi tên gọi đó được chỉ rõ là không thích hợp vào năm 1899, lúc nhà vật lí J.J. Thomson chứng minh bằng thực nghiệm cho thấy các nguyên tử có những thứ còn nhỏ hơn nữa bên trong chúng, tức là chúng có thể chia tách ra được (Thomson gọi chúng là “electron”). Sau cùng thì “không thể phân tách” là có thể phân tách được. Nhưng hãy tiếp tục câu chuyện của chúng ta. Điều gì đã xảy ra với khái niệm nguyên tử trong hai ngàn năm ở giữa ? Những người có học thức tiếp tục bàn luận ý tưởng đó, và những người yêu thích nó có thể thường sử dụng nó để mang lại những lời giải thích hợp lí cho nhiều sự việc và hiện tượng khác nhau. Một thực tế được giải thích dễ dàng là sự bảo toàn khối lượng. Ví dụ, nếu bạn trộn 1 kg nước với 1 kg bụi đất, bạn sẽ có chính xác 2 kg bùn, không hơn không kém. Điều tương tự đúng cho nhiều quá trình như sự đông đặc của nước, lên men bia, hoặc nghiền sa thạch. Nếu bạn tin vào các nguyên tử, thì sự bảo toàn khối lượng mang lại sự cảm nhận đầy đủ, vì tất cả những quá trình này có thể xem là sự trộn lẫn hoặc bố trí lại các nguyên tử, chứ không làm thay đổi tổng số nguyên tử. Tuy nhiên, đây vẫn chẳng phải là bằng chứng cho thấy nguyên tử tồn tại. Nếu các nguyên tử thật sự tồn tại, thì có những loại nguyên tử gì, và cái gì phân biệt rõ những loại khác nhau đó ? Chúng có kích thước, hình dạng, trọng lượng và một số đại lượng khác không ? Hố ngăn cách giữa thuyết nguyên tử cổ đại và hiện đại trở nên hiển hiện khi chúng ta xét đến những nghiên cứu sơ khai đã có về vấn đề này cho đến thế kỉ hiện nay. Những người cổ đại quyết định có bốn loại nguyên tử, đất, nước, không khí và lửa; quan điểm phổ biến nhất cho rằng chúng phân biệt nhau ở hình dạng của chúng. Các nguyên tử nước có hình cầu, nên nước có khả năng chảy một cách êm đềm. Các nguyên tử lửa có những điểm sắc nhọn, đó là lí do vì sao lửa làm đau khi nó chạm vào da một người nào đó (Không có khái niệm nhiệt độ mãi cho đến hai ngàn năm sau này). Cách hiểu hiện đại khác một cách cơ bản về cấu trúc của nguyên tử thu được trong giai đoạn cách mạng 10 năm từ 1895 đến 1905. Mục tiêu chính của chương này là mô tả những thí nghiệm trọng yếu đó. Bạn có bao giờ nghe nói tới thuyết nguyên tử chưa ? “Bạn là thứ bạn ăn”. Câu nói hiện đại lém lĩnh đó ít nhiều mang cách hiểu nguyên tử về sự tiêu hóa. Xét cho cùng thì sự tiêu hóa là một bí ẩn thú vị vào thời cổ đại, và các nền văn hóa tiền hiện đại thường tin rằng sự ăn cho phép bạn giải phóng một số dạng “lực sự sống” khỏi thực phẩm. Chuyện thần thoại đầy dãy những năng lực trừu tượng như sự can đảm hoặc sự ô uế lễ nghi có thể đi vào cơ thể bạn thông qua thực phẩm mà bạn ăn. Trái với những quan điểm siêu nhiên này, những nhà nguyên tử luận cổ đại có một cách hiểu hoàn toàn mang tính tự nhiên về sự tiêu hóa. Thức ăn cấu tạo từ các nguyên tử, và khi bạn tiêu hóa nó, bạn đã đơn giản là phóng thích một số nguyên tử ra khỏi nó và sắp xếp chúng vào những hợp chất cần thiết cho các mô cơ thể của bạn. Các nhà khoa học xa xưa tiến bộ hơn và các nhà khoa học thời phục hưng yêu thích loại giải thích này. Họ nóng lòng cởi trói cho mối ràng buộc lên trung tâm của nền vật lí Aristotle (và phiên bản thân nhà thờ, thêm mắm dặm muối của nó, tức triết học kinh viện), theo quan điểm của họ nền vật lí đó có quá nhiều tính chất huyền bí và “mục tiêu” cho các vật. Ví dụ, trường phái Aristotle giải thích nguyên nhân hòn đá rơi trở lại đất là vì đó là “bản chất” hay “mục tiêu” của nó phải đến nằm nghỉ trên mặt đất. Tuy nhiên, nỗ lực có vẻ ngây thơ nhằm giải thích sự tiêu hóa một cách tự nhiên cuối cùng khiến các nhà nguyên tử luận gặp rắc rối to với Giáo hội. Vấn đề là ở chỗ thánh lễ quan trọng nhất của nhà thờ gồm ăn bánh mì và rượu và nhờ đó mà nhận được tác động siêu nhiên của sự tha thứ © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 7
  13. cho tội lỗi. Đề cập đến nghi lễ này, học thuyết hóa thể khẳng định rằng phúc lành của bánh mì và rượu thánh thể đúng là chuyển hóa thành máu và thịt của Chúa. Thuyết nguyên tử được nhận thức là mâu thuẫn với thuyết hóa thể, vì thuyết nguyên tử phủ nhận phúc lành có thể làm thay đổi bản chất của các nguyên tử. Mặc dù thông tin lịch sử cung cấp trong đa số sách giáo khoa khoa học nói về Galileo miêu tả sự bất đồng của ông với Tòa án dị giáo là khơi mào cuộc tranh luận xem Trái Đất có chuyển động hay không, nhưng một số nhà sử học tin rằng sự bị trừng phạt của ông có nhiều thứ để tìm hiểu hơn là sự biện hộ của ông cho thuyết nguyên tử làm lật đổ thuyết hóa thể. (Những vấn đề khác ở trong trạng thái phức tạp là phong cách đối đầu của Galileo, vấn đề vũ trang của Tòa thánh, và tin đồn cho rằng nhân vật xuẩn ngốc trong tác phẩm của Galileo là ám chỉ đức giáo hoàng) Trong một thời gian dài, niềm tin vào thuyết nguyên tử đóng vai trò là biểu hiện của sự không theo lề thói đối với các nhà khoa học, một cách khẳng định sở thích hiểu hiện tượng theo lẽ tự nhiên chứ không phải siêu nhiên. Sự tán thành thuyết nguyên tử của Galileo và Newton là một hoạt động nổi loạn, giống như sự chấp nhận của các thế hệ sau này về học thuyết Darwin và Marxism. Một mâu thuẫn khác giữa triết học kinh viện và thuyết nguyên tử đến từ cái nằm giữa các nguyên tử. Nếu bạn hỏi một người hiện đại câu hỏi này, họ sẽ có thể trả lời “không có gì cả” hoặc “không gian trống rỗng”. Nhưng Aristotle và những người kế tục sự nghiệp của ông tin rằng không thể nào có không gian trống rỗng, tức chân không, như thế được. Đó không phải là một quan điểm vô lí, vì không khí có xu hướng tràn vào bất kì không gian nào mà bạn mở ra, và câu hỏi đó tồn tại mãi cho tới thời kì phục hưng khi người ta chỉ ra được cách tạo ra chân không. Nguyên tử, ánh sáng, và mọi thứ khác Mặc dù tôi có khuynh hướng giễu cợt các nhà triết học Hi Lạp cổ đại như Aristotle, nhưng hãy dành ra một chút để tán dương ông về một số điều. Nếu bạn đọc các tác phẩm của Aristotle về vật lí (hoặc chỉ xem lướt qua chúng, giống như tôi đã làm), thì điều thu hút sự chú ý nhất là mức độ cẩn thận khi ông phân loại hiện tượng và phân tích mối quan hệ giữa các hiện tượng. Não người hình như tự nhiên thực hiện được sự phân biệt giữa hai loại hiện tượng vật lí: các vật và chuyển động của các vật. Khi một hiện tượng xảy ra tự nó không tức thời là một trong những loại này, thì có một xu hướng mạnh mẽ là quan niệm hóa nó là loại này hoặc loại kia, hoặc thậm chí bỏ qua sự tồn tại của nó hoàn toàn. Chẳng hạn, các thầy giáo vật lí hay rùng mình trước phát biểu của học sinh rằng “thuốc nổ phát nổ, và lực giải phóng khỏi nó theo mọi hướng”. Trong những ví dụ này, khái niệm phi vật chất của lực được phân loại ngầm như thể nó là một chất vật lí. Phát biểu “lên dây cót chiếc đồng hồ làm lưu trữ chuyển động trong lò xo” là một sự thiếu phân loại của năng lượng điện dưới dạng chuyển động. Một ví dụ bỏ qua sự tồn tại của hiện tượng hoàn toàn có thể gợi ra bằng cách hỏi mọi người tại sao chúng ta cần đến bóng đèn. Câu trả lời thường là “đèn rọi sáng căn phòng để cho chúng ta có thể nhìn thấy mọi thứ”, không chú ý tới vai trò thiết yếu của ánh sáng đi vào mắt chúng ta đến từ những thứ được rọi sáng. Nếu bạn yêu cầu một ai đó nói cho bạn biết ngắn gọn về các nguyên tử, câu trả lời có khả năng là “mọi thứ cấu thành từ các nguyên tử”, nhưng bây giờ chúng ta thấy hiển nhiên là từ “mọi thứ” trong phát biểu này không còn thích hợp nữa. Đối với các nhà khoa học của những năm đầu thập niên 1900, những người đang cố gắng khảo sát nguyên tử, đây không phải là một định nghĩa tầm thường. Đã có một dụng cụ mới gọi tên là ống chân không, giống như ống phóng hình trong ti vi ngày nay. Tóm lại, những người thợ hàn điện đã phát hiện ra toàn bộ nhóm hiện tượng xảy ra bên trong và xung quanh ống chân không, và đặt cho chúng những cái tên hoa mĩ như “tia X”, “tia catôt”, “sóng Hertz”, và “tia N”. Đây là những loại quan sát cuối cùng cho chúng ta biết chúng ta biết gì về vật chất, nhưng sau đó cũng phát sinh những cuộc tranh luận nảy lửa xem chính những đối tượng này có phải là những dạng vật chất hay không. Chúng ta hãy xem mức phân loại các hiện tượng do các nhà vật lí của năm 1900 sử dụng. Họ ghi nhận ba loại: Vật chất có khối lượng, có thể có động năng, và có thể chuyển động trong chân không, mang theo khối lượng của nó và động năng theo nó. Vật chất được bảo toàn, cả bảo toàn khối lượng và bảo toàn số nguyên tử của từng nguyên tố. Các nguyên © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 8
  14. tử không thể chiếm cùng khoảng không gian như các nguyên tử khác, nên cách thuận tiện khảo sát cái gì đó không phải là vật chất là chỉ ra nó có thể truyền qua một chất rắn, trong đó các nguyên tử nhồi nhét rất gần nhau. Ánh sáng không có khối lượng, luôn luôn có năng lượng, và có thể truyền qua chân không, mang theo năng lượng cùng với nó. Hai chùm tia sáng có thể xuyên qua nhau và hiện ra khỏi chỗ va chạm mà không bị suy yếu, lệch hướng, hoặc bất kì ảnh hưởng nào khác. Ánh sáng có thể đi xuyên qua những loại chất nhất định, ví dụ như thủy tinh. Loại thứ ba là mọi thứ không phù hợp với định nghĩa ánh sáng hoặc vật chất. Ví dụ thuộc loại này có thời gian, vận tốc, nhiệt, và lực. Nguyên tố hóa học Làm thế nào người ta khám phá được có bao nhiêu loại nguyên tử gì ? Ngày nay, việc tiến hành một chương trình thực nghiệm nhằm phân loại các loại nguyên tử không phải là việc gì quá khó. Đối với từng loại nguyên tử, phải có một nguyên tố tương ứng, tức là một chất tinh khiết cấu tạo từ không gì hơn ngoài loại nguyên tử đó. Các nguyên tử được cho là không thể chia tách được, nên một chất như sữa chẳng hạn không có khả năng là cơ bản, vì khuấy mạnh nó sẽ làm nó tách thành hai chất khác nhau: bơ và nước sữa. Tương tự, gỉ sét không thể là một nguyên tố, vì nó có thể được tạo ra bằng sự kết hợp hai chất: sắt và ôxi. Bất chấp tính hợp lí hiển nhiên của nó, không có chương trình nào như thế được thực hiện mãi cho đến thế kỉ thứ 18. Người cổ đại có lẽ không làm thế vì quan sát không được chấp nhận rộng rãi là phương pháp đúng đắn để trả lời câu hỏi tự nhiên, và cũng vì họ không có trong tay những kĩ thuật cần thiết hoặc những kĩ thuật đó thuộc về lĩnh vực lao động có địa vị xã hội thấp, ví dụ như thợ rèn và thợ mỏ. Các nhà giả kim thuật bị ngăn cản bởi tiếng tăm của thuyết nguyên tử lật đổ và bởi xu hướng nghiêng về chủ nghĩa thần bí và huyễn hoặc. (Thách thức nổi tiếng nhất mà các nhà giả kim thuật đối mặt là biến chì thành vàng, ngày nay chúng ta biết điều đó là không thể được, vì chì và vàng đều là các nguyên tố). Tuy nhiên, vào năm 1900, các nhà hóa học đã thực hiện được một việc hợp lí khám phá xem nguyên tố là cái gì. Họ cũng xác định được tỉ số khối lượng của các nguyên tử khác nhau một cách khá chính xác. Phương pháp tiêu biểu là đo bao nhiêu gam natri (Na) kết hợp với một gam chlorine (Cl) tạo ra muối (NaCl). (Đấy là đã giả sử bạn đã biết dựa trên một bằng chứng khác rằng muối cấu tạo gồm số nguyên tử Na và Cl bằng nhau) Khối lượng của từng nguyên tử, khi so sánh với tỉ số khối lượng, được biết chỉ trong vài bậc độ lớn dựa trên bằng chứng gián tiếp, và nhiều nhà vật lí và hóa học phủ nhận rằng từng nguyên tử chẳng là cái gì khác hơn ngoài những kí hiệu cho tiện lợi. d/ Khối lượng một số nguyên tử so với khối lượng nguyên tử hydro. Chú ý là một số giá trị rất gần với số nguyên, nhưng không hoàn toàn là số nguyên. Ý nghĩa của các nguyên tố Khi thông tin chất đống, thách thức là tìm một cách thức hệ thống hóa nó; óc thẩm mĩ của các nhà khoa học hiện đại không ưa những thứ lộn xộn. Sự hỗn tạp này của các © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 9
