Giáo trình Cơ sở pháp lý trong giáo dục và quản lý giáo dục

pdf 168 trang ngocly 2980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Cơ sở pháp lý trong giáo dục và quản lý giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_co_so_phap_ly_trong_giao_duc_va_quan_ly_giao_duc.pdf

Nội dung text: Giáo trình Cơ sở pháp lý trong giáo dục và quản lý giáo dục

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN VĂN HỘ (Biên tập và sắp xếp tư liệu) CƠ SỞ PHÁP LÝ TRONG GIÁO DỤC VÀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC (Giáo trình phục vụ học viên Cao học thạc sĩ Quản lý giáo dục) THÁI NGUYÊN, NĂM HỌC 2007- 2008
  2. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ SỞ PHÁP LÝ TRONG GIÁO DỤC VÀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC I. NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT. 1. Khái niệm về pháp luật 1.1. Nguồn gốc pháp luật: Tìm hiểu và giải thích nguyên nhân phát sinh, phát triển của pháp luật giúp ta biết rõ bản chất và những qui luật phát triển của nó. Cùng với nhà nước, pháp luật xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Pháp luật vận động và phát triển theo những điều kiện khách quan. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa có pháp luật, nhưng đã tồn tại những quy tắc xử sự chung thống nhất. Đó là các quy phạm xã hội. Quy phạm xã hội là quy tắc xử sự thể hiện ý chí chung của các thành viên trong xã hội được mọi người tự giác tuân theo. Quy phạm xã hội gồm các tập quán và các tín điều tôn giáo. Chúng luôn luôn gắn liền với các quy phạm đạo đức và nhiều khi chúng đồng nhất với nhau. Khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thì nhà nước xuất hiện. Những nguyên nhân làm phát sinh nhà nước cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Trong điều kiện lịch sử có những xung đột về lợi ích giai cấp diễn ra gay gắt và cuộc đấu tranh giai cấp là không thể điều hoà được, thì cần thiết phải có một loại quy phạm mới để thiết lập cho xã hội một “trật tự”, một loại quy phạm chỉ thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đó là quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật của các nhà nước được dần dần hình thành từng bước. Giai cấp thống tự tìm cách vận dụng các tập quán để phục vụ lợi ích của giai cấp mình, dần dần nâng chúng thành các quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật của các nhà nước còn được hình thành từ một nguồn khác các văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành. Như vậy pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước. Pháp luật là công cụ sắc bén để thể hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước ban hành ra pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Pháp 2
  3. luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. 1.2. Những đặc điểm chung của pháp luật. - Pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền. Từ sự phân tích nguồn gốc của pháp luật, có thể thấy rằng pháp luật ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, thể hiện ý chí của giai cấp đó. Vì vậy, xét về bản chất, pháp luật luôn luôn mang tính giai cấp sâu sắc. Tùy nhiên, ý chí của giai cấp thống trị thể hiện trong pháp luật không phải là ý muốn chủ quan của một cá nhân, một nhóm người nào trong giai cấp thống trị, mà chính nó cũng bị quy định một cách khách quan do lợi ích kinh tế của giai cấp đó quyết định. Khi nói về bản chất của pháp luật tư sản, C. Mác và F. Ănghen đã viết: "Pháp luật của các ông chẳng qua cũng chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật mà thôi. Cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định." (C. Mác- Ănghen: Tuyển tập Tập 1. NXB Sự thật. Hà nội. 1962. Trang 42 ). Vì vậy khi nói pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị cũng có nghĩa là khẳng định tính chất giai cấp và tính chất bị qui định bởi những điều kiện kinh tế khách quan của nó. - Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự có tính bắt buộc chung. Pháp luật là khuôn mẫu, là liêu chuẩn của hành vi và cách xử sự của con người do nhà nước đặt ra và đảm bảo sự thực hiện. Trong các mối quan hệ xã hội, con người căn cứ vào qui tắc đó mà xác định hành vi của mình, xem mình được làm gì, phải làm gì hoặc không được làm gì, nếu vượt quá giới hạn đó là vi phạm pháp luật. Khoa học pháp lý gọi các qui tắc xử sự đó là các qui phạm. Tính qui phạm là đác trưng vốn có của pháp luật nói chung. Trong thực tế đời sống xã hội có rất nhiều mối quan hệ qua lại giữa con người với nhau. Những mối quan hệ ấy rất phức tạp, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, các quy tắc xử sự của pháp luật không thể là qui tắc lẻ tẻ, rời rạc mà chúng là một hệ thống của rất nhiều các qui tắc cụ thể, có sự thống nhất bên trong. Cơ sở tạo nên sự thống nhất ấy chính là ý chí của giai cáp thống trị. Các qui tắc xử sự của pháp luật có tính bắt buộc chung. Pháp luật là mệnh lệnh của nhà nước, tất cả mọi thành viên của xã hội đều phải tuân theo. Việc tuân theo các qui tắc xử sự chung ấy không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Tính bắt buộc chung của pháp luật gọi là tính cưỡng chế, một thuộc tính cơ bản của pháp luật. - Pháp luật do nhà nước đặt ra và đảm bảo việc thực hiện. Thông qua bộ máy nhà nước, giai cấp thống trị thể hiện ý chí của mình dưới những hình thức thích hợp của luật pháp. Nhà nước làm ra luật pháp và đảm bảo cho việc thực hiện bằng bộ máy cưỡng chế của nhà nước. Đây cũng là điểm khác nhau cơ bản dễ phân biệt các qui phạm pháp luật với các qui phạm xã hội khác như đạo đức, 3
  4. phong tục tập quán, tôn giáo ) tính cưỡng chế Của pháp luật cũng khác với tính cưỡng chế của các qui phạm khác ở chỗ đó là sự cưỡng chế mang tính nhà nước, do nhà nước tiến hành. Nếu pháp luật làm ra không được tôn trọng và thực hiện thì nhà nước đã suy tàn, nhà nước không còn là nhà nước nữa. 1.2. Bản chất của pháp luật. Pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất mà pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không có pháp luật nào không mang tính giai cấp. - Tính chất giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ: + Pháp luật chỉ phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trong xã hội. Nội dung của ý chí đó được qui định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị là giai cấp có quyền lực nhà nước trong tay. Thông qua nhà nước, giai cấp thống trị thể hiện ý chí nhà nước bằng pháp luật. Nhà nước ban hành và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Vì vậy pháp luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với mọi người. + Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một "trật tự" phù hợp với ý chí của giai cấp thống tôi bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Trong những điều kiện lịch sử nhất định, lợi ích của giai cấp thống trị có khi phù hợp với lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp khác trong xã hội, tức là phù hợp với lợi ích của toàn dân tộc. (Ví dụ: trong các cuộc kháng chiến trước dây của toàn thể dân tộc ta chống lại bọn xâm lược phương bắc, lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội hài hoà trong lợi ích của toàn dân tộc). Trong những thời điểm đó, pháp luật phản ánh những lợi ích chung của cả xã hội, cả dân tộc. Như vậy, ngoài tính giai cấp, pháp luật còn có tính xã hội, giá trị xã hội. Pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội. Pháp luật ra đời do nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và luôn luôn gắn liền với nhà nước. Nó ra đời cùng với nhà nước, là công cụ sắc bén nhất để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị của giai cấp cầm quyền. Pháp luật hoàn toàn khác với các quy phạm xã hội. Các quy phạm xã hội (bao gồm chủ yếu là các tập quán) thể hiện ý chí của tất cả thành viên trong xã hội và được mọi người tự giác tuân theo. Pháp luật lại là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Nhà nước ban hành ra pháp luật và đảm bảo cho pháp luật dược thực hiện. Do đó, pháp luật là một yếu tố nằm trong thượng tầng kiến trúc xã hội. Pháp luật và nhà nước là những yếu tố mang tính quyết định để thiết lập cho xã hội một "trật tự". Nó là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. 4
  5. - Tóm lại, trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị thông qua bộ máy nhà nước, đặt ra nhưng quy tắc xử sự, bắt buộc mọi người phải tuân theo nhằm duy trì trật tự xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị đó. Những quy tắc xử sự ấy được gọi là pháp luật. Định nghĩa: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội. 1.3. Vai trò, chức năng của pháp luật. - Vai trò của pháp luật. Cùng với nhà nước, pháp luật phát sinh và phát triển là một tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu cho việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Pháp luật đưa ra những hành vi xử sự mẫu, quy định những điều được phép làm và những điều bị cấm đoán, sao cho các mối quan hệ xã hội phát triển theo hướng phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Thông qua bộ máy của mình, nhà nước ban hành pháp luật và đảm bảo cho việc thực hiện. Pháp luật là mệnh lệnh của nhà nước đối với toàn xã hội. Đồng thời pháp luật cũng quy định cho việc tổ chức và hoạt động của chính bản thân bộ máy nhà nước. Pháp luật bảo đảm cho xã hội có trật tự nề nếp, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Tính chất giai cấp của pháp luật được thể hiện theo những cách thức khác nhau, tuỳ thuộc vào kiểu pháp luật và nhà nước. Tương ứng với mỗi kiểu nhà nước có một kiểu pháp luật. Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô và địa vị nô lệ của giai cấp nô lệ. Pháp luật phong kiến thừa nhận đặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến và hạn chế tối đa quyển lợi của gian cấp nông dân. Pháp luật tư sản tuy có những tiến bộ như thiết chế dân chủ, quy định về quyền tự do cá nhân Nhưng về thực chất nó cũng văn là sự thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và bênh vực, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của đa số nhân dân lao động trong xã hội, hướng tới công bằng, công lý và tự do. Pháp luật còn là sự thể hiện ý chí chung của XH, của dân tộc và tiếp nhận văn minh pháp lý nhân loại. Pháp luật luôn luôn vận động và phát triển để phù hợp với sự phát triển của xã hội. Pháp luật phải đưa ra những quy định, những hành vi xử sự mẫu hợp lý, khách quan, phù hợp với ý chí của số đông trong xã hội thì mới được đa số nhân dân chấp nhận. Có như vậy pháp luật nới thể hiện được tính XH và có giá trị XH. 5
  6. - Chức năng của pháp luật. Pháp luật nói chung có các chức năng cơ bản sau đây: + Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là sự dự liệu của nhà nước về khả năng có thể có trong hành vi xử sự của con người. Pháp luật điều chỉnh hành vi và ý thức của con người và các mối quan hệ theo các bước: . Xác định các mối quan hệ cơ bản trong xã hội các mối quan hệ có thuộc tính cơ bản giống nhau, có mối quan hệ mật thiết với nhau, thuộc cùng một loại thì được xếp vào thành từng nhóm, gọi là nhóm các quan hệ xã hội. . Nhà nước làm ra một nhóm các quy phạm pháp luật, gọi là chế định pháp luật để tác động lên nhóm các quan hệ xã hội ấy, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển theo hướng phù hợp với ý chí của nhà nước. Để thực hiện được điều đó, nhà nước quy định các hình thức thực hiện pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực thi trong thực tế đời sống xã hội. + Chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Để thực hiện chức năng của mình, nhà nước có nhiều hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có các hình thức hoạt động chính là: xây dựng pháp luật tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Đây chính là một quá trình hoạt động đảm bảo cho các quan hệ xã hội phát triển một cách bình thường và ổn định, tránh được sự xâm phạm, trong trường hợp có sự xâm hại tới các quan hệ ấy thì pháp luật cũng đã có quy định để ngăn chặn và xử lý. + Chức năng giáo dục. Thông qua việc tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật cho mọi người mà ý thức pháp luật đã hình thành. Đó là sự tác động của pháp luật vào tình cảm, ý thức của con người, làm cho mọi người hiểu biết về pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật. Từ đó mọi người sẽ tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật II. HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM 1 - Khái niệm hệ thống văn bản pháp luật + Khái niệm. Hiến pháp 1992 có quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12). Để thực hiện việc quản lý đất nước bằng pháp luật, Nhà nước đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, tức là ban hành văn bản pháp luật. Chính phủ các Bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ 6
  7. ban nhân dân các cấp có quyền lập quy, nghĩa là ban hành văn bản pháp quy. Văn bản pháp luật và pháp quy có tính quyền lực đơn phương, chúng tạo thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta. Định nghĩa: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định: trong đó các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, 1996). + Đặc trưng: Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc trưng để phân biệt với văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính thông thường, đó là: . Do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo đúng thủ tục và hình thức luật định . Xác lập các quy tắc xử sự chung, tức là có chứa đựng các quy phạm pháp luật. . Được áp dụng nhiều lần trong đời sống, được áp dụng trong mọi trường hợp khi có sự kiện pháp lý xảy ra. . Tên gọi, nội dung, trình tự ban hành các loại văn bản pháp luật được quy định cụ thể trong pháp luật. 2. Các văn bản pháp luật Việt Nam. + Hệ thống văn bản qui phạm pháp luật bao gồm: ( Điều 1 - Luật đã dẫn). (l) Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết. Văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, nghị quyết. (2). Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở trung ương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội: a. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. b. Nghị quyết, nghị định của chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. c. Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. d. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao. Quyết định, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. đ. Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội. 7
  8. (3).Văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên. Văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cung cấp: a. Nghỉ quyết của Hội đồng nhân dân. b. Quyết đinh, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. + Hiệu lực của Văn bản qui phạm pháp luật: . Hiệu lực theo thời gian: là giới hạn xác định thời điểm phát sinh và chẫm dứt hiệu lực của một văn bản qui phạm pháp luật cụ thể, thường được ghi ngay trong văn bản đó. Khi nghiên cứu một văn bản pháp luật, pháp qui nào đó phải chú ý xem xét hiệu lực theo thời gian của văn bản đó để thực hiện và áp dụng một cách chính xác, không nhầm lẫn. . Hiệu lực theo không gian: là giới hạn tác động về không gian của một văn bản pháp luật được xác định bằng lãnh thổ quốc gia hay địa phương, hay một vùng nhất định. Trong nhiều văn bản qui phạm pháp luật không chì rõ hiệu lực về không gian mà nó được xác định một cách mặc nhiên theo giới hạn thẩm quyền của cơ quan ban hành những văn bản ấy. Phấn lớn những văn bản do Quốc hội, Chính phủ ban hành có hiệu lực trên toàn lãnh thổ nước ta. . Hiệu lực theo đối tượng tác động: nghĩa là xác định rõ những người phải tuân theo và chấp hành, hay được hưởng những quyền nhất định. Đối với những văn bản qui định chung thì đối tượng tác động là tất cả cơ quan, tổ chức và tất cả công dân. Những qui định về các lĩnh vực khác nhau, các ngành nghề khác nhau trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội chỉ có hiệu lực đối với những người hoạt động trong các lĩnh vực ấy. + Hệ thống hoá pháp luật: . Ý nghĩa: Hệ thống hoá pháp luật là một trong những công tác có ý nghĩa rất lớn đối với việc hoàn chỉnh pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khi tập hợp những văn bản qui phạm pháp luật và những qui định riêng lẻ lại thành một hệ thống thống nhất sẽ phát hiện được những điểm thiếu sót, chồng chéo, mâu thuẫn giữa những văn bản hay qui định ấy. Từ đó bảo đảm sự thống nhất chặt chẽ giữa các ngành luật khác nhau và làm cho việc tìm hiểu, áp dụng pháp luật dược dễ dàng hơn. . Các hình thức hệ thống hoá pháp luật: Tập hợp hoá: là việc tập hợp những văn bản qui phạm pháp luật lại theo một trật tự nhất định (theo thời gian ban hành, theo vần chữ cái, theo thẩm quyền ban hành hoặc theo một lĩnh vực, ngành nghề ). Hệ thống hoá luật lệ theo hình thức này không làm thay đổi nội dung văn bản, không bổ sung những qui định mới mà chỉ loại ra những điều khoản đã hết hiệu lực hoặc rõ ràng là mâu thuẫn với qui định của cấp trên. 8
  9. Pháp điển hoá: Đây là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. nhằm không những chỉ tập hợp những qui định đã có theo một trật tự nhất định, mà còn đặt ra những qui định mới cho phù hợp với yêu cầu thực tế đời sống. Kết quả của công tác này là một văn bản qui phạm pháp luật mới được ban hành. Đó có thể là một bộ luật, một bản điều lệ cho một ngành, một lĩnh vực. III. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIẾT NAM 1. Khái niệm về hệ thống pháp luật. + Khái niệm. Nhà nước xây dựng và ban hành pháp luật thành từng điều có đánh số thứ tự gọi là một điều luật. Mỗi quy tắc xử sự được nêu trong điều luật còn được gọi là một quy phạm pháp luật. Có thể coi mỗi quy phạm pháp luật là một đơn vị pháp luật, một đơn vị do lường của pháp luật. Tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành tạo thành một hệ thống thống nhất, đó chính là hệ thống pháp luật. Tổng thể các quy phạm pháp luật ấy phải có tính thống nhất, nhất quán, không chồng chéo, mâu thuẫn nhau, phù hợp với các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, tạo thành một sự hài hoà bên trong. Sự khác biệt giữa các nhóm quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh là căn cứ, là tiêu chuẩn cơ bản để phân định các quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật thống nhất thành các bộ phận quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và ngành luật: Quy phạm pháp luật là quy tắc của hành vi, có tính bất buộc chung, do Nhà nước đặt ra và đảm bảo cho việc thực hiện, nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội nhất định. Quy phạm pháp luật là yếu tố đầu tiên trong hệ thống pháp luật, là thước đo (khuôn mẫu, chuẩn mực) giống nhau cho những người khác nhau trong xã hội. Chế định pháp luật bao gồm một nhóm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội gần gũi, có mối liên hệ mật thiết với nhau và thuộc cùng một loại. Chẳng hạn chế định về công dân trong ngành Luật nhà nước, chế định về sở hữu trong dân luật, chế định về tiền lương trong ngành Luật lao động Ngành luật bao gồm nhiều quy phạm pháp luật và chế định pháp luật, điều chỉnh một loại quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội. Mỗi ngành luật có đối lượng và phương pháp điều chỉnh riêng. + Các ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh mà người ta phân định ra các ngành luật. 9
  10. . Luật Nhà nước (còn gọi là Luật Hiến pháp): là ngành luật giữ vai trò quan trọng và là xuất phát điểm của toàn bộ hệ thống pháp luật. Ngành luật này bao gồm những qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ XH cơ bản nhất trong chế độ chính trị - xã hội của nhà nước. Các qui phạm của ngành luật nhà nước củng cố và bảo vệ chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, XH của đất nước; xác định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; qui định cơ cấu và nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong hệ thống pháp luật của nước ta, Luật Nhà nước giữ vai trò chủ đạo do tính chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Luật Nhà nước bảo đảm cho sự thống nhất của hệ thống pháp luật. Nhiều qui phạm của nó trở thành nguyên tắc cơ bán để phát triển các ngành luật khác. Từ khi thành lập nước (Tháng Tám 1945) đến nay, Nhà nước ta đã bốn lần ban hành Hiến pháp vào các năm: 1945, 1959, 1980, 1992. . Luật Hành chính; điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan nhà nước thực hiện việc quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội. Hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành diễn ra giữa một bên là cơ quan nhà nước với bên kia là cơ quan nhà nước khác, tổ chức xã hội hoặc công dân. . Luật Tài chính điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của nhà nước như việc lập, phê chuẩn và sử dụng ngân sách nhà nước, việc chi tiêu và tín dụng, việc qui định và thu các loại thuế, kỷ luật tài chính . Luật Đất đai điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực phân phối và sử dụng đất đai, trong đó đất đai là tư liệu sản xuất do Nhà nước thống nhất quản lý. Các qui phạm của luật đất đai qui định các nguyên tắc về quản lý và sử dụng đất đai, chế độ quản lý nhà nước về đất đai, chế độ sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất . Luật Dân sự điều chỉnh nhưng quan hệ tài sản dưới hình thức giá trị hàng hoạ, tiền tệ, những quan hệ nhân thân phi tài sản như quyền tác giả, quyền sáng chế phát minh, quyền sở hữu công nghiệp Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự là bình đẳng và thoả thuận. Bộ Luật Dân sự của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28.10.1995 gồm 7 phần, 838 điều ,bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1.7.1996. . Luật Tố tụng dân sự điều chỉnh những quan hệ giữa các cơ quan xét xử với Viện kiểm sát, với các đương sự và những người, những tổ chức khác tham gia tố tụng dân sự kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình ) quy định thẩm quyền xét xử, trình tự và thủ tục xét xử (khởi kiện dân sự và khởi tố vụ án dân sự, thụ lý vụ án, điều tra, hoà giải, xét xử và thi hành án dân sự). 10
  11. Bộ Luật Tố tụng dân sự của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam được Quốc hội thông qua ngày 15.6.2004 gồm 36 chương, 418 điều. . Luật Lao động điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quan hệ lao động giữa công nhân viên chức với doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước, những quan hệ giữa tổ chức công đoàn với thủ trưởng cơ quan Bộ Luật Lao động của nước ta đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ năm thông qua ngày 23.6.1994. . Luật Hôn nhân và Gia đình là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ như: quan hệ vợ chồng, bố mẹ và con cái nhằm mục đích đảm bảo chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, quyền bình đẳng nam nữ, bảo vệ lợi ích phụ nữ và trẻ em. chăm sóc và giáo dục trẻ em. . Luật Hôn nhân và Gia đình đã được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X , kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 9.6.2000, gồm 13 chương, 110 diều. . Luật Hình sự quy định hành vi nào là tội phạm, mục đích và nội dung của hình phạt, điều kiện áp dụng hình phạt, hình thức và mức độ hình phạt đối với những người có hành vi phạm tội. Luật Hình sự gồm hai phần: phần chung và phần riêng. Phần chung bao gồm những quy phạm pháp luật xác định khái niệm tội phạm, hình phạt và những căn cứ truy cứu trách nhiệm đối với những người có hành vi phạm tội. Phần riêng bao gồm những quy phạm pháp luật miêu tả cấu thành từng tội cụ thể và thang hình phạt đối với tội ấy. Bộ Luật Hình sự Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21.12.1999, gồm 24 chương, 344 điều. . Luật Tố tụng hình sự là ngành luật bao gồm những quy phạm pháp luật diều chỉnh những quan hệ phát sinh trong việc điều tra, kiểm sát và xét xử những vụ án hình sự. Quy phạm pháp luật tố tụng hình sự quy định nhưng nguyên tắc, thủ tục, điều kiện để tiến hành điều tra, kiểm sát và xét xử vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng hình sự. Luật tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong việc phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm lội góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cua công dân, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn trọng qui tác của cuộc sống xã hội chủ nghĩa. . Luật Kinh tế bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các chủ thể của hợp đồng kinh tế, nội dung quản lý nhà nước về kinh tế. Phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế là mệnh lệnh (giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các đơn vị kinh tế) và bình đẳng (trong quan hệ giữa các đơn 11