  15. nguyên tố là một sự lúng túng. Một nhà quan sát đương thời, William Crookes, đã mô tả các nguyên tố mở ra “trước chúng ta rộng như Đại Tây Dương trải ra trước con mắt đăm chiêu của Columbus, chế giễu, châm chọc, và thì thầm những điều lạ lùng, và từ trước đến nay không ai có thể giải quyết được”. Không bao lâu sau, người ta bắt đầu nhận thấy rằng nhiều khối lượng nguyên tử rất gần với bội số nguyên của khối lượng nguyên tử hydro, nguyên tố nhẹ nhất. Một vài người dễ kích động bắt đầu cho rằng hydro là viên gạch cấu trúc cơ bản, và những nguyên tố nặng hơn cấu thành từ nhiều cụm hydro. Tuy nhiên, không bao lâu sau thì những phép đo chính xác hơn đã bác bỏ luận điệu đó của họ, chúng cho thấy không phải tất cả các nguyên tố đều có khối lượng nguyên tử gần với bội số nguyên của khối lượng hydro, và những trường hợp gần với bội số nguyên của hydro cũng bị sai lệch một phần trăm hoặc ngần ấy. e/ Bảng tuần hoàn hóa học hiện đại. Các nguyên tố trong cùng một cột có tính chất hóa học giống nhau. Số nguyên tử hiện đại, sẽ nói tới trong phần 2.3, không được biết tới vào thời của Mendeleev, vì bảng có thể lật theo những cách khác nhau. Giáo sư hóa học Dmitri Mendeleev, trong khi soạn bài giảng của ông vào năm 1869, muốn tìm một số cách tổ chức kiến thức của ông cho sinh viên có thể dễ hiểu hơn. Ông viết tên của tất cả các nguyên tố lên những tấm thẻ và bắt đầu sắp xếp chúng theo những cách khác nhau trên bàn làm việc của ông, thử tìm một sắp xếp dễ nhớ. Sự sắp xếp hàng-cột ông nêu ra về cơ bản là bảng tuần hoàn hóa học hiện đại của chúng ta. Các cột của phiên bản hiện đại biểu diễn các nguyên tố có tính chất hóa học tương tự nhau, và mỗi hàng phía dưới thì nặng hơn hàng phía trên nó. Ngang qua từng hàng, hầu như luôn luôn đặt các nguyên tử trong chuỗi khối lượng tăng dần. Cái gì khiến cho hệ thống có giá trị tuần hoàn của nó. Có ba chỗ Mendeleev phải bỏ trống trong bảng sắp xếp của ông để giữ các nguyên tố giống nhau về mặt hóa học nằm trong cùng một cột. Ông tiên đoán sẽ tồn tại những nguyên tố lấp đầy những chỗ trống này, và ngoại suy hoặc nội suy từ những nguyên tố khác trong cùng cột đó, dự đoán những tính chất dạng số của nó, ví dụ như khối lượng, điểm nóng chảy, và tỉ trọng. Tiếng tăm của Mendeleev trở nên lẫy lừng khi ba nguyên tố của ông (sau này được đặt tên là gallium, scandium, và germanium) được tìm thấy và có tính chất rất gần với tính chất ông dự đoán. Một điều mà bảng tuần hoàn Mendeleev làm sáng tỏ là khối lượng không phải là đặc trưng cơ bản phân biệt các nguyên tử thuộc những nguyên tố khác nhau. Để thiết lập công trình bảng tuần hoàn của mình, ông đã phải đi xa khỏi việc sắp xếp có trật tự các nguyên tố hoàn toàn theo khối lượng. Chẳng hạn, nguyên tử iodine nhẹ hơn tellurium, nhưng Mendeleev phải đặt iodine sau tellurium sao cho nó nằm chung cột với các nguyên tố có tính chất hóa học tương tự. © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 10
  16. Bằng chứng trực tiếp cho thấy nguyên tử tồn tại Thành công của lí thuyết động lực học của nhiệt đã mang lại bằng chứng mạnh mẽ cho thấy, ngoài chuyển động của vật nói chung, còn có một loại chuyển động không nhìn thấy ở khắp nơi xung quanh chúng ta: chuyển động ngẫu nhiên của các nguyên tử bên trong mỗi vật. Nhưng nhiều kẻ bảo thủ không bị thuyết phục rằng các nguyên tử thật sự tồn tại. Xét cho cùng thì chưa ai từng nhìn thấy một nguyên tử cả. Mãi cho đến khi thuyết nhiệt động lực học được phát triển chứng minh thuyết phục rằng các nguyên tử thật sự tồn tại và chúng tham gia vào những chuyển động liên tục không bao giờ ngưng nghỉ. Phát đạn chứng minh nguyên tử một cách trừu tượng hơn về mặt toán học phát nổ khi một số quan sát cũ kĩ, mờ mịt được xem xét lại bởi một viên thư kí không tiếng tăm gì ở phòng đăng kí phát minh Thụy Sĩ tên là Albert Einstein. Nhà thực vật học Brown, sử dụng một chiếc kính hiển vi lúc nó còn là một sản phẩm nghệ thuật vào năm 1827, quan sát những hạt phấn hoa nhỏ xíu trong một giọt nước nằm trên bàn soi hiển vi và nhận thấy chúng nhảy nhót một cách ngẫu nhiên không vì lí do gì rõ ràng cả. Ban đầu, nghi ngờ rằng phấn hoa mà ông cho là đã chết thật sự còn sống, ông thử quan sát các hạt bồ hóng, và nhận thấy các hạt bồ hóng cũng chuyển động lộn xộn. Kết quả tương tự xảy ra với bất kì hạt nhỏ nào khác lơ lửng bên trong chất lỏng. Hiện tượng đó được gọi là chuyển động Brown, và sự tồn tại của nó được nhiều thế hệ xem là một sự kì quặc và là một thực tế hoàn toàn không quan trọng, chỉ là một điều phiền toái cho các nhà hiển vi học. Mãi cho tới năm 1906, Einstein mới tìm ra được lời giải thích đúng đắn cho quan sát của Brown: các phân tử nước ở trạng thái chuyển động ngẫu nhiên liên tục, và va chạm với hạt phấn hoa ở mọi lúc, sút nó đi theo mọi hướng. Sau cả một thiên niên kỉ nghiên cứu về nguyên tử, cuối cùng đã có một bằng chứng chắc chắn. Tính toán của Einstein xua tan mọi nghi ngờ, vì ông có thể đưa ra những tiên đoán chính xác về những thứ như quãng đường trung bình một hạt đi được trong một khoảng thời gian nhất định. (Einstein nhận giải thưởng Nobel không cho lí thuyết tương đối của ông mà cho những bài báo của ông về chuyển động Brown và hiệu ứng quang điện). Câu hỏi thảo luận A. Làm thế nào từ sự hiểu biết kích thước của một nguyên tử nhôm có thể suy ra ước tính khối lượng của nó, và ngược lại ? B. Làm thế nào người ta có thể kiểm tra cách giải thích của Einstein cho chuyển động Brown bằng cách quan sát nó ở những nhiệt độ khác nhau ? 1.4 Lượng tử hóa điện tích Chứng tỏ nguyên tử thật sự tồn tại là một mục tiêu lớn đã đạt, nhưng việc chứng minh sự tồn tại của chúng không giống với việc tìm hiểu những tính chất của chúng. Lưu ý các quan sát Brown-Einstein rốt cuộc chẳng có liên quan gì tới điện học cả, và cho tới đây chúng ta biết rằng vật chất vốn dĩ có tính chất điện, và chúng ta đã thành công trong việc giải thích những tính chất điện nhất định dưới hình thức các hạt mang điện dương và âm linh động. Những hạt này có phải là nguyên tử không ? Hay chúng là những bộ phận của nguyên tử ? Các hạt đó có hoàn toàn tách khỏi nguyên tử ? Có lẽ thật là quá sớm nếu như cố gắng trả lời những câu hỏi này mà không có bằng chứng thuyết phục ủng hộ mô hình hạt tích điện của điện học. Bằng chứng ủng hộ mạnh mẽ cho mô hình hạt tích điện đến từ một thí nghiệm trong năm 1911 do nhà vật lí Robert Millikan thực hiện ở trường đại học Chicago. Hãy xét một dòng giọt nước hoa hoặc chất lỏng khác cho thổi qua một lỗ đinh ghim nhỏ xíu. Các giọt đi ra từ lỗ phải nhỏ hơn lỗ và thực tế thì chúng còn vi mô hơn nữa, vì dòng xoáy của không khí có xu hướng làm tản loạn chúng ra. Millikan lập luận rằng những giọt đó cần một chút điện tích khi chúng cọ xát lên thành lỗ mà chúng đi qua, và nếu mô hình hạt tích © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 11
  17. điện của điện học là đúng đắn, thì điện tích có thể tách vỡ trong số quá nhiều giọt chất lỏng nhỏ xíu nên một giọt có thể có lượng điện tích toàn phần thừa thải của một vài hạt tích điện – có lẽ là sự thừa thải của một hạt tích điện dương trên một giọt nhất định, hoặc sự thừa thải hai điện tích âm trên giọt khác. g/ Hình vẽ đơn giản hóa thiết bị của Millikan f/ Nhà khoa học trẻ Robert Millikan Thiết bị khéo léo của Millikan, g, gồm hai bản kim loại, chúng có khả năng tích điện khi cần thiết. Ông phun một đám giọt dầu vào không gian giữa hai bản, và chọn một giọt qua kính hiển vi để nghiên cứu. Ban đầu, khi không có điện tích trên các bản, ông xác định khối lượng của giọt bằng cách cho nó rơi trong không khí và đo vận tốc giới hạn của nó, tức là vận tốc ở đó lực ma sát của không khí triệt tiêu lực hấp dẫn. Lực kéo theo của không khí tác dụng lên một quả cầu chuyển động chậm đã được tìm ra bằng thực nghiệm là bvr2, trong đó b là một hằng số. Đặt lực toàn phần bằng không khi giọt chất lỏng rơi ở vận tốc giới hạn cho ta bvr2 – mg = 0 và đặt tỉ trọng đã biết của dầu bằng với khối lượng của giọt chất lỏng chia cho thể tích của nó cho ta phương trình thứ hai m 4 r3 3 Mọi thứ trong những phương trình này có thể đo trực tiếp, ngoại trừ m và r, nên đây là hai phương trình hai ẩn, người ta có thể giải chúng để biết giọt chất lỏng lớn cỡ nào. Sau đó, Millikan tích điện cho các bản kim loại, điều chỉnh lượng điện tích trung hòa chính xác với lực hấp dẫn và đẩy giọt chất lỏng nằm lơ lửng. Chẳng hạn, nếu giọt chất lỏng được làm cho có điện tích toàn phần là âm, thì điện tích dương đặt trên bản trên sẽ hút nó, kéo nó lên, và điện tích âm nằm trên bản dưới sẽ đẩy nó, nâng nó lên. (Về mặt lí thuyết chỉ cần một bản thôi, nhưng trên thực tế sự sắp xếp hai bản như thế này cho lực điện có độ lớn đều hơn trong toàn vùng không gian giọt chất lỏng rơi) Lượng điện tích trên hai bản cần thiết cho giọt dầu lơ lửng cho Millikan một cơ sở xác định lượng điện tích giọt chất lỏng mang. Điện tích giọt chất lỏng mang càng lớn, thì lực điện tác dụng lên nó sẽ càng mạnh, và thủ thuật là phải đặt điện tích trên các bản nhỏ thôi. Thật không may, việc biểu diễn mối quan hệ này bằng định luật Coulomb sẽ không thực tế, vì nó cần sự hiểu biết trọn vẹn về việc điện tích phân bố như thế nào trên mỗi bản, cùng với khả năng thực hiện phép © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 12