  12. kinh tế với nhau). . Luật Hợp tác xã điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trên cơ sở hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất của những người lao động, quan hệ giữa hợp tác xã với xã viên, giữa Nhà nước với công dân xuất hiện trong quá trình tổ chức và hoạt động của hợp tác xã. Phương pháp điều chỉnh của luật hợp tác xã là dân chủ bàn bạc giải quyết công việc, thực hiện quyền làm chủ tập thể của xã viên, dân chủ trong tổ chức và hoạt động của hợp tác xã. . Luật Giáo dục bao gồm những quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động giáo dục. Phạm vi điều chỉnh của Luật Giáo dục quy định về hệ thống giáo dục quốc dân, mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục. Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo gục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng. Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 9 dã thông qua hai đạo luật về giáo dục: Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (12.8.1991), Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em (16.8.1991). Ngày 2.12.1998, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Giáo dục gồm 9 chương, 110 điều/ . Luật quốc tế không nằm trong hệ thống pháp luật của một nước, nhưng lại có vị trí đặc biệt quan trọng trong quan hệ giữa các Nhà nước. Đó là tổng thể những quy phạm hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa các nước với nhau nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các Nhà nước trong quá trình đấu tranh và hợp tác với nhau. Pháp luật quốc tế phản ánh lợi ích của các nhà nước trong quan hệ quốc tế. Luật Quốc tế gồm hai bộ phận: công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế. Công pháp quốc tế điêu chỉnh các mối quan hệ trên thế giới về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật Chủ thể của công pháp quốc tế là các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Tư pháp quốc tế điều chình các mối quan hệ trên thế giới về các lĩnh vực lài sản và hôn nhân - gia đình. Chủ thể của tư pháp quốc tế là các cá nhân và các pháp nhân. 2. Bản chất và vai trò của pháp luật Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. + Bản chất. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước ta đã nhanh chóng xoá bỏ hệ thống pháp luật cũ. Tuy nhiên, Nhà nước cũng có quy định tạm thời áp dụng những quy phạm pháp luật cũ không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà (Sắc lệnh số 47/SL ngày 10.10.1945 của Chủ tịch nước). Đồng thời, Nhà nước cũng đã khẩn trương ban hành những văn bản pháp luật mới để kịp điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, trấn áp các phần tử chống đối cách mạng, tổ chức và xây dựng một xã hội mới. Từ đó đến nay, hệ thống pháp luật kiểu mới ấy ở nước ta ngày càng phát triển và hoàn thiện. 12
  13. Pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta là pháp luật kiểu mới, có bản chất khác với bản chất của các kiểu pháp luật đã có trước đó, và có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Bản chất của hệ thống pháp luật XHCN nước ta thể hiện ở những điểm cơ bản sau: Pháp luật nước ta thề hiện ý chí Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam. Nhà nước thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật, tổ chức việc thực hiện pháp luật sử dụng pháp luật làm công cụ để quản lý đất nước và xã hội. Pháp luật Việt Nam do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện. Vì vậy pháp luật có chưa đựng các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, dựa vào sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, các biện pháp thuyết phục, giáo dục, khuyến khích được kết hợp với biện pháp cưỡng chế nhằm xây dựng một xã hội có nề nếp và kỷ cương, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm. Pháp luật nước ta quán triệt các quan điểm chính trị về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Nhà nước làm ra luật nhưng chính quyền Nhà nước phải tự giới hạn hoạt động của mình trong khuôn khổ pháp luật, các quyền tự do dân chủ của công dân phải được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Pháp luật nước ta thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Đây là nét khác biệt căn bản của pháp luật nước ta so với các kiểu pháp luật khác. Pháp luật luôn thể hiện ý chí của đa số dân cư đất nước. Pháp luật nước ta có quan hệ mạt thiết với các quy phạm xã hội khác trong xã hội. Pháp luật được xây dựng trên nền đạo đức dân tộc, các phong tục tập quán tiến bộ và truyền thống văn hoá tốt đẹp. Các quy phạm pháp luật chứa đựng các chuẩn mực đạo đức và tính nhân đạo phù hợp với ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, trong quá trình phát triển, pháp luật luôn chịu sự lạc động của các quy phạm xã hội, đồng thời cũng có tác động trở lại đối với các quy phạm xã hội ấy. + Vai trò. . Pháp hát là phương tiện để thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng. Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam do Đảng CS Việt Nam lãnh đạo. Pháp luật nước ta thể hiện một cách đầy đủ và chính các các chủ chương, chính sách và các quan điểm của Đảng thành những quy định cụ thể làm quy tắc chung. Pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Khi đường lối chính sách của Đảng đã được thể chế hóa thành pháp luật thì những quy định của pháp luật mang tính quyền lực Nhà nước có sức mạnh bắt buộc mọi người phải thực hiện. . Pháp luật là phưng tiện để nhân dân lao động thực hiện và phát huy quyền dân chủ cơ sở. Trong xã hội ta, quyền dân chủ cơ sở phải được xây dựng thành những mối quan hệ xã hội cụ thể và phải được pháp luật bảo đảm thực hiện. 13
  14. Quyền con người được thể chế hoá trong pháp luật thành quyền công dân và phải được đảm bảo về mặt pháp lý các quyền đó. Một xã hội muốn có sự ổn định thì phải có sự công bằng, bình đẳng và tự do, danh dự và nhân phẩm được tôn trọng, tính mạng và lài sản dược bảo vệ, các vấn đề dịch vụ, phúc lợi xã hội phải chu đáo. Pháp luật phải là phương tiện để các tổ chức xã hội tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước để chống lại tệ tham nhũng, độc đoán chuyên quyền và những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. . Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội. Các hoạt động của xã hội phong phú, đa dạng. Nếu không có yếu tố quản lý của nhà nước thì xã hội sẽ trở lên hỗn loạn. Để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình, bảo vệ các quan hệ xã hội và duy trì trật tự xã hội, Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật. Để quản lý xã hội: nhà nước sử dụng nhiều phương tiện như: pháp luật, đạo đức, tập quán Trong đó pháp luật là phương tiện riêng của nhà nước, chỉ nhà nước mới có. Trong quản lý xã hội nếu không có pháp luật thì sẽ không diều hành nổi tổ chức và hoạt động của bộ máy. Xã hội càng phát triển thì vai trò điều chỉnh của pháp luật ngày càng tăng. Dựa vào pháp luật mà nhà nước xây dựng và tổ chức ra các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đảm bảo cho các cơ quan này hoạt động theo đúng pháp luật. Một trong những tiêu chuẩn của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước là phải hiểu pháp luật để thực hiện đúng yêu cầu của pháp luật. - Những yêu cầu đối với việc xây dựng pháp luật. + Khái niệm. Một trong những hình thức cơ bản nhất của hoạt động nhà nước là xây dựng pháp luật còn gọi là công tác pháp luật, tức là việc làm ra luật. Hoạt động này được tiến hành do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (theo luật định), nhằm mục đích là ban hành ra các đạo luật (bộ luật) và các văn bản pháp quy. Xây dựng pháp luật là quá trình nhận thức các quy luật xã hội, đặc biệt là các quy luật lợi ích, xác định tầm quan trọng về mặt pháp lý của các mối quan hệ xã hội. Từ đó tạo ra sự thể chế hoá pháp lý đúng đắn đối với các quan hệ xã hội. Các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước sử dụng những quy tắc đặc thù của kỹ thuật lập pháp, kết hợp với việc đề cao ý chí của nhân dân lao động lên thành các chuẩn mực mang tính bắt buộc chung. Các chuẩn mực đó gọi là các chuẩn mực pháp lý, các tiêu chuẩn luật pháp được chứa đựng trong các văn bản pháp luật và văn bản pháp quy. Xây dựng pháp luật là một quá trình bao gồm hàng loạt các công việc. Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xây dựng và ban hành pháp luật được qui định tại Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật. 14
  15. Nhìn chung quá trình xây dựng pháp luật trải qua những giai đoạn sau: . Giai đoạn thứ nhất là đề xuất yêu cầu ban hành một đạo luật mới, hoặc sửa đổi đạo luật hiện hành và thông qua quyết định về soạn thảo sự án luật liên quan đến đề xuất đó. . Giai đoạn thứ hai là soạn thảo dự án luật bao gồm soạn thảo văn bản, thảo luận, lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức và nhân dân. Sau đó trình ra Quốc hội xem xét. . Giai đoạn thứ ba là thảo luận và thông qua tại Quốc hội. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình xây dựng pháp luật. . Giai đoạn thứ tư là công bố luật. Việc công bố luật cũng phải theo đúng thủ tục, trình tự và nội dung đã quy định sẵn. + Nhưng yêu cầu về xây dựng pháp luật. Tình hình kinh tế - xã hội nước ta trong những năm gần đây dã có những thay đổi rất lớn lao. Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã trở nên cấp bách hơn lúc nào hết. Những văn bản pháp luật dã ban hành trước đây cùng với những văn bản hướng dẫn đã không còn phù hợp nữa cũng cần phải có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh phải đảm bảo yêu cầu cả về ba mặt: nội dung, hình thức và cơ cấu. Về nội dung, pháp luật phải thể hiện dược đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới, pháp luật phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng và bảo vệ lợi ích của đa số nhân dân lao động. Đồng thời pháp luật phải đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, tạo ra môi trường pháp lý để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Khi ban hành văn bản pháp luật, pháp quy, phải đảm bảo yêu cầu về mặt nội dung của văn bản là văn bản đó phải có tính mục đích, đảm báo tính khoa học, phái có lính khả thi, tính đại chúng và tính quy phạm. Về hình thức, với bản quy phạm pháp luật khi ban hành phải theo đúng thẩm quyền và thể thức do luật định. Văn bản pháp quy phải có kết cấu theo từng chủ đề, từng thể loại hợp lý. Đồng thời văn bản đó phải đán bảo yêu cấu về cách hành văn, diễn dạt ngôn ngữ và kỹ thuật trình bày. Về cơ cấu, phải đảm bảo cho mọi lĩnh vực, mọi quan hệ xã hội đều phái có pháp luật điều chỉnh. Các lĩnh vực đã có luật cần được bổ sung, sửa đổi cho hoàn thiện, khắc phục tình trạng thừa, thiếu luật, mâu thuẫn, lỗi thời nhất là pháp luật về kinh tế, hành chính , đất đai 15
  16. 3. Giáo dục pháp luật. + Khái niệm. Sự hình thành và phát triển của ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là một quá trình phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như những điều kiện kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá Vì vậy, để nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa trong cán bộ và nhân dân thì bên cạnh việc phải chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội, tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, còn phải tiến hành nhiều biện pháp khác để tạo ra điều kiện cho việc hình thành và phát triển toàn diện ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa. Một trong những biện pháp cố tấm quan trọng đặc biệt là phải không ngừng bồi dưỡng, giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân. Giấc dục tháp luật lá số tác động một cách có hệ thống, thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Đây là một loại công việc rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có nhiều phương pháp và hình thức phong phú, phù hợp với nhiều loại đối tượng khác nhau, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể trong mỗi giai đoạn nhất định. Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua đã rất quan tâm tới công lác bồi dưỡng, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, đồng thời coi trọng việc giáo dục, nâng cao đạo đức. + Nội dung của giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp luật là việc trang bị cho mọi người kiến thức về pháp luật, những quy chế và quy định khác về một hành chính - nhà nước. Những kiến thức đó sẽ thúc đẩy niềm tin vững chắc trong bản thân mỗi con người. Đó là sự cần thiết phải tự nguyện tuân thủ luật pháp, phải tự nguyện đấu tranh để củng cố tính pháp luật và nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc giáo dục luật pháp trước hết phải đi từ việc giáo dục chính trị, tư tưởng. Từ đó nảy sinh mối quan hệ khăng khít giữa việc giáo dục luật pháp và việc giải quyết nhưng vấn để quan trọng nhằm thực hiện nền dân chủ và tổ chức Nhà nước xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện những cơ sở của sự phát triển chính trị của xã hội. Vì thế cho nên việc giáo dục luật pháp không chỉ là một phương tiện để củng cố tính pháp luật và nên pháp chế, nó còn là một nhân tố quan trọng để phát triển kiến trúc thượng tầng chính trị của xã hội. + Những biện pháp cơ bản của việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người. Để công tác giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân đạt kết quả tốt cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó cần chú trọng một số biện pháp cơ bản 16