  18. cộng vectơ của tất cả các lực tác dụng lên giọt chất lỏng bởi tất cả các điện tích trên bản. Thay vì vậy, Millikan sử dụng một cơ sở thực tế là lực điện mà một điện tích điểm chịu tại một điểm trong không gian tỉ lệ với điện tích của nó F const q Với lượng điện tích cho trước trên các bản, hằng số này có thể được xác định chẳng hạn bằng cách vứt bỏ giọt dầu đi, xen giữa hai bản một vật lớn hơn và dễ cầm nắm hơn có một điện tích đã biết trên nó, và đo lực với phương pháp thông thường. (Thật ra, Millikan sử dụng một bộ kĩ thuật hơi khác để xác định hằng số đó, nhưng ý tưởng cũng tương tự) Độ lớn của lực tác dụng lên giọt dầu thực tế phải bằng mg, vì lực chỉ vừa đủ để nâng bổng nó lên, và một khi hằng số định cỡ đã được xác định, thì điện tích của giọt chất lỏng khi đó có thể tìm ra được dựa trên khối lượng đã xác định trước đó của nó. h/ Một vài số liệu thí nghiệm của Millikan Bảng h cho một vài kết quả từ bài báo năm 1911 của Millikan. (Millikan xử lí dữ liệu trên cả những giọt tích điện âm và dương, nhưng trong bài báo của ông, ông chỉ mang ra ví dụ dữ liệu về những giọt tích điện âm, nên ở đây toàn là số âm) Chỉ cần liếc qua số liệu trên cũng thấy ngay rằng điện tích không đơn giản là một loạt số ngẫu nhiên. Chẳng hạn, điện tích thứ hai hầu như chính xác bằng phân nửa điện tích thứ nhất. Millikan giải thích điện tích quan sát được đều là bội số nguyên của một con số đơn giản, 1,64 x 10-19 C. Trong cột thứ hai, lấy điện tích chia cho hằng số này được kết quả về cơ bản là số nguyên, cho phép sai lệch ngẫu nhiên có mặt trong thí nghiệm. Millikan phát biểu trong bài báo của ông rằng những kết quả này là bằng chứng trực tiếp và xác thực của sự đúng đắn của quan điểm đã được cải tiến trong nhiều năm qua và được củng cố bởi bằng chứng từ nhiều nguồn cho thấy mọi điện tích, là những bội số chính xác của một điện tích cơ bản, hữu hạn, hay nói cách khác, một điện tích rải đều trên bề mặt tích điện có một cấu trúc dạng hạt hữu hạn, trên thực tế, gồm những hạt nhỏ, hay những nguyên tử điện, tất cả đều giống hệt nhau, rắc trên bề mặt của vật mang điện. Nói cách khác, ông đã cung cấp bằng chứng trực tiếp cho mô hình hạt tích điện của điện học và bác bỏ những mô hình trong đó mô tả điện là một số loại chất lỏng. Điện tích cơ bản được kí hiệu là e, và giá trị hiện nay là 1,60 x 10-19 C. Từ “lượng tử hóa” được sử dụng trong vật lí để mô tả một đại lượng chỉ có thể có những giá trị số nhất định, và không thể có bất kì giá trị nào nằm giữa những giá trị đó. Theo cách hiểu này, chúng ta nói rằng Millikan đã phát hiện điện tích bị lượng tử hóa. Điện tích e thường được gọi là lượng tử điện tích.  Tiền tệ có bị lượng tử hóa ? Lượng tử của tiền tệ là gì ? Ghi chép lịch sử về trò gian lận của Millikan Rất ít sách giáo khoa vật lí phổ thông đề cập đến thực tế rõ ràng rằng mặc dù những kết luận của Millikan là đúng đắn, nhưng ông là một kẻ gian lận khoa học. Kĩ thuật của ông khó và đòi hỏi phải thật cẩn thận khi thực hiện, và sổ sách ghi chép nguyên bản của ông, đến nay vẫn còn giữ © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 13
  19. được, cho thấy số liệu kém hoàn hảo hơn nhiều so với như ông khẳng định trong những bài báo khoa học đã công bố của ông. Trong những ấn phẩm này, ông phát biểu thẳng thừng rằng mỗi giọt dầu quan sát có điện tích là một bội số của e, với không có ngoại lệ và sai sót nào. Nhưng sổ ghi chép của ông có thừa những ghi chú đại loại như “số liệu đẹp, giữ” và “tệ quá, bỏ đi”. Sau đó, Millikan đã giành giải thưởng Nobel vật lí cho sự mô tả không trung thực về số liệu của ông. Tại sao các tác giả sách giáo khoa quên không nói tới trò gian lận của Millikan ? Hình như họ nghĩ rằng học sinh, sinh viên còn quá ngây thơ để đánh giá chính xác ngụ ý của thực tế rằng đôi khi vẫn tồn tại những trò gian trá khoa học và thậm chí còn được trao giải thưởng của những tổ chức khoa học. Có lẽ họ e ngại sinh viên sẽ làm qua loa số liệu gian trá cho xong, vì Millikan đoạt giải Nobel cũng bằng cách đó mà. Nhưng xuyên tạc lịch sử không hơn gì là mỉa mai. Chẳng phải các thầy giáo người Anh đã cải biên bi bịch của Sheakspeare sao cho nhân vật xấu luôn luôn bị đối xử thậm tệ, còn nhân vật tốt thì chưa bao giờ bị đối xử như thế đó hay sao ! Một lời giải thích khả dĩ khác đơn giản là thiếu căn cứ; có khả năng là một số giáo trình có tiếng không muốn phê phán trò bịp của Millikan và những tác giả sau đó cũng xử sự như thế. Nhà sinh vật học Stephen Jay Gould đã viết một bài tiểu luận vạch ra một ví dụ chỉ rõ các tác giả sách giáo khoa sinh học có xu hướng đi theo cách xử lí truyền thống của một chủ đề, sử dụng cái cổ của con hươu cao cổ để bàn về tính không kế thừa của những đặc điểm cần thiết. Lúc ấy, một lời giải thích khác là các nhà khoa học có được địa vị từ hình ảnh trước công chúng của họ là những người tìm kiếm sự thật một cách vô tư, và họ không muốn công chúng nhận ra bản chất con người và không hoàn hảo của họ. (Chính Millikan là một nhà cải cách giáo dục, và ông đã viết một loạt sách giáo khoa có chất lượng cao hơn nhiều so với trước thời kì của ông). Ghi chú thêm vào tháng 9/2002 Vài năm sau khi tôi viết câu chuyện lịch sử ngoài lề này, tôi đã bắt gặp một sự bênh vực lí thú cho Millikan từ phía David Goodstein (American Scientist, Jan-Feb 2001, trang 54-60). Goodstein biện hộ rằng mặc dù Millikan đã viết một câu dối trá trong bài báo của ông, nhưng Millikan không đáng trách là kẻ lừa dối khi ông đưa câu đó vào trong ngữ cảnh. Millikan phát biểu rằng ông chưa bao giờ vứt đi bất kì số liệu nào, và ông thật sự đã vứt bỏ số liệu, nhưng ông có lí do chính đáng, khách quan cho việc loại bỏ số liệu đó. Vấn đề Millikan có thể vẫn gây tranh cãi trong số các nhà sử học, nhưng ở đây tôi sẽ rút ra hai bài học: Tình tiết đó có thể làm giảm sự tín cẩn của chúng ta vào Millikan, nhưng nó làm tăng thêm niềm tin của chúng ta vào khoa học. Kết quả đúng đắn cuối cùng sẽ được công nhận, chứ không thể như trong lĩnh vực giả khoa học giống như y học. Trong khoa học, sự tùy tiện cũng tồi tệ như trò lừa bịp cờ gian bạc lận. Nếu khoa học biết đôi điều về sự thật tuyệt đối, thì nó sẽ không cần lí do gì để giải thích cả. 1.5 Electron Tia catôt Các nhà vật lí thế kỉ thứ 19 đã mất rất nhiều thời gian cố gắng đi tới những phương pháp lộn xộn, ngẫu nhiên nhằm nghiên cứu điện học. Những thí nghiệm tốt nhất thuộc loại này là những thí nghiệm tạo ra những tia lửa điện khổng lồ hay những màu sắc rực rỡ. Một thủ thuật mang tính dịch vụ như thế là tia catôt. Để tạo ra nó, trước tiên bạn phải thuê một người thợ thổi thủy tinh giỏi và tìm một cái bơm chân không tốt. Thợ thổi thủy tinh sẽ chế tạo ra một cái ống rỗng ruột và gắn hai miếng kim loại trong nó, gọi là các điện cực, chúng được nối với bên ngoài thông qua dây kim loại xuyên qua thủy tinh. Trước khi để anh thợ hàn kín toàn bộ ống, bạn sẽ mắc vào nó một cái bơm chân không, và mất vài giờ bực dọc với cái tay bơm để tạo ra chân không tốt bên trong. Sau đó, khi lúc bạn vẫn còn đang bơm trên ống, người thợ thổi thủy tinh sẽ làm tan chảy thủy tinh và hàn kín toàn bộ lại. Cuối cùng, bạn đặt một lượng lớn điện tích dương lên một dây dẫn và một lượng lớn điện tích âm lên dây dẫn kia. Kim loại có tính chất là cho điện tích chuyển động dễ dàng trong chúng nên điện tích gởi lên một dây sẽ nhanh chóng tràn ra do từng phần của nó đẩy nhau ra xa. Quá trình dàn trải này làm cho hầu như toàn bộ điện tích đi tới đích ở các điện cực, ở đó có nhiều khoảng trống để dàn trải ra hơn so với trong dây dẫn. Vì những © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 14
  20. lí do lịch sử không rõ lắm, điện cực âm được gọi là catôt và điện cực dương được gọi là anôt. Hình i cho thấy dòng phát sáng quan sát được. Nếu, như biểu diễn trong hình này, một lỗ trống được tạo ra trong anôt, thì chùm tia sẽ kéo dài qua lỗ trống cho tới khi nó chạm phải thủy tinh. Tuy nhiên, khoan một lỗ trên catôt sẽ không gây ra bất kì chùm tia nào đi ra ở phía bên trái cả, và điều này cho thấy đối tượng, cho dù nó là cái gì đi nữa, có nguồn gốc từ catôt. Vì vậy, những tia này được đặt tên là “tia catôt” (Thuật ngữ đó vẫn được dùng cho đến ngày nay dưới cái tên “ống tia catôt” hoặc “CRT” cho ống phóng hình của ti vi hoặc màn hình máy vi tính). i/ Tia catôt quan sát thấy trong ống chân không Tia catôt là một dạng ánh sáng hay vật chất ? Tia catôt là một dạng ánh sáng, hay vật chất ? Ban đầu, không ai thật sự quan tâm xem chúng là cái gì, nhưng khi tầm quan trọng khoa học của chúng ngày càng trở nên thấy rõ, thì vấn đề ánh sáng hay vật chất trở thành một cuộc tranh luận xuyên biên giới quốc gia, với người Đức thì tán thành chúng là ánh sáng, còn người Anh thì giữ quan điểm xem chúng là vật chất. Những người ủng hộ cách giải thích vật chất tưởng tượng tia catôt gồm một chùm nguyên tử bốc ra từ chất của catôt. Một trong những đặc trưng hạn chế vật chất của chúng ta là đối tượng vật chất không thể truyền xuyên qua nhau. Thí nghiệm cho thấy tia catôt có khả năng đâm xuyên ít nhất là qua một số chiều dày vật chất nhỏ, ví dụ một lá kim loại dày một chục milimét, gợi ý rằng chúng là một dạng ánh sáng. Tuy nhiên, những thí nghiệm khác hướng tới kết luận ngược lại. Ánh sáng là một hiện tượng sóng, và một tính chất đặc trưng của sóng được chứng minh bằng cách nói vào một đầu của một ống cuộn bằng giấy báo. Sóng âm không đi ra khỏi đầu kia của ống dưới dạng một chùm hội tụ. Thay vì vậy, chúng bắt đầu trải rộng ra theo mọi hướng ngay khi chúng ra khỏi ống. Điều này cho thấy sóng nhất thiết không phải truyền theo đường thẳng. Nếu đặt một lá kim loại hình ngôi sao hoặc hình chữ thập trên đường đi của tia catôt, thì sẽ xuất hiện “bóng” có hình tương tự trên thủy tinh, cho thấy tia catôt truyền theo đường thẳng. Chuyển động theo đường thẳng này gợi ý rằng tia catôt là một dòng hạt vật chất nhỏ xíu. Những quan sát này không có sức thuyết phục, nên cái thật sự cần thiết là phải xác định xem tia catôt có khối lượng và trọng lượng hay không. Khó khăn là ở chỗ không thể thu tia catôt vào một cái tách rồi đưa lên bàn cân. Khi ống tia catôt hoạt động, người ta không thấy bất cứ sự mất mát vật chất nào từ catôt, hay bất kì lớp vỏ nào lắng trên anôt. © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 15
  21. Không ai có thể nghĩ ra cách nào tối ưu để cân tia catôt, nên cách hiển nhiên nhất tiếp theo giải quyết cuộc tranh cãi ánh sáng/vật chất là kiểm tra xem tia catôt có điện tích hay không. Ánh sáng được biết là không tích điện. Nếu tia catôt mang điện tích thì chúng dứt khoát là vật chất và không phải là ánh sáng, và chúng có thể được làm cho nhảy qua kẽ hở bằng lực đẩy đồng thời của điện tích âm ở catôt và lực hút của điện tích dương ở anôt. Tia catôt sẽ đi vượt quá anôt vì xung lượng của chúng. (Mặc dù những hạt mang điện thông thường không nhảy qua được một khe chân không, nhưng có một lượng rất lớn điện tích được sử dụng, nên lực tác dụng mạnh một cách khác thường). Thí nghiệm của Thomson Nhà vật lí J.J Thomson ở Cambridge đã thực hiện một loạt thí nghiệm rõ ràng về tia catôt trong khoảng năm 1897. Bằng việc điều khiển chúng một cách nhẹ nhàng tất nhiên bằng lực điện, k, ông chỉ ra rằng chúng thật sự tích điện, đó là bằng chứng mạnh mẽ cho thấy chúng là vật chất. Không chỉ thế, ông còn chứng minh rằng chúng có khối lượng, và đo được tỉ số khối lượng trên điện tích của chúng, m/q. Vì khối lượng của chúng khác không, ông kết luận chúng là một dạng vật chất và có lẽ cấu thành từ một dòng hạt vi mô mang đỉện âm. Khi Millikan công bố kết quả nghiên cứu của ông 14 năm sau này, thật hợp lí khi cho rằng điện tích của một hạt như thế bằng với trừ điện tích cơ bản, q = - e, và kết hợp kết quả của Millikan và Thomson, người ta có thể xác j/ J.J Thomson trong phòng thí nghiệm định khối lượng của một hạt tia catôt. k/ Thí nghiệm của Thomson chứng tỏ tia catôt có điện tích (hình vẽ lấy từ bài báo gốc của ông). Catôt C và anôt A có mặt trong bất kì ống tia catôt nào. Tia catôt truyền qua một lỗ trên anôt và một lỗ thứ hai, B, đặt vào để làm cho chùm tia mỏng hơn loại bỏ các tia không đi thẳng. Các bản tích điện D và E cho thấy tia catôt có điện tích: chúng bị hút về phía bản dương D và bị đẩy ra xa bản âm E. Kĩ thuật cơ bản xác định tỉ số m/q đơn giản là đo góc mà các bản tích điện làm lệch chùm tia. Lực điện tác dụng lên một hạt tia catôt trong khi nó nằm giữa các bản sẽ tỉ lệ với điện tích của nó Fđiện = (hằng số đã biết) . q Áp dụng định luật II Newton, a = F/m, sẽ cho phép xác định m/q m const qa © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 16
  22. Đó chỉ là một sự nắm bắt ý tưởng. Thomson cần phải biết vận tốc của hạt tia catôt để tính ra gia tốc của nó. Tuy nhiên, vào lúc đó, không ai có thậm chí là một dự đoán tốc độ của tia catôt tạo ra trong một ống chân không cho trước. Chùm tia có vẻ băng qua ống chân không hầu như tức thời, cho nên việc đo thời gian của nó với một chiếc đồng hồ bấm giây không phải là vấn đề đơn giản ! Giải pháp khéo léo của Thomson là quan sát kết quả của cả lực điện và lực từ tác dụng lên chùm tia. Lực từ tác dụng bởi một nam châm nhất định sẽ phụ thuộc vào cả điện tích của tia catôt và tốc độ của nó Ftừ = (hằng số đã biết #2). qv Thomson làm việc với lực từ và lực điện cho tới khi mỗi lực tạo ra một kết quả bằng nhau trên chùm tia, cho phép ông tính được tốc độ v = (hằng số đã biết)/(hằng số đã biết #2) Biết được tốc độ (vào cỡ 10% tốc độ ánh sáng trong cơ cấu thí nghiệm của ông), ông có thể tìm được gia tốc và do đó là tỉ số khối lượng trên thể tích, m/q. Kĩ thuật của Thomson tương đối thô sơ (và có lẽ độ lượng hơn, chúng ta có thể nói rằng chúng vẫn còn trong giai đoạn là sản phẩm nghệ thuật vào thời đó), nên với những phương pháp khác nhau, ông đi đến các giá trị m/q dao động trong khoảng hệ số 2, cả với tia catôt phát ra từ catôt cấu tạo từ một đơn chất. Giá trị tốt nhất hiện nay là m/q = 5,69 x 10-12 kg/C, phù hợp với giới hạn dưới của ngưỡng số liệu của Thomson. Tia catôt là một hạt hạ nguyên tử: electron Tuy nhiên, về thí nghiệm của Thomson, điều quan trọng không phải là giá trị bằng số thực tế của m/q, mà kết hợp với giá trị điện tích nguyên tố của Millikan, nó cho khối lượng của hạt tia catôt nhỏ hơn hàng ngàn lần khối lượng của cả những nguyên tử nhẹ nhất. Ngay cả khi không có kết quả của Millikan, phải chờ tới 14 năm sau đó mới có, Thomson đã công nhận tỉ số m/q đối với tia catôt nhỏ hơn hàng ngàn lần tỉ số m/q đo được đối với các nguyên tử tích điện trong dung dịch hóa học. Ông giải thích đúng đắn đây là bằng chứng cho thấy tia catôt là những viên gạch cấu trúc còn nhỏ hơn nữa – ông gọi chúng là electron – hình thành nên chính các nguyên tử. Đây là một khẳng định rất cấp tiến, được nêu ra vào lúc các nguyên tử chưa hề được chứng minh là tồn tại ! Cả những người sử dụng từ “nguyên tử” cũng thường xem chúng là sự trừu tượng hóa mang tính toán học nhiều hơn, chứ không phải là những đối tượng hiểu theo nghĩa đen. Ý tưởng tìm kiếm cấu trúc bên trong của các nguyên tử “không thể chia tách” bị một số người xem là điên rồ, nhưng trong vòng có 10 năm, quan niệm của Thomson đã được xác nhận đầy đủ bởi nhiều thí nghiệm chi tiết hơn. Câu hỏi thảo luận A. Thomson bắt đầu trở nên bị thuyết phục trong thí nghiệm của ông rằng “tia catôt” quan sát thấy phát ra từ catôt của ống chân không là những viên gạch cấu trúc của nguyên tử - cái mà ngày nay chúng ta gọi là electron. Sau đó, ông tiến hành quan sát với catôt làm bằng nhiều kim loại khác nhau, và nhận thấy tỉ số m/q hầu như bằng nhau trong mỗi trường hợp, có tính đến độ chính xác giới hạn của ông. Cho rằng là ông nghi ngờ, tại sao ông phải cố thử với nhiều kim loại khác nhau ? Làm thế nào giá trị thích hợp của m/q lại đóng vai trò kiểm tra cho giả thuyết của ông ? B. Sinh viên của tôi hay thắc mắc tỉ số m/q mà Thomson đo là giá trị cho một electron, hay cho toàn bộ chùm tia. Bạn có thể trả lời câu hỏi này không ? C. Thomson tìm thấy tỉ số m/q của một electron nhỏ hơn hàng ngàn lần tỉ số đó của các nguyên tử tích điện trong dung dịch hóa học. Đây có phải là gợi ý rằng electron có điện tích lớn hơn hay không ? Hay là chúng có khối lượng nhỏ hơn ? Có phải là không có cách nào nói như vậy ? Hãy giải thích. Lưu ý rằng kết quả của Millikan mãi nhiều năm nữa mới có, cho nên q chưa biết. © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 17
  23. D. Bạn có thể dự đoán bất kì lí do thực tế nào lí giải tại sao Thomson không thể nào chỉ để cho một electron bay qua khe trước khi ngắt pin và tắt chùm tia, và rồi đo lượng điện tích bám trên anôt, như vậy cho phép ông đo được điện tích của một electron một cách trực tiếp ? E. Tại sao không thể xác định chính m và q, thay cho tỉ số của chúng, bằng cách quan sát chuyển động của electron trong điện trường và từ trường ? 1.6 Mô hình bánh bông lan rắc nho của nguyên tử Dựa trên thí nghiệm của ông, Thomson đề xuất một bức tranh của nguyên tử trở nên nổi tiếng là mẫu bánh bông lan rắc nho. Trong nguyên tử trung hòa, l, có 4 electron với điện tích tổng cộng -4e, nằm trong một hình cẩu (“bánh bông lan”) có điện tích +4e rải đều qua nó. Người ta đã biết rằng các phản ứng hóa học không thể biến đổi nguyên tố này thành nguyên tố khác, nên trong ngữ cảnh của Thomson, mỗi quả cầu bánh của nguyên tố có một bán kính, khối lượng, và điện tích dương cố định vĩnh cửu, khác với quả cầu bánh của nguyên tố khác. Tuy nhiên, các electron không phải là đặc điểm cố định của nguyên tử và có thể được nhận thêm hoặc lấy bớt để hình thành nên các ion tích điện. Ví dụ, mặc dù ngày nay chúng ta biết rằng nguyên tử trung hòa có bốn electron là nguyên tố beryllium, nhưng các nhà khoa học thời đó không biết có bao nhiêu electron có trong những nguyên tử trung hòa khác nhau. l/ Mô hình bánh bông lan rắc nho của nguyên tử với bốn đơn vị điện tích, ngày nay chúng ta biết đây là beryllium. Mô hình này rõ ràng là khác với mô hình mà bạn đã học ở trường phổ thông hoặc qua nền văn hóa cộng đồng của bạn, theo đó điện tích dương tập trung tại hạt nhân nhỏ xíu nằm ở chính giữa nguyên tử. Một thay đổi không kém phần quan trọng trong ý tưởng về nguyên tử là sự nhận thức rằng nguyên tử và những hạt hạ nguyên tử thành phần của nó xử sự hoàn toàn khác với các vật có kích thước hàng ngày. Chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy trong phần sau rằng một electron có thể ở nhiều hơn một nơi tại một thời điểm. Mô hình bánh bông lan rắc nho là một phần của truyền thống lâu dài cố gắng tạo ra mô hình cơ giới của các hiện tượng, và Thomson cùng những người đương thời của ông chưa bao giờ đặt vấn đề sự thích đáng của việc xây dựng một mô hình nguyên tử như một cỗ máy với những bộ phận nhỏ bên trong nó. Ngày nay, mô hình cơ giới của nguyên tử vẫn được sử dụng (ví dụ như bộ lắp ráp mô hình phân tử kiểu đồ chơi mà Watson và Crick đã sử dụng để tìm hiểu cấu trúc xoắn kép của DNA), nhưng các nhà khoa học nhận thấy rằng các đối tượng vật chất chỉ là sự trợ giúp cho quá trình xử lí hình ảnh và biểu tượng của não nghĩ về các nguyên tử. Mặc dù không có bằng chứng thực nghiệm rõ ràng nào cho nhiều chi tiết của mô hình bánh bông lan rắc nho, nhưng các nhà vật lí vẫn tiến lên và bắt đầu nghiên cứu những hàm ý của nó. Ví dụ, giả sử bạn có một nguyên tử 4 electron. Cả 4 electron sẽ đẩy lẫn © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 18