  17. sau đây: . Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật làm cho nhân dân nắm được một cách đầy đủ và hiểu dược nội dung của các văn bản pháp luật được ban hành trong từng giai đoạn. Phải cải tiến các hình thức thông tin và phương pháp thông tin để phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Trong công tác này cần có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hộlvà đoàn thể quần chúng để tìm ra những hình thức và phương pháp thích hợp, mở rộng tính dân chủ công khai bảo đảm quyền được thông tin của quấn chúng. . Đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ thông và đại học), của các đoàn thể nhân dân. . Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ năng lực và trình độ, có phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế. Đội ngũ cán bộ này thông qua hoạt động của mình, bằng kết quả công tác sẽ góp phần đề cao vai trò của pháp luật, củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. . Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào việc soạn thảo, thảo luận đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật. Thông qua đó nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. . Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống vi phạm pháp luật, tổ chức cho nhân dân tham gia một cách mạnh mẽ vào công tác này. . Kết hợp việc giáo dục pháp luật với việc giáo dục dạo đức, văn hoá, nâng cao dân trí. Đạo đức, văn hoá, pháp luật đều là những yếu tố nằm trong thượng tầng kiến trúc của xã hội, chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để giáo dục pháp luật đạt kết quả cần kết hợp với giáo dục đạo đức và giáo dục nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân. Đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục pháp luật. IV. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 1. Khái niệm Nhà nước làm ra quy phạm pháp luật với mong muốn dùng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ cho công tác quản lý xã hội, quản lý đất nước tạo nên sự ổn định và phát triển. Điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật ấy dược các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để. Cho dù có ban hành những văn bản pháp luật hoàn chỉnh đến mức nào đi nữa nhưng nếu chúng không được thực hiện thì cũng chẳng có giá trị. Điều quan trọng là phải thực hiện chúng, biến những yêu cầu, quy định của pháp luật thành hiện thực. Thực hiện pháp luật là làm cho những quy định của pháp luật trở thành những hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật. 17
  18. Tất cả những xử sự được tiến hành phù hợp với các yêu cầu của các quy phạm pháp luật đều được coi là sự thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật. Dưới góc độ pháp lý thì hành vi thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành vi hợp pháp của con người là xử sự phù hợp với quy định của pháp luật, có lợi ích cho xã hội, cho Nhà nước và mỗi cá nhân. 2 - Các hình thức thực hiện pháp luật + Các hình thức thực hiện pháp luật Đối với mỗi loại quy phạm pháp luật khác nhau thì cách thực hiện chúng cũng khác nhau. Căn cứ vào tính chất những hoạt động thực hiện pháp luật khoa học pháp lý chía ra những hình thức thực hiện pháp luật sau: . Tuân theo pháp luật: là kiềm chế giữ mình không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm (xử sự thụ động). Ví dụ: không tham nhũng, hối lộ, không sản xuất, buôn bán và đốt pháo Hình thức này để thực hiện những quy phạm pháp luật hình sự, quy phạm pháp luật hành chính . Thi hành pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật băng hành động tích cực thực hiện những nghĩa vụ pháp lý của mình (xử sự chủ động). Ví dụ: các cá nhân, tổ chức khi sản xuất, kinh doanh thì phải có nghĩa vụ nộp thuế theo qui định của nhà nước, thanh niên từ đủ 18 tuổi trở lên phải tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự Hình thức này để thể hiện những quy phạm pháp luật bắt buộc (những quy phạm quy định nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định). . Sử dụng pháp luật: là hình thức các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể pháp luật của mình tiến hành những hành vi mà pháp luật cho phép. Ví dụ: pháp luật qui định công dân có quyền khiếu nại và tố cáo. Mọi công dân có quyền gửi đơn thư khiếu nại tố cáo lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhờ nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nếu cảm thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Hình thức này khác hai hình thức trên ở chỗ: chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật qui định theo ý chí của mình, chứ không ép buộc phái thực hiện. . Áp dụng pháp luật: là hình thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật. Tức là các chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Như vậy, bất kỳ một người nào, tổ chức nào cũng có thể tuân theo pháp luật thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật, còn trong việc áp dụng pháp luật thì luôn luôn có sự can thiệp của Nhà nước. Nhà nước với tư cách là người tổ chức và giúp đỡ các chủ thể khác thực hiện những quy định của pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức rất quan trọng của thực hiện pháp luật. 18
  19. + Áp dụng pháp luật. Trong thực tế chấp hành pháp luật, nếu chỉ thông qua các hình thức tuân theo pháp luật thi hành pháp luật thì sẽ có rất nhiều quy phạm pháp luật không được thực hiện. Lý do có thể là các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nếu không có sự tham gia của Nhà nước. Điều đó xảy ra trong các trường hợp sau: . Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế do các chế tài pháp luật quy định đối với những chủ thể và hành vi vi phạm pháp luật. . Khi quan hệ pháp luật với những quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước. . Khi xảy ra tranh chấp về quyên chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. . Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: Việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp, phê chuẩn điều lệ, chứng chỉ Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước. Nó vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Chính vì thế trong áp dụng pháp luật bao gồm cá hình thức tuân theo, thi hành và sử dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật có một số đặc điểm: Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức - quyền lực nhà nước. Thứ hai, đây là hoạt động có hình thức, thủ tục được pháp luật quy định chặt chẽ. Thứ ba, đây là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội. Thứ tư, việc áp dụng pháp luật đòi hỏi tính sáng tạo. Thứ năm, trong trường hợp thiếu pháp luật thì phải có biện pháp áp dụng pháp luật tương tự. Các bước của quá trình áp dụng pháp luật: . Phân tích đánh giá đúng, chính xác mọi tình tiết hoàn cảnh, điều kiện của sự việc như thực tế nó xảy ra. . Chọn các quy phạm pháp luật phù hợp và giải thích chúng để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật. . Ra văn bản áp dụng. 19
  20. . Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng đã ban ra. V. PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. l. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Khái niệm: Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý xã hội của mình, Nhà nước sử dụng rất nhiều phương tiện khác nhau như: tập quán, đạo đức, pháp luật Trong đó phương thức quản lý cơ bản, bao trùm nhất. Có hiệu quả nhất là quản lý đất nước bằng pháp luật tức là việc thiết lập nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, khi nghiên cứu các vấn đề về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa thì nhất thiết phải nghiên cứu về pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp chế là sự đòi hỏi, yêu cầu các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân phải tuân thủ và thực hiện đúng đắn nghiêm chỉnh pháp luật trong hoạt động của mình. Pháp chế bao hàm trong bản thân nó hai yêu cầu và điều kiện: Một là, nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và phù hợp. Hai là, phải có cơ chế và biện pháp bảo đảm cho pháp luật đó được thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để trong thực tế. Nếu thiếu một trong hai điều kiện đó thì không thể thiết lập được nền pháp chế trong xã hội. - Mối thuần hệ giữa pháp luật và pháp chế. Pháp chế xã hội chủ nghĩa và pháp luật xã hội chủ nghĩa là hai khái niệm có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không đồng nhất với nhau. Pháp luật là tiền đề, là cơ sở vật chất của pháp chế. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu cũng chỉ mới là khả năng là điều kiện cần thiết làm cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội. Pháp luật được thực hiện trong đời sống thực tế như thế nào phụ thuộc vào sự tuân thủ, chấp hành của nhà nước, các tổ chức xã hội và của các cá nhân công dân. Nếu có sự tuân thủ và thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật thì xã hội mới có pháp chế và trật tự pháp luật. Pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực của mình, điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội khi dựa trên cơ sở vững chắc của nền pháp chế và ngược lại, pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời. 20
  21. Công tác pháp chế được làm tốt sẽ có tác dụng trong việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật. Thông qua công tác pháp chế mà pháp luật được kiểm nghiệm trong thực tế đời sống xã hội, từ đó sẽ thấy được những thiếu sót, mâu thuẫn, thừa, thiếu, lỗi thời của pháp luật mà pháp luật được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn. - Pháp chế và dân chủ. Pháp chế xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong mối quan hệ này, dân chủ là cơ sở để củng cố nền pháp chế. Ngược lại, pháp chế là điều kiện để bảo vệ, củng cố, phát triển dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Một nền dân chủ thực sự không thể thiếu pháp chế, bởi vì chính pháp chế là nền tảng vững chắc nhất để duy trì và thực hiện những nguyên tắc của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân". Phương châm để thực hiện dân chủ là "dân biết, dân bàn, dân làm. dân kiểm tra". Điều đó tạo cơ sở cho sự tham gia của đông đảo quần chúng vào quản lý các công việc kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây cũng là điểm khác biệt căn bản về bản chất của pháp chế xã hội chủ nghĩa và pháp chế tư sản. Một nền dân chủ mà không có phấp chế, kỷ cương thì xã hội sẽ rối loạn. Pháp chế, kỷ cương mà không có dân chủ thì kỷ cương, trật tự sẽ không thể trở thành hiện thực, càng mở rộng dân chủ càng đòi hỏi phải tăng cường pháp chế để đảm bảo trật tự, kỷ cương và công bằng xã hội. - Pháp chế và trật tự pháp luật. Pháp chế có mối liên hệ mật thiết với trật tự pháp luật. Trật tự pháp luật là trạng thái xã hội có được nhờ sự điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ xã hội. Trong một chừng mực nào đó, khi xã hội có trật tự và nề nếp, mọi quan hệ xã hội phát triển theo một hướng phù hợp với ý chí của nhà nước thì có nghĩa là trật tự pháp luật đã được xác lập. Pháp chế và trật tự pháp luật đều nhằm hướng lới ổn định, phát triển và kỷ cương, đối lập với mọi hành vi làm trái với quy định của pháp luật. Tuy nhiên: pháp chế và trật tự pháp luật có sự phân biệt ở chỗ: pháp chế là yêu cầu, nguyên tắc của hành vi chủ thể pháp luật, còn trật tự pháp luật là kết quả của việc thực hiện pháp luật theo đúng nội dung và yêu cầu đã đề ra. 2. NHỮNG YÊU CẦU CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. - Đảm bảo tính thống nhất trong việc xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật. Đặc điểm của pháp chế xã hội chủ nghĩa là lính thống nhất của nó. Tính thống nhất được biểu hiện trước hết ở sự phối hợp nhịp nhàng giữa các quy phạm pháp luật, giữa các văn bản pháp luật và sự đồng bộ của toàn bộ hệ thống pháp luật. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi làm luật phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về lập pháp, lập quy. Tất cả các văn bản pháp luật, pháp quy được ban hành đều phải dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, các văn bản của cấp dưới phải theo đúng tinh thần và nội dung quy định của cấp trên. Pháp luật điều 21