  24. nhau, nhưng chúng cũng đều bị hút về phía tâm của quả cầu “bánh”. Kết quả sẽ là một số dạng sắp xếp đối xứng, ổn định, trong đó tất cả các lực triệt tiêu lẫn nhau. Những người đủ khéo léo với toán học sớm thấy rằng các electron trong một nguyên tử 4 electron sẽ bố trí ở các đỉnh của một hình chóp theo kiểu kim tự tháp Ai Cập thu nhỏ, tức là một tứ diện đều. Suy luận này hóa ra sai lầm, vì nó dựa trên những đặc điểm không chính xác của mô hình đó, nhưng mô hình cũng có thành công nhất định, một vài thành công trong số đó chúng ta sẽ nói tới ngay bây giờ. Ví dụ 3. Dòng điện tích trong dây dẫn Một trong những học trò của tôi là con trai của một người thợ điện, và chính anh ta cũng trở thành một người thợ điện. Anh ta kể với tôi làm sao mà cha anh ta cả đời mình vẫn từ chối tin rằng các electron thật sự chảy qua dây dẫn. Nếu chúng chảy như vậy, ông giải thích, kim loại đó sẽ dần dần bị phá hủy, cuối cùng thì vỡ vụn ra thành bụi. Quan điểm của ông không phải không có lí dựa trên thực tế là các electron là những hạt vật chất, và vật chất bình thường không thể truyền xuyên qua vật chất mà không tạo ra một lỗ trống trong đó. Các nhà vật lí thế kỉ thứ 19 sẽ chia sẻ quan điểm này với ông phản đối mô hình hạt tích điện của dòng điện tích. Tuy nhiên, trong mô hình bánh bông lan rắc nho, các electron có khối lượng rất thấp, và do đó có lẽ cũng có kích thước rất nhỏ. Không có gì ngạc nhiên khi chúng có thể chạy qua giữa các nguyên tử mà không làm phá hủy chúng. Ví dụ 4. Dòng điện tích băng qua màng tế bào Hệ thần kinh của bạn hoạt động trên cơ sở các tín hiệu mang bởi điện tích đi từ tế bào thần kinh này tới tế bào thần kinh khác. Cơ thể của bạn về cơ bản đều ở thể lỏng, và các nguyên tử trong một chất lỏng thì luôn linh động. Điều này có nghĩa là, không giống như trạng thái điện tích chạy trong dây dẫn rắn, toàn bộ các nguyên tử tích điện có thể chạy trong hệ thần kinh của bạn. Ví dụ 5. Sự phát xạ electron trong ống tia catôt Tại sao các electron tự bứt ra khỏi catôt của ống chân không ? Tất nhiên, chúng được khuyến khích làm như thế bởi lực đẩy của điện tích âm đặt trên catôt và lực hút từ phía lưới điện tích dương của anôt, nhưng những lực này không đủ mạnh để bứt các electron ra khỏi nguyên tử bằng lực chính – nếu chúng làm được, thì toàn bộ cơ cấu sẽ bốc hơi ngay tức thì vì mỗi nguyên tử đồng thời cũng bị xé toạc ra! Mô hình bánh bông lan rắc nho đưa tới một lời giải thích đơn giản. Chúng ta biểt rằng nhiệt là năng lượng của chuyển động ngẫu nhiên của các nguyên tử. Do đó, các nguyên tử trong bất kì vật nào cũng xô đẩy nhau một cách dữ dội mọi lúc, và một vài trong số những va chạm đó đủ mạnh để đánh bật electron ra khỏi nguyên tử. Nếu như điều này xảy ra ở gần bề mặt của một vật rắn, thì electron có lẽ có thể bị thất thoát. Tuy nhiên, bình thường thì sự thất thoát electron này là một quá trình tự hạn chế; sự mất electron để lại cho vật một điện tích tổng thể dương, nó sẽ hút chú cừu non đi lạc kia trở lại với gia đình. (Đối với các vật nằm trong không khí chứ không phải trong chân không, cũng sẽ có một sự trao đổi cân bằng của các electron giữa không khí và vật). Cách hiểu này giải thích sự ấm lên và lóe sáng màu vàng thân thiện của ống chân không của chiếc radio cổ. Để khuyến khích sự phát xạ electron từ catôt của ống chân không, catôt được cố ý làm nóng lên bằng cuộn dây cấp nhiệt. Câu hỏi thảo luận A. Ngày nay, nhiều người định nghĩa ion là một nguyên tử (hay phân tử) bị mất electron hoặc nhận thêm electron. Hỏi làm thế nào người ta có thể định nghĩa từ “ion” trước khi khám phá ra electron ? B. Vì nguyên tử trung hòa về điện được biết là tồn tại, nên phải có một chất liệu hạ nguyên tử tích điện dương để triệt tiêu với các electron tích điện âm trong nguyên tử. Dựa trên nền tảng kiến thức vừa mới biết sau những thí nghiệm của Millikan và Thomson, liệu có thể nào chất liệu tích điện dương đó có một lượng điện tích không bị lượng tử hóa hay không ? Nó có thể được lượng tử hóa bằng đơn vị +e hay không ? Hay bằng đơn vị +2e ? Bằng đơn vị +5/7e ? © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 19
  25. Tóm tắt chương Từ khóa chọn lọc nguyên tử đơn vị cơ bản của một nguyên tố hóa học phân tử một nhóm nguyên tử gắn chặt với nhau lực điện một trong những lực cơ bản của tự nhiên; một lực không tiếp xúc, có thể đẩy hoặc hút điện tích . số đo mức độ mạnh mà một vật tham gia vào lực điện ion . nguyên tử hay phân tử tích điện tia catôt tia bí ẩn phát ra từ catôt trong ống chân không; Thomson chỉ ra rằng đó là một dòng hạt nhỏ hơn nguyên tử electron tên do Thomson đặt cho hạt cấu thành nên tia catôt Lượng tử hóa . mô tả số lượng ví dụ như tiền hoặc điện tích, chúng chỉ có thể tồn tại ở những lượng nhất định Kí hiệu q điện tích e lượng tử điện tích Tóm tắt Mọi lực mà chúng ta gặp trong cuộc sống hàng ngày rút lại có hai loại cơ bản: lực hấp dẫn và lực điện. Một lực như lực ma sát hay “lực nhớt” phát sinh từ lực điện giữa từng nguyên tử với nhau. Giống như việc chúng ta sử dụng từ “khối lượng” để mô tả mức độ mạnh mà một vật tham gia vào lực hấp dẫn, chúng ta dùng từ “điện tích” cho cường độ lực điện của nó. Có hai loại điện tích. Hai điện tích cùng loại đẩy nhau ra, nhưng những vật có điện tích khác nhau thì hút nhau lại. Điện tích được đo bằng đơn vị coulomb (C). Mô hình hạt mang điện linh động: Rất nhiều hiện tượng có thể hiểu dễ dàng nếu chúng ta tưởng tượng vật chất gồm hai loại hạt tích điện, ít nhất thì chúng cũng có phần nào đó chuyển động ra xung quanh. Điện tích dương và điện tích âm: Những vật bình thường không bị làm cho nhiễm điện có cả hai loại điện tích trải đều đặn trong chúng với số lượng bằng nhau. Khi đó, vật không có xu hướng tác dụng lực điện lên bất kì vật nào khác, vì bất kì lực hút nào do một loại điện tích sẽ cân bằng với lực đẩy từ loại điện tích kia. (Chúng ta nói “có xu hướng không” bởi vì mang vật đó đến gần một vật có lượng điện tích không cân bằng có thể làm cho điện tích của nó tách ra xa nhau và lực sẽ không còn triệt tiêu do khoảng cách không bằng nhau). Do đó, người ta mô tả hai loại điện tích bằng kí hiệu dương và âm, cho nên một vật không nhiễm điện sẽ có điện tích toàn phần bằng không. Định luật Coulomb phát biểu rằng độ lớn của lực điện giữa hai hạt mang điện được 2 cho bởi biểu thức |F| = k |q1||q2|/r . © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 20
  26. Bảo toàn điện tích: Một lí do còn cơ bản hơn nữa cho việc sử dụng kí hiệu dương và âm cho điện tích là với định nghĩa này, điện tích toàn phần của một hệ cô lập là một đại lượng được bảo toàn. Lượng tử hóa điện tích: Thí nghiệm giọt dầu của Millikan cho thấy điện tích toàn phần của một vật chỉ có thể là bội số nguyên của một đơn vị cơ bản của điện tích (e). Kết quả này củng cố cho ý tưởng cho rằng “dòng” điện tích là chuyển động của những hạt nhỏ xíu chứ không phải chuyển động của một số loại chất lỏng điện bí ẩn. Phân tích của Einstein về chuyển động Brown là bằng chứng dứt khoát đầu tiên cho sự tồn tại của nguyên tử. Thí nghiệm của Thomson với ống chân không chứng minh sự tồn tại của một loại hạt vi mô mới có tỉ số khối lượng trên điện tích rất nhỏ. Thomson nhận thức một cách đúng đắn đây là những viên gạch cấu trúc của vật chất còn nhỏ hơn cả nguyên tử: đó là khám phá đầu tiên ra một hạt hạ nguyên tử. Những hạt này được gọi là electron. Bằng chứng thực nghiệm trên đây đã đưa tới mô hình hữu ích đầu tiên của cấu trúc bên trong của nguyên tử, gọi là mô hình bánh bông lan rắc nho. Theo mô hình bánh bông lan rắc nho, quả cầu tích điện dương có một số nhất định các electron tích điện âm ấn vào nó. Bài tập 1. Hình bên là một neuron, một loại tế bào cấu tạo nên hệ thần kinh của bạn. Neuron đảm nhận việc chuyển tải thông tin cảm giác lên não, và truyền lệnh từ não đến các cơ. Tất cả những dữ liệu này được truyền bằng điện, nhưng ngay cả khi tế bào nằm nghỉ và không truyền bất kì thông tin nào, vẫn có một lớp điện tích âm ở bên trong màng tế bào, và một lớp điện tích dương nằm ngay bên ngoài nó. Điện tích này ở dưới dạng ion Bài toán 1. Hình trên: Hình ảnh thực của hòa tan trong chất lỏng bên trong và bên ngoài tế một neuron. Hình dưới: Hình vẽ đơn giản bào. Tại sao điện tích âm đó vẫn dính vào bên hóa một đoạn của sợi trục (axon). trong của màng tế bào, và tương tự, tại sao điện tích dương đó không tản mạn ra khỏi mặt bên ngoài của tế bào ? 2. Hãy sử dụng thông tin dinh dưỡng trên một số thực phẩm đóng gói thực hiện một ước tính bậc độ lớn của lượng năng lượng hóa học trữ trong một nguyên tử thực phẩm, bằng đơn vị joule (J). Giả sử một nguyên tử tiêu biểu có khối lượng 10-26 kg. Từ đó thiết lập một ước tính thô lượng năng lượng có trên quy mô nguyên tử. (Chú ý rằng cal trên bao bì thực phẩm thật ra là kcal). 3. (a) Nhắc lại năng lượng hấp dẫn của hai quả cầu tương tác hấp dẫn được cho bởi PE = - Gm1m2/r, trong đó r khoảng cách tâm-nối-tâm của hai vật. Phương trình tương tự cho hai quả cầu tương tác điện sẽ là gì ? Giải thích việc bạn chọn dấu cộng hay dấu trừ, hãy xét lực hút và lực đẩy. (b) Sử dụng biểu thức này ước tính năng lượng cần thiết để xé toạc một nguyên tử bánh bông lan rắc nho thuộc loại một electron, giả sử nó có bán kính 10-10 m. (c) So sánh kết quả này với kết quả của bài toán 2. © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 21
  27. 4. Một đèn neon gồm một ống thủy tinh dài chứa đầy neon, với nắp kim loại ở hai đầu. Điện tích dương được đặt ở một đầu của ống, và điện tích âm nằm ở đầu kia. Lực điện phát sinh có thể đủ mạnh, bứt electron ra khỏi một số nguyên tử neon nhất định. Giả sử cho đơn giản rằng chỉ một electron bị bứt ra khỏi một nguyên tử neon. Khi một electron bị bứt ra khỏi một nguyên tử, cả electron và nguyên tử neon (lúc này là ion) đều có điện tích và chúng được gia tốc bởi lực tác dụng bởi hai đầu tích điện của ống. (Chúng không nhận ra được bất kì lực nào đáng kể từ phía những ion và electron khác bên trong ống, vì chỉ có một phần thiểu số rất nhỏ nguyên tử neon bị ion hóa). Cuối cùng ánh sáng được tạo ra khi các ion hợp nhất trở lại với các electron. Hãy cho một so sánh bằng số về độ lớn và hướng của gia tốc của electron và ion. 5. Nếu bạn đặt hai nguyên tử hydrogen gần nhau, chúng sẽ cảm nhận một lực hút, và chúng sẽ hút nhau hình thành nên một phân tử. (Phân tử gồm hai nguyên tử hydrogen là dạng bình thường của khí hydrogen). Tại sao chúng lại cảm thấy một lực hút khi chúng ở gần nhau, vì chúng đều trung hòa về điện ? Có phải lực hút và lực đẩy không triệt tiêu nhau hoàn toàn ? Sử dụng mô hình bánh bông lan rắc nho (Học trò có học hóa thường cố gắng sử dụng những mô hình khác lạ để giải thích hiện tượng này, nhưng nếu bạn không thể giải thích nó bằng một mô hình đơn giản, có thể là bạn cũng chẳng hiểu gì mô hình khác lạ đó mặc dù bạn tưởng rằng mình đã hiểu!). 6. Hình bên biểu diễn một lớp cấu trúc ba chiều của tinh thể muối ăn. Các nguyên tử mở rộng ra xa hơn nhiều theo mọi hướng, nhưng ở đây chỉ biểu diễn một hình vuông 6 x 6. Các vòng tròn lớn là ion chlorine, chúng có điện tích – e. Các vòng tròn nhỏ hơn là ion natri, với điện tích + e. Khoảng cách tâm-nối-tâm giữa những ion lân cận là khoảng 0,3 nm. Những tinh thể thật không bao giờ hoàn hảo, và tinh thể biểu diễn ở đây có hai sai hỏng: một nguyên tử bị thiếu ở một nơi, và một nguyên tử lithium, vẽ bằng vòng tròn màu xám, xen vào một trong những lỗ trống. Nếu nguyên tử lithium đó có điện tích + e, thì đâu là hướng và độ lớn của lực tổng hợp tác dụng lên nó ? Giả sử không có sai hỏng nào khác ở gần đó bên trong tinh thể ngoài hai sai hỏng đã nêu rõ ở đây. (Gợi ý: Lực tác dụng lên ion lithium đó là tổng vectơ của tất cả các lực của hàng nghìn triệu triệu nguyên tử natri và chlorine, chúng rõ ràng là quá khó tính được. Tuy nhiên, hầu như tất cả những lực này đều bị triệt tiêu bởi một lực do một ion ở phía đối diện của nguyên tử lithium tác dụng). 7. Trái Đất và Mặt Trăng liên kết với nhau bằng lực hấp dẫn. Để thay thế, nếu lực hút đó là kết quả của mỗi vật có điện tích cùng độ lớn nhưng trái dấu nhau, hãy tìm lượng điện tích phải đặt trên mỗi vật đó để có lực hút cần thiết. 8. Trong trận bán kết vòng thi đấu bóng vồ tĩnh điện, Jessica bắt quả bóng tích điện dương của cô ta, ném nó đi qua sân chơi, lăn sang phía bên trái dọc theo trục x. Nó bị đẩy bởi hai điện tích dương khác. Hai điện tích bằng nhau này nằm cố định trên trục y ở khoảng cách cho trong hình vẽ. (a) Hãy biểu diễn lực tác dụng lên quả bóng theo vị trí x của quả bóng. (b) Hỏi ở giá trị nào của x quả bóng chịu sự giảm tốc lớn © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 22
  28. nhất ? Biểu diễn câu trả lời của bạn theo b (Trích từ một bài toán của Halliday và Resnick). © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 23
  29. a/ Marie và Pierre Curie là những người đầu tiên tinh chế radium với số lượng lớn. Tính phóng xạ mạnh của radium cho phép thực hiện được những thí nghiệm đưa đến mẫu hành tinh nguyên tử hiện đại, trong đó các electron quay tròn xung quanh hạt nhân cấu thành từ proton và neutron. Chương 2 HẠT NHÂN 2.1 Sự phóng xạ Becquerel khám phá ra hiện tượng phóng xạ Làm thế nào các nhà vật lí luận ra được mô hình bánh bông lan rắc nho là không chính xác, và điện tích dương của nguyên tử tập trung trong một hạt nhân nhỏ xíu, ở chính giữa ? Câu chuyện bắt đầu với việc nhà hóa học người Pháp Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Mãi cho đến khi khám phá ra sự phóng xạ, tất cả mọi quá trình của tự nhiên đều được cho là có nguyên nhân từ các phản ứng hóa học, chúng là sự sắp xếp lại những kết hợp khác nhau của các nguyên tử. Nguyên tử tác dụng lực lên nhau khi chúng ở gần nhau, nên việc gắn kết hoặc không gắn kết chúng sẽ giải phóng hoặc dự trữ năng lượng điện. Năng lượng đó có thể chuyển hóa thành dạng khác hoặc chuyển hóa từ dạng khác thành, lúc cây xanh sử dụng nó trong ánh sáng Mặt Trời tạo ra đường và carbohydrate, hay khi một đứa trẻ nhỏ ăn đường, giải phóng năng lượng dưới dạng động năng. Becquerel đã phát hiện ra một quá trình có vẻ giải phóng năng lượng từ một nguồn mới không biết không có bản chất hóa học. Becquerel, người có cha và ông nội là những nhà vật lí, đã trải qua hai chục năm đầu của quãng đời nghiên cứu chuyên nghiệp của ông là một kĩ sư công dân thành công, giảng dạy vật lí học bán thời gian. Ông được trao ghế chủ nhiệm bộ môn vật lí ở trường Musée d’Histoire Naturelle tại Paris sau khi cha ông qua đời, trước đó ông ta giữ ghế đó. Giờ thì ông đã có nhiều thời gian dành cho vật lí học, ông bắt đầu nghiên cứu tương tác của ánh sáng và vật chất. Ông trở nên hứng thú với hiện tượng lân quang, trong đó một chất hấp thụ năng lượng từ ánh sáng, rồi giải phóng năng lượng qua một ánh sáng rực rỡ chỉ tắt đi từ từ. Một trong những chất mà ông nghiên cứu là hợp chất của uranium, muối UKSO5. Một ngày vào năm 1896, bầu trời kéo đầy mây đã làm hỏng kế hoạch của ông phơi chất này dưới ánh sáng Mặt Trời để quan sát sự huỳnh quang của nó. Ông cho nó vào một ngăn kéo, ngẫu nhiên nằm trên một bản phim trắng – © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 24
  30. kiểu phim chụp cũ mặt sau là thủy tinh. Bản phim đó được bọc lại cẩn thận, nhưng vài ngày sau khi Becquerel kiểm tra nó trong một căn phòng tối trước khi mang ra sử dụng, ông thấy nó đã bị hỏng, cứ như thể nó đã bị phơi ra hoàn toàn trước ánh sáng. Lịch sử mang lại nhiều ví dụ về những khám phá khoa học xảy ra như thế này: một trí tuệ cảnh giác và tò mò quyết định nghiên cứu một hiện tượng mà đa số người ta không ai nghi ngại việc giải thích nó. Ban đầu Becquerel xác định bằng cách làm thêm thí nghiệm mà hiệu ứng đó được tạo ra bởi muối uranium, bất chấp lớp giấy dày bọc bản phim đã chặn hết mọi ánh sáng. Ông thử với nhiều loại hợp chất và nhận thấy chỉ có muối uranium làm được như vậy: hiệu ứng xảy ra với bất kì hợp chất uranium nào, nhưng không xảy ra với bất kì hợp chất nào không chứa các nguyên tử uranium. Hiệu ứng đó ít nhất thì cũng bị chặn lại một phần bởi một tấm kim loại đủ dày, và ông có thể tạo ra bóng của đồng tiền bằng cách đặt chúng vào giữa uranium và tấm phim. Điều này cho thấy hiệu ứng đó truyền đi theo đường thẳng, cho nên nó phải là một loại tia nào đó chứ không phải sự rò rỉ hóa chất qua tấm giấy. Ông đã dùng từ “phát xạ”, vì hiệu ứng đó phát ra từ muối uranium. c/ Tấm phim của Becquerel. Trong sự phơi sáng ở phía dưới hình, ông nhận thấy ông có thể làm hấp thụ bức xạ, bắt bóng của một chữ thập xứ Maltese đặt giữa tấm phim và muối uranium. b/ Henri Becquerel (1852 – 1908) Ở đây, Becquerel vẫn tin rằng các nguyên tử uranium đang hấp thụ năng lượng từ ánh sáng và rồi giải phóng từ từ năng lượng đó dưới dạng những tia bí ẩn, và đây là cách thức mà ông đã đưa hiện tượng vào trong bài thuyết trình công bố đầu tiên của ông mô tả những thí nghiệm của ông. Thật hấp dẫn, nhưng không làm đảo lộn mọi thứ. Nhưng sau đó, khi ông thử xác định thời gian cần thiết cho uranium sử dụng hết năng lượng được cho là dự trữ trong nó bởi ánh sáng, ông nhận thấy nó chưa bao giờ có vẻ nào yếu đi, cho dù là ông có đợi cho tới bao lâu đi nữa. Không chỉ thế, một mẫu vật được đem ra phơi ánh sáng Mặt Trời mạnh trong suốt cả buổi chiều cũng không mạnh hay kém hoạt tính hơn một mẫu vật luôn luôn giữ ở trong nhà. Đây là có phải là một sự vi phạm nguyên lí bảo toàn năng lượng ? Nếu năng lượng không đến từ sự phơi sáng, thì nó có nguồn gốc từ đâu ? Ba loại “phát xạ” Không thể xác định trực tiếp nguồn gốc của năng lượng đó, thay vì vậy, các nhà vật lí cuối thế kỉ 19 nghiên cứu hành vi của các “phát xạ” một khi chúng được phát ra. Becquerel chỉ ra rằng phóng xạ có thể đâm xuyên qua vải vóc và giấy, nên việc hiển nhiên trước tiên phải thực hiện là nghiên cứu chi tiết hơn chiều dày của chất mà phóng xạ có thể xuyên qua. Họ sớm nhận ra rằng một phần nhất định của cường độ phóng xạ sẽ bị loại trừ © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 25
  31. ngay cả bởi một vài inch không khí, nhưng phần còn lại không bị loại mất khi truyền đi quãng không khí dài hơn. Như vậy, rõ ràng phóng xạ là hỗn hợp của hơn một loại, trong đó một loại bị chặn lại bởi không khí. Sau đó, họ nhận thấy trong số phần có thể đi xuyên qua không khí, một lượng nữa có thể bị loại mất bằng một mảnh giấy hay một lá kim loại rất mỏng. Tuy nhiên, cái còn lại sau đó, là loại thứ ba, loại đâm xuyên cực mạnh, một số trong đó sẽ vẫn còn sau khi xuyên qua một bức tường gạch. Họ kết luận điều này cho thấy có ba loại phóng xạ, và không hề có chút ý tưởng mờ nhạt nào xem thật ra chúng là thứ gì, họ đã đặt tên cho chúng. Loại đâm xuyên ít nhất được gọi tùy tiện là (alpha), kí tự thứ nhất của bảng chữ cái Hi Lạp, và cứ thế đến  (beta), cuối cùng là  (gamma) cho loại đâm xuyên mạnh nhất. Radium: một nguồn phóng xạ còn mạnh hơn nữa Những dụng cụ đo dùng để phát hiện phóng xạ thật thô sơ: các tấm phim hay thậm chí là mắt người (phóng xạ gây ra lóe sáng trong thủy dịch bên trong mắt người, nó có thể nhìn thấy nếu như ở trong phòng rất tối). Vì phương pháp phát hiện phóng xạ quá thô sơ và không nhạy, nên những tiến bộ khác bị cản trở bởi thực tế lượng phóng xạ phát ra bởi uranium không thật sự rất lớn. Đóng góp mang tính sống còn của nhà vật lí/hóa học Marie Curie và chồng bà là Pierre là khám phá ra nguyên tố radium, và tinh chế và tách được một lượng đáng kể chất đó. Radium phát ra nhiều phóng xạ hơn uranium khoảng một triệu lần trên đơn vị khối lượng, mang lại khả năng thực hiện những thí nghiệm cần thiết để tìm hiểu bản chất thật sự của phóng xạ. Sự nguy hiểm của phóng xạ đối với sức khỏe con người lúc ấy chưa được biết tới, và Marie đã chết vì bệnh bạch cầu 30 năm sau đó. (Pierre thì qua đời vì một vụ tai nạn). Lần theo bản chất của tia alpha, beta và gamma Khi radium trở nên sẵn dùng, một nhà khoa học tập sự tên là Ernest Rutherford đã rời quê hương New Zealand đến Anh và bắt đầu nghiên cứu phóng xạ tại Phòng thí nghiệm Cavendish. Thành công đầu tiên của chàng trai xứ thuộc địa là đo được tỉ số khối lượng trên điện tích của tia beta. Kĩ thuật đó về cơ bản giống như kĩ thuật Thomson đã dùng để đo tỉ số khối lượng trên điện tích của tia catôt, bằng cách đo sự lệch của chúng trong điện trường và từ trường. Sự khác biệt duy nhất là ở chỗ thay catôt của ống chân không bằng một cục radium để cung cấp tia beta. Không chỉ kĩ thuật sử dụng tương tự nhau, mà kết quả thu được cùng giống nhau. Tia beta có cùng tỉ số m/q như tia catôt, cho thấy chúng là một loại và đồng nhất. Ngày nay, để hiểu đơn giản, người ta dùng từ “electron”, và tránh dùng những từ cổ xưa như “tia catôt” và “hạt beta”, nhưng những tên gọi cũ vẫn được sử dụng rộng rãi, và điều cần thiết không hay cho học sinh vật lí là phải ghi nhớ cả ba tên này là chỉ cùng một thứ. Ban đầu, có vẻ là tia alpha hay gamma đều không bị lệch trong điện trường hoặc từ trường, khiến có vẻ như chúng đều không tích điện. Nhưng Rutherford sớm có được một nam châm mạnh hơn nhiều, và ông có thể dùng nó làm lệch tia alpha, nhưng không làm lệch được tia gamma. Tia alpha có giá trị m/q lớn hơn nhiều so với tia beta (khoảng 4000 lần), đấy là lí do tại sao chúng khó bị lệch hướng. Tia gamma không tích điện, và sau này được nhận ra là một dạng của ánh sáng. Tỉ số m/q của hạt alpha hóa ra bằng với tỉ số này của hai loại ion khác, He++ (một + nguyên tử helium mất đi hai electron) và H2 (hai nguyên tử hydrogen liên kết thành một phân tử và bị mất một electron), nên hình như chúng chỉ là một hay là cái gì đó tương tự. Hình dưới đây biểu diễn một mẫu đơn giản hóa của thí nghiệm khéo léo của Rutherford chứng tỏ chúng là ion He++. Nguyên tố ở thể khí radon, một nguồn phát hạt alpha, được đưa vào một nửa của một buồng thủy tinh đôi. Thành thủy tinh chia buồng ra làm hai được chế tạo cực kì mỏng, nên một số hạt alpha chuyển động nhanh có thể đi xuyên qua nó. © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 26