  22. chỉnh các mối quan hệ xã hội phong phú, phức tạp nhưng phải có sự hài hoà giữa các cấp, các ngành và phải đảm bảo sự thống nhất trong cả nước. Nhưng quy định cho phù hợp với tính đặc thu của các ngành, các địa phương để phát huy tính chủ động, sáng tạo không đồng nghĩa với việc làm trái với quy định của nhà nước trung ương và của cấp trên. - Cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân và mọi công dân có nghĩa vụ thực hiện pháp luật. Yêu cấu này là một nội dung đẽ xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Pháp luật được ban hành phải phát huy tác dụng của nó trong thực tế đời sống xã hội. Tất cả mọi chủ thể, kể cả các cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng, các tổ chức, đoàn thể quần chúng và mọi công dân đều phải xử sự theo yêu cầu của pháp luật, không có ngoại lệ. Về phía nhà nước, sau khi ban hành pháp luật, nhà nước phải có các phương pháp, biện pháp để tổ chức cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Mọi công dân và tổ chức xã hội cũng phải có trách nhiệm thực hiện các nghĩa trụ của mình tương ứng với các quy định của pháp luật. Bất cứ sự vi phạm pháp luật của cá nhân tổ chức nào cũng đểu bị truy cứu trách nhiệm và phải được xử lý nghiêm mình. Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo Nhà nước, tổ chức phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các tổ chức Đảng và mỗi đảng viên phải tôn trọng và gương mẫu thực hiện những quy định của pháp luật, không đứng trên pháp luật. Điều 4 - Hiếp pháp 1992 quy đinh: "Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật". - Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật và được Nhà nước đảm bảo cho việc thực hiện. Những quyền và lợi ích hợp pháp ấy của công dân phải được thực thi trong đời sống xã hội, không một cá nhân hay tổ chức nào được xâm phạm theo tinh thần "Công dân được phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, các quan chức nhà nước không được làm những gì mà pháp luật không cho phép". Công dân có quyền đưa đơn kiện trước Toà án, yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị vi phạm hoặc đang có tranh chấp. Đó là quyền khởi kiện trong pháp luật tố tụng. Trong khi giải quyết các vụ việc để bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan chức năng của Nhà nước phải giải quyết kịp thời, đúng quy định của pháp luật, không được gây phiền hà, cửa quyền, nhũng nhiễu đối với công dân. Quyền công dân luôn luôn đi đôi với nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân đều phải tôn trọng pháp luật và phải xử sự theo đúng yêu cầu của pháp luật. Đó cũng là điều kiện cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội, thực hiện nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 22
  23. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là người làm chủ đất nước. Pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi người công dân có trách nhiệm tham gia vào quản lý các công việc của Nhà nước, bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa bằng các hình thức như kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội, đấu tranh chống vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế. - Ngăn chặn kịp thời và xử lý công minh mọi vi phạm pháp luật. Nói đến pháp luật là nói đến sự cưỡng chế của nhà nước đối với người vi phạm. Pháp luật phải tạo cơ sở cho việc xử lý nghiêm minh đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật không để bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào mà không bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội. Hiện nay hệ thống pháp luật của Nhà nước ta còn chưa thực sự đầy đủ. Nhưng điều quan trọng hơn là những văn bản đã ban hành chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Một bộ phận công chức và cơ quan nhà nước, kể cả những người có trách nhiệm bảo vệ pháp luật lại là những người làm trái pháp luật. Vì lẽ đó, phải xiết chặt kỷ cương trong bộ máy nhà nước. Mọi trường hợp vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm thinh, kịp thời, không có ngoại lệ. Điều đó càng cần thiết hơn đối với cán bộ, công chức các co quan bảo vệ luật pháp lợi dụng chức quyền làm trái pháp luật. Khi xử lý những vụ việc này phải theo đúng nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Bất cứ ai, dù ở cương vị nào cũng phải sống và làm việc theo đúng pháp luật, không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Các cơ quan bảo vệ pháp luật phải có phương pháp hoạt động thích hợp, có hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các vụ việc tiêu cực vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh, chính xác, đúng quy định của pháp luật. Việc thiết lập trật tư, kỷ cương xã hội phải huy động được sức mạnh tổng hợp của chính quyền, đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân. Những vấn đề nóng bỏng cần được quan tâm giải quyết trong thời điểm hiện nay là: chống tham nhũng, buôn lậu và kinh doanh bất hợp pháp, xử lý những vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai, thiết lập trật tự giao thông công cộng ở thành phố, bài trừ các tệ nạn xã hội và truy quét bọn côn đồ, lưu manh chuyên nghiệp. Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật, ngăn chặn các hành vi vi phạm, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là nâng cao trình độ, ý thức pháp luật của mọi người, kể cả công dân bình thường cũng như công chức Nhà nước. Từ việc nâng cao nhận thức, hiểu biết về các quy định của pháp luật một cách cụ thể sẽ giúp cho mọi người, bất kỳ là ai, hoạt động trên lĩnh vực nào cũng sẽ hiểu rõ và thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật quy định trên lĩnh vực đó như thế nào. Đồng thời, mọi công dân cũng phải hiểu rằng khi có hành vi vi phạm pháp luật thì người vi phạm phải gánh chịu hậu quả bất lợi, tức là phải chịu trách 23
  24. nhiệm pháp lý ở mức độ tương ứng với hành vi vi phạm và sự thiệt hại mà họ đã gây ra. 3. TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. - Đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật. Pháp luật là tiền đề của pháp chế, là cơ sở vật chất của công tác pháp chế. Pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường trên cơ sở của một hệ thống pháp luật ngày càng phát triển và hoàn thiện. Để có được một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải thực hiện nhiều biện pháp như: phải thường xuyên tiến hành hệ thống hoá luật lệ để phát hiện và loại bỏ những quy định trùng lặp, mâu thuẫn, lạc hậu, bổ sung những thiếu sót. Đồng thời phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, kỹ thuật xây dựng pháp luật có tính khoa học và đạt trình độ kỹ thuật cao. Pháp luật nước ta hiện nay được thể hiện ở hình thức văn bản, được sử dụng trong công tác quản lý kinh tế - xã hội. Mỗi văn bản đều chứa đựng các quy phạm pháp luật, quy định thẩm quyền và hiệu lực pháp lý cụ thể, đó là việc áp dụng quyền lực nhà nước vào thực tiên đời sống xã hội. Xây dựng pháp luật là một trong những hình thức cơ bản nhất của hoạt động nhà nước. Đó là quá trình nhận thức các quy luật xã hội, xác định tầm quan trọng về mặt pháp lý của các quan hệ xã hội, từ đó tạo ra sự thể chế hoá pháp lý đối với các mối quan hệ ấy. Thông qua việc xây dựng pháp luật, nhà nước đề cao ý chí của nhân dân lao động lên thành các chuẩn mực mang tính bắt buộc chung. Xây dựng pháp luật phải theo đúng thẩm quyền đã được quy định trong pháp luật. Đó là hoạt động của những cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo luật định, chứ không phải là hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước. Đồng thời phải mở rộng các hình thức nhân dân lao động tham gia tích cực vào việc xây dựng pháp luật. Việc xây dựng các văn bản pháp luật là để áp dụng quyền lực nhà nước vào thực tiên đời sống xã hội. Sự sai phạm trong văn bản pháp luật, pháp quy sẽ gây tác hại rất lớn có thể ảnh hưởng tới toàn ngành nào đó, thậm chí cả nước. Nhà nước chỉ có thẻ quản lý xã hội được tốt khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và phù hợp. - Tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật. Nhà nước đặt ra các quy phạm pháp luật là để điều chỉnh những quan hệ xã hội, định hướng cho các quan hệ xã hội ấy phát triển sao cho phù hợp với ý chí của nhà nước. Sau khi pháp luật được ban hành, nhà nước phải có những biện pháp tổ chức công tác thực hiện pháp luật, để pháp luật đi vào thực tế đời sống xã hội. Đối với mỗi loại quy phạm pháp luật khác nhau thì cách thức thực hiện chúng cũng khác nhau. Tức là những hành vi hợp pháp cũng có nội dung và tính chất khác nhau. Hành vi hợp pháp có thể là xử sự chủ động (có hành động): nhằm đạt được một 24
  25. kết quả nào đó, như khi sử dụng quyền hạn hoặc làm nghĩa vụ pháp lý. Có thể đó là xử sự thụ động (không hành động), giữ mình không làm những gì mà pháp luật cấm. Hành vi hợp pháp có thể được thực hiện theo ý chí tự nguyện của thủ thể (như trong quan hệ pháp luật dân sự), nhưng cũng có thể chỉ theo ý chí của nhà nước, ý chí từ một phía (như trong quan hệ pháp luật hành chính). Tổ chức công tác thực hiện pháp luật là những biện pháp lớn bao gồm nhiều mặt hoạt động nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, cụ thể là: Cần đầy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công tác giải thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định pháp luật làm cơ sở cho việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật đạt kết quả. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm làm cho nhân dân hiểu biết pháp luật, nâng cao kiến thức pháp lý tạo điều kiện để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật của nhan dân. Công tác giáo dục pháp luật phải được đưa vào hệ thống các trường đảng, nhà nước, đoàn thể, phải bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ các cấp, các ngành. Phải chú trọng công tác tổ chức, kiện toàn các cơ quan làm công tác pháp chế, xác định rõ chức năng quyền hạn, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động, cải tiến phương pháp chỉ đạo và thực hiện. Đồng thời tạo những điều kiện vật chất cần thiết bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan đó đạt hiệu quả cao. Trong từng thời kỳ cần có sự tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để thấy rõ những thiết sót, nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đề ra những phương hướng và biện pháp để tăng cường hiệu lực cho công tác này. Các mặt hoạt động nói trên phải được tiến hành đóng bộ và phải kết hợp với biện pháp kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật. Đây là biện pháp nhàm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Biện pháp này đòi hỏi trước hết phải thường xuyên tổ chức việc kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước và đặc biệt là hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật. Điều đó sẽ giúp cho việc phát hiện những sai sót, lệch lạc để kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng theo đúng nguyên tắc và yêu cầu của pháp luật. Những vi phạm pháp luật của các cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong hệ thống các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật, phải được xử lý nghiêm minh theo đúng nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Bất cứ ai, dù ở cương vị nào cũng phải sống và làm việc theo pháp luật, không người nào được dựa vào quyền thế để làm trái quy định của pháp luật. 25
  26. Các cơ quan bảo vệ pháp luật phải có phương pháp hoạt động thích hợp, có hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời và đúng quy định của pháp luật. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật chỉ có thể được thể hiện tốt khi có sự kết hợp hài hoà giữa sự chỉ đạo của Đảng, sự chủ động sáng tạo của các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước và sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó sẽ bảo đảm cho công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm có tính chất mạnh mẽ, kiên quyết của cơ quan quyền lực nhà nước.Đồng thời mang tính chất xã hội rộng rãi. Trong mối quan hệ đó phải đặc biệt coi trọng và chú ý những đơn thư khiếu nại, tố cáo, góp ý của quần chúng nhân dân đối với những hành vi vi phạm pháp luật. Việc kiểm tra, giám sát phải quán triệt nguyên tắc dân chủ xã hột chủ nghĩa, phối hợp tốt hoạt động của các đoàn thể xã hội và từng công dân. Kiềm tra, giám sát trách nhiệm chung của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động và mọi công dân. Trong đó trực tiếp là các cơ quan dân cử, các cơ quan kiểm tra, Thanh tra nhà nước, Thanh tra nhân dân. Phải tăng cường vai trò, vị trí, chức năng và kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan đó, nhằm phát huy vai trò của chúng trong việc củng cố, bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. - Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là biện pháp cơ bản, bao trùm, xuyên suốt trong quá trình củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết ở việc Đảng đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời đề ra chiến lược toàn diện về công tác pháp chế. Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với công tác này bằng cách vạch ra những phương hướng chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước, động viên và tổ chức cho quần chúng tham gia công tác pháp chế. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế còn được thực hiện thông qua công tác kiểm tra Đảng, sự gương mẫu của các đảng viên và các tổ chức Đảng ở cơ sở trong việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Công tác pháp chế là vấn đề mang tính chất nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế là sự nghiệp của toàn dân. Đảng lãnh đạo công tác pháp chế chứ không làm thay, không can thiệp vào chức năng nhiệm vụ của các cơ quan, công chức nhà nước. 26
  27. - Tăng cường pháp chế trong hoạt động ở công sở. Nguyên tắc pháp chế là một nguyên tác tổ chức và hoạt động của nhà nước ta nói chung, của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992. "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa" (Điều 12). Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thực hiện các chức năng của quyền hành pháp bằng hoạt động chấp hành và điều hành. Tất cả mọi hoạt động ấy nhằm thực hiện pháp luật và dựa trên cơ sở pháp luật. Việc ban hành các quyết định hành chính là để áp dụng pháp luật, đưa pháp luật vào thực tế đời sống xã hội để quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Để tăng cường pháp chế trong hoạt động ở công sở cần phải có một hệ thống các phương thức bảo đảm, phải làm tốt công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và kiểm sát. Có như vậy hoạt động công sở mới có kỷ cương, nề nếp, tăng cường kỷ luật trong quản lý. Điều đó sẽ có tác động rất lớn tới việc thực hiện pháp luật của công chức nhà nước và nhân dân. - Tăng cường pháp chế trong quản lý giáo dục: + Đặc điểm của pháp chế trong giáo dục: . Quan hệ giữa pháp chế và giáo dục: Giáo dục xã hội chủ nghĩa và pháp chế xã hội chủ nghĩa là những vấn đề thống nhất với nhau trong nhiệm vụ xây dựng con người mới, con người sống và làm việc trong cộng đồng với đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn của người công dân. nhằm góp phần củng cố và phát triển kinh tế - xã hội. Trong nhà trường và các cơ sở giáo dục, nếu thực hiện tốt pháp chế xã hội chủ nghĩa sẽ nâng cao chất lượng đào tạo và công tác. Pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa là cơ sở pháp lý giúp cho ngành giáo dục ổn định tổ chức, tạo nề nếp và trật tự trong công việc, góp phần điều hoà các mối quan hệ trong thực tế của quá trình đào tạo. Đồng thời, nếu làm tốt công tác giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, giáo dục nghĩa vụ công dân, phát huy quyền làm chủ và tăng cường dân chủ cơ sở nhà trường sẽ góp phần trực tiếp củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa. . Đặc điểm của pháp chế trong giáo dục: Thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa là yêu cầu, nội dung của giáo dục, vừa là biện pháp quản lý có hiệu lực của chủ thể quản lý. Vì vậy, pháp chế trong giáo dục có những đặc điểm sau: Chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý về giáo dục rất rộng, không chỉ nằm ở các cơ quan nhà nước, ở các cấp quản lý giáo dục mà ở toàn dân, toàn xã hội. Việc học tập vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mỗi người công dân. Mọi công dân đều có 27
  28. quyền được học tập, đồng thời phải có nghĩa vụ học tập theo qui định của pháp luật. Trong nhiệm vụ đào tạo con người lao động mới để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải kết hợp nhiều biện pháp, trong đó phải coi trọng giáo dục ý thức tôn trọng Hiến pháp và pháp luật. Nhà trường phải giáo dục cho học sinh hiểu và thực hiện quyển và nghĩa vụ công dân, hiểu biết những mục tiêu, tiêu chuẩn của người lao động đã được qui định trong pháp luật. Trong nhiệm vụ dào tạo, xây dựng con người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải coi trọng giáo dục đạo đức công dân, quyền và nghĩa vụ công dân. Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác phải có kế hoạch xây dựng và ban hành những nội qui, qui chế vừa có lệnh bắt buộc thực hiện, vừa có tính hướng dẫn, khuyên bảo, có yêu cầu cao hơn pháp luật để học sinh phấn đấu đạt tới. + Tăng cường hiệu lực pháp chế XHCN góp phần cải tiến quản lý giáo dục. Trong những năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, Nhà nước ta rất quan tâm tới công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Điều đó có vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong một khoảng thời gian không dài lắm mà việc xây dựng pháp luật đã đạt được những thành tựu rất to lớn. Luật Giáo dục và hệ thống văn bản pháp quy về giáo dục đã tạo ra môi trường pháp lý, giúp cho các cấp quản lý giáo dục sử đụng pháp luật làm công cụ quản lý, điều hành và điều chỉnh các hoạt động giáo dục ở cơ sở. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống các văn bản pháp quy về giáo dục vẫn còn tản mạn, thiếu đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn nhau Luật lệ vẫn chịu ảnh hưởng của cơ chế hành chính bao cấp, đó chính là những lý do đòi hỏi phải tăng cương pháp chế XHCN trong quản lý giáo dục. Pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm những vấn đề cơ bản của giáo đục như mục tiêu, kế hoạch đào tạo, chương trình, phương pháp đào tạo Như vậy, việc quản lý bằng pháp chế trong giáo dục phải bao gồm cả việc xây dựng một hệ thống luật lệ hoàn chỉnh đáp ứng được việc tổ chức và chỉ đạo toàn bộ hoạt động giáo dục, cùng với việc tổ chức thi hành và giám sát việc thi hành pháp luật trong trường học và các cơ quan quản lý giáo dục. Quản lý giáo dục bằng pháp chế phải bảo đảm sự thống nhất giữa việc thực hiện chế độ thủ trưởng với việc thực hiện quyền làm chủ của quần chúng. Đường lối chính sách của Đảng thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của quần chúng, khi được thể chế hoá trong các văn bản pháp luật, pháp quy thì sẽ được tổ chức thực hiện một cách có hiệu lực nhất bằng chế độ thủ trưởng. Mặt khác để thực hiện dân chủ, cơ sở phải phát huy tính tự giác của mọi người trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân trong phạm vi hoạt động của mình. Các cấp quản lý giáo dục và hiệu trưởng trường học phải nghiên cứu tìm hiểu pháp luật có liên quan đến quyền hạn, nghĩa vụ của mình. Người quản lý khi nghiên 28
  29. cứu vàn bản phải hiểu rõ để thực hiện, áp dụng đúng với hoàn cảnh, đúng người, đúng việc. Đồng thời, người cán bộ quản lý phải tổ chức tốt việc thi hành luật pháp, phải xây dựng thói quen quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật. Sau khi đã truyền đạt, phổ biến và thực hiện pháp luật, người cán bộ quản lý phái tiến hành hệ thống hoá luật lệ, tổ chức tốt việc lưu trữ và thanh lọc những văn bản hết hiệu lực. Trong các cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường và cơ sở giáo dục phải có những người, hoặc bộ phận chuyên trách về công tác pháp chế. Đồng thời với việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong công tác của mình, người cán bộ quản lý còn phải có kế hoạch để thực hiện việc giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, giáo viên và học sinh trong đơn vị mà mình quản lý. 29
  30. CHƯƠNG II QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO I. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 1. Khái niệm + Định nghĩa: Quản lý nhà nước về giáo dục và đào đạo (QLNN về GD&ĐT) là việc nhà nước thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động GD&ĐT trong phạm vi toàn xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của Nhà nước. QLNN về GD-ĐT là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bàng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động GD-ĐT do các cơ quan quản lí có trách nhiệm về giáo dục của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo qui định của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT, duy trì kỉ cương, thoả mãn nhu cầu GD-ĐT của nhân dân thực hiện mục tiêu GD-ĐT của nhà nước. + Những yếu tố chủ yếu trong quản lý nhà nước về giáo dục và đàn tạo. Trong khái niệm QLNN về GD&ĐT nổi lên 3 bộ phận chính. đó là chủ thể của QLNN về GD&ĐT; Khách thể của QLNN về GD&DT; Mục tiêu giáo dục và đào tao. Chủ thể QLNN về GD&ĐT là các cơ quan có nhẩm quyền (cơ quan pháp, hành pháp) được quy định ở điều 87 của Luật Giáo dục. Khách thẻ của QLNN về GD&ĐT là HTGDQD và như hoạt động GD-DT trong phạm vi toàn xã hội. Mục tiêu GD&ĐT: về tổng thể đó là việc bảo đảm trật tự ý cương trong các hoạt động GD-ĐT: để thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài cho xã hội, hoàn thiện và phát triển nhân cách của công dân; tuy nhiên ở mỗi cấp học, bậc học dã được cụ thể hoá mục tiêu trong Luật GD và điều lệ các nhà trường. + Trong khái niệm ỌLNN về GD&ĐT còn phải kể tới 2 yếu tố quan trọng trong việc điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, đó là công cụ và phương pháp trong quản lý hành chính nhà nước về GD&ĐT: . Công cụ chủ yếu trong QLHCNN là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, do đó công tác thể chế tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động QLNN về GD-ĐT . Phương pháp QLHCNN chủ yếu là phương pháp Hành chính, tổ chức. . Như vậy ta có thể hiểu khái niệm QLNN về GD-ĐT dướí dạng phát biểu khác. 30
  31. QLNN về GD&ĐT là sự quản lý của các cơ quan nhà nước có tham quyền của bộ Giáo dục từ từ trung ương đến cơ sở lên HTGDQD ra các hoạt động GD của xãhội nhằm nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách cho công dân. Cần lưu ý răng, QLNN là việc thực thi ba quyền : Lập pháp - Hành pháp - Tư pháp để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của công dân. Còn QLNN về GD&ĐT thực chất là thực thi quyền hành pháp để tổ chức, điều hành và điều chỉnh mọi hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, đề quản lý có hiệu lực và hiệu quả, việc sử dụng quyền hành pháp phải kết hợp với quyền lập pháp, lập qui và hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các hoạt động của toàn bộ hệ thống. 2. Một số tính chất của QLNN về GD-ĐT. QLNN về GD-ĐT là QI NN về một ngành, một linh vực cụ thể nhưng nó cũng có những tính chất của QLNN và QLHCNN nói chung, ở đây chỉ xin nhắc lại năm tính chất cần lưu ý, đó là: + Tính lệ thuộc vào chính trị: QLNN về GD phục lùng và phục vụ nhiệm vụ chính trị; tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước. + Tính l: GD là sự nghiệp của NN và của toàn XH. Trong QLNN về GD cần phải coi trọng tính XH hoá và dân chủ hoá GD (DCH GD). GD&ĐT luôn phát triển trong mối quan hệ với sự phát triển của KT-XH vì vậy QLNN và GD cần lưu ý tính chất này để có những điều chỉnh phù hợp. + Tính pháp quyền: QLNN là QL bằng pháp luật; QLNN về GD cũng phải tuân thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy định cho một hoạt động QL các hoạt động GD-ĐT: Tăng cường pháp chế XHCN. + Tính chuyên môn nghiệp vụ: Công chức hoạt động trong lĩnh vực GD-ĐT cần phải được đào tạo với các trình độ tương ứng với các ngạch, bậc đã được quy định. Việc tuyển chọn công chức cần đáp ứng các chuẩn mà nhà nước đã ban hành. + Tính hiệu lực hiệu quả: Lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn-nghiệp vụ để đánh giá cán bộ công chức, viên chức ngành GD-ĐT; Chất lượng, hiệu quả và sự bảo đảm trật tự kỷ cương trong GD-ĐT là thước đo trình độ, năng lực, uy tín của các cơ sở GD-ĐT và của các cơ quan QLNN về GD-ĐT. 3. Một số đặc điểm của QLNN về GD-ĐT. Ở phần tính chất nêu trên chúng ta đã điểm qua một số tính chất của QLNN về GD&ĐT, tuy nhiên trong mỗi tính chất có những nét đặc biệt riêng có thể được nhấn mạnh hơn và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý. Trên cơ sở nhận thức đó cần nhấn mạnh ba đặc điểm chủ yếu sau: 31