  32. Buồng phía bên kia, ban đầu được hút chân không, từ từ bắt đầu tích góp số hạt alpha (chúng sẽ nhanh chóng bắt lấy electron từ môi trường xung quanh và trở nên trung hòa về điện). Sau đó, Rutherford xác định được có mặt khí helium trong buồng thứ hai. Như vậy, hạt alpha được chứng minh là ion He++. Hạt nhân khi ấy vẫn chưa được khám phá, nhưng trong thuật ngữ hiện đại, chúng ta mô tả ion He++ là hạt nhân của nguyên tử helium. d/ Hình vẽ đơn giản hóa thí nghiệm năm 1908 của Rutherford, cho thấy hạt alpha là nguyên tử helium bị ion hóa hai lần. e/ Những viên nhiên liệu uranium này sẽ được chèn vào thanh nhiên liệu kim loại dùng trong lò phản ứng hạt nhân. Các viên nhiên liệu đó phát ra bức xạ alpha và beta mà chiếc bao tay đủ dày chặn lại được. Tóm lại, ở đây có ba loại bức xạ phát ra bởi các nguyên tố phóng xạ, và mô tả của chúng như sau: hạt dừng lại bởi vài inch không khí hạt nhân He hạt  dừng lại bởi một tấm giấy electron tia  đâm xuyên qua tấm chắn dày một dạng ánh sáng Câu hỏi thảo luận A. Đa số nguồn phóng xạ phát ra tia alpha, beta và gamma, chứ không phải một trong ba loại. Trong thí nghiệm radon, làm thế nào Rutherford biết được là ông đang nghiên cứu tia alpha ? 2.2 Mẫu hành tinh nguyên tử Tình huống lúc này dẫn đến khám phá không mong đợi là phần tích điện dương của nguyên tử là một cục nhỏ xíu, đậm đặc, nằm ở chính giữa nguyên tử chứ không phải là “bột bánh” trong mô hình bánh bông lan rắc nho. Vào năm 1909, Rutherford là một giáo sư mới được phong, và có sinh viên làm việc dưới sự hướng dẫn của ông. Đối với chàng sinh viên non nớt tên là Marsden, anh ta đã chọn một dự án nghiên cứu vốn được xem là chán ngắt nhưng dễ thực hiện. Lúc này, mặc dù người ta biết rằng hạt alpha sẽ bị dừng lại bởi một tấm giấy, nhưng chúng có thể xuyên qua một lá kim loại đủ mỏng. Marsden nghiên cứu với lá vàng chỉ dày 1000 nguyên tử. (Lá vàng đó có thể chế tạo bằng cách cho bốc hơi một ít vàng trong buồng chân không sao cho một lớp mỏng vàng sẽ lắng trên một bản kính thủy tinh hiển vi. Sau đó, lá vàng được tách khỏi bản kính bằng cách dìm bản kính vào trong nước). Rutherford vừa xác định được trong những thí nghiệm trước đó của ông về tốc độ của hạt alpha do radium phát ra, một tốc độ vô cùng lớn: 1,5 x 107 m/s. Những người thí nghiệm trong nhóm làm việc của Rutherford hình dung chúng là những quả đại bác rất nhỏ, rất nhanh đâm xuyên qua phần “bột bánh” của nguyên tử vàng to lớn. Một mảnh giấy có bề dày cỡ một trăm ngàn nguyên tử hay ngần ấy sẽ đủ để làm dừng chúng hoàn toàn, © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 27
  33. nhưng việc đâm qua một lớp dày 1000 nguyên tử cũng chỉ làm chúng chậm đi chút ít và làm chúng hơi lệch khỏi đường đi ban đầu của mình. f/ Ernest Rutherford (1871 – 1937) g/ Thiết bị thí nghiệm của Marsden và Rutherford Nhiệm vụ được cho là chán ngắt của Marsden là sử dụng thiết bị trong hình g/ đo xem bao lâu thì những hạt alpha lại bị lệch ở những góc khác nhau. Một cục radium nhỏ xíu nằm trong hộp phát ra hạt alpha, và một chùm hạt mỏng được tạo ra bằng cách chặn lại hết hạt alpha, trừ những hạt xuất hiện đi thẳng qua ống. Thường thì bị lệch ở lá vàng chỉ một chút ít, nên chúng sẽ đi tới màn hình rất giống với màn hình của ống đèn hình ti vi, chúng sẽ gây ra lóe sáng khi chạm lên đó. Đây là ví dụ đầu tiên mà chúng ta bắt gặp của một thí nghiệm trong đó một chùm hạt là đối tượng bị phát hiện tại một thời điểm. Có thể thực hiện được điều này vì mỗi hạt alpha mang quá nhiều động năng, nên chúng chuyển động ở khoảng chừng tốc độ như các electron trong thí nghiệm của Thomson, nhưng chúng có khối lượng lớn hơn chục ngàn lần. Marsden ngồi trong phòng tối, theo dõi thiết bị từ giờ này sang giờ khác và ghi lại số lóe sáng trên màn hình di chuyển sang những góc khác nhau. Tốc độ lóe sáng là cao nhất khi ông đặt màn hình ở góc gần với đường đi thẳng ban đầu của hạt alpha, nhưng nếu ông dõi theo một vùng nằm ngoài bản kính, thỉnh thoảng ông cũng nhìn thấy một hạt alpha bị lệch ở một góc lớn. Sau khi nhìn thấy một vài hạt như thế này, ông đi đến một ý tưởng điên rồ là di chuyển màn hình sang nhìn nếu những góc lớn hơn nữa cũng xuất hiện hạt alpha, có lẽ cả những góc lớn hơn 90 độ. © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 28
  34. h/ Hạt alpha bị tán xạ bởi một hạt nhân vàng. Ở quy mô này, nguyên tử vàng có kích thước của một chiếc xe hơi, vì thế tất cả các hạt alpha biểu diễn trong hình đều tiến gần một cách khác thường đến hạt nhân vàng. Đối với những hạt alpha khác thường này, lực điện do các electron tác dụng là không quan trọng, vì chúng nằm xa hơn hạt nhân rất nhiều. Ý tưởng điên rồ đó có tác dụng: một vài hạt alpha bị lệch ở góc lên tới 180 độ, và thí nghiệm bình thường trở thành thí nghiệm mang tính lịch sử. Rutherford nói “Chúng tôi có thể thu được một số hạt alpha dội ngược trở lại. Nó hầu như không thể tin được, như thể bạn bắn một quả đạn 15 inch lên một miếng giấy và nó bay trở lại và chạm vào bạn”. Khó có lời giải thích nào theo như mô hình bánh bông lan rắc nho. Lực điện mạnh mẽ nào đã có thể làm cho một số hạt alpha, đang chuyển động ở tốc độ cực lớn như thế, thay đổi một cách quá đột ngột ? Vì mỗi nguyên tử vàng là trung hòa điện, nên nó sẽ không thể tác dụng lực lớn lên một hạt alpha nằm bên ngoài nó. Thật vậy, nếu hạt alpha ở rất gần hay nằm bên trong một nguyên tử nhất định, thì lực đó sẽ không nhất thiết phải triệt tiêu hoàn toàn; nếu hạt alpha tiến rất gần đến một electron nhất định, thì dạng thức 1/r2 của định luật Coulomb sẽ mang lại lực rất mạnh. Nhưng Marsden và Rutherford đã biết một hạt alpha nặng hơn 8000 lần một electron, và thật đơn giản là không thể nào một vật có khối lượng lớn hơn bị nảy trở lại từ sự va chạm với một vật nhẹ hơn trong khi năng lượng và xung lượng vẫn bảo toàn. Về nguyên tắc, có khả năng một hạt alpha đi theo một quỹ đạo rất gần một electron, và rồi rất gần với một electron khác, và cứ thế, với kết quả cuối cùng là bị lệch đi một góc lớn, nhưng những tính toán cẩn thận cho thấy nhiều “chạm trán gần gũi” như thế với electron sẽ quá hiếm hơn hàng triệu lần để giải thích cái thật sự quan sát thấy. Ở đây, Rutherford và Marsden đã làm xuất hiện một mẫu nguyên tử không được phổ biến và chú ý tới, trong đó tất cả các electron chuyển động tròn xung quanh một lõi, hay hạt nhân, nhỏ, tích điện dương, giống hệt như các hành tinh chuyển động tròn xung quanh Mặt Trời. Toàn bộ điện tích dương và hầu hết khối lượng của nguyên tử tập trung ở hạt nhân, chứ không trải đều trong nguyên tử như trong mô hình bánh bông lan rắc nho. Hạt alpha tích điện dương sẽ bị hạt nhân vàng đẩy ra, nhưng đa số hạt alpha sẽ không tiến đủ gần đến bất kì hạt nhân nào để đường đi của chúng bị lệch quá nhiều. Tuy nhiên, một vài hạt thật sự tiến gần đến một hạt nhân có thể bị nảy trở lại từ một sự chạm trán như thế, © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 29
  35. vì hạt nhân của nguyên tử vàng nặng gấp 50 lần hạt alpha. Thật ra không quá khó tìm ra công thức cho tần số lệch tương đối qua những góc khác nhau, và tính toán này phù hợp khá tốt với số liệu thí nghiệm (trong vòng 15%), có xét tới khó khăn trong việc thực hiện các thống kê thí nghiệm ở những góc hiếm, rất lớn. Cái lúc bắt đầu là một bài tập chán ngắt để một chàng sinh viên bắt tay vào nghiên cứu khoa học cuối cùng là một cuộc cách mạng trong sự hiểu biết của chúng ta về tự nhiên. Thật vậy, toàn bộ câu chuyện nghe có vẻ giống như một truyền thuyết luân lí về phương pháp khoa học với gợi ý của thể loại Horatio Alger. Độc giả đa nghi có lẽ tự hỏi tại sao mẫu hành tinh lại bị bỏ qua hoàn toàn cho tới khám phá của Marsden và Rutherford. Có phải khoa học thật sự là một sự nghiệp mang tính xã hội, trong đó những ý tưởng nhất định trở nên được chấp nhận bởi sự áp đặt, và những cách giải thích hợp lí khác lại bị bỏ qua một cách tùy tiện ? Một số nhà khoa học xã hội hiện nay đang làm xù lông của rất nhiều khoa học với những bài bình luận rất giống như thế này, nhưng trong trường hợp này, có những lí do rất hợp lí cho việc loại bỏ mẫu hành tinh. Như bạn sẽ tìm hiểu chi tiết hơn ở phần sau của cuốn sách này, bất kì hạt mang điện nào chịu sự gia tốc cũng làm tiêu tan năng lượng dưới dạng ánh sáng. Trong mẫu hành tinh nguyên tử, các electron quay xung quanh hạt nhân theo những quỹ đạo tròn hoặc elip, nghĩa là chúng chịu sự gia tốc, giống hệt như gia tốc mà bạn cảm nhận được khi ngồi trong một chiếc xe hơi đang ngoặt cua. Chúng phải phóng thích năng lượng dưới dạng ánh sáng, và cuối cùng chúng sẽ mất hết năng lượng của mình. Các