  32. + Đặc điểm kết hợp quản lý hành chính và quản lí chuyên môn trong các hoạt động quản lý giáo dục (đặc điểm HC- GD). Nó vừa theo nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động của quản lý giáo dục, vừa theo nguyên lắc hành chính giáo dục đối với một cơ sở giáo dục. Hành chính - giáo dục thực chất là triển khai chức năng, nhiệm vụ quyền hạn do Nhà nước qui định (phân cấp, phân công hoặc uỷ quyền), Các cơ quan, tổ chức thay mặt Nhà nước triển khai sự nghiệp GD&ĐT và điều hành, điều chỉnh các hoạt động GD-ĐT. QLHC thực chất là việc xây dựng các văn bản pháp quy và chấp hành các văn bản. Kết hợp với quản lý giáo dục là đưa việc xây dựng các văn bản cho các hoạt động chuyên môn của giáo dục và làm cho một người hiểu, biết được các qui định của văn bản để thực hiện cho đúng. Ví dụ: Từ quy định của Bộ GD&ĐT về việc soạn bài, giảng bài, chấm bài .v.v. Cơ quan Sở, Phòng GD&ĐT thậm chí đến hiệu trưởng nhà trường sẽ có những quy định chi tiết hơn về các vấn đề đó để đảm bảo tính cụ thể, thiết thực và phù hợp với địa phương và cơ sở giáo dục, trên cơ sở đó giáo viên chấp hành thực hiện các quy định về chuyên môn. Đó chính là cách làm "hành chính hoá" các hoạt động chuyên môn Như vậy, Đặc điểm HC- GD là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động quản lí nhà nước về GD-ĐT nhằm bảo đảm môi trường sư phạm thuận lợi cho việc thực hiện được mục tiêu giáo dục mà Nhà nước quy định. Cần lưu ý rằng quan tâm thích đáng đến đặc điểm này sẽ giúp cho các CBQLGD giải quyết tốt mối quan hệ ngành - lãnh thổ trong hoạt động QLGD. Chỉ đạo hay quản lý các hoạt động GD-ĐT trên 1 địa bàn cần phải hiểu rõ nghiệp vụ SP, đặc điểm của quá trình GD để chỉ đạo, quản lý chuyên môn. Chỉ trên cơ sở biết kết hợp QLHC và QLCM thì mới có thể chỉ đạo, quản lý tốt hoạt động GD-ĐT tiến tới thực hiện tốt mục tiêu GD-ĐT của Nhà nước. + Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí. Đặc điểm thứ hai của QLNN về GD-ĐT cũng là đặc điểm nổi bật của QLNN và QLHCNN nói chung ở mọi lĩnh vực, đó là tính quyền lực nhà nước trong các hoạt động quản lí. Đặc điểm này biểu hiện ở 3 vấn đề cơ bản sau: . Điều kiện để triển khai quản lý nhà nước là phải có tư cách pháp nhân và yêu cấu về tính hợp pháp trong quản lí là yêu cầu trước hết. Muốn có tư cách pháp nhân để quản lí phải được bổ nhiệm và khi đã được bổ nhiệm cẩn phải thực hiện đúng, đủ chức năng, thẩm quyền. Không lạm quyền cũng không đùn đẩy trách nhiệm; thực hiện đúng chế độ thủ trưởng trong việc ra quyết định và trong việc chịu trách nhiệm về các quyết định quản lí trước tập thể và cấp trên. Trong QLNN sẽ không có tư cách pháp nhân để "ra quyền" khi chưa được bổ nhiệm. Tuy nhiên, mỗi lư cách pháp nhân đều có trách nhiệm và quyền hạn tương ứng, việc hiểu cho đúng, làm cho đủ “thảm quyền” là thước đo khá năng "sử dụng quyền lực nhà nứớc" của một tư cách pháp nhân. Trong thực tế “Phép vua thua lệ làng”, “thủ kho to hơn thủ trưởng” đều phát sinh do không 32
  33. nhận thức đúng “tính quyền lực nhà nước trong các hoạt động quản lí”. “Thoái quyền” và “lạm quyền” là hai thái cực của sự vi phạm “thẩm quyền", mặt khác khái niệm “thẩm quyền” cũng gần với sự phân cấp và tuân thủ thứ bậc chặt chẽ trong QLNN. . Phương tiện QLNN về GD-ĐT là các văn bản pháp luật và pháp qui. Phương pháp chủ yếu để QLNN là phương pháp Hành chính - tổ chức (HC-TC). Cần nhận thức rằng pháp luật, pháp quy là sự cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước; phản ánh lợi ích của toàn dân, vì vậy đây chính là bành lang pháp lí cho việc triển khai các hoạt động QLGD, bảo đảm tính quyền lực nhà nước trong quản lí. Việc không tuân thủ hành lang pháp lí trong các hoạt động QLGD tức là vi phạm trật tự kỷ cương và sẽ bị xử lí theo quy định của pháp luật. . Trong QLNN phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động quản lí theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh - phục tùng là biểu hiện rõ nhất của tính quyền lực trong QLNN. Tính quyền lực nhà nước ở đây cũng chính là việc CBQL GD cấp phòng cần nhận thức đầy đủ rằng cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương trong quá trình QLGD. + Đặc điểm kết hợp Nhà nước-xã hội trong quá trình triển khai QLNN về GD. Chúng ta đều biết GD&ĐT là một hoạt động mang tính xã hội cao và Đảng ta cũng đã nhấn mạnh tư tưởng GD&ĐT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Rõ ràng, dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có tính chiến lược và nó có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và QLGD nói riêng; Rất nhiều bài toán QLGD sẽ rất khó giải quyết nếu không có sự tham gia của đông đảo lực lượng xã hội. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong QLGD. Tóm lại: QLNN về GD&ĐT là việc thực hiện cíưc năng - nhiệm vụ thẩm quyền do Nhà nước qui định, phân cấp trong các hoạt động QLGD. Ở một cơ sở giáo dục. QLNN về GD&ĐT thực chất là quản lí các hoạt động HC-GD, vì vậy nó có hai mặt quản lí thâm nhập vào nhau, đó là QLHC sự nghiệp giáo do và QLCM trong quá trình sư phạm; Chính vì vậy QLNN về GD&ĐT cần lưu ý các đặc điểm nêu trên 33
  34. 4. Một số nguyên tắc QLNN về GD&ĐT cần lưu ý: Trong phần QLNN: ỌLHCNN và lí luận QI GD có nêu một số nguyên tác cơ bản trong quản lý. Ở đây xin nhấn mạnh hai nguyên tắc cần được lưu ý trong việc triển khai các hoạt động QLNN về GD&ĐT. + Nguyên tác kết hợp ngành - lãnh thổ. Mọi cơ sở giáo dục - nhà trường thực hiện chức năng, nhiệm vụ GD-ĐT theo sự chỉ đạo của các cơ quan quản lý giáo dục đóng trên một địa bàn cụ thể nào đó, vì vậy cũng phải tuân thủ sự quản lí hành chính của địa phương theo qui định phân cấp của Nhà nước. Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này dưới góc độ vĩ mô có thể diễn đạt như sau: Sự nghiệp GD&ĐT, HTGDQD là một thể thống nhất. BỘ GD&ĐT là cơ quan QLNN về GD&ĐT thống nhất trong phạm vi cả nước. Chính quyền địa phương QLNN về GD&ĐT thông qua cơ quan chuyên môn của mình theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Nhà nước qui định phù hợp với cơ chế phân cấp. Để thực hiện được điều đó Nhà nước đã quy định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của ngành và địa phương như sau: . NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA BỘ GD-ĐT được Nhà nước qui định ở Nghị định 85/2003/NĐ-CP, ngày 18/7/2003. Ví dụ: (1) Về giáo dục đại học. . Trình Chính phủ: cơ cấu ngành đào tạo, cơ cấu đầu tư và các chính sách về bảo đảm chất lượng đào đào CĐ, ĐH và sau ĐH; chỉ đạo, kiểm tra, tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt; . Quy định chương trình khung GD ĐH, nội dung, phương pháp đào tạo SĐH; chủ trì phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh kiểm tra các trường đại học, cao đẳng trong việc xây dựng chương trình đào tạo theo chương trình khung do Bộ GD&ĐT ban hành, kiểm tra các cơ sở đào tạo SĐH thực hiện chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo; (2) Về giáo dục trung học chuyên nghiệp. . Trình Chính phủ: cơ cấu ngành đào tạo cơ cấu đầu tư và các chính sách về bảo đảm chất lượng đào tạo THCN; chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện sau khi được phê duyệt: . Quyết định danh mục đào tạo ngành nghề đào tạo THCN: phối hợp với các bộ chuyên ngành quy định chương trình khung về GDTHCN; . Hướng dẫn, kiểm tra các bộ và UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN về GDTHCN theo phân công, phân cấp của Chính phủ: 34
  35. (3) Về giáo dục phổ thông. . Trình Chính phủ về chủ trương cải cách nội dung, chương trình giáo dục, mục tiêu quốc gia về PCGDPT và chỉ đạo thực hiện sau khi được phê duyệt; . Quy định về việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành SGK và tổ chức biên soạn, xét duyệt SGK trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định SGK; . Hướng dẫn kiểm tra UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN vê GDPT theo phân cấp của Chính phủ. (4) Về giáo đục mầm non. . Ban hành nội dung, chương trình và phương pháp GDMN; ban hành quy chế tổ chức hoạt động; . Hướng dẫn, kiểm tra UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN về GDMN theo phân cấp của Chính phủ. (5) Về phương thức giáo dục không chính quy. . Ban hành chương trình xoá mù chữ; . Quy định chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống GDQD theo hình thức vừa học vừa làm, học từ xa, tự học có hướng dẫn. Ngoài các vấn đề trên, Bộ GD&ĐT còn trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề chủ yếu sau: . Các chế độ, chính sách đặc thù đối với nhà giáo và CBQLGD; . Khung học phí, cơ chế thu và sử dụng học phí; các chính sách khuyến khích klhác đối với người học; . Ban hành tiêu chuẩn cụ thể của nhà giáo và CBQLGD; các quy định về chương trình đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ và chuẩn hoá nhà giáo và CBQLGD; . Ban hành các quy định về tuyển sinh, quản lý học sinh, sinh viên, học viên. NCS . Quy định tiêu chuẩn bảo đảm chất lượng giáo dục; thống nhất quản lý việc kiểm định chất lượng giáo dục; . Tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong hoạt động GD&ĐT; . Thực hiện chức năng thanh tra giáo dục trong cả nước. . Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước; 35
  36. . Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, chỉ đạo thực hiện các chế độ tiền lượng, các chế độ chính sách đãi ngộ thuộc phạm vi quản lý của Bộ; đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong lĩnh vực giáo dục; . NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN HĐND ĐỊA PHƯƠNG (theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003) (+) HĐND cấp tỉnh. . Quyết đinh chủ trương, biện pháp phát triển giáo dục, đào tạo ở địa phương. . Quyết định qui hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp. . Báo đảm cơ sở vật chất và điều kiện cho các hoạt động giáo dục, đào tạo ở địa phương. . Giám sát việc tuân theo pháp luật về giáo dục, đào tạo của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và của công dân ở địa phương (+) HĐND cấp huyện: . Quyết định các biện pháp và điều kiện cần thiết để xây dựng và phát triểi mạng lưới giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy hoạch chung. (+) HĐND cấp xã: . Quyết định biện pháp bảo đảm các điều kiện cần thiết để trẻ em vào học tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành chương trình PCGDTH; tổ chức các trường mầm non: thực hiện BTVH và xoá mù chữ cho những người trong độ tuổi; . Quyết định việc xây dựng, tu sửa trường lớp thuộc địa phương quản lý. . NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA UBNN ĐỊA PHƯƠNG: (+) Đối với cấp tỉnh; . Quản lý các trường, các cơ sở giáo dục theo sự phân cấp; . Đào tạo bồi dưỡng đội ngữ giáo viên trong tỉnh từ trình độ CĐSP trở xuống; . Quản lý và kiểm tra việc thực hiện về tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và việc cấp văn bằng theo quy định của pháp luật; . Thực hiện thanh tra, kiểm tra công tác giáo dục, đào tạo trên địa bàn tinh theo quy định của pháp luật. (+) Đối với cấp huyện: . Xây dựng các chương trình, đề án phát triển giáo dục và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. 36
  37. . Tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các quy đỉnh của pháp luật về phổ cập giáo dục, quản lý các trường tiểu học, THCS, trường dạy nghề; tổ chức các trường mầm non; . Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục trên địa bàn, chỉ đạo việc xoá mù chữ; . Thực hiện các tiêu chuẩn về giáo viên. quy chế thi cử; (+) Đối với cấp xã . Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương; phối hợp với trường học huy động trẻ em vào lớp 1 đúng độ tuổi; tổ chức thực hiện các lớp bổ túc văn hoá, thực hiện xoá mù cho những người trong độ tuổi; . Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trường mầm non ở địa phương; phối hợp với UBND cấp trên quản lý trường tiểu học, trường THCS trên địa bàn. Nói chung, chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm môi trường KT-XH lành mạnh cho các hoạt động giáo dục diễn ra đúng mục tiêu của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu phát triển của địa phương. Trong hoạt động quản lý ở một cơ sở GD-ĐT phải tuân thủ những quy định, quy chế chuyên môn của ngành dọc (thực hiện quy chế thi cử, văn bằng chứng chỉ; chỉ thị năm học ). Sự kết hợp có hiệu quả sự chỉ dạo của ngành và lãnh thổ trong việc triển khai các hoạt động QLGD là một nguyên tắc rất quan trọng trong QLNN về GD-ĐT. + Nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước của nước ta. QLNN về GD&ĐT cũng tuân thủ nguyên tắc này. Dưới góc độ vĩ mô nguyên tắc này có nghĩa là Nhà nước thống nhất quản lý HTGDQD về mục tiêu. chương trình, nội dung, qui chế thi cử và hệ thống văn bằng (Điều 13 - Luật Giáo dục). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về QLGD cho địa phương và tạo diều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo. Để hiểu đúng và có thể vận dụng được trong hoạt động QLNN về GD&ĐT, ở cơ sở, cần suy nghĩ trả lời câu hỏi: làm thế nào giải quyết tốt mối quan hệ giữa chế độ thủ trưởng và thực hiện dân chủ cơ sở ở một trường học? Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ đối với QLNN về GD&ĐT có nghĩa là Nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo dục; về mục tiêu, nội dung giáo dục và quì chế văn bằng đồng thời tạo điều kiện cho cơ sở chủ động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động giáo dục và QLGD cụ thể, tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân cấp, phân quyền về QLGD rõ ràng bằng một hành lang pháp lí hợp lí, đồng bộ. Đối với cơ sở phát huy quyền làm chủ của tập thể sư phạm, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng đối với việc 37