nguyên tử không tự phát suy sụp như thế, đó là lí do tại sao mô hình bánh bông lan rắc nho, với các electron tĩnh tại của nó, ban đầu lại được ưa chuộng hơn. Cũng còn có những vấn đề khác nữa. Theo mẫu hành tinh, nguyên tử một electron sẽ bằng phẳng, điều đó không phù hợp với sự thành công của mô hình phân tử với những quả cầu biểu diễn cho hydrogen và các nguyên tử. Những mô hình phân tử này cũng tỏ ra hoạt động tốt nhất nếu sử dụng những kích thước nhất định cho các nguyên tử khác nhau, nhưng không có lí do rõ ràng trong mẫu hành tinh lí giải tại sao bán kính quỹ đạo của một electron phải là một con số cố định. Tuy nhiên, theo quan điểm của kết quả của Marsden- Rutherford, đây trở thành những câu hỏi khó hiểu mới trong vật lí nguyên tử, chứ không phải lí do để hoài nghi mẫu hành tinh nguyên tử. Một số hiện tượng giải thích được bằng mẫu hành tinh nguyên tử Mẫu hành tinh không phải là mô hình tối hậu, hoàn hảo của nguyên tử, nhưng không nên đánh giá thấp sức mạnh của nó. Nó cho phép chúng ta hình dung đúng đắn rất nhiều hiện tượng. Ví dụ, hãy xét sự khác biệt giữa phi kim, kim loại có từ tính, và kim loại không có từ tính. Như biểu diễn trong hình j, kim loại khác với phi kim ở chỗ các electron lớp ngoài cùng của nó tự do hơn. Kim loại có thể bị từ hóa sẽ sắp chuyển động quay của một số electron của nó sao cho trục của chúng song song nhau. Nhắc lại lực từ là lực tác dụng bởi các điện tích chuyển động; chúng ta không bàn về toán học và hình học của lực từ, nhưng thật dễ thấy sự định hướng ngẫu nhiên của các nguyên tử trong chất phi từ tính sẽ dẫn đến sự triệt tiêu các lực. Mặc dù mẫu hành tinh không trả lời ngay những câu hỏi đại loại như tại sao nguyên tố này là kim loại, còn nguyên tố kia là phi kim, nhưng những ý tưởng này thật khó hay không thể nào quan niệm được trong mô hình bánh bông lan rắc nho. Câu hỏi thảo luận A. Trong thực tế, các điện tích cùng loại thì đẩy nhau, và các điện tích khác loại thì hút nhau. Giả sử quy luật diễn ra ngược lại, cho lực đẩy giữa các điện tích trái dấu và lực hút giữa những điện tích cùng dấu. Vũ trụ lúc bấy giờ sẽ ra sao ? © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 30
  36. j/ Mẫu hành tinh áp dụng cho một phi kim (1), một kim loại không bị từ hóa (2) và một kim loại bị từ hóa (3). Lưu ý là những hình này đã vẽ đơn giản hóa đi nhiều. Các electron của một nguyên tử không quay tròn xung quanh hạt nhân trong cùng một mặt phẳng. Rất hiếm có trường hợp nào một kim loại bị từ hóa mạnh đến 100% nguyên tử của nó có trục quay sắp thẳng hàng nhau như trong hình. 2.3 Số nguyên tử Như đã nói tới trong câu hỏi thảo luận trong một phần trước, các nhà khoa học thuộc giai đoạn này đã có một ý tưởng rất gần đúng có bao nhiêu đơn vị điện tích nằm trong hạt nhân của các nguyên tố hóa học khác nhau. Mặc dù ngày nay chúng ta liên tưởng số đơn vị điện tích hạt nhân với vị trí của nguyên tố trong bảng tuần hoàn hóa học, và gọi nó là số nguyên tử, nhưng họ thì không hề có ý tưởng gì về một mối quan hệ như thế. Bảng tuần hoàn của Mendeleev trông chỉ như một công cụ mang tính tổ chức hóa, chứ không có tầm quan trọng vật lí cần thiết nào cả. Và mọi thứ mà Mendeleec đã làm cũng hợp lí nếu như bạn chuyển lộn ngược bảng lại, hoặc đảo phía bên trái và bên phải của nó, hay thậm chí bạn muốn đánh số nguyên tố liên tiếp với những số nguyên thì cũng có tình trạng cho bạn làm như vậy. Bảng tuần hoàn gốc của Mendeleev trong thực tế là lộn ngược so với bảng tuần hoàn hiện nay. k/ Bảng tuần hoàn hóa học hiện đại, có đánh số nguyên tử. Bảng tuần hoàn nguyên gốc của Mendeleev lộn ngược so với bảng này. Trong thời kì ngay sau khi khám phá ra hạt nhân, các nhà vật lí chỉ có sự ước tính thô về điện tích của những hạt nhân khác nhau. Trong trường hợp của hạt nhân nhẹ nhất, họ dễ dàng tìm được số electron tối đa mà họ có thể bứt ra bằng những phương pháp khác nhau: phản ứng hóa học, cho phóng điện, chiếu ánh sáng cực tím, và vân vân. Ví dụ, họ có thể dễ dàng bóc ra một hoặc hai electron khỏi helium, tạo ra He+ hay He++, nhưng không ai tạo ra được He+++, có thể đoán chừng là do điện tích hạt nhân của helium chỉ là +2e. Thật không may, chỉ có một vài nguyên tố nhẹ nhất có thể bị bóc ra hoàn toàn, vì càng có nhiều © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 31
  37. electron bị bứt ra, thì các electron tích điện âm còn lại sẽ bị giữ càng chặt. Số nguyên tử của các nguyên tố nặng chỉ có thể ngoại suy thô từ các nguyên tố nhẹ, trong đó số nguyên tử vào khoảng phân nửa khối lượng nguyên tử biểu diễn bằng đơn vị khối lượng nguyên tử hydrogen. Ví dụ, vàng có khối lượng gấp khoảng 197 lần hydrogen, nên số nguyên tử của nó được ước tính là khoảng phân nửa giá trị đó, hay đâu đó trên dưới 100. Ngày nay chúng ta biết nó là 79. Cuối cùng, chúng ta giải quyết vấn đề đó như thế nào ? Bức màn bí ẩn của điện tích hạt nhân cuối cùng đã bị chọc thủng thành công bằng hai kĩ thuật khác nhau, cho kết quả phù hợp nhau. Một bộ thí nghiệm, sử dụng tia X, được thực hiện bởi chàng trai trẻ Henry Mosely, người có tài năng khoa học sớm hi sinh trong một trận đánh giữa các đế quốc châu Âu tranh giành quyền sở hữu xứ Dardanelles, trong cuộc xung đột vô nghĩa khi ấy gọi là cuộc chiến nhằm kết thúc mọi cuộc chiến, còn ngày nay gọi là Thế chiến thứ nhất. l/ Hạt alpha tiến gần hơn nhiều đến sát hạt nhân đồng điện tích thấp để bị lệch qua góc như nhau. Vì phân tích của Mosely yêu cầu một vài khái niệm mà đến đây bạn vẫn chưa quen thuộc, nên thay vì vậy, chúng ta sẽ mô tả kĩ thuật do James Chadwick sử dụng vào khoảng thời gian đó. Một cái lợi nữa của việc mô tả những thí nghiệm của Chadwick là chúng báo trước sự ra đời của kĩ thuật hiện đại quan trọng nghiên cứu sự va chạm của các hạt hạ nguyên tử. Ở trường đại học, tôi đã từng làm việc với một vị giáo sư có cố vấn của cố vấn luận án của ông là Chadwick, và ông đã kể một số mẫu chuyện lí thú về nhà khoa học đó. Chadwick nhìn bên ngoài hơi bảnh trai và hoàn toàn cuồng tín với khoa học, cho tới khi ông bị bắt giữ trong nhà tù Đức trong Thế chiến thứ hai, ông vẫn phỉnh phờ những kẻ giam giữ ông cho phép ông “chôm” những bộ phận radio vỡ nát để ông có thể cố gắng thực hiện những thí nghiệm vật lí. Thí nghiệm của Chadwick hoạt động như thế này. Giả sử bạn tiến hành hai phép đo tán xạ hạt alpha theo kiểu Rutherford, thí nghiệm đầu với lá vàng làm bia như trong thí nghiệm gốc của Rutherford, và thí nghiệm thứ hai với một lá đồng. Trong cả hai trường hợp đều có thể thu được góc lệch lớn, nhưng như chỉ rõ trong hinh m, hạt alpha phải hướng gần như thẳng về phía hạt nhân đồng để có cùng góc lệch như xảy ra với những hạt alpha ở xa mục tiêu hơn nhiều; điện tích của hạt nhân vàng lớn hơn nhiều so với điện tích của hạt nhân đồng, nên nó tác dụng lực lớn lên hạt alpha ngay cả khi hạt này ở xa. Tình huống rất giống với một người bịt mắt chơi trò ném phi tiêu. Giống như không thể nhắm một hạt alpha lên một hạt nhân nào đó trên bia, người bị bịt mắt thật sự không thể nào nhắm được phi tiêu. Thu được một va chạm rất gần với hạt nhân đồng tương tự như ném lọt vào vòng tròn trong trên bảng phóng tiêu. Còn na ná hơn nữa là người ta luôn có cơ may ném trúng © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 32
  38. vòng tròn ngoài, nó bao phủ số inch vuông lớn hơn. Tương tự, nếu bạn đo tần suất hạt alpha bị tán xạ bởi hạt nhân đồng ở một số góc nhất định, ví dụ giữa 19 và 20 độ, và rồi tiến hành cùng phép đo ở cùng góc đó với hạt nhân vàng, bạn sẽ thu được tỉ lệ phần trăm cho vàng cao hơn nhiều so với cho đồng. Trên thực tế, tỉ số điện tích của hai hạt nhân có thể thu được từ tỉ số cùng được xác định bằng thực nghiệm này. Sử dụng kí hiệu chuẩn Z cho số nguyên tử (điện tích của hạt nhân chia cho e), phương trình sau có thể chứng minh được (ví dụ 1): 2 o Zvàng Số hạt alpha bị tán xạ bởi vàng ở góc 19 - 20 2 = o Zđồng Số hạt alpha bị tán xạ bởi đồng ở góc 19 - 20 m/ Hạt alpha phải hướng thẳng tới vòng tròn ở phía trước ống hình trụ tưởng tượng để tạo ra sự tán xạ ở góc giữa 19 và 20 độ. Diện tích của vòng tròn này được gọi là “tiết diện” cho sự tán xạ ở góc 19-20 độ, vì nó là diện tích lát cắt ngang của ống trụ. Bằng cách tiến hành những phép đo như thế đối với bia xây dựng từ tất cả các nguyên tố, người ta có thể suy ra tỉ số của tất cả các số nguyên tử, và vì số nguyên tử của những nguyên tố nhẹ nhất đã được biết, nên số nguyên tử có thể gán cho toàn bộ bảng hệ thống tuần hoàn. Theo Mosely, số nguyên tử của đồng, bạc và platinum là 29, 47 và 78, tương ứng tốt với vị trí của chúng trong bảng tuần hoàn. Số liệu của Chadwick cho ba nguyên tố trên là 29,3; 46,3 và 77,4, với sai số khoảng 1,5 lần điện tích nguyên tố, nên hai thí nghiệm phù hợp tốt với nhau. Ở đây, không nhất thiết bạn phải sẵn sàng đưa những con số vào phương trình ở trên cho một bài tập ở nhà hay giải bài toán! Mục tiêu tổng thể của tôi trong chương này là giải thích làm sao chúng ta biết được những gì chúng ta biết về các nguyên tử. Một lợi thế của việc mô tả thí nghiệm của Chadwick là phương pháp đó rất giống với phương pháp sử dụng trong những thí nghiệm vật lí hạt hiện đại, và ý tưởng dùng trong phép phân tích đó quan hệ gần gũi với khái niệm ngày nay gặp ở mọi ngóc ngách, đó là khái niệm “tiết diện”. Trong sự tương tự với bảng phóng tiêu, tiết diện sẽ là diện tích của vòng tròn mà bạn ném tới. Lí do tiềm ẩn sau phát minh ra từ “tiết diện” có thể hình dung như trong hình m. Theo ngôn ngữ này, phát minh ra mẫu hành tinh của Rutherford đến từ khám phá bất ngờ của ông rằng có một tiết diện khác không cho hạt alpha tán xạ khỏi vàng ở những góc lớn, và Chadwick xác nhận sự xác định số nguyên tử của Rutherford bằng cách đo tiết diện tán xạ hạt alpha. Ví dụ 1. Bằng chứng cho mối quan hệ giữa Z và sự tán xạ Phương trình ở trên có thể thu nhận từ bằng chứng không chặt chẽ lắm sau đây. Để làm lệch hạt alpha ở một góc nhất định, cần phải có một thành phần động lượng nhất định theo hướng vuông góc với động lượng ban đầu của nó. Mặc dù lực do hạt nhân tác dụng lên hạt alpha không © hiepkhachquay | Bài giảng Điện học 33