  38. QLNN, trong tổ chức điều hành công việc hàng ngày cần thực hiện tốt chế độ thủ trưởng nhưng phải bảo đảm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QLNN VỀ GD&ĐT. Theo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng (Điều 36 Hiến pháp nước CHXHCNVN đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Để thực hiện được những vấn đề quản lý như trên, nội dung cơ bản của QLNN về GD&ĐT được quy định trong Luật Giáo dục như sau: 1. Những nội đung cơ bản của QLNN về GD-ĐT theo điều 86 Luật Giáo dục. (1) Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục; (2) Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản qui phạm pháp luật sề giáo dục; ban hành Điều lệ nhà trường; ban hành qui định về tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục khác; (3) Qui định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; qui chế thi cử và cấp văn bằng; (4) Tổ chức bộ máy quản lí giáo dục; (5) Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo: bồi dưỡng, quản lí nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục; (6) Huy động, quản lí, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục; (7) Tổ chức, quản lí công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ trong ngành giáo dục; (8) Tổ chức, quản lí công tác quan hệ quốc tế về giáo dục; (9) Qui định việc tặng các danh hiệu vinh dự cho những người có nhiều công lao đối với sự nghiệp giáo dục; (10) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết, khiếu nại, tố cáo và xử lí các hành vì vi phạm pháp luật về giáo dục. - Những nội dung chủ yếu của QLNN về GD&ĐT. + Các nhóm nội dung chủ yếu. Nếu nghiên cứu kĩ ta thấy khoả1, 2, 3 ủa điều 86 thực chất là: Hoạch định chính sách, lập pháp, lập qui cho các hoạt động GD-ĐT và thực hiện quyền hành pháp trong các hoạt động QLGD. Khoản 4, 5, 9 của điều 86 thực chất là vấn đề tổ chức bộ máy QLGD. Khoản 6, 7, 8 thực chất là huy động, quản lí các nguồn lực để phát triển giáo dục, còn khoản 10 điều 86 đó chính là nội dung nói về thanh tra - kiểm tra việc chấp 38
  39. hành pháp luật. Như vậy, có thể nói nội dung QLNN về GD&ĐT có thể gom lại thành 4 nhóm nội dung chủ yếu: (1) Hoạch định chính sách cho GD-ĐT. Lập pháp và lập qui cho các hoạt động GD&ĐT. Thực hiện quyền hành pháp trong QLGD. (2) Tổ chức bộ máy QLGD. (3) Huy động và quản lí các nguồn lực để phát triển sự nghiệp GD. (4) Thanh tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự kỉ cương pháp luật trong hoạt động QLGD và phát triển sự nghiệp GD Tuy nhiên QLNN ở các cấp độ khác nhau được cụ thể hoá nội dung không hoàn toàn giống nhau. + Đối với Bộ GD&ĐT: Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan thành viên của Chính phủ thực hiện quyền QLNN về GD-ĐT ở cấp trung ương cần tập trung làm tốt nhưng nội dung sau: . Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển giáo dục. Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ cho việc tổ chức và triển khai các hoạt động đổi mới giáo dục trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân; . Xây dựng, củng cố và tăng cường sức mạnh của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở theo hướng đổi mới quản lý giáo dục, xác định lại chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý, thực hiện phân công, phần cấp và đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở nhằm nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả trong quản lý; . Xây dựng chính sách và cơ chế huy động, sử dụng và quản lí các nguồn lực nhằm bảo đảm các điều kiện cho việc thực hiện đổi mới giáo dục. . Tổ chức thanh tra, kiểm tra các hoạt động giáo dục ở các bậc học, ngành học trên phạm vi toàn quốc đánh giá và thẩm định chất lượng giáo dục. (+) Đối với cấp địa phương: Theo Nghị định số 166/2004/NĐ-CP ngày 16/9/2004, Chính phủ đã quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của UBND các cấp. Cấp địa phương (tỉnh, huyện thông qua cơ quan chuyên môn của mình là Sở và Phòng GD&ĐT) thì cần tập trung làm tốt những nội dung chủ yếu sau: . Xây dựng, trình và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển giáo dục ở địa phương. . Giúp UBND quản lý công tác chuyển môn, nghiệp vụ, tổ chức, biên chế nhân sự, tài chính, tài sản và các hoạt động giáo dục khác của các cơ sở giáo dục theo đúng quy định của pháp luật. 39
  40. . Xây dựng, trình HĐND, UBND các giải pháp thực hiện xã hội hoá giáo dục; chỉ dạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện; . Thực hiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành luật về giáo dục, xử lý vi phạm hoặc kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm trong lĩnh vực giáo dục theo quy định của pháp luật + Đối với cáp cơ sở giáo dục (cấp trường) tập trung làm tốt những nội dung chủ yếu sau: . Tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách GD&ĐT thông qua việc thực hiện mục tiêu nội dung, kế hoạch giáo dục và bảo đảm các qui chế chuyên môn, thi cử do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành; . Quản lí đội ngũ sư phạm, học sinh, CSVC, tài chính theo các qui định của pháp luật; . Điều hành các hoạt động cửa nhà trường theo điều lệ nhà trường, nội quy nhà trường và giám sát sự tuân thủ đó; . Kết hợp các hoạt động kiểm tra nội bộ trường học với thanh tra của các cấp quân lý. Như vậy, mặc dù nội dung QLNN về GD&ĐT đã được thể chế hoá thành điều 86 Luật Giáo dục, nhưng trong thực tiễn cần nhấn mạnh các nội dung theo cấp độ quản lí, điều này xác đinh "trọng số quan tâm" ở mỗi cấp đó. Nếu ở cấp trung ương chú trọng đến nội dung xây dựng cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển cho ngành ở phạm vi cả nước thì ở cáp độ địa phương (Sở - Tỉnh, Phòng - Huyện) lại khu trú phạm vi nội dung trên ở địa bàn được phân cấp còn ở cơ sở (nhà trường) nơi mà QLNN được hiểu rất cụ thể là thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyển do nhà nước uỷ quyền triển khai các hoạt động quản lí nhà trường thì lại coi trọng việc tổ chức thực hiện nhưng qui định của nhà nước (mà cụ thể là điều lệ nhà trường) ở những hoạt động giáo dục và QLGD cụ thể. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng QLNN cần làm tốt công tác thể chế hoá và tăng cường giám sát việc thực hiện. Tuy cấp độ thể chế hoá ở một cấp không hoàn toàn giống nhau nhưng vai trò giám sát, thanh tra thì phải coi trọng ở mỗi cấp độ theo sự phân cấp rõ ràng. 3. Thực trạng, phương hướng đổi mới và biện pháp thực hiện QLNN về GD&ĐT. - Thực trạng + Nhìn chung, những vấn đề nêu ra ở trên đã được quan tâm thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên theo nhận định của NQTW 2 chúng ta chưa làm tốt chức năng QLNN về GD-ĐT. Những yếu kém bất cập diễn ra đã minh chứng điều đó. Ví dụ: việc thực hiện các mục tiêu GD và QLGD còn thấp; công tác kiểm tra, thanh tra chưa phát huy hết tác dụng; chức năng, nhiệm vụ đặc biệt chức năng, nhiệm vụ QLNN qui định thiếu rõ 40
  41. ràng, chồng chéo, vì vậy QLNN còn vừa ôm đồm vừa buông lỏng + Trong báo cáo về tình hình giáo dục trước Quốc hội (tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội XI), Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển đã xác định: nói chung, chất lượng giáo dục đại trà còn thấp so với yêu cầu, phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới; các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục còn bất cập; một số tiêu cực trong giáo dục chậm được giải quyết. Bộ trưởng đã chỉ rõ những nguyên nhân của các yếu kém trong giáo dục là : (+) Tư duy giáo dục chậm được đổi mới, chưa theo kịp thực tiễn phát triển của đất nước yêu cầu chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội và hột nhập quốc tế. . Các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục chưa được quán triệt sâu sắc và cụ thể hoá kịp thời. Nguyên lý giáo dục chưa thực sự được coi trọng. Giáo dục còn chưa gắn chặt với nhu cầu thực tiễn, chưa chú trọng thực hành, chưa phát huy sự chủ động, sáng tạo của người học; phối hợp giáo dục gia đình nhà trường - xã hội còn lỏng lẻo Công tác nghiên cứu khoa học giáo dục và dự báo còn bất cập, chưa nhận thức và lý giải được nhiều vấn đề đặt ra cho giáo dục trong tình hình mới. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa kế hoạch phát triển và thị trường lao động; giữa mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng, giữa đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân và khả năng kinh tế xã hội của đất nước còn thấp; giữa đầu tư của Nhà nước và đóng góp của nhân dân; giữa tình trạng phân hoá giàu nghèo và những chính sách đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục. . Quản lý về giáo dục còn yếu kém và bất cập: . Cơ chế quản lý giáo dục chưa tương thích với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nhu cầu phát triển nhân lực của đất nước. Quản lý nhà nước về giáo dục còn mang nặng tính tập trung quan liêu; chưa thoát khỏi tình trạng ôm đồm, số vụ. . Chính phủ đã có chủ trương, nhưng còn chậm đưa ra những quyết sách đồng bộ ở tầm vĩ mô nhằm thay đổi cơ chế đầu tư, huy động các nguồn lực phát triển giáo dục. Trong chủ trương XHH giáo dục, còn chậm có chính sách giải quyết vướng mắc về đất đai, về quyền sở hữu và thu nhập của các nhà đầu tư khi tham gia mở các trường ngoài công lập. . BỘ GD&ĐT, BỘ LĐ, TB&XH chưa tập trung xây dựng các cơ chế chính sách về công tác quản lý ngành. Các văn bản pháp quy còn thiếu, chưa ban hành kịp thời, một số còn chồng chéo; trong khi đó lại trực tiếp quản lý một số công việc cụ thể mang tính sự vụ. . Việc phân công, phân cấp và cơ chế phối hợp giữa Bộ GD&ĐT với các bộ, ngành, địa phương chưa được thể chế hoá một cách cụ thể, nhất là trong việc phối hợp giải quyết một số vấn đề bức xúc của giáo dục. Một số địa phương vẫn còn ỷ lại, thiếu 41
  42. chủ động trong việc giải quyết các vấn đề về giáo dục. Như vậy, nguyên dân quản lý giáo dục còn yếu kém, bất cập và các cấp quản tý giáo dục còn chậm đổi mới tư duy và phương thức quản lí có thể là nguyên nhân cơ bản của nhiều vấn đề bức xúc, hạn chế trong giáo dục, do đó, đổi mới quản lý giáo dục đang là vấn đề bức bách hiện nay đối với sự phát triển giáo dục Việt Nam. Đâu là yêu cầu do nhiều năm trước để lại và bây giờ yêu cầu đổi mới ngày càng nhiều lên. 4. Những nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đến năm 2010 Để khắc phục nhưng vấn đề yếu kém bất cập nêu trên cầu quán triệt tinh thần của NQTW 2 và tinh thần CCHC và những đề xuất của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT trước Quốc hội, những nhiệm vụ và giải pháp phát triển giáo dục chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau: + Tiếp tục đổi mới tư duy giáo dục: . Cần nhận thức sâu sâu hơn về mục tiêu giáo dục trong thời kỳ mới. Thế hệ trẻ do nhà trường đào tạo phải trung thực, năng động và sáng tạo, biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, có hoài bão, có ý chí vươn lên, tự lập thân, lập nghiệp, làm giàu cho bản thân và góp phần đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. . Nền giáo dục Việt Nam trong giai đoạn tới phải là nền giáo dục cho mọi người, hướng tới một xã hội học tập. HTGDQD không chỉ dành cho tuổi trẻ, mà cho mọi người để học tập suốt đời. XHHGD là giải pháp cơ bản để huy động mọi nguồn lực nhầm phát triển giáo dục và xây dựng xã hội học tập. . Giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cẩn phải đáp ứng đòi hỏi của các đối tượng khác nhau với các mục tiêu khác nhau. Nhà nước cần tạo cơ chế, mạnh dạn huy động nguồn lực và trí tuệ từ nhân dân để phát triển giáo dục, đồng thời với việc tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục, cần có sự điều chỉnh phân bổ để tập trung giải quyết các mục tiêu ưu tiên. . Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia cho giáo dục bao gồm: chuẩn kiến thức, kỹ năng đổi mới từng cấp học, bậc học và trình độ đào tạo và chuẩn các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục (đội ngũ nhà giáo, CBQLGD, công nhân viên, SGK, giáo trình và tài liệu tham khảo; trường sở, thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện, sân chơi, bãi bập .v.v ): các yêu cầu cơ bản về đạo đức, tác phong và trách nhiệm của người học trước gia đình và xã hội. Hệ thống chuẩn là căn cứ để chỉ đạo thực hiện và đánh giá chất lượng giáo dục . Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo chỉ thị 40- CT/TW của Ban Bí Thư và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 09/2005QĐ- TTg. Mở rộng phương thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên với nội dung chủ yếu là đổi mới pháp dạy học, làm cho mọi giáo viên đều quán triệt yêu cầu coi trọng vai trò chủ động của người học, phát huy vai trò chu động của người học, phát huy năng lực sáng 42